SVCG BÙI CHU - HÀNH HƯƠNG TĨNH TÂM MÙA CHAY 2014

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)

Một lần nữa Mùa Chay Thánh lại trở về với chúng ta. Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối, cầu nguyện, bố thí, mùa chịu nạn và thương khó. Hành trình 40 ngày chay tịnh là thời gian ân sủng để mỗi Kitô hữu thanh luyện bản thân và canh tân đời sống qua việc sám hối, hòa giải và sống triệt để Tin Mừng. Đây cũng là thời điểm đặc biệt trong năm phụng vụ, qua đó Giáo Hội mời gọi chúng ta sống mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta (1Cr 15,3).“Hằng năm qua bốn mươi ngày của Mùa Chay, Giáo Hội hiệp thông với mầu nhiệm của Chúa Giêsu trên hoang địa” (GLGHCG 540)

Xem Hình

Trong tinh thần đó, các bạn SVCG Bùi Chu đã cùng nhau suy niệm và sống tinh thần Mùa Chay năm nay với lời mời gọi của Đức Thánh Cha qua câu nói của Thánh Phaolo: “Người đã trở nên nghèo để làm cho anh em được giàu có nhờ cái nghèo của Người” (x. 2 Cr 8,9). Thấm nhuần tinh thần Mùa Chay của toàn thể Giáo Hội, thể hiện tình liên đới cách đặc biệt với Giáo phận Mẹ Bùi Chu và cũng để các thành viên có những cảm nghiệm sâu xa hơn, trong hai ngày từ 15 đến 16 tháng 03, Cộng Đoàn SVCG Bùi Chu tại Hà Nội đã tổ chức chương trình hành hương tĩnh tâm Mùa Chay tại Đan viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn.

Hòa cùng những bản Thánh ca du dương và không khí tĩnh mịch chiêm niệm, những con tim hiện diện nơi đây cùng chung một nhịp đập bồi hồi khi được đồng hành cùng Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Cha Linh hướng Gioan Lưu Ngọc Quỳnh C.Ss.R, các Linh mục, Đan sỹ và các bạn sinh viên cùng thinh lặng, suy niệm, ăn năn sám hối Mùa Chay và gặp gỡ Chúa Kitô trong chay tịnh và đau khổ.

Trong bầu không khí của tiết trời trong lành của buổi sáng sớm đã làm cho tâm hồn mỗi người man mác buồn, một nỗi buồn khó diễn tả bằng lời. Ngày hôm nay, nhóm chúng tôi đi tĩnh tâm, bỗng dưng trong lòng tôi nhớ tới câu nói của Chúa Giêsu với các môn đệ sau một ngày mệt nhọc rằng: "Tất cả các con hãy vào nơi thánh vắng mà cầu nguyện".

Sau một thời gian dài hoạt động cùng với những bận rộn, lo lắng của cuộc sống. Hôm nay, Cộng Đoàn SVCG Bùi Chu chúng tôi vâng lời Chúa "vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi cũng như để cầu nguyện và thân thưa với Chúa những tâm tình con thảo với cha hiền, để trải rộng nỗi lòng mình ra với Chúa, để quên đi thực tại để gặp gỡ Chúa để nhận ra ơn gọi mà Chúa đang mời gọi mỗi người trong chúng tôi, và xin ơn bình an của Chúa đến với tâm hồn. .."

Đúng 06h30 giờ sáng, ngày 17/03/2014 đoàn xe xuất phát. Đoàn chúng tôi đi trong bầu khí thinh lặng và sốt sắng. Có lẽ đi đến gặp Chúa cho nên trong lòng ai cũng có chút hồi hộp và chờ mong điều gì đó chăng? Và có lẽ đang trong tâm tình của mùa Chay, nên mọi nỗi mệt mỏi dường như tan biến hết, tất cả đều được dâng lên Thiên Chúa là Cha nhân lành. Lúc 09h30 xe chúng tôi đến mảnh đất thánh Châu Sơn, và trước khung cảnh thanh bình, yên tĩnh mà mỗi người chúng tôi đang nhìn đó chính là Đan Viện Xitô Thánh Mẫu. Đúng là một nơi lý tưởng để cho mỗi thành viên trong Cộng Đoàn thinh lặng và cầu nguyện cùng Chúa. Quả thật "tai nghe không bằng một thấy" ở nơi đây tôi có cảm giác như mình đang ở trên thiên đàng vậy, phong cảnh thật tuyệt vời, không khí trong lành và thoáng mát. Đúng là khác xa với cuộc sống đô thị phồn vinh, ồn ào náo nhiệt.

Trước khi chương trình tĩnh tâm bắt đầu, để 2 ngày tĩnh tâm diễn ra trong sự thinh lặng, yên tĩnh, tránh sự chia trí, mọi người cùng tắt máy điện thoại, gom lại và cất ở phòng của Ban đại diện.

09h45, Đoàn chúng tôi gặp gỡ Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, người mục tử thân thiết và quý mến của SVCG, ngài gặp gỡ chúng tôi với nụ cười nhân hậu hòa cùng ánh mắt yêu thương làm cho không khí thêm ấm áp và thân mật hơn. Mỗi người trong nhóm đều cảm nhận được sự thân mật lan tỏa từ ánh mắt nụ cười của vị mục tử nhân lành.

Sự đón tiếp ấm áp thân tình của Đức Tổng Giuse, Cha Bề Trên, quý Cha cùng quý Thầy đã xóa đi khoảng cách xa xôi Hà Nội – Ninh Bình, các thành viên trong nhóm đã thấy gần gũi hơn với Đan Viện cho dù với đa số đây là lần đầu tiên đến với Đan Viện. Sau quãng thời gian trò chuyện với Đức Tổng Giuse, mọi người về phòng cất đồ, đi tham quan các công trình trong khuân viên Đan Viện và trở lại nhà ăn dùng bữa trưa lúc 11h30. Sau bữa trưa thật ngon miệng, mọi người về phòng nghỉ, lấy lại sức để chuẩn bị cho chương trình chính sẽ bắt đầu ngay đầu giờ chiều.

14h00, cả nhóm cùng quây quần trong Nhà nguyện đơn sơ của Đan Viện, chính thức bắt đầu bước vào buổi tĩnh tâm. Chưa khi nào mọi người thấy mình gần với Chúa đến như vậy, trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ, với những điệu nhạc du dương réo rắt và lời dẫn tĩnh tâm, đã có những thành viên rơi những giọt nước mắt… Bản thân mỗi con người yếu đuối đều có rất nhiều tội lỗi, quan trọng là ta có thời gian nhìn lại, suy ngẫm và sám hối ăn năn. Và khi ấy, những giọt nước mắt thật đáng quý biết bao…

Cha linh hướng Gioan chia sẻ và giảng bài tĩnh tâm 1 trong suốt 3 tiếng. Ai nấy trong nhóm đều cảm thấy hay và thấm thía vô cùng. Đầu tiên, Cha mời gọi các bạn sinh viên thinh lặng và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mỗi người, để Người thánh hóa chúng con và biến đổi chúng con. Sau đó là Cha Gioan đã giúp các bạn sinh viên định hướng chính xác mục đích của chuyến tĩnh tâm lần này là

1. Để được gặp gỡ chính mình, nghiệm lại bản thân mình, hồi tâm, lượng giá những mối tương quan với chính mình và với những người liên quan trong công việc, học tập và sinh hoạt.

Cùng suy niệm về những lời của Thánh Phaolô, “Tôi muốn làm điều lành có sẵn trong tôi (nhân chi sơ tính bản thiện), nhưng rốt cuộc lại làm điều dữ mà tôi không muốn làm.” Tôi bị chia rẽ, bối rối; đây là một cuộc chiến đấu. Vật chất thu hút tôi. Chắc chắn là phải giật sập bức tường ngăn cách này. Có như thế tôi mới tìm gặp chính tôi. Tôi phải gạt qua một bên tính tự cao tự đại của mình, để cho ánh sáng soi đường dẫn lối giúp tôi nhìn thấy những gì tôi phải cải thiện trong tôi, để tôi thấy phải loại bỏ những gì, những gì phải góp nhặt, và những gì phải thay đổi.

2. Để được gặp gỡ và cầu nguyện cùngChúa trong thinh lặng, chiêm niệm và suy tư về mầu nhiệm thương khó Chúa. Việc tôi gặp gỡ chính tôi là nền tảng, là căn bản cho hai cuộc gặp gỡ kế tiếp (gặp gỡ Chúa Kitô, rồi gặp gỡ tha nhân). Việc gặp chính tôi giúp cuộc gặp gỡ thứ hai có thể xảy ra: đó là gặp gỡ Chúa Kitô.

Bài nguyện ngẫm “Dung Nhan Chúa Kitô” ấn định sự nhịp nhàng của những sinh hoạt tại Đan Viện. Chúa Kitô được giới thiệu cho chúng tôi như thể chúng tôi chưa bao giờ nghe nói. Một Chúa Kitô có thật, sống động, riêng tư, thân thiết, và là người anh. Cha Gioan hướng dẫn chúng tôi tìm hiểu Người sâu sắc hơn. Những lời của Thánh Augustine, “Lạy Chúa, con biết chính mình con, và nay con được biết Chúa nữa, ôi lạy Chúa!” khích lệ tôi liên kết cả hai cuộc gặp gỡ. Người ta không thể yêu mến kẻ mà mình không biết.

Tôi là kết quả của tình yêu của Chúa Cha. Tôi là Con của Người. Tôi chẳng bao giờ cô đơn. Giờ đây tôi biết rằng, như trong bài thơ “Những Vết Chân Trên Cát”, “trong những lúc thử thách và khổ đau, khi ấy con chỉ thấy đôi vết chân mà thôi, thì đó là lúc Cha ẳm bồng con trên tay.”

Các Nhiệm Tích là nguồn chuyển đạt tình yêu của Chúa Cha. Và để chứng minh cho tôi, Cha linh hướng đã mời chúng tôi đến trước Mình Thánh Chúa là nơi tôi trút mọi gánh nặng. Sau bài giảng này, nhiều bạn sinh viên xét mình chuẩn bị xưng tội, làm hòa với Chúa và với anh em. Có những lúc, nhiều người đã xưng tội trước đó rồi và đi xưng tội lại sau khi nghe các Phép Bí Tích của Chúa tuyệt vời dường nào!

Tôi đã tìm thấy tôi với Cha tôi, với người anh cả, và với bạn tôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – ba ngôi trong một Chúa. Như vậy đó không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi.

3. Để được Chúa chữa lành và biến đổi. "Người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh." (Mc 6,56). “Kẻ nào biết hối cải những tội lỗi của mình, thì kẻ đó sẽ được tha thứ, và ta, là Chúa, sẽ không còn nhớ tới những tội lỗi đó nữa.” (GLGƯ 58:42).

“Sự hối cải chân thành mang chúng ta trở lại với việc làm điều đúng. Để thật sự hối cải, chúng ta phải nhận ra các tội lỗi của mình và cảm thấy hối hận, hoặc buồn rầu theo ý Chúa và thú nhận các tội lỗi đó với Thượng Đế. Nếu các tội lỗi của chúng ta nghiêm trọng thì chúng ta cũng phải thú nhận những tội lỗi đó với vị lãnh đạo chức tư tế có thẩm quyền của mình. Chúng ta cần phải cầu xin Thượng Đế tha thứ và làm hết khả năng của mình để sửa đổi bất cứ điều tai hại nào mà những hành động của chúng ta có thể đã gây ra. Sự hối cải có nghĩa là thay đổi tâm trí—chúng ta ngừng làm những điều sai trái và bắt đầu làm những điều đúng. Điều đó mang đến cho chúng ta một thái độ mới mẻ đối với Thượng Đế, đối với bản thân và cuộc sống nói chung.”

Khi chúng ta thành công trong việc hoàn tất tiến trình hối cải, kết quả sẽ là sự chữa lành, khuây khỏa và hạnh phúc. Lạy Chúa, lòng con đầy dẫy những ích kỷ, tự kiêu, đam mê… hay có khi lại mặc cảm, chống đối và than van. Xin cho con biết mở lòng để có thể chạm đến Chúa. (Epphata)

4. Để biết ý Chúa muốn trong cuộc đời mỗi con người.“Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể (Tv 119, 14).

Xin cho chúng con biết đón nhận ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nếu việc thánh hóa bản thân chúng ta xem ra là một nhiệm vụ khó khăn và không thể làm được, là vì ta không có ý tưởng chính xác về bản chất vấn đề. Thực ra, sự thánh thiện chỉ hệ tại một điều là trung thành với ý muốn của Thiên Chúa. Sự trung tín đó nằm ngay trong khả năng của mọi người bằng hành vi đức tin dù tích cực hay thụ động. Sự trung tín đó không gì khác hơn là việc yêu mến đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa gởi đến cho ta trong mỗi thời điểm, cho dù có những tình cảnh xem ra rất éo le và bẽ bàng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (Gb 2, 10).

Thiên Chúa chẳng bao giờ thúc bách ai vượt quá sức, hay vượt quá sự thích hợp của mình. Đời sống chúng ta được hình thành từ vô số những hành động nhỏ bé và chẳng quan trọng gì trước mặt người khác, nhưng Thiên Chúa hoàn toàn thỏa mãn với những điều ấy, vì cuộc sống chúng ta là như vậy. Chỉ cần con người biết khiêm tốn hoàn thành phận vụ của mình, làm mọi việc trong sự trung tín với Chúa, những gì còn lại Chúa sẽ làm nên. Ai cũng muốn suy nghĩ theo ý mình mà quên rằng chân lý của cuộc sống là biết suy nghĩ theo ý Chúa. Ngoài ý của Chúa, mọi sự đều trống rỗng và hư ảo cho dù nó cao trọng trước mặt người đời: “... bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 15).

Sự khôn ngoan của tâm hồn hệ tại ở sự đơn sơ, bằng lòng với công việc của mình trong khuôn khổ và ranh giới của con đường đang tiến bước, không vượt qua giới hạn của nó, cũng không tìm cách so sánh, phỏng đoán hay muốn hiểu biết ý nghĩa lớn nhỏ của từng sự việc, nhưng thỏa mãn với những điều được dành cho mình, cho dù nhỏ nhặt hay tầm thường trước mặt người đời. Vì chính từ những điều đó mà Chúa sẽ khởi sự công trình Ngài nơi ta.

Đừng khinh chê những điều bé nhỏ tầm thường trong bổn phận, vì chính từ đó Chúa làm nên những điều cao cả cho những ai yêu mến Ngài. Chúng ta thường thán phục và chúc tụng những kỳ công của Chúa đã làm nên trong lịch sử hay nơi những người khác, nhưng khi Chúa muốn tiếp tục những kỳ công đó trong tim ta thì ta lại tìm kiếm những điều mà theo mình nghĩ mới là lớn lao. Chẳng có gì lớn lao ngoài thánh ý Chúa trong giây phút này.

Sau khi giúp các bạn sinh viên xác định được đúng các mục đích của chuyến tĩnh tâm lần này, Cha linh hướng Gioan đã chia sẻ tĩnh tâm về bài Tin Mừng “Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ” (Lc 4,1-13) và những cám dỗ đối với sinh viên hôm nay.

Việc đầu tiên Chúa Giêsu làm trước khi thực thi Sứ Mạng Cứu Thế đó là Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày và chịu cuộc thử thách, đó là chịu ma quỷ hiện đến cám dỗ đủ cách. Tin Mừng thuật lại: “Chúa Giêsu tràn đầy Thánh Thần” (Lc 4,1). Đây là lúc Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa thống hối tại sông Giorđanô, và vì sự khiêm hạ tột bực ấy, Chúa Thánh Linh đã lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên đầu Ngài, ban cho Ngài Thần Lực, Sức Mạnh Quyền Năng để Chúa Giêsu hoàn tất công cuộc Cứu Thế…Thần Khí là khí giới mạnh nhất, linh hiệu nhất để chống trả với Satan, và mọi mưu chước độc hại của quỷ dữ!

“Chúa Thánh Linh dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa ở đó, Ngài bị cám dỗ!”...Khi chúng ta ở một mình, quá rảnh rỗi, sống lẻloi một mình, thì rất nguyhiểm, Satan thường đến cám dỗ! …Chúa Giêsu đã ăn chay suốt 40 ngày và “Ngài không ăn bất cứ chút gì” (Lc 4,2), Chúa vừa hãm mình ăn chay, vừa dành mọi thời giờ trong 40 ngày đêm đó để sống thân thiết với Chúa Cha, nên Ngài càng thêm mạnh mẽ, chiến thắng Satan dễ dàng! Những ai theo gương Chúa Giêsu để hãm dẹp thân xác, không chiều theo những đòi hỏi của nó thì Satan khó lòng thắng được họ!

Cám dỗ thứ nhất về vật chất, về thân xác con người, về sự bất-tín nơi Thiên Chúa, nghi ngờ sự chăm sóc yêu thương của Người: Satan gieo vào tâm trí Chúa Giêsu sự hoài-nghi về tình yêu của Chúa Cha, tại sao lại để cho Ngài bị đói khát như thế? Trước tình cảnh ấy, Satan cũng không tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nên mới nói với Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy biến đá này thành bánh đi!” (Lc 4,3). Quỷ muốn thách thức Chúa xem Chúa có phải thực là Con Thiên Chúa không! Còn nếu Chúa là Con Thiên Chúa thì hãy dùng quyền phép của mình mà tự chăm sóc lấy bản thân, không cần gì Chúa Cha! …Chúng ta cũng có thể bị Satan cám dỗ tương tự, khi nó gieo vào tâm trí chúng ta ý tưởng: Tự mình chúng ta có thể sống và hành động, không cần Thiên Chúa! Không cần sự trợ giúp, và đừng lệthuộc vào Thiên Chúa! Chúng ta hãy khôn ngoan đề phòng kẻo bị sa vào cạm bẫy của quỷ!

Chúa Giêsu tự biết Ngài có Quyền Năng để làm phép lạ, nhưng Ngài không lân la, không để chỗ cho quỷ có dịp tới gần, hơn nữa, Ngài không dùng quyền năng của Ngài để làm phép lạ cho chính mình, mà chỉ dùng quyền ấy cho mục đích Cứu Độ trần gian: Chẳng hạn, Khi Chúa làm phép lạ cho các môn đệ bắt được một mẻ cá lạ lung, là cốt để các ông tin nơi Ngài mà từ bỏ mọi sự bước theo Ngài để tiếp tục loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Cũng thế, khi Chúa biến 5 chiếc bánh và 2 con cá hoá nhiều để nuôi 5 ngàn người…cũng để toàn dân tin Ngài, sống theo giáo lý của Ngài!...Hơn nữa, nếu Chúa nghe lời quỷ mà biến đá thành bánh, thì chứng tỏ Ngài thiếu Niềm Tin nơi sự Quan Phòng Vô Cùng yêu thương của Chúa Cha, nên Chúa đã dung lời Kinh Thánh để trả lời Satan: “ Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn vì mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Lc 4,4). Lời Kinh Thánh là gươm thần sắc bén, là khiên thuẫn giúp ta chống lại mọi chước quỷ ma, đem lại cho ta Thần Lực đập tan mọi cơn cám dỗ. Ở đây, Chúa Giêsu dùng câu kinh Thánh trong sách Nhị Luật 8,3.

Cám dỗ thứ hai: Bị thua, quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về Danh Vọng, và Quyền Lực.Quỷ đem Chúa Giêsu lên nơi cao, cho Ngài xem mọi nước thế gian cùng vinh hoa phú quý của các nước, đồng thời, nó là cha sự dối trá, tên quỷ quyệt siêu-đẳng chuyên lừa dối các linh hồn, đã gian trá nói với Chúa rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực và vinh quang, vì tất cả là của tôi, và tôi có thể cho ai tuỳ ý, nếu ông thờ lạy tôi, tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,6-7). Quỷ đã nói gian trá từ căn bản! Quỷ dối trá ở chỗ hắn nói: Mọi quyền lực, vinh quang là của hắn! Thực ra, quỷ chẳng có chi cả! Mọi sự trên trời dưới đất đều do Chúa tạo thành và thuộc về Chúa, Chúa mới là Đấng toàn quyền ban phát mọi Ân Lộc tự nhiên và siêu nhiên cho bất cứ ai Ngài muốn! Hắn biết rằng: Chúa Giêsu đang muốn cứu rỗi toàn thế giới, nên hắn muốn đánh lừa Chúa để đi con đường tắt, không phải vất vả chi cả, chỉ việc sấp mình thờ lạy hắn, thì mọi dân mọi nước sẽ thuộc về Ngài, và như thế, thì Ngài chỉ việc ban hành chỉ thị cho toàn dân, thay đổi cách sống và tôn giáo sẽ dễ dàng biết bao? Thế nhưng, cám dỗ của quỷ sai trái từ căn bản, quỷ kế của hắn đã bị Chúa lột mặt nạ, Chúa trả lời: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Ngài thôi” (Lc 4,8). Để đánh trả mõi cơn cám dỗ, Chúa đã dùng một câu Kinh Thánh để đập tan mưu chước của quỷ. Câu Kinh Thánh Chúa dùng được trích trong sách Nhị Luật 6,13.

Cám dỗ thứ ba: Satan cám dỗ Chúa Giêsu về sự kiêu ngạo:Satan đưa Chúa lên nóc đền thờ Giêrusalem, nơi có rất đông dân thường qua lại, hắn gợi lên trong trí tưởng của Chúa sự cảm phục ca ngợi của dân chúng, nếu Chúa gieo mình xuống ! Satan xúi giục Chúa lòng tự cao và có vẻ tốt đẹp, đó là khi dân đã cảm phục Chúa rồi, thì bảo gì họ sẽ nghe theo! Quỷ bảo Chúa hãy gieo mình xuống, và hắn cũng lấy lời Kinh Thánh, trích trong Thánh Vịnh 91,11 rằng: “Thiên Chúa sẽ ra lệnh cho các Thiên Thần nâng đỡ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá”. Điều này quỷ nói rất đúng: đó là Thiên Chúa nâng đỡ các con Ngài thoát khỏi nhiều tai nạn, tuy nhiên, nếu liều lĩnh hoặc vì kiêu căng mà hành động thì không thể áp-dụng câu Thánh Kinh này được! Chúng ta cũng biết rằng: quỷ cũng thông hiểu Kinh Thánh, nhưng nó không yêu mến, không thực hành Lời Chúa, nên Lời Chúa không ích chi cho nó! …Chúa Giêsu trả lời: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi!” (Lc 4,12). Chúa Giêsu đã trích lời Kinh Thánh trong Sách Nhị Luật 6,16.

“Khi quỷ đã thử thách Chúa đủ cách, nó rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4,13). Sau khi Satan bị thua trong mọi cơn cám dỗ, nó xấu hổ, bẽ bàng rút êm để chờ dịp khác! Nó thua keo này, nhưng nó sẽ chờ keo khác, chỉ khi nào chúng ta thở hơi cuối cùng thì chúng mới ngưng hẳn cám dỗ chúng ta !

Ma quỷ rất tinh ranh, chúng thường lợi dụng những yếu đuối của con người để dụ dỗ, lôi kéo và chúng thường dùng nhiều cách để cám dỗ:

1. Quỷ dữ hành động như một con chó:

Thánh Inhaxiô đã viết: “Khi người tập tành trong đàng thiêng liêng thẳng tay chống trả các cơn cám dỗ bằng cách làm điều ngược lại, thì ma quỷ sẽ khiếp đảm và bỏ chạy. Trái lại, nếu người ấy bắt đầu sợ hãi và mất can đảm trước cơn cám dỗ, thì trên mặt đất này không có vật nào hung dữ bằng ma quỷ, để theo đuổi ý định xấu xa của nó” ( LT số 325).

Vâng, ma quỷ như một con chó, nếu ta can đảm chống lại, nó sẽ cúp đuôi bỏ chạy. Ma quỷ chỉ mạnh mẽ khi ta hèn nhát. Do vậy, khi nhận ra những cám dỗ làm điều xấu, chúng ta phải dứt khoát chống trả, phải mau mắn làm theo ý Chúa từ những điều nhỏ nhất. Satan không thể dùng sức lực tàn bạo để khuất phục những ai đã thuộc về Đức Kitô.

2. Quỷ dữ hành động trong bóng tối:

Thánh Inhaxiô còn so sánh ma quỷ với một người tình giả dối: “ luôn tìm cách tránh né, không muốn bị phát hiện. Khi muốn cám dỗ người khác, người ấy muốn những lời mình nói, những việc mình yêu cầu được giữ kín” ( LT số 326)

Khi ma quỷ đã gieo vào lòng chúng ta những điều xấu, chúng ta sẽ cảm thấy bối rối, bất an. Hãy can đảm nói ra những gì làm ta bối rối, bất an với Cha mẹ, Linh mục giải tội, những vị linh hướng…Quỷ sẽ hết lợi dụng ta được. Vì ma quỷ biết rằng nó không thể thành công trong các việc xấu của nó, nếu những sự lứa dối đó bị phát giác.

3. Quỷ luôn tìm chỗ yếu của linh hồn để tấn công

Sau hết, Thánh Inhaxiô ví ma quỷ giống như một nhà Chỉ huy quân sự. Ông ta nghiên cứu tình hình, dò xem những điểm yếu về thể lý và tâm lý của đối phương, rồi tấn công vào “ điểm yếu nhất”. Ma quỷ cũng vậy, nó nghiên cứu cá tính của ta và tìm chỗ yếu nhất. Nếu ta có tính nhút nhát, nó sẽ tìm cách làm ta ra hèn nhát; nếu ta ưa khoe khoang, nó sẽ tha hồ nịnh bợ ta; nếu ta nặng tình cảm, nó sẽ thôi thúc ta nuôi một lòng đạo đức nặng cảm xúc, không có nội dung mà chỉ có hình thức…vì vậy, biết mình và biết những điểm yếu của mình là một điều vô cùng hệ trọng. Một khi ta biết rõ những điểm ấy rồi, ta có thể dâng lên Chúa để Người chữa lành và thế là ma quỷ thua cuộc.

Ma quỷ thường dùng nhiều cách để tấn công chúng ta, nên chúng ta phải can đảm chống lại điều xấu, thành thật nói ra với những người hữu trách những gì làm ta bối rối, và đề cao cảnh giác điểm yếu của mình để được Chúa luôn làm chủ cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải tự trang bị cho mình sức mạnh để thắng cám dỗ bằng việc học hỏi Lời Chúa, siêng năng cầu nguyện và luôn tin tưởng, phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.

“Đối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều biến thành tốt” ( Rm 8,28). Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa về giờ học hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con thực hành điều chúng con quyết tâm, để chúng con thắng được những cám dỗ trong cuộc sống chúng con. Và ngay cả khi yếu đuối sa ngã, xin giúp chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ.

Bài giảng tĩnh tâm ấy như tiếp thêm nguồn sinh khí cho từng thành viên trong nhóm nghị lực, can đảm và sức mạnh để đi tiếp cuộc hành trình khám phá ơn gọi và phục vụ tha nhân. Mỗi người trong nhóm được thôi thúc và thêm nguồn hăng say hơn, mỗi người có lẽ đều chung một cảm nghĩ: "Chúng ta cần phải hy sinh, dấn thân, cộng tác và phục vụ nhiều hơn nữa, nghĩ mình cần phải nhỏ bé lại để cho chính lời Chúa lớn lên".

Sau bài giảng, chúng tôi lại thinh lặng và nhìn lên thập giá của Chúa Kitô, mỗi người đều thưa lên với Chúa những tâm tư và ước nguyện của mình; duyệt xét lại bản thân, ăn năn dốc lòng chừa và chuẩn bị lãnh bí tích Hòa Giải. Bây giờ tất cả đều nhận thấy sự thoải mái và nhẹ nhàng, cùng có chung cảm giác phải cố gắng hăng say, yêu mến, và hy sinh nhiều hơn....

17h30, sau giờ kinh chiều tại nhà thờ cùng quý Thầy, chúng tôi đã dùng cơm tối tại nhà ăn Đan Viện và được gặp gỡ các bạn SVCG Thái Bình vừa mới về tới Đan Viện để tĩnh tâm Mùa Chay. Sau bữa ăn, mọi người mỗi người một tay cùng dọn dẹp, nhanh nhanh để chuẩn bị cho chương trình buổi tối hôm đó.

Đúng 18h30, mọi người lại trở về nhà nguyện để chuẩn bị cho Thánh Lễ và giảng tĩnh tâm 2. Và 19h00, Cha linh hướng Gioan đã dâng Thánh lễ tĩnh tâm cho các bạn SVCG Bùi Chu và SVCG Thái Bình. Mở đầu Thánh Lễ, Cha Gioan mời gọi các bạn sinh viên đi theo con đường Giêsu. Con đường đầy những gai góc, khó khăn, trở ngại và thách đố. Cho nên, chúng ta phải tin tưởng, cậy trông, phó thác vào tình yêu thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.

Trong bài giảng lễ, Cha Gioan đã diễn giải ăn chay chính là việc kết hợp với Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, là cách thức chúng ta cùng chịu đóng đinh, cùng chịu vác thập giá với Đức Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta phải ăn chay vì chúng ta thờ ơ, khô khan, nguội lạnh, mải mê chìm ngập trong tội lỗi, đam mê dục vọng xác thịt của mình, không cần đến Thiên Chúa nữa. Cho nên chúng ta phải chay tịnh, hy sinh, hãm mình, cầu nguyện làm mới lại tâm hồn, bỏ con người cũ tội lỗi, yếu đuối ấy đi mà mặc lấy con người mới trong Đức Kitô, đón Chúa đến với chúng ta, chia cơm xẻ áo với những người cùng khốn bên cạnh chúng ta, yêu thương nâng đỡ những con người yếu đuối, lầm đường, lạc lối, mở lối cho họ được trở về nẻo chính đường ngay.

Cha Gioan dâng lời cầu nguyện: “Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ hướng dẫn soi sáng để mỗi người chúng ta trong mùa Chay thánh này thực sự biết thực hành việc chay tịnh, biết sống vì chay tịnh, hãm mình như ý Chúa muốn”.

Kết thúc Thánh lễ, hơn 200 bạn sinh viên đã cùng đi đàng Thánh giá trọng thể xung quanh Đan Viện tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Chặng 14 đàng Thánh giá, chúng con quỳ bên Thánh Giá Chúa trong ngôi thánh đường cổ kính của Đan Viện. Cùng suy niệm mầu nhiệm thương khó của Chúa. Trong những giây phút thiêng liêng đi đàng thánh giá này, chúng con mới cảm nhận được con ở gần Chúa hơn bao giờ hết, "Chúa đến và tự hủy mình ra không" và con mới thấu hiểu được những nỗi thống khổ khôn xiết mà Chúa đã phải trải qua vì tội lỗi của nhân loại.

Sau đó, các bạn sinh viên cùng quy tụ xung quanh bàn thờ trên Gian Cung thánh và cùng tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể. “Con về nơi đây, về bên Chúa trong Bí Tích tình yêu. Kính thờ yêu mến, lòng trào dâng tâm tình tri ân Ngài” và cùng suy niệm những lời cuối cùng của Chúa trên thập giá: “Ta khát” (Ga 19,28b).

“TA KHÁT…”, đó là lời mà Chúa Giêsu đã thốt lên khi Ngài ở trên thập giá cách đây hơn 2000 năm. Chúa đã kiệt sức, mệt mỏi sau những trận roi đòn của quân lính khi Người mang lấy tội lỗi của chúng ta mà treo lên cây thập tự máu, mang xuống ngục tổ tông mà phá tan xiềng xích tử thần. Nhân loại quá thờ ơ trước cái nhìn và lời khẩn khoản của Người: ta khát, mang dấm chua, mật đắng cho ngài. Dù vậy, Người vẫn xin Chúa Cha “tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Vì yêu chúng con, Người đã lập bí tích mà ở với chúng con đêm ngày. Vì yêu con mà Chúa không màng tới sự thờ ơ, vô tâm của nhân loại khi Người kêu lên “ta khát”. Thay vào đó là lời cầu xin tha tội cho chúng con. Tình yêu Chúa dành cho chúng con, những đứa con tội lỗi thật quá cao siêu. Chúng con, những đứa con đang lưu lạc nơi dương gian lắm bon chen và tranh đấu xin nép mình bên Thánh Thể Chúa bé nhỏ đơn sơ để cảm nghiệm những giây phút an bình và kín múc nguồn tình yêu Thánh Thể dồi dào mà vì yêu chúng con, Chúa đã hóa nên tám bánh mọn hèn trong bí tích Thánh Thể.

Thánh vịnh 63 được hát xướng lên cách chậm rãi nhưng rất sốt sắng, như thể mỗi người nhai kỹ và nuốt từng lời thánh vịnh để thờ lạy Thánh Thể và tung hô Chúa.

Kinh Cầu Trái Tim đọc khoan thai. Từng lời ‘Thương xót chúng con’ nghe mà thấm thía, con cảm nhận rõ mình là tội nhân trước một Thiên Chúa uy quyền mà đầy lòng xót thương.

Cùng quỳ gối cầu nguyện bên Thánh Thể Chúa, con đã muốn thốt lên những lời xin lỗi, lời cầu bầu của riêng con. "Con xin lỗi Người vì chỉ những phút giây nhậu nhẹt, vui chơi cùng bạn bè mà con quên tìm về với Chúa mỗi cuối tuần, con xin lỗi Người những lúc con sẵn sàng giấu niềm tin của mình chỉ vì vật chất trước mắt, con xin lỗi Người vì con đã để ham muốn thể xác trỗi dậy,che lấn đi những lời khuyên của Chúa...". Nhiều, nhiều lắm những lời xin lỗi con muốn nói với Người. Nhưng con và các bạn của con đã chẳng thể nói vì giây phút đó ai cũng nghẹn lời khi mà chúng con đã có quá nhiều lỗi lầm và thấy ân hận vì chẳng đáng là con cái của Chúa, "vì con cái sao có thể đưa Người Cha của mình đến chỗ chết".

Con chỉ biết bày tỏ bấy nhiêu thôi sau hai ngày con rời xa thế giới hiện tại để thinh lặng chạy đến cùng Cha trí ái. Con cũng mong Người sẽ dẫn dắt không chỉ riêng Con mà cả những anh chị em của Con đang sống và làm việc xung quanh Con biết trân trọng những gì Chúa đã trao ban và biết đối nhân xử thế sao cho xứng là một Kitô Hữu. Những lời kinh vang xa, vọng về… trong một đêm âm u hoang vắng. Như thể lời cầu đã thâu đến tai Chúa và được trả lời “Ta đã nhận lời các con”.

Sau giờ kinh, Cha Gioan đọc lời cầu nguyện chung: cầu cho Hội Thánh, cầu cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, cầu cho các Đức Giám Mục và Linh mục chúng con, cầu cho các tu sỹ và toàn thể giáo dân, cầu cho thế giới hòa bình, cầu cho muôn người hiệp nhất trong một Đức Kitô…Toàn thể cộng đoàn kính thờ lạy Thánh Thể.

Giờ Chầu kết thúc. Mọi người ra về với niềm vui và nỗi buồn đan xen lẫn lộn. Vui vì thực sự được hiệp thông cùng đông đảo các bạn sinh viên đến từ 3 Giáo Phận chầu Thánh Thể Chúa trong niềm tin vào một Thiên Chúa. Buồn vì sự hiệp thông ấy chỉ diễn ra trong một giờ, sự hiệp thông của những ngày tiếp sau sẽ lại như những mảnh vỡ của một bức tranh được ghép lại mà dâng lên Chúa. Dù sao, trong niềm tin, các bạn sinh viên 3 Giáo Phận đã trải qua một giờ linh thiêng quây quần bên vị Cha chung để cùng cầu nguyện với Chúa. Sự hiệp thông mà ta cảm nhận được rõ ràng, nó gần gũi, nó linh thiêng, nó không giống như khi cầu nguyện đơn lẻ thông thường.

Kết thúc giờ chầu Thánh Thể, tâm tình của chúng con xin được hiệp nhất với nhau trong một chén và một bánh luôn mãi như lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế, Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.”(Ep4,3.16)

11h00, đêm đã về khuya, mọi người về phòng nghỉ, khép lại một ngày với nhiều hoạt động thật ý nghĩa và thiêng liêng.

Buổi sáng Chúa Nhật II Mùa Chay bắt đầu với nhóm từ lúc 04h00. Cùng thức dậy và dâng ngày mới cho Chúa, thật hiếm khi có dịp mọi người được hưởng bầu không khí trong lành đến tinh khôi của một buổi sáng sớm tại một ngôi Thánh đường như thế.

04h30, chúng tôi tham dự giờ kinh sáng – nguyện ngẫm cùng quý Cha và quý Thầy tại Thánh đường Đan Viện.

“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,

cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,

cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,

tự muôn đời và chính hiện nay

luôn mãi đến thiên thu vạn đại. Amen.”

Những bài Thánh vịnh được cất lên với giọng ca thanh thoát, thật tuyệt vời, như những lời ca các Thiên thần đang ca hát vinh quang Chúa trên thiên quốc. 05h30, Thánh lễ sáng Chúa Nhật cùng với quý Cha và quý Thầy Đan Viện cùng đông đảo các bạn sinh viên và một số bà con giáo dân tại ngôi thánh đường cổ kính. Tuy là một Thánh lễ sáng sớm còn khá ngái ngủ, nhưng mọi người đều tham dự vô cùng sốt sắng, cùng dâng ngày mới, tâm hồn lên Thiên Chúa.

07h30, sau khi đã ăn điểm tâm sáng và thu dọn xong, chúng tôi đã đi bộ hành hương về bên chân Mẹ tại ngọn núi phía sau Đan Viện. Trong tâm tình những đứa con thơ, chúng tôi dâng lên Mẹ lời tạ ơn về một năm đã qua và cầu bình an cho những ngày tháng sắp tới. Trong chuyến hành hương này, chúng tôi có tất cả hơn 200 bạn sinh viên, đồng hành với chúng tôi có Đức Tổng Giuse và Cha linh hướng Gioan nữa.

Đoạn đường dốc với hơn ba trăm bậc cấp cao thấp khác nhau từ chân núi lên đến chân Đức Mẹ được chia ra làm mười bốn chặng. Mỗi chặng tương ứng với một chặng đàng Thánh giá Chúa Giêsu. Vừa leo núi, chúng tôi vừa dâng những tâm tình tạ ơn lên Mẹ với những lời đơn sơ: “Lạy Mẹ Maria kính yêu, hôm nay Giáo Hội bước vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Chúng con dành ngày Chay Thánh này để đến bên Mẹ, tạ ơn và dâng lên Mẹ những tâm tư tình cảm, những niềm vui nỗi buồn trong trong Mùa Chay này. Chúng con cảm ơn và xin Mẹnâng đỡ, che chở và cầu bầu cho chúng con trên suốt chặng đường theo Chúa. Giờ đây, chúng con xin cùng bước theo Mẹ qua các Mầu nhiệm của Kinh Mân Côi”.

Phải nhờ Mẹ để có thể đến với Chúa Giêsu được: “Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết chạy đến cùng Mẹ trong những lúc gian nan, thất vọng của chúng con hay những lần chúng con sa ngã, phạm tội, xin bàn tay dịu hiền của Mẹ dẫn dắt chúng con trở về với Chúa Giêsu con Mẹ”.

Sau khi leo hơn ba trăm bậc đá, chúng tôi đã lên đến hang đá Đức Mẹ - nơi xưa nhiều Cha, Thầy đã ẩn tu tránh sự bắt bớ. Trong những phút thinh lặng dưới chân Đức Mẹ, mỗi người chúng tôi nhìn lại những năm tháng đã qua và dâng lên Mẹ những lời cầu nguyện và quyết tâm trong hành trình cuộc đời mới: “Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết noi gương Mẹ luôn vâng phục thánh ý Chúa trong tin yêu, cảm mến và cậy trông vào tình yêu quan phòng của Chúa. Xin cho chúng con biết sống yêu thương, dấn thân phục và sống tinh thần nghèo khó để chúng con trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa trong cuộc sống thường ngày”.

Mặc dù các bậc thang lên núi khá trơn trượt do trời mưa nhiều ngày hôm trước, nhưng với tình yêu thương và quý mến, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt đã không quản mệt mỏi cùng lên núi và giảng tĩnh tâm “Bài giảng trên núi” cho các bạn sinh viên.

Mở đầu “bài giảng trên núi”, Đức Tổng Giuse mời gọi các bạn sinh viên hiểu thấu chủ đề phụng vụ của năm 2014 là “Tân Phúc - Âm - hoá đời sống gia đình”. Trước hết, Đức Tổng nhấn mạnh: chỉ có một Tin Mừng duy nhất của Đức Kitô mà thôi, Tân Phúc - Âm - hoá không phải là rao truyền một Tin Mừng mới, mà là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, rao giảng với một tinh thần nhiệt thành và hăng say hơn, vận dụng phương pháp truyền giáo thích hợp, phù hợp với từng vùng từng địa phương và sử dụng cách diễn giải phù hợp với con người ngày hôm nay để loan báo Tin Mừng.

Để giúp cho các bạn sinh viên thực hiện được điều đó, Đức Tổng chia sẻ về tình trạng khó khăn có nguy cơ khủng hoảng trong đời sống các gia đình, nguyên nhân: gia đình là nạn nhân của một xã hội đầy sự giả dối, bạo lực và vô cảm. Cuối cùng, Đức Tổng đi đến: Gia đình Công Giáo vác thập giá theo Đức Kitô. Và Tin Mừng là phương thế đích thực, là sức mạnh để các gia đình đủ sức vác thập giá, vượt qua thử thách xây dựng được hạnh phúc gia đình.

Những lời chia sẻ mộc mạc của Đức Tổng Giuse thật sự làm chúng con thẩm thấu được nhiều điều, Ngài đã nghe câu nói của ĐTC Phanxicô là giảng không cao siêu, mà mộc mạc cho mọi người cùng hiểu,... Rồi ngài nhấn mạnh: Gia đình phải là một cộng đoàn cầu nguyện, cộng đoàn bảo vệ và phát triển sự sống, cộng đoàn yêu thương và trên hết gia đình phải loan báo và làm chứng cho Tin Mừng giữa lòng thế giới hôm nay.

Gia đình thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng cách đến với anh em lương dân, giới thiệu Chúa cho những người chung quanh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.... dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).

Gia đình cần mạnh dạn loan báo Lời Chúa bằng lòng thương xót. Vì lòng thương xót chính là trọng tâm và căn bản của Tin Mừng Chúa Kitô qua dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” (Lc 10,30-35) và được bổ trợ bằng 3 dụ ngôn:

1, Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Luca 15,11-32)

2, Dụ ngôn “Cuộc phán xét chung” (Mt 25,31-46)

3, Dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó” (Lc 16,19-31)

Trước tiên, dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” (Lc 10,30-35)là một trong những dụ ngôn được nhiều người biết nhất, không chỉ đối với người theo đạo Chúa mà còn đối với người theo tín ngưỡng khác khắp nơi trên thế giới. Nói đến người Samaritanô nhân hậu, người ta nghĩ ngay đến người giàu lòng nhân nghĩa, bác ái, hào hiệp luôn luôn sẵn sàng giúp người khốn cùng, giữa đường lâm nạn đang cần sự giúp đỡ. Gần như mỗi người trong cuộc sống ở thế gian đều có nhu cầu khẩn thiết, đặc biệt là nhu cầu tâm linh cần được cứu rỗi. Bởi đó, dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” đã ảnh hưởng sâu đậm đến hành động, việc làm của rất nhiều người, cả đời lẫn đạo.

Đọc và tìm hiểu dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” dưới ánh sáng của chương trình cứu độ đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, người đọc sẽ thấy rõ bài học khuyên dạy của Chúa: mỗi người chúng ta hãy “chấp nhận giá cứu chuộc của Đấng Cứu Thế” bằng cách hãy tỏ lòng xót thương đối với người đồng loại của mình. Câu chuyện Chúa Giêsu kể không phải là để trả lời câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” nhưng chính là để trả lời cho câu hỏi trước đó, quan trọng hơn: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Nếu người thông luận hiểu được ý Chúa Giêsu và hành động như người Samaritanô trong dụ ngôn thì con đường thể hiện tiềm năng thánh thiêng (divine potential) của ông để trở nên giống như Đấng Cứu Chuộc đã được vạch ra.

Đọc dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” theo cách này có thể khiến người đọc tự đặt mình vào vị trí các nhân vật trong câu chuyện, rồi xét suy cuộc sống của chính mình. Chắc chắn Chúa Giêsu mong muốn mỗi người tín hữu hãy tự xem mình và hành động như Người Samaritanô nhân hậu giúp người lâm nạn giữa đường cũng như cứu vớt những linh hồn lạc lỏng. Chúa bảo người thông luật Pharisêu: “Hãy đi và cứ làm như vậy để được sống đời đời” (Lc 10,37). Bằng cách này, chúng ta cùng tham gia với Chúa để mang lại sự cứu rỗi và cuộc sống vĩnh hằng cho nhân thế.

Những môn đồ theo Chúa, hàng giáo phẩm, các giáo sĩ, cũng có thể nghĩ mình chính là người chủ quán trọ với trách nhiệm chăm sóc dài hạn để giúp người bị thương tích sớm hồi phục. Chính người chủ quán chấp nhận lời hứa đền bù ơn phúc, phần thưởng từ người Samaritanô.

Hoặc người đọc cũng có thể ví mình như người khách đi đường có nhu cầu cần sự trợ giúp, hay ví mình như các ông tư tế, Lêvi sống vì lề luật và cho lề luật, không có quyền năng chữa lành hay giải quyết vấn đề, có thái độ dửng dưng, làm ngơ trước những khổ đau của người đồng loại. Cũng có thể chúng ta đóng vai kẻ cướp vì đôi khi chúng ta làm phương hại gây tổn thương cho người khác. Nói khác đi, trong suốt cuộc đời của mỗi người tín hữu, lúc này hay lúc khác, chúng ta có thể hành động, đóng vai các nhân vật trong câu chuyện “Người Samaritanô nhân hậu”.

Con người là con-vật-có-xã-hội-tính. Không ai muốn sống một mình, và cũng không ai có thể sống một mình mà không cần đến người khác, ngay cả những người thừa tiền dư bạc. Con người luôn có nhu cầu cần được trợ giúp phần xác và cứu rỗi phần hồn. Cho nên dụ ngôn đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống tâm linh của hầu hết mọi người.

Trong các giới hạn của đời người như sinh, bịnh, lão, tử...thì dường như “chết” là điều vô lý nhất. Viễn tượng của sự chết làm tê liệt mọi hoạt động của con người. Nếu sau sự chết là hư vô, là hoàn toàn chấm dứt, là không còn gì nữa hết... thì cuộc sống ở thế gian quả là một bi kịch, cực hình: sanh ra, lớn lên, học hành, tranh sống bằng trăm phương ngàn kế, giành giựt chém giết nhau, lừa đảo để thủ lợi, chiến tranh... rồi cuối cùng cũng chết, cũng hết. Nếu chết là sự chấm dứt hoàn toàn về mọi phương diện – vật chất, tinh thần, tâm linh, linh hồn – thì quả thật khó mà tìm ra người hay lý do để “yêu thương người thân cận như chính mình.” Khi con người đi tìm “một đời sống khác” làm đích nhắm cho cuộc sống đời này thì đời sống hiện tại sẽ đổi màu thay sắc khác, sẽ có nhiều ý nghĩa tốt lành, tươi đẹp hơn. Cuộc đời ở thế gian thay vì là tận điểm sẽ trở thành khởi điểm cho một cuộc hành trình về chốn vĩnh cửu đầy ơn phước.

Giải đáp cho câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” để tôi “yêu thương như chính mình” chỉ có nghĩa khi tôi nghĩ cách “phải làm gì để được sự sống đời đời. ” Đó là câu hỏi khẩn thiết và cấp bách nhất của con người. Qua dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”, Chúa Giêsu đã hé mở cho chúng ta một chương trình cứu rỗi để có cuộc sống vĩnh hằng. Những tình tiết trong dụ ngôn rất thích hợp, ăn khớp, và nối kết chặt chẽ với nhau để phác họa nên chương trình cứu độ và cuộc sống đời sau. Và đó chính là ẩn ý của Chúa Giêsu khi kể dụ ngôn này cho người thông luật Pharisêu.

Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Lc 15,11-32)là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu.

1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ

Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.

Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.

Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.

Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.

Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.

Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.

Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.

2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.

Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.

3. Nét thứ ba của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.

Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.

Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.

Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.

Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

Dụ ngôn “Cuộc phán xét chung” (Mt 25,31-46).Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.

Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự mãn.

Dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó” (Lc 16,19-31)có 2 sứ điệp chính: Chúa Giêsu dạy các môn đệ sự cần thiết phải chia sẻ của cải cho những ai túng thiếu và khuyên họ hãy cẩn thận trước những nguy hiểm của sự giàu sang; đồng thời cũng cho thấy rõ một quan niệm về thế giới bên kia như tương lai thực sự của con người.

Ladarô được đưa về thiên đàng, vào cung lòng của Ápraham không phải vì đã sống một cuộc đời nghèo khó, nhưng là do ân sủng của Chúa và niềm tín thác vào Chúa. Chính Ápraham đã từng là một người rất giàu có sung túc, nhưng ông cũng là người có Đức tin mạnh mẽ và tình yêu sống động với Thiên Chúa. Cho dù được cứu độ hoàn toàn do ân sủng (sola gratia) những người nghèo của Thiên Chúa như Ladarô cũng cần phải trả lời cho Tin mừng Luca rằng Thiên Chúa nâng cao người thấp hèn trong cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu (x. Lc 16,31). Cũng vậy, người phú hộ bị kết án không phải vì có của cải dư thừa, giàu sang phú quý, nhưng là vì lơ là, dửng dưng trước lời dạy của Sách Thánh, của Môsê và các Ngôn sứ, không biết sống yêu thương và hiệp thông với Chúa và người lân cận, mà chỉ biết đến bản thân mình mà thôi.

Sứ điệp của dụ ngôn này không phải là lời mời gọi chúng ta trở nên người nghèo vật chất như Ladarô. Sứ điệp đó là gì? Nếu chúng ta là những người giàu về của cải, khả năng, trí tuệ, sức khỏe, ngoại hình, ơn thánh,… biết lắng nghe và làm theo giáo huấn của Tin mừng và Cựu ước, biết quan tâm, chăm sóc, chia sẻ với những người bên cạnh yếu kém hơn chúng ta về thể lý và tinh thần như Ladarô, thì chúng ta sẽ được một chỗ trong bàn tiệc Thiên sai. Nếu chúng ta là người nghèo về mọi mặt, thì xin Chúa cũng cho chúng ta biết sống tinh thần khiêm tốn, phó thác, tin tưởng, ngoan thảo, hiền hòa trước những lời dạy dỗ của Chúa, những vị ngôn sứ, những người thay tiếng nói của Chúa… để một ngày kia, sau khi kết thúc cuộc đời bước theo Chúa, chúng ta được các thiên thần đón về với Đức Kitô, người thầy và người bạn chí thánh của chúng ta, tiến sâu vào cung lòng của Ba Ngôi và tham dự bữa tiệc Thiên quốc chan chứa tình thương đến thiên thu, vạn đại.

Như vậy, qua 4 dụ ngôn trên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực thi lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hàng ngày, làm chứng cho Người bằng việc bác ái, thương xót và phục vụ tha nhân. Lòng thương xót kết nối con tim, xóa tan khoảng cách và hận thù. Từ đó, Đức Tổng Giuse kết luận, Giáo Hội ngày nay phải trở lại đúng với bản chất nguyên thủy của mình, là đồng hành và nâng đỡ mọi người trong Đức Tin và trong truyền thống Kitô giáo. Giáo Hội phải là một bệnh viện dã chiến hằng mau mắn chữa lành mọi lỗi lầm cho người dân. Giáo Hội phải là một người hòa giải luôn đứng ra bênh vực cho người nghèo, cho người bất công và thiệt thòi. Giáo Hội phải là một sứ điệp của trái tim, của sự giản đơn, trở về với căn tính đích thực của mình nơi Đức Kitô. Giáo Hội phải là một Giáo Hội của Emaul, luôn sẵn sàng trò chuyện và tâm sự, đồng hành với người dân khi đêm khuya hay sáng sớm. Giáo Hội Công Giáo phải mạnh mẽ và thăng tiến hơn nữa qua ân sủng của Đức Mẹ, điều mà Giáo Hội Tin lành khước từ.

Những hình ảnh gần gủi người nghèo của Đức Thánh Cha mà Đức Tổng Giuse nhắc đến là những bài học, là những tấm gương cho mỗi người chúng con phải noi theo trong công việc bác ái - một việc mà chúng con cần làm trong sứ mệnh của con cái Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “tôn thờ tiên bạc” và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.

Đức Thánh Cha phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì ngài thấy rõ sự chênh lệch quá to lớn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này. Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm qua (2013), ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phanxicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8,9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha muốn thực hành, phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa, “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20,28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1 vừa qua (2014), Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau: “Cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài, mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó, xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bằng cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ, tiết độ và khó nghèo.”

Khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc, được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng điều quan trọng nhất, là phải thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3; Lc 6,20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây, không có nghĩa là phải đói khát, rách rưới về phần xác như đã nói ở trên, mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi xa hoa, danh vọng trần thế, đến độ làm nô lệ cho chúng để không chú trọng vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.

Sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ, Tòa Giám mục được xây cất sang trọng, lộng lẫy, để khoe khoang với du khách, mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi giáo dân để giúp họ sống đạo có chiều sâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội, đi lễ, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Mặt khác, người tông đồ lớn nhỏ - nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư, đến nỗi có thể nói được về mình là “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20)

Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không? Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng, và toàn thể dân Chúa nói chung, phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20)

Nếu chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng và không xa tránh những cám dỗ về tiền bạc và quan tâm đúng mức đến người nghèo khổ, thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu được. Và cũng không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.

Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các xe đắt tiền loại Lexus, BMW, Mercedes…, đeo đồng hồ longines, Omega..., làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao..., thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.

Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giêsu Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, để chú tâm vào việc thi hành sứ mệnh của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và chân lý của sự giầu sang đích thực, là chính Thiên Chúa, Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2,9)

Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí của trần này, thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác. Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc, danh vọng và của cải vật chất hư hèn, mà cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi” (Mc 10,21).

Lời Chúa trên đây phải là đèn soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội bước đi qua bóng tối của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi. Chúa nói: “Ai có tai nghe, thì nghe” (Mt 13,43; Mc 4,23; Lc 8,8).

Rồi hình ảnh Giáo Hội Hàn Quốc mà Đức Tổng nói đến, đánh động con về sứ mệnh truyền giáo của mình. Thực sự chúng con chưa làm được gì, chúng con còn bất toàn chưa xứng đáng được gọi là con Chúa. Bài giảng tĩnh tâm của Đức Tổng Giuse về cái nghèo của Chúa Giêsu đối với các bạn sinh viên qua Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô thực sự đã đánh động và biến đổi tâm hồn chúng con, thôi thúc chúng con hành động để trở nên những người loan báo và làm chứng cho Tin Mừng. “Anh em hãy đi khắp thế gian và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).

Đúng 10h00, Đức Tổng Giuse cùng 2 Cha linh hướng đã đồng tế Thánh lễ Chúa Nhật II Mùa Chay và cũng là Thánh lễ bế mạc 2 ngày tĩnh tâm. Đức Tổng đã chia sẻ về bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay, với bài giảng về “Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabo và tỏ bày vinh quang Chúa cho 3 môn đệ thân tín”.

Bài giảng của Đức Tổng như một cuộc nói chuyện tâm tình, và cũng thật tình cờ, hôm nay có 3 Nhóm SVCG về tĩnh tâm Mùa Chay và cùng hiệp dâng Thánh lễ trên hang Đức Mẹ này như 3 môn đệ xưa được Chúa bày tỏ vinh quang trên núi Tabo. “1 Hôm ấy, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện. Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.

Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.

Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.

Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ. Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc. Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha. Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.

Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài. Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ. Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình. Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.

Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.

Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.

Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục. Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là. Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.

Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ. Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.

Ngày hôm nay, các bạn sinh viên quy tụ về nơi Đan Viện này, để cùng thân thưa với Chúa: “Lạy Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con Cha nữa…”. Lời sám hối của người con sau khi bước những bước lầm lạc rời xa tình yêu thương của người Cha đã đánh thức tâm trí biết bao người. Cho dù người con có tội lỗi thế nào, nhưng cánh tay của người Cha vẫn dang rộng đón con trở về. Nhìn sang một khía cạnh khác, Đức Tổng chia sẻ về vấn đề mỗi người nhìn nhận Thiên Chúa như thế nào trong cuộc sống hiện nay. Liệu bạn có coi Chúa là những ràng buộc, những lễ nghi phép tắc phải tuân theo hay đơn giản là Tình Yêu, là lẽ sống của đời bạn? “Hãy nói cho tôi bạn nghĩ Thiên Chúa là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người như thế nào”– Đức Tổng đã mượn lời Thánh Augustino để chốt lại vấn đề của bài giảng trên núi.

Cuối Thánh lễ, một bạn sinh viên đã đại diện cho hơn 200 bạn sinh viên đã chúc mừng Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, quý Cha linh hướng và các anh em nhận Thánh Giuse làm bổn mạng nhân ngày 19/3/2014 sắp tới.

Đáp lại, Đức Tổng mời gọi mọi người quan tâm, cầu nguyện, đồng hành với Cha và với Đan Viện. Đức Tổng cầu chúc cho quý Cha và các bạn SVCG trở nên những con người mới, những gia đình mới như Giáo Hội mong muốn và HĐGMVN mong chờ để chúng ta cùng hợp tác, làm việc với nhau xây dựng Giáo Hội VN, Giáo Hội địa phương, từng giáo xứ của chúng ta ngày càng thêm tốt đẹp hơn trong ân sủng của Đấng Phục sinh. Và chính những buổi tĩnh huấn này giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng thể hơn, rõ ràng hơn, có phương cách thực hiện chi tiết hơn để Phúc - Âm - hoá đời sống gia đình.

Sau Thánh lễ, chúng tôi được chụp ảnh chung với Đức Tổng và Cha linh hướng trên hang đá Đức Mẹ, lưu lại những kỉ niệm quý báu bên Chúa và bên các Ngài. Sau đó, chúng tôi đã cùng tháp tùng các Cha xuống núi về Đan Viện. Cùng tiến bước bên Đức Tổng và Cha linh hướng, cùng nghe và trò chuyện với các Ngài, chúng con như được trở về với tuổi thơ của mình, khi mà được đi bên bố mẹ đến nhà thờ tham dự thánh lễ hay nguyện ngắm Mùa Chay.

11h30, sau chuyến hành hương lên Núi Đức Mẹ, chúng tôi đã được dùng bữa cơm thân mật và cùng trò chuyện với Đức Tổng Giuse tại phòng ăn của Đan Viện. Ngài đã chia sẻ với chúng tôi rất nhiều về những thao thức của Ngài, Ngài luôn cầu nguyện cho mỗi người, mỗi bạn sinh viên của Ngài được bình an, khỏe mạnh và luôn sống trong ân Nghĩa của Chúa.

13h30, sau khi chào chia tay và cám ơn Cha Bề trên Đan Viện tại nhà khách, đoàn chúng tôi trở về Hà Nội, chia tay Đan viện Xitô Châu Sơn ai cũng thấy tâm hồn mình bình an sau khi được lời Chúa hướng dẫn và đã được Chúa tiếp thêm nguồn sinh khí mới. Chuyến hành trình tĩnh tâm Mùa Chay 2014 của Cộng Đoàn SVCG Bùi Chu kết thúc lúc 17h00. Đói và đã thấm mệt, mọi người cùng chia tay nhau trở về nhà. Chắc hẳn, những ngày sau mọi người sẽ nhớ nhau nhiều lắm, nhớ cả những kỉ niệm không thể nào quên của những ngày vừa qua. Ai cũng tự hứa với lòng mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa, hy sinh nhiều hơn nữa để phục vụ Chúa trong anh chị em. Tôi thầm cảm tạ Chúa đã ban cho đoàn chúng tôi trong 2 ngày tĩnh tâm thật tốt đẹp và thân tình. Qua buổi tĩnh tâm đó các thành viên trong nhóm càng thêm hiểu nhau và giúp đỡ nhau hơn trong công việc của nhóm và giúp đỡ anh chị em.

Chúa ơi, con tạ ơn Ngài đã quy tụ chúng con lại trong tình thương của Ngài. Xin Ngài thương ban muôn hồng ân xuống trên Cha linh hướng Gioan cùng tất cả mọi người chúng con. Amen!