Cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha do Infobae - một hãng thông tấn từ Á Căn Đình – thực hiện và được công bố hôm 10 tháng Ba đang gây ra sóng gió. Như thường thấy sau các cuộc phỏng vấn với Đức Thánh Cha Phanxicô, nhiều tin đồn nổi lên. Lần này, tin đồn là Đức Thánh Cha loại bỏ luật độc thân linh mục. Có những phương tiện truyền thông táo bạo với các hàng tít giật gân: luật độc thân linh mục đã bị đảo chính.
Linh mục Thomas Petri, dòng Đa Minh, một nhà thần học luân lý và là phó giám đốc, trưởng khoa giáo hoàng về Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tại các viện nghiên cứu Đa Minh ở Washington, DC, có bài viết nhan đề “No, Pope Francis didn’t really hint that the requirement for priestly celibacy will be lifted”, nghĩa là “Không, Đức Thánh Cha Phanxicô đã không thực sự ám chỉ rằng luật độc thân linh mục sẽ bị loại bỏ.”
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Đức Thánh Cha đã nói rõ ý của ngài qua lời nói của mình. Ngài nói rằng đời sống độc thân là một “đơn thuốc tạm thời” vì “nó không vĩnh cửu giống như việc truyền chức linh mục, vốn là vĩnh viễn.” Các phương tiện truyền thông thế tục và thậm chí một số tổ chức tin tức Công Giáo ngay lập tức đưa ra kết luận rằng Đức Thánh Cha đã sẵn sàng sửa đổi kỷ luật độc thân và ngài thậm chí có thể dỡ bỏ nó.
Tất nhiên, ngài không nói điều đó. Khi luật độc thân linh mục được thảo luận cởi mở tại Thượng hội đồng Amazon năm 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô thậm chí đã chọn không đề cập đến luật độc thân trong tông huấn hậu Thượng hội đồng của mình.
Cuộc phỏng vấn tạo cơ hội để suy ngẫm về chức tư tế và đời sống độc thân. Giáo huấn của Giáo hội về đời sống độc thân khác với giáo huấn của Giáo hội về đặc tính không thể xóa nhòa của việc truyền chức và các chức thánh được dành riêng cho nam giới. Đây là những tín điều do Giáo hội dạy cần phải tin để khỏi rơi vào tà giáo hay bất đồng chính kiến.
Chức linh mục là đời đời, đó là điều đã được mọi người tin tưởng cho đến khi đạo Tin lành trỗi dậy vào thế kỷ 16. Giáo Hội luôn sống theo thư Do Thái 7:17 (“Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm hàm Menkixêđê”). Sau khi những người theo đạo Tin lành chỉ trích thừa tác vụ được tấn phong, Công đồng Trentô đã long trọng xác định rằng Thiên Chúa đã mạc khải rằng mọi linh mục đều là linh mục đời đời. Ngày nay, khi các linh mục được giải phóng khỏi các nghĩa vụ của chức linh mục, họ không trở thành giáo dân nữa. Họ chỉ đơn thuần được phép không thi hành các bổn phận và nghĩa vụ của chức tư tế. Họ vẫn là linh mục. Không có linh mục nào từng bị “huyền chức,” bất chấp sự phổ biến của từ ngữ đáng tiếc đó.
Năm 1976, Bộ Giáo lý Đức tin lưu ý trong sắc lệnh Inter Insignores, nghĩa là “Giữa Những Điều Đáng Lưu Ý”, rằng Giáo hội không có thẩm quyền phong chức cho phụ nữ vì chính Chúa Kitô đã không chọn phụ nữ trong số Mười hai Tông đồ và vì các thánh Tông đồ, những người được trao quyền giảng dạy sau khi Chúa Kitô lên trời, cũng không bao giờ chọn phụ nữ. Tuy không được nêu rõ ràng trong Kinh thánh, đó là một kết luận hợp lý cần thiết từ mặc khải của Kinh thánh và truyền thống.
Chúa Kitô không nhất thiết phải tuân theo các chuẩn mực văn hóa. Các Tông đồ, những người đã dạy nhiều hơn Chúa Giêsu khi còn sống trên đất, đã áp dụng nhiều phong tục Hy Lạp - Rôma thay vì các quy tắc của Môisê. Người Hy Lạp có các nữ tư tế, nhưng các tông đồ vẫn không phong chức cho phụ nữ. Với sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã tuyên bố rằng những sự thật này là dứt khoát và chung cuộc: Giáo Hội không thể phong chức cho phụ nữ.
Năm 1994, Đức Gioan Phaolô II tái khẳng định kết luận này trong Tông Thư Ordinatio Sacerdotalis, hay Chức Linh Mục. Một năm sau, Bộ Giáo lý Đức tin lưu ý rằng bức thư của vị thánh giáo hoàng tuyên bố rằng giáo huấn Công Giáo luôn dạy rằng phụ nữ không thể được phong chức. Có thể đến một ngày, như đã xảy ra vào thế kỷ 16, khi một giáo hoàng hoặc một hội đồng đại kết phải long trọng tuyên bố rằng đây là một sự thật được Chúa mặc khải, nhưng hiện tại, đó là một phần của huấn quyền thông thường và phổ quát mà chúng ta phải tin rằng phụ nữ không thể được phong chức kẻo chúng ta trở thành những người bất đồng chính kiến với đức tin Công Giáo.
Luật độc thân linh mục thuộc một phạm trù khác. Mặc dù chương thứ tư của Tin Mừng Luca cho chúng ta biết rằng Thánh Phêrô có một bà mẹ vợ, nhưng lời khuyên của Chúa về việc giữ trinh tiết vì vương quốc (Mt 19:12) đã trở thành quy tắc. Thánh Phaolô lưu ý rằng những người đàn ông độc thân hoàn toàn tận tụy lo việc Chúa (1 Cr 7:32). Độc thân là kỷ luật từ rất sớm.
Mặc dù ngay từ thế kỷ thứ tư đã có các Công Đồng địa phương, chẳng hạn như Công Đồng Elvira, quy định các linh mục phải sống độc thân, nhưng người ta hiểu rằng ngay cả các linh mục đã kết hôn cũng thực hành tiết chế tình dục vì họ phải chuyên tâm thờ phượng Chúa. Đó là sự chuyển tiếp từ Do Thái giáo, vốn hiểu rằng các linh mục phục vụ trong Đền thờ phải kiêng quan hệ tình dục với vợ của họ để tập trung vào Chúa.
Khi Chúa Kitô thay thế cho Đền thờ; và Bí tích Thánh Thể trở thành phương thức thờ phượng thiêng liêng chính, ngay cả những linh mục đã kết hôn trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội cũng có xu hướng thực hành hôn nhân “Josephite” – nghĩa là một cuộc hôn nhân không có quan hệ tình dục - để họ có thể trong sạch và không bị chia cắt trong việc thờ phượng Chúa. Các nhà phê bình hiện đại về chủ nghĩa độc thân đã không thực hiện nghiên cứu của họ. Ngay cả các linh mục đã kết hôn trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội cũng không còn là chồng theo nghĩa mật thiết vì họ và vợ của họ hiểu được tính ưu việt của việc thờ phượng Thiên Chúa và sự thờ phượng chuyên tâm cần có nơi những người tận hiến để dâng Thánh lễ.
Mặc dù Giáo Hội Công Giáo Rôma ngày nay vẫn có những ngoại lệ đối với tình trạng độc thân các linh mục - chẳng hạn như đối với các linh mục trong Giáo hạt tòng nhân Anh giáo - và mặc dù Giáo hội Đông phương có các linh mục đã kết hôn, nhưng ngay cả các linh mục đã kết hôn ngày nay cũng nhận ra tầm quan trọng, giá trị và tính ưu việt của tình trạng độc thân. Các linh mục độc thân sống như Chúa Kitô đã sống trong thế giới này. Sự độc thân và sự hy sinh của ngài đã mang lại sự sống cho thế giới.
Chắc chắn rằng một ngày nào đó trong tương lai, kỷ luật độc thân có thể biến mất, nhưng điều đó không có nhiều khả năng sẽ xảy ra. Các giáo phái Tin lành có giáo sĩ đã kết hôn có ít ơn gọi hơn nhiều giáo phận và dòng tu Công Giáo. Một giáo sĩ độc thân đã trở thành tiêu chuẩn trong Giáo Hội Công Giáo trong vài trăm năm. Các giáo xứ và giáo phận không sẵn sàng hỗ trợ các gia đình giáo sĩ. Hầu hết các linh mục kiếm được ít hơn mức lương tối thiểu hàng năm, bất kể những lợi ích bổ sung mà họ có thể nhận được - những lợi ích mà hầu hết các giáo xứ và giáo phận không đủ khả năng mở rộng cho một gia đình.
Quan trọng hơn, trong khi các linh mục đôi khi phải vật lộn với đời sống độc thân, và đôi khi họ có thể coi đó là một thử thách trong việc phục vụ Chúa và Giáo hội của Người, thì có rất ít, có lẽ chỉ một số ít, các linh mục tốt sẽ từ bỏ đời sống độc thân trong chức linh mục của họ. Chỉ có những nhà phê bình và những người ngoài cuộc nói với các linh mục rằng các ngài nên kết hôn. Dù hôn nhân là một điều tốt đẹp, nhưng linh mục chúng tôi biết rằng Thiên Chúa còn đòi hỏi nơi chúng tôi nhiều hơn thế.
Nó đòi hỏi một ân sủng nào đó để sống độc thân một cách vui vẻ và trọn vẹn. Sự cần thiết của một ân sủng như vậy bảo đảm rằng các linh mục hoàn toàn tận tụy với Thiên Chúa và chúng tôi được ban ân sủng để tận tụy như vậy trong suốt cuộc đời của mình.
Source:Catholic News Agency