IV. Con rắn và người đàn bà

Trước khi xem xét khía cạnh tiếp theo của trình thuật về người đàn ông và người đàn bà, ta sẽ dừng lại để nói qua tới cuộc đàm đạo nổi tiếng giữa con rắn và người đàn bà. Trọng điểm của cuộc đàm đạo này là nêu lên vấn đề uy quyền và vâng lời: bằng việc thách thức lòng tốt (St 3:1) và sự chân thật (St 3:4) của tác giả, bằng việc bác bỏ hậu quả của bất vâng phục (St 3:4-5) và bằng việc khêu gợi các ích lợi quyến rũ khác với ăn uống (được hiểu biết như Thiên Chúa [St 3:5] chẳng hạn), ngôn từ và lý lẽ (của con rắn) dần dần sói mòn được sức mạnh của lệnh cấm (4).

Một khi lệnh cấm đã bị sói mòn, một khi lý trí đã thành yếu ớt, thì sự vâng lời, bất kể là vâng lời Thiên Chúa hay vâng theo một bản năng nhất định, đều trở thành bất khả. Trí tưởng tượng được giải phóng bởi việc và nhân khi người ta khẳng định sự khả hữu của tiếng “không”: sự việc có thể sẽ không như thế, thậm chí, không nhất thiết sẽ phải như thế. Với nhiều giải pháp khác được đặt ra trước nàng, thèm muốn của người đàn bà tự nó lớn lên, một phần vì được lời hứa khôn ngoan của con rắn quyến rũ, nhưng phần lớn được khuyến khích bởi trí tưởng tượng vừa được tăng sức của nàng: “Và người đàn bà thấy cây này dùng làm thực phẩm thì tốt, nhìn thì vui mắt và đáng ước ao vì làm cho mình ra khôn, bèn hái trái của nó mà ăn, và còn đưa cho chồng lúc đó đang ở bên và chồng cũng ăn” (St 3:6).

Người đàn bà “thấy” bằng một ánh sáng mới, và lần đầu tiên, tâm trí và thèm muốn vừa tô mầu vừa phản chiếu các sức mạnh mới mẻ của trí tưởng tượng, những sức mạnh đánh dấu các bước tiến khổng lồ trên con đường nhân bản hóa, trong mọi nét bi ai và hàm hồ của nó.

Ta nên cố gắng bỏ qua các bình luận của những thời kỳ sau này và việc họ nghiêm khắc phê phán một cách tiêu cực tác phong của người đàn bà, một phán đoán thực sự không hoàn toàn vô căn cứ, nếu xét trong ngữ cảnh toàn diện. Không xét tới vấn đề luân lý và tội lỗi, mà chỉ xét tới khía cạnh tâm lý và nhân học, ta buộc phải nhận rằng chính linh hồn người đàn bà mang trong mình mầm mống của việc đi lên của con người. Không như người đàn ông, với các thèm muốn tính dục xoáy chặt vào người đàn bà, ở đây, người đàn bà cởi mở hơn đối với thế giới, với cái đẹp và khả thể khôn ngoan. Trong não bộ của nàng, người đàn bà không chỉ nghĩ tới tình dục. Các hoài bão của nàng tuy có hơi tản mạn về hướng đi, và hàm hồ về kết quả, nhưng đều là những khát vọng đầu tiên có tính nhân bản chuyên biệt. Chính bởi vì dục lực (eros) của nàng ít có tính tập chú và xác thịt hơn, nên họ có thể chắp cánh bay xa. Người đàn ông, người đã làm, cũng như từ đó vẫn làm, tất cả những gì khiến người đàn bà được vui, đã lặng lẽ đi theo sự hướng dẫn của nàng mà bước vào nẻo đường của bất tuân hay nẻo đường của nhân tính (St 3:6).

V. Mở mắt ra

Việc khám phá ra nhân tính hay nói đúng hơn, việc khám phá vốn tạo ra nhân tính ta, chính là việc khám phá ra bản ngã tính dục của ta, chứ không hẳn việc khám phá ra tính hữu tử, như một số người chủ trương: “thế là mắt của cả hai mở ra và họ biết họ trần truồng” (St 3:7).

Con rắn, trước đó, từng hứa rằng “mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ nên giống Thiên Chúa, biết thiện biết ác” (St 3:5). Nhưng, như tác giả Thánh Kinh từng nhấn mạnh một cách nghịch lý, mắt họ mở ra để biết mình trần truồng, một cái biết trở thành nguồn cho xấu hổ và đau buồn. Họ thấy sự vật như chúng thực sự là: họ nhận biết điều từ trước đến nay họ không nhận biết được; hay đúng hơn, nay họ hiểu được ý nghĩa của những điều trước đây họ chỉ nhìn mà không hiểu. Nhưng dù là nghịch lý, ta cũng vẫn phải xem sét lời gợi ý cho rằng khởi điểm của nhận thức luân lý hay khởi điểm của khôn ngoan con người, thực ra, là nhận thức ý nghĩa của trần truồng. Mà trần truồng là gì? Tại sao nhận ra nó lại xấu hổ? Việc nhận ra này và phản ứng của ta đối với nó đã thay đổi mối tương quan giữa người đàn ông và người đàn bà ra sao?

Dĩ nhiên, trần truồng là vô chống đỡ, bất bảo vệ, là bị lộ, một dấu chỉ dễ bị tổn hại trước các yếu tố thiên nhiên và thú dữ. Nhưng bản văn khiến ta chú ý tới tính dục của ta. Có thể nói, khi nhìn vào cơ thể mình như là một hữu thể có dục tính lần đầu tiên, ta khám phá ra mình quá khác xa với bất cứ điều gì là thần linh. Nói cụ thể hơn, điều ta nhận ra đầu tiên là sự không đầy đủ vĩnh viễn của ta. Ngay đến việc muốn nhận ra và thỏa mãn bản chất xác thân của ta, ta cũng cần và tùy thuộc một người bổ túc, khác với ta. Ta biết rằng tính dục có nghĩa ta là những cái nửa, chứ không phải những cái trọn vẹn, toàn bộ, và, còn tệ hơn thế, ta không điều khiển được cái nửa bổ túc hiện đang thiếu kia. Tệ hơn nữa, sự hòa tan là điều bất khả: sự giao hợp chỉ mang đến cho ta sự ghép đôi chứ không hẳn nên một. Mà ngay trong nội tâm, ta cũng không trọn vẹn. Ta bị ám ảnh bởi một bản chất tính dục “độc lập” bất kham, hay nổi loạn ngay tại bên trong, một bản chất không thèm để ý tới các mênh lệnh của ta; cũng từ bên trong, ta còn phải đương đầu với một thành phần bất trị không hề biết vâng lời là gì, một điều khiến luận điệu tự cho mình điều khiển được mình thành trò cười. Nó khiến ta ý thức được những xung động mạnh mẽ mà chính ta không hiểu được nội dung, chỉ vì chúng rõ ràng khác với các thèm muốn căn bản hơn và chỉ có tính phục vụ chính mình là ăn, uống, và nghỉ ngơi, và là các thèm muốn hoàn toàn được thỏa mãn tư riêng. Ta bắt buộc phải qui phục thứ thèm muốn thống trị ngay bên trong và qui phục các mưu chước nơi đối tượng của nó ở bên ngoài; và khi đầu hàng như thế, ta từ bỏ cái bộ dạng ông chúa chính trực của mình. Cái niềm tự hào non dại vừa phát sinh từ phản tỉnh còn bị ngượng nghịu bởi cung cách ta cần tới con người tính dục khác kia và được họ cần ta. Sau đó, nếu chịu phản tỉnh thêm, ta còn có thể khám phá ra rằng các bộ phận sinh dục là dấu chỉ việc ta dễ bị diệt vong, và hoạt động của chúng là lá phiếu hạ bệ chính ta, nhường chỗ cho những người sẽ thay thế ta.

Cuối cùng, tất cả những điều trên đều có vấn đề. Vì khi hướng chú ý vào chính sự thiếu sót của mình, sự lệ thuộc, sự dễ bị diệt vong, tính thú vật của mình, sự tự phân chính mình, và việc không điều khiển được mình, ta đã biểu lộ một khó khăn khác nữa, đó là khó khăn của việc tự ý thức về mình. Vì giờ đây, trong linh hồn ta, có một thứ nước đôi (doubleness) nhân bản, qua đó, ta lục tìm chính ta, tự nhìn mình như người khác nhìn mình. Ta không còn bảo đảm có được sự tham dự vào đời một cách tự phát, tức khắc, vô thức về mình nữa… Tệ hơn nữa, việc tự ý thức về mình không những có tính sói mòn và cản trở; nó còn có tính phê phán nữa. Vì nay ta đã là những hữu thể bắt đầu biết đến hãnh diện, nên, khi thấy mình bị một người khác nhìn, ta không thể tự dấu diếm với chính ta cái ý thức thấy mình thiếu sót và yếu đuối. Ta xấu hổ.

Việc xuất hiện của xấu hổ và việc tự ý thức về tính dục đã thay đổi căn để các liên hệ giữa người đàn ông và người đàn bà. Sự lôi cuốn tính dục nay bị khuấy động bởi mối lo lắng muốn được chấp thuận nhưng lại sợ bị khước từ. Mỗi người trong hai người họ đều khám phá ra điều này: người khác này quả là một người khác thật và khác một cách không thể nào giảm thiểu được, chứ không phải là cái phần đã tha hóa của chính mình. Hơn nữa, mỗi người họ còn thấy ra rằng mối liên hệ của mình với người khác này không những không tự do và tất yếu, mà còn có tính đòi hỏi nữa. Tất cả để giải thích tại sao ta rất có thể không được chấp thuận và bị khước từ.

Nhưng lạ thay, việc khám phá ra mình không được tự do này lại được thực hiện một cách tự do và phần nào có tính giải thoát. Vì nếu có khả thể khước từ thì cũng có khả thể chấp thuận. Cái chiều kích mới của tự do này thay đổi hẳn tính tất yếu của tính dục. Mỗi người không còn phải chỉ là tùng phục đơn thuần nữa, mà là tự ý (willingly) tùng phục; mỗi người tìm cách chinh phục trái tim của người kia. Mỗi người tìm kiếm sự chấp thuận, sự ca ngợi, sự tôn trọng, sự qúy mến, thoạt đầu, có thể để làm phương tiện thoả mãn tính dục, nhưng sau đó không lâu để làm mục đích ngay trong nó. Nhờ hẹn hò và tán tỉnh, nhờ gợi hứng và quyến rũ, một biện chứng mới được dẫn vào cuộc khiêu vũ: chấp thuận, thán phục, và tôn trọng đòi phải giữ cho hai kẻ yêu nhau ở một khoảng cách xa, bất chấp cái bản năng tính dục nguyên thủy kia vẫn đẩy họ tới chỗ tan hòa vào nhau. Một sự thân mật xuồng xã mới và chân thực được sản sinh ra từ nhu cầu tế vi phải duy trì và dàn xếp cho bằng được khoảng cách này và lúc nào nên loại bỏ nó. Ấy thế nhưng, tình bạn của những kẻ yêu nhau này vẫn có vấn đề ngay ở bên trong: vì một đàng, có sự khác nhau, có sự lệ thuộc và có yêu cầu; nhưng đàng khác, ý muốn được chấp thuận đã chiếm được và được tự do ban cấp. Cái thế căng thẳng, mà đôi khi con người nhận ra nhưng phần lớn họ không nhận ra này, lên sức mạnh cho dục lực (eros) của họ và nâng nó lên nhiều khả thể mới mẻ.

Cả các con vật cũng trần truồng, nhưng chúng không biết xấu hổ. Cả chúng nữa cũng trải nghiệm tính tất yếu của tính dục, nhưng chúng không biết điều này và không biết nó tất yếu. Dù cái biết này làm ta khiêm hạ, nhưng nó không làm ta tê liệt. Trái lại, nó kích thích ta trỗi dậy. Hữu thể nhân bản không nằm đó mà xấu hổ: “Và họ khâu các lá vả lại với nhau và tạo cho mình chiếc khố che thân” (St 3:7). Sự xấu hổ của tình dục trở thành mẹ đẻ ra phát kiến, ra nghệ thuật, và ra những kiểu cách hợp tác xã hội: ta cũng nên để ý điều này: không phải chỉ có đàn bà mới biết khâu. Quần áo, một sáng tạo của con người, thoạt đầu là để dấu cái tính dục của họ, không cho người khác nhìn thấy. Ta thấy ở đây, bản văn muốn trình bày theo lối biểu tượng việc muốn được thỏa mãn nhục dục ngay tức khắc đã bị trở ngại ra sao. Hơn nữa, quần áo, vừa như vật che thân hay dấu diếm vừa như vật trang trí hay làm đẹp, giúp trí tưởng tượng tha hồ tô vẽ và giúp tình yêu lớn mạnh hơn trong phạm vi cách phân được cái hạn chế đặt cho nhục dục kia tạo ra, một hạn chế do xấu hổ khởi diễn và được thừa nhận bởi việc dấu diếm kia. Ta khó có thể khuếch đại tầm quan trọng của thời khắc chuyển biến này. Kant đã nắm được nó, một cách súc tích và sâu sắc, trong tác phẩm “Phỏng Đoán Buổi Khởi Đầu Của Lịch Sử Con Người”.

Trong trường hợp thú vật, sự lôi cuốn tính dục chỉ là một vấn đề thôi thúc (impulse) thoáng qua, phần lớn có tính định kỳ. Nhưng phần con người, họ nhanh chóng khám phá ra rằng họ có thể dùng trí tưởng tượng kéo dài và thậm chí gia tăng sự lôi cuốn này … Nhờ trí tưởng tượng, họ không còn cảm thấy chán ngấy, một chán ngấy thường đi đôi với việc thỏa mãn thèm khát thuần súc vật. Như thế, lá cây vả (St 3:7) là một biểu lộ của lý trí, sự biểu lộ này lớn hơn sự biểu lộ trong giai đoạn phát triền đầu tiên nhiều. Vì việc thèm muốn trái cấm chỉ cho thấy năng lực chọn lựa có chừng mực để phục vụ thôi thúc; còn việc làm cho xu hướng thèm muốn hướng nội nhiều hơn và thường xuyên che dấu đối tượng của nó đối với các giác quan, đã phản ảnh được sự kiện: con người ý thức được phần nào việc lý trí làm chủ thôi thúc. Sự khước từ là một điều kỳ diệu đã làm con người từ lãnh vực lôi cuốn giác cảm (sensual) chuyển qua lôi cuốn linh cảm, từ thèm muốn thuần súc vật từ từ chuyển qua tình yêu, và cùng với chuyển dịch này là chuyển dịch từ cảm quan thuần khóai cảm qua việc thưởng ngoạn cái đẹp, mà thoạt đầu chỉ là cái đẹp nơi con người nhưng lâu dần là cả cái đẹp trong thiên nhiên nữa. Ngoài ra, từ đó còn phát sinh ra dấu hiệu đầu tiên cho thấy con người đã trở thành một tạo vật luân lý. Vì họ bắt đầu có cảm thức về đoan trang tề chỉnh (decency), vốn là khuynh hướng thúc đẩy người khác biết tôn trọng qua cách cư xử đứng đắn nghĩa là che dấu tất cả những gì có thể khiến người ta coi khinh. Ở đây, một cách tình cờ, có cả một nền tảng thực chất cho mọi khả thể xã hội hóa đích thực.

Có thể đây chỉ là một khởi đầu bé nhỏ. Nhưng nếu đã cung cấp cho tư tưởng một hướng đi hoàn toàn mới, thì khởi đầu nhỏ bé này quả có tính đột phá. Nó quan trọng hơn hàng loạt những khai triển văn hóa bất tận phát sinh từ đó về sau.

Nhưng, dù mầm mống văn minh đã được gieo ở đây, hình ảnh do Kant vẽ ra cũng có vẻ quá tô hồng. Bởi vì, nếu nhìn dưới cái nhìn của Thánh Kinh, thì phản ứng của con người đối với ý thức tính dục nói trên, dù hoàn toàn có tính khả niệm và hợp nhân bản, vẫn cục bộ, và hơi bóp méo. Cặp vợ chồng người này nay hướng tới việc hàn gắn sự cách phân bằng cách chủ yếu chỉ nhìn vào nhau. Họ hướng nội, “hai ta chống lại biển đời rắc rối”. Sự tự giúp đỡ và cậy nhờ hỗ tương này trở thành chương trình hành động hàng ngày. Vì phát sinh từ lòng tự hào, một lòng tự hào vốn bị thương tổn, nên tình yêu cũng mang dấu ấn và quan tâm của tự hào. Các dấu ấn và quan tâm này, khổ thay, càng làm cho câu truyện đàn ông đàn bà trở nên phức tạp, như Rousseau (sắc sảo hơn người “học trò” Kant của mình) từng nhận định khi nói tới cùng một sự biến đổi của tình yêu con người này trong Diễn Từ Thứ Hai của ông:

Sự giao hợp thoáng qua do thiên nhiên đòi hỏi chẳng bao lâu dẫn tới một thứ giao tiếp khác không dịu ngọt bằng, nhưng thường xuyên hơn nhờ hỗ tương lui tới với nhau. Con người trở nên quen thuộc với việc xem sét nhiều đối tượng khác nhau và đem chúng ra so sánh; một cách vô thức, họ thu lượm được các ý niệm về giá trị và cái đẹp từ đó phát sinh ra các tình cảm ưu đãi, ưa thích hơn. Nhờ thấy nhau mãi, họ không thể không thấy nhau lần nữa. Và thế là một tình cảm trìu mến và dịu dàng dần dần được khởi dẫn vào linh hồn và nhờ ít bị cản trở nhất, nó trở thành một cuồng nhiệt mãnh liệt. Ghen tương sống dậy cùng với tình yêu, bất hòa chiến thắng, và đam mê dịu hiền nhất cũng tiếp nhận lễ hy sinh bằng máu người… Mỗi người bắt đầu nhìn người khác và nhìn vào chính mình, và thế là lòng trọng vọng nơi công cộng có một giá trị. Người hát và nhẩy khéo nhất, người đẹp trai nhất, người khỏe nhất, người khéo léo nhất, hay người hùng biện nhất trở thành người được trọng vọng nhất; và đó chính là bước đầu dẫn tới bất bình đẳng và, cùng một lúc, dẫn tới tội ác. Một đàng, từ những ưu đãi, thích hơn này, ta có lòng tự cao tự đại và khinh người; đàng khác, ta có sự xấu hổ và ghen tị; và những lần dậy men do những chất men mới này tạo ra cuối cùng sẽ sản sinh ra các hợp chất tiêu diệt hạnh phúc và sự ngây thơ trong trắng.

Ở vào giai đoạn trên, câu truyện của Thánh Kinh chưa cho thấy hết các khó khăn, vì dù sao nó cũng chỉ mới nói tới 1 người đàn ông và 1 người đàn bà. Tuy nhiên, tất cả các đam mê và các hiệu quả có tiềm năng bạo lực của chúng đều do tự hào và xấu hổ mà phát sinh, như ta sẽ thấy ở những đoạn sau đó nói tới việc Cain giết em là Aben. Dù đáng hoan nghênh bao nhiêu đi chăng nữa, tính đáng yêu của lòng tự hào không nhất thiết là điều tốt đối với tình yêu.

Ấy thế nhưng, trở lại với bản văn của ta, ta nhận ra một khả thể mới mẻ khác nữa mà nay cũng được mở ra cho hai kẻ yêu nhau. Ngay sau khi khâu cho mình những chiếc khố che thân, người đàn ông và người đàn bà chứng tỏ họ có những ý thức đầu tiên về Đấng Thần Linh. Tác giả câu truyện tường trình rằng ngay sau khi che thân, “họ nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi trong Vườn”. Tường trình này lần đầu tiên minh nhiên nhắc tới việc: hữu thể nhân bản thực sự chú ý, hay đúng hơn, ghi nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính lúc nhìn nhận sự thấp hèn của ta là lúc ta khám phá ra điều thực sự ở trên cao.

Đấy quả là giờ phút tế nhị: sau khi để mắt vào những đồ cám dỗ đầy quyến rũ, những lời hứa khôn ngoan, con người tiến tới chỗ thấy bằng chính mắt mình sự thiếu sót của mình. Vẫn còn tin tưởng vẻ bề ngoài, nhưng sau đó tìm cách làm đẹp các dáng vẻ này, họ bắt đầu tự trang điểm chính họ, để được lòng trước mặt người yêu. Những con mắt thèm muốn đã lặng lẽ nhường bước cho những con mắt thán phục, nhờ sự thùy mị e lệ can thiệp vào. Ấy thế nhưng, cái nhìn và tình yêu mà thôi không tiết lộ được trọn vẹn tình thế của con người, hay câu truyện đàn ông đàn bà. Các hữu thể nhân bản phải mở cả tai lẫn mắt, họ phải lắng nghe lời kêu gọi, một lời kêu gọi mà cả cái nhìn và người yêu xinh đẹp không chuẩn bị đủ cho họ hướng tới và họ có thể đi trệch ra khỏi khi chỉ biết đặt tình yêu và khát mong của mình hoàn toàn vào nhau mà thôi. Thực ra, lứa đôi nhân bản nguyên mẫu này, nhờ được tình yêu thẹn thùng mở mắt, có khả năng nghe được tiếng nói của siêu việt.

(Còn tiếp)

______________________________________________________________________________________________________________________

Ghi Chú

(4) Tình tiết này, vốn chuẩn bị cho việc phạm qui, là một suy tư chua cay về ngôn ngữ và lý trí; ngôn ngữ được trình bày như một cỗ xe chuyên chở cả xảo quyệt lẫn hiểu lầm. Câu hỏi đầu tiên của con rắn “có thật Thiên Chúa bảo: ‘các ngươi không được ăn bất cứ (mikol) trái cây nào trong vườn’ phải không?” ngụ ý muốn nói rằng Thiên Chúa là loại người ranh mãnh tùy tiện giữ mọi thức ăn để duy trì sự sống khỏi tay với của con người. Trong câu nói kế tiếp, hắn còn bảo Thiên Chúa là người láo khoét. Về phần nàng, người đàn bà cũng nói điều không có, dù một cách ngây thơ trong trắng: nàng không trả lời điều được hỏi, nói nhiều hơn lời yêu cầu, nhận diện cây cấm “ở giữa vườn”, lại còn nói thêm “ngươi cũng không được đụng tới” vào lệnh cấm, và quan trọng nhất là đã đổi các hậu quả của việc không vâng lời (“vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” [St 2:17]) thành lý do để vâng lời (“ Các ngươi không được ăn… kẻo phải chết” [St 3:3]). Khi con rắn bác bỏ việc nếu ăn sẽ chết, người đàn bà không còn lý do gì nữa để tiếp tục vâng lời, mà quên mất rằng vâng theo lệnh truyền tự nó là lý do rồi. Như thế, ở đây, ta thấy sự “chiến thắng” có tính nguyên mẫu của lý tính tự do, biết tính toán, tự giải phóng mình khỏi mệnh lệnh của tất yếu (hoặc bản năng hoặc bản nhiên hoặc Hữu Thể hoặc Thiên Chúa).