Tầu du lịch Zuiderdam bắt đầu vào vịnh Venice lúc 9:30 sáng ngày 25/9/2015, Captain mời du khách lên tầng 10 đứng ở lan-can hay vào phòng quan sát để nghe thuyền trưởng bình luận và giải thích cảnh vật xung quanh khi con tầu đang tiến vào Venice. Tuy đã hơn 9:30 sáng, nhưng bầu trời có mây và sương mù bao phủ nên cảnh vật chung quanh xem không được tốt lắm. Tuy nhiên đứng ở lầu 10 trên tầu du lịch quan sát được mọi thứ trong toàn cảnh thành Venice. Phải nói là cuộc "vào thành vinh quang hoành tráng"!.
Hình ảnh
Tầu đi chậm chậm nên phải mất hơn 1 giờ mới cập bến Venice, đang khi đó các canô nhỏ, thuyền buồm và những ghe máy được các bạn Í-tả-lồ lái rất bay bướm vuợt qua lướt lại dưới bóng tầu du lịch.
Khi tầu du lịch cập bến xong, chúng tôi nghỉ ngơi, ăn trưa xong, rồi lấy tầu nhỏ hơn đi chu du qua các con kênh và chu vi thành phố cho biết. Trên trời vẫn còn nặng trĩu mây, nhưng đường chân trời thành phố Venice vẫn hiện rõ nét với cả trăm ngọn tháp cao, lớn nhỏ khác nhau... Tôi đã từng đi thăm nhiều thành phố, nhưng có lẽ chưa có thành phố nào có nhiều tháp chuông và nhà thờ chi chít như ở Venice.
Tầu nhỏ chở chúng tôi một vòng quanh qua các đảo chính của thành phố... Tha hồ mà chụp hình... Tất cả các nhà thờ và tháp chuông, cũng như những dinh thự nguy nga đều hiện ra bên hai bờ sông cho khách chiêm ngưỡng. Vì quá nhiều nhà thờ, nên không thể nhớ hết các tên các nhà thờ được. Tuy nhiên khi nói về Venice không thể không nói tới nhà thờ thánh Marcô, tháp chuông và công trường nhà thờ chính tòa này. Từ tầu nhỏ nhìn vào công trường thấy từng tốp ngưòi đông đúc, nhóm này nối đuôi theo nhóm khác.
Một ngày thăm viếng Venice với cảnh quan toàn diện, tôi nói với mình "nhất định ngày mai sẽ cuốc bộ đi chu du một vòng nữa cho biết và hy vọng trời sẽ đẹp hơn".
Hôm sau, ăn điểm tâm xong, tôi sửa soạn hành tranh tiến vào thành phố. Dù có bản đồ chi tiết về đường xá và các dinh thự của thành phố, nhưng khi vào thực tế thì khó mà nhận định ra các con đường. Tất cả các đường hay kênh trong thành đều xem ra có vẻ quanh co vòng vèo, do vậy tôi quyết định, cứ nhìn xem khi nào thấy tháp cao nhà thờ thì mình theo hướng đó tiến tới. Do vậy tôi đã đi thăm được nhiều nhà thờ.
Khi ra khỏi nhà thờ mốn biết hướng nào mình sẽ đi tới thì chỉ cần nhìn các góc đường thế nào cũng có chữ "per San Marco" với mũi tên, và cứ vậy mà đi.
Qua các con đường tiến về công trường San Marco, người đi như nước chảy, tuy đường hẹp, nhưng các cửa hàng dù nhỏ cũng luôn được trang trí rất nghệ thuật và bắt mắt. Đa phần là các tiệm bán quần áo thời trang, đồ bằng da, giầy, các tiệm bán sản phẩm thủy tinh, vải vóc và nhất là vải trang trí mắc tiền, các tiệm bán đồ kỉ niệm.
Nói đến Venice không thể không nói đến các Hotel sang trọng và các quán ăn đắt tiền. Đi trên bờ Grand Canal (Kênh Lớn) du khách sẽ thấy nhiều nhà hàng với các bàn ăn được trang trí hoa tươi, tiếp viên lịch sự, đặc sản cá vùng Venice được trình bầy bắt mắt với miệng cá còn mở toang ra chào khách, những con cua to bằng bàn tay, những con tôm hùm càng còn bị trói chặt... cho khách tự lựa chọn.
Một trong những đặc sản rất gần gũi với người Việt mà tôi chưa từng thấy ở nơi khác là cả một khe hoa bí và hoa mướp được trưng rất mời gọi ngay trước bàn ăn... Hoa bí xào với "đùi ếch" hay với "ba ba" hoặc là "mực non với tỏi thêm chút rượu vang vàng" đưa lên chiếc "gondola" vừa lai rai vừa ngắm cảnh thì hết xẩy!
Vừa bước đi và vừa suy nghĩ miên man như vậy rồi tôi đã tới công trường thánh Marcô lúc nào không biết! Trước mặt cả là một rừng người... Tuy nhiên vì nhiều nơi trên bề mặt công trường có nước bao phủ, nên du khách tránh những vùng nước đọng này. Một vài tiệm ăn lớn có nhạc công đang thi thố tài năng cho khách thưởng thức, đang khi đó các nhóm du lịch khác nhau đang được các hướng dẫn viên giải thích... qua đây là nhóm tiếng Ý, tới kia là tiếng Đức, tiếng Anh, rồi chỗ kia là nhóm Tầu, nhóm Nhật,... và nhiều thứ tiếng nghe mà chẳng hiểu, nhìn mà không biết, có lẽ là Ả rập?
Nói về Venice, về những kỳ công kiệt tác ở đây, những nghệ thuật và truyền thống, nói về ăn uống và đồ làm kính hay chai mầu... các đặc sản thì không bao giờ đủ...
Venice là một trong những điểm du lịch quan trọng nhất trên thế giới về nghệ thuật nổi tiếng của mình và kiến trúc. Thành phố có trung bình 70.000 khách du lịch mỗi ngày và mỗi năm có tới trên 3 triệu lượt Nó được coi là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới.
Tuy nhiên, Venice vì là điểm đến du lịch lớn trên toàn thế giới cũng đã gây ra một số vấn đề, bao gồm cả thực tế là thành phố có thể rất đông đúc tại một số điểm trong năm. Sự cần thiết để cân bằng thu du lịch tàu biển với bảo vệ kênh đào mỏng manh của thành phố Venice đã là bài toán nhức đầu cho chính quyền sở tại. Bộ Giao thông vận tải Ý đề nghị lệnh cấm trên tàu du lịch lớn đến thăm thành phố, nhưng điều này sẽ gây khó khắn cho kinh tế của thành phố. Thành phố cũng đang xem xét một lệnh cấm những vali có bánh xe, khi lội trên các con đường sẽ làm rung chuyển nền tảng của Venice, nhưng giải quyết về việc cấm vali có bánh xe sẽ làm khó khăn cho việc vận chuyển đồ đạc và hàng hóa...
Nói về Venice không thề không nói về yếu tố quan trọng là nước, các kênh và thuyền gondola.
Venice được xây dựng trên một quần đảo gồm 117 hòn đảo được hình thành bởi 177 kênh nước, được kết nối bởi 409 cây cầu. Trong các trung tâm cũ, những kênh đào nhằm phục vụ cho việc giao thông, và gần như tất cả các hình thức vận chuyển đều ở trên mặt nước hoặc là đi bộ.
Trong thế kỷ 19, một đường đắp cao nối đại lục từ nhà ga Venezia Santa Lucia đến Venice, và con đường đắp cao có tên Ponte della Libertà dẫn đến chỗ đỗ xe tại đảo Tronchetto và ở Piazzale Roma được xây dựng trong thế kỷ 20. Vượt ra ngoài đường và đất đường sắt lối vào ở rìa phía bắc của thành phố, giao thông vận tải trong phần còn lại của thành phố hoàn toàn bằng đường nước hoặc đi bộ. Venice là thành phố hoạt động duy nhất trong thế kỷ 21 hoàn toàn không có ôtô hay xe tải.
Các thuyền người Venetian cổ điển có tên là gondola, (số nhiều: Gondole) ngày nay chủ yếu sử dụng cho các khách du lịch, hoặc cho đám cưới, đám tang, các nghi lễ khác, hoặc là 'traghetti' (hát chèo thuyền traghetto khi qua các kênh.
Nhiều gondola được trang bị ghế nhung và và thảm Ba Tư cho khách du lịch thưởng ngoạn. Ít được biết đến là thuyền nhỏ hơn được gọi là "sandolo". Ở phía trước của mỗi thuyền gondola có một biểu tượng của thành phố, đó là một mảnh kim loại lớn làm bằng cốt thép hoặc sắt. Hình dạng của nó đã phát triển qua nhiều thế kỷ, như tài liệu trong nhiều bức tranh nổi tiếng. Hình thù của nó, biến đổi qua thời gian, nhưng dần dần đã được tiêu chuẩn hóa: tượng trưng bằng hình chiếu mũ của "Duce - thủ lãnh". Nó bao gồm sáu thanh hướng về phía trước đại diện khu Sestieri của thành phố, và một trong thanh đại diện cho khu Giudecca.
Vài dòng lịch sử thành Venice
Tôi đã cố gằng thu thập những dữ kiện từ nhiều nguồn và muốn trình bày cho anh chị em độc giả VietCatholic những nét chính về kinh thành nổi tiếng này như sau.
Thành Venice (tiếng Ý là Venezia, và tiếng Latin gọi là Venetiae) là một thành phố ở đông bắc Italy, gồm một nhóm 117 hòn đảo nhỏ cách nhau bởi kênh rạch và được liên kết bằng cầu, nó nằm ở giữa các cửa sông Po và sông Piave. Venice nổi tiếng là thành phố trên nước với vẻ đẹp thơ mộng với các kiến trúc tinh xảo và nhiều tác phẩm nghệ thuật, và một thời là đế chế hùng mạnh nhờ lực lượng thủy quân và những đội chiến thuyền trội vượt nên đã bá chủ một miền rộng lớn khắp vùng Andriatic sang tận miền Trung Đông và Merritarenian. Trở thành đế chế hùng mạnh và là thành phố giầu có nhất thiên hạ vào thời Trung cổ, trước khi nhường chỗ cho các đế chế tân lập của Tây ban nha, Pháp và Anh quốc. Toàn bộ thành phố Venice được liệt kê như là một di sản thế giới.
Venice đã được biết đến như là "La Dominante - Thống trị", "Queen of the Adriatic - Nữ hoàng của vùng Adriatic", "Thành phố của nước", và nhiều danh xưng khác như: "Thành phố của mặt nạ", "Thành phố của Cầu", "Thành phố nổi", và "Thành phố của kênh rạch ".
Ông Luigi Barzini từng mô tả Venice trên tờ The New York Times là "chắc chắn đây là thành phố đẹp nhất được xây dựng bởi tay loài người". Và thành Venice cũng thường được mô tả là một trong những thành phố lãng mạn nhất của Châu Âu.
Venice là thủ phủ của vùng Veneto với dân số chừng 270.000 người sống trong đô thị của Venice (dân số của toàn bộ quận hạt của Venezia) riêng tại thành phố lịch sử của Venice (Centro Storico) dân số ước lượng khoảng 60.000 người.
Nguồn gốc tên Venezia có nguồn từ những người cổ đại Veneti, đó là những người dân sống ở khu vực này vào thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên.
Trước đây Cộng hòa Venice từng là đế chế với sức mạnh lớn lao trên biển khơi thời Trung cổ và Phục hưng. Chính từ Venice như một bàn đạp cho các cuộc Thập tự chinh. Venice cũng từng là trung tâm quan trọng của thương mại về lụa, ngũ cốc, và gia vị. Điều này đã làm Venice trở thành một thành phố giàu có nhất trong suốt lịch sử hiện diện của mình. Venice cũng là trung tâm nghệ thuật từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 17, đặc biệt là thời kỳ Phục hưng. Venice đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của âm nhạc giao hưởng và opera, và chính tại đây nhạc sĩ trứ danh Antonio Vivaldi đã chào đời.
Người Veneti cự ngụ ở đây rất sớm từ khoảng 150 trước Công nguyên đã ghi lại là họ sống trong khu vực Quadi và Marcomanni và nay là khu Oderzo hiện hành.
Venice bị của những người Visigoth lật đổ vào đầu thế kỷ thứ 5, và khoảng 50 năm sau, bởi người Hung do Attila cầm đầu.
Rồi đến người Lombardi cư ngụ ở đây trong thời gian dài nhất từ năm 568 trở đi.
Tiếp đến được sát nhập vào lãnh thổ của đế chế Byzantine và được coi là thành phần của Tổng giáo phận Công Giáo mà ngai tòa đặt ở Ravenna, được giám sát bởi một vị phó vương (các thống đốc) do Hoàng đế ở Constantinople bổ nhiệm, nhưng Ravenna và Venice chỉ được nối với nhau bằng đường biển; và với vị trí cô lập, nên Venice hầu như phần nào được tự chủ.
Các vị tổng trấn đầu tiên của Venice là Paolo Lucio Anafesto và Marcello Tegalliano, được gọi là Magister militum (nghĩa đen là "Chủ tể binh lính").
Sau này có ông Ursus là người đầu tiên của 117 "Dux" (thủ lãnh) của Venice được ban chức như vậy. Tiếng Ý là "Duce" và tiếng Anh là "doges" nguyên ngữ Latin là "Dux". Dux Ursus hỗ trợ Hoàng đế Leo III trong cuộc viễn chinh quân sự thành công để phục hồi Ravenna. Để ghi nhận công ơn này, Venice đã được "cấp nhiều đặc quyền" và Ursus, người đã đích thân ủng hộ hoàng đế Leo được ban thêm tước "Hypatus Dux" (tiếng Hy Lạp là "Tổng thủ lãnh".
Trong thời Hoàng đế Charlemagne và Hoàng đế Nicephorus Byzantine vào đầu thế kỷ thứ 9 đã đồng ý với Các Đức Giáo Hoàng công nhận Venice là lãnh thổ của Byzantine và được cấp quyền kinh doanh thành phố dọc bờ biển Adriatic.
Trong năm 828 uy tín của thành phố Venice được tăng lên với việc mua lại các di tích thánh được cho là của thánh Marcô thánh sử từ thành Alexandria bên Ai cập. Di tích thánh được đặt trong nhà thờ mới. Ngày nay ở mặt tiền nhà thờ chúng ta nhìn thấy tượng Sư tử với cánh bằng vàng đó là tượng trưgn cho thánh Marco, và trên cờ của Thành phố Venice cũng là hình sư tử mầu vàng. Tại mặt tiền của nhà thờ du khách cũng thấy có 4 con ngựa của Thánh Marcô, đây là bản sao những con ngựa nguyên thủy có tên Triumphal Quadriga "tứ ngọ bách thắng", những con ngựa bị lấy đi từ thành Constantinople và được đưa về Venice vào năm 1204 khi Venice thắng trận ở đó.
Từ ngày 9 đến thế kỷ thứ 12, Venice phát triển thành một Nhà nước thành phố (một thalassocracy Ý hoặc Repubblica Marinara). Vị trí chiến lược ở điểm đầu của Adriatic với sức mạnh hải quân và thương mại Venice gần như bất khả xâm phạm.
Venice đã loại bỏ được những tên cướp biển dọc theo bờ biển Dalmatian, thành phố trở thành một trung tâm thương mại hưng thịnh giữa Tây Âu và phần còn lại của thế giới (đặc biệt là Đế chế Byzantine và châu Á) với một lực lượng hải quân bảo vệ các tuyến đường biển mà không bị quân Hồi giáo xâm phạm.
Venice trở thành một đế quốc sau Thập Tự Chinh lần thứ 4, khi đó lên đến đỉnh điểm trong năm 1204 qua việc chiến thắng và loại trừ đế chế Constantinople và thiết lập đế chế Latin.
Sau sự sụp đổ của đế chế Constantinople, cựu đế chế La Mã đã được phân phối lại và trọng tâm ở cả Roma và cả ở Venice.
Việc chiến thắng Constantinople đã là một yếu tố quyết định trong việc chấm dứt đế quốc Byzantine và ảnh hưởng từ Anatolia.
Nằm trên bờ biển Adriatic, Venice luôn luôn giao dịch rộng rãi với Đế quốc Byzantine và thế giới Hồi giáo. Vào cuối thế kỷ thứ 13, Venice là thành phố thịnh vượng nhất ở châu Âu. Ở đỉnh cao của quyền lực và sự giàu có, Venice lúc đó có đến 36.000 thủy thủ vận hành 3.300 tàu, thống trị thương mại Địa Trung Hải.
Các gia đình hàng đầu của Venice tranh nhau xây dựng các cung điện vĩ đại nhất và hỗ trợ công trình của các nghệ sĩ vĩ đại nhất và tài năng nhất. Thành phố được điều hành bởi Đại Hội đồng chỉ đạo, mà các thành viên là từ các gia đình quý tộc của Venice. Đại Hội đồng bổ nhiệm tất cả các công chức và bầu các thành phần trong Thượng viện gồm từ 200 đến 300 cá nhân. Tuy nhiên thành phần Thượng viện quá lớn không thể điều hành chính quyền hiệu quả, nên vì thế một Hội Đồng Mười (còn gọi là Hội đồng Ducal hoặc Signoria) được đặt ra để điều hành và kiểm soát chính quyền của thành phố. Một thành viên của Hội đồng Mười này được bầu làm "Duce" (thủ lãnh) vị này thường giữ danh hiệu "Duce" cho đến khi ông qua đời; mặc dù một số Duce buộc phải từ chức và nghỉ hưu vào sống ẩn dật tu viện khi họ bị mất uy tín bởi sự thất bại chính trị của họ.
Các cơ cấu chính phủ Venice thời ấy tương tự như hệ thống cộng hòa La Mã cổ đại, với một thủ lãnhđược bầu điều hành (các Duce), một hội nghị viện như của quý tộc, và một số thành phần công dân với quyền lực chính trị hạn chế.
Giáo Hội và các đại gia có tài khác nhau ở Venice thường được gắn liền với nghĩa vụ quân sự, mặc dù không quy định nhiệm kỳ của Hiệp sĩ tại thành phố Venice, nhưng các Hiệp sĩ thánh Marcô (Cavalieri di San Marco) là Đoàn các Hiệp sĩ duy nhất được thiết lập ở Venice, và không ai hay một công dân Venice nào có thể nhận hoặc gia nhập tước Hiệp sĩ nào khác mà không có sự đồng ý của chính phủ thành phố.
Khi máy in mới được phát minh ở Đức, nó đã lan rộng khắp châu Âu trong thế kỷ 15, và Venice đã nhanh chóng chấp nhận nó và vào năm 1482, Venice trở thành thủ đô in ấn của thế giới, và các máy in hàng đầu do Aldus Manutius, người có công in ấn các cuốn sách bìa mềm có thể đem đi du lịch và đọc ở bất cứ nơi đâu. Các ấn bản Aldine của ông bao gồm các bản dịch của gần như tất cả các kiệt tác cổ đại của Hy Lạp được biết đến trong thời đói.
Sự suy giảm ảnh hưởng của Venice bắt đầu vào thế kỷ 15, khi nỗ lực của Venice không thành công giữ thành Thessalonica chống lại Đế quốc Ottoman (1423-1430). Venice cũng gửi tàu giúp bảo vệ chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây Constantinople vào năm 1453. Sau khi Constantinople thất thù vào tay Sultan Mehmet II, vị thủ lãnh này lập tức tuyên chiến với Venice. Cuộc chiến kéo dài 30 năm và làm kiệt kinh phí của Venice.
Tiếp theo, Christopher Columbus khám phá ra thế giới mới America vào năm 1492. Sau đó, Vasco da Gama của Bồ Đào Nha tìm thấy một tuyến đường biển đến Ấn Độ bằng cáchđi vòng qua Cape of Good Hope trong chuyến đi đầu tiên của mình kéo dài từ 1497 đến 1499. Những sự kiện này đã phá hủy đường đất độc quyền của đế chế Venice. Tiếp theo các quốc gia như Pháp, Anh và Cộng hòa Hà Lan đi tìm tiếp thu thuộc địa. Đoàn tầu của Venice với mái chèo, tuy dù mạnh, nhưng so với sức mạnh thủy quân mới của các quốc gia mới tân trang tỏ ra bất lợi khi phải vượt qua các đại dương lớn, và do đó Venice đã bị bỏ lại phía sau trong cuộc chạy đua đi chiếm các thuộc địa.
Dịch Chết Đen tàn phá Venice vào năm 1348 và một lần nữa giữa năm 1575 và 1577. Trong ba năm, các bệnh dịch hạch giết chết khoảng 50.000 người. Năm 1630, bệnh dịch hạch giết chết một phần ba số 150.000 dân của Venice nữa. Từ đó Venice bắt đầu để mất vị trí là một trung tâm thương mại quốc tế trong giai đoạn sau của thời kỳ Phục hưng, khi Bồ Đào Nha trở thành trung gian chính của châu Âu trong việc buôn bán với phương Đông. Điều này tấn công chính vào nền tảng sự giàu và sức mạnh tuyệt vời của Venice trước đây. Dù vậy Venie vẫn được coi là một nước xuất khẩu chính các sản phẩm nông nghiệp, và cho tới giữa thế kỷ 18, một trung tâm sản xuất đáng kể.
Trong suốt thế kỷ 18, Venice được coi là thành phố thanh lịch và tinh tế nhất ở châu Âu, ảnh hưởng rất lớn về nghệ thuật, kiến trúc và văn học. Nhưng Cộng hòa Venice mất sự độc lập của mình khi Napoleon Bonaparte chinh phục Venice vào ngày 12 tháng 5 năm 1797. Napoleon được coi như người giả phóng khu Ghetto của người Do Thái trong thành phố, mặc dù người Do thái từng sống ở đây mà không bị hạn chế gì nhiều.
Venice lại trở thành lãnh thổ của Áo khi Napoleon đã ký Hiệp ước Campo Formio vào ngày 12 tháng 10 năm 1797. Người Áo nắm quyền kiểm soát thành phố vào ngày 18 tháng 1 năm 1798. Tuy nhiên, sau Hiệp ước Pressburg vào năm 1805, Venice lại trở thành một phần của Vương quốc Napoleon của Ý.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phần lớn các di tích lịch sử của thành phố không bị tấn công, tuy nhiên với các khu công nghiệp ở Mestre và Marghera và các tuyến đường sắt đến Padua, Trieste và Trento đã nhiều lần bị đánh bom. Vào ngày 29 tháng tư năm 1945, quân đội New Zealand theo tướng Freyberg của Đạo quân 8 đã tới giải vây thành phố.
Những cái nhất của thành Venice
Du lịch là một ngành quan trọng của ngành công nghiệp Venetian kể từ thế kỷ thứ 18, khi đó là một trung tâm lớn cho Grand Tour, với cảnh quan đô thị đẹp, độc đáo, và di sản văn hóa âm nhạc và nghệ thuật phong phú.
Có rất nhiều điểm tham quan ở Venice, như nhà thờ St Mark, Grand Canal, Piazza San Marco, và Lido di Venezia là một điểm đến sang trọng quốc tế nổi tiếng, thu hút hàng nghìn diễn viên, nhà phê bình, người nổi tiếng, và chủ yếu là người trong ngành công nghiệp điện ảnh.
The Carnival of Venice được tổ chức hàng năm ở thành phố, Nó kéo dài khoảng hai tuần. trong lễ hội này dân chúng đeo những mặt nạ Venetian rất quyến rũ và cầu kỳ.
Trong những năm 1980, các Carnival of Venice đã được hồi sinh và thành phố đã trở thành một trung tâm lớn của các hội nghị quốc tế và các lễ hội, chẳng hạn như Venice Biennale và uy tín của Liên hoan phim Venice, nơi thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới cho sân khấu, văn hóa, điện ảnh của họ, nghệ thuật, âm nhạc và các tác phẩm.
Liên hoan phim Venice (Mostra Internazionale d'Arte Cinematografica di Venezia) là liên hoan phim lâu đời nhất trên thế giới. Được thành lập bởi Count Giuseppe Volpi di Misurata vào năm 1932 như là Esposizione Internazionale d'Arte Cinematografica, lễ hội có từ diễn ra hàng năm vào cuối tháng Tám hoặc đầu tháng Chín trên đảo Lido. Nó là một trong những liên hoan phim uy tín của thế giới và là một phần của Venice Biennale.
Trong thế kỷ 19, nó đã trở thành một trung tâm thời trang dành cho những người giàu có và nổi tiếng, thường trú hoặc ăn uống tại các cơ sở sang trọng như Danieli Hotel và Caffè Florian. Nó tiếp tục là một thành phố thời trang thịnh hành ngay vào đầu thế kỷ 20.
Venice từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho các tác giả, nhà thơ và nhà soạn kịch cũng như đang đi đầu trong việc phát triển kỹ thuật in ấn và xuất bản. Hai trong số các nhà văn Venetian nổi tiếng nhất là Marco Polo trong thời Trung cổ và sau Giacomo Casanova.
Marco Polo (1254-1324) là một thương gia người Venice hành trình đến phương Đông. Ông để lại nhiều tác phẩm và những cuốn sách cung cấp kiến thức quan trọng của các vùng đất phía đông của châu Âu, từ Trung Đông đến Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Cuốn sách có tiêu đề "Il Milione" đồng sáng tác với Rustichello thành Pisa là cuốn sách tổng lược về hành trình của ông.
Giacomo Casanova (1725-1798) là một nhà văn sung mãn và thám hiểm nổi tiếng viết cuốn tự truyện của mình, cuốn Histoire De Ma Vie, trong đó liên kết lối sống đầy màu sắc của mình tới thành phố Venice.
Nhà viết kịch Venetian theo truyền thống cũ của nhà hát Ý Commedia dell'arte. Ruzante (1502-1542), Carlo Goldoni (1707-1793) và Carlo Gozzi (1720-1806) sử dụng các phương ngữ Venetian rộng rãi trong phim hài của họ.
Venice, đặc biệt là trong thời Trung cổ và Phục hưng và thời kỳ Baroque, là một trung tâm lớn của nghệ thuật và phát triển một phong cách độc đáo được gọi là Trường Venetian. Trong thời Trung cổ và Phục hưng, Venice, cùng với Florence và Rome, đã trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất của nghệ thuật ở châu Âu, và nhiều Venice giàu có đã trở thành khách hàng quen của nghệ thuật. Venice tại thời điểm đó là một nước Cộng hòa hàng hải giàu có và thịnh vượng, mà kiểm soát biển và thương mại đế quốc rộng lớn.
Đến cuối thế kỷ 15, Venice đã trở thành thủ đô của châu Âu in ấn, là một trong những thành phố đầu tiên tại Ý (sau Subiaco và Rome) có máy in sau khi có phát minh ngành in tại Đức. Vào năm 1500 đã có tới 417 máy in tại đây. Nhà in quan trọng thời đó là Aldine của nhà báo Aldus Manutius, và vào năm 1499 ông đã cho in loạt sách của Hypnerotomachia Poliphili, được coi là cuốn sách đẹp nhất của thời Phục hưng, và thành lập cách chấm câu hiện đại, định dạng trang và kiểu chữ nghiêng, và cho in các tác phẩm dịch đầu tiên của Aristotle.
Trong thế kỷ 16, bức tranh Venetian được phát triển thông qua ảnh hưởng từ các trường Paduan và Antonello da Messina, người đã giới thiệu các kỹ thuật sơn dầu của anh em Van Eyck. Loại tranh này được biểu thị bằng một thang màu ấm áp và sử dụng màu sắc rực rỡ. Các nghệ sĩ nổi bật là Bellini và Vivarini, tiếp theo Giorgione và Titian, sau đó Tintoretto và Veronese.
Venice nổi tiếng với nghệ thuật thổi thủy tinh cho công trình trang trí công phu của mình, được gọi là thủy tinh Venetian. Nó là nổi tiếng thế giới vì màu sắc, tỉ mỉ, và nghệ thuật tài tình khéo léo. Trung tâm của ngành công nghiệp thủy tinh Venetian chuyển đến Murano, một hòn đảo ngoài khơi ở Venice. Kính sản xuất tại đây được biết đến như kính Murano.
Thợ thủ công Byzantine đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thủy tinh Venetian, một hình thức nghệ thuật mà thành phố nổi tiếng. Một số thương hiệu quan trọng nhất của thủy tinh trong thế giới ngày nay vẫn còn được sản xuất tại các nhà máy thủy tinh lịch sử trên Murano. Đó là: Venini, Barovier & Toso, Pauly, Millevetri, Seguso, Barovier & Toso được xem là một trong 100 công ty lâu đời nhất trên thế giới, thành lập năm 1295..
Venice là vị trí được chọn làm bối cảnh cho nhiều bộ phim, tiểu thuyết, thơ và tài liệu tham khảo văn hóa khác. Thành phố này phổ biến đối với tiểu thuyết, tiểu luận, và các công trình khác của văn học hư cấu hay không hư cấu. Lấy tỉ dụ như tác phẩm Merchant của Shakespeare, Venice của Othello, Volpone của Ben Jonson, Candide của Voltaire, My Life của Casanova, Cry to Heaven của Anne Rice, Death in Venice của Thomas Mann được coi là cơ sở cho vở oper và bộ phim Death in Venice của Visconti.
Thành phố cũng là bối cảnh cho nhiều bộ phim khác, trong đó có ba loạt phim về James Bond: From Russia with Love, Moonraker và Casino Royale; và nhiều phim danh tiếng khác như: năm 2010 về phim The Tourist, phim Summertime với diễn viên Katharine Hepburn, Casanova của Fellini, Do not Look Now của Nicolas Roeg, The Wings of the Dove, Indiana Jones và the Last Crusade, A Little Romance, Lara Croft với Tomb Raider, v.v...
Thành phố cũng là bối cảnh cho các video âm nhạc như Siouxsie và Dear Prudence của Banshee và Like a Virgin của Madonna, cũng như trong các trò chơi video Tomb Raider II và Assassin Creed II.
Venice đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển âm nhạc của Italy. Venice - thuộc Cộng hòa Maritime thời trung cổ của Venice - thường được gọi là "Republic of Music". Trong thế kỷ thứ 16, Venice trở thành một trong những trung tâm âm nhạc quan trọng nhất của châu Âu, được đánh dấu bằng một phong cách đặc trưng thuộc trường phái Venetian. Sự phát triển của phong cách polychoral Venetian với nhà soạn nhạc như nhạc sỹ Adrian Willaert, người điều khiển nhạc của nhà thờ St Mark.
Venice là trung tâm đầu về in ấn các bản nhạc; Ottaviano Petrucci bắt đầu xuất bản âm nhạc gần như ngay sau khi công nghệ này ra đời, và các doanh nghiệp xuất bản của ông đã giúp thu hút các nhà soạn nhạc từ khắp châu Âu, đặc biệt là từ Pháp và Flanders. Đến cuối thế kỷ này, Venice nổi tiếng một cách uy hoàng của nền âm nhạc của mình, như đã được minh họa trong tác phẩm "phong cách khổng lồ" của Andrea và Giovanni Gabrieli, sử dụng nhiều hợp xướng và nhóm nhạc cụ. Venice cũng là quê hương của nhiều nhà soạn nhạc nổi tiếng trong thời kỳ Baroque, như Antonio Vivaldi, Ippolito Ciera, Giovanni Picchi, và Girolamo Dalla Casa...
Venice có một phong cách kiến trúc phong phú và đa dạng, nổi tiếng nhất trong số đó là phong cách Gothic. Kiến trúc Gothic Venetian là một thuật ngữ được đặt cho một phong cách xây dựng kết hợp sử dụng kiểu Venetian theo mũi thương Gothic và chịu ảnh hưởng theo lối Byzantine và Ottoman. Các kiểu này có nguồn gốc từ thế kỷ 14 khi thành Venice, nơi hợp lưu của phong cách của Byzantine từ Constantinople gặp ảnh hưởng Ả Rập từ Moorish ở Tây Ban Nha. Bằng chứng là nhìn cào cung điện Doge và tòa nhà Vàng Ca'd'Oro trong thành phố. Thành phố cũng có một số những tòa nhà theo phong cách thời phục hưng Renaissance và Baroque, bao gồm cả nhà Ca 'Pesaro và Ca' Rezzonico.
Có thể lập luận rằng Venice sản xuất các mẫu thiết kế kiểu rococo rất đẹp và tinh tế nhất. Rococo Venetian nổi tiếng là giàu có và sang trọng, với thiết kế thường rất ngông cuồng. Mảnh đồ nội thất độc đáo bao gồm các ghế Venetian Divani da portego, và ghế dài và rococo pozzetti. Phòng ngủ kiểu Venice giàu thường là xa hoa và lớn, với nhung, lụa xếp nếp và rèm cửa, và giường rococo đẹp chạm khắc với những bức tượng của putti, hoa và thiên thần.
Venice là đặc biệt nổi tiếng với gương kính có pháo bông tuyệt đẹp, và có thể nói là tốt nhất ở châu Âu. Đèn chùm thường là có rất nhiều màu sắc, sử dụng kính Murano để làm cho chúng trông sống động hơn và nổi bật so với những đèn khác, thêm vào còn cài đá quý và các vật liệu từ nước ngoài được sử dụng.
Sơn mài là sản phẩm cũng rất phổ biến ở Venice, và nhiều mặt hàng đồ nội thất được bao phủ với sơn mài. Các tủ, đồ trang trí phòng khách các povera chạm lacca nổi tiếng nhất, trong đó biểu tượng và hình ảnh của đời sống xã hội được vẽ mầu và khắc sơn mài. Nghệ thuật sơn mài Lacquerwork và kiểu sơn mài Tầu Chinoiserie đặc biệt phổ biến trong các trang trí tủ văn phòng.
Ngày nay, Venice là một trung tâm thời trang và trung tâm mua sắm lớn, không quan trọng như Milan, Florence và Rome, nhưng ngang bằng với Turin, Vicenza, Napoli và Genoa. Roberta di Camerino là thương hiệu thời trang Ý lớn có trụ sở tại Venice mà thôi. Được thành lập vào năm 1945, nổi tiếng với túi xách sáng tạo bởi nghệ nhân Venetian và thường được bao phủ trong nhung dệt tại địa phương. Nhiều trong số các cửa hàng thời trang và đồ trang sức nằm gần Cầu Rialto và ở Piazza San Marco. Có Louis Vuitton và Ermenegildo Zegna là những cửa hàng hàng đầu trong thành phố.
Ẩm thực Venetian được đặc trưng bởi hải sản, nhưng cũng bao gồm các sản phẩm vườn từ các đảo của vùng đầm, gạo từ đất liền, và Polenta... Món ăn Venice kết hợp truyền thống địa phương với những ảnh hưởng kinh nghiệm ngàn năm từ các cuộc giao thoa viễn chinh hải ngoại.
Sarde trong saor, cá mòi ướp lâu dài; Risi e Bisi, gạo, đậu Hà Lan và ham; fegato alla veneziana, Gan kiểu Venetian; gạo risotto với mực đen; cicchetti giống như tapas; antipasti, món khai vị; và prosecco với rượu nhẹ ngọt ngào.
Ngoài ra, Venice nổi tiếng với bisàto (lươn ướp), cookies hình bầu dục gọi là baicoli, và với nhiều loại đồ ngọt như: pan del Pescatore (bánh mì của ngư dân); cookie với hạnh nhân và hạt hồ trăn; cookie với kem chiên Venetian hoặc bussolai (bánh quy bơ và bánh bơ giòn thực hiện trong hình dạng của một chữ "S" hoặc vòng) từ đảo Burano; các fregolotta (một loại bánh vụn với hạnh nhân); sữa bánh gọi là Rosada; và cookie mầu vàng gọi là zaléti.
Tầu đi chậm chậm nên phải mất hơn 1 giờ mới cập bến Venice, đang khi đó các canô nhỏ, thuyền buồm và những ghe máy được các bạn Í-tả-lồ lái rất bay bướm vuợt qua lướt lại dưới bóng tầu du lịch.
Khi tầu du lịch cập bến xong, chúng tôi nghỉ ngơi, ăn trưa xong, rồi lấy tầu nhỏ hơn đi chu du qua các con kênh và chu vi thành phố cho biết. Trên trời vẫn còn nặng trĩu mây, nhưng đường chân trời thành phố Venice vẫn hiện rõ nét với cả trăm ngọn tháp cao, lớn nhỏ khác nhau... Tôi đã từng đi thăm nhiều thành phố, nhưng có lẽ chưa có thành phố nào có nhiều tháp chuông và nhà thờ chi chít như ở Venice.
Tầu nhỏ chở chúng tôi một vòng quanh qua các đảo chính của thành phố... Tha hồ mà chụp hình... Tất cả các nhà thờ và tháp chuông, cũng như những dinh thự nguy nga đều hiện ra bên hai bờ sông cho khách chiêm ngưỡng. Vì quá nhiều nhà thờ, nên không thể nhớ hết các tên các nhà thờ được. Tuy nhiên khi nói về Venice không thể không nói tới nhà thờ thánh Marcô, tháp chuông và công trường nhà thờ chính tòa này. Từ tầu nhỏ nhìn vào công trường thấy từng tốp ngưòi đông đúc, nhóm này nối đuôi theo nhóm khác.
Một ngày thăm viếng Venice với cảnh quan toàn diện, tôi nói với mình "nhất định ngày mai sẽ cuốc bộ đi chu du một vòng nữa cho biết và hy vọng trời sẽ đẹp hơn".
Hôm sau, ăn điểm tâm xong, tôi sửa soạn hành tranh tiến vào thành phố. Dù có bản đồ chi tiết về đường xá và các dinh thự của thành phố, nhưng khi vào thực tế thì khó mà nhận định ra các con đường. Tất cả các đường hay kênh trong thành đều xem ra có vẻ quanh co vòng vèo, do vậy tôi quyết định, cứ nhìn xem khi nào thấy tháp cao nhà thờ thì mình theo hướng đó tiến tới. Do vậy tôi đã đi thăm được nhiều nhà thờ.
Khi ra khỏi nhà thờ mốn biết hướng nào mình sẽ đi tới thì chỉ cần nhìn các góc đường thế nào cũng có chữ "per San Marco" với mũi tên, và cứ vậy mà đi.
Qua các con đường tiến về công trường San Marco, người đi như nước chảy, tuy đường hẹp, nhưng các cửa hàng dù nhỏ cũng luôn được trang trí rất nghệ thuật và bắt mắt. Đa phần là các tiệm bán quần áo thời trang, đồ bằng da, giầy, các tiệm bán sản phẩm thủy tinh, vải vóc và nhất là vải trang trí mắc tiền, các tiệm bán đồ kỉ niệm.
Nói đến Venice không thể không nói đến các Hotel sang trọng và các quán ăn đắt tiền. Đi trên bờ Grand Canal (Kênh Lớn) du khách sẽ thấy nhiều nhà hàng với các bàn ăn được trang trí hoa tươi, tiếp viên lịch sự, đặc sản cá vùng Venice được trình bầy bắt mắt với miệng cá còn mở toang ra chào khách, những con cua to bằng bàn tay, những con tôm hùm càng còn bị trói chặt... cho khách tự lựa chọn.
Một trong những đặc sản rất gần gũi với người Việt mà tôi chưa từng thấy ở nơi khác là cả một khe hoa bí và hoa mướp được trưng rất mời gọi ngay trước bàn ăn... Hoa bí xào với "đùi ếch" hay với "ba ba" hoặc là "mực non với tỏi thêm chút rượu vang vàng" đưa lên chiếc "gondola" vừa lai rai vừa ngắm cảnh thì hết xẩy!
Vừa bước đi và vừa suy nghĩ miên man như vậy rồi tôi đã tới công trường thánh Marcô lúc nào không biết! Trước mặt cả là một rừng người... Tuy nhiên vì nhiều nơi trên bề mặt công trường có nước bao phủ, nên du khách tránh những vùng nước đọng này. Một vài tiệm ăn lớn có nhạc công đang thi thố tài năng cho khách thưởng thức, đang khi đó các nhóm du lịch khác nhau đang được các hướng dẫn viên giải thích... qua đây là nhóm tiếng Ý, tới kia là tiếng Đức, tiếng Anh, rồi chỗ kia là nhóm Tầu, nhóm Nhật,... và nhiều thứ tiếng nghe mà chẳng hiểu, nhìn mà không biết, có lẽ là Ả rập?
Nói về Venice, về những kỳ công kiệt tác ở đây, những nghệ thuật và truyền thống, nói về ăn uống và đồ làm kính hay chai mầu... các đặc sản thì không bao giờ đủ...
Venice là một trong những điểm du lịch quan trọng nhất trên thế giới về nghệ thuật nổi tiếng của mình và kiến trúc. Thành phố có trung bình 70.000 khách du lịch mỗi ngày và mỗi năm có tới trên 3 triệu lượt Nó được coi là một trong những thành phố đẹp nhất thế giới.
Tuy nhiên, Venice vì là điểm đến du lịch lớn trên toàn thế giới cũng đã gây ra một số vấn đề, bao gồm cả thực tế là thành phố có thể rất đông đúc tại một số điểm trong năm. Sự cần thiết để cân bằng thu du lịch tàu biển với bảo vệ kênh đào mỏng manh của thành phố Venice đã là bài toán nhức đầu cho chính quyền sở tại. Bộ Giao thông vận tải Ý đề nghị lệnh cấm trên tàu du lịch lớn đến thăm thành phố, nhưng điều này sẽ gây khó khắn cho kinh tế của thành phố. Thành phố cũng đang xem xét một lệnh cấm những vali có bánh xe, khi lội trên các con đường sẽ làm rung chuyển nền tảng của Venice, nhưng giải quyết về việc cấm vali có bánh xe sẽ làm khó khăn cho việc vận chuyển đồ đạc và hàng hóa...
Nói về Venice không thề không nói về yếu tố quan trọng là nước, các kênh và thuyền gondola.
Venice được xây dựng trên một quần đảo gồm 117 hòn đảo được hình thành bởi 177 kênh nước, được kết nối bởi 409 cây cầu. Trong các trung tâm cũ, những kênh đào nhằm phục vụ cho việc giao thông, và gần như tất cả các hình thức vận chuyển đều ở trên mặt nước hoặc là đi bộ.
Trong thế kỷ 19, một đường đắp cao nối đại lục từ nhà ga Venezia Santa Lucia đến Venice, và con đường đắp cao có tên Ponte della Libertà dẫn đến chỗ đỗ xe tại đảo Tronchetto và ở Piazzale Roma được xây dựng trong thế kỷ 20. Vượt ra ngoài đường và đất đường sắt lối vào ở rìa phía bắc của thành phố, giao thông vận tải trong phần còn lại của thành phố hoàn toàn bằng đường nước hoặc đi bộ. Venice là thành phố hoạt động duy nhất trong thế kỷ 21 hoàn toàn không có ôtô hay xe tải.
Các thuyền người Venetian cổ điển có tên là gondola, (số nhiều: Gondole) ngày nay chủ yếu sử dụng cho các khách du lịch, hoặc cho đám cưới, đám tang, các nghi lễ khác, hoặc là 'traghetti' (hát chèo thuyền traghetto khi qua các kênh.
Nhiều gondola được trang bị ghế nhung và và thảm Ba Tư cho khách du lịch thưởng ngoạn. Ít được biết đến là thuyền nhỏ hơn được gọi là "sandolo". Ở phía trước của mỗi thuyền gondola có một biểu tượng của thành phố, đó là một mảnh kim loại lớn làm bằng cốt thép hoặc sắt. Hình dạng của nó đã phát triển qua nhiều thế kỷ, như tài liệu trong nhiều bức tranh nổi tiếng. Hình thù của nó, biến đổi qua thời gian, nhưng dần dần đã được tiêu chuẩn hóa: tượng trưng bằng hình chiếu mũ của "Duce - thủ lãnh". Nó bao gồm sáu thanh hướng về phía trước đại diện khu Sestieri của thành phố, và một trong thanh đại diện cho khu Giudecca.
Vài dòng lịch sử thành Venice
Tôi đã cố gằng thu thập những dữ kiện từ nhiều nguồn và muốn trình bày cho anh chị em độc giả VietCatholic những nét chính về kinh thành nổi tiếng này như sau.
Thành Venice (tiếng Ý là Venezia, và tiếng Latin gọi là Venetiae) là một thành phố ở đông bắc Italy, gồm một nhóm 117 hòn đảo nhỏ cách nhau bởi kênh rạch và được liên kết bằng cầu, nó nằm ở giữa các cửa sông Po và sông Piave. Venice nổi tiếng là thành phố trên nước với vẻ đẹp thơ mộng với các kiến trúc tinh xảo và nhiều tác phẩm nghệ thuật, và một thời là đế chế hùng mạnh nhờ lực lượng thủy quân và những đội chiến thuyền trội vượt nên đã bá chủ một miền rộng lớn khắp vùng Andriatic sang tận miền Trung Đông và Merritarenian. Trở thành đế chế hùng mạnh và là thành phố giầu có nhất thiên hạ vào thời Trung cổ, trước khi nhường chỗ cho các đế chế tân lập của Tây ban nha, Pháp và Anh quốc. Toàn bộ thành phố Venice được liệt kê như là một di sản thế giới.
Venice đã được biết đến như là "La Dominante - Thống trị", "Queen of the Adriatic - Nữ hoàng của vùng Adriatic", "Thành phố của nước", và nhiều danh xưng khác như: "Thành phố của mặt nạ", "Thành phố của Cầu", "Thành phố nổi", và "Thành phố của kênh rạch ".
Ông Luigi Barzini từng mô tả Venice trên tờ The New York Times là "chắc chắn đây là thành phố đẹp nhất được xây dựng bởi tay loài người". Và thành Venice cũng thường được mô tả là một trong những thành phố lãng mạn nhất của Châu Âu.
Venice là thủ phủ của vùng Veneto với dân số chừng 270.000 người sống trong đô thị của Venice (dân số của toàn bộ quận hạt của Venezia) riêng tại thành phố lịch sử của Venice (Centro Storico) dân số ước lượng khoảng 60.000 người.
Nguồn gốc tên Venezia có nguồn từ những người cổ đại Veneti, đó là những người dân sống ở khu vực này vào thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên.
Trước đây Cộng hòa Venice từng là đế chế với sức mạnh lớn lao trên biển khơi thời Trung cổ và Phục hưng. Chính từ Venice như một bàn đạp cho các cuộc Thập tự chinh. Venice cũng từng là trung tâm quan trọng của thương mại về lụa, ngũ cốc, và gia vị. Điều này đã làm Venice trở thành một thành phố giàu có nhất trong suốt lịch sử hiện diện của mình. Venice cũng là trung tâm nghệ thuật từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 17, đặc biệt là thời kỳ Phục hưng. Venice đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của âm nhạc giao hưởng và opera, và chính tại đây nhạc sĩ trứ danh Antonio Vivaldi đã chào đời.
Người Veneti cự ngụ ở đây rất sớm từ khoảng 150 trước Công nguyên đã ghi lại là họ sống trong khu vực Quadi và Marcomanni và nay là khu Oderzo hiện hành.
Venice bị của những người Visigoth lật đổ vào đầu thế kỷ thứ 5, và khoảng 50 năm sau, bởi người Hung do Attila cầm đầu.
Rồi đến người Lombardi cư ngụ ở đây trong thời gian dài nhất từ năm 568 trở đi.
Tiếp đến được sát nhập vào lãnh thổ của đế chế Byzantine và được coi là thành phần của Tổng giáo phận Công Giáo mà ngai tòa đặt ở Ravenna, được giám sát bởi một vị phó vương (các thống đốc) do Hoàng đế ở Constantinople bổ nhiệm, nhưng Ravenna và Venice chỉ được nối với nhau bằng đường biển; và với vị trí cô lập, nên Venice hầu như phần nào được tự chủ.
Các vị tổng trấn đầu tiên của Venice là Paolo Lucio Anafesto và Marcello Tegalliano, được gọi là Magister militum (nghĩa đen là "Chủ tể binh lính").
Sau này có ông Ursus là người đầu tiên của 117 "Dux" (thủ lãnh) của Venice được ban chức như vậy. Tiếng Ý là "Duce" và tiếng Anh là "doges" nguyên ngữ Latin là "Dux". Dux Ursus hỗ trợ Hoàng đế Leo III trong cuộc viễn chinh quân sự thành công để phục hồi Ravenna. Để ghi nhận công ơn này, Venice đã được "cấp nhiều đặc quyền" và Ursus, người đã đích thân ủng hộ hoàng đế Leo được ban thêm tước "Hypatus Dux" (tiếng Hy Lạp là "Tổng thủ lãnh".
Trong thời Hoàng đế Charlemagne và Hoàng đế Nicephorus Byzantine vào đầu thế kỷ thứ 9 đã đồng ý với Các Đức Giáo Hoàng công nhận Venice là lãnh thổ của Byzantine và được cấp quyền kinh doanh thành phố dọc bờ biển Adriatic.
Trong năm 828 uy tín của thành phố Venice được tăng lên với việc mua lại các di tích thánh được cho là của thánh Marcô thánh sử từ thành Alexandria bên Ai cập. Di tích thánh được đặt trong nhà thờ mới. Ngày nay ở mặt tiền nhà thờ chúng ta nhìn thấy tượng Sư tử với cánh bằng vàng đó là tượng trưgn cho thánh Marco, và trên cờ của Thành phố Venice cũng là hình sư tử mầu vàng. Tại mặt tiền của nhà thờ du khách cũng thấy có 4 con ngựa của Thánh Marcô, đây là bản sao những con ngựa nguyên thủy có tên Triumphal Quadriga "tứ ngọ bách thắng", những con ngựa bị lấy đi từ thành Constantinople và được đưa về Venice vào năm 1204 khi Venice thắng trận ở đó.
Từ ngày 9 đến thế kỷ thứ 12, Venice phát triển thành một Nhà nước thành phố (một thalassocracy Ý hoặc Repubblica Marinara). Vị trí chiến lược ở điểm đầu của Adriatic với sức mạnh hải quân và thương mại Venice gần như bất khả xâm phạm.
Venice đã loại bỏ được những tên cướp biển dọc theo bờ biển Dalmatian, thành phố trở thành một trung tâm thương mại hưng thịnh giữa Tây Âu và phần còn lại của thế giới (đặc biệt là Đế chế Byzantine và châu Á) với một lực lượng hải quân bảo vệ các tuyến đường biển mà không bị quân Hồi giáo xâm phạm.
Venice trở thành một đế quốc sau Thập Tự Chinh lần thứ 4, khi đó lên đến đỉnh điểm trong năm 1204 qua việc chiến thắng và loại trừ đế chế Constantinople và thiết lập đế chế Latin.
Sau sự sụp đổ của đế chế Constantinople, cựu đế chế La Mã đã được phân phối lại và trọng tâm ở cả Roma và cả ở Venice.
Việc chiến thắng Constantinople đã là một yếu tố quyết định trong việc chấm dứt đế quốc Byzantine và ảnh hưởng từ Anatolia.
Nằm trên bờ biển Adriatic, Venice luôn luôn giao dịch rộng rãi với Đế quốc Byzantine và thế giới Hồi giáo. Vào cuối thế kỷ thứ 13, Venice là thành phố thịnh vượng nhất ở châu Âu. Ở đỉnh cao của quyền lực và sự giàu có, Venice lúc đó có đến 36.000 thủy thủ vận hành 3.300 tàu, thống trị thương mại Địa Trung Hải.
Các gia đình hàng đầu của Venice tranh nhau xây dựng các cung điện vĩ đại nhất và hỗ trợ công trình của các nghệ sĩ vĩ đại nhất và tài năng nhất. Thành phố được điều hành bởi Đại Hội đồng chỉ đạo, mà các thành viên là từ các gia đình quý tộc của Venice. Đại Hội đồng bổ nhiệm tất cả các công chức và bầu các thành phần trong Thượng viện gồm từ 200 đến 300 cá nhân. Tuy nhiên thành phần Thượng viện quá lớn không thể điều hành chính quyền hiệu quả, nên vì thế một Hội Đồng Mười (còn gọi là Hội đồng Ducal hoặc Signoria) được đặt ra để điều hành và kiểm soát chính quyền của thành phố. Một thành viên của Hội đồng Mười này được bầu làm "Duce" (thủ lãnh) vị này thường giữ danh hiệu "Duce" cho đến khi ông qua đời; mặc dù một số Duce buộc phải từ chức và nghỉ hưu vào sống ẩn dật tu viện khi họ bị mất uy tín bởi sự thất bại chính trị của họ.
Các cơ cấu chính phủ Venice thời ấy tương tự như hệ thống cộng hòa La Mã cổ đại, với một thủ lãnhđược bầu điều hành (các Duce), một hội nghị viện như của quý tộc, và một số thành phần công dân với quyền lực chính trị hạn chế.
Giáo Hội và các đại gia có tài khác nhau ở Venice thường được gắn liền với nghĩa vụ quân sự, mặc dù không quy định nhiệm kỳ của Hiệp sĩ tại thành phố Venice, nhưng các Hiệp sĩ thánh Marcô (Cavalieri di San Marco) là Đoàn các Hiệp sĩ duy nhất được thiết lập ở Venice, và không ai hay một công dân Venice nào có thể nhận hoặc gia nhập tước Hiệp sĩ nào khác mà không có sự đồng ý của chính phủ thành phố.
Khi máy in mới được phát minh ở Đức, nó đã lan rộng khắp châu Âu trong thế kỷ 15, và Venice đã nhanh chóng chấp nhận nó và vào năm 1482, Venice trở thành thủ đô in ấn của thế giới, và các máy in hàng đầu do Aldus Manutius, người có công in ấn các cuốn sách bìa mềm có thể đem đi du lịch và đọc ở bất cứ nơi đâu. Các ấn bản Aldine của ông bao gồm các bản dịch của gần như tất cả các kiệt tác cổ đại của Hy Lạp được biết đến trong thời đói.
Sự suy giảm ảnh hưởng của Venice bắt đầu vào thế kỷ 15, khi nỗ lực của Venice không thành công giữ thành Thessalonica chống lại Đế quốc Ottoman (1423-1430). Venice cũng gửi tàu giúp bảo vệ chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ bao vây Constantinople vào năm 1453. Sau khi Constantinople thất thù vào tay Sultan Mehmet II, vị thủ lãnh này lập tức tuyên chiến với Venice. Cuộc chiến kéo dài 30 năm và làm kiệt kinh phí của Venice.
Tiếp theo, Christopher Columbus khám phá ra thế giới mới America vào năm 1492. Sau đó, Vasco da Gama của Bồ Đào Nha tìm thấy một tuyến đường biển đến Ấn Độ bằng cáchđi vòng qua Cape of Good Hope trong chuyến đi đầu tiên của mình kéo dài từ 1497 đến 1499. Những sự kiện này đã phá hủy đường đất độc quyền của đế chế Venice. Tiếp theo các quốc gia như Pháp, Anh và Cộng hòa Hà Lan đi tìm tiếp thu thuộc địa. Đoàn tầu của Venice với mái chèo, tuy dù mạnh, nhưng so với sức mạnh thủy quân mới của các quốc gia mới tân trang tỏ ra bất lợi khi phải vượt qua các đại dương lớn, và do đó Venice đã bị bỏ lại phía sau trong cuộc chạy đua đi chiếm các thuộc địa.
Dịch Chết Đen tàn phá Venice vào năm 1348 và một lần nữa giữa năm 1575 và 1577. Trong ba năm, các bệnh dịch hạch giết chết khoảng 50.000 người. Năm 1630, bệnh dịch hạch giết chết một phần ba số 150.000 dân của Venice nữa. Từ đó Venice bắt đầu để mất vị trí là một trung tâm thương mại quốc tế trong giai đoạn sau của thời kỳ Phục hưng, khi Bồ Đào Nha trở thành trung gian chính của châu Âu trong việc buôn bán với phương Đông. Điều này tấn công chính vào nền tảng sự giàu và sức mạnh tuyệt vời của Venice trước đây. Dù vậy Venie vẫn được coi là một nước xuất khẩu chính các sản phẩm nông nghiệp, và cho tới giữa thế kỷ 18, một trung tâm sản xuất đáng kể.
Trong suốt thế kỷ 18, Venice được coi là thành phố thanh lịch và tinh tế nhất ở châu Âu, ảnh hưởng rất lớn về nghệ thuật, kiến trúc và văn học. Nhưng Cộng hòa Venice mất sự độc lập của mình khi Napoleon Bonaparte chinh phục Venice vào ngày 12 tháng 5 năm 1797. Napoleon được coi như người giả phóng khu Ghetto của người Do Thái trong thành phố, mặc dù người Do thái từng sống ở đây mà không bị hạn chế gì nhiều.
Venice lại trở thành lãnh thổ của Áo khi Napoleon đã ký Hiệp ước Campo Formio vào ngày 12 tháng 10 năm 1797. Người Áo nắm quyền kiểm soát thành phố vào ngày 18 tháng 1 năm 1798. Tuy nhiên, sau Hiệp ước Pressburg vào năm 1805, Venice lại trở thành một phần của Vương quốc Napoleon của Ý.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, phần lớn các di tích lịch sử của thành phố không bị tấn công, tuy nhiên với các khu công nghiệp ở Mestre và Marghera và các tuyến đường sắt đến Padua, Trieste và Trento đã nhiều lần bị đánh bom. Vào ngày 29 tháng tư năm 1945, quân đội New Zealand theo tướng Freyberg của Đạo quân 8 đã tới giải vây thành phố.
Những cái nhất của thành Venice
Du lịch là một ngành quan trọng của ngành công nghiệp Venetian kể từ thế kỷ thứ 18, khi đó là một trung tâm lớn cho Grand Tour, với cảnh quan đô thị đẹp, độc đáo, và di sản văn hóa âm nhạc và nghệ thuật phong phú.
Có rất nhiều điểm tham quan ở Venice, như nhà thờ St Mark, Grand Canal, Piazza San Marco, và Lido di Venezia là một điểm đến sang trọng quốc tế nổi tiếng, thu hút hàng nghìn diễn viên, nhà phê bình, người nổi tiếng, và chủ yếu là người trong ngành công nghiệp điện ảnh.
The Carnival of Venice được tổ chức hàng năm ở thành phố, Nó kéo dài khoảng hai tuần. trong lễ hội này dân chúng đeo những mặt nạ Venetian rất quyến rũ và cầu kỳ.
Trong những năm 1980, các Carnival of Venice đã được hồi sinh và thành phố đã trở thành một trung tâm lớn của các hội nghị quốc tế và các lễ hội, chẳng hạn như Venice Biennale và uy tín của Liên hoan phim Venice, nơi thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới cho sân khấu, văn hóa, điện ảnh của họ, nghệ thuật, âm nhạc và các tác phẩm.
Liên hoan phim Venice (Mostra Internazionale d'Arte Cinematografica di Venezia) là liên hoan phim lâu đời nhất trên thế giới. Được thành lập bởi Count Giuseppe Volpi di Misurata vào năm 1932 như là Esposizione Internazionale d'Arte Cinematografica, lễ hội có từ diễn ra hàng năm vào cuối tháng Tám hoặc đầu tháng Chín trên đảo Lido. Nó là một trong những liên hoan phim uy tín của thế giới và là một phần của Venice Biennale.
Trong thế kỷ 19, nó đã trở thành một trung tâm thời trang dành cho những người giàu có và nổi tiếng, thường trú hoặc ăn uống tại các cơ sở sang trọng như Danieli Hotel và Caffè Florian. Nó tiếp tục là một thành phố thời trang thịnh hành ngay vào đầu thế kỷ 20.
Venice từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho các tác giả, nhà thơ và nhà soạn kịch cũng như đang đi đầu trong việc phát triển kỹ thuật in ấn và xuất bản. Hai trong số các nhà văn Venetian nổi tiếng nhất là Marco Polo trong thời Trung cổ và sau Giacomo Casanova.
Marco Polo (1254-1324) là một thương gia người Venice hành trình đến phương Đông. Ông để lại nhiều tác phẩm và những cuốn sách cung cấp kiến thức quan trọng của các vùng đất phía đông của châu Âu, từ Trung Đông đến Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Cuốn sách có tiêu đề "Il Milione" đồng sáng tác với Rustichello thành Pisa là cuốn sách tổng lược về hành trình của ông.
Giacomo Casanova (1725-1798) là một nhà văn sung mãn và thám hiểm nổi tiếng viết cuốn tự truyện của mình, cuốn Histoire De Ma Vie, trong đó liên kết lối sống đầy màu sắc của mình tới thành phố Venice.
Nhà viết kịch Venetian theo truyền thống cũ của nhà hát Ý Commedia dell'arte. Ruzante (1502-1542), Carlo Goldoni (1707-1793) và Carlo Gozzi (1720-1806) sử dụng các phương ngữ Venetian rộng rãi trong phim hài của họ.
Venice, đặc biệt là trong thời Trung cổ và Phục hưng và thời kỳ Baroque, là một trung tâm lớn của nghệ thuật và phát triển một phong cách độc đáo được gọi là Trường Venetian. Trong thời Trung cổ và Phục hưng, Venice, cùng với Florence và Rome, đã trở thành một trong những trung tâm quan trọng nhất của nghệ thuật ở châu Âu, và nhiều Venice giàu có đã trở thành khách hàng quen của nghệ thuật. Venice tại thời điểm đó là một nước Cộng hòa hàng hải giàu có và thịnh vượng, mà kiểm soát biển và thương mại đế quốc rộng lớn.
Đến cuối thế kỷ 15, Venice đã trở thành thủ đô của châu Âu in ấn, là một trong những thành phố đầu tiên tại Ý (sau Subiaco và Rome) có máy in sau khi có phát minh ngành in tại Đức. Vào năm 1500 đã có tới 417 máy in tại đây. Nhà in quan trọng thời đó là Aldine của nhà báo Aldus Manutius, và vào năm 1499 ông đã cho in loạt sách của Hypnerotomachia Poliphili, được coi là cuốn sách đẹp nhất của thời Phục hưng, và thành lập cách chấm câu hiện đại, định dạng trang và kiểu chữ nghiêng, và cho in các tác phẩm dịch đầu tiên của Aristotle.
Trong thế kỷ 16, bức tranh Venetian được phát triển thông qua ảnh hưởng từ các trường Paduan và Antonello da Messina, người đã giới thiệu các kỹ thuật sơn dầu của anh em Van Eyck. Loại tranh này được biểu thị bằng một thang màu ấm áp và sử dụng màu sắc rực rỡ. Các nghệ sĩ nổi bật là Bellini và Vivarini, tiếp theo Giorgione và Titian, sau đó Tintoretto và Veronese.
Venice nổi tiếng với nghệ thuật thổi thủy tinh cho công trình trang trí công phu của mình, được gọi là thủy tinh Venetian. Nó là nổi tiếng thế giới vì màu sắc, tỉ mỉ, và nghệ thuật tài tình khéo léo. Trung tâm của ngành công nghiệp thủy tinh Venetian chuyển đến Murano, một hòn đảo ngoài khơi ở Venice. Kính sản xuất tại đây được biết đến như kính Murano.
Thợ thủ công Byzantine đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của thủy tinh Venetian, một hình thức nghệ thuật mà thành phố nổi tiếng. Một số thương hiệu quan trọng nhất của thủy tinh trong thế giới ngày nay vẫn còn được sản xuất tại các nhà máy thủy tinh lịch sử trên Murano. Đó là: Venini, Barovier & Toso, Pauly, Millevetri, Seguso, Barovier & Toso được xem là một trong 100 công ty lâu đời nhất trên thế giới, thành lập năm 1295..
Venice là vị trí được chọn làm bối cảnh cho nhiều bộ phim, tiểu thuyết, thơ và tài liệu tham khảo văn hóa khác. Thành phố này phổ biến đối với tiểu thuyết, tiểu luận, và các công trình khác của văn học hư cấu hay không hư cấu. Lấy tỉ dụ như tác phẩm Merchant của Shakespeare, Venice của Othello, Volpone của Ben Jonson, Candide của Voltaire, My Life của Casanova, Cry to Heaven của Anne Rice, Death in Venice của Thomas Mann được coi là cơ sở cho vở oper và bộ phim Death in Venice của Visconti.
Thành phố cũng là bối cảnh cho nhiều bộ phim khác, trong đó có ba loạt phim về James Bond: From Russia with Love, Moonraker và Casino Royale; và nhiều phim danh tiếng khác như: năm 2010 về phim The Tourist, phim Summertime với diễn viên Katharine Hepburn, Casanova của Fellini, Do not Look Now của Nicolas Roeg, The Wings of the Dove, Indiana Jones và the Last Crusade, A Little Romance, Lara Croft với Tomb Raider, v.v...
Thành phố cũng là bối cảnh cho các video âm nhạc như Siouxsie và Dear Prudence của Banshee và Like a Virgin của Madonna, cũng như trong các trò chơi video Tomb Raider II và Assassin Creed II.
Venice đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển âm nhạc của Italy. Venice - thuộc Cộng hòa Maritime thời trung cổ của Venice - thường được gọi là "Republic of Music". Trong thế kỷ thứ 16, Venice trở thành một trong những trung tâm âm nhạc quan trọng nhất của châu Âu, được đánh dấu bằng một phong cách đặc trưng thuộc trường phái Venetian. Sự phát triển của phong cách polychoral Venetian với nhà soạn nhạc như nhạc sỹ Adrian Willaert, người điều khiển nhạc của nhà thờ St Mark.
Venice là trung tâm đầu về in ấn các bản nhạc; Ottaviano Petrucci bắt đầu xuất bản âm nhạc gần như ngay sau khi công nghệ này ra đời, và các doanh nghiệp xuất bản của ông đã giúp thu hút các nhà soạn nhạc từ khắp châu Âu, đặc biệt là từ Pháp và Flanders. Đến cuối thế kỷ này, Venice nổi tiếng một cách uy hoàng của nền âm nhạc của mình, như đã được minh họa trong tác phẩm "phong cách khổng lồ" của Andrea và Giovanni Gabrieli, sử dụng nhiều hợp xướng và nhóm nhạc cụ. Venice cũng là quê hương của nhiều nhà soạn nhạc nổi tiếng trong thời kỳ Baroque, như Antonio Vivaldi, Ippolito Ciera, Giovanni Picchi, và Girolamo Dalla Casa...
Venice có một phong cách kiến trúc phong phú và đa dạng, nổi tiếng nhất trong số đó là phong cách Gothic. Kiến trúc Gothic Venetian là một thuật ngữ được đặt cho một phong cách xây dựng kết hợp sử dụng kiểu Venetian theo mũi thương Gothic và chịu ảnh hưởng theo lối Byzantine và Ottoman. Các kiểu này có nguồn gốc từ thế kỷ 14 khi thành Venice, nơi hợp lưu của phong cách của Byzantine từ Constantinople gặp ảnh hưởng Ả Rập từ Moorish ở Tây Ban Nha. Bằng chứng là nhìn cào cung điện Doge và tòa nhà Vàng Ca'd'Oro trong thành phố. Thành phố cũng có một số những tòa nhà theo phong cách thời phục hưng Renaissance và Baroque, bao gồm cả nhà Ca 'Pesaro và Ca' Rezzonico.
Có thể lập luận rằng Venice sản xuất các mẫu thiết kế kiểu rococo rất đẹp và tinh tế nhất. Rococo Venetian nổi tiếng là giàu có và sang trọng, với thiết kế thường rất ngông cuồng. Mảnh đồ nội thất độc đáo bao gồm các ghế Venetian Divani da portego, và ghế dài và rococo pozzetti. Phòng ngủ kiểu Venice giàu thường là xa hoa và lớn, với nhung, lụa xếp nếp và rèm cửa, và giường rococo đẹp chạm khắc với những bức tượng của putti, hoa và thiên thần.
Venice là đặc biệt nổi tiếng với gương kính có pháo bông tuyệt đẹp, và có thể nói là tốt nhất ở châu Âu. Đèn chùm thường là có rất nhiều màu sắc, sử dụng kính Murano để làm cho chúng trông sống động hơn và nổi bật so với những đèn khác, thêm vào còn cài đá quý và các vật liệu từ nước ngoài được sử dụng.
Sơn mài là sản phẩm cũng rất phổ biến ở Venice, và nhiều mặt hàng đồ nội thất được bao phủ với sơn mài. Các tủ, đồ trang trí phòng khách các povera chạm lacca nổi tiếng nhất, trong đó biểu tượng và hình ảnh của đời sống xã hội được vẽ mầu và khắc sơn mài. Nghệ thuật sơn mài Lacquerwork và kiểu sơn mài Tầu Chinoiserie đặc biệt phổ biến trong các trang trí tủ văn phòng.
Ngày nay, Venice là một trung tâm thời trang và trung tâm mua sắm lớn, không quan trọng như Milan, Florence và Rome, nhưng ngang bằng với Turin, Vicenza, Napoli và Genoa. Roberta di Camerino là thương hiệu thời trang Ý lớn có trụ sở tại Venice mà thôi. Được thành lập vào năm 1945, nổi tiếng với túi xách sáng tạo bởi nghệ nhân Venetian và thường được bao phủ trong nhung dệt tại địa phương. Nhiều trong số các cửa hàng thời trang và đồ trang sức nằm gần Cầu Rialto và ở Piazza San Marco. Có Louis Vuitton và Ermenegildo Zegna là những cửa hàng hàng đầu trong thành phố.
Ẩm thực Venetian được đặc trưng bởi hải sản, nhưng cũng bao gồm các sản phẩm vườn từ các đảo của vùng đầm, gạo từ đất liền, và Polenta... Món ăn Venice kết hợp truyền thống địa phương với những ảnh hưởng kinh nghiệm ngàn năm từ các cuộc giao thoa viễn chinh hải ngoại.
Sarde trong saor, cá mòi ướp lâu dài; Risi e Bisi, gạo, đậu Hà Lan và ham; fegato alla veneziana, Gan kiểu Venetian; gạo risotto với mực đen; cicchetti giống như tapas; antipasti, món khai vị; và prosecco với rượu nhẹ ngọt ngào.
Ngoài ra, Venice nổi tiếng với bisàto (lươn ướp), cookies hình bầu dục gọi là baicoli, và với nhiều loại đồ ngọt như: pan del Pescatore (bánh mì của ngư dân); cookie với hạnh nhân và hạt hồ trăn; cookie với kem chiên Venetian hoặc bussolai (bánh quy bơ và bánh bơ giòn thực hiện trong hình dạng của một chữ "S" hoặc vòng) từ đảo Burano; các fregolotta (một loại bánh vụn với hạnh nhân); sữa bánh gọi là Rosada; và cookie mầu vàng gọi là zaléti.