Các Thánh Mang Tên Têrêsa
Có nhiều Thánh mang tên Têrêsa trong Giáo Hội. Bài này viết về 8 Thánh. Năm vị tu dòng Carmel:Têrêsa Avila, Têrêsa Margarita Thánh Tâm Chúa Kitô, Têrêsa Giêsu de los Andes, Têrêsa Giêsu de los Andes Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Ba vị sáng lập dòng : Têrêsa Giêsu Jornet e Ibars, Têrêsa Verzeri và Mẹ Têrêsa Calcutta. Theo Hy Lạp, Têrêsa là ‘người di sản’. Tiếng Đức 1à ‘người phụ nữ đảm đang’. Chính vì ý nghĩa đẹp như vậy, nhiều gia đình thích đặt tên cho con gái là Têrêsa.
1.Thánh Têrêsa Avila (Avila,Tây Ban Nha, 1515-1582) Lễ kính 15.10. Xứng đáng là Têrêsa
‘Cả’ hay ‘Mẹ’. Tên thật Teresa de Cepeda y Ahumada. Nổi danh cải tổ dòng Carmel, nam và nữ. Để lại nhiều tác phẩm về tâm linh. Dịch ra nhiều thứ tiếng. Như, Complete Word of St. Teresa of Jesus (1562) dịch ra tiếng Việt (1999), tựa :Tiểu Sử Tự Thuật (dịch). Năm 1537, chị nhập tu Dòng Carmel Thánh Thể tại Avila, khấn trọn đời 1537, 22 tuổi. Đầy lửa mến, được thị kiến hỏa ngục, Chúa Giêsu, Thánh Giuse. Từ 1562, là bề trên, viết quy luật dòng, được ủy thác cải tổ dòng, lập được 16 tu viện.Viết sách và thư (650). Giáo Hội phong Thánh cho Chị (1622) và tuyên xưng là Tiến sỹ Hội Thánh (1970)
2.Thánh Têrêsa Margarita Thánh Tâm Chúa Kitô (Ý, 1747-1770). Tên thật là Anna Maria Redi. Năm 17 tuổi, gia nhập Carmel, nhận tên Teresa Magarita Thánh Tâm Chúa Kitô. Chị nhanh chóng tiến trên đường nhân đức. Chị được trao nhiệm vụ coi phòng bệnh. Nhiều bệnh nhân nặng được khỏi, khi chị thắp nến cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Sau khi qua đời xác thánh còn nguyên vẹn, tại tu viện Florence, Ý. Chị được tôn phong hiển thánh, 1934. Mẹ của Chị cũng gia nhập dòng Carmel.
3.Thánh Têrêsa Verzeri (Ba Lan, 1801- Ý,1852) Sinh tại Ba Lan, Bergamo quê hương Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và qua đời tại Ý, Brescia, quê hương Thánh Giáo Hoàng Phaolo VI. Chị nhập dòng Biển Đức. Chị sáng lập Dòng Con Cái Thánh Tâm Chúa Giêsu (1831) lo giáo dục trẻ mồ côi. Chị được phong thánh 2001.
4.Thánh Têrêsa Giêsu Jornet e Ibars (Tây Ban Nha 1843 - Liria 1897). Lễ kính 26.8. Gia nhập Carmel. Năm 30 tuổi Chị hoạt động cho ‘Các Tiểu Muội phục vụ người già bị bỏ rơi’ (Les Petites Sœurs des Personnes Agées Anandonées). Chị được chọn làm bề trên cho dòng mới thành lập. Chị được phong Chân Phước 1858 và Hiển thánh 1974. Giáo Hội đặt làm Quan Thày các vị cao niên.
5.Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Pháp, 1873-1879). Lễ kính 1.10. Tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin con hai Thánh (2015) Louis Martin và Zélie Gúerin. Năm 14 tuổi, 1888, nhập tu Carmel. Khấn tạm 1890. Coi nhà Tập 1896. Ho ra máu 1897. Gia đình có 4 nữ tu : Pauline Martin, Marie Martin, Céline Martin và Thérèse de Jésus.
Chị được phong Chân Phước (1923), Hiển Thánh (1925) Quan Thày các xứ Truyền Giáo – (1927), Quan Thày nước Pháp (1944). Các tác phẩm sau qua đời : Một Tâm Hồn (1898), Tự Thuật (1959), Toàn Bộ văn bản của Têrêsa (1971-1988)
6.Thánh Têrêsa Giêsu de los Andes (Chili, 1900-1920) lễ kính 13.7. Tên trong khai sinh là Juan Fernandez Solar. Tiếng Tây Ban Nha là Teresa de Jesus Las Andes. Thuộc dòng Carmel. Chị bắt chước và nên thánh theo ‘Đường thơ ấu’ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở Pháp. Quá trình phong thánh : Tôi Tớ Chúa 1976, Đấng Đáng Kính 1986, Chân phước 1987 và Hiển tháng, 1993.
7.Thánh Têrêsa Benedicta Thánh Giá (Đức, 1891-1942) tên thật là Edith Stein. Lễ kính 9.8. Gốc Do Thái, vô thần, giáo sư tiến sỹ Triết đại học. Trở lại Công Giáo (1922) sau khi đọc ‘Tiểu Sự Tự Thuật’ của thánh Têrêsa Avila’. Năm 1933 vào dòng Kín tại Cologne, nhận tu danh là ‘Teresia Benedicta a Cruce (Têrêsa Benedicta Thánh Giá). Khấn tạm (1934) và trọn đời (1938). Năm 1942, bà và em gái Rosa, cải đạo cùng 897 người bị bắt và đày tới lò thiêu Auchwitz, Ba Lan, chết trong phòng hơi ngạt, tử đạo, được phong Chân Phước tử đạo 1987 và Hiển thánh 1998, nâng lên là Quan thày châu Âu, 1999. Bà để lại di sản văn hóa với nhiều tác phẩm dịch và sáng tác giá trị. Có nhiều tác giả viết (19 cuốn) và làm phim (4 phim), dịch (14 ra tiếng Anh) và 14 (ra tiếng Pháp) về Bà. Nhiều trường ở Đức, Hòa Lan (5), phòng họp
8. Thánh Mẹ Têrêsa Calcutta (Albanie 1910-1997). Lễ kính là 5.9. Tên khai sinh là Anjeze (Agnès) Gonxhe Bojaxhui, con út ÔB Nicola và Drana, sinh sống tại Skoyje. Năm 1928 Agnès qua Anh, nhập tu dòng Loretô. Năm 1829, qua Calcutta Ấn Độ đến Dajeeling vào nhà Tập, khấn lần đầu (1931) và thành nữ tu 1937. Sau đó trở lại Entally, nam Ấn Độ. Năm 1946, nhận được thông điệp của Chúa, bỏ tu viện sống với người nghèo ở khu ổ chuột. 1948, Roma cho phép tách khỏi Loreto, mở Dòng Nữ Tu Bác Ái Truyền giáo. Được nhiều học trò cũ và hảo tâm Ấn Độ tiếp tay giúp đỡ. Và 1950, thành lập dòng đầu tiên. 1953 người ta gọi là Mẹ Têrêsa. 1957 mở phòng khám bệnh lưu động. 1960, mở dòng ở nước ngoài. 1963 Hội Anh em Truyền giáo được thành lập. 1965 đã có 25 trung tâm trên Ấn Độ. 1979 được giải thưởng hòa bình. 1997 Ấn Độ tổ chức quốc táng Mẹ qua đời. Mẹ được phong Chân Phước 2012 và Hiển Thánh 2016.
Còn 10 vị khác cũng mang tên Têrêsa, gồm 3 Chân Phước, 6 Đấng Đáng Kính và 1 Tôi Tớ Chúa. (đang sưu tầm, chưa đầy đủ)
1) Chân Phước Marie Thérèse Casini (Ý, 1864-1937), sáng lập Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (Oblates Sacré Coeur de Jésus). Năm 18 tuổi quyết tâm theo tiếng Chúa gọi, nhập tu dòng Clara gần Roma. Năm 1892, cùng hai bạn mở chi nhánh Thánh Tâm Chúa Giêsu khác. Năm 1925, thành lập Hiệp Hội ‘Bạn Nhỏ Chúa Giêsu’ (Petit amis de Jésus) cổ vũ ơn gọi linh mục. Năm 1982 mở hồ sơ phong thánh. Thánh GH Gioan Phaolô II công nhận Chị là Đấng Đáng Kính. 2015. ĐGH Phanxico nhìn nhận phép lạ như điều kiện phong thánh. Ngày 31.10. 2015, ĐHY Angelo Amato, tuyên phong Chị là Chân Phước, tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
2). Chân Phước Trinh Nữ Tử Đạo Thérèse Bracco (Ý, 1924-1944). Sinh sống ở nông trại, trong gia đình 7 anh em, dân quê nghèo, đạo đức, giữ lễ Chúa Nhật đều đặn. Trên đường lễ về người cha hay hỏi hay nhắc lại cho các con các bài sách Thánh hay bài giảng của cha xứ. Riêng Bracco có lòng yệu mến Thánh Domiique Savio. Gia đình sống vào đệ nhị thế chiến. Gia đình bị nhóm lính lùng bắt và Cô bị một sỹ quan Đức tấn công trinh tiết và đâm bể sọ trong khi cô bảo vệ đời trinh nữ. Thánh Giáo Hoàang Gioan Phalô II tôn vinh cô lên Chân Phước Tử Đạo (24.5.19978), năm tuổi 20, 29.8.1944. Ngay sau cô bị đâm giết người chứng kiến gọi Cô là ‘Thánh’. Đúng là vox populi.
3) Chân Phước Teresa Manganiello (Ý, 1849-1876) có tên khác Maria Luisa Manganiello, qua đời vì viêm phổi. Gia nhập Dòng Nữ Phanxicô Assisi, được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II phong Chân Phước, 22.5.2010. Sau một Phong Chân Phước, Trong khi đọc kinh Regina Coeli, 23.5.2010, Thánh GH nói : Tân Chân Phước sống đơn sơ nghèo khổ theo tinh thần luật Capucins của Phanxicô Assisi, hy sinh cho người nghèo và bệnh hoạn. Linh đạo của là đi theo con đườn Thập Giá Chúa Kitô.
4) Đấng Đáng Kính Maria Teresa Albarracin (Tây Ban Nha, 1927-1946). Tên trong gia đình là Maria Del Carmen Albarracin Pascual. Đang lúc gia đình bị theo dõi thời cách mạng Tây Ban Nha. Thì, năm 15 tuổi Chị nhập tu, tập sinh Dòng Vô Nhiễm. Đời tập sinh bị viêm phổi nặng. Nổi bật là đức vâng lời và tận tụy công việc. Chị qua đời mới 18 tuổi rưỡi. ĐGH Bedicto XVI tôn vinh là Đấng Đáng Kính, 3.4.2009
5) Đấng Đáng Kính Maria Teresa Spinelli (Ý, 1789-1850) sáng lập Dòng ‘Nữ Tôi Tớ Thánh Augustinô Chúa Giêsu và Mẹ Maria’ (Congrégation des Soeurs Augustiniennes Servantes de Jésus et Marie) ở Frosinone, 1927. Chị lập gia đình với người chồng vũ phu tàn bạo. Nhưng Chị vẫn im lặng chịu đựng, cầu nguyện cho chồng cải tà qui chính. Sau khi bé gái ra đời, vợ chồng ly thân. Chị có giờ đọc kinh cầu nguyện, làm việc bác ái, chăm sóc cha mẹ già. Năm 1820, Chị được ơn soi sáng mở trường cho nữ sinh, ở Frosinone. Năm 1927, thành lập ‘Nữ Tôi Tớ Thánh Augustinô Chúa Giêsu và Mẹ Maria’ dạy học sinh và giới trẻ Công Giáo. Từ đây, cả đời phục vụ Chúa và con người.
6)Đấng Đáng Kính Teresa da Anunciada (Bồ Đào Nha, 1658-1738). Sau khi qua đời còn tỏa hương thơm mát kỳ diệu. Giáo Hội Portugal xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Chị.
7) Đấng Đáng Kính Teresa Fardella de Blasi (Hoa Kỳ, 1867- 1957). Sáng lập ‘Học viện Maria các chị em nghèo’ (L’Institut des sœurs pauvres de la Vierge). Chồng là Raffaele de Blasi, theo nhiều nghành trong quân đội. Chị hay liên lạc chăm sóc trẻ em và thanh thiếu niên sống trên hè phố. Năm 1896, Chị lập nhà ‘Thánh Giuse’ rồi ‘Học viện Maria các chị em nghèo’. Năm 1937, sau khi chồng qua đời, Chị càng dấn thân phục vụ người nghèo cùng khổ trong xã hội.
8) Đấng Đáng Kính Teresa Gardi (Ý, 1769-1837). Mồ côi cha mẹ, Chị được anh chị em trong gia đình nuôi ăn học qua tuổi thanh xuân. Chị có thân thể ốm yếu và bệnh hoạn. Năm 32 tuổi, Chị gia nhập Dòng Nữ Phanxico Chiêm Niệm. Từ 1802, Chị đã có những lần ‘ngây ngất’ sống những giây phút huyền bí, như các Thánh, đau đớn dữ dội tột cùng. Sau khi qua đời, người ta mới khám phá ra, những lần ‘đau đớn ngây ngất’, Chị đều ghi lại trong nhật ký.
9) Đấng Đáng Kính Thérèse Toda y Juncosa (Tây Ban Nha, 1826-1898) có tên khác là Teresa Toda i Juncosa, có chồng là Antoine Guasch y Domènec đã qua đời và để lại con gái là Thérèse Guasch y Toda. Chị sáng lập Dòng Carmélites Thérèsiennes de Saint Joseph. Năm 1868, Chị từ giã gia đình sống trên địa phận lo cho bác ái. Đức Giám Mục giúp chị tu dòng, nhận tên Thérèse de Saint Joseph. Thêm có con gái phụ giúp đón tiếp người không lợi tức. Năm 1878, Chị cùng hai bạn mở trường cho nữ và trẻ mồ côi. Năm 57 tuổi, Chị được tín nhiệm làm Bề trên Tổng quyền Dòng. 1891, Chị bị té, liệt và qua đời, 30.7.1898. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công nhận Chị là Tôi Tớ Chúa, 3.6. 2013.
10)Tôi Tớ Chúa Teresa Rosa Fernanda (Bồ Đào Nha 1837-1916). Tên dài là Teresa Rosa Fernanda de Saldanda Oliveira Sousa. Đấng sáng lập Dòng Đa Minh Thánh Catherine de Sienne ở Portugal (Dominicaines de Ste Catherine de Sienne). Sinh trưởng trong gia đình qúi phái, nhưng năm 1856, bỏ mọi sự dâng mình cho Chúa. Năm 1862, Chị phụ trách trường Santa Marta nhận nữ sinh con nhà nghèo, phụ giúp các sơ Vincent de Paul về bác ái. 1868 có sáng kiến lập Dòng Đa Minh Thánh Catherine de Sienne. 1877, mua nhà cho các sơ ở tu luyện. 1887, mở lớp y tá cho các sơ và gửi đi Bỉ, Brésil và Nam Phi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Ns Hiệp Nhất, 10.2019, CA. tr. 27, LM Phan Tấn Thành
- Nguyễn Dy Loan (dịch) : Mẹ Terexa, Một đời cho người nghèo khổ. Định Hướng.2004
- Têrêsa vị thánh lớn nhất thời đại. Hương Việt. Paris.1997
- Teresa Avila, Tiểu Sử Tự Thuật (dịch). Kinh Đô. TX. 1999
Có nhiều Thánh mang tên Têrêsa trong Giáo Hội. Bài này viết về 8 Thánh. Năm vị tu dòng Carmel:Têrêsa Avila, Têrêsa Margarita Thánh Tâm Chúa Kitô, Têrêsa Giêsu de los Andes, Têrêsa Giêsu de los Andes Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Ba vị sáng lập dòng : Têrêsa Giêsu Jornet e Ibars, Têrêsa Verzeri và Mẹ Têrêsa Calcutta. Theo Hy Lạp, Têrêsa là ‘người di sản’. Tiếng Đức 1à ‘người phụ nữ đảm đang’. Chính vì ý nghĩa đẹp như vậy, nhiều gia đình thích đặt tên cho con gái là Têrêsa.
1.Thánh Têrêsa Avila (Avila,Tây Ban Nha, 1515-1582) Lễ kính 15.10. Xứng đáng là Têrêsa
‘Cả’ hay ‘Mẹ’. Tên thật Teresa de Cepeda y Ahumada. Nổi danh cải tổ dòng Carmel, nam và nữ. Để lại nhiều tác phẩm về tâm linh. Dịch ra nhiều thứ tiếng. Như, Complete Word of St. Teresa of Jesus (1562) dịch ra tiếng Việt (1999), tựa :Tiểu Sử Tự Thuật (dịch). Năm 1537, chị nhập tu Dòng Carmel Thánh Thể tại Avila, khấn trọn đời 1537, 22 tuổi. Đầy lửa mến, được thị kiến hỏa ngục, Chúa Giêsu, Thánh Giuse. Từ 1562, là bề trên, viết quy luật dòng, được ủy thác cải tổ dòng, lập được 16 tu viện.Viết sách và thư (650). Giáo Hội phong Thánh cho Chị (1622) và tuyên xưng là Tiến sỹ Hội Thánh (1970)
2.Thánh Têrêsa Margarita Thánh Tâm Chúa Kitô (Ý, 1747-1770). Tên thật là Anna Maria Redi. Năm 17 tuổi, gia nhập Carmel, nhận tên Teresa Magarita Thánh Tâm Chúa Kitô. Chị nhanh chóng tiến trên đường nhân đức. Chị được trao nhiệm vụ coi phòng bệnh. Nhiều bệnh nhân nặng được khỏi, khi chị thắp nến cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Sau khi qua đời xác thánh còn nguyên vẹn, tại tu viện Florence, Ý. Chị được tôn phong hiển thánh, 1934. Mẹ của Chị cũng gia nhập dòng Carmel.
3.Thánh Têrêsa Verzeri (Ba Lan, 1801- Ý,1852) Sinh tại Ba Lan, Bergamo quê hương Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và qua đời tại Ý, Brescia, quê hương Thánh Giáo Hoàng Phaolo VI. Chị nhập dòng Biển Đức. Chị sáng lập Dòng Con Cái Thánh Tâm Chúa Giêsu (1831) lo giáo dục trẻ mồ côi. Chị được phong thánh 2001.
4.Thánh Têrêsa Giêsu Jornet e Ibars (Tây Ban Nha 1843 - Liria 1897). Lễ kính 26.8. Gia nhập Carmel. Năm 30 tuổi Chị hoạt động cho ‘Các Tiểu Muội phục vụ người già bị bỏ rơi’ (Les Petites Sœurs des Personnes Agées Anandonées). Chị được chọn làm bề trên cho dòng mới thành lập. Chị được phong Chân Phước 1858 và Hiển thánh 1974. Giáo Hội đặt làm Quan Thày các vị cao niên.
5.Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (Pháp, 1873-1879). Lễ kính 1.10. Tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin con hai Thánh (2015) Louis Martin và Zélie Gúerin. Năm 14 tuổi, 1888, nhập tu Carmel. Khấn tạm 1890. Coi nhà Tập 1896. Ho ra máu 1897. Gia đình có 4 nữ tu : Pauline Martin, Marie Martin, Céline Martin và Thérèse de Jésus.
Chị được phong Chân Phước (1923), Hiển Thánh (1925) Quan Thày các xứ Truyền Giáo – (1927), Quan Thày nước Pháp (1944). Các tác phẩm sau qua đời : Một Tâm Hồn (1898), Tự Thuật (1959), Toàn Bộ văn bản của Têrêsa (1971-1988)
6.Thánh Têrêsa Giêsu de los Andes (Chili, 1900-1920) lễ kính 13.7. Tên trong khai sinh là Juan Fernandez Solar. Tiếng Tây Ban Nha là Teresa de Jesus Las Andes. Thuộc dòng Carmel. Chị bắt chước và nên thánh theo ‘Đường thơ ấu’ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở Pháp. Quá trình phong thánh : Tôi Tớ Chúa 1976, Đấng Đáng Kính 1986, Chân phước 1987 và Hiển tháng, 1993.
7.Thánh Têrêsa Benedicta Thánh Giá (Đức, 1891-1942) tên thật là Edith Stein. Lễ kính 9.8. Gốc Do Thái, vô thần, giáo sư tiến sỹ Triết đại học. Trở lại Công Giáo (1922) sau khi đọc ‘Tiểu Sự Tự Thuật’ của thánh Têrêsa Avila’. Năm 1933 vào dòng Kín tại Cologne, nhận tu danh là ‘Teresia Benedicta a Cruce (Têrêsa Benedicta Thánh Giá). Khấn tạm (1934) và trọn đời (1938). Năm 1942, bà và em gái Rosa, cải đạo cùng 897 người bị bắt và đày tới lò thiêu Auchwitz, Ba Lan, chết trong phòng hơi ngạt, tử đạo, được phong Chân Phước tử đạo 1987 và Hiển thánh 1998, nâng lên là Quan thày châu Âu, 1999. Bà để lại di sản văn hóa với nhiều tác phẩm dịch và sáng tác giá trị. Có nhiều tác giả viết (19 cuốn) và làm phim (4 phim), dịch (14 ra tiếng Anh) và 14 (ra tiếng Pháp) về Bà. Nhiều trường ở Đức, Hòa Lan (5), phòng họp
8. Thánh Mẹ Têrêsa Calcutta (Albanie 1910-1997). Lễ kính là 5.9. Tên khai sinh là Anjeze (Agnès) Gonxhe Bojaxhui, con út ÔB Nicola và Drana, sinh sống tại Skoyje. Năm 1928 Agnès qua Anh, nhập tu dòng Loretô. Năm 1829, qua Calcutta Ấn Độ đến Dajeeling vào nhà Tập, khấn lần đầu (1931) và thành nữ tu 1937. Sau đó trở lại Entally, nam Ấn Độ. Năm 1946, nhận được thông điệp của Chúa, bỏ tu viện sống với người nghèo ở khu ổ chuột. 1948, Roma cho phép tách khỏi Loreto, mở Dòng Nữ Tu Bác Ái Truyền giáo. Được nhiều học trò cũ và hảo tâm Ấn Độ tiếp tay giúp đỡ. Và 1950, thành lập dòng đầu tiên. 1953 người ta gọi là Mẹ Têrêsa. 1957 mở phòng khám bệnh lưu động. 1960, mở dòng ở nước ngoài. 1963 Hội Anh em Truyền giáo được thành lập. 1965 đã có 25 trung tâm trên Ấn Độ. 1979 được giải thưởng hòa bình. 1997 Ấn Độ tổ chức quốc táng Mẹ qua đời. Mẹ được phong Chân Phước 2012 và Hiển Thánh 2016.
Còn 10 vị khác cũng mang tên Têrêsa, gồm 3 Chân Phước, 6 Đấng Đáng Kính và 1 Tôi Tớ Chúa. (đang sưu tầm, chưa đầy đủ)
1) Chân Phước Marie Thérèse Casini (Ý, 1864-1937), sáng lập Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu (Oblates Sacré Coeur de Jésus). Năm 18 tuổi quyết tâm theo tiếng Chúa gọi, nhập tu dòng Clara gần Roma. Năm 1892, cùng hai bạn mở chi nhánh Thánh Tâm Chúa Giêsu khác. Năm 1925, thành lập Hiệp Hội ‘Bạn Nhỏ Chúa Giêsu’ (Petit amis de Jésus) cổ vũ ơn gọi linh mục. Năm 1982 mở hồ sơ phong thánh. Thánh GH Gioan Phaolô II công nhận Chị là Đấng Đáng Kính. 2015. ĐGH Phanxico nhìn nhận phép lạ như điều kiện phong thánh. Ngày 31.10. 2015, ĐHY Angelo Amato, tuyên phong Chị là Chân Phước, tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
2). Chân Phước Trinh Nữ Tử Đạo Thérèse Bracco (Ý, 1924-1944). Sinh sống ở nông trại, trong gia đình 7 anh em, dân quê nghèo, đạo đức, giữ lễ Chúa Nhật đều đặn. Trên đường lễ về người cha hay hỏi hay nhắc lại cho các con các bài sách Thánh hay bài giảng của cha xứ. Riêng Bracco có lòng yệu mến Thánh Domiique Savio. Gia đình sống vào đệ nhị thế chiến. Gia đình bị nhóm lính lùng bắt và Cô bị một sỹ quan Đức tấn công trinh tiết và đâm bể sọ trong khi cô bảo vệ đời trinh nữ. Thánh Giáo Hoàang Gioan Phalô II tôn vinh cô lên Chân Phước Tử Đạo (24.5.19978), năm tuổi 20, 29.8.1944. Ngay sau cô bị đâm giết người chứng kiến gọi Cô là ‘Thánh’. Đúng là vox populi.
3) Chân Phước Teresa Manganiello (Ý, 1849-1876) có tên khác Maria Luisa Manganiello, qua đời vì viêm phổi. Gia nhập Dòng Nữ Phanxicô Assisi, được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II phong Chân Phước, 22.5.2010. Sau một Phong Chân Phước, Trong khi đọc kinh Regina Coeli, 23.5.2010, Thánh GH nói : Tân Chân Phước sống đơn sơ nghèo khổ theo tinh thần luật Capucins của Phanxicô Assisi, hy sinh cho người nghèo và bệnh hoạn. Linh đạo của là đi theo con đườn Thập Giá Chúa Kitô.
4) Đấng Đáng Kính Maria Teresa Albarracin (Tây Ban Nha, 1927-1946). Tên trong gia đình là Maria Del Carmen Albarracin Pascual. Đang lúc gia đình bị theo dõi thời cách mạng Tây Ban Nha. Thì, năm 15 tuổi Chị nhập tu, tập sinh Dòng Vô Nhiễm. Đời tập sinh bị viêm phổi nặng. Nổi bật là đức vâng lời và tận tụy công việc. Chị qua đời mới 18 tuổi rưỡi. ĐGH Bedicto XVI tôn vinh là Đấng Đáng Kính, 3.4.2009
5) Đấng Đáng Kính Maria Teresa Spinelli (Ý, 1789-1850) sáng lập Dòng ‘Nữ Tôi Tớ Thánh Augustinô Chúa Giêsu và Mẹ Maria’ (Congrégation des Soeurs Augustiniennes Servantes de Jésus et Marie) ở Frosinone, 1927. Chị lập gia đình với người chồng vũ phu tàn bạo. Nhưng Chị vẫn im lặng chịu đựng, cầu nguyện cho chồng cải tà qui chính. Sau khi bé gái ra đời, vợ chồng ly thân. Chị có giờ đọc kinh cầu nguyện, làm việc bác ái, chăm sóc cha mẹ già. Năm 1820, Chị được ơn soi sáng mở trường cho nữ sinh, ở Frosinone. Năm 1927, thành lập ‘Nữ Tôi Tớ Thánh Augustinô Chúa Giêsu và Mẹ Maria’ dạy học sinh và giới trẻ Công Giáo. Từ đây, cả đời phục vụ Chúa và con người.
6)Đấng Đáng Kính Teresa da Anunciada (Bồ Đào Nha, 1658-1738). Sau khi qua đời còn tỏa hương thơm mát kỳ diệu. Giáo Hội Portugal xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Chị.
7) Đấng Đáng Kính Teresa Fardella de Blasi (Hoa Kỳ, 1867- 1957). Sáng lập ‘Học viện Maria các chị em nghèo’ (L’Institut des sœurs pauvres de la Vierge). Chồng là Raffaele de Blasi, theo nhiều nghành trong quân đội. Chị hay liên lạc chăm sóc trẻ em và thanh thiếu niên sống trên hè phố. Năm 1896, Chị lập nhà ‘Thánh Giuse’ rồi ‘Học viện Maria các chị em nghèo’. Năm 1937, sau khi chồng qua đời, Chị càng dấn thân phục vụ người nghèo cùng khổ trong xã hội.
8) Đấng Đáng Kính Teresa Gardi (Ý, 1769-1837). Mồ côi cha mẹ, Chị được anh chị em trong gia đình nuôi ăn học qua tuổi thanh xuân. Chị có thân thể ốm yếu và bệnh hoạn. Năm 32 tuổi, Chị gia nhập Dòng Nữ Phanxico Chiêm Niệm. Từ 1802, Chị đã có những lần ‘ngây ngất’ sống những giây phút huyền bí, như các Thánh, đau đớn dữ dội tột cùng. Sau khi qua đời, người ta mới khám phá ra, những lần ‘đau đớn ngây ngất’, Chị đều ghi lại trong nhật ký.
9) Đấng Đáng Kính Thérèse Toda y Juncosa (Tây Ban Nha, 1826-1898) có tên khác là Teresa Toda i Juncosa, có chồng là Antoine Guasch y Domènec đã qua đời và để lại con gái là Thérèse Guasch y Toda. Chị sáng lập Dòng Carmélites Thérèsiennes de Saint Joseph. Năm 1868, Chị từ giã gia đình sống trên địa phận lo cho bác ái. Đức Giám Mục giúp chị tu dòng, nhận tên Thérèse de Saint Joseph. Thêm có con gái phụ giúp đón tiếp người không lợi tức. Năm 1878, Chị cùng hai bạn mở trường cho nữ và trẻ mồ côi. Năm 57 tuổi, Chị được tín nhiệm làm Bề trên Tổng quyền Dòng. 1891, Chị bị té, liệt và qua đời, 30.7.1898. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công nhận Chị là Tôi Tớ Chúa, 3.6. 2013.
10)Tôi Tớ Chúa Teresa Rosa Fernanda (Bồ Đào Nha 1837-1916). Tên dài là Teresa Rosa Fernanda de Saldanda Oliveira Sousa. Đấng sáng lập Dòng Đa Minh Thánh Catherine de Sienne ở Portugal (Dominicaines de Ste Catherine de Sienne). Sinh trưởng trong gia đình qúi phái, nhưng năm 1856, bỏ mọi sự dâng mình cho Chúa. Năm 1862, Chị phụ trách trường Santa Marta nhận nữ sinh con nhà nghèo, phụ giúp các sơ Vincent de Paul về bác ái. 1868 có sáng kiến lập Dòng Đa Minh Thánh Catherine de Sienne. 1877, mua nhà cho các sơ ở tu luyện. 1887, mở lớp y tá cho các sơ và gửi đi Bỉ, Brésil và Nam Phi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Ns Hiệp Nhất, 10.2019, CA. tr. 27, LM Phan Tấn Thành
- Nguyễn Dy Loan (dịch) : Mẹ Terexa, Một đời cho người nghèo khổ. Định Hướng.2004
- Têrêsa vị thánh lớn nhất thời đại. Hương Việt. Paris.1997
- Teresa Avila, Tiểu Sử Tự Thuật (dịch). Kinh Đô. TX. 1999