Góp Ý Nhân Đọc Cuốn “Lịch Sử Giáo Phận Vinh” (2)


NGUYỄN ĐỨC CUNG

II.- MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TIÊU CHÍ VÀ NỖ LỰC BIÊN KHẢO CUỐN “LỊCH SỬ GIÁO PHẬN VINH”.

Như đã nói ở trên, Lời Giới Thiệu của ĐGM Nguyễn Thái Hợp là một bức cẩm nang chứa đựng những tiêu chí rất rành mạch, rõ ràng giúp cho ban chủ biên nắm vững các yêu cầu về chất lượng, nội dung, đường hướng, nhận định, phương pháp để biên soạn bộ “Lịch sử Giáo Phận Vinh” gồm hai cuốn mà chúng ta mới có được cuốn đầu. Có một số tiêu chí được đấng bản quyền đề ra như vậy khi biên tập cuốn lịch sử này, những người phụ trách sẽ nhìn thấy rõ con đường đi trải dài trước mặt mà mạnh dạn dấn bước, và với tinh thần làm việc tập thể giữa những người có khả năng tương đối đồng đều, có niềm tin mãnh liệt vào công việc được giao cho, thành quả đưa tới cũng là điều tất yếu.

21.- Một cuốn lịch sử đầy đủ và hiện đại: Ước mơ đã thành tựu.

Một sử gia người Pháp, Fustel de Coulanges có nói “Sans document, sans l’histoire”. (Không có tài liệu thì không có lịch sử). Thật vậy, khi một sử gia đã chọn được một đề tài thì việc họ phải tiến hành tiếp theo đó là sưu tầm sử liệu. Đối với việc biên soạn cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh”, ban chủ biên chắc chắn là những người đi vào một khu rừng đã được khai quang, không phải vất vả đào gốc, chặt cành vì trước họ có nhiều người đã viết về đề tài này, chẳng hạn như Lm Cao Vĩnh Phan từng viết cuốn sử cũng nhan sách như thế với 606 trang, Lm Trương Bá Cần với cuốn sách cùng tên, cũng với số trang tương tự; ngoài ra bản thư tịch đã cung cấp cho độc giả rất nhiều tài liệu ngoại quốc hay tiếng Việt có liên quan gần xa đến giáo phận Vinh, cho nên việc sưu tầm tài liệu chắc chắn là không khó, nhất là trong thời đại ngày nay. Khi bắt tay vào công việc chắc chắn ông Vương Đình Chữ và những vị cộng sự viên đã có thể tiếp cận với nhiều tài liệu, sử liệu liên hệ đến đề tài muốn viết. Tuy nhiên theo lời một giáo sư dạy sử ở bậc đại học, Linh mục Nguyễn Phương (1921-1993) “sử liệu chỉ là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của việc chép sử. Sự thực, nó chỉ là vật dụng cho sử gia dùng, mặc dầu nó là những vật dụng rất quan trọng và rất cần thiết. Một khi có nó rồi, sử gia không phải vụ vào chính nó, không phải dừng lại với tính cách vật chất của nó? Cái mà sử gia lấy làm quý giá ở nơi nó chính là nội dung của nó, nghĩa là cái chứng tích nó chứa đựng về thời sự quá khứ.” (Nguyễn Phương, Phương pháp Sử học, Phòng nghiên cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1964, trang 66-67). Việc thực hiện một cuốn lịch sử đầy đủ như lòng mong ước của ĐGM Nguyễn Thái Hợp cũng như vị tiền nhiệm của ngài, Đức Cố Giám Mục Phêrô Trần Xuân Hạp quả thật đã thể hiện qua cuốn sách chúng ta có trong tay. Chữ “đầy đủ” ở trong Lời Giới Thiệu của đấng bản quyền muốn nói lên rằng so với các cuốn sách viết về lịch sử Giáo phận Vinh trước đây, cuốn nầy đã đạt tới tiêu chí đầy đủ xét về lượng cũng như về phẩm. Đầy đủ xét về lượng có nghĩa là các nhà biên tập thận trọng trong việc sử dụng các tư liệu, cẩn án sử liệu theo đúng phương pháp sử, cân nhắc việc dùng tư liệu để đạt tới sự thật lịch sử, tiếp cận được với tất cả mọi tài liệu khi trường hợp cho phép, như đã sử dụng các kho văn khố ở trong nước và nhất là ở ngoại quốc. Chẳng hạn, khi viết về việc ông Đỗ Công Viễn người làng Bồng Trung, huyện Vĩnh-Lộc, tỉnh Thanh Hóa gia nhập đạo Công Giáo, các vị trong ban chủ biên đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu để đối chiếu và cô đọng các sự kiện trong mạch văn ngắn gọn nhờ đó loại bỏ được một chi tiết có sai lầm thí dụ như trong tài liệu của Lm Nguyễn Hồng viết niên hiệu Chính-Tự thay vì Chính Trị tức niên hiệu thứ hai của Lê Anh-Tôn, sau niên hiệu Thiên-hựu và ăn từ 1558 đến 1571. Sách của Lm Nguyễn Hồng trang 23, viết niên hiệu này sai cả đoạn chính văn lẫn cả cước chú. Điều này cũng nói lên phẩm chất của cuốn sách mặc dù toàn bộ cuốn sách chỉ là một khối sử liệu tu soạn tức là sử liệu gián tiếp chứ không phải sử liệu tiên nguyên.

Để đánh giá công trình của một cuốn sách biên khảo, thói quen của chúng tôi là nhìn vào bản thư lục hay còn gọi là thư mục. Xem vào thư lục tức là theo dõi số các sách báo và tài liệu được tham khảo, người đọc thấy đó là những tài liệu nòng cốt cho đề tài được nêu ra qua cuốn sách, không nhiều mà cũng không ít, dĩ nhiên vì là sách viết về lịch sử của một giáo phận nên những tác phẩm được coi là phần tài liệu, tư liệu căn bản do các giáo sĩ và các nhà nghiên cứu nước ngoài viết trước đây không thể vắng bóng; lạ một điều là không thấy bộ Việt Nam Giáo Sử gồm hai cuốn cũng đã được in đi in lại nhiều lần của Lm Phan Phát Huồn, CssR, vốn là một trong những tác phẩm tiên khởi viết bằng tiếng Việt về lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong đó chứa đựng khá nhiều tài liệu căn bản và có ích khi cần tham khảo. Ngoài ra bản thư lục cũng không thấy nhắc tới Tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ tức Bulletin Des Amis du Vieux Hué chắc chắn cũng sẽ có rất nhiều bài viết cần thiết phải tham khảo khi viết về Giáo phận Vinh. Công trình của một cuốn sách còn được thể hiện và định giá qua bản danh mục (thường ghi danh từ riêng) cũng gọi là sách dẫn (index, gồm danh từ riêng, lý thuyết, học thuyết) hay bảng chỉ dẫn thường được đặt cuối tác phẩm ghi lại tên riêng của các nhân vật được đề cập tới, hoặc địa danh, tên gọi các biến cố, các học thuyết, triết thuyết, chủ đề, chủ điểm v.v… Bản danh mục nói chung sẽ giúp ích cho đọc giả tìm một cách dễ dàng tên một nhân vật nào đó có liên hệ tới một vấn đề hay một sự kiện hoặc một chuỗi sự kiện mình muốn biết, muốn hiểu chẳng hạn. Việc thiết lập bản danh mục đối với nhiều tác giả Việt Nam là một việc làm chưa mấy quen thuộc nhưng đối với những người được huấn luyện chuyên ngành sử học, nhất là các tác giả ngoại quốc, thì đó là một việc cần làm và phải làm. Sự vắng bóng một bản danh mục trong cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” của ông Vương Đình Chữ có lẽ phần nào chưa đáp ứng lại tiêu chí “hiện đại” do ĐGM Nguyễn Thái Hợp đề ra trong lời giới thiệu chăng? Thực hiện bản danh mục thật sự tốn nhiều thì giờ và công phu nhưng nếu đã viết được một tác phẩm giá trị như cuốn sách mà chúng ta cầm trong tay hôm nay thì việc hình thành một bản danh mục là điều cần làm và nên làm góp phần hoàn chỉnh giá trị toàn bích cho nó. Cuốn sách do ông Vương Đình Chữ chủ biên không có bản danh mục, thật là điều đáng tiếc. Ước mong trong dịp sách được tái bản, ban chủ biên lưu tâm đến vấn đề này và chịu khó bổ sung.

Cicero (106-43 trước CN) vốn là chính khách và là hùng biện gia cổ La mã đã đưa ra một quan điểm dứt khoát đó là: “Luật đầu tiên của lịch sử là không được nói gì mà không đúng với sự thật, và không có gì thật mà không nói đến.” (Primam esse historiae legem, ne quid falsi dicere audeat, ne quid very non audeat). Đây là một quy luật đã trở thành khuôn vàng thước ngọc cho nghệ thuật viết sử hướng dẫn qua biết bao thời đại làm cho một tác phẩm sử học trở nên có giá trị mà những nhà biên soạn cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” chắc cũng đã được nhắc nhở khi khởi đầu công việc của mình. Những vấn đề thoạt xem có vẻ “nhạy cảm” nhưng cũng được người chủ biên đề cập tới dưới ngòi bút rất thanh thản, nhẹ nhàng, mặc dù qua sự dẫn chứng nhờ các tài liệu ngoại quốc viết từ trước, thí dụ sự tranh chấp giữa các giáo sĩ Dòng Tên với Hội Thừa Sai Paris. Cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh” viết về cuộc tranh chấp đó như sau: “Như trên đã trình bày, các thừa sai Dòng Tên là những nhà truyền giáo đầu tiên đến hoạt động trên vùng đất Nghệ Tĩnh, đã khai sinh và hình thành các giáo đoàn ở đây mà con số theo báo cáo ngày 03-10-1676 đã lên đến 186 xóm đạo. Tuy nhiên dựa vào đặc quyền của chế độ Bảo trợ, các thừa sai Dòng Tên đã không nhìn nhận quyền của các Đại diện Tông tòa được Tòa thánh cử sang Việt Nam mà không thông qua sự chuẩn nhận của Vua Bồ Đào Nha. Việc không nhìn nhận này đưa đến thái độ bất hợp tác và chống đối, chẳng những giữa các thừa sai với nhau mà còn giữa các linh mục triều và Dòng, cũng như giữa các cộng đoàn của hai bên.” (trang 91). Ở trang 110, sách này viết tiếp: “Như trên đây chúng ta đã thấy sự chống đối của các thừa sai Dòng Tên đối với các Đại diện Tông tòa và các thừa sai của Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris. Sự chống đối này lan tỏa đến tận các giáo dân, gây nên nhiều chia rẽ và bài xích lẫn nhau. Các giáo dân theo các thừa sai Dòng Tên không nhìn nhận thẩm quyền của Đức Cha Lambert và các linh mục do ngài phong chức. Họ cho rằng sắc phong của Đức Cha là giả mạo, thậm chí còn cho rằng Đức Cha Lambert là một kẻ lạc giáo bị đuổi khỏi nước Pháp và sang đây để tiếp tục gieo rắc lầm lạc.”

Viết về sự tranh chấp giữa Đại điện Tông tòa với các giáo sĩ Dòng Tên cùng những hậu quả của việc này chính là nói đến thử thách đức tin mà Giáo phận Vinh đã trải qua trong những thập kỷ hậu bán thế kỷ 17. Đây là một vấn đề quan trọng đã giúp cho Giáo Phận Vinh vượt thắng nhiều khó khăn thử thách đề bành trướng và phát triển trong các thế kỷ về sau. Chúng tôi thấy các tác giả cuốn sách chưa làm nổi bật tranh chấp đó trong lãnh vực ba tỉnh Nghệ-Tĩnh-Bình giữa các giáo sĩ Dòng Tên với các thừa sai Pháp cũng như giữa các nhóm giáo dân thuộc ảnh hưởng của hai phe. Cuốn sách này chỉ đề cập lướt qua mà không nói rõ đến cuộc tranh chấp đó, diễn tiến cùng kết quả của nó có liên hệ đến tương lai của việc truyền giáo ở Việt Nam về sau. Hơn nữa, cuộc tranh chấp không chỉ là vấn đề quyền hành mà còn có vấn đề lễ nghi tôn giáo ở Trung Hoa, tức nghi lễ Đông Phương, thí dụ bái lạy người chết, ăn của cúng v.v… Vấn đề quyền hành nói ở đây tức là quyền hành của Đức Giám Mục, nhân viên của Bộ Truyền-Giáo đối với các giáo sĩ Thừa-Sai. Nếu vấn đề quyền hành đã chóng kết thúc thì trái lại vấn đề lễ nghi Trung Hoa kéo dài đến năm 1939. Theo Lm Phan Phát Huồn “Chúng ta biết các Cha dòng Tên đến giảng đạo ở Trung Hoa trước hết, các giáo sĩ vì lòng sốt sắng và cũng vì có óc não sáng suốt muốn cho dân Trung-Hoa dễ tòng-giáo nên các Ngài không lên án việc cúng tế Đức Khổng Tử và Ông Bà ông Vãi vì theo quan niệm của các giáo sĩ dòng Tên lúc làm những việc ấy người ta không có ý nhận Đức Khổng Tử hoặc ông Bà ông Vãi là đấng toàn-năng, nhưng chỉ có ý kính nể bề ngoài và tỏ lòng biết ơn báo hiếu. Nhưng các linh mục khác như các linh mục dòng Đa Minh, dòng Phanxicô, và các thừa sai Pháp cho đó là một việc dị đoan…” (Phan Phát Huồn, Việt Nam Giáo Sử, quyển I, trang 196).

Về bí tích rửa tội chẳng hạn, các cha dòng Tên cũng đã được phép của Đức Giáo Hoàng Alexandre VII bỏ một số chi tiết thí dụ đưa muối vào miệng người tân tòng và xức dầu trên ngực họ vì sợ dân chúng xôn xao và sẽ làm cho các ông chồng của các bà (tân tòng) sinh ghen tuông. Nhưng dù giáo sĩ Marquez (dòng Tên) đã ngăn cản, cha Chevreuil (Thừa sai Pháp) đến Hải Phố năm 1664 cũng vẫn làm tất cả mọi điều phép bí tích truyền phải làm v.v…

Một vấn đề khác khá tế nhị là việc một số thừa sai Pháp chống đối Đức Giám Mục Louis Pineau Trị (trang 418-426) cũng được các vị biên soạn ghi nhận một cách trung thực, công bình theo nhãn quan của người chép sử.

Tuy đây là một cuốn sách viết về lịch sử một giáo phận nhưng bằng những nét khái quát cho nên để nhìn ra tính cách đầy đủ của cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh”, chúng tôi đếm được 116 đầu sách chính được kê trong thư tịch, 5 văn khố chính là nơi được ban chủ biên tới tham khảo trong đó hai văn khố chính mà một là của MEP ở Paris và một của Bộ Hải Ngoại Pháp ở Villeneuve Paris, văn khố của Bộ Truyền Giáo, Trung Tâm Văn Khố hải ngoại ở Aix-en-Provence và cuối cùng là Văn khố Tòa Giám Mục Xã Đoài cùng với 14 bộ báo và tạp chí. Ngoài ra phải nói về phần cước chú (footnote) là phần được ghi nhận từ đầu đến cuối cuốn sách rất chi li, khoa học với tên tác giả in chữ đứng và tên tác phẩm in nghiêng, tất cả có 1582 mục chú thích. Tính cách hiện đại nằm ở trong lối ghi cước chú, tuy nhiên vì là cuốn sách viết cho đại chúng nhiều hơn là cho giới nghiên cứu sử học cho nên những điều cốt yếu cần nói thì đã được viết trong phần chính văn, còn cước chú ở dưới chỉ là để xác minh điều đã được nói hoặc dẫn ra tư liệu được nhắc tới. Tuy nhiên về kỹ thuật cước chú cuốn sách chúng tôi sẽ nói ở phần sau.

22.- Trong vòng xoáy của lịch sử: Nỗ lực nào để vượt qua những rào cản?

Nhìn vào một tổ chức chính trị như đảng CSVN, với biết bao lợi thế nắm trong tay từ khi họ có được chính quyền năm 1945, đã dành nhiều sự chú ý, tiền bạc, phương tiện và nhân lực, cùng với sách lược đấu tranh để viết lịch sử đảng bộ từng tỉnh, từng khu vực, từng đơn vị ngành nghề, từ nhỏ đến lớn, từ địa phương đến trung ương, xét ra cũng là một nỗ lực đáng khen vì sẽ có ích cho giới nghiên cứu sử học, tuy nhiên chúng ta thấy các công trình nghiên cứu của họ thật có giả có, hư có thực có lẫn lộn đan xen và dĩ nhiên tình trạng đó ít khi qua mặt được những người từng được huấn luyện để viết sử với phương pháp sử học, và thời gian đã cho người ta có nhiều kinh nghiệm để đọc và để đánh giá những loại sử phẩm được viết ra như thế. Khi đọc cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh” (LSGPV) do ông Vương Đình Chữ chủ biên với sự cộng tác của các Lm và giáo dân như Lm Gioan Baotixita Nguyễn Khắc Bá, Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương, Lm. Antôn Nguyễn Thanh Tịnh, Ông Giacôbê Võ Văn Hậu, Ông Antôn Lê Phiến, với lời giới thiệu rất trang trọng của Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp và lời bạt đầy văn chương và chất liệu đức tin của Giáo sư Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương, tôi như mường tượng có một cuộc “chạy đua” giữa hai thế lực, hai sức mạnh đó là giữa hữu thần và vô thần : tôn giáo cũng viết sử và đảng cũng viết sử. Tôn giáo hay nói rõ hơn Công Giáo đã viết sử và viết sử từ lâu không chỉ bằng ngòi bút mà cả bằng máu kể từ khi Đức Ki-Tô chịu chết trên thập giá rồi đến hàng hàng lớp lớp biết bao vị thánh tử đạo đã đổ máu đào để viết nên trang sử đức tin trong suốt hơn 20 thế kỷ qua. Và càng viết sử, nhất là viết sử bằng máu, đạo Công Giáo càng phát triển, và sinh sôi nảy nở khắp mọi nơi, đúng như lời văn sĩ Tertulianus (155-222) từng nói : “Máu tử đạo là hạt giống làm nảy sinh các Ki-Tô hữu”.(Semen est sanguis christianorum! Apologeticus 50, 13). Mục đích của bài viết này không phải là để so sánh hai trường phái viết sử hữu thần và vô thần mặc dù những người viết cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” đều cố gắng nhằm đạt đến chân lý lịch sử, bởi vì họ là những người luôn luôn tâm niệm rằng sử học phải hàm chứa sự thật và hơn nữa được thúc đẩy bởi sự thật vì “sự thật sẽ giải phóng anh em” (Gioan 8, 32). Bởi vậy trong các sử phẩm Công Giáo, những cuốn viết về lịch sử Giáo Hội chẳng hạn, không một tác giả nào dám đưa vào đó những tư liệu ngụy tạo, hư cấu hay gian dối. Tên tuổi của những tác giả Công Giáo như Henri-Daniel Rops chẳng hạn với bộ Histoire de L’Église hoặc gần chúng ta, những tác phẩm của Alexandre de Rhodes, của Adrien Launay, của Leopold Cadière v.v… sở dĩ được mọi người trọng vọng là vì họ biết tôn trọng chân lý lịch sử, và cũng bởi vì như Cicero (106-43) từng nói : “Historia magistra vitae” (Lịch sử là ông thầy của cuộc đời). Giá trị của người trí thức, của người làm thầy là ở chỗ họ dám sống và chết vì sự thật, vì chân lý. Một nhà viết sử của chế độ VNCH vừa mới qua đời cách đây không lâu, Tạ Chí Đại Trường, trong cuốn sách nhỏ Những bài văn sử, (Văn học xb, 1999, trang 153) đã có tiết lộ: “Trong lần phát biểu ở Đại học Paris VII năm 1988, chính Văn Tạo, Viện trưởng Viện Sử Học đã nói: “Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới.” (Dẫn từ Hugues Tertrais của Nguyễn Thế Anh, “Historical Research in VN : a Tentative History”, trong Journal of Southeast Asian Studies, số tháng 3.1995).- Quan điểm “không viết sử để làm công trình sử học” có nghĩa là không cần tôn trọng sự thật, và “để góp phần xây dựng chế độ mới” có nghĩa là nếu cần trong một sử phẩm các tố chất hư cấu, ngụy tạo, bôi bác sự thật cũng có thể được sử dụng vì mục đích tối hậu chỉ là để “xây dựng chế độ mới”. Năm ngoái, tôi được đọc tin tức trên mạng cho biết GS Văn Tạo nay đã về hưu và sống ở Hà Nội cũng đã có đưa ra đề nghị nên dựng một tượng đài cho hai triệu người dân Bắc Việt chết trong trận đói Ất-dậu 1945. Đây là một ý kiến hay chắc cũng để góp phần xây dựng chế độ nhưng không chắc có được chính quyền để tâm tới. Xin được khen giáo sư Phan Huy Lê vì trước đây đã từng can đảm “giải mã” thần tượng Lê Văn Tám khi ông công khai nói rằng đó chỉ là chuyện hư cấu do nhà sử học Trần Huy Liệu tiết lộ cho ông trước khi Trần Huy Liệu mất! Tôi rất tâm đắc về những lời sau đây của một nhà hoạt động cho phong trào dân chủ hiện ở Pháp khi ông viết : “Muốn có ích, nghĩa là muốn làm một nguồn kinh nghiệm cho phép rút ra những bài học chung cho dân tộc, lịch sử phải chính xác và đầy đủ. Lịch sử là một tài liệu để làm việc. Lịch sử không đầy đủ và không chính xác có nghĩa là chúng ta làm việc trên một tài liệu vừa thiếu vừa sai. Như thế làm sao có thể rút ra những kết luận đúng đắn?” (Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn, Paris 2001, trang 118).

Nhà văn Nguyễn Văn Lục đã dựa trên một số sách giáo khoa sử lớp 10, 11, 12 mà nhận định rằng: “Cảm tưởng chung khi tôi đọc các sách giáo khoa sử lớp 10, 11 là nội dung các sách sử này bàng bạc chủ nghĩa Mác mà không có Mác. Mang chủ nghĩa ấy một cách gián tiếp áp đặt lên các chế độ nông nô và phong kiến là một cách suy diễn bằng loại suy (analogic/analogie) phiến diện và ngụy tạo. Chế độ nông nô là hình thức sơ đẳng của mối tương giao người - người, rất gần với các định luật thiên nhiên theo đó cá lớn nuốt cá bé, nhưng lại rất xa vời với ý thức về sự bóc lột, về ý thức tranh đấu giai cấp. Nó chưa có điều kiện chín mùi để hình thành một nhận thức đầy đủ về ý niệm bóc lột, về mối tương giao ông chủ - thằng ở theo nghĩa là một cặp đối kháng tranh đấu một mất một còn. Vì thế, không thể nào mang ý thức hệ Mác-xít chín mùi, thành quả của nhận thức biện chứng, hiểu sâu xa bản chất sự bóc lột để giải thích tính cách tương tự hay tính cách *mở đầu* cuộc đấu tranh giai cấp giữa giầu nghèo.”

Sự khẳng định của tác giả Nguyễn Văn Lục thật rất rõ ràng: “Phải xác định rõ ràng Mác là Mác, bắt đầu từ đó và dừng lại đó. Đi lui về trước Mác hay tham vọng đi xa về sau đều tỏ ra bất cập và lúng túng. Chủ thuyết Mác đã tỏ ra thất bại khi áp dụng vào các nền kinh tế đương đại và tỏ ra bất cập, hời hợt khi dùng để giải thích chế độ nông nô và phong kiến. Sách giáo khoa Sử, lớp 10, lớp 11 đã dựa vào các chế độ xã hội để minh chứng cho những khung lý thuyết của mình. Vì thế, nó đã giản lược lịch sử con người vào lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp. Bằng chứng là đã có các cuộc đấu tranh trong các chế độ nông nô và các chế độ phong kiến, rồi phóng chiếu ý thức giai cấp bóc lột và từ đó đưa ra chiêu bài giải phóng con người ra khỏi các giai cấp bóc lột ấy. Đó là một lối phóng chiếu phi thực không thích hợp cho chế độ xã thôn, gia tộc Việt Nam. Vì thế, nó không lột tả được tinh thần cũng như nếp sống bản địa của người Việt Nam. Nó cũng không nêu bật được từng thời kỳ, từng bước đi gian nan dành lấy quyền sống của tổ tiên chúng ta trong việc bảo vệ đất nước và bảo vệ nếp sống Việt tính.”

Trong sách giáo khoa Sử lớp 12, Nguyễn Văn Lục chỉ xét đến phần viết về cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-1954 mà đã thấy có rất nhiều thiếu sót, thí dụ: Không một chữ về Khu tự vệ Phát Diệm vốn giữ một vai trò nhất định và quyết định, không một chữ đả động đến các lục lượng giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ở miền Nam vốn gây khó khăn cho người Pháp không ít, nhất là không một chữ cho cuộc kháng chiến Nam Bộ, mở đầu cuộc kháng chiến trên toàn quốc trong suốt những năm bị người Pháp chiếm đóng, phía chính quyền Quốc gia với Quốc trưởng Bảo Đại, với các đời Thủ tướng như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu… đã cộng tác chiến đấu bên cạnh người Pháp, nhưng sách sử lớp 12 không hề nhắc tới, dù một dòng. 35 trang sách dành cho cuộc chiến tranh Việt Pháp Bảo Đại không được nhắc tới một lần nào. Và ông Nguyễn Văn Lục đã phải than lên: “Thật là hiếp đáp lịch sử quá đáng.”

Trong một tiểu mục có tên Về những con số ảo, con số bịp bợm, cũng trong bài viết đó, nhà văn Nguyễn Văn Lục lột trần cách viết sử gian dối của nền giáo dục Cộng sản: “Chúng ta hãy đọc mà xem:

-Trong 4 tháng mùa khô 1965-1966, trên toàn miền quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu 104000, trong đó có 42500 lính Mỹ, 3500 chư hầu, bắn rơi và phá hủy 1430 máy bay, phá hủy 600 xe tăng và xe bọc thép, 1310 ô tô.

-Bước vào mùa khô 1966-1967, mùa khô thứ hai, trên toàn miền, dân quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 151000 dịch trong đó có 68200 lính Mỹ, 5540 chư hầu, bắn rơi và phá hủy 1231 máy bay (xin so sánh hai con số máy bay ở trên và ở dưới), phá hủy 1627 xe tăng và xe bọc thép, 2107 ô tô.

-Trong dịp Tổng tấn công tết Mậu Thân sách sử đã đưa ra những con số sau đây: Trong đợt I, không đầy hai tháng, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 địch (con số này ít hơn con số địch bị thiệt hại trong mùa thứ hai là 151.000). Có nghĩa là con số 147.000 địch là con số thêm vào, trong số 43.000 lính Mỹ.

-Cuộc tiến công chiến lược 1972, trong đó có cuộc tiến công Quảng Trị. Kết quả sau gần 3 tháng chiến đấu, cuối tháng 6/1972, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 20 vạn quân ngụy, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn đến hơn 1 triệu dân.

Nếu làm một tổng kết cả bốn đợt thì có khoảng 500.000 địch bị loại khỏi vòng chiến. Gần một nửa quân số chiến đấu ở miền Nam?

Đặc biệt không thấy nói đến số quân nhân bị tử thương trong dịp 30-4-1975. Nhưng một điều quá đặc biệt không kém là không có ghi số tổn thất của binh đội cộng sản dù chỉ một người cũng không có.” (Nguyễn Văn Lục, Sử phi sử, Trang điện tử Đàn Chim Việt, 07.02.2007).

Việc viết đúng sự thật trong một sử phẩm sẽ giúp cho nhiều thế hệ đọc vào sống đúng sự thật. Trong tác phẩm viết về tiểu sử Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, có tên Witness To Hope, thần học gia người Mỹ, George Weigel, đã nêu lên kinh nghiệm của Đức Giáo Hoàng Ba Lan để đối phó với chủ nghĩa cộng sản, Ngài cũng như nhiều linh mục Ba Lan trong thực tế đã xây dựng các mạng lưới chống lại chủ thuyết cộng sản (tạm dịch): “ bằng cách giáo dục một thế hệ người Ba Lan đặt tất cả niềm tin của mình vào tôn giáo và luân lý trong sự thật để có thể đương đầu lại với nền văn hóa dối trá của cộng sản.” (Like many other Polish priests, he was creating de facto networks of resistance to raise up a generation of Poles who could resist the communist culture of the lie with the truth of their religious and moral convictions.- George Weigel, Witness to hope, The biography of Pope John Paul II, 1920-2005, Nhà xb. Harper Perennial, 2005, trang 120).

Bà Aung San Suu Kyi, lãnh tụ dân tộc Myanmar từng nói : “Thành thật là chính sách tốt nhất” (Honesty is the best policy, trích từ cuốn The voice of hope, ghi lại các cuộc trao đổi với ký giả Alan Clements, Seven Stories Press, New York, 2008, trang 57) và “Dối trá là hành vi cạn kiệt sinh lực” (Deceiving is an exhausting activity, Sđd, trang 58).

Trong diễn văn nhậm chức vào ngày 20-01-2009, Tổng Thống Obama của Hoa Kỳ từng cảnh cáo các chế độ độc tài trên thế giới: “Đối với những người bám lấy quyền lực nhờ tham nhũng, dối trá và bịt miệng tiếng nói đối lập, hãy biết rằng quý vị đang đi ngược dòng lịch sử…” (To those who cling to power through corruption and deceit and the silencing of dissident, know that you are on the wrong side of history…)

Lịch sử một tôn giáo cũng có những đòi hỏi như vậy nghĩa là phải chính xác và đầy đủ, bởi vì một cuốn sách như “Lịch sử Giáo phận Vinh” viết đầy đủ mang tính cách hiện đại sẽ là một tài liệu tập huấn quý báu chẳng những cho hàng ngũ chủng sinh, giáo sĩ mà còn cho cả giáo dân, không chỉ Giáo phận này mà còn cho cả các giáo phận khác vì sẽ đọc thấy trong đó biết bao tấm gương tu đức, hy sinh, quả cảm, những con người từ xa đến đây hoặc lớn lên trên mảnh đất này có chung một lý tưởng đó là truyền bá, sống và giữ gìn đức tin, phát triển đạo thánh Chúa. Mỗi trang sách của tác phẩm này ngoài việc chứa đựng các biến cố lịch sử, cung cấp cho người đọc những bài học quý báu của quá khứ, còn phải là trang sách cầu nguyện dẫn đưa tâm hồn người đọc vươn cao.

23.- Theo yêu cầu khắt khe của nghề viết sử: Thách đố vậy nhưng đáp ứng nào?

ĐGM Nguyễn Thái Hợp có viết về một số quan điểm thông thường của sử học như sau: “Thông thường, lịch sử được hiểu như sách chép việc đã qua. Tuy nhiên, lịch sử không đơn thuần chỉ chép lại quá khứ của thể chế chính trị hay của xã hội loài người, mà còn tìm cách dựng lại quá khứ. Sứ vụ đích thực của sử học cũng không phải chỉ nhằm khôi phục những sự trạng đã qua để biết sinh hoạt và cơ cấu xã hội thời xưa, mà còn muốn xác định nguồn gốc của chúng và tìm ra những mối liên hệ, tương tác giữa các sự kiện, với hy vọng khám phá được quy luật chi phối sự biến thiên trong quá trình phát triển của một thời đại hay một quốc gia nào đó. Tự cổ chí kim, sự kiện lịch sử vẫn được coi là những sự thật khách quan, tồn tại độc lập với ý thức và ý muốn của người đọc hay người viết sử. Dựa trên nền tảng đó, người ta cho rằng lịch sử là, hay ít nhất, phải là khách quan. Do đó, ngay từ thời cổ đại, nhiều bậc thức giả đã đề cao giá trị và vai trò giáo dục của lịch sử. Theo văn hào Cicéron, “lịch sử là thầy cuộc sống” (historia magistra vitae) giúp chúng ta vươn tới “ánh sáng của sự thật” (lux veritatis). Chính vì vậy, người viết sử phải tuân thủ kỷ luật sắt: không viết điểu giả dối và dám nói tất cả sự thật.” (trang 16-17).

Các ý kiến trên đây cũng không khác gì một số quan điểm về sử học của giới nghiên cứu sử ở đại học và trong các sách vở có tính hàn lâm. Nhưng trước hết thử tìm hiều về hai chữ “lịch sử”.

Lịch sử 歷 史 là gì? Theo Linh mục Nguyễn Phương “lịch 歷 có nghĩa là đã qua và sử 史 có nghĩa là những gì miệng nói hay tay làm. Nói chung lịch sử 歷史 chỉ về các việc người ta đã làm cũng như những lời người ta đã nói. Nhìn kỹ hơn một tý vào cách dùng thông thường của tiếng đó, chúng ta có thể thấy nó bao hàm ba ý nghĩa, khi thì nhấn mạnh vào tính cách đã qua của sự việc, nghĩa là nhấn mạnh vào chữ lịch, và lịch sử bấy giờ là những việc làm và lời nói thuộc về phạm vi quá khứ; khi thì nhấn mạnh vào sự nó đã được lưu lại cho đến ngày nay nhờ người xưa đã bỏ công ghi chép lại (ký 記 là ghi chép), và lịch sử bấy giờ đồng nghĩa với tiếng sử ký 史 記 (ký là ghi chép); sau hết, có khi lại nhấn mạnh vào việc tìm tòi thời sự quá khứ, bởi vì muốn biết sự thật đã qua, người ta phải khó nhọc từ bỏ thế giới hiện tại để lùi về khoảng thời gian không còn nữa với những điều kiện riêng của nó, nhiều khi rất khác với các điều kiện hiện tại, và bấy giờ lịch sử có ý nghĩa giống như tiếng sử học 史 學.

Trong các ngôn ngữ Tây phương, những tiếng chỉ về lịch sử, chỉ có tiếng Đức Geschichte, bởi động từ geschehen (xảy ra) là chỉ có nghĩa “sự việc xảy ra” và không bao hàm ý kiến ghi chép tìm tòi, còn các tiếng khác, như tiếng Hy lạp istoria, hay tiếng La-mã historia, hay sau đó, tiếng Pháp histoire và tiếng Anh history đều gồm tóm ba ý nghĩa vừa nói.” (Sách đã dẫn, trang 21).

Trong cuốn “Nhập môn Phương pháp Sử học”, (Sài gòn, 1974, trang 3) Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng đưa ra một số định nghĩa và cho rằng các danh từ lịch sử, sử ký, sử học thường bị hiểu lầm và thường được sử dụng lẫn lộn.

Ý muốn xác định nguồn gốc những sự trạng đã qua mà tác giả Lời Giới Thiệu vừa nêu ra ở trên, nói theo ngôn từ sử học đó là xác định những mối dây nhân quả tức là đem ra ánh sáng những tương quan xưa nay chưa được nói đến giữa hai sự kiện, cũng gợi cho chúng tôi một số suy nghĩ. Theo Lm Nguyễn Phương “muốn thấy rõ hơn về tương quan nhân quả nên có một quan niệm rành mạch về nguyên nhân. Trong những khoa học riêng, như lịch sử, nguyên nhân cần phải tìm là nguyên nhân gần, nguyên nhân gây sự, chứ không phải tìm nguyên nhân xa, nguyên nhân của sự vật, như trong những khoa học chung như triết lý. Quan niệm về nguyên nhân cũng không phải là dễ phân tích. Nguyên nhân là bất cứ cái gì mà vì ảnh hưởng của nó đã làm cho một sự vật trước kia chưa có, và bây giờ có, hay là làm cho sự vật đó trước đã có dưới một hình thức nào đó, và nay đổi sang một hình thức khác. Trong lịch sử, khi nói đến nguyên nhân, người ta hiểu là những động cơ có những hiệu lực vừa nói. Đó là những động cơ hiệu lực, nghĩa là hoạt động của nó mang lại kết quả. Trường hợp chỉ là những gì giúp sức vào công việc của nguyên nhân.” (Nguyễn Phương, Sđd, trang 156).

Thật ra không phải bây giờ người ta mới có quan niệm về nhân quả trong lịch sử mà ngay từ những ngày đầu khi mới khai sinh môn học này người ta đã từng tìm hiểu để lý giải về nhân quả. Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã cho biết trường hợp của Polybe : “Polybe, người tỉnh Mégalopolis (vào khoảng 200-120 trước t.l.), đã là chứng nhân và là sử gia của sự bành trướng cường lực của La-Mã sau khi thắng Carthage. Có thể nói Polybe là sử gia thời Thượng cổ đã có một phương pháp gần giống như phương pháp sử học ngày nay. Sử mà ông ta viết được căn cứ trên những dữ kiện xác thực; Polybe không muốn chỉ là một nhà biên niên sử, mà đã đặt một vấn đề và đã cố gắng giải quyết vấn đề này: tại sao chỉ trong vòng nửa thế kỷ (từ 220 đến 168 trước t.l.), người La Mã đã có thể trở thành bá chủ miền Địa-trung-hải? Bằng cách nào và với một thể chế chính trị nào? Polybe vượt quá sự tường thuật các biến cố, để đi tìm những liên hệ giữa các nguyên nhân và hậu quả. Ông cho thấy là tình trạng quân bình trong hiến pháp La Mã giữa ba thể chế quân chủ, quí tộc và dân chủ, đã giải thích cho sức mạnh và sự thắng lợi của La Mã.” (Nguyễn Thế Anh, Sách đã dẫn, trang 13).

Trong cuốn Petit Larousse illustré (1987), tiểu sử của Polybe được ghi lại như sau:

“Polybe, historien grec, né à Mégalopolis (Arcadie) [v. 200-v.125/120 av. J.C.]. Il fit partie, après Pydna (168), des mille otages livrés aux Romains et vécut seize ans à Rome. Ses Histoires, par le souci qu’il a d’analyser méthodiquement les faits et d’en rechercher les causes, le classent parmi les grands historiens grecs.” (page 1612).

Tạm dịch:

“Polybe, sử gia Hy lạp, sinh ở Mégalopolis (Arcadie) (vào khoảng 200-125/120 trước Chúa Giêsu). Sau Pydna (168), ông là một thành phần trong hàng nghìn con tin bị giao vào tay người La Mã và đã sống 16 năm ở Rô-ma. Tác phẩm của ông, Bộ Sử Ký, nhờ vào sự trăn trở suy tư mà ông đã phân tích được một cách có phương pháp các sự kiện lịch sử và tìm tòi được các nguyên nhân của chúng; nhờ vậy ông đã được liệt vào hàng một trong những sử gia lớn của Hi lạp.

Trong tác phẩm bất hủ Sử Ký, Tư Mã Thiên đã viết về cái dũng của người viết sử trong câu chuyện như sau:

“Vào thời Xuân Thu, sau khi tướng quốc nước Tề là Thôi Trữ giết vua Tề là Trang Công để thâu tóm quyền lực, bèn gọi Thái sử Bá đến ra lệnh:

-Ông phải viết rằng Tiên Vương chết vì bị bệnh nặng.

Thái sử Bá nói:

-Lịch sử không thể ghi chép hồ đồ. Viết theo sự thật là bổn phận của Thái sử.

Thôi Trữ không ngờ Thái sử Bá dám chống lệnh, nổi giận:

-Ông định viết thế nào?

Thái sử Bá đáp:

-Tôi viết xong rồi, ông sẽ biết ngay thôi.

Thôi Trữ cầm lên đọc thấy rõ:

-Hạ ngũ nguyệt Thôi Trữ thích quân (nghĩa là vào tháng 5 mùa hạ, Thôi Trữ giết vua).

Thôi Trữ nói:

-Ông phải viết khác đi, nếu không ta giết ông.

Thái sử Bá lắc đầu:

-Giết thì giết, tôi không thể viết khác.

Thôi Trữ liền chém đầu Thái sử Bá.

Thái sử Trọng là em trai Thái sử Bá, nghe tin anh bị giết liền đến thay chức vụ của anh. Thôi Trữ kinh ngạc vì thấy Trọng vẫn viết đúng như anh trai mình, liền rít lên:

-Ông không biết Thái sử Bá đã bị chém hay sao?

Trọng đáp:

-Thái sử chỉ sợ viết không trung thực chứ không sợ chết.

Thôi Trữ lại chém Thái sử Trọng.

Thái sử Thúc, em trai Thái sử Bá và Thái sử Trọng được vào thay. Ông cũng chép đúng như hai anh của mình và lại bị chém. Thái sử Quý, em út của ba Thái sử trên vào thay, vẫn viết: “Hạ ngũ nguyệt Thôi Trử thích quân”. Viết xong ông nói với Thôi Trữ:

-Ông càng giết người thì càng chứng tỏ sự tàn bạo. Nếu tôi không viết thì người khác sẽ viết và thiên hạ cũng biết. Ông có thể giết chết Thái sử nhưng không thể giết chết được sự thật.

Thôi Trữ nghe xong, lắc đầu, thở dài, không dám giết tiếp.

Được Thôi Trữ tha mạng, Thái sử Quý cầm cái thẻ trên viết việc Thôi Trữ giết vua đi ra, sắp đến cửa sử quán, lại gặp Nam Sử Thị. Thái sử Quý hỏi đi đâu, Nam Sử Thị nói:

-Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày Ất Hợi, tháng 5, mùa Hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ đến để chép.

Quý đưa cái thẻ của mình đã chép cho Nam Sử Thị xem. Nam Sử Thị mới cáo từ mà về.”

(Tham khảo Website của nhà văn Đỗ Phương Khanh).

“Lịch sử phải là khách quan” vốn là điểm nhấn mạnh trong Lời Giới Thiệu của ĐGM Nguyễn Thái Hợp tuy nhiên việc ghi chép lại sự kiện lịch sử cũng là vấn đề khiến sử gia suy tư không ít trong nhiệm vụ của mình. Giáo sư Nguyễn Thế Anh cho biết: “ Không thể tách biệt khách quan tính với chủ quan tính trong việc nghiên cứu, vì hai yếu tố này liên đới chặt chẽ với nhau, đến nỗi H.I. MARROU đã có thể viết rằng: “cái nhìn của sử gia vừa là sự nhận hiểu khách thể (tức là đối tượng nghiên cứu), vừa là tác động tinh thần của chủ thể nhận tri (tức là người thực hiện việc nghiên cứu)”. Sự thật của sử học vừa khách quan, vừa chủ quan; đây là quá khứ được hiểu biết một cách xác thực, nhưng mà là quá khứ nhìn dưới con mắt của sử gia. Sự thật của sử học là một sự thật kép, là một phức hệ trong đó hỗn hợp cả chủ thể nghiên cứu và khách thể được nghiên cứu. Tính chất ấy đưa vào tri thức sử một nguyên tố tương đối. Nhưng mọi hiểu biết của con người đều tương đối cả, đều cùng mang dấu địa vị của con người trong thực tại và trong vũ trụ. Nếu có một phần của cá nhân của sử gia trong việc luyện thành tri thức sử, tình trạng này không ngăn cản sử học đưa đến một sự hiểu biết xác thực về quá khứ.” (Sách đã dẫn, trang 81).

Để làm nổi rõ thêm các luận điểm của mình, GS Nguyễn Thế Anh đã trích dẫn Paul Ricoeur trong quyển Histoire et Vérité (tr. 26) khi cho rằng “sử gia cần có một chủ quan tính, nhưng một “chủ quan tính thích ứng với khách quan tính tương xứng với sử học”. Đây là “chủ quan tính tốt” (bonne subjectivité) của bản ngã nghiên cứu, của bản ngã đi tìm hiểu; nó bao gồm một thái độ sẵn sàng tìm hiểu, một thái độ cởi mở, nhờ đó mà sử gia thắng nổi chủ quan tính xấu (mauvaise subjectivité), chủ quan tính của những sự thù hằn, giận ghét, chỉ trích.” (Nguyễn Thế Anh, Sđd, trang 81). Như vậy tính nhân bản trong khi hoàn tất các công trình sử học cũng là một điều kiện đòi hỏi nơi người viết sử khi tiếp cận với sự thật trong các biến cố do tư liệu ghi lại.

Ở một đoạn văn khác, Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng xác quyết rằng: “ Sử học có thể tìm ra một sự thật chính xác, tuy sự thật ấy bị giới hạn bởi những sự lệ thuộc ràng buộc thân phận của con người. Sự thật của sử học đúng thực, nhưng không trọn vẹn, không đầy đủ: chúng ta có thể biết nhiều điều về quá khứ, nhưng chúng ta không thể biết tất cả quá khứ, và chúng ta cũng không thể biết hết về một phương diện nào đó mà thôi của quá khứ. Tại vì, trong sự thật lịch sử, bao giờ cũng có nhiều khía cạnh mà giả thuyết khéo léo nhất cũng không tài nào bao quát hết: giả thuyết này chỉ là một lối quan sát mà thôi, nó được tác thành để giải quyết một vấn đề đặc biệt và hạn định, nó căn cứ trên một sự lựa chọn giữa những phương diện vô số của sự thật lịch sử. Sử gia chỉ giữ lại những yếu tố mà sử gia cho là có ích để giải thích những hiện tượng nghiên cứu.” (Sđd, trang 82).

Tác phẩm “Lịch sử Giáo phận Vinh” đã tỏ rõ sự can đảm của ngòi bút khi mạnh dạn vạch ra thái độ gian trá của Ủy ban Khoa học Xã hội, trong bộ “Lịch Sử Việt Nam”khi trích dẫn một câu mà A. Thomazi cho là của Alexandre de Rhodes mà không ghi rõ xuất xứ. Trong cuốn La conquête de l’Indochine (Paris: 1934), ở trang 13, A.Thomazi, một cựu thuyền trưởng Hải quân Pháp, viết về A. de Rhodes như sau: “Le Père Alexandre de Rhodes aborda en Cochinchine en 1624, passa vingt-cinq ans dans ce pays et au Tonkin; il en rapport la première carte du pays, un dictionnaire annamite – latin – portugais, une histoire du Tonkin, et signala les possibilité qui s’offraient au commerce. “Il y a là, écrivait-il, une place à prendre, et, en s’y établissant des marchands d’Europe pourraient y trouver une source féconde de profits et de richesse”. Câu này phần sau được Ủy ban Khoa học Xã hội dịch là: “Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy và chiếm được vị trí nầy thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú.” Khi thấy A. Thomazi không nói rõ Alexandre de Rhodes viết câu nói trên ở nơi nào trong toàn bộ tác phẩm của ngài, Viện Sử Học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội đã thản nhiên tạo thêm chú thích mới “Alexandre de Rhodes, Divers voyages et missions, Paris, 1653, 109-110.” Nguyễn Đình Đầu trong bài báo “Dân ta phải biết sử ta”, đăng trên Công Giáo & Dân tộc, số 1582 (9-11-2006), trang 35 và trước đó Vương Đình Chữ viết “Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes”, Công Giáo & Dân tộc, số 901 (4-4-1993), trang 18-19 công khai phủ chính về chuyện này nhưng Ủy ban Khoa học Xã hội vẫn ngoan cố giữ nguyên luận điệu xuyên tạc cũ. Thái độ này của sử quán nhà nước Cộng Sản cũng không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì như Văn Tạo, một công chức viết sử ăn lương nhà nước đã nói trước đây, công khai ở Đại Học Paris VII năm 1988 : “Chúng tôi không viết sử để làm công trình sử học mà là để góp phần xây dựng chế độ mới.”

Trong tác phẩm Les missionnaires portugais et les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam (Bilingue, Tome I, Định Hướng Tùng Thư, 2004, trang 105), Roland Jacques cũng đã lưu ý đến vấn đề này và viết rằng : “mais cette prétendue citation, qui a souvent été reprise et commentée (en mauvaise part) dans les publications du Việt-nam indépendant, semble être une invention de Thomazi.”(nhưng lối trích dẫn hàm hồ này thường được lấy lại và bình luận (với ý xấu) trong các sách được xuất bản của Việt nam sau nầy, dường như là một sự bịa đặt của Thomazi).

Một điều chúng tôi hơi buồn và xin nhắc ông Vương Đình Chữ là ở trang 19, trong cước chú số 13, câu văn Pháp ngữ được trích dẫn đã đánh máy sai đến 4 chỗ! Đây là một câu nói quan trọng của một tác giả người Pháp được nêu ra để nói lên sự thiếu lương thiện của Ủy ban Khoa học Xã hội nhưng lại viết rất cẩu thả, sai lạc thí dụ vingt-cing thay vì vingt-cinq, premìere thay vì première, dictionanaire thay vì dictionnaire, feconde thay vì féconde. Ở chỗ nào sai sót có thể châm chước được nhưng ở chỗ mình muốn cột buộc “đối phương” mà lại để “trống lưng” như vậy thì thật là không nên. Việc kiểm soát lại bản in không thể làm một cách tắc trách, chiếu lệ được!

Ngoài ra, cuốn “Lịch sử Giáo phận Vinh” cung cấp một con số gồm 1582 chú thích đi liền một mạch từ Lời Giới Thiệu (trang 13) đến trang 645 thật sự đã không đáp ứng đúng kỹ thuật đòi hỏi của phương pháp sử. Cách ghi cước chú, theo Lm Nguyễn Phương. cũng là cả một vấn đề. Theo sử gia này, “đánh số cước chú thường phải tùy hai trường hợp. Nếu là một bài vắn không chia thành chương mục gì, thì thứ tự cước chú nên gồm toàn cả bài, vì bấy giờ chắc rằng con số các cước chú không đến nỗi to lắm. Nhưng nếu là một sử phẩm có qui mô, thì thứ tự cước chú có thể theo từng trang một, trong trường hợp đặt cước chú ở cuối mỗi trang, hoặc theo từng chương một. Không bao giờ nên để cho thứ tự đó gồm cả tác phẩm, vì như thế những con số cuối sẽ quá lớn và gây nên nhiều bất tiện trong việc chiếu khán. Về chính con số thứ tự nầy khi đặt trong chính bản văn, sử gia nên đặt nó ở cuối câu trong đó có chỗ cần phải chú thích, hơn là đặt nó ngay vào chỗ của nó. Những cước chú có tính cách tổng quát nên cho nằm ở cuối đoạn văn (paragraphe).” (Sđd, trang 179).

Với việc đặt cước chú riêng từng chương, người ta có thể nói thêm rất nhiều những quan điểm, ý kiến của mình có liên quan đến từng cước chú, từng tác giả, hoặc từng đoạn văn và đó cũng là yếu tố kích thích tinh thần sáng tạo của sử gia hay người biên soạn tác phẩm. Trong một cuốn sách có tên Triumph forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, của Mark Moyar, viết lại về giai đoạn thời cố TT Ngô Đình Diệm, được coi là một tác phẩm “phi chính thống” nghĩa là phản biện lại các luồng tư liệu trước đây của Hoa Kỳ và các nước Tây phương viết về nền Đệ I Cộng Hòa, với số tài liệu khai thác được đặt trong phần cước chú nằm hẳn từ trang 419 đến 502 của cuốn sách.

Nói chung, nghề viết sử phải là một chọn lựa của những người được huấn luyện có tay nghề, biết tôn trọng sự thật dù sống trong một xã hội đầy gian trá, điêu ngoa. ĐGM Nguyễn Thái Hợp, trong Lời Giới Thiệu ở trang 19 có viết: “Cuối cùng, nếu tôn chỉ của nghề viết sử là “chép đúng sự thật” thì việc thực hiện nó trong xã hội hiện nay vẫn luôn luôn là một thách đố và một sứ vụ đòi hỏi phải trả giá.” Chúng tôi xin phép in đậm hai chữ thách đố. Một sử gia nổi tiếng người Anh, Arnold J. Toynbee trong bộ sử The Study of History gồm 12 pho xuất bản ở Luân-đôn và Nữu-ước từ năm 1934 đến 1961 và đã được D.C. Somervell tóm lược dưới nhan đề History, an essay of interpretation đã đưa ra nhận định rằng: “Sự phát triển hay suy đồi của các nền văn minh bị chi phối bởi một định luật, định luật challenge và response, tức là sự đáp ứng trước những thách đố do môi trường thiên nhiên hay xã hội đưa đến. Có tiến bộ là nhờ ở một sự thách đố gây nên một đáp ứng thành công; sự đáp ứng này lại tạo nên một thách đố mới mà cần phải tìm một đáp ứng thỏa đáng khác…” (Nguyễn Thế Anh, Sđd, trang 18). Xã hội Việt Nam do đảng CSVN cai trị sau ngày 30-4-1975 đã tạo nên quá nhiều thách đố cho người dân hai miền trong cuộc sống và nhân dân đã tìm sự đáp ứng bằng nhiều biện pháp trong đó có vượt biên. Nghề chép sử, nhất là chép sử tôn giáo phát triển hay suy đồi cũng bị chi phối bởi định luật bất biến này. Đất nước với cơ chế độc tài hay tự do, xã hội với nhân sinh quan dối trá hay lành mạnh luôn luôn đặt ra những thách đố được coi như là những rào cản, những trói buộc. Điều quan trọng là những người “có tâm” và “có trí” dám vượt qua các rào cản hay trói buộc đó để thực hiện sứ vụ viết sử trong tinh thần tôn trọng sự thật như anh em Thái sử trong Sử Ký của Tư Mã Thiên hay không?

24.-Con đường hội nhập dài thăm thẳm: Con đường tuy dài nhưng đầy triển vọng.

Trong tiểu mục số 4 của Lời Giới Thiệu, ĐGM Nguyễn Thái Hợp viết về con đường hội nhập, và cho rằng “Trước khi Kitô giao du nhập vào Việt Nam, thì Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo đã thành công trong việc hội nhập vào lối sống, cũng như nếp nghĩ của người dân Việt. Tam giáo hòa đồng đã trở thành một “nét văn hóa dân tộc. Do vỏ cứng của thần học và bối cảnh Giáo Hội thời hậu Công đồng Trento, Giáo Hội Công Giáo, không những không thành công trong việc hội nhập văn hóa, trái lại còn bị coi là ngoại lai, xa lạ với môi trường văn hóa Việt Nam. Vấn đề thờ cúng tổ tiên đã là đề tài tranh luận gay gắt giữa các nhà truyền giáo suốt gần một thế kỷ và việc cấm “Nghi lễ Trung Hoa” đã gây nhiều hiểu lầm và tang tóc cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam” (trang 22).

Trước hết vấn đề hội nhập mà ĐGM Nguyễn Thái Hợp nêu ra ở đây là hội nhập văn hóa (inculturation) vậy cần tìm hiểu định nghĩa bốn chữ “hội nhập văn hóa”. Sự hội nhập văn hóa, thuật ngữ trở nên thông dụng trong lãnh vực truyền giáo ở hạ bán thế kỷ 20, chỉ việc đem Tin Mừng “nhập thể” vào các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, hoặc diễn tả đức tin Ki-tô giáo sao cho phù hợp với đặc tính văn hóa của các dân tộc để muôn dân nhận biết mầu nhiệm Đức Ki-tô. Công đồng Va-ti-can II dạy rằng Giáo Hội phải loan báo, cử hành và sống trong tất cả các nền văn hóa. Mầu nhiệm Đức Ki-tô không xóa bỏ, nhưng cứu chuộc và kiện toàn các nền văn hóa. Chính nhờ nền văn hóa riêng được Đức Ki-tô tiếp nhận và thanh luyện, đông đảo con cái Thiên Chúa đến được với Chúa Cha để tôn vinh Ngài trong cùng một Thánh Thần. Như thế, hội nhập văn hóa gồm hai mặt: thích ứng sứ điệp Ki-tô giáo với nền văn hóa và kiện toàn nền văn hóa ấy theo tinh thần Ki-tô giáo. Hai mặt ấy làm phát sinh mối quan hệ tương tác hai chiều giữa đời sống Ki-tô giáo và đời sống của nền văn hóa. Một số nhà truyền giáo học sử dụng mẫu thức nhập thể [incarnation] để mô tả sự hội nhập văn hóa: một khi đức tin Ki-tô giáo “nhập thể” vào nền văn hóa thì những con người thuộc về nền văn hóa ấy dễ dàng đón nhận đức tin Ki-tô hơn; việc truyền giáo chắc chắn sẽ thất bại nếu giáo lý rao truyền bị tách biệt khỏi nền văn hóa, cũng như thiên tính của Đức Ki-tô không thể tách biệt với nhân tính của người. Trong hội nhập văn hóa, không những nền văn hóa được Ki-tô hóa mà, ngược lại, Ki-tô giáo cũng được “văn hóa hóa”, nghĩa là Tin Mừng được rao truyền và được áp dụng theo cách thức phù hợp với nền văn hóa cụ thể. Như thế, truyền giáo không những làm cho Ki-tô giáo lan rộng hơn mà còn là quá trình phong phú hóa Ki-tô giáo. (Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công Giáo Anh-Việt, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2014, trang 1032).

Một ý kiến khác bổ túc cho sự cần thiết của vấn đề hội nhập văn hóa : “Hội nhập văn hóa là điều cần thiết cho chính Giáo Hội. Nó vun đắp cho Giáo Hội thêm phong phú. Quá trình hội nhập văn hóa rút tỉa một cách có tôn trọng những yếu tố tốt đẹp của một nền văn hóa, đổi mới chúng từ nội tại và hấp thụ chúng để chúng trở nên thành phần của khối hiệp nhất Công Giáo. Công Giáo tính của Giáo Hội càng được nhận thức đầy đủ hơn khi nó có thể hấp thụ và sử dụng những điều quý giá trong nền văn hóa của một dân tộc vì vinh danh Thiên Chúa.” (Sách giáo lý hội nhập văn hóa của Hội đồng Giám mục Phi Luật Tân, Nguyễn Đình Diễn, Sách đã dẫn, trang 1033).

Một câu hỏi đến với chúng tôi rằng quả thật Phật, Khổng, Lão đã thành công trong việc hội nhập vào lối sống, nếp nghĩ của dân tộc VN để trở thành nét văn hóa dân tộc không? Văn hóa dân tộc một khi đã trở thành dân tộc tính thì có nên biến nó trở thành bản tính khép kín, bất di bất dịch nhưng là một cái vốn mà chúng ta có thể làm giầu thêm nhờ sự góp mặt vào đời sống xã hội của Ki-tô giáo không? Một số nhận định của ĐGM Nguyễn Thái Hợp vừa trích dẫn xem ra thật khác xa với quan điểm của Giáo sư Trần Văn Toàn trình bày trong cuốn sách nhỏ có tên “Đạo Trung Tùy Bút” do Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội phát hành năm 2008. Ở trang 85, GS Trần Văn Toàn viết: “Các giáo sĩ đạo Thiên Chúa từ Tây phương sang Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, chính vào lúc Nho thịnh, Phật và Lão suy. Cho nên tiếng là đi vào đất của tam giáo, nhưng thực ra chỉ gặp gỡ và đối thoại với Nho giáo là chính.

Để giải thích tình trạng đó, có người cho rằng Phật giáo đã rất thịnh trong mấy thế kỷ được các vua nhà Lý, nhà Trần, rất mực nâng đỡ, thế rồi thịnh quá hóa suy, là hợp với lẽ tuần hoàn trong trời đất. Tôi không biết được lẽ trời, nhưng thiết tưởng còn có lý do khác. Thực vậy, gặp lúc sự sống còn của dân tộc, của quốc gia, bị quân Nguyên, rồi quân Minh, đe dọa một cách cực kỳ nghiêm trọng, những người có trách nhiệm trong nước không thể lấy phép tu tiên, lấy quan niệm điềm tĩnh vô vi, bất động, bất bạo động, lấy con đường giải thoát cá nhân ra khỏi vòng sinh tử, làm phương tiện bảo vệ đất nước. Lý do làm cho Nho thịnh, đó là vì nó đưa ra được những nguyên tắc để tổ chức xã hội sao cho hùng mạnh, có trật tự. Dân chúng cũng nghĩ như thế, cho nên đinh ninh rằng Trời, rằng Phật đều dạy chính đạo tam cương ngũ thường, cũng dạy người ta phải trung phải hiếu… Người Việt, bên lương cũng như bên giáo, thường có điều thắc mắc, vì nghĩ rằng theo đạo từ ngoại quốc đưa vào, thì tất không hợp với tập tục của mình. Có người cho rằng đi đạo là bỏ ông bà cha mẹ. Vì thế ngay từ buổi đầu, các giáo sĩ đã ra công giải thích rằng: tuy đạo Thiên Chúa từ Thái-Tây truyền sang, nhưng nguồn gốc nó lại là từ Tiểu-Á, đàng khác truyền thống tam giáo Việt Nam cũng là từ ngoại quốc, Ấn Độ và Trung Hoa, đem vào, và sau cùng thì người theo đạo Thiên Chúa sống ở đời cũng không ngoài phạm vi trung hiếu, có khác chăng là khác thể thức.”

Về phương diện hội nhập văn hóa, từ năm 1615, Đức Giáo Hoàng Phaolồ V trong văn kiện Romanae Sedis antistes đã cho phép dịch Kinh thánh sang Hán văn, cho cử hành thánh lễ, làm các phép và đọc sách nguyện bằng Hán văn. Năm 1659, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII cho phép truyền chức linh mục cho các tiến chức người Hoa, chỉ cần đọc được tiếng La tinh mà không cần hiểu nhưng rồi nhiều khó khăn, bất tiện cũng xảy tới nên các nhà truyền giáo cả người Âu cũng như người Việt cũng đã linh động sáng tạo ra nhiều nghi lễ để nâng đỡ đời sống tôn giáo của giáo dân như làm hang đá máng cỏ, hát vãn sinh nhật, diễn tuồng thương khó, ngắm đứng, mặc tang phục, đi đứng bái quì theo nhịp sênh nhịp trắc, dâng hoa hát vãn, đi kiệu Đức Bà. Đó là di sản văn hóa Công Giáo. Từ Công Đồng Vatican II trở đi giáo dân trực tiếp tham gia vào thánh lễ cử hành bằng tiếng Việt, nhiều nghi thức khác áp dụng tiếng Việt trong hôn phối, nghi thức đưa xác chết, chôn cất, xây dựng các nhà thơ theo kiểu Á đông v.v… Giáo sư Trần Văn Toàn cho biết các tôn giáo khác cũng vay mượn ít nhiều từ ngữ, nghi thức của đạo Công Giáo Việt Nam như cụm từ Giáo Hội, Nha Tuyên Úy, hôn lễ ở nhà chùa, các tổ chức hội đoàn v.v…Đó cũng là những thành công trong vấn đề hội nhập văn hóa.

Về âm nhạc các nhà truyền giáo Tây phương ngay từ buổi đầu đã đem âm nhạc bình ca vào Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX các vị thừa sai đặt lời Việt Nam vào một số bài hát tiếng Pháp. Trong các làng Công Giáo ở thôn quê thường có hội bát âm, cử hành những bài theo điệu Lưu thủy, Hành vân, Kim tiền. Tại các giáo xứ lớn ở Bắc cũng có đội kèn Tây hay hội kèn. Ở Giáo phận Huế, Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích là một bậc túc nho có nhiều tài năng như hội họa, thi ca, âm nhạc đã sáng tác nhiều bài hát tiếng Việt ca tụng Đức Mẹ, (bài Lạy Đức Mẹ La Vang), ca tụng các thánh tử đạo như bài hát Mừng Thánh Tô Ma Thiện, Kính Á Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh, các bài thánh ca mùa Giáng Sinh, các bài hát nói lên lòng ái quốc, hướng đạo sinh v.v… cũng lấy theo các điệu trong âm nhạc cổ truyền VN như ca Huế, Tứ đại cảnh, Nam Bình, Nam Ai, Đăng đàn cung v.v…

Nền tân nhạc Việt Nam khởi đầu cũng là do công sức của hai vị Linh mục là cha Gabriel Long và Phaolồ Đạt trong bài thánh ca bất hủ “Nửa đêm mừng Chúa ra đời” sáng tác khoảng năm 1912 phối hợp từ những kỹ năng tuyệt vời của nhạc lý mà các vị ấy thủ đắc từ trong các đại chủng viện ở Sài-Gòn, kết hợp âm thanh từ những bước chân của trâu bò VN vùng thôn dã, tiếng gà gáy, tiếng chim cu v.v…

Từ “Cách mạng tháng Tám” thì ở Việt Nam các thầy đại chủng viện Hà Nội có phong trào bỏ các bài hát Tây và đặt ra một số bài hát đạo bằng tiếng Việt.

Về kiến trúc nhà thờ, Giáo sư Trần Văn Toàn ghi nhận: “Ở miền thôn quê các nhà thờ thường có một cái “hội nhập văn hóa” đặc biệt Việt Nam: đó là cái ao. Nhà thờ và cái ao trông như một hòn non bộ ở cạnh bồn nước. Có sơn có thủy (nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy!) Giáo dân thì thường có óc thực tiễn hơn là thẩm mỹ, cho nên thường dùng để rửa chân trước khi vào nhà thờ. Như thế vừa là để kính Chúa, vừa là để giữ nhà thờ cho sạch.” (trang 154).

Theo Giáo sư Trần Văn Toàn, thuyết “tam phụ” của đạo Thiên Chúa ở Việt Nam là một lối hội nhập văn hóa rất khéo đã được cha Alexandre de Rhodes và các giáo sĩ Dòng Tên khác áp dụng trong phương thức truyền giáo ở nước ta. Thuyết tam phụ chủ trương “thượng phụ” là Thiên Chúa tức là chúa tể cả trời đất ở trên hết, kế đến “trung phụ” là vua chúa tức là vị cai quản đất nước, quốc gia, dưới hết là “hạ phụ” tức cha mẹ trong gia đình. Giáo sư Trần Văn Toàn cho biết quan niệm tam phụ không phải là không có chút nền tảng trong văn hóa Việt Nam. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes có nhận xét trong Phép giảng tám ngày như sau: “Thật có cha cả là Chúa cả hóa ra mọi sự. Nhin (nhân) vì sự ấy thì đầu năm vua Chúa An nam làm phép cả, có đại thần cả và nước và quân quốc đều cùng thiên hạ đi cùng, ra giao mà tế thượng đế, đến khi vua Chúa đã tế thượng đế đoạn, thì đại thần cùng kẻ cả trong nước, cùng cả và thiên hạ mới lạy vua Chúa trước mặt dân. Thôi đoạn ai nấy thì về nhà mà lạy cha mẹ cùng kẻ bề trên mình, ông bà ông vải. Trong việc này ta xét được người An nam lấy lẽ mình mà thờ ba đấng cha, dù mà chưa biết tỏ tường.” (trang 110).

Cố gắng của các giáo sĩ Dòng Tên là tìm được trong nền văn hóa Việt Nam những nét tương đồng với giáo lý của đạo Công Giáo, thí dụ Điều răn thứ tư “Thảo kính cha mẹ”, hoặc giáo lý (của Giám Mục Bá Đa Lộc soạn như Chân Đạo Dẫn Giải, Chân Đạo Yếu Lý) đều dạy người giáo hữu phải tôn kính vua chúa, trung thành và biết ơn v.v…

Muốn hiểu sự thành công trong việc hội nhập văn hóa của đạo Công Giáo ở Việt Nam, phải thoát ra khỏi định kiến có sẵn và quan sát kỹ vào cách sống đạo của người Ki-tô hữu Việt Nam qua lễ nghi, âm nhạc, kiến trúc, kinh hạt v.v… nhất là sau Công Đồng Vaticano 2 cho đến ngày nay.

Một vị linh mục Việt Nam nổi tiếng trong lãnh vực thần học thế giới, Cha Phêrô Phan Đình Cho cũng có ý kiến khẳng quyết về sự thành công trong “hội nhập văn hóa” như sau: “Việc đưa sự tôn kính tổ tiên vào Thánh Lễ, nhất là nhắc đến “tổ tiên” trong Kinh nguyện Thánh thể đánh dấu một bước tiến rất xa trên con đường hội nhập văn hóa vào phụng vụ tại Việt Nam. Chúng ta đã tiến đi được một chặng đường dài kể từ thời Tranh luận về lễ nghi Trung Hoa. Về phương diện thần học, điều này rất quan trọng, ít ra vì hai lẽ. Thứ nhất, khi nhắc đến tổ tiên cách minh nhiên trong Kinh nguyện Thánh thể và khi cầu nguyện cho các ngài, bản văn Việt ngữ không phân biệt tổ tiên Ki-tô hữu và tổ tiên ngoài đạo (trong số các Ki-tô hữu tham dự thánh lễ, có nhiều người mà tổ tiên không được nhận lãnh bí tích Rửa tội). Trong việc tôn kính tổ tiên, chúng ta tôn kính các ngài không phải vì các ngài đã rỗi linh hồn hay đã lên thiên đàng, mà chỉ vì các ngài là tổ tiên của chúng ta. Chỉ do mối dây huyết thống mà tổ tiên che chở cho con cháu, và con cháu tôn kính tổ tiên.”- Peter C. Phan, Suffrage for the Dead. (Nguyễn Đình Diễn, Sách đã dẫn, trang 1033).

Không quá khiêm tốn, gạt bỏ bớt mặc cảm, nhìn đúng sự thật, phải nói rằng con đường hội nhập văn hóa của đạo Công Giáo tại Việt Nam đã từ những chỗ khúc khuỷu bước vào chốn quang đãng, thênh thang, bởi lẽ hội nhập văn hóa là một hành trình đức tin dài lâu, chấp nhận thử thách, chắt lọc chất liệu để đạt tới những tinh hoa trong đời sống tôn giáo và cộng đồng dân tộc.

Đến đây, chúng tôi nhớ đến Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, (bào huynh của Giáo sư Nguyễn Khắc Dương, người viết Lời Bạt trong cuốn “Lịch sử Giáo Phận Vinh”) là người đã chỉ trích nhiều nhất về hình ảnh một ngôi nhà thờ Công Giáo ở thôn quê VN, với tháp chuông cao vút mọc thẳng lên trời xanh giữa một vùng chung quanh là đám dân đạo nghèo khổ mà ông cho đó là “un objet inconnu” (một dị vật xa lạ). Quan điểm của người giáo dân khi nhìn ngôi nhà thờ dĩ nhiên khác xa với ông Bác sĩ Tây học – mácxít này. Qua lời nói của BS Viện, tôi nhớ về chuyện Linh mục Nguyễn Văn Kiều (1903-1971) ở giáo xứ Làng Truông. Ở trong trại tù Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh, mà tôi đã trải qua hơn 13 năm diện bích sau 30-4-1975, tôi sống chung phòng với nhiều người trong đó có một người bạn thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng tên là Nguyễn Đức Viên (Phật Giáo) dạy học ở Huế. Anh Viên bị Việt Minh bắt từ năm 1946 vì tội đảng viên VQ và giam ở Trại Đưng đến 1954 và Trại Đưng cách giáo xứ Làng Truông (Ngàn Sâu, Hà Tĩnh) có lẽ chừng bốn ngày đường rừng. Tất cả các tù nhân chính trị thuộc Đại Việt, Việt Quốc bị Việt Minh bắt từ 1946 đều ở Trại Đưng hoặc Bến Hới. Những người tù chính trị được thả ra từ Trại Đưng thường tìm cách dặn anh em còn bị giam là khi được thả ra cứ nhắm nóc nhà thờ xứ Làng Truông ở hướng mặt trời mọc mà đi tới, hỏi cha Kiều thì ngài sẽ giúp đỡ. Un objet inconnu mà ! Anh Viên được thả ra vào lúc ký Hiệp Định Genève 1954, và anh cũng tìm tới giáo xứ Làng Truông, được cha Kiều giúp cho áo quần, thuốc men và cho dạy học trong xứ của ngài. Sau đó cha Kiều cho anh Viên ít tiền đường lộ phí và hướng dẫn anh về Huế. Nhiều người tù nhân chính trị cũng được cha Kiều giúp như vậy sau khi họ được thả ra. Năm 1955, cha Nguyễn Văn Kiều di cư vào Nam ở giáo xứ Vinh Hà, Bình Giả. Cuộc đời thánh thiện của cha Nguyễn Văn Kiều là một chứng nhân đức tin của Giáo phận Vinh. Nhiều khi “un objet inconnu” (nhà thờ xứ Làng Truông) như vậy mà trở thành dấu chỉ bàn tay quan phòng mầu nhiệm của Thiên Chúa, là ốc đảo của người đi trong sa mạc. Cha Nguyễn Văn Kiều là ân nhân của nhiều người tù chính trị Việt Nam sau khi ra khỏi nhà tù VM giai đoạn 1945-1954. (Còn tiếp)

NGUYỄN ĐỨC CUNG

Philadelphia 13-6-2017