Sứ điệp sau cùng của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa
IV. Đường Lời Chúa: Việc Truyền Giáo
”Luật Chúa ban xuống từ Xion và lời Chúa phán truyền từ Giêrusalem” (Is 2:3). Lời nhập thân của Thiên Chúa “phát xuất” từ nhà của Người, là Đền Thờ, và tiến theo các ngả đường thế giới để gặp gỡ cuộc lữ hành vĩ đại mà con người trần thế đang đi để tìm kiếm chân lý, công bằng và hòa bình. Thực vậy, ngay trong một đô thị tân tiến bị tục hóa khắp hang cùng ngõ hẹp, nơi bất tín và dửng dưng xem ra đang thống trị, nơi sự ác xem ra đang thắng thế sự thiện, đang tạo ra cảm tưởng Babylon sẽ chiến thắng Giêrusalem, người ta vẫn nhìn thấy một hoài mong dấu ẩn, một hy vọng đâm chồi, một xôn xao mong đợi. Như sách Tiên Tri Amos từng viết: “Chúa là Thiên Chúa phán: ngày đang đến để Ta cho đói khát xẩy ra trên toàn xứ: không phải đói thức ăn và khát nước uống, mà là đói nghe lời Thiên Chúa” (8:11). Sứ mệnh truyền bá Phúc Âm của Giáo Hội là để đáp ứng trận đói này.
Chính Chúa Kitô Phục Sinh đã kêu mời, thúc đẩy các tông đồ, lúc đó đang do dự, phải rời bỏ cái chân trời êm ấm của họ: “Các con hãy ra đi và làm muôn dân trở thành môn đệ… và hãy dạy họ giữ các giới răn Ta đã truyền cho các con” (Mt 28:19-20). Thánh Kinh được kết bằng những lời kêu gọi đại loại như “đừng im lặng”, “hãy nói to lên”, “hãy công bố lời Chúa bất kể lúc thuận tiện cũng như lúc bất tiện”, phải là những lính canh chọc thủng bức màn im lặng của dửng dưng. Các con đường đang mở ra trước chúng ta không phải chỉ là những con đường được Thánh Phaolô và các nhà rao giảng Phúc Âm lúc ban đầu du hành qua mà còn là những con đường mà mọi nhà truyền giáo sau các ngài vẫn đi để gặp gỡ người của mọi miền đất nước xa xôi.
11. Truyền thông đang đem lại một hệ thống bao trùm toàn bộ địa cầu và do đó, lời mời gọi của Chúa Kitô hiện đã có một ý nghĩa mới: “Những gì Ta nói với các con trong bóng tối, hãy nói ra giữa thanh thiên bạch nhật, những điều các con nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà mà công bố” (Mt 10:27). Lẽ dĩ nhiên, lời thánh phải hết sức trong suốt và được loan truyền qua văn bản in ấn, với các bản dịch thực hiện theo tính đa phức của ngôn ngữ trên hành tinh ta. Nhưng tiếng nói của lời Chúa phải vang vọng trên truyền thanh, trên xa lộ thông tin liên mạng, trên các kênh lưu chuyển vi tính ảo mà như thật, trên Dĩa Cô Đọng (CD), trên Dĩa Truyền Hình (DVD), podcast…Nó phải xuất hiện trên mọi màn ảnh truyền hình và điện ảnh, trên báo chí, và mọi biến cố văn hóa và xã hội.
Hình thức truyền thông mới này, so với hình thức cổ truyền, đã tạo ra văn phạm đặc thù và phong phú riêng của nó và do đó, không những ta cần phải chuẩn bị trách vụ này về phương diện kỹ thuật mà cả về phương diện văn hóa nữa. Trong một thời đại bị thống trị bởi các hình ảnh do các phương tiện bá quyền của truyền thông như truyền hình chẳng hạn dẫn khởi, mẫu mực ưu tuyển của Chúa Kitô vẫn có ý nghĩa và gợi cảm ngày nay. Người vẫn sẽ tìm về với các dấu chỉ, các câu truyện, các điển hình, các kinh nghiệm hàng ngày, các dụ ngôn: “Người nói với họ nhiều điều bằng dụ ngôn… Quả thực, Người không bao giờ nói với họ mà lại không dùng dụ ngôn” (Mt 13:3.4). Khi công bố Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu không bao giời nói trên đầu dân chúng bằng một ngôn ngữ hàm hồ, trừu tượng, trên mây trên khói. Đúng hơn, Người chinh phục họ bằng cách khởi đi từ chính cái nơi chân họ đang đứng, ngõ hầu qua các biến cố hàng ngày,dẫn dắt họ tới mạc khải Nước Trời. Bởi thế, khung cảnh được Thánh Gioan nhắc tới quả có ý nghĩa: “Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: ‘Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?’. Các vệ bình trả lời: ‘Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy’” (7: 44-46).
12. Chúa Kitô tiến dọc theo phố phường đô thị và dừng chân tại ngưỡng cửa nhà ta: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20). Gia đình, với tường nhà bao bọc bằng niềm vui nỗi khổ, chính là không gian căn bản để lời Thiên Chúa bước vào. Thánh Kinh đầy những câu truyện lớn nhỏ về gia đình, và Thánh vịnh gia đã sinh động mô tả bức tranh thanh thản trong đó người cha ngồi tại bàn, có vợ như cây nho nhiều trái và con cái như “những cành ôliu mơn mởn” bao quanh (Tv 128). Tương tự như thế, từ thuở đầu, Kitô giáo cũng đã cử hành phụng vụ trong sinh hoạt hàng ngày của gia hộ, giống hệt Israel khi trao phó việc cử hành Lễ Vượt Qua cho gia đình (xem Xh 12:21-27). Việc truyền bá lời Thiên Chúa được truyền lại cho các thế hệ con cháu đến nỗi cha mẹ trở thành “các nhà giáo đầu hết của đức tin” (Hiến chế LG 11). Một lần nữa, Thánh vịnh gia nhắc ta nhớ: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết, do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng dấu gì con cái cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm…hầu đến lượt, thế hệ tương lai cũng sẽ kể lại cho con cháu mình” (Tv 78:3-4.6).
Cho nên, mọi nhà nên có cuốn Thánh Kinh riêng và giữ gìn nó trên nơi dễ thấy và xứng đáng, để đọc và dùng nó cầu nguyện, đồng thời gia đình cũng nên đưa ra các hình thức và mẫu mực giáo dục theo phương thức cầu nguyện, giáo lý và huấn giáo về việc nên dùng Thánh Kinh ra sao để “nam thanh nữ tú, bậc già cả cũng như đoàn trẻ nhỏ” (Tv 148:12) cùng nhau lắng nghe, tìm hiểu, vinh danh và sống lời Chúa. Đặc biệt, phải làm sao để các thế hệ mới, trẻ nhỏ và thiếu niên, tiếp nhận được một nền sư phạm thích đáng và chuyên biệt dẫn họ tới việc cảm nghiệm được sự hấp dẫn của khuôn mạo Chúa Kitô, mở toang cánh cửa trí lòng họ, cũng như qua cuộc gặp gỡ với chứng tá chân thực của người lớn, họ nhận được ảnh hưởng tích cực của bè bạn và của cộng đồng giáo hội.
13. Trong dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu nhắc nhở ta rằng có những thứ đất khô cằn, đầy sỏi đá và ngột ngạt gai góc (xem Mt 13:3-7). Ai bước vào phố phường thế giới, đều cũng sẽ thấy những khu ổ chuột nơi đầy đau khổ và nghèo đói, hạ nhục và áp chế, đẩy ra bên lề và khốn quẫn, bệnh tật thể lý và tâm thần cũng như cô đơn lạc lõng. Đôi khi gạch đá trên đường đầy những máu do chiến tranh và bạo động đem tới; tại các lâu đài quyền lực, tham nhũng bắt tay với bất công. Tiếng than của người bị bách hại gióng lên nhân danh lòng trung thành với lương tâm và tín trung với đức tin của họ.
Có những người bị đủ thứ khủng hoảng ở đời vùi giập hay những người bị đời coi là vô nghĩa lại đem lại ý nghĩa và giá trị cho đời. Như “những bóng ma đi đường, như làn gió thoảng ki cóp” (Tv 39:7), nhiều người cảm thấy Chúa im lặng, vắng bóng và dửng dưng đối với họ: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giò? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ?” (Tv 13:1). Và cuối cùng, đối với ai cũng thế, là mầu nhiệm cái chết.
Tiếng than đau đớn mênh mông từ đất lên trời này được Thánh Kinh liên tục thuật lại, và Thánh Kinh ấy đề nghị cho ta một niềm tin có tính lịch sử và nhập thể. Chỉ cần nghĩ đến các trang sách đầy bạo lực và áp chế, đến tiếng than ai oán và liên tục của Gióp, đến những năn nỉ khẩn cầu hết sức tha thiết của Thánh vịnh gia, đến cơn khủng hoảng nội tâm tế vi trong linh hồn Qoheleth, đến những tố giác mạnh mẽ của các tiên tri chống lại bất công xã hội. Như thế, không tìm cách giảm khinh cho hoàn cảnh, ta thấy có lời kết án tội lỗi căn để hết sức mạnh mẽ ngay từ buổi đầu của nhân loại trong bản văn Sáng Thế (chương 3). Thực thế, “mầu nhiệm sự ác” quả có hiện diện và hành động trong lịch sử, nhưng cũng có lời mạc khải của Chúa bảo đảm rằng trong Chúa Kitô, sự thiện sẽ chiến thắng sự ác.
Nhưng trước hết trong Sách Thánh, khuôn mặt Chúa Kitô, Đấng đã bắt đầu thừa tác vụ công khai của mình với lời công bố hy vọng cho những con người sau rốt của trần gian, là khuôn mặt trổi vượt hơn hết: “Thần trí Chúa ở trên tôi, vì Người đã xức dầu để tôi đem tin mừng cho người nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho người ngồi tù biết họ được tự do, cho người mù biết họ được trông thấy, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19). Người thường đặt bàn tay mình lên những thân xác ốm đau và bệnh hoạn. Lời của Người công bố sự công chính, khích lệ lòng can đảm nơi những con người nát lòng nản chí và đem lại tha thứ cho người có tội. Sau hết, Người tự hạ xuống hàng đốn mạt, “dốc cạn hết” vinh quang, “mặc lấy hình hài nô lệ, trở nên phàm nhân như ta; và vì là một hữu thể giống hữu thể nhân bản ở mọi khía cạnh, Người còn khiêm nhường hơn nữa, đến độ chấp nhận cái chết trên thập giá” (Pl 2:7-8)
Chính vì thế, Người cảm nhận được nỗi sợ của cái chết (“ Người thốt lên: ‘Lạy Cha, nếu đẹp ý Cha, xin cho con khỏi uống chén này’”). Người cảm thấy cô đơn vì bị bạn bè bỏ rơi và phản bội, Người lún thật sâu vào đêm đen của đau đớn cùng cực thể xác trong cơn chịu đóng đinh và nhất là đêm đen câm nín về phần Chúa Cha của Người (“Lạy Chúa, Lạy Chúa con, sao Chúa bỏ rơi con?”) (Mc 15:34) và sau cùng là vực thẳm mà bất cứ con người nào cũng sẽ rơi xuống, vực thẳm của sự chết (“Người kêu to một tiếng rồi trút hơi thở sau cùng”). Định nghĩa của Isaia về người tôi tớ của Chúa có thể áp dụng rất đúng vào Người: “hèn hạ nhất giữa loài người, một con người sầu khổ” (53:3).
Ấy thế nhưng, cũng trong chính cái giây phút cùng khốn ấy, Người vẫn không ngừng là Con Thiên Chúa: trong tình liên đới yêu thương và qua việc tự hiến tế mình, Người gieo hạt giống thần tính vào tính giới hạn và tính mỏng dòn của nhân tính, hay nói cách khác, Người gieo vào đó nguyên lý tự do và cứu độ. Qua việc tự hiến cho chúng ta, Người tuôn đổ ơn cứu chuộc trên đau đớn và chết chóc, vốn được Người mang lấy và sống, và mở ra cho chúng ta hừng đông sống lại. Cho nên, Kitô hữu có sứ mệnh loan báo lời hy vọng thần thánh ấy, bằng cách chia sẻ với người nghèo và người đau khổ xuyên qua chứng tá niềm tin của mình vào nước chân lý và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công lý, yêu thương và hòa bình, xuyên qua sự gần gũi yêu thương, một gần gũi không phê phán không kết án, nhưng nâng đỡ, soi sáng, ủi an và tha thứ, theo lời của chính Chúa Kitô: “Hãy đến cùng Ta, tất cả những ai vất vả và đang mang gánh quá nặng, và Ta sẽ cho các con nghỉ ngơi” (Mt 11:28).
14. Dọc trên các nẻo đường thế giới, lời Chúa còn sản sinh cho Kitô hữu chúng ta một cuộc gặp gỡ cũng thâm tình không kém với dân Do Thái, là những người có liên hệ thân thiết với chúng ta qua việc cùng nhìn nhận và yêu mến Sách Thánh Cựu Ước và vì từ Israel “Chúa Kitô đã sinh ra theo huyết thống” (Rm 9:5). Mọi trang trong Sách Thánh Do Thái đều soi sáng cho mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.Chúng là kho tàng suy niệm và luân lý, một phác thảo cuộc hành trình dài của lịch sử cứu độ cho tới lúc được hoàn tất trọn vẹn, và mạnh mẽ minh hoạ việc nhập thể của lời Chúa trong các biến cố nhân bản. Chúng giúp ta hiểu trọn vẹn khuôn mặt Chúa Kitô, Đấng từng phán: “Đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ Lề Luật hay các Tiên Tri. Ta đến không phải để hủy bỏ mà là để kiện toàn” (Mt 5:17).
Có một cách để đối thoại với dân Chúa chọn, là “những người được nhận làm dưỡng tử, vinh quang và giao ước đã được ban tặng cho họ; họ cũng được ban Lề Luật, việc thờ phượng Thiên Chúa và các lời hứa” (Rm 9:4), và họ giúp ta làm giầu phương thức giải thích Thánh Kinh nhờ tài nguyên phong phú trong truyền thống chú giải của họ. “Ta giáng phúc cho Ai Cập, dân của Ta, cho Át-sua, công trình tay ta làm ra, và cho Israel, cơ nghiệp của Ta” (Is 19:25). Như thế, Thiên Chúa đã phủ tà áo che chở đầy phúc lành của Người trên mọi dân tộc địa cầu: “Người muốn mọi người được cứu rỗi và đạt tới nhận thức đầy đủ về chân lý” (1 Tm 2:4).
Trên các nẻo đường thế giới, chúng ta, trong tư cách Kitô hữu, cũng được mời gọi không phải rơi vào chủ nghĩa chiết trung, vốn chỉ gây lộn xộn và hạ thấp chính bản sắc thiêng liêng của ta, mà là đi vào cuộc đối thoại biết tôn trọng con người thuộc các tôn giáo khác, bắt đầu là Hồi Giáo, một tôn giáo có truyền thống tôn kính nhiều nhân vật, nhiều biểu tượng và chủ đề của Thánh Kinh, và từng làm chứng cho một đức tin thành kính vào một Thiên Chúa duy nhất, biết xót thương và đầy từ ái, vốn được họ coi là Đấng Dựng Nên mọi loài và là Quan Án của nhân loại.
Kitô hữu cũng tìm thấy một hoà điệu chung với nhiều truyền thống tôn giáo vĩ đại của Đông Phương. Các trước tác thánh của họ dạy ta biết kính trọng sự sống, biết chiêm niệm, biết giữ thinh lặng, biết sống đơn giản, biết từ bỏ mình như Phật Giáo chẳng hạn. Hay như trong Ấn Giáo, họ hiển dương ý thức thánh thiêng, sự hy sinh, việc hành hương, việc chay tịnh, và các biểu tượng thánh. Hay như trong Đạo Khổng, họ dạy ta đức khôn ngoan, gia đình và các giá trị xã hội. Ngay đối với các tôn giáo truyền thống vốn phát biểu các giá trị thiêng liêng qua nghi lễ và văn hóa truyền khẩu, ta cũng phải nhiệt tâm chú ý và dấn thân đối thoại một cách kính cẩn với họ. Đối với những ai không tin Thiên Chúa nhưng cố gắng “làm điều đúng, yêu điều tốt và sống khiêm hạ” (Mk 6:8), ta cũng phải làm việc với họ để tạo ra một thế giới công chính và hoà bình hơn, và trong cuộc đối thoại này, làm chứng một cách chân thực về Lời Chúa, đem lại cho họ những chân trời mới và cao hơn về chân lý và yêu thương.
15. Trong thư của Ngài gửi các Họa Sĩ năm 1999, Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở rằng “Sách Thánh đã trở nên một thứ ‘ngữ vựng mênh mông’ (lời Paul Claudel) và ‘bức bản đồ ảnh tượng’ (lời Marc Chagall) mà cả văn hóa Kitô giáo lẫn ngành hoạ đều rút tỉa được” (số 5). Goethe từng xác tín rằng Phúc Âm chính là “tiếng mẹ của Âu Châu”. Như người ta thường nói, Thánh Kinh là “mã số vĩ đại” của nền văn hóa hoàn cầu: một cách lý tưởng, các họa sĩ nhúng cọ sơn của mình vào mẫu tự được lên mầu bằng nhiều truyện ký, biểu tượng và hình ảnh vốn là những trang sách Thánh Kinh. Các nhạc sĩ sáng tác các hòa âm của mình quanh các bản văn thánh, nhất là các Thánh Vịnh. Trong nhiều thế kỷ, các tác giả đã lui về với các truyện xưa đã trở thành dụ ngôn hiện sinh ấy; các thi sĩ tự hỏi về lẽ huyền nhiệm của thần trí, của vô biên, của sự ác, của tình yêu, của sống và sự chết, thường xuyên thu lượm những rung động đầy chất thơ từng lên men cho các trang Sách Thánh. Các tư tưởng gia, những con người của học thuật và xã hội, cũng thường xuyên dùng các quan niệm linh đạo và đạo đức (như Mười Giới Răn chẳng hạn) của Thánh Kinh làm quy chiếu, có khi chỉ như một thứ quy chiếu tương phản. Cả khi một khuôn mặt hay một ý niệm của Thánh Kinh bị bóp méo đi chăng nữa, nó vẫn được nhìn nhận như một yếu tố chủ yếu và có tính tạo thành nền văn minh của Ta.
Vì cũng dạy ta via pulchritudinis hay con đường cái đẹp để hiểu và vươn lên tới Thiên Chúa (như Thánh vịnh 47:7 chẳng hạn đã mời gọi ta: “Hãy học tập âm nhạc, hãy để âm nhạc vang lời ca tụng Chúa”) nên Thánh Kinh không phải chỉ cần thiết đối với tín hữu mà còn đối với mọi người, giúp họ tái khám phá ra các ý nghĩa chân thực trong các biểu thức văn hóa và trên hết, một lần nữa, giúp họ tìm lại được bản sắc lịch sử, văn minh, nhân bản và thiêng liêng của ta. Đây là nguyên ủy cho sự vĩ đại của ta và qua nó, ta có thể tự trình bầy gia sản cao đẹp của ta cho các nền văn minh và văn hóa khác, mà không cần tự ti mặc cảm. Do đó, Thánh Kinh phải được mọi người biết đến và học hỏi, dưới chiều kích đẹp đẽ phi thường cũng như nét phong phú về nhân bản và văn hóa của nó.
Tuy thế, như hình ảnh đầy ý nghĩa của Thánh Phaolô, lời Chúa “không thể bị xiềng xích” (2 Tm 2:9) vào một nền văn hóa; trái lại, nó có hoài bão vượt qua mọi biên giới. Thánh Tông Đồ vốn là một chuyên viên lão luyện trong việc bản vị hóa sứ điệp Thánh Kinh vào các quy chiếu văn hóa khác nhau. Đó là điều Giáo Hội đang được kêu mời để thực hành ngay lúc này đây qua một diễn trình tế nhị nhưng cần thiết, một diễn trình vốn được Huấn Quyền của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI thúc đẩy mạnh mẽ. Giáo Hội có nhiệm vụ làm cho lời Chúa đi sâu vào các nền văn hóa và phát biểu nó theo ngôn ngữ, quan niệm, biểu tượng và truyền thống tôn giáo của các nền văn hóa ấy. Thế nhưng, Giáo Hội phải luôn có khả năng duy trì được bản chất chân thực của nội dung lời Chúa, canh chừng và kiểm soát được các rủi ro của hiện tượng thoái hóa.
Bởi thế, Giáo hội phải làm cho các giá trị mà lời Chúa đang đề nghị với mọi nên văn hóa được sáng lên, để các giá trị ấy được thanh tẩy và mang nhiều hoa trái. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói với các Giám Mục Kenya nhân chuyến công du Phi Châu năm 1980, “bản vị hóa thực sự sẽ phản ảnh được việc Nhập Thể của Ngôi Lời, nếu nền văn hóa ấy, một khi đã được Phúc Âm biến cải và tái sinh, từ trong chính truyền thống sinh động của nó, biết nói lên một cách độc đáo cuộc sống, việc cử hành và tư duy Kitô giáo”.
Kết luận
”Rồi tiếng tôi đã nghe từ trời, lại nói với tôi và bảo: ‘Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất’. Tôi đến gặp thiên thần và xin ngài cho tôi cuốn sách nhỏ. Ngài bảo tôi: ‘Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong’ (Kh10:8-10).
Thưa anh chị em khắp nơi trên thế giới, ta hãy tiếp nhận lời mời trên; ta hãy tới gần bàn tiệc lời Chúa, để được nuôi dưỡng và sống “không bằng cơm bánh mà thôi mà còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8:3; Mt 4:4). Như nhà tư tưởng vĩ đại của nền văn hóa Kitô giáo từng nói, Thánh Kinh “đã cung cấp cho ta nhiều đoạn vừa an ủi vừa cảnh cáo đối với mọi hoàn cảnh” (B. Pascal, Pensées, số 532 ấn bản Brunschvicg).
Thực vậy, Lời Chúa, “ngọt hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:11), “Lời Chúa là đèn soi bước chân con, là ánh sáng nẻo đường con đi” (Tv 119:105), nhưng nó cũng “như lửa, Chúa nói thế, như búa đập tan tảng đá” (Gr 23:29). Nó như mưa đem nước cho trái đất, nuôi sống nó và làm nó phát triển, và khi làm thế, Người đã làm cho cảnh cằn cỗi của sa mạc thiêng liêng chúng ta trổ sinh (xem Is 55:10-11). Mà nó còn là “lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”.
Chúng tôi âu yếm hướng về mọi người đang dấn thân học hỏi, các giáo lý viên và những người khác đang phục vụ lời Chúa để bày tỏ với họ lòng biết ơn sâu xa và đầy thân ái của chúng tôi đối với thừa tác vụ qúy giá và quan trọng của họ. Chúng tôi cũng ngỏ lời với các anh chị em đang chịu bách hại của chúng tôi hay những người đang chịu chết vì lời Thiên Chúa và vì việc họ làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô (xem Kh 6:9): trong tư cách chứng tá và tử đạo, các vị ấy đang nói với ta về “sức mạnh của lời Chúa” (Rm 1:16), về nguyên ủy đức tin của họ, về niềm hy vọng và tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Giờ đây ta hãy cùng nhau im lặng để lắng nghe lời Chúa một cách có hiệu quả và sau khi lắng nghe, ta hãy im lặng lần nữa, để lời ấy tiếp tục ở lại trong ta, sống với ta, và nói với ta. Hãy để nó vang lên lúc khởi đầu ngày sống ngõ hầu Chúa là người nói đầu hết và hãy để nó vang vọng trong ta vào lúc chiều tà để Chúa là người nói sau hết.
Anh chị em thân mến, “Tất cả mọi người đang ở với tôi gửi lời thăm anh chị em. Những lời kính thăm gửi tới những ai yêu mến chúng tôi trong đức tin. Xin ơn thánh Chúa ở cùng tất cả anh chị em!” (Tt 3:15).
IV. Đường Lời Chúa: Việc Truyền Giáo
”Luật Chúa ban xuống từ Xion và lời Chúa phán truyền từ Giêrusalem” (Is 2:3). Lời nhập thân của Thiên Chúa “phát xuất” từ nhà của Người, là Đền Thờ, và tiến theo các ngả đường thế giới để gặp gỡ cuộc lữ hành vĩ đại mà con người trần thế đang đi để tìm kiếm chân lý, công bằng và hòa bình. Thực vậy, ngay trong một đô thị tân tiến bị tục hóa khắp hang cùng ngõ hẹp, nơi bất tín và dửng dưng xem ra đang thống trị, nơi sự ác xem ra đang thắng thế sự thiện, đang tạo ra cảm tưởng Babylon sẽ chiến thắng Giêrusalem, người ta vẫn nhìn thấy một hoài mong dấu ẩn, một hy vọng đâm chồi, một xôn xao mong đợi. Như sách Tiên Tri Amos từng viết: “Chúa là Thiên Chúa phán: ngày đang đến để Ta cho đói khát xẩy ra trên toàn xứ: không phải đói thức ăn và khát nước uống, mà là đói nghe lời Thiên Chúa” (8:11). Sứ mệnh truyền bá Phúc Âm của Giáo Hội là để đáp ứng trận đói này.
Chính Chúa Kitô Phục Sinh đã kêu mời, thúc đẩy các tông đồ, lúc đó đang do dự, phải rời bỏ cái chân trời êm ấm của họ: “Các con hãy ra đi và làm muôn dân trở thành môn đệ… và hãy dạy họ giữ các giới răn Ta đã truyền cho các con” (Mt 28:19-20). Thánh Kinh được kết bằng những lời kêu gọi đại loại như “đừng im lặng”, “hãy nói to lên”, “hãy công bố lời Chúa bất kể lúc thuận tiện cũng như lúc bất tiện”, phải là những lính canh chọc thủng bức màn im lặng của dửng dưng. Các con đường đang mở ra trước chúng ta không phải chỉ là những con đường được Thánh Phaolô và các nhà rao giảng Phúc Âm lúc ban đầu du hành qua mà còn là những con đường mà mọi nhà truyền giáo sau các ngài vẫn đi để gặp gỡ người của mọi miền đất nước xa xôi.
11. Truyền thông đang đem lại một hệ thống bao trùm toàn bộ địa cầu và do đó, lời mời gọi của Chúa Kitô hiện đã có một ý nghĩa mới: “Những gì Ta nói với các con trong bóng tối, hãy nói ra giữa thanh thiên bạch nhật, những điều các con nghe rỉ tai, hãy lên mái nhà mà công bố” (Mt 10:27). Lẽ dĩ nhiên, lời thánh phải hết sức trong suốt và được loan truyền qua văn bản in ấn, với các bản dịch thực hiện theo tính đa phức của ngôn ngữ trên hành tinh ta. Nhưng tiếng nói của lời Chúa phải vang vọng trên truyền thanh, trên xa lộ thông tin liên mạng, trên các kênh lưu chuyển vi tính ảo mà như thật, trên Dĩa Cô Đọng (CD), trên Dĩa Truyền Hình (DVD), podcast…Nó phải xuất hiện trên mọi màn ảnh truyền hình và điện ảnh, trên báo chí, và mọi biến cố văn hóa và xã hội.
Hình thức truyền thông mới này, so với hình thức cổ truyền, đã tạo ra văn phạm đặc thù và phong phú riêng của nó và do đó, không những ta cần phải chuẩn bị trách vụ này về phương diện kỹ thuật mà cả về phương diện văn hóa nữa. Trong một thời đại bị thống trị bởi các hình ảnh do các phương tiện bá quyền của truyền thông như truyền hình chẳng hạn dẫn khởi, mẫu mực ưu tuyển của Chúa Kitô vẫn có ý nghĩa và gợi cảm ngày nay. Người vẫn sẽ tìm về với các dấu chỉ, các câu truyện, các điển hình, các kinh nghiệm hàng ngày, các dụ ngôn: “Người nói với họ nhiều điều bằng dụ ngôn… Quả thực, Người không bao giờ nói với họ mà lại không dùng dụ ngôn” (Mt 13:3.4). Khi công bố Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu không bao giời nói trên đầu dân chúng bằng một ngôn ngữ hàm hồ, trừu tượng, trên mây trên khói. Đúng hơn, Người chinh phục họ bằng cách khởi đi từ chính cái nơi chân họ đang đứng, ngõ hầu qua các biến cố hàng ngày,dẫn dắt họ tới mạc khải Nước Trời. Bởi thế, khung cảnh được Thánh Gioan nhắc tới quả có ý nghĩa: “Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: ‘Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?’. Các vệ bình trả lời: ‘Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy’” (7: 44-46).
12. Chúa Kitô tiến dọc theo phố phường đô thị và dừng chân tại ngưỡng cửa nhà ta: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:20). Gia đình, với tường nhà bao bọc bằng niềm vui nỗi khổ, chính là không gian căn bản để lời Thiên Chúa bước vào. Thánh Kinh đầy những câu truyện lớn nhỏ về gia đình, và Thánh vịnh gia đã sinh động mô tả bức tranh thanh thản trong đó người cha ngồi tại bàn, có vợ như cây nho nhiều trái và con cái như “những cành ôliu mơn mởn” bao quanh (Tv 128). Tương tự như thế, từ thuở đầu, Kitô giáo cũng đã cử hành phụng vụ trong sinh hoạt hàng ngày của gia hộ, giống hệt Israel khi trao phó việc cử hành Lễ Vượt Qua cho gia đình (xem Xh 12:21-27). Việc truyền bá lời Thiên Chúa được truyền lại cho các thế hệ con cháu đến nỗi cha mẹ trở thành “các nhà giáo đầu hết của đức tin” (Hiến chế LG 11). Một lần nữa, Thánh vịnh gia nhắc ta nhớ: “Điều chúng tôi đã từng nghe biết, do cha ông kể lại cho mình, chúng tôi chẳng dấu gì con cái cả, sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau: sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa, với những kỳ công Chúa đã làm…hầu đến lượt, thế hệ tương lai cũng sẽ kể lại cho con cháu mình” (Tv 78:3-4.6).
Cho nên, mọi nhà nên có cuốn Thánh Kinh riêng và giữ gìn nó trên nơi dễ thấy và xứng đáng, để đọc và dùng nó cầu nguyện, đồng thời gia đình cũng nên đưa ra các hình thức và mẫu mực giáo dục theo phương thức cầu nguyện, giáo lý và huấn giáo về việc nên dùng Thánh Kinh ra sao để “nam thanh nữ tú, bậc già cả cũng như đoàn trẻ nhỏ” (Tv 148:12) cùng nhau lắng nghe, tìm hiểu, vinh danh và sống lời Chúa. Đặc biệt, phải làm sao để các thế hệ mới, trẻ nhỏ và thiếu niên, tiếp nhận được một nền sư phạm thích đáng và chuyên biệt dẫn họ tới việc cảm nghiệm được sự hấp dẫn của khuôn mạo Chúa Kitô, mở toang cánh cửa trí lòng họ, cũng như qua cuộc gặp gỡ với chứng tá chân thực của người lớn, họ nhận được ảnh hưởng tích cực của bè bạn và của cộng đồng giáo hội.
13. Trong dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu nhắc nhở ta rằng có những thứ đất khô cằn, đầy sỏi đá và ngột ngạt gai góc (xem Mt 13:3-7). Ai bước vào phố phường thế giới, đều cũng sẽ thấy những khu ổ chuột nơi đầy đau khổ và nghèo đói, hạ nhục và áp chế, đẩy ra bên lề và khốn quẫn, bệnh tật thể lý và tâm thần cũng như cô đơn lạc lõng. Đôi khi gạch đá trên đường đầy những máu do chiến tranh và bạo động đem tới; tại các lâu đài quyền lực, tham nhũng bắt tay với bất công. Tiếng than của người bị bách hại gióng lên nhân danh lòng trung thành với lương tâm và tín trung với đức tin của họ.
Có những người bị đủ thứ khủng hoảng ở đời vùi giập hay những người bị đời coi là vô nghĩa lại đem lại ý nghĩa và giá trị cho đời. Như “những bóng ma đi đường, như làn gió thoảng ki cóp” (Tv 39:7), nhiều người cảm thấy Chúa im lặng, vắng bóng và dửng dưng đối với họ: “Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giò? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ?” (Tv 13:1). Và cuối cùng, đối với ai cũng thế, là mầu nhiệm cái chết.
Tiếng than đau đớn mênh mông từ đất lên trời này được Thánh Kinh liên tục thuật lại, và Thánh Kinh ấy đề nghị cho ta một niềm tin có tính lịch sử và nhập thể. Chỉ cần nghĩ đến các trang sách đầy bạo lực và áp chế, đến tiếng than ai oán và liên tục của Gióp, đến những năn nỉ khẩn cầu hết sức tha thiết của Thánh vịnh gia, đến cơn khủng hoảng nội tâm tế vi trong linh hồn Qoheleth, đến những tố giác mạnh mẽ của các tiên tri chống lại bất công xã hội. Như thế, không tìm cách giảm khinh cho hoàn cảnh, ta thấy có lời kết án tội lỗi căn để hết sức mạnh mẽ ngay từ buổi đầu của nhân loại trong bản văn Sáng Thế (chương 3). Thực thế, “mầu nhiệm sự ác” quả có hiện diện và hành động trong lịch sử, nhưng cũng có lời mạc khải của Chúa bảo đảm rằng trong Chúa Kitô, sự thiện sẽ chiến thắng sự ác.
Nhưng trước hết trong Sách Thánh, khuôn mặt Chúa Kitô, Đấng đã bắt đầu thừa tác vụ công khai của mình với lời công bố hy vọng cho những con người sau rốt của trần gian, là khuôn mặt trổi vượt hơn hết: “Thần trí Chúa ở trên tôi, vì Người đã xức dầu để tôi đem tin mừng cho người nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho người ngồi tù biết họ được tự do, cho người mù biết họ được trông thấy, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18-19). Người thường đặt bàn tay mình lên những thân xác ốm đau và bệnh hoạn. Lời của Người công bố sự công chính, khích lệ lòng can đảm nơi những con người nát lòng nản chí và đem lại tha thứ cho người có tội. Sau hết, Người tự hạ xuống hàng đốn mạt, “dốc cạn hết” vinh quang, “mặc lấy hình hài nô lệ, trở nên phàm nhân như ta; và vì là một hữu thể giống hữu thể nhân bản ở mọi khía cạnh, Người còn khiêm nhường hơn nữa, đến độ chấp nhận cái chết trên thập giá” (Pl 2:7-8)
Chính vì thế, Người cảm nhận được nỗi sợ của cái chết (“ Người thốt lên: ‘Lạy Cha, nếu đẹp ý Cha, xin cho con khỏi uống chén này’”). Người cảm thấy cô đơn vì bị bạn bè bỏ rơi và phản bội, Người lún thật sâu vào đêm đen của đau đớn cùng cực thể xác trong cơn chịu đóng đinh và nhất là đêm đen câm nín về phần Chúa Cha của Người (“Lạy Chúa, Lạy Chúa con, sao Chúa bỏ rơi con?”) (Mc 15:34) và sau cùng là vực thẳm mà bất cứ con người nào cũng sẽ rơi xuống, vực thẳm của sự chết (“Người kêu to một tiếng rồi trút hơi thở sau cùng”). Định nghĩa của Isaia về người tôi tớ của Chúa có thể áp dụng rất đúng vào Người: “hèn hạ nhất giữa loài người, một con người sầu khổ” (53:3).
Ấy thế nhưng, cũng trong chính cái giây phút cùng khốn ấy, Người vẫn không ngừng là Con Thiên Chúa: trong tình liên đới yêu thương và qua việc tự hiến tế mình, Người gieo hạt giống thần tính vào tính giới hạn và tính mỏng dòn của nhân tính, hay nói cách khác, Người gieo vào đó nguyên lý tự do và cứu độ. Qua việc tự hiến cho chúng ta, Người tuôn đổ ơn cứu chuộc trên đau đớn và chết chóc, vốn được Người mang lấy và sống, và mở ra cho chúng ta hừng đông sống lại. Cho nên, Kitô hữu có sứ mệnh loan báo lời hy vọng thần thánh ấy, bằng cách chia sẻ với người nghèo và người đau khổ xuyên qua chứng tá niềm tin của mình vào nước chân lý và sự sống, thánh thiện và ân sủng, công lý, yêu thương và hòa bình, xuyên qua sự gần gũi yêu thương, một gần gũi không phê phán không kết án, nhưng nâng đỡ, soi sáng, ủi an và tha thứ, theo lời của chính Chúa Kitô: “Hãy đến cùng Ta, tất cả những ai vất vả và đang mang gánh quá nặng, và Ta sẽ cho các con nghỉ ngơi” (Mt 11:28).
14. Dọc trên các nẻo đường thế giới, lời Chúa còn sản sinh cho Kitô hữu chúng ta một cuộc gặp gỡ cũng thâm tình không kém với dân Do Thái, là những người có liên hệ thân thiết với chúng ta qua việc cùng nhìn nhận và yêu mến Sách Thánh Cựu Ước và vì từ Israel “Chúa Kitô đã sinh ra theo huyết thống” (Rm 9:5). Mọi trang trong Sách Thánh Do Thái đều soi sáng cho mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.Chúng là kho tàng suy niệm và luân lý, một phác thảo cuộc hành trình dài của lịch sử cứu độ cho tới lúc được hoàn tất trọn vẹn, và mạnh mẽ minh hoạ việc nhập thể của lời Chúa trong các biến cố nhân bản. Chúng giúp ta hiểu trọn vẹn khuôn mặt Chúa Kitô, Đấng từng phán: “Đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ Lề Luật hay các Tiên Tri. Ta đến không phải để hủy bỏ mà là để kiện toàn” (Mt 5:17).
Có một cách để đối thoại với dân Chúa chọn, là “những người được nhận làm dưỡng tử, vinh quang và giao ước đã được ban tặng cho họ; họ cũng được ban Lề Luật, việc thờ phượng Thiên Chúa và các lời hứa” (Rm 9:4), và họ giúp ta làm giầu phương thức giải thích Thánh Kinh nhờ tài nguyên phong phú trong truyền thống chú giải của họ. “Ta giáng phúc cho Ai Cập, dân của Ta, cho Át-sua, công trình tay ta làm ra, và cho Israel, cơ nghiệp của Ta” (Is 19:25). Như thế, Thiên Chúa đã phủ tà áo che chở đầy phúc lành của Người trên mọi dân tộc địa cầu: “Người muốn mọi người được cứu rỗi và đạt tới nhận thức đầy đủ về chân lý” (1 Tm 2:4).
Trên các nẻo đường thế giới, chúng ta, trong tư cách Kitô hữu, cũng được mời gọi không phải rơi vào chủ nghĩa chiết trung, vốn chỉ gây lộn xộn và hạ thấp chính bản sắc thiêng liêng của ta, mà là đi vào cuộc đối thoại biết tôn trọng con người thuộc các tôn giáo khác, bắt đầu là Hồi Giáo, một tôn giáo có truyền thống tôn kính nhiều nhân vật, nhiều biểu tượng và chủ đề của Thánh Kinh, và từng làm chứng cho một đức tin thành kính vào một Thiên Chúa duy nhất, biết xót thương và đầy từ ái, vốn được họ coi là Đấng Dựng Nên mọi loài và là Quan Án của nhân loại.
Kitô hữu cũng tìm thấy một hoà điệu chung với nhiều truyền thống tôn giáo vĩ đại của Đông Phương. Các trước tác thánh của họ dạy ta biết kính trọng sự sống, biết chiêm niệm, biết giữ thinh lặng, biết sống đơn giản, biết từ bỏ mình như Phật Giáo chẳng hạn. Hay như trong Ấn Giáo, họ hiển dương ý thức thánh thiêng, sự hy sinh, việc hành hương, việc chay tịnh, và các biểu tượng thánh. Hay như trong Đạo Khổng, họ dạy ta đức khôn ngoan, gia đình và các giá trị xã hội. Ngay đối với các tôn giáo truyền thống vốn phát biểu các giá trị thiêng liêng qua nghi lễ và văn hóa truyền khẩu, ta cũng phải nhiệt tâm chú ý và dấn thân đối thoại một cách kính cẩn với họ. Đối với những ai không tin Thiên Chúa nhưng cố gắng “làm điều đúng, yêu điều tốt và sống khiêm hạ” (Mk 6:8), ta cũng phải làm việc với họ để tạo ra một thế giới công chính và hoà bình hơn, và trong cuộc đối thoại này, làm chứng một cách chân thực về Lời Chúa, đem lại cho họ những chân trời mới và cao hơn về chân lý và yêu thương.
15. Trong thư của Ngài gửi các Họa Sĩ năm 1999, Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở rằng “Sách Thánh đã trở nên một thứ ‘ngữ vựng mênh mông’ (lời Paul Claudel) và ‘bức bản đồ ảnh tượng’ (lời Marc Chagall) mà cả văn hóa Kitô giáo lẫn ngành hoạ đều rút tỉa được” (số 5). Goethe từng xác tín rằng Phúc Âm chính là “tiếng mẹ của Âu Châu”. Như người ta thường nói, Thánh Kinh là “mã số vĩ đại” của nền văn hóa hoàn cầu: một cách lý tưởng, các họa sĩ nhúng cọ sơn của mình vào mẫu tự được lên mầu bằng nhiều truyện ký, biểu tượng và hình ảnh vốn là những trang sách Thánh Kinh. Các nhạc sĩ sáng tác các hòa âm của mình quanh các bản văn thánh, nhất là các Thánh Vịnh. Trong nhiều thế kỷ, các tác giả đã lui về với các truyện xưa đã trở thành dụ ngôn hiện sinh ấy; các thi sĩ tự hỏi về lẽ huyền nhiệm của thần trí, của vô biên, của sự ác, của tình yêu, của sống và sự chết, thường xuyên thu lượm những rung động đầy chất thơ từng lên men cho các trang Sách Thánh. Các tư tưởng gia, những con người của học thuật và xã hội, cũng thường xuyên dùng các quan niệm linh đạo và đạo đức (như Mười Giới Răn chẳng hạn) của Thánh Kinh làm quy chiếu, có khi chỉ như một thứ quy chiếu tương phản. Cả khi một khuôn mặt hay một ý niệm của Thánh Kinh bị bóp méo đi chăng nữa, nó vẫn được nhìn nhận như một yếu tố chủ yếu và có tính tạo thành nền văn minh của Ta.
Vì cũng dạy ta via pulchritudinis hay con đường cái đẹp để hiểu và vươn lên tới Thiên Chúa (như Thánh vịnh 47:7 chẳng hạn đã mời gọi ta: “Hãy học tập âm nhạc, hãy để âm nhạc vang lời ca tụng Chúa”) nên Thánh Kinh không phải chỉ cần thiết đối với tín hữu mà còn đối với mọi người, giúp họ tái khám phá ra các ý nghĩa chân thực trong các biểu thức văn hóa và trên hết, một lần nữa, giúp họ tìm lại được bản sắc lịch sử, văn minh, nhân bản và thiêng liêng của ta. Đây là nguyên ủy cho sự vĩ đại của ta và qua nó, ta có thể tự trình bầy gia sản cao đẹp của ta cho các nền văn minh và văn hóa khác, mà không cần tự ti mặc cảm. Do đó, Thánh Kinh phải được mọi người biết đến và học hỏi, dưới chiều kích đẹp đẽ phi thường cũng như nét phong phú về nhân bản và văn hóa của nó.
Tuy thế, như hình ảnh đầy ý nghĩa của Thánh Phaolô, lời Chúa “không thể bị xiềng xích” (2 Tm 2:9) vào một nền văn hóa; trái lại, nó có hoài bão vượt qua mọi biên giới. Thánh Tông Đồ vốn là một chuyên viên lão luyện trong việc bản vị hóa sứ điệp Thánh Kinh vào các quy chiếu văn hóa khác nhau. Đó là điều Giáo Hội đang được kêu mời để thực hành ngay lúc này đây qua một diễn trình tế nhị nhưng cần thiết, một diễn trình vốn được Huấn Quyền của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI thúc đẩy mạnh mẽ. Giáo Hội có nhiệm vụ làm cho lời Chúa đi sâu vào các nền văn hóa và phát biểu nó theo ngôn ngữ, quan niệm, biểu tượng và truyền thống tôn giáo của các nền văn hóa ấy. Thế nhưng, Giáo Hội phải luôn có khả năng duy trì được bản chất chân thực của nội dung lời Chúa, canh chừng và kiểm soát được các rủi ro của hiện tượng thoái hóa.
Bởi thế, Giáo hội phải làm cho các giá trị mà lời Chúa đang đề nghị với mọi nên văn hóa được sáng lên, để các giá trị ấy được thanh tẩy và mang nhiều hoa trái. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói với các Giám Mục Kenya nhân chuyến công du Phi Châu năm 1980, “bản vị hóa thực sự sẽ phản ảnh được việc Nhập Thể của Ngôi Lời, nếu nền văn hóa ấy, một khi đã được Phúc Âm biến cải và tái sinh, từ trong chính truyền thống sinh động của nó, biết nói lên một cách độc đáo cuộc sống, việc cử hành và tư duy Kitô giáo”.
Kết luận
”Rồi tiếng tôi đã nghe từ trời, lại nói với tôi và bảo: ‘Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất’. Tôi đến gặp thiên thần và xin ngài cho tôi cuốn sách nhỏ. Ngài bảo tôi: ‘Cầm lấy mà nuốt đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt ngào như mật ong’ (Kh10:8-10).
Thưa anh chị em khắp nơi trên thế giới, ta hãy tiếp nhận lời mời trên; ta hãy tới gần bàn tiệc lời Chúa, để được nuôi dưỡng và sống “không bằng cơm bánh mà thôi mà còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8:3; Mt 4:4). Như nhà tư tưởng vĩ đại của nền văn hóa Kitô giáo từng nói, Thánh Kinh “đã cung cấp cho ta nhiều đoạn vừa an ủi vừa cảnh cáo đối với mọi hoàn cảnh” (B. Pascal, Pensées, số 532 ấn bản Brunschvicg).
Thực vậy, Lời Chúa, “ngọt hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:11), “Lời Chúa là đèn soi bước chân con, là ánh sáng nẻo đường con đi” (Tv 119:105), nhưng nó cũng “như lửa, Chúa nói thế, như búa đập tan tảng đá” (Gr 23:29). Nó như mưa đem nước cho trái đất, nuôi sống nó và làm nó phát triển, và khi làm thế, Người đã làm cho cảnh cằn cỗi của sa mạc thiêng liêng chúng ta trổ sinh (xem Is 55:10-11). Mà nó còn là “lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”.
Chúng tôi âu yếm hướng về mọi người đang dấn thân học hỏi, các giáo lý viên và những người khác đang phục vụ lời Chúa để bày tỏ với họ lòng biết ơn sâu xa và đầy thân ái của chúng tôi đối với thừa tác vụ qúy giá và quan trọng của họ. Chúng tôi cũng ngỏ lời với các anh chị em đang chịu bách hại của chúng tôi hay những người đang chịu chết vì lời Thiên Chúa và vì việc họ làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô (xem Kh 6:9): trong tư cách chứng tá và tử đạo, các vị ấy đang nói với ta về “sức mạnh của lời Chúa” (Rm 1:16), về nguyên ủy đức tin của họ, về niềm hy vọng và tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Giờ đây ta hãy cùng nhau im lặng để lắng nghe lời Chúa một cách có hiệu quả và sau khi lắng nghe, ta hãy im lặng lần nữa, để lời ấy tiếp tục ở lại trong ta, sống với ta, và nói với ta. Hãy để nó vang lên lúc khởi đầu ngày sống ngõ hầu Chúa là người nói đầu hết và hãy để nó vang vọng trong ta vào lúc chiều tà để Chúa là người nói sau hết.
Anh chị em thân mến, “Tất cả mọi người đang ở với tôi gửi lời thăm anh chị em. Những lời kính thăm gửi tới những ai yêu mến chúng tôi trong đức tin. Xin ơn thánh Chúa ở cùng tất cả anh chị em!” (Tt 3:15).