L.M. Fernand Henri Marie Joseph Radelet sinh ngày 24 tháng 1 năm 1924 tại làng Thilay (Ardennes), ở huyện Mezières, nhưng ngài đã trải qua thời thơ ấu tại Reims (vùng Marne). Cha mẹ của ngài, Paul và Blanche Radelet Parisse, kết hôn năm 1920 tại Dizy-le-Gros (vùng Aisne), làng Thiérache nằm gần Montcornet, khoảng ba mươi cây số về phía bắc của Laon, thủ đô vùng. Ông bố Radelet là "thợ làm cho vải láng và mịn" trong ngành công nghệ dệt may.
Anh trai của ông bố Charles Radelet, dòng Thừa Sai (MEP) (1886-1940) sau đó đã được đi truyền đạo ở Bắc Kỳ kể từ năm 1910, với sự gián đoạn 1914-1918 vì bị động viên phải về Pháp thời thế chiến I. Năm 1937 ngài nhập tu-viện Phước-Sơn và qua đời tại Hà Nội vào năm 1940.
Ông Bà Radelet có sáu người con, năm trai và một gái. Bà Radelet chết sớm khi sinh đứa con thứ bảy của họ. Họ là những Kitô hữu sùng đạo. Con gái của họ trở thành một nữ tu của Nữ tu viện thừa sai và cha Henri nhập dòng Thừa Sai như Bác của Ngài. Ngài đã có ý đi tu dòng này từ lúc sáu tuổi.
Bé Henry đã được rửa tội ngày hôm sau ngày sinh, 26 tháng 1 năm 1924, tại nhà thờ Thánh Remy de Thilay, thuộc tổng Giáo Phận Reims. Ngài chịu phép thêm sức ở Reims vào năm 1933 và rước lễ lần đầu vào năm 1935. Sau khi học hết tiểu học tại trường thánh Gioan Baotixita de la Salle do các Sư-Huynh đảm trách, cậu Henry đã học các lớp trung học liên tiếp trong ba tiểu chủng viện, tiểu chủng viện của Giáo Phận Reims từ 1936-1939, và trong các lớp tại dòng Thừa Sai từ 1939-1944 tại Menil-Flin (vùng Meurthe-et-Moselle) và tiểu chủng viện Beaupréau (vùng Maine-et-Loire).
Ngài nhập Đại Chủng viện Thừa Sai Paris ngày 15 tháng 11 năm 1944. Lớp 1924 được miễn nghĩa vụ quân sự, nên việc thụ huấn cho chức vụ linh mục của Ngài không bi gián đoạn. Ngài chịu chức cắt tóc ngày 22 Tháng 12 năm 1945, chức đọc sách ngày 29 tháng 6 năm 1946, chức giúp lễ ngày 28 tháng 6 năm 1947, phụ phó tế 29 tháng 6 năm 1948 và 18 tháng 12 năm 1948 chức phó tế, và cuối cùng là linh mục ngày 29 tháng 5 1949 ở tuổi 25.
Vào tháng Sáu 1949, Tổng bề trên, Giám mục Charles Lemaire (1900-1995) sai Ngài sang Côn Minh, Vân Nam (Trung Quốc) và được tạm thời nhập Hội Thừa Sai ngày 18 tháng 9 năm 1949, một ngày sau ngày khởi hành sang Trung Quốc. Sau đó, ngài biết được là ĐGM Alexander Derouineau (1898-1973), được bổ nhiệm giám mục địa phận Côn Minh vào năm 1944, đã chỉ trích các vị bề trên của Paris đã gửi quá nhiều LM truyền giáo trẻ tuổi không lực lưỡng lắm (Côn Minh, Thành Phố của Mùa Xuân vĩnh cửu, có khí hậu rất tốt). Khi thấy Cha Radelet hùng mạnh đến nơi trong tháng 12 năm 1949, Đức Cha chắc đã có cảm tưởng là Ngài đã được các vị bề trên hội dòng đã nghe lời than của Ngài !
Hai tháng sau đó, vào tháng Hai năm 1950, Cộng quân đến đóng trại binh ở Côn Minh, làm cho vị thừa sai trẻ tuổi, sau sáu tháng học tiếng hoa tại tiểu chủng viện của Beilongtan, không thể làm được gì nhiều. Năm 1951, Đức Giám Mục Derouineau, cha Régis Moulin, hội dòng Thừa Sai (1908-1994) đương kim cho sở nhà thờ chánh toà, và cha Radelet bị bắt giam. Các vị bị quản thúc tại gia trong toà Giám Mục trong mười một tháng, nhiều lần bị tra vấn và bị kết án những hành động xấu do bịa đặt. Cuối cùng, một ngày trong năm 1952, một chiếc máy bay đưa các Ngài đến Trùng Khánh và từ đó các Ngài bị trục xuất sang Hồng Kông.
Tại Hồng Kông, Cha Paul Destombes (1902-1974), tổng đại diện, trao một sứ mệnh mới cho hai cha truyền giáo mới bị trục xuất khỏi Trung Quốc. Sau khi một vài tháng nghỉ ngơi tại Hồng Kông, các ngài đã ra đi trong nhiệm vụ mới. Và cha Radelet, 28 tuổi, đã được gửi đến Giáo phận Hưng Hóa, phía Tây Bắc của Hà Nội. Ngài hoạt động bảy năm ở Sơn Tây và Yên Khoái.
Mùa xuân năm 1953 Ngài đến Sơn Tây, và ở đó để học tiếng Việt cho đến khi Việt Minh đến đóng. Sau đó, Đức Cha Jean-Marie Mazé, Hội Dòng Thừa Sai Paris (1897-1964), Đại Diện Tông Tòa Hưng Hòa, gửi Ngài lên Yên Khoái để thay thế Cha Yves Tygréat (1925-1954), chết vì mìn vào ngày 22 tháng 7 năm 1954. Ngài ở đó cho đến năm 1959. Đến tháng 5 năm 1956 Cha bị cấm di chuyển và sau đó mỗi tháng ngài được phép lên toà Giám Mục Sơn Tây một ngày. Năm 1959 ngài phải ở đó vài tháng cho đến khi bị trục xuất khỏi miền Bắc Việt Nam vào năm 1960.
Nhiều năm sau, ngài kể lại : "Năm 1960, tôi bị đưa ra toà án nhân dân, một « màn kịch thích thú » kéo dài năm tiếng đồng hồ ! Ở đây tôi thực được « sờ thấy » Chúa Thánh Linh, vì chính Ngài « thổi » những câu trả lời của tôi cho những câu hỏi của những cán bộ Cộng sản! Tôi bị nhốt trong hai tháng, đến ngày được thà, tôi chỉ còn da bọc xương. Các "đồng chí" [Cộng Sản] đã phải từ bỏ kế hoạch của họ [là trục xuất tôi] vì máy bay bị hỏng, và tôi phải trở về tù trong vài ngày, nhưng tôi không thấy bực bội vì « cú đòn nhỏ» mà « máy trời » đã đánh các cai ngục của tôi. Rồi ngày định mệnh đã đến và dù chằng xin xỏ gì ai, tôi đã phải trở về Pháp quốc. "
Quay lại Việt Nam ở miền Nam lần này, cha Henri Radelet, tuổi 36, bắt đầu làm việc trong giáo phận Kontum, điểm đến thứ ba của ngài. Từ năm 1960 đến 1963, ngài ở Cheo Reo, giáo xứ Việt Nam của Cha Jacques Dournes, Hội Dòng Thừa Sai Paris (1922-1993), chăm sóc những người dân tộc. Cha Radelet bắt đầu công việc phục vụ người kinh, những người đã bị bỏ quên trước khi ngài tới. Từ 1963-1965, Ngài phục vụ tại Thuần Mẫn.
Năm 1965 cha Radelet được bổ nhiệm làm giáo sư tại tiểu chủng viện Kontum, được chuyển năm 1973 lên Đà Lạt vì chiến tranh. Ơn gọi thì rất nhiều, cả hai lớp đệ thất đều đầy mỗi năm. Ngài dạy tiếng Pháp cho các chủng sinh hai lớp đó. Cha tâm sự sau này: "thánh giá của tôi là sửa các bài viết, quá nhiều lỗi. Cha Alphonse Desroches (1922-1989) bấy giờ mới cho tôi thấy những bài làm của các chủng sinh lớp đệ tứ, trình độ thật khá hơn nhiều. Từ đó tôi biết cảm nhận điều hữu ích của công việc của tôi ". Một trong những học trò cũ của ngài viết: Cha Radelet rất vui tính và hiếm khi than phiền về cuộc sống hàng ngày tại Kontum, dù rất nghèo nàn và hiu quạnh."
Sự chiếm đóng Miền Nam Việt Nam bởi thể chế Hà Nội vào năm 1975 khiến ngài bị trục xuất lần thứ ba bởi một quyền lực cộng sản. Điểm thứ tư và cuối cùng mà cha Radelet được gửi đến là Tân Đảo hay Tân Thế Giới (New Caledonia hay Nouvelle-Calédonie thuộc Pháp). Cha Denys Cuenot, qua người thân là một Linh Mục dòng Maria cũng làm việc ở đó, đã là động cơ của sự gây dựng lại, tại đảo lớn này, một nhóm nhỏ các linh mục đồng nghiệp cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam như ngài. Đến Tân Đảo vào đầu tháng 5 năm 1975, Cha Cuenot đã liên tục tiếp đón các cha Pierre Jeanningros (1912-2006), Marius Boutary, Olivier Deschamps (1921-2007), Jean Kermarrec (1924-2014), và cuối cùng là các cha Radelet và Henri Paul Bardet (1922-1990). Cha Radelet sẽ nhiều lần đảm trách nhóm các linh mục dòng Thừa Sai này. Mỗi năm một lần, ngài tụ họp các bạn đồng nghiệp trong một bữa ăn và đôi khi Đức Giám Mục được mời đến tham dự buổi hội ngộ mà ngài rất thích.
Năm 1976 cha Radelet được 52 tuổi và gần 27 năm của cuộc đời truyền giáo, 3 năm ở Trung Quốc, 24 tại Việt Nam. Khi ngài đến Tân Đảo ngài đâu ngờ rằng ngài sẽ sống 73 đó hơn bốn mươi năm, còn lâu hơn cả ở châu Á.
Đức Giám Mục Eugene Klein, Tổng Giám Mục Noumea từ 1972 đến 1981 (tiền thân của Đức Giám Mục Michel Calvet), gửi cha tới làng Canala (cách thủ đô Nouméa hơn 16O cây sồ về phía bắc) với cha Jean Kermarrec, một nơi nổi tiếng là khó khăn. Cha Kermarrec rời Canala để tới làng Thio vào đầu tháng Ba năm 1987. Cha Henri Radelet ở lại đó mãi đến tháng Giêng năm 2010. Từ năm 1994, hai vị là hai người cuối cùng của nhóm HỘI DÒNG THỪA SAI PARIS vùng Tân Thế Giới ở lại trong nước.
Sau khi tham gia Đại Hội Dòng Thừa Sai Ba-Lê vào năm 1992, Cha Radelet sẽ không bao giờ trở về đất Pháp nữa. Niềm mong ước được chết trong sứ mệnh của ngài đã được toại nguyện. Mặc dù khoảng cách giữa ngài với các bạn đồng nghiệp sống trên các lục địa khác không cho phép các ngài gặp nhau, ngài vẫn luôn gắn bó cách sâu thẳm với Hội Dòng. Ngài luôn quan tâm đến những gì các vị đang sống và ngài đọc mỗi ngày sau kinh tối một kinh nguyện ngắn gọn kính Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng cho các mục vụ truyền giáo.
Cha Radelet là một mục tử hiền lành luôn lo lắng cho sự cứu rỗi của đàn chiên Chúa giao phó, không hề quản ngại nhọc nhằn để gặp họ, để tìm hiểu họ và phục vụ họ. Ngài thường đi đến mỗi bộ lạc, ít nhất mỗi tháng một lần, thăm người dân Canala, Méhové, Boikaine, Gelima, Mia, Nakéty, Copelia, Kéredji, Ného, Cayou, Emma, Raco, Kouaoua, Koh và Niéré. Ngài tìm đủ cách để biết các trẻ em bằng cách tụ tập chúng để trao đổi giáo lý.
Tại trung tâm của giáo xứ Canala, cha Radelet đã huy động các tín hữu để thay thế ngôi nhà thờ cổ đã được xây dựng vào năm 1926 bằng một nhà thờ rộng lớn hơn theo kiểu kiến trúc địa phương và đã được khánh thành năm 2002. Vì cha Radelet yêu tha nhân, ngài đau khổ trước những cơn đau huỷ hoại họ , vui mừng trước những tiến triển của họ, và ngài luôn cổ động các tín hữu sống cách trọn vẹn như là con cái của Thiên Chúa. Nếu ngài vui mừng vào năm 1976 khi được gửi tới Tân Thế Giới, mà ngài không biết chút gì, bởi vì ngài tìm thấy ở đó nhiều người Việt Nam, nhưng ngài cũng tìm cách làm quen người dân địa phương, mà ngài luôn tôn trọng một cách hết mực những quy tắc của cuộc sống chung.
Ngài nói với một cha đồng nghiệp năm 2006: "Tôi đã là nạn nhân đầu tiên của những biến cố tháng tư năm 1988. Có người đến để ăn cắp xe hơi của tôi. Tôi chỉ đủ thời giờ để hét lên : "Bạn trả lại cho tôi, tôi cần nó!". Vài giờ sau đó, chiếc xe bị đốt cháy trong một con mương. Một hành động vô căn cứ. " Tuy thế ngài đã không giữ oán giận, vì ngài đã từng chứng kiến nhiều hành động tương tự khi ngài còn là một nhà truyền giáo trẻ.
Sức khỏe của cha Radelet giảm mạnh vào cuối thập niên đầu của thế kỷ 21. Từ năm 2008, ngài không thể đi bộ mà không có một khung tập đi. Ngài đã phải nhiều thời gian nằm viện và phải nghỉ ở nhà dòng các sơ hèn mọn ở Noumea vào tháng Mười năm 2010. Sự ở không thật là một thử thách lớn cho ngài. Ngày 23 tháng 1 năm 2010, Cha Henri Radelet đã từ giã giáo xứ Canala thân yêu của mình. Ngài còn sống được sáu năm, được chăm sóc kỹ bởi các nữ tu và nhân viên của "Nhà mình", được đùm bọc bởi Đức Cha Michel Calvet và hàng giáo sĩ của ngài, và luôn luôn sung sướng khi đón tiếp các giáo dân cũ của mình ở giáo xứ Canala. Từ 2012 đến 2014, người bạn cũ của ngài là Cha Jean Kermarrec đã đến nghỉ chung với ngài trong nhà dòng.
Cuối năm 2015, sức khỏe của cha Henri Radelet càng giảm. Ngày 01 Tháng Hai 2016, ngài qua đời một cách êm ái trong phòng của ngài, tỉnh táo đến cùng. Thi hài ngài được chôn cất tại nghĩa trang giáo xứ Canala chờ ngày sống lại đầy hạnh phước. "Đó là một nhà truyền giáo thực sự, và ngài rất thương người", là lời của một nhà truyền giáo đồng nghiệp khi nhớ về cha Radelet. Lạy Chúa, xin cho ngài đầy hồng ân của Chúa đến muôn đời !
Anh trai của ông bố Charles Radelet, dòng Thừa Sai (MEP) (1886-1940) sau đó đã được đi truyền đạo ở Bắc Kỳ kể từ năm 1910, với sự gián đoạn 1914-1918 vì bị động viên phải về Pháp thời thế chiến I. Năm 1937 ngài nhập tu-viện Phước-Sơn và qua đời tại Hà Nội vào năm 1940.
Ông Bà Radelet có sáu người con, năm trai và một gái. Bà Radelet chết sớm khi sinh đứa con thứ bảy của họ. Họ là những Kitô hữu sùng đạo. Con gái của họ trở thành một nữ tu của Nữ tu viện thừa sai và cha Henri nhập dòng Thừa Sai như Bác của Ngài. Ngài đã có ý đi tu dòng này từ lúc sáu tuổi.
Bé Henry đã được rửa tội ngày hôm sau ngày sinh, 26 tháng 1 năm 1924, tại nhà thờ Thánh Remy de Thilay, thuộc tổng Giáo Phận Reims. Ngài chịu phép thêm sức ở Reims vào năm 1933 và rước lễ lần đầu vào năm 1935. Sau khi học hết tiểu học tại trường thánh Gioan Baotixita de la Salle do các Sư-Huynh đảm trách, cậu Henry đã học các lớp trung học liên tiếp trong ba tiểu chủng viện, tiểu chủng viện của Giáo Phận Reims từ 1936-1939, và trong các lớp tại dòng Thừa Sai từ 1939-1944 tại Menil-Flin (vùng Meurthe-et-Moselle) và tiểu chủng viện Beaupréau (vùng Maine-et-Loire).
Ngài nhập Đại Chủng viện Thừa Sai Paris ngày 15 tháng 11 năm 1944. Lớp 1924 được miễn nghĩa vụ quân sự, nên việc thụ huấn cho chức vụ linh mục của Ngài không bi gián đoạn. Ngài chịu chức cắt tóc ngày 22 Tháng 12 năm 1945, chức đọc sách ngày 29 tháng 6 năm 1946, chức giúp lễ ngày 28 tháng 6 năm 1947, phụ phó tế 29 tháng 6 năm 1948 và 18 tháng 12 năm 1948 chức phó tế, và cuối cùng là linh mục ngày 29 tháng 5 1949 ở tuổi 25.
Vào tháng Sáu 1949, Tổng bề trên, Giám mục Charles Lemaire (1900-1995) sai Ngài sang Côn Minh, Vân Nam (Trung Quốc) và được tạm thời nhập Hội Thừa Sai ngày 18 tháng 9 năm 1949, một ngày sau ngày khởi hành sang Trung Quốc. Sau đó, ngài biết được là ĐGM Alexander Derouineau (1898-1973), được bổ nhiệm giám mục địa phận Côn Minh vào năm 1944, đã chỉ trích các vị bề trên của Paris đã gửi quá nhiều LM truyền giáo trẻ tuổi không lực lưỡng lắm (Côn Minh, Thành Phố của Mùa Xuân vĩnh cửu, có khí hậu rất tốt). Khi thấy Cha Radelet hùng mạnh đến nơi trong tháng 12 năm 1949, Đức Cha chắc đã có cảm tưởng là Ngài đã được các vị bề trên hội dòng đã nghe lời than của Ngài !
Hai tháng sau đó, vào tháng Hai năm 1950, Cộng quân đến đóng trại binh ở Côn Minh, làm cho vị thừa sai trẻ tuổi, sau sáu tháng học tiếng hoa tại tiểu chủng viện của Beilongtan, không thể làm được gì nhiều. Năm 1951, Đức Giám Mục Derouineau, cha Régis Moulin, hội dòng Thừa Sai (1908-1994) đương kim cho sở nhà thờ chánh toà, và cha Radelet bị bắt giam. Các vị bị quản thúc tại gia trong toà Giám Mục trong mười một tháng, nhiều lần bị tra vấn và bị kết án những hành động xấu do bịa đặt. Cuối cùng, một ngày trong năm 1952, một chiếc máy bay đưa các Ngài đến Trùng Khánh và từ đó các Ngài bị trục xuất sang Hồng Kông.
Tại Hồng Kông, Cha Paul Destombes (1902-1974), tổng đại diện, trao một sứ mệnh mới cho hai cha truyền giáo mới bị trục xuất khỏi Trung Quốc. Sau khi một vài tháng nghỉ ngơi tại Hồng Kông, các ngài đã ra đi trong nhiệm vụ mới. Và cha Radelet, 28 tuổi, đã được gửi đến Giáo phận Hưng Hóa, phía Tây Bắc của Hà Nội. Ngài hoạt động bảy năm ở Sơn Tây và Yên Khoái.
Mùa xuân năm 1953 Ngài đến Sơn Tây, và ở đó để học tiếng Việt cho đến khi Việt Minh đến đóng. Sau đó, Đức Cha Jean-Marie Mazé, Hội Dòng Thừa Sai Paris (1897-1964), Đại Diện Tông Tòa Hưng Hòa, gửi Ngài lên Yên Khoái để thay thế Cha Yves Tygréat (1925-1954), chết vì mìn vào ngày 22 tháng 7 năm 1954. Ngài ở đó cho đến năm 1959. Đến tháng 5 năm 1956 Cha bị cấm di chuyển và sau đó mỗi tháng ngài được phép lên toà Giám Mục Sơn Tây một ngày. Năm 1959 ngài phải ở đó vài tháng cho đến khi bị trục xuất khỏi miền Bắc Việt Nam vào năm 1960.
Nhiều năm sau, ngài kể lại : "Năm 1960, tôi bị đưa ra toà án nhân dân, một « màn kịch thích thú » kéo dài năm tiếng đồng hồ ! Ở đây tôi thực được « sờ thấy » Chúa Thánh Linh, vì chính Ngài « thổi » những câu trả lời của tôi cho những câu hỏi của những cán bộ Cộng sản! Tôi bị nhốt trong hai tháng, đến ngày được thà, tôi chỉ còn da bọc xương. Các "đồng chí" [Cộng Sản] đã phải từ bỏ kế hoạch của họ [là trục xuất tôi] vì máy bay bị hỏng, và tôi phải trở về tù trong vài ngày, nhưng tôi không thấy bực bội vì « cú đòn nhỏ» mà « máy trời » đã đánh các cai ngục của tôi. Rồi ngày định mệnh đã đến và dù chằng xin xỏ gì ai, tôi đã phải trở về Pháp quốc. "
Quay lại Việt Nam ở miền Nam lần này, cha Henri Radelet, tuổi 36, bắt đầu làm việc trong giáo phận Kontum, điểm đến thứ ba của ngài. Từ năm 1960 đến 1963, ngài ở Cheo Reo, giáo xứ Việt Nam của Cha Jacques Dournes, Hội Dòng Thừa Sai Paris (1922-1993), chăm sóc những người dân tộc. Cha Radelet bắt đầu công việc phục vụ người kinh, những người đã bị bỏ quên trước khi ngài tới. Từ 1963-1965, Ngài phục vụ tại Thuần Mẫn.
Năm 1965 cha Radelet được bổ nhiệm làm giáo sư tại tiểu chủng viện Kontum, được chuyển năm 1973 lên Đà Lạt vì chiến tranh. Ơn gọi thì rất nhiều, cả hai lớp đệ thất đều đầy mỗi năm. Ngài dạy tiếng Pháp cho các chủng sinh hai lớp đó. Cha tâm sự sau này: "thánh giá của tôi là sửa các bài viết, quá nhiều lỗi. Cha Alphonse Desroches (1922-1989) bấy giờ mới cho tôi thấy những bài làm của các chủng sinh lớp đệ tứ, trình độ thật khá hơn nhiều. Từ đó tôi biết cảm nhận điều hữu ích của công việc của tôi ". Một trong những học trò cũ của ngài viết: Cha Radelet rất vui tính và hiếm khi than phiền về cuộc sống hàng ngày tại Kontum, dù rất nghèo nàn và hiu quạnh."
Sự chiếm đóng Miền Nam Việt Nam bởi thể chế Hà Nội vào năm 1975 khiến ngài bị trục xuất lần thứ ba bởi một quyền lực cộng sản. Điểm thứ tư và cuối cùng mà cha Radelet được gửi đến là Tân Đảo hay Tân Thế Giới (New Caledonia hay Nouvelle-Calédonie thuộc Pháp). Cha Denys Cuenot, qua người thân là một Linh Mục dòng Maria cũng làm việc ở đó, đã là động cơ của sự gây dựng lại, tại đảo lớn này, một nhóm nhỏ các linh mục đồng nghiệp cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam như ngài. Đến Tân Đảo vào đầu tháng 5 năm 1975, Cha Cuenot đã liên tục tiếp đón các cha Pierre Jeanningros (1912-2006), Marius Boutary, Olivier Deschamps (1921-2007), Jean Kermarrec (1924-2014), và cuối cùng là các cha Radelet và Henri Paul Bardet (1922-1990). Cha Radelet sẽ nhiều lần đảm trách nhóm các linh mục dòng Thừa Sai này. Mỗi năm một lần, ngài tụ họp các bạn đồng nghiệp trong một bữa ăn và đôi khi Đức Giám Mục được mời đến tham dự buổi hội ngộ mà ngài rất thích.
Năm 1976 cha Radelet được 52 tuổi và gần 27 năm của cuộc đời truyền giáo, 3 năm ở Trung Quốc, 24 tại Việt Nam. Khi ngài đến Tân Đảo ngài đâu ngờ rằng ngài sẽ sống 73 đó hơn bốn mươi năm, còn lâu hơn cả ở châu Á.
Đức Giám Mục Eugene Klein, Tổng Giám Mục Noumea từ 1972 đến 1981 (tiền thân của Đức Giám Mục Michel Calvet), gửi cha tới làng Canala (cách thủ đô Nouméa hơn 16O cây sồ về phía bắc) với cha Jean Kermarrec, một nơi nổi tiếng là khó khăn. Cha Kermarrec rời Canala để tới làng Thio vào đầu tháng Ba năm 1987. Cha Henri Radelet ở lại đó mãi đến tháng Giêng năm 2010. Từ năm 1994, hai vị là hai người cuối cùng của nhóm HỘI DÒNG THỪA SAI PARIS vùng Tân Thế Giới ở lại trong nước.
Sau khi tham gia Đại Hội Dòng Thừa Sai Ba-Lê vào năm 1992, Cha Radelet sẽ không bao giờ trở về đất Pháp nữa. Niềm mong ước được chết trong sứ mệnh của ngài đã được toại nguyện. Mặc dù khoảng cách giữa ngài với các bạn đồng nghiệp sống trên các lục địa khác không cho phép các ngài gặp nhau, ngài vẫn luôn gắn bó cách sâu thẳm với Hội Dòng. Ngài luôn quan tâm đến những gì các vị đang sống và ngài đọc mỗi ngày sau kinh tối một kinh nguyện ngắn gọn kính Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng cho các mục vụ truyền giáo.
Cha Radelet là một mục tử hiền lành luôn lo lắng cho sự cứu rỗi của đàn chiên Chúa giao phó, không hề quản ngại nhọc nhằn để gặp họ, để tìm hiểu họ và phục vụ họ. Ngài thường đi đến mỗi bộ lạc, ít nhất mỗi tháng một lần, thăm người dân Canala, Méhové, Boikaine, Gelima, Mia, Nakéty, Copelia, Kéredji, Ného, Cayou, Emma, Raco, Kouaoua, Koh và Niéré. Ngài tìm đủ cách để biết các trẻ em bằng cách tụ tập chúng để trao đổi giáo lý.
Tại trung tâm của giáo xứ Canala, cha Radelet đã huy động các tín hữu để thay thế ngôi nhà thờ cổ đã được xây dựng vào năm 1926 bằng một nhà thờ rộng lớn hơn theo kiểu kiến trúc địa phương và đã được khánh thành năm 2002. Vì cha Radelet yêu tha nhân, ngài đau khổ trước những cơn đau huỷ hoại họ , vui mừng trước những tiến triển của họ, và ngài luôn cổ động các tín hữu sống cách trọn vẹn như là con cái của Thiên Chúa. Nếu ngài vui mừng vào năm 1976 khi được gửi tới Tân Thế Giới, mà ngài không biết chút gì, bởi vì ngài tìm thấy ở đó nhiều người Việt Nam, nhưng ngài cũng tìm cách làm quen người dân địa phương, mà ngài luôn tôn trọng một cách hết mực những quy tắc của cuộc sống chung.
Ngài nói với một cha đồng nghiệp năm 2006: "Tôi đã là nạn nhân đầu tiên của những biến cố tháng tư năm 1988. Có người đến để ăn cắp xe hơi của tôi. Tôi chỉ đủ thời giờ để hét lên : "Bạn trả lại cho tôi, tôi cần nó!". Vài giờ sau đó, chiếc xe bị đốt cháy trong một con mương. Một hành động vô căn cứ. " Tuy thế ngài đã không giữ oán giận, vì ngài đã từng chứng kiến nhiều hành động tương tự khi ngài còn là một nhà truyền giáo trẻ.
Sức khỏe của cha Radelet giảm mạnh vào cuối thập niên đầu của thế kỷ 21. Từ năm 2008, ngài không thể đi bộ mà không có một khung tập đi. Ngài đã phải nhiều thời gian nằm viện và phải nghỉ ở nhà dòng các sơ hèn mọn ở Noumea vào tháng Mười năm 2010. Sự ở không thật là một thử thách lớn cho ngài. Ngày 23 tháng 1 năm 2010, Cha Henri Radelet đã từ giã giáo xứ Canala thân yêu của mình. Ngài còn sống được sáu năm, được chăm sóc kỹ bởi các nữ tu và nhân viên của "Nhà mình", được đùm bọc bởi Đức Cha Michel Calvet và hàng giáo sĩ của ngài, và luôn luôn sung sướng khi đón tiếp các giáo dân cũ của mình ở giáo xứ Canala. Từ 2012 đến 2014, người bạn cũ của ngài là Cha Jean Kermarrec đã đến nghỉ chung với ngài trong nhà dòng.
Cuối năm 2015, sức khỏe của cha Henri Radelet càng giảm. Ngày 01 Tháng Hai 2016, ngài qua đời một cách êm ái trong phòng của ngài, tỉnh táo đến cùng. Thi hài ngài được chôn cất tại nghĩa trang giáo xứ Canala chờ ngày sống lại đầy hạnh phước. "Đó là một nhà truyền giáo thực sự, và ngài rất thương người", là lời của một nhà truyền giáo đồng nghiệp khi nhớ về cha Radelet. Lạy Chúa, xin cho ngài đầy hồng ân của Chúa đến muôn đời !