Tài liệu chuẩn bị cho Đại hội đồng thường lệ lần thứ 16 của Thượng Hội đồng Giám mục
Vì một Giáo hội Đồng nghị:
Hiệp thông, Tham gia và Sứ mệnh
NỘI DUNG
I. Lời kêu gọi cùng nhau hành trình
II. Một Giáo hội Đồng nghị trong hiến chế
III. Lắng nghe Kinh thánh
Chúa Giêsu, Đám đông, Các Tông đồ
Động lực kép của hoán cải: Thánh Phêrô và Ông Cornêliô (Công vụ 10)
IV. Tính Đồng nghị trong hành động: Các nẻo đường để hỏi ý kiến dân Chúa
Câu hỏi cơ bản
Các khía cạnh khác nhau về tính đồng nghị
Mười chủ đề cốt lõi cần được khám phá
Đóng góp vào cuộc tham khảo
*************************
1.Giáo Hội của Thiên Chúa được triệu tập trong Thượng hội đồng. Nẻo đường có tên “Vì một Giáo hội Đồng nghị: Hiệp thông, Tham gia và Sứ mệnh” sẽ long trọng khai mạc vào ngày 9 - 10 tháng 10 năm 2021 tại Rôma và vào ngày 17 tháng 10 sau đó tại mỗi Giáo hội đặc thù. Giai đoạn căn bản sẽ là việc cử hành Đại hội đồng Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục, vào tháng 10 năm 2023, [1] sẽ được tiếp nối bằng giai đoạn thi hành liên quan đến các Giáo hội đặc thù (xem EC, điều 19- 21). Với việc triệu tập này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi toàn thể Giáo hội suy tư về một chủ đề có tính cách quyết định đối với đời sống và sứ mệnh của mình:
“Chính con đường đồng nghị này được Thiên Chúa mong đợi ở Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba” [2]. Cuộc hành trình này, diễn ra sau công cuộc “canh tân” Giáo hội do Công đồng Vatican II đề xuất, vừa là một ơn phúc vừa là một nhiệm vụ: bằng cách đồng hành và cùng nhau suy gẫm về cuộc hành trình đã được thực hiện, Giáo hội sẽ có thể học hỏi qua kinh nghiệm của mình những diễn trình nào có thể giúp Giáo Hội sống hiệp thông, đạt được sự tham gia, mở cửa để Giáo Hội thi hành sứ mệnh sai đi. Thực thế, việc chúng ta “cùng nhau hành trình” là điều thể hiện và biểu lộ một cách hữu hiệu nhất bản chất của Giáo hội như là dân Chúa đang lữ hành và truyền giáo.
2. Một câu hỏi căn bản gợi mở và hướng dẫn chúng ta: Làm thế nào để việc “cùng nhau hành trình”, diễn ra ngày nay trên các bình diện khác nhau (từ bình diện địa phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Giáo hội công bố Tin Mừng phù hợp với sứ mạng đã trao phó cho Giáo Hội; và Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để lớn lên như một Giáo Hội đồng nghị?
Cùng nhau giải đáp câu hỏi trên đòi hỏi phải lắng nghe Chúa Thánh Thần, Đấng như gió “thổi nơi nào nó muốn; bạn có thể nghe âm thanh nó tạo ra, nhưng bạn không biết nó đến từ đâu hay nó đi về đâu ”(Ga 3: 8), vẫn mở ngỏ cho những điều ngạc nhiên mà Chúa Thánh Thần chắc chắn sẽ chuẩn bị cho chúng ta trên đường đi. Do đó, một sự năng động được kích hoạt giúp chúng ta bắt đầu gặt hái một số thành quả của một cuộc hoán cải đồng nghị, sẽ dần dần chín mùi. Đây là những mục tiêu có tầm quan trọng lớn đối với phẩm chất của đời sống Giáo hội và đối với việc hoàn thành sứ mệnh loan báo Tin Mừng, trong đó tất cả chúng ta đều tham gia nhờ Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Ở đây, chúng ta sẽ chỉ ra những mục tiêu chính vốn biến cách (decline) tính đồng nghị thành hình thức, phong cách và cấu trúc của Giáo hội:
* nhắc nhớ việc Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc hành trình của Giáo Hội trong suốt lịch sử và ngày nay, kêu gọi chúng ta cùng nhau phải làm sao trở thành các chứng nhân của tình yêu thương Thiên Chúa;
* sống diễn trình giáo hội một cách có tham gia và bao gồm, cung cấp cho mọi người – nhất là những người, vì nhiều lý do khác nhau, thấy mình ở bên lề - cơ hội để tự phát biểu và được lắng nghe ngõ hầu góp phần vào việc gầy dựng dân Chúa;
* thừa nhận và đánh giá cao sự phong phú và tính đa dạng của các ơn phúc và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần tự ý ân ban vì lợi ích của cộng đồng và lợi ích của toàn thể gia đình nhân loại;
* khám phá những cách thức tham gia để thực thi trách nhiệm trong việc công bố Tin Mừng và trong cố gắng xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn và đáng sống hơn;
* kiểm tra xem trách nhiệm và quyền hành được thực hiện ra sao trong Giáo hội cũng như các cơ cấu nhờ đó chúng được quản lý, đem ra ánh sáng và cố gắng hoán cải các định kiến và thực hành méo mó không bắt nguồn từ Tin Mừng;
* thừa nhận cộng đồng Kitô giáo như một chủ thể khả tín và là đối tác đáng tin cậy trong các nẻo đường đối thoại xã hội, hàn gắn, hòa giải, hòa nhập và tham gia, tái thiết nền dân chủ, cổ vũ tình huynh đệ và tình bạn xã hội;
* tái tạo mối liên hệ giữa các thành viên của các cộng đồng Kitô giáo cũng như giữa các cộng đồng và các nhóm xã hội khác, thí dụ, các cộng đồng tín hữu của các hệ phái và tôn giáo khác, các tổ chức xã hội dân sự, các phong trào quần chúng, v.v.;
* cổ vũ việc đánh giá cao và bản thân hóa thành quả của các kinh nghiệm Thượng hội đồng gần đây trên bình diện hoàn vũ, khu vực, quốc gia và địa phương.
3. Tài liệu Chuẩn bị này nhằm phục vụ cho cuộc hành trình đồng nghị, đặc biệt như là một công cụ để tạo điều kiện cho giai đoạn đầu tiên của việc lắng nghe và tham khảo ý kiến dân Chúa trong các Giáo hội đặc thù (tháng 10 năm 2021 - tháng 4 năm 2022), với hy vọng sẽ giúp khởi động ý nghĩ, năng lực và óc sáng tạo của tất cả những ai tham gia vào cuộc hành trình và làm cho việc chia sẻ thành quả của các cố gắng của họ trở thành dễ dàng hơn. Với mục đích này: 1) nó bắt đầu bằng cách phác thảo một số đặc điểm nổi bật của bối cảnh đương thời; 2) nó minh họa một cách tổng hợp các tài liệu tham khảo thần học căn bản để có sự hiểu biết và thực hành đúng đắn về tính đồng nghị; 3) nó cung cấp một số tư tưởng Kinh thánh có thể nuôi dưỡng việc suy niệm và suy tư cầu nguyện dọc đường hành trình; 4) nó minh họa một số viễn ảnh để từ đó đọc lại các kinh nghiệm về tính đồng nghị từng được mang ra sống; 5) nó cho thấy một số cách trình bày rõ ràng công việc đọc lại này trong cầu nguyện và chia sẻ. Kèm theo một cách cụ thể việc tổ chức công việc, một Cẩm nang phương pháp luận, đính kèm Tài liệu Chuẩn bị này và có sẵn trên trang mạng lưu trữ chuyên dụng, đã được đề xuất [3]. Trang mạng cung cấp một số nguồn tài liệu để đào sâu chủ đề tính đồng nghị, như một trợ cụ cho Tài liệu Chuẩn bị này; trong số những tài liệu nguồn này, chúng tôi muốn nhấn mạnh hai điều được đề cập nhiều lần dưới đây: Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô trình bầy vào ngày 17 tháng 10 năm 2015, và văn kiện Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo hội, do Ủy ban Thần học Quốc tế soạn và xuất bản năm 2018.
I. Lời kêu gọi cùng nhau hành trình
4. Cuộc hành trình đồng nghị triển khai trong một bối cảnh lịch sử được đánh dấu bằng những thay đổi mang tính thời đại trong xã hội và bằng một sự chuyển tiếp quan yếu trong đời sống Giáo Hội, một điều không thể làm ngơ: nó nằm trong những nếp gấp phức tạp của bối cảnh này, trong các căng thẳng và mâu thuẫn của nó, các căng thẳng và mâu thuẫn mà chúng ta được mời gọi “xem xét kỹ lưỡng các dấu chỉ của thời đại và giải thích chúng dưới ánh sáng Tin Mừng” (GS, số 4). Một số yếu tố của khung cảnh hoàn cầu có liên hệ chặt chẽ nhất với chủ đề của Thượng Hội đồng được phác họa ở đây; nhưng bức tranh cần được phong phú hóa và hoàn tất ở bình diện địa phương.
5. Thảm kịch hoàn cầu như đại dịch COVID-19 “trong giây lát đã làm sống lại cảm thức này: chúng ta là một cộng đồng hoàn cầu, tất cả đang ở trong cùng một con thuyền, nơi vấn đề của một người là vấn đề của mọi người. Một lần nữa chúng ta nhận ra rằng không ai được cứu một mình; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng với nhau ”(FT, số 32). Đồng thời, đại dịch cũng làm cho các bất bình đẳng và bất công vốn hiện hữu hiện lên rõ mồn một: nhân loại dường như ngày càng lung lay bởi các quá trình quần chúng hóa và phân mảnh; tình trạng bi đát mà những người di cư phải đối đầu ở tất cả các khu vực trên thế giới cho thấy rào cản phân chia gia đình nhân loại đơn nhất vẫn còn cao và mạnh mẽ ra sao. Thông điệp Laudato si' và Fratelli Tutti ghi lại độ sâu các đường đứt gãy chạy qua nhân loại, và chúng ta có thể tham khảo những phân tích này để bắt đầu lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và của trái đất, đồng thời nhận ra những hạt giống hy vọng và tương lai mà Chúa Thánh Thần tiếp tục gieo vào thời đại chúng ta: “Đấng Tạo Hóa không bỏ rơi chúng ta; Người không bao giờ từ bỏ kế hoạch yêu thương của mình hoặc hối hận vì đã tạo ra chúng ta. Nhân loại vẫn còn khả năng chung sức xây dựng ngôi nhà chung của chúng ta ”(LS, số 13).
6. Tình trạng trên, bất chấp các khác biệt lớn, vẫn hợp nhất toàn thể gia đình nhân loại, thách thức khả năng của Giáo hội trong việc đồng hành với các cá nhân và cộng đồng để đọc lại những kinh nghiệm tang tóc và đau khổ đã vạch mặt nhiều điều chắc chắn giả tạo, và nuôi dưỡng hy vọng và niềm tin vào sự tốt lành của Đấng Tạo Dựng và sự sáng tạo của Người. Tuy nhiên, chúng ta không thể che giấu sự kiện này: chính Giáo hội phải đối đầu với việc thiếu đức tin và sự băng hoại ngay trong chính mình. Đặc biệt, chúng ta không thể quên những đau khổ mà các vị thành niên và những người dễ bị tổn thương phải trải qua “do lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền lực và lạm dụng lương tâm của một số đáng kể các giáo sĩ và những người thánh hiến” [4]. Chúng ta liên tục bị thách thức “trong tư cách Dân Thiên Chúa, phải gánh lấy nỗi đau của các anh chị em mình từng bị thương trong xác thịt và tinh thần của họ” [5]. Đã quá lâu tiếng kêu than của các nạn nhân là tiếng kêu than mà Giáo hội không thể nghe đủ. Đây là những vết thương sâu khó chữa lành, mà ơn tha thứ cho nó không bao giờ có thể xin cho đủ và là điều đang tạo nên nhiều trở ngại, đôi khi áp đặt chúng, trên đường tiến lên theo hướng “cùng nhau hành trình”. Toàn thể Giáo hội được kêu gọi xử lý sức nặng của một nền văn hóa thấm nhuần chủ nghĩa giáo sĩ trị mà Giáo hội vốn thừa hưởng từ lịch sử của mình, và thấm nhuần các hình thức thực thi quyền hành mà trên đó các loại lạm dụng khác nhau (quyền lực, kinh tế, lương tâm, tình dục) được cấy ghép vào. Không thể nghĩ đến “một cuộc hoán cải hoạt động của chúng ta trong tư cách là một Giáo hội mà không có sự tham gia tích cực của mọi thành phần dân Chúa” [6] cùng nhau chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho “ơn hoán cải và xức dầu bên trong cần để bày tỏ trước những tội ác lạm dụng này sự hối hận và quyết tâm của chúng ta can đảm chống lại chúng" [7].
7. Bất chấp các bất trung của chúng ta, Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục hành động trong lịch sử và biểu lộ quyền năng ban sự sống của Người. Chính trong những luống cày được đào xới bởi những đau khổ đủ loại được gia đình nhân loại và dân Chúa chịu đựng, mà các ngôn ngữ mới của đức tin và những nẻo đường mới đang bừng nở: không những có khả năng giải thích các biến cố theo quan điểm thần học mà trong những thử thách còn tìm ra các lý do để tái lập con đường sống Kitô giáo và Giáo hội. Quả là lý do để hy vọng lớn lao khi hơn một số ít Giáo hội đã bắt đầu ít nhiều các cuộc họp và diễn trình tham khảo có cấu trúc với dân Chúa. Nơi nào họ nổi bật nhờ phong cách đồng nghị, cảm thức về Giáo hội đều phát triển mạnh mẽ và sự tham gia của mọi người đã đem lại một thúc đẩy mới cho đời sống giáo hội. Mong ước của giới trẻ muốn trở thành những nhân vật chủ đạo trong Giáo hội và yêu cầu đánh giá phụ nữ cao hơn và dành không gian để họ tham gia vào sứ mệnh của Giáo hội, từng được các Thượng Hội đồng năm 2018 và 2019 báo hiệu, cũng đã được xác nhận. Việc thiết lập gần đây thừa tác vụ vụ Giáo lý viên giáo dân và việc mở cửa cho phụ nữ gia nhập các thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ cũng đi theo hướng này.
8. Chúng ta không thể bỏ qua những điều kiện đa dạng của các cộng đồng Kitô giáo sống ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Song song với những quốc gia nơi Giáo hội chiếm phần lớn dân số và là điểm tham chiếu văn hóa cho toàn xã hội, có những quốc gia khác mà người Công Giáo là thiểu số; ở một số quốc gia này, người Công Giáo, cùng với những Kitô hữu khác, phải kinh qua các hình thức bách hại, bao gồm một số hình thức rất bạo lực, và thường xuyên phải chết vì đạo. Mặt khác, nếu não trạng thế tục hóa có xu hướng trục xuất tôn giáo ra khỏi các nơi công cộng, thì mặt khác, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, vốn không tôn trọng quyền tự do của người khác, đang nuôi dưỡng các hình thức bất khoan dung và bạo lực; các hình thức này cũng được phản ảnh trong cộng đồng Kitô giáo và trong liên hệ của nó với xã hội. Các Kitô hữu thường áp dụng những thái độ y như thế, thậm chí gây chia rẽ và chống đối, kể cả trong Giáo hội. Cũng cần phải xem xét các âm vang, trong Giáo hội và trong các mối liên hệ của Giáo hội với xã hội, của những rạn nứt gây ra bởi các lý do sắc tộc, chủng tộc, đẳng cấp, hoặc các hình thức phân tầng xã hội khác hoặc bạo lực văn hóa và cơ cấu, đang diễn ra trong xã hội. Những tình huống này có tác động sâu xa đến ý nghĩa của biểu thức “cùng nhau hành trình” và đến các khả thể cụ thể của việc làm như thế.
9. Trong bối cảnh đó, tính đồng nghị nói lên con đường chính cho Giáo hội, được kêu gọi đổi mới chính mình dưới tác động của Chúa Thánh Thần và bằng cách lắng nghe Lời Chúa. Khả năng hình dung một tương lai khác cho Giáo hội và các định chế của Giáo hội, phù hợp với sứ mệnh mà Giáo hội đã lãnh nhận, tùy thuộc phần lớn vào quyết định khởi xướng các diễn trình lắng nghe, đối thoại và biện phân cộng đồng, trong đó mỗi người và mọi người đều có thể tham gia và đóng góp. Đồng thời, quyết định “cùng nhau hành trình” là một dấu hiệu tiên tri cho gia đình nhân loại, vốn cần một dự án chung có khả năng theo đuổi lợi ích của mọi người. Một Giáo hội có khả năng hiệp thông và huynh đệ, tham gia và phụ đới, trung thành với điều mình công bố, sẽ có thể đứng bên cạnh những người nghèo và những người bé nhỏ nhất và cho họ mượn tiếng nói của chính mình. Để “cùng nhau hành trình”, chúng ta cần để cho mình được Chúa Thánh Thần giáo dục cho có một não trạng đồng nghị thực sự, với lòng can đảm và tự do bước vào một diễn trình hoán cải không thể thiếu cho việc “cải tổ liên tục mà [Giáo Hội] luôn luôn cần đến, bao lâu Giáo Hội vẫn còn là một định chế của con người ”(UR, số 6; xem EG, số 26).
II. Một Giáo Hội từ căn bản có tính đồng nghị
10. “Chính con đường đồng nghị này được Thiên Chúa mong đợi ở Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba. Điều Chúa yêu cầu chúng ta theo một nghĩa nào đó đã hiện diện trong chính hạn từ 'thượng hội đồng' [synod]"[8], vốn là" một hạn từ cổ xưa và đáng kính trong Truyền thống Giáo hội, mà ý nghĩa của nó dựa trên những chủ đề sâu xa nhất của Mạc Khải” [9]. Chính “Chúa Giêsu, Đấng tự giới thiệu Người là 'đường, là sự thật và là sự sống '(Ga 14: 6),” và “Các Kitô hữu, những môn đệ của Người, khởi đầu được gọi là ‘ những người theo Đường” (x. Cv 9: 2; 19:9.23; 22:4; 24:14.22)" [10]. Theo quan điểm này, tính đồng nghị không những chỉ là việc cử hành các cuộc gặp gỡ trong Giáo hội và các hội họp của Giám mục, hay một vấn đề quản trị nội bộ đơn giản trong Giáo hội; nó là “phương thức sống và hành động chuyên biệt của Giáo hội, Dân Thiên Chúa, biểu lộ và mang lại bản thể cho hữu thể Giáo hội như là sự hiệp thông khi tất cả các chi thể của Giáo hội cùng nhau hành trình, tụ họp trong các phiên họp và tích cực dự phần vào sứ mệnh truyền bá Tin Mừng của Giáo Hội” [11]. Do đó, đan kết qua lại là các trục chính của một Giáo hội đồng nghị mà tiêu đề của Thượng hội đồng đã đề ra: hiệp thông, tham gia và sứ mệnh. Trong chương này, chúng ta sẽ minh họa ngắn gọn một số tài liệu tham khảo thần học căn bản dựa trên quan điểm này.
11. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, “cùng nhau hành trình” - nghĩa là thực hành tính đồng nghị - là cách thức bình thường mà Giáo hội, được hiểu như “Mọi người hợp nhất trong sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” [ 12], luôn hành động. Đối với những người gây chia rẽ trong cơ thể Giáo hội, các Giáo phụ tương phản bằng sự hiệp thông của các Giáo hội rải rác trên khắp thế giới, được Thánh Augustinô mô tả là “concordissima fidei conspiratio” [13] nghĩa là sự nhất trí hòa điệu nhất trong đức tin của mọi người đã chịu phép rửa. Đó là các gốc rễ của việc phát triển rộng rãi một thực hành đồng nghị ở mọi bình diện của đời sống Giáo hội — địa phương, cấp tỉnh và hoàn vũ — từng đạt đến biểu hiện cao nhất trong Công đồng Chung. Trong chân trời giáo hội này, được gợi hứng bởi nguyên tắc tham gia của mọi người vào đời sống của Giáo hội, Thánh Gioan Chrysostom đã có thể nói rằng “Giáo hội và Thượng hội đồng đồng nghĩa với nhau” [14]. Ngay cả trong thiên niên kỷ thứ hai, khi Giáo hội nhấn mạnh hơn đến chức năng phẩm trật, cách thức tiến hành này vẫn không mất đi: nếu, cùng với việc cử hành các công đồng chung, việc cử hành các thượng hội đồng giáo phận và giáo tỉnh đã được chứng thực rõ ràng, thì lúc cần phải xác định các chân lý tín điều, các vị Giáo hoàng đều muốn tham khảo ý kiến của các Giám mục để biết đức tin của toàn thể Giáo hội, như thế là đã nại tới thế giá của sensus fidei [cảm thức đức tin] của toàn thể dân Chúa, vốn “không thể sai lầm” ‘trong khi tin'”(EG, số 119).
12. Công đồng Vatican II đã dựa vào động lực của Truyền thống này. Nó nhấn mạnh rằng “Tuy nhiên, Thiên Chúa không làm cho con người trở nên thánh thiện và cứu vớt họ chỉ như các cá nhân, không có sự ràng buộc hay liên kết giữa họ với nhau. Đúng hơn, điều làm Người vui lòng là quy tụ mọi người lại với nhau như một dân tộc, một dân tộc biết nhìn nhận Người trong sự thật và phụng sự Người trong sự thánh thiện" (LG, số 9). Các thành viên của Dân Thiên Chúa được hợp nhất với nhau bằng Bí tích Rửa tội, và “nếu theo ý muốn của Chúa Kitô, một số được làm thầy dạy, mục tử và phân phát các mầu nhiệm thay cho những người khác, nhưng tất cả đều chia sẻ sự bình đẳng thực sự về phẩm giá và hoạt động chung vì mọi tín hữu để xây dựng Thân thể Chúa Kitô ”(LG, số 32). Do đó, tất cả những người đã chịu phép Rửa, những người tham dự vào các chức năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Kitô bằng cách “thực thi tính đa dạng và phong phú có trật tự của các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ của họ,” [15] đều là những chủ thể tích cực của việc rao giảng Tin Mừng, cả trong tư cách cá nhân lẫn trong tư cách toàn thể dân Chúa.
13. Công Đồng nhấn mạnh nhờ sự xức dầu của Chúa Thánh Thần nhận được trong Bí tích Rửa tội, toàn bộ các Tín hữu “không thể sai lầm trong các vấn đề niềm tin” ra sao. Họ biểu lộ sở hữu đặc biệt này qua việc biện phân siêu nhiên của toàn thể dân Chúa trong các vấn đề đức tin khi 'từ các Giám mục xuống tới người tín hữu cuối cùng’, họ biểu lộ sự đồng thuận phổ quát trong các vấn đề đức tin và luân lý”(LG, số 12). Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn tín hữu “đến mọi sự thật” (Ga 16:13). Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, “truyền thống phát xuất từ các Tông đồ này phát triển trong Giáo hội” để dân Chúa có thể lớn lên “trong sự hiểu biết các thực tại và lời lẽ đã được lưu truyền. Điều này xảy ra qua việc các tín hữu chiêm niệm và học hỏi; họ luôn trân trọng những điều này trong lòng (x. Lc 2,19, 51) nhờ sự hiểu biết thấu đáo các thực tại thiêng liêng được họ trải nghiệm, và qua lời rao giảng của những người, nhờ việc kế nhiệm giám mục, đã nhận được hồng ân sự thật chắc chắn”(DV, số 8). Thực thế, Dân tộc này, được các vị Chủ chăn tập hợp lại với nhau, gắn bó với kho tàng thánh thiêng của Lời Chúa được trao phó cho Giáo hội, kiên trì không ngừng trong giáo huấn của các Tông đồ, trong tình hiệp thông huynh đệ, trong việc bẻ bánh và trong lời cầu nguyện, “Để việc nắm giữ, thực hành và tuyên xưng di sản đức tin, nó trở thành một nỗ lực chung của các Giám mục và các Tín hữu” (DV, số 10).
14. Các Mục tử, được Thiên Chúa thiết lập như “những người bảo quản, giải thích và nhân chứng đích thực cho đức tin của toàn thể Giáo Hội” [16], không nên sợ hãi lắng nghe Đoàn chiên được giao phó cho họ. Việc tham khảo ý kiến dân Chúa không bao hàm việc tiếp nhận vào Giáo hội các động lực của nền dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, bởi vì, trên cơ sở tham gia vào mọi diễn trình đồng nghị, có một niềm đam mê chung đối với sứ mệnh chung là loan báo Tin Mừng, chứ không phải đại diện cho các lợi ích xung đột nhau. Nói cách khác, đây là một diễn trình mang tính giáo hội chỉ có thể diễn ra ở “trung tâm của một cộng đồng có cấu trúc phẩm trật” [17]. Chính trong mối dây hữu hiệu liên kết cảm thức đức tin của dân Chúa với chức năng huấn quyền của các Mục tử mà sự đồng tâm nhất trí của toàn thể Giáo hội trong cùng một đức tin được thể hiện. Mọi diễn trình đồng nghị, trong đó các Giám mục được kêu gọi biện phân những gì Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội, không phải bởi chính họ mà bằng cách lắng nghe dân Chúa, vốn “cũng dự phần vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Kitô” (LG, số 12), đều là một hình thức hiển nhiên của việc “cùng nhau hành trình” làm cho Giáo hội phát triển ấy. Thánh Biển Đức nhấn mạnh “Chúa thường mạc khải đường lối khôn ngoan nhất cần phải tuân theo” [18] cho những người không nắm giữ các vị trí quan trọng trong cộng đồng (trong trường hợp đó là người trẻ nhất); như thế, các Giám mục nên quan tâm đến việc tiếp cận với tất cả mọi người, để, trong lúc triển khai hành trình đồng nghị một cách có trật tự, điều được Thánh Tông đồ Phaolô khuyến cáo các cộng đồng được thể hiện: “Đừng dập tắt Thần khí. Đừng khinh thường những lời tiên tri. Hãy thử nghiệm mọi sự; hãy giữ lại những gì tốt lành ”(1 Tx 5: 19-21).
15. Ý nghĩa của cuộc hành trình mà tất cả chúng ta được kêu gọi trên hết là cuộc hành trình khám phá khuôn mặt và hình thức của một Giáo hội đồng nghị, trong đó “mọi người đều có điều gì đó để học hỏi. Các tín hữu giáo dân, hợp đoàn giám mục, Giám mục Rôma: tất cả lắng nghe nhau, và tất cả lắng nghe Chúa Thánh Thần, 'Thần khí chân lý' (Ga 14:17), để biết Người ‘nói gì với các Giáo hội '(Kh 2: 7)” [19]. Giám mục Roma, với tư cách là nguyên tắc và nền tảng của sự hợp nhất Giáo hội, yêu cầu tất cả các Giám mục và tất cả các Giáo hội đặc thù, trong đó và từ đó Giáo Hội Công Giáo duy nhất hiện hữu (xem LG, số 23), tự tin và can đảm bước vào con đường đồng nghị. Trong “cuộc cùng nhau hành trình” này, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta khám phá ra việc hiệp thông, vốn kết hợp với nhau trong sự hợp nhất đa dạng các ân sủng, đặc sủng và thừa tác vụ, vì sứ mệnh như thế nào: một Giáo hội đồng nghị là một Giáo hội “ra đi”, một Giáo hội truyền giáo “cửa luôn rộng mở” (EG, số 46). Điều này bao gồm ơn gọi làm sâu sắc thêm các mối liên hệ với các Giáo hội và các cộng đồng Kitô giáo khác, mà chúng ta kết hợp với qua cùng một Phép Rửa. Khi đó, viễn ảnh “cùng nhau hành trình” thậm chí còn rộng lớn hơn và bao trùm tất cả nhân loại, những người mà chúng ta chia sẻ “niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo lắng” với (GS, số 1). Một Giáo hội đồng nghị là một dấu chỉ tiên tri, trước hết, cho một cộng đồng các quốc gia không có khả năng đề xuất một dự án chung, qua đó theo đuổi lợi ích cho mọi người: ngày nay, thực hành tính đồng nghị đối với Giáo hội là cách rõ ràng nhất để trở thành “bí tích cứu rỗi phổ quát”(LG, số 48), “một dấu chỉ và công cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hợp nhất của toàn thể nhân loại” (LG, số 1).
III. Lắng nghe Kinh thánh
16. Thần khí Thiên Chúa, Đấng soi sáng và làm sống động cuộc “cùng nhau hành trình” này của các Giáo Hội, cũng chính là Thần Khí hoạt động trong sứ mệnh của Chúa Giêsu, đã được hứa ban cho các Tông đồ và các thế hệ môn đệ biết lắng nghe và đem Lời Thiên Chúa vào thực hành. Theo lời Chúa hứa, Thần Khí không tự giới hạn mình trong việc xác nhận tính liên tục của Tin Mừng Chúa Giêsu, nhưng sẽ soi sáng những chiều sâu luôn mới mẻ trong Mặc khải của Người và linh hứng các quyết định cần thiết để duy trì cuộc hành trình của Giáo hội (x. Ga 14: 25–26; 15: 26–27; 16: 12–15). Do đó, điều thích đáng là việc chúng ta hành trình xây dựng một Giáo hội đồng nghị được linh hứng bởi hai “hình ảnh” trong Kinh thánh. Một hình ảnh xuất hiện trong việc trình bầy “khung cảnh cộng đồng” luôn đồng hành với hành trình loan báo Tin Mừng; hình ảnh kia đề cập đến việc trải nghiệm Chúa Thánh Thần, trong đó Thánh Phêrô và cộng đồng sơ khai nhận ra nguy cơ áp đặt các giới hạn phi lý trong việc chia sẻ đức tin. Kinh nghiệm đồng nghị về cuộc hành trình với nhau, theo chân Chúa và vâng phục Chúa Thánh Thần, sẽ có thể nhận được nguồn linh hứng quyết định từ việc suy gẫm hai đặc điểm này của mặc khải.
Chúa Giêsu, Đám đông, Các Tông đồ
17. Trong cấu trúc nền tảng của nó, khung cảnh nguyên thủy xuất hiện như hằng số của cách thức trong đó Chúa Giêsu tỏ mình ra trong suốt Tin Mừng, khi Người loan báo Nước Thiên Chúa sắp đến. Trong yếu tính, ba tác nhân (hơn một) có liên quan. Tất nhiên, người đầu tiên là Chúa Giêsu, nhân vật chủ đạo tuyệt đối, Đấng đưa ra sáng kiến, gieo rắc lời nói và dấu hiệu về việc xuất hiện của Nước Trời mà không “cho thấy sự thiên vị” (xem Cv 10:34). Bằng nhiều cách khác nhau, Chúa Giêsu đặc biệt chú ý đến những người bị “tách biệt” khỏi Thiên Chúa và những người bị cộng đồng “bỏ rơi” (người tội lỗi và người nghèo, theo ngôn ngữ Tin Mừng). Qua lời nói và hành động của mình, Người đem đến sự giải thoát khỏi sự dữ và hoán cải thành hy vọng, nhân danh Thiên Chúa Cha và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngay trong tính đa dạng của các lời kêu gọi của Chúa, những lời đáp trả dễ lĩnh hội của họ, đặc điểm chung là đức tin luôn xuất hiện như một việc trân quí con người: lời cầu xin của họ được lắng nghe, sự khó khăn của họ được giúp đỡ, sự sẵn sàng của họ được đánh giá cao, phẩm giá của họ được xác nhận bởi cái nhìn của Thiên Chúa và được phục hồi để được cộng đồng công nhận.
18. Thực vậy, công việc truyền bá Tin Mừng và sứ điệp cứu rỗi sẽ không thể hiểu được nếu không có sự cởi mở liên tục của Chúa Giêsu đối với lượng thính giả rộng lớn nhất, mà các sách Tin Mừng gọi là đám đông, tức là, tất cả những người theo Người dọc đường, và thậm chí đôi khi theo Người với hy vọng được một dấu lạ và một lời cứu rỗi: đây là tác nhân thứ hai trong khung cảnh Mặc Khải. Việc loan báo Tin Mừng không chỉ dành cho một số ít người được soi sáng hoặc được chọn lựa. Người đối thoại của Chúa Giêsu là “những người” có cuộc sống bình thường, là “mọi người” có thân phận con người, những con người mà Người đặt tiếp xúc trực tiếp với ơn phúc Thiên Chúa và ơn gọi cứu rỗi. Bằng cách gây ngạc nhiên và đôi khi gây bối rối cho các nhân chứng này, Chúa Giêsu chấp nhận như người đối thoại tất cả những ai xuất hiện từ đám đông: Người lắng nghe những lời phản bác đầy xúc động của người phụ nữ Canaan (x. Mt 15: 21–28), người không chấp nhận bị loại khỏi phước lành mà Người mang lại; Người cho phép mình đối thoại với người phụ nữ Samaria (x. Ga 4: 1–42), bất chấp tình huống của nàng như một phụ nữ bị coi là xấu xa về mặt xã hội và tôn giáo; Người kích thích hành vi đức tin tự do và biết ơn của người mù bẩm sinh (x. Ga 9), người mà tôn giáo chính thức đã bác bỏ như nằm ngoài phạm vi ân sủng.
19. Một số đi theo Chúa Giêsu một cách minh nhiên hơn, cảm nghiệm được lòng trung thành của tư cách môn đệ, trong khi những người khác được mời gọi trở về cuộc sống bình thường của họ: nhưng tất cả đều làm chứng cho sức mạnh của đức tin đã cứu vớt họ (x. Mt 15:28). Trong số những người đi theo Chúa Giêsu, hình ảnh các tông đồ, những người được chính Người kêu gọi ngay từ đầu, sau khi giao cho họ nhiệm vụ làm trung gian có thẩm quyền cho mối liên hệ của đám đông với Mặc Khải và với việc xuất hiện của Nước Thiên Chúa, rõ ràng trở nên nổi bật. Việc nhập cuộc của tác nhân thứ ba xảy ra không phải nhờ vào một cuộc chữa trị hay hoán cải, mà vì nó trùng hợp với lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Việc chọn lựa các tông đồ không phải là đặc ân của một chức vụ quyền lực và tách biệt độc quyền, nhưng là ân sủng của một thừa tác vụ phước lành và hiệp thông có tính bao gồm. Nhờ hồng phúc Chúa Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, họ có nhiệm vụ canh giữ nơi ở của Chúa Giêsu, mà không thay thế Người: không đặt các gạn lọc trước nhan Người, nhưng để ai cũng dễ dàng gặp được Người.
20. Chúa Giêsu, đám đông trong tính đa dạng của nó, các tông đồ: đây là hình ảnh và là mầu nhiệm phải thường xuyên được chiêm niệm và khám phá sâu xa để Giáo hội ngày càng trở nên như chính mình. Không ai trong ba tác nhân có thể rời khỏi hiện trường. Nếu Chúa Giêsu vắng mặt và người khác thế chỗ, thì Giáo hội sẽ trở thành một khế ước giữa các tông đồ và đám đông và cuộc đối thoại của họ sẽ kết thúc theo cốt truyện của trò chơi chính trị. Nếu không có các tông đồ, được Chúa Giêsu ban quyền và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, mối liên hệ với sự thật Tin Mừng sẽ bị cắt đứt, và đám đông, bất chấp tiếp nhận hay bác bỏ Chúa Giêsu, vẫn bị đối diện với một huyền thoại hoặc một ý thức hệ về Người. Nếu không có đám đông, mối liên hệ của các tông đồ với Chúa Giêsu sẽ trở nên biến chất thành một hình thức tôn giáo bè phái và tự quy chiếu vào chính mình, và việc truyền bá Tin Mừng, vốn phát xuất từ sự tự tỏ mình ra cách trực tiếp mà Thiên Chúa đích thân ngỏ với tất cả mọi người, trong khi đề nghị ơn cứu rỗi của Người, sẽ mất hết ánh sáng của nó.
21. Rồi, còn có một tác nhân “phụ”, kẻ đối lập, kẻ mang vào khung cảnh việc tách biệt đầy tính ma quái ba tác nhân kia. Đối đầu với viễn ảnh đầy biến động của thập giá, có những môn đệ bỏ đi và những đám đông thay đổi tâm trạng. Sự xảo quyệt gây chia rẽ — và do đó, phá vỡ con đường chung — tự biểu lộ một cách hờ hững dưới các hình thức của một tôn giáo nghiêm khắc, của mệnh lệnh luân lý tự trình bầy như nhiều đòi hỏi hơn mệnh lệnh của Chúa Giêsu, và của sự quyến rũ của khôn ngoan chính trị thế gian tự cho là hữu hiệu hơn sự biện phân các tinh thần. Để thoát khỏi sự lừa dối của “tác nhân thứ tư”, việc hoán cải liên tục là điều cần thiết. Về mặt này, vấn nạn là tình tiết về viên bách quản Cornêliô (xem Cv 10), tiền thân của “Công đồng” Giêrusalem kia (xem Cv 15), vốn tạo thành điểm tham chiếu chủ yếu cho một Giáo hội đồng nghị.
Còn 1 kỳ