TẢN MẠN VỀ ƠN VÔ NHIỄM

Ngày 04-12-2008, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Bênêđictô XVI đã đề cập đến đề tài tội nguyên tổ. Tội nguyên tổ là một đề tài có vẻ khá gay cấn và mang tính thời sự, nhất là với não trạng con người ngày nay. Cái nhìn trước đây, đúng hơn là cách trình bày về tội nguyên tổ, xem ra không mấy thuyết phục và thiếu cơ sở khi mà khoa Kinh Thánh khẳng định thể văn của 11 chương đầu Sách Sáng Thế ký là thể văn huyền thoại. Nhiều người đương thời, cách riêng anh em ngoài Kitô giáo đã từng thắc mắc rằng làm sao một con người của thời tiền sử với sự hiểu biết còn hạn chế, chịu bao tác động của ngoại cảnh, nghĩa là bị hạn chế về trí khôn và ý chí tự do, thế mà đã phạm cái tội gì tày trời đến nỗi di hại cho con cháu ngàn đời, gọi là “tội tổ tông”.

Đức Bênêđictô XVI đã khẳng định rằng sự hiện hữu của sự dữ là một dữ kiện không thuộc về lý thuyết mà là một cảm nghiệm hiển nhiên. Nhân loại xưa nay vẫn nhìn nhận một thực trạng của con người như thánh Tông đồ dân ngoại: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Đức Thánh Cha nói rằng chúng ta đều cảm nhận đều đó hằng ngày qua thông tin đại chúng về những chuyện bất công, bạo lực, gian dối, sai lầm, truỵ lạc…Nhìn nhận sự hiện hữu của sự dữ, nhưng nguồn gốc nó ở đâu?

Trước hết chúng ta cần phải loại bỏ “nhị nguyên thuyết” tức là chủ thuyết chủ trương rằng ngay từ đầu có hai nguyên lý tồn tại là nguyên lý sự thiện và nguyên lý sự ác. Vũ trụ vạn vật và con người theo cái nhìn này được hình thành do bởi sự đấu tranh giữa hai nguyên lý ấy. Đức Thánh Cha còn cảnh báo với chủ thuyết nhất nguyên lưỡng diện, nghĩa là chỉ có một nguyên lý từ ban đầu phát sinh mọi sự nhưng lại bao hàm cả yếu tốt sự thiện và sự ác. Những chủ thuyết sai lạc này sẽ dẫn con người đến chỗ cho rằng sự hiện hữu của sự dữ là điểu tất yếu thuộc bản tính và vì thế sự dữ dễ bị xem là điều bình thường, điều tự nhiên và không cưỡng lại được. Ngài khẳng định rằng cái nhìn như thế thực chất là “cái nhìn tuyệt vọng tự căn bản, vì nếu như thế thì chúng ta không thể thắng được sự dữ. Cuối cùng thì người ta chỉ còn biết đến quyền lợi của mình. Và mỗi sự tiến bộ cần phải được trả giá bằng một dòng sông sự dữ, và ai muốn phục vụ sự tiến bộ này đều phải bằng lòng trả giá ấy. Theo căn bản thì chính trị được dựa trên những tiền đề như thế: và chúng ta thấy những hậu quả của nó. Cuối cùng thì tư tưởng hiện đại này chỉ tạo nên đau buồn và vô luân.”

Phải khẳng định rằng sự dữ không đến từ Thiên Chúa. Ngay từ đầu Thiên Chúa tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp và rất tốt đẹp (x.St 1,31). Sự dữ chỉ xuất hiện sau này do tác động của ma quỷ. Ma quỷ tác động trên con người qua việc sử dụng tự do Chúa ban. Sự dữ được tạo ra bởi sự tự do, một sự tự do bị lạm dụng: Tình yêu giả thiết có sự tự do. Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Người đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người (x.St 1,27). Và ý chí tự do là một trong những tặng phẩm cao quý Thiên Chúa ban cho loài người.

Vấn đề là phải hiểu đúng tự do là gì. Chúng ta dễ dàng loại bỏ khái niệm phổ thông vừa bất cập vừa thái quá và cũng vừa sai lạc về tự do, khi cho rằng tự do là muốn làm gì thì làm hoặc muốn chọn điều gì thì chọn theo nhận định chủ quan của mình. Tự điển Tiếng Việt định nghĩa: “Tự do là phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Tự do là cái tất yếu được nhận thức”.

John A. Hardon định nghĩa: “Tự do là khả năng của ý chí quyết định lấy chính mình và tự mình hành động mà không bị bên trong thúc bách hay bên ngoài ép buộc. Nói cách khác, đó là khả năng của một hữu thể có lý trí để hành động hay không hành động, làm cách này hay làm cách khác, và bởi đó khác hẳn với các hữu thể không có lý trí, những hữu thể chỉ hoạt động do bị kích thích và luôn bị các đối tượng khả giác chi phối” (Pocket Catholic Dictionary).

Có nhiều cái nhìn về sự tự do, tuy nhiên nhiều nhà luân lý Công Giáo dường như đồng thuận hơn với định nghĩa của Thánh giáo phụ Âugustinô. Thánh Âugustinô định nghĩa tự do là khả năng chọn ý Chúa, thực hiện điều tốt, theo cách thức Chúa muốn. Như thế, để có một sự hiểu biết về tự do một cách tạm gọi là khá hoàn chỉnh, không gì hơn xin hãy tập chú vào Đấng Làm Người, Đấng giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Qua cuộc sống, cung cách hành xử của Đấng hoàn toàn vô nhiểm tự thân, chúng ta sẽ biết thế nào là tự do đích thực.

Một tâm hồn tự do là một tâm hồn đầy tràn Thánh Thần. Ngay phút giây nhập thể, Ngôi Lời đã hoài thai trong dạ Đức Maria do bởi tác động của Thánh Thần (x.Lc 1,35). Trên bờ sông Giođan, chính Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Đấng nhập thể bằng dấu chỉ bên ngoài (x.Lc 3,22). Chính Chúa Kitô đã minh nhiên xác định Người là Đấng được xức dầu Thánh Thần để đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức…” (Lc 4,18).

Thánh Thần là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần chính là tình yêu hướng tha. Đầy tràn Thánh Thần là Đức Kitô luôn hướng về Chúa Cha trong sự yêu mến để nên một (x.Ga 14,9-11), trong sự kiếm tìm thánh ý để thực thi (x.Ga 15,10). Đức Kitô không bao giờ ở một mình mà luôn kết hiệp với Chúa Cha. Và lương thực của Người là thực thi thánh ý Chúa Cha (x.Ga 4,34). Tuy nhiên, là Đấng giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, Đức Kitô vẫn phải chiến đấu không ngừng trước mưu mô ma quỷ. Ma quỷ không dại gì cám dỗ Người chọn mục đích xấu, vì rất dễ nhận ra. Ma quỷ tinh ranh cám dỗ Đức Kitô chọn mục đích tốt là thực thi công trình cứu độ nhưng lại theo ý riêng mình chứ không theo thánh ý Chúa Cha chỉ dạy. Chúa Kitô đã chiến đấu quyết liệt với thần dữ ngay buổi đầu công khai rao giảng tin mừng và sau ba năm Người cũng phải vất vả đến độ tuôn chảy mồ hôi pha lẫn máu để có quyết định: “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36; Lc 22,42-44).

Như thế, chúng ta có thể kết luận rằng tự do là khả năng chọn ý Chúa và thực hành ý Chúa theo cách thức Chúa muốn. Để có được sự tự do đích thực này thì chúng ta cần phải luôn hướng về Chúa và gắn bó với Chúa trong tình yêu mến sâu xa. Ở trong tình yêu của Chúa là sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Với ân sủng của Thánh Thần và trong ân sủng Thánh Thần thì chúng ta mới thực sự là con cái của Thiên Chúa. Đã là con thì chúng ta không còn là kẻ nô lệ mà thực sự là những người tự do.

Khái quát khuôn mặt của tội nguyên tổ: Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Chúa. Hai khả năng mà con người được trao ban khiến con người trổi vượt hơn các loài thụ tạo hữu hình đó là lý trí và ý chí tự do. Nhờ có trí khôn, con người ngày càng phát triển sự nhận thức về mình cũng như về sự vật, hiện tượng khác quan. Nhờ có ý chí tự do, con người có khả năng làm chủ bản thân và làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Ma quỷ dưới hình ảnh con rắn xưa trong vườn địa đàng đã cám dỗ tổ tiên loài người trên hai khả năng ưu việt này.

Có lý trí thì việc tìm biết điều đúng, điều sai, điều hơn, điều kém, cái gì là nguyên nhân, cái gì là hiệu quả, điều lành, điều dữ…là một nhu cầu tất yếu của con người, nếu không con người sẽ không vượt qua các loài vật khác. Ma quỷ không cám dỗ con người không tìm kiếm sự thiện, sự ác, điều lành, điều dữ, nhưng chúng cám dỗ con người tự phân định điều tốt xấu, lành dữ theo ý chí chủ quan của mình mà không quy luật khách quan do Chúa đặt định (x.St 3,1-7). Chiến thuật cám dỗ của thần dữ đã thành công với tổ tiên loài người nhưng đã thất bại trước Đức Kitô, đặc biệt trong hoang mạc ngày nào (x.Lc 4,1-13; Mt 4,1-11).

Đức Bênnêđictô XVI đã bàn đến hai mầu nhiệm về sự sáng và một mầu nhiệm về bóng tối. Thuở ban đầu có một mầu nhiệm sự sáng do Thiên Chúa tạo dựng. Rồi dưới sự hoành hành của thần dữ, một mầu nhiệm bóng tối xuất hiện. Nhưng mầu nhiệm sự sáng thứ hai đã đánh bại bóng tối và làm cho vũ hoàn này bừng sáng hơn xưa, đó là công trình cứu độ của Đức Kitô. Theo sự gợi ý của vị Cha chung Hội Thánh toàn cầu mời gọi suy tư, xin được góp một cái nhìn về các mầu nhiệm sáng - tối – sáng trên dưới chiều kích lề luật và ân sủng. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi chưa có lề luật thì chưa có tội xen vào (x.Rm 5,20). Ở đây thánh nhân muốn nói đến thứ luật bằng văn tự gây ra sự chết.

Mầu nhiệm sự sáng thứ nhất: Luật tự nhiên. Thiên Chúa ban cho con người có trí khôn. Và Thiên Chúa đặt định trong lương tâm con người thứ ánh sáng để biện phân điều tốt xấu, điều lành dữ (x.Rm 1,18-23). Với lý trí tự nhiên thì con người có thể nhận ra ánh sáng này. Các nhà đạo đức học khẳng định có một thứ luật được gọi là “luật đạo đức” hiện hữu ngay từ lúc con người hiện diện trên mặt đất này…

Thế nhưng khi con người bước vào đời sống xã hội, tha nhân thay vì là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi lại trở thành một đối tượng cạnh tranh quyền lợi. Sự cạnh tranh quyền lợi này được mô tả qua việc cạnh tranh giữa hai ngành của nông nghiệp là chăn nuôi và trồng trọt mà câu chuyện Cain và Abel là một biểu tượng. Có cạnh tranh thì có loại trừ. Có quyền lợi thì tìm cách độc chiếm và nhiều khi bất chấp mọi thủ đoạn.

Mầu nhiệm bóng tối: Để duy trì sự độc chiếm, độc quyền, con người theo sự cám dỗ đặt ra luật lệ. Khi đặt ra luật lệ, con người đã khách quan hoá ý chí chủ quan của mình. Các văn tự (luật lệ) vốn là sản phẩm của ý chí con người nay trở thành một thứ quyền lực tuyệt đối chi phối con người. Luật lệ con người (nhân luật), thường là phản ánh ý chí của những người đang nắm quyền, những tập thể đang thống trị xã hội. Và người ta bị cám dỗ làm ra các thứ luật, các thứ thể chế vốn có lợi cho chính mình, những người đang nắm quyền hơn là cho người thấp cổ, bé miệng, cho người bị trị.

Cái ác, sự dữ xuất hiện nơi việc người ta hữu ý gán cho ý chí của mình thành “thiên ý”. Và một cách nào đó khi đã có luật thì đám đông dân chúng cho rằng đó là chân lý. Nói gì đến con người ngày xưa, ngay cả các xã hội dân sự hôm nay, có những thứ luật lệ thực sự đi ngược với lương tri như luật phá thai, luật li dị, luật hôn nhân đồng tính…khi chúng đã thành văn tự hợp pháp thì dễ làm yên lương tâm nhiều người khi sống trong sự sai lầm.

Đến thế gian, một trong những mục tiêu Chúa Kitô lên án đó là việc người ta đã đặt truyền thống, đặt luật của con người, thậm chí trong lãnh vực tôn giáo lên trên luật của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã rất nhiều lần cố tình vi phạm luật giữ ngày hưu lễ (Sabbat) để khẳng định quyền tối thượng của thiên luật, luật của Thiên Chúa. Ngày Sabbat có ra là vì con người chứ không phải con người có ra là vì ngày Sabbat. Người còn thường chất vấn nhiều luật sĩ, tư tế và biệt phái thời bấy giờ rằng “ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ, được cứu sống hay giết chết? Người chất vấn bằng lập luận song đối phản nghĩa để minh chứng sự sai lầm của những người lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ.

Mầu nhiệm sự sáng thứ hai: Luật mạc khải. “Thưở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Nơi Đức Kitô, Ngôi Lời làm người, Thiên Chúa đã mạc khải chân lý cách toàn vẹn và hoàn hảo cho con người. “Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người, được sáng tỏ nới Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mạc khải” (MK số 2).

Với dòng thời gian lịch sử, đặc biệt lịch sử cứu độ, Thiên Chúa dần dần mạc khải Thánh ý của Người cho nhân loại. Và khi đến thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai chính Con Một đến trần gian để hoàn tất những gì Người muốn tỏ bày. Đức Kitô, con người, cuộc đời, các hành vi và lời giảng dạy, nhất là cuộc khổ nạ và phục sinh của Người là sự mạc khải trọn vẹn và hoàn hảo của Thiên Chúa dành cho loài người mọi thời. Những gì Thiên Chúa nói với loài người giờ đây không còn ẩn tàng trong cõi lòng con người mà đã rõ ràng cách minh nhiên qua chính Đấng làm người. Chúa Kitô đã khẳng khái trước Philatô trước khi chịu khổ hình: “Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Tuy nhiên để hiểu và đón nhận đúng chân lý mạc khải thì về phía con người vốn là loài thụ tạo bất toàn luôn cần có sự trợ giúp của Đấng Bảo Trợ và là Thần Chân lý đó là Chúa Thánh Thần (x.Ga 16,12-15).

Hiện hữu ở đời này, con người, xét như một sinh vật, luôn mang trong mình các bản năng căn bản là sinh – tồn, nghĩa là sống, tồn tại và lưu truyền giống nòi. Tuy nhiên xét như là một sinh vật thượng đẳng, có lý trí và ý chí tự do, con người còn có nhu cầu tự khẳng định và tồn tại mãi mãi. Để khẳng định mình thì con người đã hành xử như các loài bậc thấp là thu tích nhiều sở hữu và tìm cách khống chế hoặc nếu cần thì khử trừ tha nhân để bảo vệ quyền lợi của mình. Đây là nét biểu hiện của bản năng thống trị. Theo dòng lịch sử bản năng thống trị đã được con người thể chế hoá bằng luật lệ của mình và nó đã làm băng hoại môi sinh nhân trần. Nhiều nhà thần học hiện nay có cái nhìn về tội nguyên tổ theo chiều kích xã hội hơn là chiều kích cá nhân. Tội nguyên tổ dần được xem như tình trạng môi sinh của con người bị ô nhiễm. Các thế hệ cháu con dù không phạm tội nguyên tổ nhưng lại phải hứng chịu sự ô nhiễm của môi trường sống xét theo chiều kích tâm linh và ân sủng.

Dù biết rằng nguyên tội mãi là mầu nhiệm với con người tại thế, nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn phải có bổn phận tìm hiểu và suy tư. Xin được góp một vài suy tư nhỏ liên quan đến một trong những đặc ân Thiên Chúa tặng ban cho Mẹ Maria mà Mẹ đã minh nhiên tỏ bày khi hiện ra với chị Bernadette ở Lộ Đức: “Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội”.

Chúng ta tin nhận rằng Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ cho khỏi vương hậu quả của nguyên tội ngay từ phút giây đầu tiên hoài thai trong dạ bà Anna. Ở đây xin xác nhận với nhau rằng ngoài nguyên tổ ra thì không một ai trong con cái loài người mắc phải tội nguyên tổ. Đã nói rằng tội nguyên tổ là tội do tổ tiên loài người phạm. Hậu duệ cháu con không phạm tội ấy thì không hề mắc tội ấy. Không phạm tội thì không chịu trách nhiệm là chuyện đương nhiên. Thế nhưng con cháu có thể vương mang hậu quả do tội của cha ông. Chẳng hạn cha ông phạm lỗi rồi bị khánh kiệt, phá sản và thế là cháu con không được hưởng gia tài thừa kế.

Vô nhiễm không phải là để miễn chiến đấu: Chúa Kitô là Đấng đầy Thánh Thần cách đích thực. Thánh Phaolô đã không ngần ngại gọi Đức Kitô, “Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống” (1Cor 15,45). Vì đầy tràn Thánh Thần nên Chúa Kitô luôn hướng về Chúa Cha để yêu mến, tìm kiếm thánh ý chúa Cha để thực thi. Vì đầy tràn Thánh Thần nên Người luôn hướng về đoàn em nhân loại để tìm cách cứu độ và ban phúc ân.

Việc tìm kiếm thánh ý Chúa Cha để thực thi không miễn cho Chúa Kitô phải chiến đấu mà trái lại, chính Người đã phải chịu bao nỗi truân chuyên, bao đau khổ để học cho biết vâng phục. Chúng ta đừng quên để thốt lên lời thưa: “Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha”, thì Chúa Kitô đã phải đổ mồ hôi pha lẫn máu (x.Lc 22,44). Việc cứu độ và ban phúc ân cho loài người cũng đòi hỏi Chúa Kitô phải trả giá. Đó là những đố kỵ, ganh tương của nhiều lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ, đó là những hiểu lầm của cả nhiều người thân, đó là sự vô tâm, bạc tình của đám quần chúng đã từng hưởng nhận biết bao ơn lành của Người, đó là sự hèn nhát, phản bội của những môn đệ thân tín, và cuối cùng đó là bản án thập giá bất công.

Giáo hội căn cứ vào lời của sứ thần Gabriel: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28) để khẳng định chân lý Mẹ vô nhiễm nguyên tội. Như thế tình trạng vô nhiễm là tình trạng đầy ân sủng Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Tình yêu bản vị giữa Ngôi Cha và Ngôi Con, là tình yêu hướng tha đầy năng động và sáng tạo. Giáo hội tin nhận rằng Mẹ Maria được ơn này là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, một đặc ân mà Thiên Chúa đã ưu ái tặng ban trước.

Mẹ Maria được ban ơn đầy tràn Thánh Thần nên Mẹ đã bỏ ý riêng để đón nhận Ngôi Hai nhập thể, hoài thai trong dạ. Đầy tràn Thánh Thần nên mẹ sống hết sức, hết tình với bà chị họ Isave, với đôi tân hôn tại Cana cũng như dòng tộc hai họ, với Người Con dấu yêu khi đứng dưới chân thập giá, với đoàn môn đệ của Con sau khi Người về trời. Mẹ Maria được đầy Thánh Thần nhưng vẫn chiến đấu. Mẹ đã can đảm đón nhận cái án có thể sẽ bị ném đá theo luật bấy giờ và có thể cả sự hoài nghi của thánh Giuse, khi mang thai Ngôi Lời nhập thể. Lời tiên tri của ông Ximêon về lưỡi gươm sẽ đâm thủng trái tim Mẹ phần nào nói lên những đau khổ Mẹ sẽ chịu khi một lòng theo ý Chúa và hết lòng yêu thương con người (x.Lc 2,35).

Cùng với ân ban chính là sứ mạng: Được Chúa ban tặng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội không phải là vì chính Mẹ, nhưng là để Mẹ xứng đáng đón nhận Ngôi Hai nhập thể, làm người và để Mẹ có khả năng hiệp công cứu chuộc cùng với Con của Mẹ. Ân ban càng cao cả thì sứ mạng càng trọng đại. Và sứ mạng càng trọng đại thì sự nỗ lực, gắng công càng nhiều và to lớn. Chúa Kitô đã từng nói: “Ai được ban cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều” (x.Lc 12,48). Đây là quy luật của tình yêu.

Xin cám ơn Mẹ đã đón nhận ân ban “Vô Nhiễm” cách đẹp lòng Chúa. Nhờ Mẹ nhân loại chúng ta được hưởng nhờ ân phúc cứu độ. Và xin đừng quên Kitô hữu chúng ta cũng đã lãnh nhận ân ban ấy qua dòng nước Thánh Tẩy, tức là đã lãnh nhận hồng ân Thánh Thần. Vấn đề đặt ra là chúng ta đã sống ân ban ấy như thế nào đây? Hãy xét xem lòng chúng ta có hướng về Chúa trong tình yêu mến, trong sự kiếm tìm thánh ý để thực thì chưa? Hãy xét xem lòng chúng ta có hướng đến hạnh phúc của tha nhân ra sao? Và cũng hãy xét xem chúng ta đã thực thi sứ mạng Ngôn sứ, Tư tế và Vương giả như thế nào?

Tình Chúa luôn vô bờ. Người có đủ cách thế để tuôn ban ân lộc cho nhân thế theo hoàn cảnh của họ. Chúng ta xác tín điều này khi cùng với mẹ Giáo hội khẳng định rằng ngoài bí tích thánh tẩy bằng nước thì có đó rất nhiều người ngoài Kitô giáo đón nhận ân sủng Thánh Thần bằng máu hay bằng lòng mến. Chúa Giêsu đã kinh ngạc trước lòng tin mạnh mẽ của viên sĩ quan người Rôma và dĩ nhiên là trước tấm lòng của ông dành cho người đầy tớ. Chúa cũng đã kinh ngạc trước tấm lòng của một bà mẹ gốc lương dân, người xứ Canaan dành cho đứa con của bà và qua đó Người nhận ra lòng tin mạnh mẽ của bà. Chắc chắn có đó rất nhiều người ngoài Kitô giáo đã đón nhận hồng ân “vô nhiễm” tức là ân sủng Chúa Thánh Thần cách hữu hiệu vì chính Chúa Kitô đã nói: Thiên hạ từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam sẽ được vào dự tiệc Nước Thiên Chúa...(x.Lc,13,22-30)

(Ban Mê Thuột)