Trong tháng Năm Lạng sơn có nhiều lễ giỗ của các bậc tiền bối: Mồng 2 giỗ Đức Cha Jacq Mỹ, mồng 4 giỗ Đức Cha Hedde Minh, 18 giỗ bà cụ Mến, 27 giỗ Đức Ông Cothonay Chiểu và 30 giỗ cha già Quỳnh. Đặc biệt năm nay lễ giỗ 10 năm của Đức cha Jacq Mỹ và 51 năm của Đức Cha Hedde Minh, tôi thấy xúc động vì hoàn cảnh của các ngài và những kỷ niệm tôi có với các ngài.
Đức cha Hedde Minh là giám mục Đại diện Tông tòa tiên khởi của Giáo phận Đại diện Tông tòa Lạng sơn. Trước đó ngài đã là Đức Ông của Phủ doãn Tông tòa Lạng sơn, kế vị Đức Ông Cothonay Chiểu và Đức Ông Maillet Bính. Thời gian ngài coi sóc Lạng sơn là thời gian có nhiều biến động với nhiều cuộc chiến tranh: chiến tranh với Nhật, với Pháp, với Mỹ và cuộc di cư đã làm Giáo phận vốn mỏng manh lại thêm èo uột.
Sống trong cảnh bấp bênh thời chiến, ngài đã cẩn thận lựa chọn Đức Cha Phó Jacq Mỹ để phụ giúp ngài điều hành một giáo phận tuy ít người nhưng lại trải trên một địa bàn vừa rộng lớn, vừa hiểm trở và khó tiếp cận đặc biệt trong thời chiến tranh. Nhưng hoàn cảnh éo le đã khiến ngài cuối cùng phải một mình gồng gánh trách nhiệm trên đôi vai già yếu và bệnh tật.
Năm 1959, Nhà Nước ra lệnh trục xuất các Thừa sai nước ngoài. Đức Cha Jacq Mỹ đã lên đường sang Thái rồi vào miền Nam. Còn lại Đức Cha Hedde Minh già yếu bệnh tật không có thể di chuyển được, dù bị thúc ép nhưng ngài kiên quyết vùi thân nơi mảnh đất yêu dấu mà ngài đã gắn bó hơn nửa thế kỷ qua. Nhà Nước bao vây ngài rất kỹ lưỡng nên không ai được vào thăm nom chăm sóc. Nằm trên giường bệnh ngài than thở: “Je suis seul! Je suis seul”(Tôi cô đơn quá). Sức lực tàn tạ, Ngài trút hơi thở vào ngày 04-05-1960. Bị bao vây kỹ lưỡng nên các Đức Cha chung quanh không ai hay biết và đến dự đám tang của Ngài. Nghe nói Đức Cha Căn được tin đã lên đường ngay, nhưng chưa kịp đến nơi thì lễ an táng đã xong rồi.
Khi sống đã chịu nhiều khó khăn, khi chết ngài vẫn còn bị bắt bớ. Chính quyền lấy cớ ngài bị bệnh truyền nhiễm nên không cho an táng trong nghĩa địa, càng không cho an táng trong Nhà thờ Chính tòa theo thói tục của các Giáo phận. Nhưng với lòng yêu mến vị Chủ Chăn sống chết với đoàn chiên và với đức tin kiên vững, giáo dân quyết tâm an táng ngài trong nghĩa địa Cửa Nam trên đồi Tổ Sơn. Tuy lực lượng an ninh canh gác dày đặc, nhưng giáo dân Lạng sơn tuy ít ỏi mà rất kiên cường đã đàng hoàng tổ chức đám tang nghiêm trang trong tình cảm đau đớn tiếc nuối. Khi sống ngài đã luôn ở giữa giáo dân cả trong những thời khắc gian nan nhất, khi chết ngài vẫn hiện diện giữa đoàn chiên như một mục tử nhân lành sống chết với đoàn chiên theo cả nghĩa đen. Và thật là một quan phòng của Thiên Chúa, nếu ngài được an táng trong Nhà thờ Chính tòa thì có lẽ xác ngài sẽ không còn nguyên vẹn vì ngôi nhà thờ đã bị bom vào năm 1967 và sụp đổ tan tành.
Cuộc đời của Đức Cha Jacq Mỹ cũng không kém phần gian khổ. Làm giám mục phó, ngài xông xáo khắp nơi, đi lại những nơi rừng sâu núi thẳm để thăm viếng các linh mục và giáo dân trong thời chiến tranh. Có lần ngài suýt bỏ mạng trong trận Đông Khê. Đoàn xe bị mìn nhưng ơn Chúa gìn giữ xe của ngài đi qua đầu tiên thì mìn chưa kịp nổ.
Năm 1959, ngài bị trục xuất. Không trở về nước ngài vào miền Nam tiếp tục sứ mạng loan báo Tin mừng với tâm nguyện được chết tại đất nước mà ngài yêu quí rất mực này. Tại Long xuyên ngài chẳng làm việc gì quan trọng, chỉ làm tuyên úy cho bệnh viện. Ngoài những giờ kinh lễ cầu nguyện sốt sắng, ngài rảo khắp bệnh viện thăm nom các bệnh nhân. Lạ lùng, ngài nói tiếng Việt rất dở, nhưng mọi người đều hiểu ngài. Có lẽ ngài nói bằng trái tim nên ai cũng hiểu. Ngài cũng dành một chút thời giờ vào chủng viện dậy tiếng Pháp cho chủng sinh. Chẳng bao giờ người ta thấy ngài xuất hiện như một vị giám mục cân đai áo mão, suốt đời chỉ như một linh mục khiêm nhường ân cần phục vụ người nghèo.
Ước nguyện rất bình thường của ngài không được toại nguyện. Sau năm 1975, một lần nữa ngài bị trục xuất khỏi miền Nam và khỏi Việt nam, đất nước mà ngài yêu quí muốn hiến dâng cả cuộc đời và muốn được vùi thân ở đây.
Không rõ ngài làm gì khi trở về Pháp. Nghe nói ngài làm tuyên úy cho một trại tù. Năm 1993, khi tôi sang Pháp thì ngài đã về hưu. Chân ướt chân ráo đến Pháp, tôi muốn thăm ngài nhưng không biết ở đâu. May nhờ cha Alphongso Nguyễn hữu Long chúng tôi mới biết ngài nghỉ hưu nơi nhà các sơ Petites Soeurs des Pauvres tại phố Breteuil, rất gần Hội Thừa Sai Ba lê. Thế là chúng tôi thường xuyên đến thăm ngài.
Thấy người Việt nam đến các sơ rất mừng, vì trí nhớ của ngài đã bắt đầu suy giảm nhưng lại rất nhớ Việt nam. Ngài luôn nói tiếng Việt mà các sơ không hiều gì. Còn ngài thì vui mừng hết sức. Tỉnh táo, vui tươi, ngài hỏi thăm rất nhiều về Việt nam. Khi cha Phạm phúc Khánh soạn xong quyển “Lược sử giáo phận Lạng sơn”, đưa cho ngài một bản, ngài say sưa đọc và nhắc rất nhiều về Lạng sơn. Dịp kỷ niệm Ngọc Khánh Linh Mục, chúng tôi rủ nhau đến đồng tế với ngài khiến ngài rất hài lòng.
Nhưng năm 1996, tại Pháp nổ ra cuộc đình công của Đảng Xã Hội làm tê liệt giao thông trong 1 tháng trời. TV đưa tin rất nhiều về những đòi hỏi cải cách tiền lương và chế độ xã hội, ngài sợ hãi như mất trí. Ngài luôn lo sợ hỏi: Có phải chính quyền sắp bị lật đổ không. Có lẽ ngài sợ lại bị trục xuất một lần nữa. Sau đó ngài chìm dần vào hôn mê cho đến khi qua đời vào ngày 02-05- 2001.
Dường như gặp khó khăn là số phận của các vị chủ chăn Lạng sơn. Đức Ông Maillet Bính đã chết mất xác ở đâu đó trong núi rừng Cao bằng. Vào năm 1947, ngài cùng với các cha Hào, Điền, Đề bị dẫn vào rừng. Tính ngài vốn nóng này, dọc đường có phản kháng nên ngài bị chết trước. Các cha còn lại bị dẫn đi xa hơn, chết sau nhưng cũng không tìm được xác.
Đức Cha Vinh sơn Dụ thì khỏi nói, bị quản chế 33 năm tại Thất khê. Khi được công nhận thì ngài đã yếu vì bệnh tật, nhưng cũng không được phép đi lại trong giáo phận. Năm 1990, trong cuộc họp Hội đồng Giám mục, ngài trình bầy hoàn cảnh với Thủ tướng Phạm văn Đồng. Ông Thủ tướng cấp cho ngài một giấy để chính quyền địa phương cho ngài đi lại. Nhưng lần lên Cao bằng đầu tiên, bị hạch hỏi, ngài trình giấy của Thủ tướng, nhân viên xét hỏi đã tịch thu giấy và từ đó ngài trở lại tình trạng như cũ. Về Lạng sơn, ngài gặp rất nhiều khó khăn vì Tòa Giám mục bị chiếm, muốn xây nhà thờ Chính tòa nhưng đất đai cũng đã bị chiếm và cuộc tranh chấp kéo dài khiến việc xây nhà thờ không tiến hành được. Ngài bị tai biến mạch máu não nhiều lần và chết cái chết đau đớn trong tâm tư còn bao ước vọng cho giáo phận chưa thực hiện được.
Còn các vị có liên hệ đến Lạng sơn cũng gặp không ít khó khăn. Đức cha Lãng chết sớm, khi chết trong tay vẫn còn cầm tờ báo Công giáo và Dân tộc với những bài chống đối việc phong thánh cho 117 anh hùng tử đạo Việt nam. Đức cha Ngữ về hưu sớm và tự giam mình vì biết rằng có muốn đi đâu cũng chẳng được đi.
Nhưng nhờ những khó khăn của các vị tiền bối chịu đựng mà giờ đây giáo phận Lạng sơn được nhiều ơn lành của Chúa. Lạng sơn đang được hưởng mùa gặt vui mừng đã được gieo trong đau thương của các bậc tiền bối. Hôm nay một chút tưởng nhớ về các ngài như nén hương lòng xin các ngài tiếp tục chuyển cầu cho Lạng sơn để Chúa, qua những gian lao các ngài đã gánh chịu, đổ tràn ơn lành xuống giáo phận truyền giáo ở địa đầu đất nước này.
Đức cha Hedde Minh là giám mục Đại diện Tông tòa tiên khởi của Giáo phận Đại diện Tông tòa Lạng sơn. Trước đó ngài đã là Đức Ông của Phủ doãn Tông tòa Lạng sơn, kế vị Đức Ông Cothonay Chiểu và Đức Ông Maillet Bính. Thời gian ngài coi sóc Lạng sơn là thời gian có nhiều biến động với nhiều cuộc chiến tranh: chiến tranh với Nhật, với Pháp, với Mỹ và cuộc di cư đã làm Giáo phận vốn mỏng manh lại thêm èo uột.
Năm 1959, Nhà Nước ra lệnh trục xuất các Thừa sai nước ngoài. Đức Cha Jacq Mỹ đã lên đường sang Thái rồi vào miền Nam. Còn lại Đức Cha Hedde Minh già yếu bệnh tật không có thể di chuyển được, dù bị thúc ép nhưng ngài kiên quyết vùi thân nơi mảnh đất yêu dấu mà ngài đã gắn bó hơn nửa thế kỷ qua. Nhà Nước bao vây ngài rất kỹ lưỡng nên không ai được vào thăm nom chăm sóc. Nằm trên giường bệnh ngài than thở: “Je suis seul! Je suis seul”(Tôi cô đơn quá). Sức lực tàn tạ, Ngài trút hơi thở vào ngày 04-05-1960. Bị bao vây kỹ lưỡng nên các Đức Cha chung quanh không ai hay biết và đến dự đám tang của Ngài. Nghe nói Đức Cha Căn được tin đã lên đường ngay, nhưng chưa kịp đến nơi thì lễ an táng đã xong rồi.
Khi sống đã chịu nhiều khó khăn, khi chết ngài vẫn còn bị bắt bớ. Chính quyền lấy cớ ngài bị bệnh truyền nhiễm nên không cho an táng trong nghĩa địa, càng không cho an táng trong Nhà thờ Chính tòa theo thói tục của các Giáo phận. Nhưng với lòng yêu mến vị Chủ Chăn sống chết với đoàn chiên và với đức tin kiên vững, giáo dân quyết tâm an táng ngài trong nghĩa địa Cửa Nam trên đồi Tổ Sơn. Tuy lực lượng an ninh canh gác dày đặc, nhưng giáo dân Lạng sơn tuy ít ỏi mà rất kiên cường đã đàng hoàng tổ chức đám tang nghiêm trang trong tình cảm đau đớn tiếc nuối. Khi sống ngài đã luôn ở giữa giáo dân cả trong những thời khắc gian nan nhất, khi chết ngài vẫn hiện diện giữa đoàn chiên như một mục tử nhân lành sống chết với đoàn chiên theo cả nghĩa đen. Và thật là một quan phòng của Thiên Chúa, nếu ngài được an táng trong Nhà thờ Chính tòa thì có lẽ xác ngài sẽ không còn nguyên vẹn vì ngôi nhà thờ đã bị bom vào năm 1967 và sụp đổ tan tành.
Cuộc đời của Đức Cha Jacq Mỹ cũng không kém phần gian khổ. Làm giám mục phó, ngài xông xáo khắp nơi, đi lại những nơi rừng sâu núi thẳm để thăm viếng các linh mục và giáo dân trong thời chiến tranh. Có lần ngài suýt bỏ mạng trong trận Đông Khê. Đoàn xe bị mìn nhưng ơn Chúa gìn giữ xe của ngài đi qua đầu tiên thì mìn chưa kịp nổ.
Năm 1959, ngài bị trục xuất. Không trở về nước ngài vào miền Nam tiếp tục sứ mạng loan báo Tin mừng với tâm nguyện được chết tại đất nước mà ngài yêu quí rất mực này. Tại Long xuyên ngài chẳng làm việc gì quan trọng, chỉ làm tuyên úy cho bệnh viện. Ngoài những giờ kinh lễ cầu nguyện sốt sắng, ngài rảo khắp bệnh viện thăm nom các bệnh nhân. Lạ lùng, ngài nói tiếng Việt rất dở, nhưng mọi người đều hiểu ngài. Có lẽ ngài nói bằng trái tim nên ai cũng hiểu. Ngài cũng dành một chút thời giờ vào chủng viện dậy tiếng Pháp cho chủng sinh. Chẳng bao giờ người ta thấy ngài xuất hiện như một vị giám mục cân đai áo mão, suốt đời chỉ như một linh mục khiêm nhường ân cần phục vụ người nghèo.
Ước nguyện rất bình thường của ngài không được toại nguyện. Sau năm 1975, một lần nữa ngài bị trục xuất khỏi miền Nam và khỏi Việt nam, đất nước mà ngài yêu quí muốn hiến dâng cả cuộc đời và muốn được vùi thân ở đây.
Không rõ ngài làm gì khi trở về Pháp. Nghe nói ngài làm tuyên úy cho một trại tù. Năm 1993, khi tôi sang Pháp thì ngài đã về hưu. Chân ướt chân ráo đến Pháp, tôi muốn thăm ngài nhưng không biết ở đâu. May nhờ cha Alphongso Nguyễn hữu Long chúng tôi mới biết ngài nghỉ hưu nơi nhà các sơ Petites Soeurs des Pauvres tại phố Breteuil, rất gần Hội Thừa Sai Ba lê. Thế là chúng tôi thường xuyên đến thăm ngài.
Thấy người Việt nam đến các sơ rất mừng, vì trí nhớ của ngài đã bắt đầu suy giảm nhưng lại rất nhớ Việt nam. Ngài luôn nói tiếng Việt mà các sơ không hiều gì. Còn ngài thì vui mừng hết sức. Tỉnh táo, vui tươi, ngài hỏi thăm rất nhiều về Việt nam. Khi cha Phạm phúc Khánh soạn xong quyển “Lược sử giáo phận Lạng sơn”, đưa cho ngài một bản, ngài say sưa đọc và nhắc rất nhiều về Lạng sơn. Dịp kỷ niệm Ngọc Khánh Linh Mục, chúng tôi rủ nhau đến đồng tế với ngài khiến ngài rất hài lòng.
Nhưng năm 1996, tại Pháp nổ ra cuộc đình công của Đảng Xã Hội làm tê liệt giao thông trong 1 tháng trời. TV đưa tin rất nhiều về những đòi hỏi cải cách tiền lương và chế độ xã hội, ngài sợ hãi như mất trí. Ngài luôn lo sợ hỏi: Có phải chính quyền sắp bị lật đổ không. Có lẽ ngài sợ lại bị trục xuất một lần nữa. Sau đó ngài chìm dần vào hôn mê cho đến khi qua đời vào ngày 02-05- 2001.
Dường như gặp khó khăn là số phận của các vị chủ chăn Lạng sơn. Đức Ông Maillet Bính đã chết mất xác ở đâu đó trong núi rừng Cao bằng. Vào năm 1947, ngài cùng với các cha Hào, Điền, Đề bị dẫn vào rừng. Tính ngài vốn nóng này, dọc đường có phản kháng nên ngài bị chết trước. Các cha còn lại bị dẫn đi xa hơn, chết sau nhưng cũng không tìm được xác.
Đức Cha Vinh sơn Dụ thì khỏi nói, bị quản chế 33 năm tại Thất khê. Khi được công nhận thì ngài đã yếu vì bệnh tật, nhưng cũng không được phép đi lại trong giáo phận. Năm 1990, trong cuộc họp Hội đồng Giám mục, ngài trình bầy hoàn cảnh với Thủ tướng Phạm văn Đồng. Ông Thủ tướng cấp cho ngài một giấy để chính quyền địa phương cho ngài đi lại. Nhưng lần lên Cao bằng đầu tiên, bị hạch hỏi, ngài trình giấy của Thủ tướng, nhân viên xét hỏi đã tịch thu giấy và từ đó ngài trở lại tình trạng như cũ. Về Lạng sơn, ngài gặp rất nhiều khó khăn vì Tòa Giám mục bị chiếm, muốn xây nhà thờ Chính tòa nhưng đất đai cũng đã bị chiếm và cuộc tranh chấp kéo dài khiến việc xây nhà thờ không tiến hành được. Ngài bị tai biến mạch máu não nhiều lần và chết cái chết đau đớn trong tâm tư còn bao ước vọng cho giáo phận chưa thực hiện được.
Còn các vị có liên hệ đến Lạng sơn cũng gặp không ít khó khăn. Đức cha Lãng chết sớm, khi chết trong tay vẫn còn cầm tờ báo Công giáo và Dân tộc với những bài chống đối việc phong thánh cho 117 anh hùng tử đạo Việt nam. Đức cha Ngữ về hưu sớm và tự giam mình vì biết rằng có muốn đi đâu cũng chẳng được đi.
Nhưng nhờ những khó khăn của các vị tiền bối chịu đựng mà giờ đây giáo phận Lạng sơn được nhiều ơn lành của Chúa. Lạng sơn đang được hưởng mùa gặt vui mừng đã được gieo trong đau thương của các bậc tiền bối. Hôm nay một chút tưởng nhớ về các ngài như nén hương lòng xin các ngài tiếp tục chuyển cầu cho Lạng sơn để Chúa, qua những gian lao các ngài đã gánh chịu, đổ tràn ơn lành xuống giáo phận truyền giáo ở địa đầu đất nước này.