Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée

Chương hai: Kinh Tin Kính Nicée trong đời sống của các tín hữu: “Chúng tôi tin như chúng tôi rửa tội; và chúng tôi cầu nguyện như chúng tôi tin"
Mở đầu: Đức tin được tuyên xưng trong đức tin được sống
48. Đức tin được tuyên xưng tại Nicée có nội dung tín điều phong phú, có ý nghĩa quyết định cho việc thiết lập tín lý Kitô giáo. Tuy nhiên, mục đích của học thuyết này vẫn là nuôi dưỡng và hướng dẫn cuộc sống của tín hữu. Theo nghĩa này, chúng ta có thể làm nổi bật kho tàng tâm linh đích thực của Công đồng Nicée và Kinh Tin Kính, một "nguồn nước hằng sống" mà Giáo hội được kêu gọi kín múc hôm nay và mãi mãi. Để bảo vệ quyền tiếp cận nguồn nước sống này, Thánh Anthony đã đồng ý rời khỏi ẩn thất của mình để đi làm chứng chống lại những người theo thuyết Arius ở Alexandrie[64]. Kho tàng này được tiết lộ trực tiếp theo cách đức tin Nicée được sinh ra từ lex orandi [luật cầu nguyện]và nuôi dưỡng nó[65]. Hơn nữa, các công đồng không bao giờ có ý định giới hạn các cuộc tranh luận của mình vào phạm vi suy lý về các tuyên bố đức tin. Ngược lại, những người tham gia các Thượng hội đồng này rất muốn thảo luận về toàn bộ đời sống Giáo hội, cách tốt nhất để đắm mình vào các chân lý đức tin hàng ngày và thực hành chúng, và ngược lại, điều chỉnh việc giảng dạy của họ về chính hành [orthopraxie] phụng vụ, bí tích và thậm chí là đạo đức[66]. Tóm lại, các giám mục đã mang theo mình một cách thiêng liêng các thành viên của thân thể Giáo hội đến các công đồng, những người mà họ chia sẻ đời sống đức tin và cầu nguyện, và cùng họ hát những lời ca ngợi và tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, một Thiên Chúa duy nhất. Vì vậy, để nắm bắt được tầm quan trọng tâm linh và thần học của tín điều Nicée, chúng ta cần tìm hiểu sự tiếp nhận tín điều này trong thực hành phụng vụ và bí tích, giáo lý và thuyết giảng, cầu nguyện và thánh ca của thế kỷ thứ 4.
1. Phép Rửa Tội và Đức Tin Ba Ngôi
49. Ngay cả trước khi học thuyết về Chúa Ba Ngôi được phát triển về mặt thần học, đức tin vào Chúa Ba Ngôi đã là nền tảng của đời sống Kitô hữu được cử hành trong phép rửa tội. Lời tuyên xưng đức tin khi chịu phép rửa tội được nêu trong công thức bí tích rửa tội không chỉ diễn tả một mầu nhiệm lý thuyết mà còn là đức tin sống động liên quan đến thực tại cứu rỗi do Thiên Chúa ban tặng, và do đó liên quan đến chính Thiên Chúa. Đức tin rửa tội mang lại “sự hiểu biết” về Thiên Chúa, đồng thời cũng là con đường đến với Thiên Chúa hằng sống. Vì vậy, nhà biện giáo Athenagoras quả quyết: “Có […] những người […] chỉ để mình được hướng dẫn bởi lòng mong muốn biết Thiên Chúa thật và Lời của Người, biết sự hiệp nhất của Chúa Con với Chúa Cha là gì, sự hiệp thông của Chúa Cha với Chúa Con là gì, Chúa Thánh Thần là gì, sự hiệp nhất và sự phân biệt của ba ngôi vị làm cho bối rối như vậy, Chúa Thánh Thần, Chúa Con và Chúa Cha, là gì. [67] »
50. Đây là lý do tại sao công thức rửa tội, trong đó Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần được đặt ngang hàng, tạo nên lập luận trung tâm chống lại Arius và các môn đệ của ông, hơn là việc viện đến lý luận thần học. Đây cũng là trường hợp của Thánh Ambroise[68] và Hilaire[69] cũng như với Thánh Basil xứ Césarée, Thánh Grégoire xứ Nysse hay Thánh Ephrem người Syria[70]. Tương tự như vậy, Thánh Athanase nhấn mạnh: Chúa Con không được nêu tên trong công thức rửa tội vì Chúa Cha không đủ, hay chỉ đơn giản là ngẫu nhiên, mà vì:
Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa và là Sự Khôn Ngoan của Người, và là sự rạng ngời (apaugasma) của Người, Người luôn ở cùng Chúa Cha. Vì lý do này, khi Chúa Cha ban ơn, Người chỉ có thể ban ơn qua Chúa Con, vì Chúa Con ở trong Chúa Cha như ánh sáng huy hoàng; […] Bất cứ ai Chúa Cha rửa tội, thì Chúa Con cũng rửa tội, và bất cứ ai Chúa Con rửa tội thì được thánh hiến trong Chúa Thánh Thần[71].
51. Tuy nhiên, đối với Thánh Athanase và các Giáo phụ Cappadocie, vấn đề không chỉ đơn thuần là tuyên bố công thức Ba Ngôi, mà phép rửa tội còn đòi hỏi đức tin vào thiên tính của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, việc dạy đức tin đúng đắn là cần thiết và là một phần của việc thực hành phép rửa đúng đắn. Thánh Athanase trích dẫn lời dạy trong Mt 28:19 làm cơ sở: "Hãy đi... giảng dạy... và làm phép rửa"[72]. Đây là lý do tại sao Thánh Athanase – giống như Thánh Basil và Thánh Grégoire thành Nysse[73] – phủ nhận bất cứ hiệu quả nào đối với phép rửa tội của Arius, bởi vì những người coi Chúa Con là một tạo vật không có quan niệm đúng đắn về Thiên Chúa Cha: người không công nhận Chúa Con cũng không hiểu Chúa Cha và không “sở hữu” Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha không bao giờ bắt đầu là Chúa Cha[74].
2. Kinh Tin Kính Nicée như một lời tuyên xưng đức tin
52. Tuyên bố đức tin Nicée không chỉ là việc phát biểu đức tin rửa tội mà còn có thể xuất phát trực tiếp từ Kinh Tin Kính rửa tội của Giáo hội Césarée ở Palestine (nếu chúng ta tin vào những gì Eusèbe nói[75]). Có ba phần bổ sung: "...nghĩa là, thuộc bản thể của Chúa Cha", "được sinh ra, mà không phải được tạo thành", và "đồng bản thể với Chúa Cha (homoousios)". Theo cách này, điều được xác lập một cách hết sức rõ ràng là Đấng "đã mặc lấy xác phàm vì loài người chúng ta... và chịu đau khổ" chính là Thiên Chúa, homoousion tō Patri [đồng bản thể với Chúa Cha]. Tuy nhiên, mặc dù “thuộc bản thể của Chúa Cha” (ek tēs ousias tou Patros), Người vẫn khác biệt với Chúa Cha vì Người là Con của Người. Nhờ Người, Đấng “đã trở nên người để cứu rỗi chúng ta”, chúng ta biết được ý nghĩa của câu nói Thiên Chúa Ba Ngôi “là tình yêu” (1 Ga 4:16). Những bổ sung này là cần thiết và đánh dấu tính độc đáo cụ thể và đóng góp quyết định của Công đồng Nicée, nhưng đồng thời cũng cần phải liên tục nhấn mạnh rằng Kinh Tin Kính như một Kinh Tin Kính của đức tin ban đầu bắt nguồn từ khuôn khổ phụng vụ, đây là môi trường sống động của nó và do đó là khuôn khổ mà nó mang đầy đủ ý nghĩa. Đây chắc chắn không phải là một bài trình bày lý thuyết mà là một hành động cử hành bí tích rửa tội, được làm phong phú thêm bởi phần còn lại của phụng vụ và làm sáng tỏ phần còn lại. Những người cùng thời với chúng ta đôi khi có thể có ấn tượng rằng kinh Tin Kính là một bài giảng rất lý thuyết vì họ không biết về nguồn gốc phụng vụ và phép rửa tội của nó.
53. Theo nghĩa này, đức tin Nicée vẫn và đang tiếp tục là một "symbolon" ("ekthesis", "pistis"), nghĩa là một lời tuyên xưng đức tin. Có thể phân biệt nó với một cách giải thích hoặc định nghĩa thần học kỹ thuật chính xác hơn nhằm bảo vệ đức tin ("oros", "definitio"), như được đề xuất bởi Công đồng Chalcédoine. Là một Kinh Tin Kính, Tuyên ngôn Nicée là một công thức và lời giải thích tích cực về đức tin Kinh thánh.[76] Nó không tuyên bố là một định nghĩa mới, mà đúng hơn là một sự gợi lại đức tin của các tông đồ: “Đức tin này, Chúa Kitô đã ban cho, các tông đồ đã công bố, các Giáo phụ của toàn thể Oikoumenē của chúng ta đã tụ họp tại Nicée đã truyền lại (paradosis).[77] »
54. Tương tự như vậy, chính vì địa vị của nó như một lời tuyên xưng đức tin và chính xác là đức tin tông truyền, chứ không phải là một định nghĩa hay giáo huấn, mà Kinh Tin Kính Nicée được coi là bằng chứng quyết định của sự chính thống trong giai đoạn tiếp theo (ít nhất là cho đến cuối thế kỷ thứ 5)[78]. Đây là lý do tại sao nó được sử dụng làm bản văn cơ bản trong các công đồng sau này. Vì vậy, Công đồng Éphèse và Chalcédoine tự nhận là người diễn giải Kinh Tin Kính Nicée: họ nhấn mạnh sự đồng thuận của họ với Nicée và phản đối những quan điểm bất đồng liên quan đến Nicée. Khi Bản Tuyên Xưng Đức Tin Nicée-Constantinople được đọc tại Công Đồng Chalcédoine, các giám mục tụ họp đã thốt lên: "Đây là đức tin của chúng ta. Chính trong điều này mà chúng ta đã được rửa tội, chính trong điều này mà chúng ta làm phép rửa tội! Đức Giáo Hoàng Leo tin điều này, Thánh Cyril tin điều này. [79] » Lưu ý rằng lời tuyên xưng đức tin có thể được diễn đạt ở dạng số ít - "Tôi tin" - nhưng thường ở dạng số nhiều: "chúng tôi tin"; Tương tự như vậy, Kinh Lạy Cha ở dạng số nhiều: "Lạy Cha chúng con..." Đức tin hoàn toàn cá nhân và đơn nhất của tôi cũng được ghi khắc hoàn toàn trong đức tin của Giáo hội, như một cộng đồng đức tin. Kinh Tin Kính Nicée và Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople gốc Hy Lạp mở đầu bằng dạng số nhiều "chúng tôi tin", "để làm chứng rằng trong 'Chúng tôi' này, tất cả các Giáo hội đều hiệp thông, và tất cả các Kitô hữu đều tuyên xưng cùng một đức tin."[80]
55. Như chúng tôi đã đề cập trong chương trước, cho đến ngày nay, "Nicée" - "lời tuyên xưng đức tin của 318 giáo phụ Chính thống giáo[81]" - được coi là công đồng tuyệt vời nhất trong các Giáo hội Đông phương, nghĩa là không phải là "một công đồng trong số những công đồng khác", thậm chí không phải là "công đồng đầu tiên trong một loạt công đồng", mà là chuẩn mực của đức tin Kitô giáo đúng đắn. "318 Nghị phụ" được nhắc đến rõ ràng trong phụng vụ Giêrusalem. Hơn nữa, trong các Giáo hội Đông phương, không giống như các Giáo hội Tây phương, Nicée cũng được kỷ niệm riêng trong lịch phụng vụ. Cần lưu ý rằng các vấn đề kỷ luật được giải quyết tại Nicée có tầm quan trọng khác ngay từ đầu so với lời tuyên xưng đức tin. Trong khi đa số có thể đưa ra quyết định về các vấn đề kỷ luật, thì truyền thống tông đồ lại mang tính quyết định đối với các vấn đề đức tin: "Về ngày lễ Phục sinh, các Giáo phụ đã viết: 'Đã quyết định rồi.' Về đức tin, họ không viết: “Đã quyết định rồi,” mà là: “Giáo Hội Công Giáo tin như vậy!”[82]"
3. Đào sâu việc giảng thuyết và dạy giáo lý
56. Các Giáo phụ ở cả phương Đông và phương Tây không chỉ tranh luận bằng các chuyên luận thần học mà còn làm sáng tỏ đức tin Nicée trong các bài giảng gửi đến mọi người, nhằm bảo vệ các tín hữu khỏi những diễn giải sai lầm, thường được gọi bằng thuật ngữ "arien" - mặc dù "homoïens" ở phương Tây vào thời Thánh Augustine khác hẳn với "néo-ariens" ở phương Đông về lập luận của họ. Quan niệm thần học cho rằng Chúa Con không phải là "Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật", mà chỉ là tạo vật cao quý nhất của Chúa Cha và rằng Người không đồng vĩnh hằng với Chúa Cha, đã được các Giáo phụ công nhận là mối đe dọa dai dẳng và chống lại, thậm chí không cần đến những kẻ thù cụ thể. Lời mở đầu của Tin mừng Gioan đã cung cấp cơ hội để giải thích mối quan hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con, hoặc giữa "Thiên Chúa" và "Ngôi Lời" của Người, theo Tuyên ngôn Nicée.[83] Ví dụ, Chromace xứ Aquilée (được thụ phong giám mục năm 387/388, mất năm 407) đã truyền bá đức tin Nicée cho những người theo ngài mà không sử dụng thuật ngữ kỹ thuật[84]. Ngay cả các Giáo phụ, những người có thái độ hoài nghi có nguyên tắc đối với "các cuộc tranh luận thần học", cũng có lập trường rất rõ ràng chống lại "sự vô đạo của Arius" ("asebeia", "impietas"): những người Arius không hiểu "sự sinh ra vĩnh cửu của Chúa Con", cũng như "sự bình đẳng-vĩnh cửu ban đầu" của Chúa Cha và Chúa Con.[85] Họ thậm chí còn phạm sai lầm trong thuyết độc thần khi chấp nhận một vị thần cấp dưới thứ hai. Do đó, sự thờ phụng của họ là sai lệch và sai lầm.
57. Do đó, trong các bài giáo lý của mình, Thánh Gioan Kim Khẩu giải thích đức tin rửa tội đã được xây dựng hợp lệ tại Nicée[86], và phân biệt đức tin đúng đắn không chỉ với học thuyết homéene [đồng dạng (*)], mà còn với học thuyết sabellienne [phủ nhận sự khác biệt thật sự giữ Ba Ngôi]: Người Kitô hữu tin vào Thiên Chúa là "một bản thể, ba ngôi vị." Thánh Augustine lập luận tương tự trong hướng dẫn của ngài cho các ứng viên chịu phép rửa tội.[87] Oratio catechetica magna [cầu nguyện giáo lý vĩ đại] của Thánh Grégoire thành Nysse, trong đó phần lớn được dành riêng cho Ngôi Lời vĩnh cửu và nhập thể của Thiên Chúa, có thể được coi là kiệt tác của một giáo lý dành riêng cho những người có nhiệm vụ truyền đạt nó, cụ thể là các giám mục và giáo lý viên. Chủ đề không chỉ là mối quan hệ giữa Chúa Con-Ngôi Lời và Chúa Cha (chương 1.3.4), mà còn là ý nghĩa của sự nhập thể như một hành động cứu chuộc (chương 5). Thánh Grégoire muốn làm rõ rằng sinh và tử không phải là điều gì đó không xứng đáng với Chúa hay không tương thích với sự hoàn hảo của Người (chương 9 và 10), và giải thích sự nhập thể theo chủ đề tình yêu của Chúa dành cho con người. Nhưng trên hết, ngài nhấn mạnh vào sự thật rằng phép rửa tội của Kitô giáo được thực hiện trong "Ba Ngôi bất tạo", nghĩa là trong ba ngôi đồng vĩnh hằng. Chỉ bằng cách này, phép rửa tội mới ban sự sống vĩnh cửu và bất tử: “Vì bất cứ ai khuất phục một tạo vật thì vô tình đặt hy vọng cứu rỗi của mình vào tạo vật đó chứ không phải vào thần tính. [88] »
58. Trọng tâm của cuộc tranh luận thực sự là một câu hỏi hiện sinh hơn là một vấn đề lý thuyết: liệu phép rửa tội có liên quan đến "sự thiết lập trong tư cách con cái" (Basil), đến "sự khởi đầu của cuộc sống vĩnh cửu" (Grégoire thành Nysse), đến "sự cứu rỗi khỏi tội lỗi và sự chết" (Ambroise[89]) không? Điều này chỉ có thể xảy ra nếu Chúa Con (và Chúa Thánh Thần) là Thiên Chúa. Chỉ khi chính Thiên Chúa trở thành “một trong chúng ta” thì con người mới có khả năng thực sự tham gia vào đời sống của Chúa Ba Ngôi, nghĩa là được “thần hóa”.
4. Lời cầu nguyện với Chúa Con và những Vinh tụng ca
59. Đức tin Nicée đóng vai trò quy tắc cho lời cầu nguyện bản thân và phụng vụ[90] và những lời cầu nguyên sau được đánh dấu bởi Nicée. Mặc dù "lời cầu khẩn danh Chúa (Giêsu)" đã được chứng thực trong các trước tác Tân Ước[91] và trên hết, các bài thánh ca về Chúa Kitô[92] chứng minh cho việc dâng lời ngợi khen và tôn thờ, lời cầu nguyện với Chúa Con trở thành một nơi gây tranh cãi trong cuộc khủng hoảng Arius.
60. Tự nhận là tuân theo một số bản văn của Origène[93], những người theo thuyết Arius của thế kỷ thứ 4, nhưng cũng là những người theo Origène của thế kỷ thứ 5 và thứ 7, đặc biệt phản đối lời cầu nguyện phụng vụ với Chúa Con. Những người theo thuyết Arius quan tâm đến việc nhấn mạnh những đoạn Kinh thánh cho thấy chính Chúa Giêsu đang cầu nguyện, nhằm nhấn mạnh sự thấp kém của Người so với Chúa Cha. Kết hợp với quan điểm (của phái apollinariste), cũng phổ biến trong số những người theo Arius, theo đó Logos chiếm chỗ linh hồn của Chúa Giêsu, sự phục tùng của Ngôi Lời đối với Chúa Cha dường như đã được chứng minh. Vì thế, đối với họ, lời cầu nguyện hướng về Chúa Con là không phù hợp. Để ủng hộ quan điểm của họ, những người theo thuyết Arius đã lập luận bằng cách sử dụng công thức truyền thống của Vinh tụng ca, có tầm quan trọng lớn, đặc biệt là trong các nghi lễ phụng vụ phương Đông: "Vinh danh và tôn thờ Chúa Cha qua (dia / per) Chúa Con trong (en / in) Chúa Thánh Thần."[94] "Sự khác biệt trong các giới từ đã được viện dẫn như bằng chứng về sự khác biệt yếu tính giữa các ngôi vị. Những người theo thuyết Arius đã tìm cách sử dụng nghi lễ phụng vụ - được công nhận là một ví dụ về chứng tá cho đức tin của Giáo hội - để chứng minh những gì họ coi là hợp lý về mặt thần học.
61. Mặt khác, những người bảo vệ Nicée khẳng định rằng việc thực hành cầu nguyện phải tương ứng với đức tin, nhưng đức tin này lại tương ứng với phép rửa tội. Thế mà, công thức của phép rửa tội cho thấy sự bình đẳng về phẩm giá của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Điều đó có nghĩa là lời cầu nguyện – dù là bản thân hay phụng vụ – cũng có thể và phải được dâng lên Chúa Con. Mặc dù họ không bác bỏ công thức cổ xưa của Vinh tụng ca, nhưng vẫn bảo vệ ý nghĩa chính thống của nó[95], họ thích các công thức và giới từ khác: "tō Patri kai...kai [nhân danh Cha và...và]", "tō Patri, dia…sun", cũng được chứng thực trong truyền thống Kinh thánh và phụng vụ[96]. Thánh Basil do đó đã đề cập đến, trong số những điều khác, bài thánh ca rất cổ xưa "Phos hilăron" (có lẽ từ thế kỷ thứ 2), trong đó Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là đối tượng của một bài hát tôn thờ[97].
62. Nguyên tắc: “Chúng ta phải tin như chúng ta được rửa tội, và do đó phải thờ phượng như phép rửa tội cho phép!”[98] cũng áp dụng cho lời cầu nguyện bản thân. Việc cầu khẩn Chúa Giêsu – như đã được thực hiện trong các hình thức cầu nguyện với Chúa Giêsu, đặc biệt là trong các môi trường đan viện – được biện minh rõ ràng bằng việc cầu khẩn “homoousios tō Patri”. "Khi chúng ta nói 'Giêsu'", Chenouté, một giáo phụ Copt vào thế kỷ thứ 5 giải thích, "thì Chúa Ba Ngôi cũng được nhắc đến". Khi Chúa Con nhập thể được cầu khẩn, Người không được cầu khẩn riêng rẽ với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người nào không muốn cầu nguyện với Chúa Giêsu thì đi theo “sự vô đạo mới”; họ không hiểu gì về Chúa Ba Ngôi, cũng không hiểu gì về "Chúa Giêsu". [99] Cách một người cầu nguyện cho thấy họ tin vào điều gì.
63. Sự xác đáng trong lời cầu nguyện có ý nghĩa cứu rỗi. Thánh Grégoire thành Nysse là người đưa ra lời cảnh cáo đáng chú ý nhất ở đây: niềm hy vọng của người có đức tin không chỉ là đạo đức theo nghĩa hiện tại của thuật ngữ này, mà còn được phát biểu trong lời cầu nguyện. Niềm hy vọng hướng đến sự thần hóa do Thiên Chúa mang lại: nếu "niềm hy vọng lớn lao đầu tiên không còn hiện diện nơi những ai để mình bị dẫn vào sai lầm về giáo lý", điều này sẽ dẫn đến hậu quả là "không có lợi ích gì khi cư xử đúng đắn với sự trợ giúp của các điều răn". Và Thánh Grégoire tiếp tục:
Vì thế, chúng ta được rửa tội như chúng ta đã nhận được nó, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; chúng ta tin như chúng ta được rửa tội; thực ra, đức tin phải phù hợp với lời tuyên xưng; Chúng ta tôn vinh những gì chúng ta tin, vì không phải tự nhiên mà vinh quang lại chống lại đức tin. Nhưng những gì chúng ta tin tưởng, chúng ta cũng tôn vinh. Ngoài ra, vì đức tin là vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nên đức tin, vinh quang và phép rửa tội liên kết với nhau, vì thế, chúng ta không phân biệt vinh quang của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần[100].
64. Việc thêm Vinh tụng ca Ba Ngôi vào cuối mỗi thánh vịnh, mà thứ tự của nó được cho là của Đức Giáo Hoàng Damase (mất năm 384 Công nguyên), đã được hiểu theo đường hướng này. Cassiodore nhận xét rằng mọi tà thuyết đều trở nên vô nghĩa:
Ngoài tất cả các thánh vịnh và thánh ca, Giáo hội Mẹ còn thêm lời ngợi khen Chúa Ba Ngôi. Nó tỏ lòng tôn kính Đấng mà những lời này xuất phát, và do đó cắt đứt nền tảng cho các tà thuyết của Sabellius, Arius, Mani và những người khác[101].
Chính trường hợp thêm câu "sicut erat in principio...[như đã có trước vô cùng]", được hiểu như lời tuyên bố đức tin chống lại Arius một cách rõ ràng[102].
5. Thần học trong thánh ca
65. Cuối cùng, các bài thánh ca là nơi phát biểu đức tin Nicée, đức tin này có vị trí trong đời sống các tín hữu và được truyền đạt bởi Nicée. Vì vậy, nhiều bài thánh ca kết thúc bằng lời tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Hơn nữa, cuộc đối đầu với tà giáo Arius đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển thi ca Kitô giáo. Ở phương Đông, các bài thánh ca và bài hát được sáng tác đầu tiên[103], nhằm đáp lại các bài thơ tuyên truyền của các nhóm dị giáo. Đối với phương Tây, chúng ta thậm chí có thể nói rằng đóng góp thần học quan trọng nhất của họ vào thế kỷ thứ 4 là sáng tác thánh ca.
66. Bên cạnh Thánh Gioan Kim Khẩu, trên hết là Thánh Ephrem người Syria (306-373), trong thơ thần học của mình (sau này để lại dấu ấn trong toàn bộ nền văn học Syria cổ điển) và đặc biệt là trong các bài thánh ca De fide [về đức tin] và De nativitate [về giáng sinh], đã hát về mầu nhiệm Chúa Kitô: Chúa Kitô là Thiên Chúa, mặc dù bản chất con người của Người yếu đuối; Sự tự hủy của Chúa Kitô là một phép lạ vĩ đại chỉ vì chủ đề quán xuyến Người là Thiên Chúa và vẫn là Thiên Chúa trong sự tự hủy này[104]. Với lòng đạo đức sâu sắc, Thánh Ephrem mô tả các mối quan hệ nội tại trong Ba Ngôi: Chúa Con ở trong Chúa Cha “trước mọi thời đại”, Người “bình đẳng với Chúa Cha nhưng vẫn khác biệt với Người”. [105] Ngài dễ dàng sử dụng hình ảnh mặt trời, ánh sáng và sức nóng của nó, được liên kết trong sự hiệp nhất [106]. Ngài liên tục nhắc đến ba “danh xưng” mà tương ứng với chúng là thực tại thần linh và trong đó “phép rửa tội và sự công chính hóa của chúng ta bao gồm”. [107] Ngài thực hiện tất cả những điều này bằng cách giải thích rõ ràng bối cảnh của đức tin Nicée, vì ngài trích dẫn "công đồng vinh quang", nêu rõ sự tham chiếu đến Nicée[108]. Các nhà thơ-thần học Syria thế kỷ thứ 5 khác, chẳng hạn như Isaac thành Antioche và Mar Balai, đã sáng tác các bài giảng và thánh ca theo vần điệu dành cho chính Chúa Kitô, tôn vinh Người một cách rõ ràng bằng các thuộc tính thần thiêng: "Ngợi khen Người [Chúa Giêsu Kitô] và Cha của Người và vinh quang của Chúa Thánh Thần" - "Ngợi khen Người, Đấng Tối Cao, Đấng đã đến để cứu chuộc chúng ta, ngợi khen Người, Đấng Toàn năng, với cái gật đầu của Người mà thế giới được quyết định."[109] »
67. Thánh Hilaire đã học hát thánh ca trong thời gian lưu vong và giới thiệu nó vào xứ Gaul; Thánh Ambroise cũng thú nhận đã áp dụng "phong tục của phương Đông" trong cuộc xung đột gay gắt với những người theo thuyết Arius tại Milan vào năm 386-87. Chúa Con “luôn là Chúa Con, cũng như Chúa Cha luôn là Chúa Cha. Nếu không, làm sao Chúa Cha có thể mang danh này nếu Người không có Chúa Con?”, Thánh Hilaire nhấn mạnh trong bài thánh ca Ante saecula qui manens [Người có trước mọi thời đại], trong đó ngài triển khai “sự ra đời kép của Chúa Con, người được sinh ra từ Chúa Cha, cho Chúa Cha không biết đến sự ra đời, và được sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria, cho thế giới”.
68. Không giống như những bài thánh ca mang tính thần học cao của Thánh Hilaire, vốn khó có chỗ đứng trong phụng vụ, những bài thánh ca của thánh Ambroise nhanh chóng trở nên nổi tiếng khắp nơi và khích lệ đức tin một cách mạnh mẽ, theo đúng mục đích mà chính Thánh Ambroise đã đặt ra cho chúng. Bài thánh ca buổi sáng Splendor paternae gloriae [sự huy hoàng trong vinh quang Chúa Cha] của ngài có thể được coi là lời bình luận về Tuyên ngôn Nicée. Đặc biệt nổi bật là những khổ thơ cuối cùng của một số bài thánh ca, trong đó nhấn mạnh sự bình đẳng của Chúa Con với Chúa Cha: "Aequalis aeterno Patri...[bình đẳng với Chúa Cha trường cửu]", hoặc nói trực tiếp với Chúa Con: "Iesu, tibi sit gloria... cum Patre et almo Spiritu [Lạy Chúa Giêsu, vinh danh Chúa...cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần]" Trong một bài thánh ca rất ngắn, có lẽ được sáng tác bởi Thánh Ambroise, lời tuyên xưng về một Thiên Chúa trong ba ngôi vị gần như được đưa vào thơ như một cụm từ then chốt cho các tín hữu: "O lux beata trinitas, et principalis unitas...[Ôi ánh sáng đầy phúc, ba ngôi và sự hợp nhất chính yếu]".
69. Ngoài Thánh Ambroise, trên hết Prudentius (Aurelius Prudentius Clemens, 348-415/25) có những bài thánh ca rất quan trọng đối với Kitô học. Nhà thơ Tây Ban Nha đặc biệt chú ý đến thiên tính đích thực và nhân tính đích thực của Đấng Cứu Chuộc, mà trong chúng, sự sáng tạo mới của chúng ta được đặt nền móng:
Đức Kitô là hình ảnh của Chúa Cha, và chúng ta là hình ảnh của Đức Kitô;
Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa bởi lòng nhân từ của Chúa Cha,
Đấng Ki-tô sẽ đến giống như chúng ta sau các thời đại.
(Christus forma Patris, nos Christi forma et imago; Condimur in faciem Domini bonitate paterna Venturo không có stram faciem post saecula Christo)[110].
Kỳ tới: Chương Ba