CHÚA NHẬT 30 MÙA THƯỜNG NIÊN A
Xuất hành 22: 20-26; Tv 18; I Thêxalônica 1: 5c-10;Matthêu 22: 34-40

“Tôi nghe chính miệng anh ấy nói ra”. “Cô ấy nói riêng với chúng tôi”. Đây là những kiểu nói khi chúng ta muốn đưa ra bằng chứng chắc chắn với ai về điều mà chúng ta nghe được. “Mẹ nói với anh rằng nếu như em không vào nhà ngay thì….” Ngay khi còn nhỏ, lời nói của chúng ta có thể tự nó không có tí trọng lượng nào nếu như chúng ta không dẫn lời của ai đó thực sự có quyền. Tôi không thể khiến anh hay em tôi làm điều họ không muốn, nhưng nếu tôi nói với chúng rằng “Bố nói…” thì lúc đó lại là chuyện khác.
Khi một ngôn sứ có điều quan trọng cần nói, hoặc một chỉ thị nghiêm trọng cần trình bày, họ biết phải trích dẫn ai, “Đức Chúa phán…” Bài đọc trích sách Xuất hành cũng bắt đầu cùng một cách như thế, “Vì thế, Đức Chúa phán…”. Điều gì mà quan trọng đến nỗi tác giả đã phải “dẫn lời” Thiên Chúa để nói với con người. Đó là một giáo huấn dành cho dân Israel về việc phải quan tâm đến những người khác trong cộng đồng của họ, đặc biệt là những người túng quẫn nhất; ngoại kiều, quả phụ, cô nhi và người nghèo. Những người không có tiếng nói hoặc ảnh hưởng gì nhiều trong cộng đồng chính là những người mà dân phải quan tâm và mở rộng vòng tay thương cảm với họ.
Có một lời cảnh báo mạnh mẽ đi kèm với chỉ dẫn. Một “trưng dẫn” khác từ Thiên Chúa được đưa ra. Nếu kẻ cô thế cô thân bị ức hiếp mà “chúng kêu đến Ta”, thì cơn giận của Thiên Chúa sẽ “bùng lên” thay cho họ.
Dân Israel, những người đã được giải thoát khỏi cảnh nô lệ, giờ đang lập thành một quốc gia. Lịch sử của dân tộc bày tỏ sự chăm sóc của Thiên Chúa dành cho họ. Vì thế, như một dấu của tương quan giao ước của họ với Thiên Chúa, họ nhớ lại sự chăm sóc của Thiên Chúa dành cho họ khi họ kêu cứu Người lúc họ còn làm nô lệ bên Aicập. Những gì họ nhận được trước đây, thì giờ họ phải làm cho những người khác đang cần đến. Thử tưởng tượng chứng từ mà cộng đồng dành cho những người quan sát bên ngoài thấy khi mà các thành viên của cộng đồng chia sẻ và đảm bảo công bằng cho những ai không có quyền lực. Tại sao một người phải lấy từ trong kho mình để giúp đỡ người khác? Lý do chính là Thiên Chúa đã làm cho họ như thế. Sự chăm sóc của cộng đồng dành cho những người khốn khổ nhất có thể tuyên xưng một Thiên Chúa mà họ tín thác, Đấng luôn bên cạnh những ai kêu xin Ngài.
Thư thứ nhất của thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica tiếp theo bài đọc của tuần trước. Cộng đoàn đó bao gồm hầu hết là dân ngoại, những người nhờ lời rao giảng và đời sống chứng tá của Phaolô, Silvanô và Timôthy, đã quan về với Đức Kitô. Khi họ làm như thế là họ bắt chước các tông đồ và noi gương Chúa. Bằng đức tin của mình, các tín hữu Thêxalônica đã là một lời tuyên xưng và trở thành bằng chứng hùng hồn mà thánh Phaolô đã khẳng định: “chúng tôi không cần nói gì thêm nữa”. Như những người Israel xưa, đã chăm sóc những ai thiếu thốn, cộng đoàn Thêxalônica là một điển hình đức tin cho những cộng đoàn khác.
Các Pharisêu lại cố tìm cách gài bẫy Đức Giêsu. “Thưa Thầy, trong sách luật, điều nào là quan trọng nhất?” Họ là những chuyên gia tôn giáo và những người lý luận tuyệt vời. Dù Ngài có đưa ra điều luật nào đi nữa, họ cũng sẵn sàng săn tay áo và đấu lại.
Trước hết, Đức Giêsu tỏ ra trung thành với truyền thống đức tin của họ bằng cách trích dẫn sách Đệ Nhị Luật 6,5: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em…” Đó là một phần trong kinh nguyện hàng ngày (“Shema Israel”) của những người Dothái đạo đức. Ở đây, Ngài có nền tảng chắc chắn. Nhưng Ngài nối kết giáo huấn này với lề luật đòi người ta phải yêu thương người thân cận (Lêvi 19,18). Vậy, đâu là luật cao trọng nhất? Ngài không nói, ngoài những gì mà hai điều trên kết hợp lại, “tất cả lề luật và các ngôn sứ đều tùy thuộc vào”.
Đức Giêsu trích lại những đoạn sách mà những người đang lắng nghe Ngài đều đã biết. Chắc chắn điều đầu tiên thì thiêng liêng và là cốt lõi lời dạy của các bậc thày Dothái. Nhưng Đức Giêsu không phải là người đầu tiên gom hai điều đó chung lại với nhau – yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận. Điểm mang tính cách mạng ở đây là Ngài đã đặt hai điều này song song với nhau. Người ta không thể chịu được nhưng hiểu được ý Ngài muốn nói: cả hai đều quan trọng như nhau. Chẳng phải bản tính tự nhiên của chúng ta là đặt tình yêu Thiên Chúa lên trên hết sao? Trên hết tất cả, đó là Thiên Chúa! Tất cả những quy tắc tôn giáo khác đều quan trọng nhưng ở mức độ thấp hơn. Nhưng Đức Giêsu dạy chúng ta phải xem hai điều đó quan trọng ngang nhau. Evagrius Ponticus, một thần học gia thế kỷ thứ IV, tóm kết giáo huấn này bằng cách khẳng định rằng yêu người thân cận chính là yêu Chúa vì đó là yêu hình ảnh của Thiên Chúa. Martin Luther nói rằng người thân cận của chúng ta thì thiếu thốn nhưng Thiên Chúa thì không, nên việc phụng sự đích thực dành cho Thiên Chúa phải là vì người thân cận của chúng ta.
Tất cả những gì Kitô hữu chúng ta thực hiện trong đời sống thường ngày và trong phụng vụ phải phản chiếu luật yêu thương dành cho cả Thiên Chúa và người thân cận. Điều này như thể một ngôn xứ xưa đã đưa ra lời dạy này với tuyên bố long trọng: “Vì thế Đức Chúa phán…” Thực ra chúng ta có thể cảm thấy lời đó được nói ra từ miệng Thiên Chúa, vì Đức Giêsu đã tuyên bố điều ấy. Và vì thế, mệnh lệnh của Ngài phải là ưu tiên đối với chúng ta.
Lời dạy của Đức Giêsu đưa chúng ta tránh khỏi một thứ tình yêu hời hợt đối với Thiên Chúa, như thể Chúa là một vị thần-trên-trời nào đó. Chúng ta không thể có được một tôn giáo với thực hành phụng vụ tuyệt vời và những lễ nghi đặc biệt, và rồi cảm thấy ấm cúng dễ chịu chỉ với Thiên Chúa. Thứ tôn giáo này tạo ra một ngẫu tượng, sản phẩm của trí tưởng tượng của chúng ta. Chúng ta cũng không thể chỉ cố gắng yêu thương người thân cận mà không mảy may đoái hoài gì đến Thiên Chúa, vì căn tính nhân loại của chúng ta là con cái Thiên Chúa, được tạo nên giống như hình ảnh Thiên Chúa. Tin vào phẩm vị cố hữu này của tất cả nhân loại sẽ hướng dẫn chúng ta biết cách đối xử với người khác và giữ chúng ta khỏi khuất phục trước những bất công vì có cái nhìn sai trệch về con người.
Bài Tin mừng nhấn mạnh đến mối liên kết giữa tình yêu người lân cận và tình yêu Thiên Chúa. Trong Tin mừng Matthêu cho thấy rõ ràng Thiên Chúa ở nơi những người khác. Đức Giêsu là Thiên Chúa hiện hữu giữa chúng ta, như trong dụ ngôn tiếp theo (25, 31-46) hành động yêu mến dành cho Ngài được thực hiện qua việc yêu mến người thân cận (“mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, …”).
Lời dạy của Đức Giêsu về tình yêu Thiên Chúa và người thân cận khiến chúng ta cảm thấy quá con người và không thích hợp. Tình yêu mà Đức Giêsu mô tả đòi tất cả mọi thứ của chúng ta. Phần đầu của lời dạy đòi hỏi: “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi.” Đây là cách mà Kinh thánh tóm kết trọn vẹn một con người. Nó không chừa một khe hở nào, và không cho phép suy giảm chút nào. Yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận là một cách dâng lên của lễ trọn vẹn là chính chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu không phải nói đến việc chúng ta cảm nhận Thiên Chúa và người thân cận ra sao, nhưng là chúng ta sẽ làm gì. Vì thứ tình yêu mà Ngài nói đến không phải là một thứ cảm xúc, không phải là “tiếng sét ái tình”, nhưng là một tình yêu có thể làm chủ được. Giáo huấn này đan xen trong suốt Tin mừng của thánh Matthêu; đó chính là điều Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ phải thực hiện nếu như muốn đi theo Ngài. “Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (10,38-39). Ra như chỉ có một dấu chỉ thực tế cho thấy chúng ta yêu mến Thiên Chúa là chúng ta yêu mến người thân cận của mình.
Để làm nên của lễ là chính chúng ta dâng lên Thiên Chúa hôm nay và canh tân sự dấn thân cho tình yêu như Đức Giêsu đã dạy chúng ta qua lời nói và gương mẫu của Ngài, chúng ta hãy hướng về giây phút tiếp theo đây trong việc cử hành của chúng ta. Chúng ta sẽ đặt bánh và rượu lên bàn thờ, của lễ là chính chúng ta dâng lên Thiên Chúa. Dĩ nhiên, những thứ ấy không xứng đáng và chúng ta cũng thế. Nhưng chúng ta sẽ cầu xin Thánh Thần ngự đến và biến đổi chúng trở nên Mình và Máu của Đức Kitô. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và biến đổi chúng ta thành Đức Kitô tình yêu mà chúng ta sẽ lãnh nhận trong ngày hôm nay.
Chuyển ngữ:: Anh em HV Đaminh Gò-Vấp


30th SUNDAY IN ORDINARY TIME A
Exodus 22: 20-26; Psalm 18; I Thessalonians 1: 5c-10; Matthew 22: 34-40

"I heard it from his own mouth." "She told us personally." These are some of the things we say when we want to give assurance to someone about something we have heard. "Mama told me to tell you that if you don’t come in right away...." Even as kids our words could take on an authority they didn’t have on their own if we could cite the words of someone who did have authority. I couldn’t get my brother or sister to do something they didn’t want to, but if I could tell them, "Dad said…" Well that was another story.
When the prophets had something important to say, or a stern directive to give, they knew whom to quote, "The Lord says…." The Exodus reading starts in a similar way today, "Thus says the Lord…." What is so important that the author has to "quote" God to the people? It’s an exhortation to the Israelites to care for one another in their community, especially those who were most in need; the alien, widow, orphan and the poor. Those with the least political voice and clout in the community were the very ones to whom the people were to extend compassion.
There’s a stern warning that goes with the instruction. Another "quote" from God is given. If the vulnerable are oppressed and "they cry out to me," then God’s anger would "flare up" on their behalf.
The Israelites, who had been delivered from slavery, are now forming their nation. The history of the nation reveals God’s care for them. So, as a sign of their covenantal relationship with God they are to remember God’s care for them when they cried out from their Egyptian slavery. What they were given in the past, they must now give to others in need. Imagine the witness a community gives to observers when the members share with and guarantee justice for those who wield no power on their own. Why would a people take from their own resources to help others? Because their God had done similarly for them. The community’s care for the most vulnerable would proclaim the God in whom they believed, who sides with those who cry out for help.
Paul’s First Letter to the Thessalonians continues where it left off last week. The community consisted mostly of Gentiles who, upon the preaching and living witnesses of Paul, Silvanus, and Timothy, converted to Christ. When they did they imitated both the apostles and the Lord. The Thessalonians have, by their faith, been a proclamation and such a powerful witness that Paul claims, "We have no need to say anything." Like the ancient Israelites, who were to care for those in need, the Thessalonians are a model of faith for other communities.
The Pharisees are out to trap Jesus again. "Teacher, which commandment in the law is the greatest?" They are religious experts and great debaters. No matter which commandment he picks, they are ready to roll up their sleeves and do battle.
First of all, Jesus shows fidelity to their faith tradition by quoting Deuteronomy 6:5, "You shall love the Lord your God…." It was part of the daily prayer ("Shema Israel") of devout Jews. He was on safe ground here. But he connects this teaching with the law that the commands love of neighbor (Leviticus 19:18). So, which is the greatest commandment? He doesn’t say, except that upon the two combined, "the whole law and the prophets depend."
Jesus recited texts his hearers would already know. Certainly the first was hallowed and a core teaching of the rabbis. But Jesus was not the first to put the two together – love of God and love of neighbor. What was revolutionary was that he made the two laws parallel to each other. People could not help but hear his meaning: the two were equal in importance. Wouldn’t our instinct be to put love of God in first place? After all, it’s God! Every other religious observance would be important, but on a lower level. But Jesus teaches we must treat the two laws as equal in importance. A fourth century theologian, Evagrius Ponticus, summarized the teaching by arguing that love of neighbor is love of God because it is love of the image of God. Martin Luther said that while our neighbor is needy and God is not, true service to God must be for the sake of our neighbor.
Everything we Christians do in daily life and worship should reflect this command of love for both God and neighbor. It is as if one of the ancient prophets introduced this teaching with a solemn declaration, "Thus says the Lord…." In fact, we can claim we have heard it from the mouth of our God, for Jesus has proclaimed it. And so, his command holds priority of place for us.
Jesus’ teaching keeps us from claiming a rarefied love of God, as if God were some god-in-the-sky. We can’t have a religion of wonderful liturgical practice and precise rituals and thus feel warm and cozy with our God. This kind of religion produces an idol, the product of our own imagination. Nor can we just strive to love neighbor without reference to God, because our basic human identity is as children of God, made in God’s image and likeness. Believing in this inherent dignity of all human beings will direct how we treat one another and keep us from yielding to injustices because of false perspectives about humans beings.
The gospel stresses the link between love of neighbor and love of God. It’s clear in Matthew’s gospel that God is in others. Jesus is the divine presence in our midst and, for example, in a later parable (25:31-46) acts of love towards him are done by loving neighbor ("As you did it unto the least of my sisters and brothers….")
Jesus’ teaching about love of God and neighbor can cause us to feel all-too-human and inadequate. The love Jesus describes asks everything of us. The first part of the teaching requires, "All your heart, with All your soul, and with All your mind." This is the biblical way of summarizing the whole person. It leaves no wiggle room, and will not allow watering down. Loving God and loving neighbor is a way of giving the full gift of ourselves in service to God.
Jesus’ teaching isn’t about how we feel about God and neighbor, but what we will do. Since the type of love he has in mind is not an emotion, not a "falling in love," it can be commanded. This teaching is woven throughout the gospel of Matthew; it’s what Jesus asks his disciples to do if they would follow him. "Deny self, pick up your cross and follow me" (10:38-39). It seems that the only practical sign that we love God is that we love our neighbor.
In order to make the gift of ourselves to God again today and renew our commitment to love as Jesus taught us by his words and example, we turn to the next moment in our celebration. Soon we will put bread and wine on the altar, gifts of ourselves offered to God. Of course they are inadequate and so are we. But we will pray for the Spirit to come upon and transform them into the Body and Blood of Christ. Our prayer will also be to the Spirit to come upon us and transform us into the Christ of love we receive today.