Lời Chủ Chăn Tháng 10 năm 2020 : Dấn Thân Truyền Giáo Với Lòng Thương Xót
Quý Cha và quý Tu sĩ rất thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi đến toàn thể Giáo Hội Sứ điệp với chủ đề “Dạ, con đây, xin hãy sai con đi” (Is 6,8) để đánh thức nơi mỗi kitô hữu niềm đam mê và lòng nhiệt thành đem Tin Mừng cho toàn thế giới. Phần tôi, trong Thư Chung gửi gia đình Giáo phận dịp Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2019, tôi đã bày tỏ lòng mong ước được thấy “mọi người nỗ lực vun trồng trong Giáo phận một Mùa Xuân Truyền Giáo”[1] và trong Thư Chung hướng dẫn việc cử hành Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường (2019), tôi cũng nói lên lòng xác tín là để làm cho thế giới nhận biết được tình yêu của Chúa thì cách giới thiệu tốt nhất chính là con đường của Lòng Thương Xót.[2] Gần đây[3], tôi lại có Văn thư gửi toàn thể Giáo phận về quyết định thành lập bốn Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo để thúc đẩy toàn thể Giáo phận nuôi dưỡng tinh thần và dấn thân cho việc truyền giáo.
Để đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha và tiếp tục những tâm tình đã bày tỏ trong các Thư Chung nói trên, tôi xin chia sẻ với quý Cha và quý Tu sĩ đôi suy tư qua đề tài “Dấn thân truyền giáo với Lòng Thương Xót”.
Giáo phận với thao thức truyền giáo
Trong Ngày Thường Huấn vừa qua (24-25/9/2020), tôi đã chia sẻ nhiều điều với quý Cha có mặt, đặc biệt tôi xin quý Cha, nhất là quý Cha Chánh Xứ, trong việc tổ chức đời sống và hoạt động mục vụ cần nhắm đến việc xây dựng cộng đoàn giáo xứ thành Cộng đoàn Thánh thiện, Cộng đoàn Hiệp nhất, Cộng đoàn Bác ái và Cộng đoàn Truyền giáo. Bốn yếu tố trên đây nối kết chặt chẽ với nhau, nhưng trong bối cảnh của Tháng Mười, Tháng được Giáo Hội dành riêng để thúc đẩy mọi thành phần Dân Chúa cầu nguyện và cộng tác tích cực vào công cuộc truyền giáo của toàn thể Giáo Hội, tôi muốn có đôi suy tư riêng về khía cạnh Truyền giáo.
Thách đố dấn thân truyền giáo
Trong suốt năm qua, cuộc sống của thế giới đã bị xáo trộn và bị ghi đậm bởi những dấu ấn của nhiều đau khổ và thử thách do đại dịch Covid-19 gây ra. Trước tiên, phải nói đến số người bị lây nhiễm và tử vong vì dịch bệnh, gây ra những đau khổ, buồn phiền và lo lắng cho những người thân trong gia đình và cho xã hội; tiếp theo là những người bị thất nghiệp, bị phá sản tạo ra cảnh thiếu thốn và nợ nần cho nhiều gia đình; những người hay nhóm người lợi dụng hoàn cảnh để làm giầu trên sự khốn khổ của tha nhân, những nhóm tội phạm làm cho xã hội thêm bất ổn; nhiều quốc gia đã lợi dụng dịch Covid-19 để chèn ép hay hạn chế các sinh hoạt tôn giáo một cách bất công; những người rơi vào tình trạng thất vọng, đánh mất niềm tin ngày càng gia tăng. Hoàn cảnh này của thế giới đã được Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo ví như hoàn cảnh của các môn đệ gặp cơn cuồng phong giữa biển cả (x. Mc 4,35-41): “Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng… Chúng ta thực sự hoảng sợ, mất phương hướng và khiếp đảm. Đau đớn và cái chết làm cho chúng ta cảm nghiệm sự yếu đuối của con người.”[4]
Tuy nhiên, bên cạnh những bóng tối làm thế giới hoảng sợ, người ta cũng chứng kiến nhiều mảng sáng, nhiều hình ảnh tốt đẹp in đậm màu hy vọng, chẳng hạn, các tín hữu ở nhiều nơi vẫn nỗ lực vun trồng đức tin và sống đời đạo đức, nhất là qua việc thực thi đức ái, dù giữa bao khó khăn của cuộc sống hằng ngày; nhiều linh mục và tu sĩ đã dấn thân tìm mọi phương cách giúp giáo hữu sống Đức Tin, trợ giúp người khó khăn; nhiều bác sĩ, nhân viên y tế và các thiện nguyện viên xả thân phục vụ bệnh nhân trong những hoàn cảnh rất nguy hiểm; những nghĩa cử bác ái được thể hiện với lòng nhân hậu ở khắp nơi, nhất là trong các giáo xứ. Đó là những dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót đang thách đố sự dấn thân truyền giáo của mọi tín hữu, nhất là các linh mục và tu sĩ.
Thế giới hôm nay vẫn còn biết bao người lao đao khốn khổ vì cuộc sống khó khăn, bao người đau yếu và cô đơn, bao người đang chán nản tuyệt vọng vì đã lìa bỏ Chúa hay vì chưa bao giờ biết Chúa! Trong hoàn cảnh này, lời mời gọi của Thiên Chúa đối với ngôn sứ Isaia lại vang lên cách mạnh mẽ và khẩn thiết thách đố cho mọi con cái của Chúa, nhất là các linh mục và tu sĩ: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” (Is 6,8). “Lời kêu gọi này xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, từ lòng thương xót của Người, chất vấn cả Giáo Hội và nhân loại trong cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay.”[5] Như ngôn sứ Isaia năm xưa, hôm nay chúng ta cũng cần sẵn sàng và hân hoan thưa lên: “Dạ, con đây, xin hãy sai con đi.” (Is 6,8).
Linh mục và Tu sĩ là muối men của Cộng đoàn Truyền giáo
Đối với các linh mục và tu sĩ, lời thưa “Dạ, con đây, xin hãy sai con đi” không chỉ diễn tả tinh thần truyền giáo của cá nhân linh mục hoặc tu sĩ, mà còn thách đố về khả năng làm cho cộng đoàn của mình trở thành cộng đoàn truyền giáo, trong đó mỗi thành viên luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chưa biết Chúa. Điều này đòi mỗi linh mục và tu sĩ không những phải có ý thức về trách nhiệm truyền giáo mà còn phải mang trong mình nhiệt huyết truyền giáo lớn mạnh bắt nguồn từ lòng say mến Chúa Giêsu và lòng xác tín Chúa Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại đang mong chờ. Do đó, điều mà mỗi linh mục và tu sĩ khao khát nhất là làm sao mọi người gặp được Chúa Giêsu và khám phá được niềm vui và sự an bình từ cuộc gặp gỡ đó.
Ngày nay khi nhìn vào thế giới người ta thường liệt kê ra hàng trăm vấn đề: bất công, bạo lực, chiến tranh, nghèo đói… rồi tìm cách giải quyết các vấn đề dựa theo suy nghĩ loài người với các phương tiện trần thế, tưởng mình có thể giải quyết các vấn đề của nhân loại mà không cần Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là căn bệnh trầm trọng nơi nhiều con cái Giáo Hội mà ĐHY Suhard đã nói đến hơn 60 năm trước khi còn là Tổng Giám mục Paris: “Tình trạng Giáo Hội và thế giới ngày nay rất nghiêm trọng, không phải chỉ vì nhiều đám đông dân chúng không tin Thiên Chúa, nhưng nhất là vì có nhiều tâm hồn tận hiến sống như những người vô thần. Họ sống cuộc sống hằng ngày, thiết lập chương trình và dự tính như thể Thiên Chúa không hiện diện trong cuộc đời của họ”[6].
Là linh mục và tu sĩ, chúng ta cần tự hỏi lòng mình xem có thực sự xác tín Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là kho tàng quý giá nhất mà chúng ta có thể dâng tặng cho thế giới không? Chúng ta có thực sự muốn giới thiệu Chúa Giêsu cho tha nhân, nhất là các anh chị em chưa biết Chúa không? Bao nhiêu phần trăm các sinh hoạt mục vụ và thời giờ của chúng ta dành cho anh chị em chưa biết Chúa?
Lòng thương xót là con đường tốt nhất để đi vào lòng người
Làm sao để đụng chạm tới lòng những người đau khổ và thất vọng, những người tội lỗi, nhất là những người chưa bao giờ biết Chúa? Những người đau khổ, thất vọng và tội lỗi thường có khuynh hướng đóng cửa lòng lại, còn những người xa lạ với Chúa, hoặc đã từng từ khước Chúa, lẩn tránh Chúa hay đơn giản chỉ vì không thể tưởng tượng được Chúa như thế nào. Đây chính là hoàn cảnh của nhân loại sau tội nguyên tổ: “Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: Ngươi ở đâu? Con người thưa: Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” (St 3,8-10). Thiên Chúa đi tìm loài người lầm than (trần truồng) và tội lỗi (lẩn trốn Chúa). Đây chính là con đường của lòng thương xót. Vì vậy, con đường để chúng ta đến với nhân loại khổ đau và xa cách Chúa chắc chắn không thể là con đường nào khác ngoài con đường chính Chúa đã dùng để đến với nhân loại.
Thế giới thiếu thốn lòng thương xót
Thế giới đang khao khát những dấu hiệu của lòng thương xót, nhưng đây lại là điều thiếu thốn nhất. Xã hội ngày nay sinh hoạt và tổ chức theo não trạng hưởng thụ, thành công, lợi nhuận, danh vọng, chức quyền nên những đức tính nhân bản thiết yếu như cảm thông, tha thứ, hiền dịu, hy sinh ngày càng bị coi thường. Bầu khí của xã hội xem ra cũng tác động đến nhiều con cái Chúa, kể cả linh mục và tu sĩ. Có câu nói người ta hay nghe từ môi miệng nhiều mục tử: “Đấy là luật, nếu không đáp ứng được thì đừng trở lại!” Câu trả lời này của mục tử có thể dồn nhiều người vào chân tường, vào ngõ cụt và tuyệt vọng!
Người ta kể có một nữ tu, đã vất vả nhiều ngày tháng mới đưa được một đôi vợ chồng rối đến gặp cha xứ để xin giúp đỡ, nhưng họ đã nhận được câu trả lời tương tự, kèm theo thái độ hờ hững, lạnh nhạt. Vợ chồng này đã trở về với lời thề sẽ không bao giờ gặp “ông cha” và sẽ không bao giờ đến nhà thờ, rồi họ tiếp tục đi chùa. Tôi còn nhớ năm xưa bên Roma, cha Giám đốc Học viện nơi tôi trọ học cũng có một câu nói tương tự, nhưng các linh mục sinh viên thưa lại: “Nếu cứ theo luật mà làm thì chúng con không cần có cha giám đốc”. Ở đâu cũng có luật, có truyền thống, nhưng ở đâu cũng có việc giải thích để áp dụng luật và truyền thống. Việc giải thích và áp dụng tùy thuộc vào tấm lòng của người giải thích và áp dụng. “Lòng mà không sáng, nhìn đâu cũng thấy tối”. Lòng không yêu thương, trái tim khô cằn. Lòng ngại khó, nhìn đâu cũng thấy phiền hà. Lòng biết xót thương, tâm địa bao dung và cảm được cả những nỗi khổ thầm kín. Suy nghĩ đến đây, tôi nhớ đến câu chuyện trong cuốn “Nhật ký Truyền Giáo” [7]:
Sáng nay mình dâng lễ ở nhà ông Hai Hiếu. Ông Hai ở giữa lương dân, thậm chí cả vợ và con cháu cũng là lương dân. Ông nghỉ đạo 70 năm rồi. Trong chuyến viếng thăm lần trước, mình đã tìm hiểu nguyên nhân nghỉ đạo của ông.
Tại sao ông Hai nghỉ đạo lâu thế?
Hồi xưa con ở Trà Lồng. Có một lần con đi lễ trễ, bị ông cố Quimbrôtz bắt nằm xuống, đánh một trận chảy máu đít. Con sợ, con giận, con bỏ đạo luôn cho đến bây giờ. Hồi ấy, con mới có 19 tuổi.
Tại sao ông Hai đi lễ trễ vậy?
Thì nhà con ở sâu trong ruộng, con đi sớm không được.
Mặc lấy lòng thương xót của Chúa
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để chung chia thân phận làm người, đã chịu khổ hình, chịu chết trên thập giá, tất cả chỉ vì xót thương nhân loại lầm than tội lỗi. Vì vậy, để mọi người hiểu biết và đón nhận Chúa Kitô, các môn đệ của Chúa, trước tiên là linh mục và tu sĩ, phải là hiện thân của Chúa Kitô, Đấng “Vì loài người chúng tôi và để cứu độ chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin Kính). Lòng thương xót phải là nét đặc trưng và khuôn vàng thước ngọc cho hành động của mỗi linh mục và tu sĩ: thông hiểu và cảm thông những khó khăn của người khác trong hoàn cảnh cụ thể của họ, xót thương người nghèo cũng như người giầu, người bệnh tật cũng như người khỏe mạnh, người bị áp bức cũng như người quyền thế, người thành công và người thất bại: thương yêu tất cả, không phân biệt; thương yêu người này mà không ghét bỏ người kia, bênh đỡ người này mà không cần chửi bới người nọ, đón nhận người tốt lành mà không xua đuổi người tội lỗi.
Tinh thần lòng thương xót của Đấng Cứu Thế đòi các linh mục và tu sĩ phải cẩn thận rà xét lòng mình để nhận diện các tình cảm, ý nghĩ thầm kín ẩn nấp trong lòng để thay đổi chúng theo tinh thần lòng thương xót của Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế:
“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng thương xót chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,12-13).
“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” (Mt 9,35-36).
Kính thưa quý Cha và quý Tu sĩ, để thấm nhuần được lòng thương xót của Chúa trong đời sống và trong cung cách đối xử với tha nhân, chúng ta cần say mến Chúa Giêsu đến độ không cần gì ngoài tình nghĩa của Người như thánh Phaolô đã diễn tả trong thư gửi tín hữu Philiphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.” (Pl 3,7-9). Xin Đức Mẹ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu và học nơi Con của Mẹ lòng nhân hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29).
Thân mến chào quý Cha và quý Tu sĩ.
+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Giáo phận Xuân Lộc
[1] Thư Chung gửi Giáo phận Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày 15.10.2019.
[2] Thư Chung hướng dẫn về “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”, ngày 27.9.2019.
[3] Ngày 24 tháng 8 năm 2020.
[4] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2020.
[5] Nt
[6] Giuse Đinh Đức Đạo, Chứng nhân Tình yêu, Nxb Đồng Nai, Tái bản lần I, 2017, trg. 197-198.
[7] Lm. Pio Ngô Phúc Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2010, trg
Quý Cha và quý Tu sĩ rất thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi đến toàn thể Giáo Hội Sứ điệp với chủ đề “Dạ, con đây, xin hãy sai con đi” (Is 6,8) để đánh thức nơi mỗi kitô hữu niềm đam mê và lòng nhiệt thành đem Tin Mừng cho toàn thế giới. Phần tôi, trong Thư Chung gửi gia đình Giáo phận dịp Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2019, tôi đã bày tỏ lòng mong ước được thấy “mọi người nỗ lực vun trồng trong Giáo phận một Mùa Xuân Truyền Giáo”[1] và trong Thư Chung hướng dẫn việc cử hành Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường (2019), tôi cũng nói lên lòng xác tín là để làm cho thế giới nhận biết được tình yêu của Chúa thì cách giới thiệu tốt nhất chính là con đường của Lòng Thương Xót.[2] Gần đây[3], tôi lại có Văn thư gửi toàn thể Giáo phận về quyết định thành lập bốn Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo để thúc đẩy toàn thể Giáo phận nuôi dưỡng tinh thần và dấn thân cho việc truyền giáo.
Để đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha và tiếp tục những tâm tình đã bày tỏ trong các Thư Chung nói trên, tôi xin chia sẻ với quý Cha và quý Tu sĩ đôi suy tư qua đề tài “Dấn thân truyền giáo với Lòng Thương Xót”.
Giáo phận với thao thức truyền giáo
Trong Ngày Thường Huấn vừa qua (24-25/9/2020), tôi đã chia sẻ nhiều điều với quý Cha có mặt, đặc biệt tôi xin quý Cha, nhất là quý Cha Chánh Xứ, trong việc tổ chức đời sống và hoạt động mục vụ cần nhắm đến việc xây dựng cộng đoàn giáo xứ thành Cộng đoàn Thánh thiện, Cộng đoàn Hiệp nhất, Cộng đoàn Bác ái và Cộng đoàn Truyền giáo. Bốn yếu tố trên đây nối kết chặt chẽ với nhau, nhưng trong bối cảnh của Tháng Mười, Tháng được Giáo Hội dành riêng để thúc đẩy mọi thành phần Dân Chúa cầu nguyện và cộng tác tích cực vào công cuộc truyền giáo của toàn thể Giáo Hội, tôi muốn có đôi suy tư riêng về khía cạnh Truyền giáo.
Thách đố dấn thân truyền giáo
Trong suốt năm qua, cuộc sống của thế giới đã bị xáo trộn và bị ghi đậm bởi những dấu ấn của nhiều đau khổ và thử thách do đại dịch Covid-19 gây ra. Trước tiên, phải nói đến số người bị lây nhiễm và tử vong vì dịch bệnh, gây ra những đau khổ, buồn phiền và lo lắng cho những người thân trong gia đình và cho xã hội; tiếp theo là những người bị thất nghiệp, bị phá sản tạo ra cảnh thiếu thốn và nợ nần cho nhiều gia đình; những người hay nhóm người lợi dụng hoàn cảnh để làm giầu trên sự khốn khổ của tha nhân, những nhóm tội phạm làm cho xã hội thêm bất ổn; nhiều quốc gia đã lợi dụng dịch Covid-19 để chèn ép hay hạn chế các sinh hoạt tôn giáo một cách bất công; những người rơi vào tình trạng thất vọng, đánh mất niềm tin ngày càng gia tăng. Hoàn cảnh này của thế giới đã được Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo ví như hoàn cảnh của các môn đệ gặp cơn cuồng phong giữa biển cả (x. Mc 4,35-41): “Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng… Chúng ta thực sự hoảng sợ, mất phương hướng và khiếp đảm. Đau đớn và cái chết làm cho chúng ta cảm nghiệm sự yếu đuối của con người.”[4]
Tuy nhiên, bên cạnh những bóng tối làm thế giới hoảng sợ, người ta cũng chứng kiến nhiều mảng sáng, nhiều hình ảnh tốt đẹp in đậm màu hy vọng, chẳng hạn, các tín hữu ở nhiều nơi vẫn nỗ lực vun trồng đức tin và sống đời đạo đức, nhất là qua việc thực thi đức ái, dù giữa bao khó khăn của cuộc sống hằng ngày; nhiều linh mục và tu sĩ đã dấn thân tìm mọi phương cách giúp giáo hữu sống Đức Tin, trợ giúp người khó khăn; nhiều bác sĩ, nhân viên y tế và các thiện nguyện viên xả thân phục vụ bệnh nhân trong những hoàn cảnh rất nguy hiểm; những nghĩa cử bác ái được thể hiện với lòng nhân hậu ở khắp nơi, nhất là trong các giáo xứ. Đó là những dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa là Cha giầu lòng thương xót đang thách đố sự dấn thân truyền giáo của mọi tín hữu, nhất là các linh mục và tu sĩ.
Thế giới hôm nay vẫn còn biết bao người lao đao khốn khổ vì cuộc sống khó khăn, bao người đau yếu và cô đơn, bao người đang chán nản tuyệt vọng vì đã lìa bỏ Chúa hay vì chưa bao giờ biết Chúa! Trong hoàn cảnh này, lời mời gọi của Thiên Chúa đối với ngôn sứ Isaia lại vang lên cách mạnh mẽ và khẩn thiết thách đố cho mọi con cái của Chúa, nhất là các linh mục và tu sĩ: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” (Is 6,8). “Lời kêu gọi này xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, từ lòng thương xót của Người, chất vấn cả Giáo Hội và nhân loại trong cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay.”[5] Như ngôn sứ Isaia năm xưa, hôm nay chúng ta cũng cần sẵn sàng và hân hoan thưa lên: “Dạ, con đây, xin hãy sai con đi.” (Is 6,8).
Linh mục và Tu sĩ là muối men của Cộng đoàn Truyền giáo
Đối với các linh mục và tu sĩ, lời thưa “Dạ, con đây, xin hãy sai con đi” không chỉ diễn tả tinh thần truyền giáo của cá nhân linh mục hoặc tu sĩ, mà còn thách đố về khả năng làm cho cộng đoàn của mình trở thành cộng đoàn truyền giáo, trong đó mỗi thành viên luôn ý thức mình là chứng nhân của Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chưa biết Chúa. Điều này đòi mỗi linh mục và tu sĩ không những phải có ý thức về trách nhiệm truyền giáo mà còn phải mang trong mình nhiệt huyết truyền giáo lớn mạnh bắt nguồn từ lòng say mến Chúa Giêsu và lòng xác tín Chúa Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại đang mong chờ. Do đó, điều mà mỗi linh mục và tu sĩ khao khát nhất là làm sao mọi người gặp được Chúa Giêsu và khám phá được niềm vui và sự an bình từ cuộc gặp gỡ đó.
Ngày nay khi nhìn vào thế giới người ta thường liệt kê ra hàng trăm vấn đề: bất công, bạo lực, chiến tranh, nghèo đói… rồi tìm cách giải quyết các vấn đề dựa theo suy nghĩ loài người với các phương tiện trần thế, tưởng mình có thể giải quyết các vấn đề của nhân loại mà không cần Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Đây là căn bệnh trầm trọng nơi nhiều con cái Giáo Hội mà ĐHY Suhard đã nói đến hơn 60 năm trước khi còn là Tổng Giám mục Paris: “Tình trạng Giáo Hội và thế giới ngày nay rất nghiêm trọng, không phải chỉ vì nhiều đám đông dân chúng không tin Thiên Chúa, nhưng nhất là vì có nhiều tâm hồn tận hiến sống như những người vô thần. Họ sống cuộc sống hằng ngày, thiết lập chương trình và dự tính như thể Thiên Chúa không hiện diện trong cuộc đời của họ”[6].
Là linh mục và tu sĩ, chúng ta cần tự hỏi lòng mình xem có thực sự xác tín Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và là kho tàng quý giá nhất mà chúng ta có thể dâng tặng cho thế giới không? Chúng ta có thực sự muốn giới thiệu Chúa Giêsu cho tha nhân, nhất là các anh chị em chưa biết Chúa không? Bao nhiêu phần trăm các sinh hoạt mục vụ và thời giờ của chúng ta dành cho anh chị em chưa biết Chúa?
Lòng thương xót là con đường tốt nhất để đi vào lòng người
Làm sao để đụng chạm tới lòng những người đau khổ và thất vọng, những người tội lỗi, nhất là những người chưa bao giờ biết Chúa? Những người đau khổ, thất vọng và tội lỗi thường có khuynh hướng đóng cửa lòng lại, còn những người xa lạ với Chúa, hoặc đã từng từ khước Chúa, lẩn tránh Chúa hay đơn giản chỉ vì không thể tưởng tượng được Chúa như thế nào. Đây chính là hoàn cảnh của nhân loại sau tội nguyên tổ: “Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: Ngươi ở đâu? Con người thưa: Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” (St 3,8-10). Thiên Chúa đi tìm loài người lầm than (trần truồng) và tội lỗi (lẩn trốn Chúa). Đây chính là con đường của lòng thương xót. Vì vậy, con đường để chúng ta đến với nhân loại khổ đau và xa cách Chúa chắc chắn không thể là con đường nào khác ngoài con đường chính Chúa đã dùng để đến với nhân loại.
Thế giới thiếu thốn lòng thương xót
Thế giới đang khao khát những dấu hiệu của lòng thương xót, nhưng đây lại là điều thiếu thốn nhất. Xã hội ngày nay sinh hoạt và tổ chức theo não trạng hưởng thụ, thành công, lợi nhuận, danh vọng, chức quyền nên những đức tính nhân bản thiết yếu như cảm thông, tha thứ, hiền dịu, hy sinh ngày càng bị coi thường. Bầu khí của xã hội xem ra cũng tác động đến nhiều con cái Chúa, kể cả linh mục và tu sĩ. Có câu nói người ta hay nghe từ môi miệng nhiều mục tử: “Đấy là luật, nếu không đáp ứng được thì đừng trở lại!” Câu trả lời này của mục tử có thể dồn nhiều người vào chân tường, vào ngõ cụt và tuyệt vọng!
Người ta kể có một nữ tu, đã vất vả nhiều ngày tháng mới đưa được một đôi vợ chồng rối đến gặp cha xứ để xin giúp đỡ, nhưng họ đã nhận được câu trả lời tương tự, kèm theo thái độ hờ hững, lạnh nhạt. Vợ chồng này đã trở về với lời thề sẽ không bao giờ gặp “ông cha” và sẽ không bao giờ đến nhà thờ, rồi họ tiếp tục đi chùa. Tôi còn nhớ năm xưa bên Roma, cha Giám đốc Học viện nơi tôi trọ học cũng có một câu nói tương tự, nhưng các linh mục sinh viên thưa lại: “Nếu cứ theo luật mà làm thì chúng con không cần có cha giám đốc”. Ở đâu cũng có luật, có truyền thống, nhưng ở đâu cũng có việc giải thích để áp dụng luật và truyền thống. Việc giải thích và áp dụng tùy thuộc vào tấm lòng của người giải thích và áp dụng. “Lòng mà không sáng, nhìn đâu cũng thấy tối”. Lòng không yêu thương, trái tim khô cằn. Lòng ngại khó, nhìn đâu cũng thấy phiền hà. Lòng biết xót thương, tâm địa bao dung và cảm được cả những nỗi khổ thầm kín. Suy nghĩ đến đây, tôi nhớ đến câu chuyện trong cuốn “Nhật ký Truyền Giáo” [7]:
Sáng nay mình dâng lễ ở nhà ông Hai Hiếu. Ông Hai ở giữa lương dân, thậm chí cả vợ và con cháu cũng là lương dân. Ông nghỉ đạo 70 năm rồi. Trong chuyến viếng thăm lần trước, mình đã tìm hiểu nguyên nhân nghỉ đạo của ông.
Tại sao ông Hai nghỉ đạo lâu thế?
Hồi xưa con ở Trà Lồng. Có một lần con đi lễ trễ, bị ông cố Quimbrôtz bắt nằm xuống, đánh một trận chảy máu đít. Con sợ, con giận, con bỏ đạo luôn cho đến bây giờ. Hồi ấy, con mới có 19 tuổi.
Tại sao ông Hai đi lễ trễ vậy?
Thì nhà con ở sâu trong ruộng, con đi sớm không được.
Mặc lấy lòng thương xót của Chúa
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để chung chia thân phận làm người, đã chịu khổ hình, chịu chết trên thập giá, tất cả chỉ vì xót thương nhân loại lầm than tội lỗi. Vì vậy, để mọi người hiểu biết và đón nhận Chúa Kitô, các môn đệ của Chúa, trước tiên là linh mục và tu sĩ, phải là hiện thân của Chúa Kitô, Đấng “Vì loài người chúng tôi và để cứu độ chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin Kính). Lòng thương xót phải là nét đặc trưng và khuôn vàng thước ngọc cho hành động của mỗi linh mục và tu sĩ: thông hiểu và cảm thông những khó khăn của người khác trong hoàn cảnh cụ thể của họ, xót thương người nghèo cũng như người giầu, người bệnh tật cũng như người khỏe mạnh, người bị áp bức cũng như người quyền thế, người thành công và người thất bại: thương yêu tất cả, không phân biệt; thương yêu người này mà không ghét bỏ người kia, bênh đỡ người này mà không cần chửi bới người nọ, đón nhận người tốt lành mà không xua đuổi người tội lỗi.
Tinh thần lòng thương xót của Đấng Cứu Thế đòi các linh mục và tu sĩ phải cẩn thận rà xét lòng mình để nhận diện các tình cảm, ý nghĩ thầm kín ẩn nấp trong lòng để thay đổi chúng theo tinh thần lòng thương xót của Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế:
“Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng thương xót chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,12-13).
“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” (Mt 9,35-36).
Kính thưa quý Cha và quý Tu sĩ, để thấm nhuần được lòng thương xót của Chúa trong đời sống và trong cung cách đối xử với tha nhân, chúng ta cần say mến Chúa Giêsu đến độ không cần gì ngoài tình nghĩa của Người như thánh Phaolô đã diễn tả trong thư gửi tín hữu Philiphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.” (Pl 3,7-9). Xin Đức Mẹ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu và học nơi Con của Mẹ lòng nhân hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29).
Thân mến chào quý Cha và quý Tu sĩ.
+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Giáo phận Xuân Lộc
[1] Thư Chung gửi Giáo phận Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày 15.10.2019.
[2] Thư Chung hướng dẫn về “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”, ngày 27.9.2019.
[3] Ngày 24 tháng 8 năm 2020.
[4] ĐTC Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2020.
[5] Nt
[6] Giuse Đinh Đức Đạo, Chứng nhân Tình yêu, Nxb Đồng Nai, Tái bản lần I, 2017, trg. 197-198.
[7] Lm. Pio Ngô Phúc Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2010, trg