Nguyễn Ngọc Danh

 H O A M A I                                  

Trong khi vùng Bắc Mỹ và Bắc Cali còn chìm trong cái lạnh cắt da của những ngày cuối Đông, thì cộng đồng người Việt tha hưông chúng ta lại bắt đầu sữa soạn đón Tết, mừng xuân theo truyền thống dân tộc.

 Trong khi ấy, đúng theo chu kỳ của đất trời tại quê hương yêu dấu của chúng ta đồng bào đã cảm nhận, đã nhìn thấy bóng dáng mùa xuân trên mọi cảnh vật. Thế giới chung quanh là hơi thở của gió mới, là nét đẹp quyến rủ, hữu tình của những tà áo trinh nguyên người thiếu nữ, là tiếng hót líu lo của chim trời. Cái trở mình huyền diệu duyên dáng của đất trời đang nhú dần theo đọt cây ngọn cỏ. Cái vẻ đep nhẹ nhàng nhưng rất lãng mạn và quyến rủ đang theo từng cánh hoa nở rộ trên khắp nẻo đường quê hương. Chúng ta những người con đã xa lìa cái cuống nhau của quê cha đất tổ hàng ngàn dặm, sông rải rác trên khắp mọi nẻo đường của trái đất nhưng vẫn còn cảm thấy xúc động, ngậm ngùi trước những giây phút linh thiêng của đất trời quê hương. Phải chăng Tổ tiên chúng ta đã truyền đạt cho con cháu cái tư duy: Vạn vật đồng nhất thê, để chúng ta có thể hóa ra mênh mông mà hòa mìmh vào vũ trụ. Từ ngàn xưa, cuộc sống của tiền nhân chúng ta gắn liền với ruộng đồng nông canh, suốt cả cuộc đời luôn đứng giữa đất trời, thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá. Do đó lòng yêu cây, yêu hoa của chúng ta cũng dễ hiêu. Nhưng trong hằng hà sa số các loại cây các danh sĩ chỉ cảm thấy một vài loại có vẻ đẹp đặc biệt bởi cái thế và đường nét của chúng. Chính nhờ vào những đương nét nghệ thuật độc đáo đó mà các danh sĩ đã nói lên đươc cái u tình ẩn kín của nội tâm mà ngôn ngư của giới nhị nguyên không đủ khả năng để diễn đạt. Nhờ sự chọn lựa, gạn lọc một cách tế vi và sâu sắc mà các ngài đã tạo nên đươc những ấn tượng thâm thúy, đầy ý vị trong lòng người thửơng lãm và còn đi xa hơn nữa nó dã thể hiện được một nền tảng triết lý nhân sinh của cả một dân tộc.

 Mai, lan, tùng, trúc, cúc, sen là những loài hoa đã làm tốn biết bao nhiêu giấy mực và cũng đã để lại cho đời những những áng văn chương bất hủ, những bức họa tuyệt vời. Nhưng đẹp cũng có nhiều vẻ : có cái đẹp nhu hòa, có cái đẹp thanh nhã, có cái đẹp hùng vĩ, có cái đẹp trang nghiêm, có cái đẹp kỳ bí, có cái đẹp cổ kính, có cái đẹp mông lung diệu vợi. Chính vì có dáng đẹp kỳ vĩ cổ kính mà cây tùng được ví như một cao nhân ẩn sĩ. Chính vì có lá mảnh mai, mềm mại. vẻ đẹp của nó ôn hòa, tưoi vui ngay thẳng mà trúc được yêu mến. Trúc càng gầy nhỏ càng xinh, càng thưa thớt càng đẹp

 Còn Mai thì sao? Ồ mai hả: Loài mai đã đươc thi nhân, mặc khách ưa chuộng bởi cái vẻ lãng mạng, cái hương thơm nhẹ nhàng thanh tịnh.. Hương của mai trời càng lạnh càng thơm, nên còn đươc gọi bằng một cái tên rất lạnh lùng, rất cao ngạo Lãnh Hương ( hương lạnh ). Mai và lan đươc tượng trưng cho cao kiết, u tĩnh.

 Tùng, trúc, mai là tam kiệt của mùa đông, riêng mai hơn tùng và trúc bởi có hương và sắc, nên đã chiếm một địa vị khá quan trọng trong nền vân học nghệ thuât cổ xưa. Nhân dịp xuân về chúng ta tảng mạn vào vườn thi ca của cổ nhân để xem Mai được tôn quý như thế nào, và tìm hiểu xem loài mai này có dính dáng gì tới mai vàng (hoàng mai ) của chúng ta hay không.

  Thi sĩ ẩn dật Lâm Hòa Tĩnh tự Quân Phục đòi Tống ( 967- 1028 ) quê tại Cô Sơn Hàng Châu ông là người không vợ con nên thường tự diễu mình: cưói mai làm vợ, nuôi hạc làm con. Ông đã để lai cho đời bài thơ trong đó có hai câu tả về mai dã được thi sĩ đồng thời Âu Dương Tu hết lòng khen ngợi :.

 Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển

 Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn

 Xin tạm dich :

 Trong giòng nước cạn bóng mai

 Tà huy dưới nguyệt hương bay dịu dàng

Tôi còn nhớ được hai câu thơ sau đây vịnh về mai rất tuyệt vời nhưng không nhớ tên tác giả:

 Nhất chi xung phá song tiền nguyệt

 Bất đáo La Phù mộng diệc hương

Tạm dịch :

 Song trăng một nhánh mai gầy

 La phù chưa tới hương bay mộng về

La Phú là danh sơn thắng cảnh thuộc tỉnh Quảng Đông, tương truyền rằng nhà đạo sĩ Gia Cát Hồng đã luyện đan theo thuật trường sinh bất tử và đã thành tiên ở đây, nhưng theo một số sách vở thì cho rằng ông đã chết vì bị ngộ độc bởi chính những viên thuốc do ông chể luyện

 Mai xuất hiện trong thi ca Việt Nam từ khi nào? đây là một câu hỏi lớn,mà phần trả lời xin dành cho các bậc thức giả. Trong tinh thần của bài viết này theo thiển kiến của tôi thì bài thơ vịnh về mai đầu tiên là bài thơ của thiền sư Mẩn Giác (1051-1096) đời Lý

 Xuân đi trăn hoa rụng

 Xuân tới, trăn hoa tươi

 Trước mắt việc đời ruổi

 Trên đầu, già đến rồi

 Chớ bảo xuân tàn hoa rụng cả

 Đêm qua sân trươc nở nhành mai

Hai thế kỷ sau thiền sư pháp hiệu Huyền Quang, ông là tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời nhà Trần đã tôn vinh mai lên hàng ngự sử

Ngự sử mai hai hàng chầu ráp

 Trượng phu tùng mây rặng phò quang

Còn văn hào Nguyễn Du trong chiếc dĩa cổ cuả triều Nguyễn,hiện tại còn tưng bày tai Huế đã hạ bút :

 Nghêu ngao vui thú yên hà

 Mai là bạn cũ, hạc là người quen

Trong Nguyệt lệnh quãng nghiã, đã goi cái hinh tượng ước lệ của Mai, Tung. Cúc là đông thiên tam hữu, hoăc đông xuân tam hữu. Đây là một đề tài lớn có môt vị trí thật đặc biệt trong nền thi ca cổ điên của Đông Phương và của Việt nam. Nói như vậy theo thiên kiến của tôi vẫn chưa đủ, vì khi nói tới tùng, ve về tùng chúng ta luôn luôn thấy bên cạnh có núi, đá, hạc. Với mai, trong những bài cổ thi hoặc những bức tranh cổ thủy mạc được vẽ, chỉ một nhánh trong cái thế chênh vênh nửa vời, trên ấy có loài chim chu tước ( Chim sẻ) hoăc nếu không có chim tước thí phía dưói luôn luôn có đôi hạc.  Ngoài bộ tam hữu nói trên mai còn đươc kết hợp với lan, trúc, cúc để tạo nên bộ tứ quý biểu tượng cho bốn mua xuân, hạ, thu, đông.

 Thật ra mai trong thơ cổ và hội họa của Trung hoa và Việt Nam là cây mai mơ (apricot) thuộc họ mận đào (Prunus) thường mọc hoang hay đươc trồng thành vườn tại các miền hàn đới hoặc ôn đới để lấy trái. Người Trung hoa hái mơ khi vứa mới chín đem ứơp muối sấy khô để làm ô mai (síu muội). Người Nhật dùng những quả già muối chua và bỏ vào các lọ nhỏ để con em họ mang đi học cho các bữa cơm trưa. Tai Hoa kỳ quả mơ đươc bán ra thị trường khi thật chín. Ở Việt Nam quả mơ được bày bán tưng mẹt tai chùa Hương. Hoa mai luôn nở vào thời kỳ cuối đông khi trời còn giá lạnh và đôi khi còn tuyết. Với đặc tinh như vậy nên đã được tặng thêm danh hiệu Bách hoa khôi (hoa nở sớm nhất). Tại nước ta loài mai mơ này được trồng nhiều trên vùng Thượng du và Trung du Băc Viêt. Do đó trong thơ, văn, nhạc của chúng ta khi nói tới cảnh Chùa Hương thì hình ảnh cây mai mơ luôn được nhắc nhở. Chung ta có một bài hát thời tiền chiên Cô Hái Mợ, mà khi nghe ca sĩ Vũ Khanh trình bày bài này với một giọng ca đầy truyền cảm chung ta như lạc vào một cảnh giới thật thanh binh, nên thơ.

 Rồi giòng lịch sữ đã đổi thay, khi nền văn học Tây phương ảnh hưỏng sâu đâm trong tầng lớp trí thức trẻ của Việt Nam. Các nhà thơ lãng mạng thời tiền chiến như : Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Vũ Hoang Chương v. v. trong thi ca của họ không có một vị trí quan trong nào cho hoa mai. Mãi cho tới thập niên bảy mươi chúng ta thẩy xuất hiện tập thơ Đông Hoa Vàng của thiền sư Phạm thiên Thư, trong ấy lối dùng chữ và bút pháp của ông trong thể thơ lục bát thật mới lạ:

 Rằng xưa có gã từ quan

 Lên non tìm động hoa vàng ngủ say

.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

.. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

 Hỏi con vạc đậu bờ kinh

 Cớ sao lận đận cái hình không hư

 Vạc rằng: thưa bác Thiên Thư

 Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ

Trong tập thơ này tác giả nhắc tới Mai khá nhiều lần, nhưng hoa mai ở đây đóng một vai trò khác, đó là cái đẹp, cái ngậm ngùi xa vắng của môt thứ tình sầu muôn thủa dành cho một bóng dáng thật xa xôi nhưng cũng thật gần gũi:

 Sao em bước nhỏ ngập ngừng

 Bên cầu sương rụng mấy tầng mai mơ.

Hay:

 Gầy em vóc cỏ mây dời

 Tóc em mai nhỏ, chân trời tuyết pha

Ta nhân thấy Mai và tuyết trong bốn câu thơ trên của Pham thiên Thư nó không còn mang cái ước lệ của cổ nhân, mà đó là những bước chân ngập ngừng sương khói của người tình đang đi vào Động Hoa Vàng của ông. Qua những vần thơ kế tiếp ông đã để lại trong tâm tưởng chúng ta cái hương vị chơi vơi, xa lắng nhưng lãng mạng đến lạnh ngưòi khi nhắc tới mai, đào :

 Mai ta chết dưới cội đào

 Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu

Hay :

 Sao em bước nhỏ ngập ngừng

 Bên cầu sương rụng mấy tầng mai mơ

 Đêm về thắp nến làm thơ

 Tiếng chân còn vọng nữa tờ thơ tôi

Hoặc :,

 Mùa xuân bỏ vào suối chơi

 Nghe chim hót núi, gọi trời xuống hoa

 Múc bình nươc mát về pha

 Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa.

Mấy tầng mai mơ, Ghé thôn mai nọ, Đông hoa vàng, những nơi, những chốn ấy ở đâu? Có phải chăng đó là chốn đi và về của một thứ tình hư ảo mông lung của những nỗi buồn muôn thủa mà thi nhân muốn tìm tới

 Mai nào thơm ngát thu đông

 Lược em chải rụng đôi dòng thơ xanh

Chính vì nỗi vấn vương lạ lùng ấy của kiếp nhân sinh mà chung ta thấy:

 Mùa xuân mặc lá trên ngàn

 Mùa thu mặc chú bướm vàng tương tư

 Động nam hoa cỏ thiền sư

 Đổi kinh lấy rượu tâm hư uống khàn

Mai ở đây là mai của một thứ tình yêu mông lung van kỷ.

 Cách nay khoảng hai năm,một người bạn gởi cho tôi tập thơ Gối Gốc Mai của nhà thơ Vô Nga,ý trong phần đầu của tập thơ tác giả ý đưa ta vào cảnh giới vô thường. Mai ở đây là Mai của thiền vị, của bát nhã tâm kinh, ta hãy lăng nghe ông viết :

Kiêp xưa làm mây trôi

Ngàn năm về động biết

Suốt đời làm hoa tuyêt

Nở trắng cành mai khôi

Rồi ông lại dẫn đưa ta tới bờ kinh vi diêu đầy tình thương của những đóa hoa đại từ :

Từ đấy ngàn năm vách lắng tai

Lơi kinh vi diệu thấm linh đài

Tinh thương tưng giọt, rơi trên đá

Thành đóa hoa Từ năm cánh mai

Và cuối cùng con người Vô Ngã ấy muốn xa lánh những ưu phiền tục lụy của cuộc đời để tìm về cõi hư không tịnh tịch :

Hoa bướm ngàn năm sương khói bay

Ngàn năm gió bãi lạnh trăng gầy

Ngàn năm suối biếc xôn xao vọng

Ta vẫn ngàn năm gối gốc mai.

 Ôi cái gốc mai kia, ngày nay ngươi không còn là cái đẹp của cổ nhân, không còn là cái tình lãng mạng nhẹ tênh xa vắng của Thiền sư họ Phạm, mà là cõi vô ưu, chốn tịnh tịch củả giác ngộ mà ngàn đời kẻ hành giả muốn tìm về để an trú trong những lúc nhập đại định

 Khi người Mãn Châu (nhà Thanh) thống trị toàn cõi Trung hoa (1644-1911), chám dứt thơi đại vàng son của triều đại nhà Minh. Một số người Hoa không chịu sống dưới ách thống trị của ngoại tộc nên đã rời bỏ quê cha đất tổ đến lập nghiệp tai miền nam Việt Nam trong đó có dòng họ Mạc mà chung ta thường gọi là người Mimh Hương. Tại vùng đất mới họ đã gặp một loại cây có hoa trăng, hương thơm, giống như loài mai trên quê hương mình, nên đả gọi nó là Nam mai. Thực ra đây là giống cây mù u có tên khoa học Ochrocarpus siamensis. Chính cây mai này đã gây nguồn cảm hứng cho các nhà thơ Minh Hương Trịnh Hoái Đức (1725-1825) lập nên thi đàn Đông Mai Đình. Cũng chinh cây Bạch mai (mù u) này mà những nhà thơ vang bóng một thời của Miền Nam Việt Nam như Phan văn Trị,Tôn thọ Tường, Huỳnh mẫn Đạt, Nguyễn Thông đã khai sáng Thi Xã Bạch Mai

 Qua những đặc điểm về khí hậu, thổ ngơi, màu sắc, hương thơm chúng ta biết chắc rằng hai loại mai nói trên không phải là mai vàng (hoàng mai) mà người Việt chúng ta thường trưng trong những ngày tết.

  Theo giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong cuốn cây cỏ Việt Nam thì mai vàng thuôc họ mai có tên khoa hoc Ochna integerrima (huỳnh mai) Champax, cây tiểu mộc hay đại mộc nhỏ, lá có phiên bầu duc dài, không lông, bìa lá có răng thấp,cuông từ 4-7mm. Hoa có cọng dài, lá đài có năn cánh màu xanh, cánh hoa thường năm cánh hoặc mười cánh nếu là hoa kép, hoa màu vàng tươi, dễ rụng. Quả mọc trên đế hoa,có nhân cứng, chỉ có một hột,vỏ đắng bổ dưỡng tiêu hóa, thương trồng để lấy hoa. Hoa trổ 15 ngày sau khi trảy lá. Mai thường mọc ở rừng còi từ Quang Trị trở vào.

Qua sự trình bày trên của giáo sư Phạm. H. Hộ, chúng ta có thể khẳng đinh được loài mai vàng OCHNA INTEGẺRRIMA này thuộc đặc sản của miền nam Việt Nam, không liên quan gì tới loài mai được các tiền nhân ca tụng trong cổ thi hoặc vẽ trong tranh thủy mạc

Khi xét về địa vị mai vàng trong nền văn học miền nam Việt Nam cho tới nay,theo thiển kiến của tôi ( cũng có thể vì kiến thức hẹp hòi ít đoc sánh nên chưa biết cũng nên) chúng ta chưa có được bài thơ, bai văn tuyệt bút nàó nói về mai để mãi mãi con lưu lai trong tâm hồn chúng ta những cảm xúc tyuệt vời như loài mai mơ trong Đường thi. Chúng ta chỉ thấy cành mai vàng xuất hiện trên các cánh thiệp xuân với tràng pháo đỏ treo lủng lẳng, hoăc với hinh bóng một vài thiếu nữ xuân thì trong những chiếc ao dài quyện bay trong gió. Mai ở đây nó biểu tựng cho mùa xuân, cho sự vui tươi và đôi khi cho sự hên xui của người chơi hoa. Nó không còn cái nét lãng mạng, quyến rủ của trăng gió giữa đất trời thiên nhiên. Măc dù vậy đối với ngưới miền nam Việt Nam chúng ta vào những ngày tết chạp luôn mong ước có một cành mai cắm trong nhà, thiếu vắng nó phải có cúc, vạn thọ, thược dược thay vào.

 Là người chiến sĩ VNCH chùng ta ai cũng thuộc câu : Nếu mai không nở anh đâu biết Xuân về hay chưa, trong bài Đồn vắng chiều Xuân của Trần thiện Thanh. Mai ở đây gợi trong tâm hồn người lính tiền đồn cái không khí ấm cúng, đoàn tu của gia đình. Cái nét u nhã, dịu dàng của màu hoa vàng đã nhường chổ cho nỗi buồn trống vắng của người trai thời chinh chiến khi xuân về nơi địa đầu giới tuyến

 Trong cuộc sông tỵ nạn, người Việt chúng ta đã bỏ lại tất cả nơi quê hương nên luôn có khuynh hướng đi tìm những cái tương tự để bù đáp. Tâm trạng này chẳng khác chi người Minh Hương trước kia,khi nhìn thấy cây mù u tai miền đất mới họ liên tưởng ngay tới cây Mai nơi quê nhà. Do lòng trắc ẩn đó mà họ gọi cây mù u xa lạ này là Nam mai. Ngày nay sông trên vùng đất tạm dung, chúng ta có một loài mai mà người Việt rất ưa thích nguồn gốc tai quốc gia Nam Phi (South Africa) có tên khoa học Ochna atropurpurea. Loài mai này giông như mai Việt Nam cũng thuộc loại tiểu mộc, trổ hoa vàng rực rỡ, hoa có năm cánh và nhiều tiểu nhị, nhưng lại có những đăc tính dị biệt như : hoa không nở rộ nhưng nở lẻ tẻ quanh name, nên được người Việt chúng ta gọi là Mai Tứ Quý. Đăc tinh này sẽ thay đổi khi được trồng tại các vùng lạnh như Bắc Cali chẳng hạn. Chúng chỉ cho bông từ mùa Xuân tới hết cuối hạ. Hoa cho hương thơm nhẹ, cánh hoa sau khi nở khỏang 5-7 ngày thì rụng, từ lúc đó đài hoa từ màu xanh ( green) từ từ trở nên đỏ thẩm nên còn được gọi thêm một tên Mai đỏ. Quả khi chín trở thành màu đen bóng láng. Tất cả những màu sẳc ấy kêt hợp lai đã tạo nên một loại hoa khá kỳ lạ hấp dẫn.

Để kết thúc bài viết,tôi xin kể một câu chuyên liên quan tới một đặc tính dị biệt khác khá độc đáo giữa loài mai Phi Châu và Việt Nam.

 Cách đây bốn năm, một người bạn tặng tôi một cây mai, theo lời anh đó là loại mai vàng Việt Nam chính cống. Được cây mai như bắt được vàng, tôi mừng vô kể. Cây mai đươc tôi chăm sóc, tâng tiu khá kỹ lưỡng. Qua năn sau đúng vào dịp tết cây mai trổ hoa vàng rực, đặc biệt có hương thươm nhẹ nhàng kín đáo. Rất ngạc nhiên về điều này tôi tự hỏi : Quái lạ, tại sao cây mai này hoa có hương. Theo tôi biết là mai vàng Việt Nam không có hương, ngoại trừ một loại mai nào đó ở Huế cũng có hương theo như một người quen cho biết và rất ít người biết tới.

Rồi một hôm vào một ngày trước tết hay sau tết gi đó không nhớ rỏ, tôi ghé qua nhà anh chi Khánh Kỳ để thăm anh chị và xem cây cối vì chúng tôi mới quen nhau bởi cái duyên nợ yêù Bonsai. Khi vừa bươc tới ngương cửa, một cây mai cao quá đầu đầy hoa vàng đứng sừng sựng trươc mặc tôi. Tôi trợn tròn đôi mắt, đầy thich thú vì cây mai của anh chi Khánh lớn gấp ba cây mai của tôi và chu choa ơi! hoa ơi là hoa. Trước sự trầm trồ và khen ngợi của tôi anh Khánh phát biểu một câu xanh rờn rằng: Đây cũng là một loại mai, nhưng là mai chỉ địa đâu có quý hóa gì anh. Tôi ngạc nhiên đến sững sờ hỏi anh : Tại sao anh gọi nó là mai chỉ địạ. Anh nhìn tôi một cách bí hiểm cười thích thú rồi giải thích với một giọng nịch: Anh không nhìn thấy tất cả những cánh hoa đều quay mặt xuống đất sao? ! Anh giải thích thêm: Mai V iệt Nam là mai hướng thiên vì hoa từng chùm và khi nở luôn hương thẳng lên trờiọ. Sau khi nghe anh lý giải tôi phải công nhân anh có một nhận xét khá tinh vi, và thực sự đây là một nét dị biệt khá quan trọng giữa hai loại mai

 Tối hôm đó khi ngồi trươc cây mai nhà mình, tôi thấy hoa của nó cũng chúc xuống (hương địa)giống như cây mai của anh chị Khánh, rồi tôi âm thàm tự hỏi : Phải chăng vi lòng hoài niệm quê hương, vì lòng ái quốc hơi cực đoan của mỗi con người chúng ta mà một cây mai có thể trở thành qúy, tiện?. Giả sử ( Tôi giả sử thôi nhé) nếu có một ngày nào đỏ chúng ta đem một cây mai Việt Nam tăng cho một anh chàng người Nam Phi nào đó, tôi nghĩ chắc anh bạn Nam Phi yêu quý của chúng tá sẽ bảo rằng: Cây mai này không thể so sánh được với cây mai tai quê hương mình đâu ! Mai gì mà hoa chẳng có hương, cũng không cho mình cái màu đỏ tuyệt vời của đài hoa và chỉ nở có một mùa, thua xa loại mai của nước mình chúng no nở quanh năm. Ôi cũng một cây mai mà sự quý tiện không nằm ở tự thân nhưng lại tùy thuôc vào lòng trắc ẩn của con người.

 Vâng đúng vậy đo, vì chung ta là một sinh vật đầy mâu thuẫn và đầy nhân tính. Chúng ta được sinh ra,được nuôi dưỡng, ấp ủ và lớn lên trong sự nuông chiều,bao bọc bởi rất nhiều thứ tình yêu, nào là tình gia đình, tình bạn bè, tình yêu tổ quốc, nên mọi cảm nhận và và suy tưởng đều bị chi phối bởi cảm tính. Do đó đâm ra thiên vị,một chiều thì cũng chẳng có gì là lạ và đáng trách cả, mà đôi khi còn trở nên đáng yêu, đáng mến và đáng hoan hô nữa chứ.

Phải vậy không anh Khánh?./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Cây cỏ VN của Pham h Hộ

- Sunset Western Garden 1998

The plan book. Cảmbidge Unv

- The Newyork botanical garden

- The Importance of Living của Lâm Ngữ Đường

- Động Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư

- Gối gốc Mai của Vô Ngã

 Xin chân thành cám ơn anh Lê D Khiết đã cho phép dược tham khảo tài liẹu tai Bộ canh nông Cali./.

 

VỀ NẺO TRĂNG XƯA

 Từng bưóc chân êm đềm

 Em đi trên cỏ mềm

 Ta ngồi dưới trăng thiền

 Động nổi sầu hoa nghiêm

Em - Từ cõi vô thường

Hóa thân gỗ trầm hương

Ta- Con thuyền vô lưọng

Chở về nẻo trăng xưa

Xuân khai nở mận đào

Em - khe suối ngọt ngào

Ta nằm trên phiến đá

Quanh nỗi sầu lênh đênh

Em - Mùa thu thiên cổ

Tóc óng mượt vai ngà

Ta - Ôm sầu đại ngã

Chống gậy vào thiên thu.

 Th N Văn Lang

Nguyễn Ngọc Danh