(Nhân ngày phòng chống AIDS - 1.12)
Còn nhớ hôm ấy là một ngày đại hội. Trong phần chia sẻ về bản thân, một thanh niên bị SIDA kể về đời mình cho các bạn trẻ nghe như một bằng chứng sống, một chứng từ cụ thể là chính bản thân anh.
Anh là con nhà giàu và quyền thế trong xã hội. Cha mẹ nuông chiều rất mực. Đó là những lý do làm cho anh trở thành kẻ hư đốn. Cũng được đi học như người ta, và học giỏi, nhưng anh đã sớm lêu lỏng. Được vào đại học đã là may. Anh không xem đó là dịp may trên đường tiến thân mà lại xem việc rời xa gia đình vào đại học là dịp may để anh thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, thoát khỏi sự kềm cập (anh nghĩ thế) của mẹ cha, một mình tự tung, tự tác khám phá thế giới đen tối của những người sợ ánh sáng như anh…
Vài năm sau, gia đình được đi Mỹ theo diện H.O., anh lại càng nhận thấy “trời cho” mình dịp may, từ nay cắt đứt hoàn toàn sự kiểm soát của cha mẹ, nhất là không còn phải lo chuyện cha mẹ hoặch họe tiền bạc mỗi lần anh xòe tay xin…
Thế rồi chuyện gì phải đến đã đến. Thế giới tội lỗi mà anh yêu thích, anh trầm mình với nó, đã tặng cho anh một cái tát nghiệt ngã: anh bị SIDA!
Ngày nhận giấy báo kết quả dương tính, anh thấy như cả bầu trời đổ sụp, đất dưới chân quay cuồng. Ngày nào khi anh có tiền, bạn bè bu quanh. Bây giờ thấy anh, ai cũng tránh thật xa. Không còn những độ nhậu, không còn những đêm trắng bên sòng bạc, không còn cảnh tượng đen tối của những con người thích sống theo bản năng hơn tự làm chủ chính mình…
Anh mất tất cả. Trước mặt mọi người, hình như anh còn bẩn thỉu hơn một cọng rác thối. Anh đang sống nhưng khác gì một thây ma. Anh đang thở nhưng hình như không còn sống nữa. Cái chết thể lý đang chiếm đoạt anh từng giây phút đã vậy, cái chết của tâm linh, của cô đơn, của mặc cảm, cái chết của sự khinh ghét mà mọi người dành cho anh còn lớn hơn, còn nặng nề và khủng khiếp hơn. Anh đã thua, đã trắng tay.
Quá tuyệt vọng, anh ra đường ray xe lửa ngồi đấy chờ trao gởi cuộc sống đang trên bờ vực thẳm của mình cho một chuyến tàu định mệnh nào đó.
Đúng là định mệnh! Đoàn tàu xấu số mà anh lao vào đã không chở anh sang thế giới bên kia. Anh hồi sức, dần dần nhận ra mình đang nằm trong bệnh viện.
Nếu trước khi tự tử, cuộc sống của anh đã là địa ngục, bây giờ, sau khi từ cõi chết trở về, cuộc sống ấy còn trở nên địa ngục gấp nhiều lần hơn. Thân thể của anh nằm gọn trên giường, chỉ còn phần trên, chi dưới vĩnh viễn gởi lại đường ray với dấu nghiềng nát của những chiếc bánh xe bằng sắt.
Đến nong nỗi này mà trong ánh mắt mọi người, anh vẫn là một con thú dữ, không ai dám đến gần, kể cả y bác sĩ. Có chăng, anh chỉ nhận được nơi họ lòng thương hại mà thôi. Đau khổ tột cùng. Anh chỉ còn biết nguyền rủa chính mình, và nguyền rủa những người đã đưa anh trở lại cuộc sống.
Thế rồi bóng dáng của một nữ tu xuất hiện. Chị là người đang phục vụ tại trung tâm M. ở một huyện ngoại thành Sài Gòn, thuộc giáo phận P., chuyên lo cho người nhiễm HIV và bị bệnh AIDS (SIDA). Quá bất mãn với cuộc đời, anh chẳng còn tin ai, kể cả họ là nữ tu đi nữa.
Nhưng sau nhiều lần được thuyết phục, anh đã siêu lòng. Theo người nữ tu khả ái về trung tâm mà lòng anh vẫn còn nghi nan. Rồi thời gian đã cho anh câu trả lời. Giờ đây, anh biết rằng, anh đã đến đúng địa chỉ. Những con người quên cả đời mình, dám hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho lý tưởng tu trì, với một niềm mong muốn nên giống Chúa Kitô, thì còn lý do nào để họ có thể nghi ngại anh? Bây giờ anh mới hiểu được hai chữ LÀM NGƯỜI. Nó thiêng liêng và đáng yêu lắm.
Trước đây, khi ngụp lặn trong thế giới của mây mù, anh cứ ngỡ mình là một kẻ tự do. Nhưng anh lầm. Chính khi buông mình theo bản năng, bán mình cho sự nông cạn của lối suy nghĩ nhất thời, là lúc anh trở thành kẻ nô lệ tệ bạc nhất: nô lệ cho những sai lầm đáng lên án của chính mình, nô lệ cho chính những đam mê thấp kém mà anh yêu thích.
Giờ đây khi mà cuộc sống chỉ còn là những ngày tháng ngắn ngũi, anh mới biết rằng con người ta chỉ cao thượng, sự sống chất chứa muôn vàn hạnh phúc, và cuộc đời này đáng yêu, đáng quý chỉ có thể có được khi người ta biết sống theo một kỹ cương, biết trao ban tình yêu, biết đưa bàn tay để phục vụ.
Các nữ tu mà anh đã được gặp trên giường bệnh là những người như thế. Chính các chị đã trả lại cho anh, không phải tất cả cuộc sống, thì cũng là tất cả ý nghĩa của sự sống, tất cả niềm vui sống.
Nhờ đó mà lúc này anh mới có đủ can đảm nói về chính cuộc đời của mình cho mọi người trẻ đang hiện diện lắng nghe, không một chút e dè, không còn nỗi mặc cảm vì phải bày tỏ sự thật đời mình. Cảm nghiệm tất cả ý nghĩa của sự sống đã cho anh lòng quả cảm và can đảm.
Còn nhớ hôm ấy là một ngày đại hội. Trong phần chia sẻ về bản thân, một thanh niên bị SIDA kể về đời mình cho các bạn trẻ nghe như một bằng chứng sống, một chứng từ cụ thể là chính bản thân anh.
Anh là con nhà giàu và quyền thế trong xã hội. Cha mẹ nuông chiều rất mực. Đó là những lý do làm cho anh trở thành kẻ hư đốn. Cũng được đi học như người ta, và học giỏi, nhưng anh đã sớm lêu lỏng. Được vào đại học đã là may. Anh không xem đó là dịp may trên đường tiến thân mà lại xem việc rời xa gia đình vào đại học là dịp may để anh thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, thoát khỏi sự kềm cập (anh nghĩ thế) của mẹ cha, một mình tự tung, tự tác khám phá thế giới đen tối của những người sợ ánh sáng như anh…
Vài năm sau, gia đình được đi Mỹ theo diện H.O., anh lại càng nhận thấy “trời cho” mình dịp may, từ nay cắt đứt hoàn toàn sự kiểm soát của cha mẹ, nhất là không còn phải lo chuyện cha mẹ hoặch họe tiền bạc mỗi lần anh xòe tay xin…
Thế rồi chuyện gì phải đến đã đến. Thế giới tội lỗi mà anh yêu thích, anh trầm mình với nó, đã tặng cho anh một cái tát nghiệt ngã: anh bị SIDA!
Ngày nhận giấy báo kết quả dương tính, anh thấy như cả bầu trời đổ sụp, đất dưới chân quay cuồng. Ngày nào khi anh có tiền, bạn bè bu quanh. Bây giờ thấy anh, ai cũng tránh thật xa. Không còn những độ nhậu, không còn những đêm trắng bên sòng bạc, không còn cảnh tượng đen tối của những con người thích sống theo bản năng hơn tự làm chủ chính mình…
Anh mất tất cả. Trước mặt mọi người, hình như anh còn bẩn thỉu hơn một cọng rác thối. Anh đang sống nhưng khác gì một thây ma. Anh đang thở nhưng hình như không còn sống nữa. Cái chết thể lý đang chiếm đoạt anh từng giây phút đã vậy, cái chết của tâm linh, của cô đơn, của mặc cảm, cái chết của sự khinh ghét mà mọi người dành cho anh còn lớn hơn, còn nặng nề và khủng khiếp hơn. Anh đã thua, đã trắng tay.
Quá tuyệt vọng, anh ra đường ray xe lửa ngồi đấy chờ trao gởi cuộc sống đang trên bờ vực thẳm của mình cho một chuyến tàu định mệnh nào đó.
Đúng là định mệnh! Đoàn tàu xấu số mà anh lao vào đã không chở anh sang thế giới bên kia. Anh hồi sức, dần dần nhận ra mình đang nằm trong bệnh viện.
Nếu trước khi tự tử, cuộc sống của anh đã là địa ngục, bây giờ, sau khi từ cõi chết trở về, cuộc sống ấy còn trở nên địa ngục gấp nhiều lần hơn. Thân thể của anh nằm gọn trên giường, chỉ còn phần trên, chi dưới vĩnh viễn gởi lại đường ray với dấu nghiềng nát của những chiếc bánh xe bằng sắt.
Đến nong nỗi này mà trong ánh mắt mọi người, anh vẫn là một con thú dữ, không ai dám đến gần, kể cả y bác sĩ. Có chăng, anh chỉ nhận được nơi họ lòng thương hại mà thôi. Đau khổ tột cùng. Anh chỉ còn biết nguyền rủa chính mình, và nguyền rủa những người đã đưa anh trở lại cuộc sống.
Thế rồi bóng dáng của một nữ tu xuất hiện. Chị là người đang phục vụ tại trung tâm M. ở một huyện ngoại thành Sài Gòn, thuộc giáo phận P., chuyên lo cho người nhiễm HIV và bị bệnh AIDS (SIDA). Quá bất mãn với cuộc đời, anh chẳng còn tin ai, kể cả họ là nữ tu đi nữa.
Nhưng sau nhiều lần được thuyết phục, anh đã siêu lòng. Theo người nữ tu khả ái về trung tâm mà lòng anh vẫn còn nghi nan. Rồi thời gian đã cho anh câu trả lời. Giờ đây, anh biết rằng, anh đã đến đúng địa chỉ. Những con người quên cả đời mình, dám hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho lý tưởng tu trì, với một niềm mong muốn nên giống Chúa Kitô, thì còn lý do nào để họ có thể nghi ngại anh? Bây giờ anh mới hiểu được hai chữ LÀM NGƯỜI. Nó thiêng liêng và đáng yêu lắm.
Trước đây, khi ngụp lặn trong thế giới của mây mù, anh cứ ngỡ mình là một kẻ tự do. Nhưng anh lầm. Chính khi buông mình theo bản năng, bán mình cho sự nông cạn của lối suy nghĩ nhất thời, là lúc anh trở thành kẻ nô lệ tệ bạc nhất: nô lệ cho những sai lầm đáng lên án của chính mình, nô lệ cho chính những đam mê thấp kém mà anh yêu thích.
Giờ đây khi mà cuộc sống chỉ còn là những ngày tháng ngắn ngũi, anh mới biết rằng con người ta chỉ cao thượng, sự sống chất chứa muôn vàn hạnh phúc, và cuộc đời này đáng yêu, đáng quý chỉ có thể có được khi người ta biết sống theo một kỹ cương, biết trao ban tình yêu, biết đưa bàn tay để phục vụ.
Các nữ tu mà anh đã được gặp trên giường bệnh là những người như thế. Chính các chị đã trả lại cho anh, không phải tất cả cuộc sống, thì cũng là tất cả ý nghĩa của sự sống, tất cả niềm vui sống.
Nhờ đó mà lúc này anh mới có đủ can đảm nói về chính cuộc đời của mình cho mọi người trẻ đang hiện diện lắng nghe, không một chút e dè, không còn nỗi mặc cảm vì phải bày tỏ sự thật đời mình. Cảm nghiệm tất cả ý nghĩa của sự sống đã cho anh lòng quả cảm và can đảm.