Năm 1978, Đặng Tiểu Bình tung ra chương trình ‘Bốn hiện đại hóa’ và khích lệ dân chúng dán những ‘Đại tự báo’ để tố cáo những đau khổ do cuộc Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng kéo dài trong suốt 10 năm từ ngày 16 tháng 5 năm 1966 tới tháng 10/1976. Đặng Tiểu Bình gọi đó là “10 năm hỗn loạn”, “10 năm thảm họa” với tổng cộng 1.5 đến 1.8 triệu người bị giết chết hay tự sát.
Trong bối cảnh xoa dịu những đau khổ trong xã hội sau cuộc Cách mạng Văn hóa đẫm máu, các tôn giáo tại Trung Quốc được hưởng một thời kỳ yên hàn và phát triển. Đặc biệt, sau cuộc cách mạng lật đổ cộng sản tại Liên xô và Đông Âu, cộng sản Trung Quốc chọn một thái độ mềm dẻo hơn với tôn giáo để tránh công phẫn của dân chúng.
Trong bối cảnh đó, Pháp Luân Công, được nhiều người mô tả như một môn khí công, một “phong trào tâm linh”, một “hệ thống tu luyện” cổ truyền Trung Quốc, hay như một hình thức tôn giáo của Trung Quốc; đã được ông Lý Hồng Chí giảng dạy công khai ở Đông Bắc Trung Quốc vào năm 1992.
Ban đầu Pháp Luân Công nhận được sự hỗ trợ đáng kể của các giới chức Trung Quốc. Năm 1995, theo lời mời của đại sứ Trung Quốc ở Pháp, ông Lý Hồng Chí mở khoá Pháp Luân Công ngay tại đại sứ quán Trung Quốc ở Paris. Sau đó, ông còn được mời sang giảng dạy ở Thụy Điển, Hoa Kỳ, Canada, Úc, New Zealand, Đức, Thụy Sĩ và Singapore.
Đến cuối thập niên 1990, khi đã hoàn hồn sau cuộc cách mạng lật đổ cộng sản tại Liên xô và Đông Âu, khi đã lấy lại được sự tự tin, và đứng trước sự phát triển nhanh chóng của các tôn giáo, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu có một cái nhìn khác về tôn giáo. Họ quay lại với cái quan điểm truyền thống của cộng sản: xem các tôn giáo như một mối đe dọa tiềm tàng.
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc khởi xướng một chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công trên toàn quốc và tuyên truyền bôi lọ trên nhiều mặt môn tu luyện này, coi Pháp Luân Công như một “tổ chức tà giáo” đe dọa sự ổn định xã hội.
Pháp Luân Công đã bị dùng như một tiền đề cho cuộc đàn áp tất cả các tôn giáo cho đến ngày nay.
Trong hai tuần qua, nhà cầm quyền Việt Nam mở một cuộc tấn công trên quy mô toàn quốc chống lại tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ theo đúng bài bản của Trung Quốc trong vụ Pháp Luân Công. Đây chỉ là tiền đề để nhà cầm quyền tăng cường sự quản lý đối với người dân, đối với các tôn giáo, và lèo lái một luồng dư luận tiêu cực về các tôn giáo nói chung, nói theo từ ngữ của cộng sản là “chuẩn bị dư luận”, trước khi đưa ra các quyết định ăn cướp các tài sản của tất cả các tôn giáo và các nghị định bóp nghẹt tự do tôn giáo.
Tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ
Hội Đồng Quốc Gia Các Giáo Hội Kitô Nam Hàn coi tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ thường được biết với tên gọi Hội Thánh Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Thế giới là một tà giáo tôn thờ Satan, và là một tà giáo hết sức nguy hiểm.
Tà giáo này có một khả năng lôi cuốn rất đáng kinh ngạc. Các tài liệu của Hội Đồng Quốc Gia Các Giáo Hội Kitô Nam Hàn không hề nhắc đến một thứ “nước thánh” nào như các cơ quan an ninh của Việt Nam tố cáo. Tuy nhiên, khả năng lôi cuốn của họ đối với người Nam Hàn, trong số những thứ khác, phải kể đến con số hàng trăm ngàn người Triều Tiên, kể cả những kẻ ít học nhất và kể cả những người phụ nữ, nói theo kiểu trào phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng là những “người đàn bà có một nhan sắc của một người đàn ông xấu trai” được xuất cảnh qua Mỹ và các nước phương Tây theo diện kết hôn với người bản xứ.
Giáo chủ của tà giáo này là bà Jang Gil-ja, một người phạm thượng dám coi mình là Đức Chúa Trời Mẹ.
Tà giáo này xuất phát từ một nhóm Tin Lành quá khích do Ahn Sahng-hong thành lập. Ahn Sahng-hong sinh ngày 13 tháng Giêng năm 1918 tại một ngôi làng nhỏ bé tại huyện Myeongdeok-ri, tỉnh North Jeolla, trong thời kỳ bị Nhật Bản chiếm đóng. Cả cha lẫn mẹ đều là người Hàn quốc theo Phật Giáo. Năm 1954, ở tuổi 36, ông ta theo Tin Lành Cơ Đốc Phục Lâm.
Tháng Ba 1962, ông bị Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm trục xuất sau những tranh cãi gay gắt về vấn đề thánh giá và các ảnh tượng trong nhà thờ. Theo Ahn Sahng-hong, tôn thờ thánh giá và các ảnh tượng trong nhà thờ là tôn thờ ngẫu tượng. 23 người trong Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm tại Incheon bỏ đi với ông.
Ngày 28 tháng Tư 1964, Ahn Sahng-hong tuyên bố thành lập giáo phái mới gọi là Witnesses of Jesus Church of God (Hội Thánh Đức Chúa Trời các chứng nhân của Chúa Giêsu) tại Busan.
Ngày 24 tháng Hai 1985, Ahn Sahng-hong bị nhồi máu cơ tim đang khi ăn trưa. Ông được đưa vào nhà thương. Tuy nhiên, trên đường đi cấp cứu, Ahn Sahng-hong lại bị thêm tai biến mạch máu não. Ngày hôm sau, 25 tháng Hai, 1985 ông qua đời tại nhà thương Công Giáo Maryknoll của thành phố Busan bỏ lại người vợ và 3 đứa con.
Sau cái chết bất ngờ của Ahn Sahng-hong, tranh chấp nổi lên trong giáo phái của Ahn Sahng-hong. Tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ là một nhóm tách ra từ giáo phái của Ahn Sahng-hong.
Trong khi giáo phái của Ahn Sahng-hong có thể được coi là một giáo phái Tin Lành dù có những quan điểm cực đoan, chúng ta cần khẳng định rằng cái gọi là “Hội Thánh Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Thế giới” thực chất là là một tà giáo tôn thờ Satan vì dám phạm thượng xưng mình là Thiên Chúa.
Ngày nay tà phái này có đến 450 nhà thờ tại Nam Hàn và 6,000 nhà thờ tại 175 quốc gia khác với hơn 2 triệu tín đồ.
Trong bối cảnh xoa dịu những đau khổ trong xã hội sau cuộc Cách mạng Văn hóa đẫm máu, các tôn giáo tại Trung Quốc được hưởng một thời kỳ yên hàn và phát triển. Đặc biệt, sau cuộc cách mạng lật đổ cộng sản tại Liên xô và Đông Âu, cộng sản Trung Quốc chọn một thái độ mềm dẻo hơn với tôn giáo để tránh công phẫn của dân chúng.
Trong bối cảnh đó, Pháp Luân Công, được nhiều người mô tả như một môn khí công, một “phong trào tâm linh”, một “hệ thống tu luyện” cổ truyền Trung Quốc, hay như một hình thức tôn giáo của Trung Quốc; đã được ông Lý Hồng Chí giảng dạy công khai ở Đông Bắc Trung Quốc vào năm 1992.
Ban đầu Pháp Luân Công nhận được sự hỗ trợ đáng kể của các giới chức Trung Quốc. Năm 1995, theo lời mời của đại sứ Trung Quốc ở Pháp, ông Lý Hồng Chí mở khoá Pháp Luân Công ngay tại đại sứ quán Trung Quốc ở Paris. Sau đó, ông còn được mời sang giảng dạy ở Thụy Điển, Hoa Kỳ, Canada, Úc, New Zealand, Đức, Thụy Sĩ và Singapore.
Đến cuối thập niên 1990, khi đã hoàn hồn sau cuộc cách mạng lật đổ cộng sản tại Liên xô và Đông Âu, khi đã lấy lại được sự tự tin, và đứng trước sự phát triển nhanh chóng của các tôn giáo, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu có một cái nhìn khác về tôn giáo. Họ quay lại với cái quan điểm truyền thống của cộng sản: xem các tôn giáo như một mối đe dọa tiềm tàng.
Vào ngày 20 tháng 7 năm 1999, giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc khởi xướng một chiến dịch đàn áp Pháp Luân Công trên toàn quốc và tuyên truyền bôi lọ trên nhiều mặt môn tu luyện này, coi Pháp Luân Công như một “tổ chức tà giáo” đe dọa sự ổn định xã hội.
Pháp Luân Công đã bị dùng như một tiền đề cho cuộc đàn áp tất cả các tôn giáo cho đến ngày nay.
Trong hai tuần qua, nhà cầm quyền Việt Nam mở một cuộc tấn công trên quy mô toàn quốc chống lại tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ theo đúng bài bản của Trung Quốc trong vụ Pháp Luân Công. Đây chỉ là tiền đề để nhà cầm quyền tăng cường sự quản lý đối với người dân, đối với các tôn giáo, và lèo lái một luồng dư luận tiêu cực về các tôn giáo nói chung, nói theo từ ngữ của cộng sản là “chuẩn bị dư luận”, trước khi đưa ra các quyết định ăn cướp các tài sản của tất cả các tôn giáo và các nghị định bóp nghẹt tự do tôn giáo.
Tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ
Hội Đồng Quốc Gia Các Giáo Hội Kitô Nam Hàn coi tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ thường được biết với tên gọi Hội Thánh Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Thế giới là một tà giáo tôn thờ Satan, và là một tà giáo hết sức nguy hiểm.
Tà giáo này có một khả năng lôi cuốn rất đáng kinh ngạc. Các tài liệu của Hội Đồng Quốc Gia Các Giáo Hội Kitô Nam Hàn không hề nhắc đến một thứ “nước thánh” nào như các cơ quan an ninh của Việt Nam tố cáo. Tuy nhiên, khả năng lôi cuốn của họ đối với người Nam Hàn, trong số những thứ khác, phải kể đến con số hàng trăm ngàn người Triều Tiên, kể cả những kẻ ít học nhất và kể cả những người phụ nữ, nói theo kiểu trào phúng của nhà văn Vũ Trọng Phụng là những “người đàn bà có một nhan sắc của một người đàn ông xấu trai” được xuất cảnh qua Mỹ và các nước phương Tây theo diện kết hôn với người bản xứ.
Giáo chủ của tà giáo này là bà Jang Gil-ja, một người phạm thượng dám coi mình là Đức Chúa Trời Mẹ.
Tà giáo này xuất phát từ một nhóm Tin Lành quá khích do Ahn Sahng-hong thành lập. Ahn Sahng-hong sinh ngày 13 tháng Giêng năm 1918 tại một ngôi làng nhỏ bé tại huyện Myeongdeok-ri, tỉnh North Jeolla, trong thời kỳ bị Nhật Bản chiếm đóng. Cả cha lẫn mẹ đều là người Hàn quốc theo Phật Giáo. Năm 1954, ở tuổi 36, ông ta theo Tin Lành Cơ Đốc Phục Lâm.
Tháng Ba 1962, ông bị Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm trục xuất sau những tranh cãi gay gắt về vấn đề thánh giá và các ảnh tượng trong nhà thờ. Theo Ahn Sahng-hong, tôn thờ thánh giá và các ảnh tượng trong nhà thờ là tôn thờ ngẫu tượng. 23 người trong Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm tại Incheon bỏ đi với ông.
Ngày 28 tháng Tư 1964, Ahn Sahng-hong tuyên bố thành lập giáo phái mới gọi là Witnesses of Jesus Church of God (Hội Thánh Đức Chúa Trời các chứng nhân của Chúa Giêsu) tại Busan.
Ngày 24 tháng Hai 1985, Ahn Sahng-hong bị nhồi máu cơ tim đang khi ăn trưa. Ông được đưa vào nhà thương. Tuy nhiên, trên đường đi cấp cứu, Ahn Sahng-hong lại bị thêm tai biến mạch máu não. Ngày hôm sau, 25 tháng Hai, 1985 ông qua đời tại nhà thương Công Giáo Maryknoll của thành phố Busan bỏ lại người vợ và 3 đứa con.
Sau cái chết bất ngờ của Ahn Sahng-hong, tranh chấp nổi lên trong giáo phái của Ahn Sahng-hong. Tà giáo Đức Chúa Trời Mẹ là một nhóm tách ra từ giáo phái của Ahn Sahng-hong.
Trong khi giáo phái của Ahn Sahng-hong có thể được coi là một giáo phái Tin Lành dù có những quan điểm cực đoan, chúng ta cần khẳng định rằng cái gọi là “Hội Thánh Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Thế giới” thực chất là là một tà giáo tôn thờ Satan vì dám phạm thượng xưng mình là Thiên Chúa.
Ngày nay tà phái này có đến 450 nhà thờ tại Nam Hàn và 6,000 nhà thờ tại 175 quốc gia khác với hơn 2 triệu tín đồ.