Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa Kitô
Đnl 8,2-3.14b-16a ; I Cr 10,16-17 ; Ga 6,51-58
Ăn bánh Thánh Thể sẽ được sống muôn đời
I. Học Lời Chúa
1. Tin Mừng: Ga 6,51-58
(51) “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?”. (53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời”. (59) Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um.
2. Ý chính:
Tin Mừng lễ Mình Máu Chúa hôm nay gồm mấy điểm chính như sau:
Đức Giê-su tự nhận là Bánh Hằng Sống. Ai ăn vào thì sẽ được sống muôn đời (51). Bánh đó là Thịt Mình của Người (51). Khi người Do thái thắc mắc, thì Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (52). Ngay từ bây giờ họ đã được kết hiệp với Người (56) và được sống nhờ Người (57). Khác với bánh man-na mà tổ tiên họ xưa đã ăn mà vẫn bị chết, còn ai ăn Bánh Thánh Thể Đức Giê-su ban cho, sẽ được sống muôn đời (58).
3. Chú thích:
- C 51-52: + Bánh Hằng Sống: Đức Giê-su là sự sống và ánh sáng của Thiên Chúa (x. Ga 1,4), được ban cho loài người dưới hình dạng tấm bánh có thể ăn được. Bánh này chứa đựng sức sống thiêng liêng vĩnh cửu, và những ai ăn thì sẽ nhận được sự sống ấy. + Từ trời xuống: Đức Giê-su từ Chúa Cha mà đến (x. Ga 6,46; 16,28). + Bánh tôi sẽ ban tặng: Bánh Thánh Thể Người sẽ lập trong bữa Tiệc Ly sau này (x. Lc 22,19-20). + Chính là Thịt tôi đây: Bánh Hằng Sống được đồng hóa với Thịt của Đức Giê-su. Từ ngữ “thịt” trong tiếng Hy lạp là sarx, ám chỉ thịt của người sống, bao gồm cả hồn xác (x. Ga 1,14). + Để cho thế gian được sống: Hiệu quả của Bánh Thánh Thể là thông ban cho những ai lãnh nhận sẽ được sự sống thiêng liêng, mà Đức Giê-su đã chuộc lại bằng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Người Do thái liền tranh luận với nhau: Làm sao ông này cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?: Họ thắc mắc vì đã hiểu thịt đó là thân xác của Đức Giê-su hiện tại, người đang hiện diện ở giữa họ, trong khi Đức Giê-su nói về Thịt của Người dưới hình tấm bánh dùng trong bữa tiệc Vượt Qua. Bánh ấy sau lời truyền phép sẽ hóa thành Thịt của Đức Giê-su tử nạn và phục sinh (x. 1 Cr 11,23-26). Thịt trong bí tích Thánh Thể này mới thực là Bánh mà Người sẽ ban để cho thế gian được sống.
- C 53-54: + Thật, tôi bảo thật các ông: Đức Giê-su không cải chính khi người Do thái hiểu lầm lời Người theo nghĩa đen, mà Người càng nhấn mạnh hơn khi quả quyết: “Thật, tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người…: Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể là một điều kiện không thể thiếu để được sống đời đời. Nếu họ không ăn uống Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể, thì họ sẽ không nhận được sự sống đời đời do Người chuộc lại nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh. + Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời: Đây là kiểu nói khác lặp lại tư tưởng trên. + Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết: Hiệu quả của việc ăn Thịt và uống Máu Chúa khi lên rước lễ là sẽ được Chúa Phục Sinh ban sự sống siêu nhiên, làm cho họ được sống lại trong ngày tận thế.
- C 55-56: + Vì Thịt Tôi: Chúa Giê-su nhấn mạnh Thịt và Máu Người thật là lương thực để ăn uống, và thông ban sự sống muôn đời. Qua bí tích Thánh Thể, người ta sẽ được nghe Lời Người để có đức tin, sẽ được ăn Thịt uống Máu Người để được nuôi dưỡng đức tin. Nhờ đức tin này họ sẽ có sự sống đời đời. + “Ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”: Câu này nói lên sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Giê-su Thánh Thể với người rước lễ. Sự kết hiệp này giống như sự kết hiệp giữa hai người bạn tâm giao luôn nghĩ đến nhau và sống vì nhau.
- C 57-59: + Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi…: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai xuống thế gian. Người sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì Người cũng ban cho những ai rước Mình Máu Người được tham phần sự sống siêu nhiên như vậy. + Thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy: Sự sống siêu nhiên ấy phát xuất từ Chúa Cha, qua Chúa Giê-su, xuống tới người tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Thể. + Đây là Bánh từ trời xuống…: Sự sống ban cho kẻ rước lễ là sự sống đời đời phát xuất từ Thiên Chúa, khác hẳn sự sống thể xác do man-na. Man-na là bánh từ trên không trung rơi xuống, nên dân Do thái thời Mô-sê, dù đã ăn man-na suốt trong thời gian Xuất Hành 40 măm trong hoang địa, nhưng vẫn phải chết. + Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Đây là câu tóm lược bài giảng về Bánh Hằng Sống. Chúa Giê-su tự ví là Bánh từ trời mà xuống. Người mang lại sự sống thiêng liêng cho loài người đang phải chết vì phạm tội, nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Hội đường ở Ca-phác-na-um: Nơi Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống là một hội đường Do thái ở thành Ca-phác-na-um gần biển hồ Ga-li-lê, nơi Đức có trụ sở truyền giáo của Đức Giê-su (x Ga 6,1).
4. Hỏi đáp :
- Hỏi 1: Tại sao người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Đức Giê-su và họ đã tranh luận với nhau điều gì? Tại sao ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại với Đức Giê-su? Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như thế nào?
Đáp:
+ Sở dĩ người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Người nữa (x. Ga 6,66), vì đã hiểu lời Đức Giê-su dạy về việc ăn Bánh Thánh Thể theo nghĩa đen, nghĩa là ăn Thịt Máu của Người, giống như ăn thịt các con chiên, bò, gà… Do đó, họ đã tranh cãi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?”. Cũng như các thân nhân Đức Giê-su ở Na-da-rét có lần đã coi Người bị mất trí (x. Mc 3,21), thì ở đây các đầu mục dân Do thái cũng coi lời Đức Giê-su thật chói tai và không thể chấp nhận được (x. Ga 6,52). Tuy nhiên, thay vì cải chính, Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh về điều này hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình… Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống” (Ga 6,53.55). Nghe vậy, một số môn đệ đã hiểu rõ Đức Giê-su nói về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi vì không tin lời Người.
+ Riêng Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại, sau khi nghe giảng về Bánh Hằng Sống, vì các ông đã tin Người là Đấng Thiên Sai và Lời Người là sự thật, dù bây giờ chưa hiểu rõ tại sao. Khi được Thầy hỏi, Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết Thầy chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Hỏi 2: Luật Mô-sê cấm dân Do thái không được ăn máu và thịt thú chưa cắt tiết (x. Lv 19,26), và nghị quyết của Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 cũng yêu cầu các Ki-tô hữu gốc dân ngoại “phải kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết và ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (x. Cv 15,29). Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại cho phép các tín hữu ăn tiết canh là món ăn máu đông ?
Đáp:
Thời Mô-sê, người ta tin rằng: Máu là sinh khí tụ lại, nên chỉ dành riêng để tế lễ dâng cho Thiên Chúa trong ngày lễ Xá Tội. Vì Chúa chính là chủ tể của sự sống (x. Lv 17,11). Đàng khác, tục uống máu các con vật được sát tế dâng cho thần linh, vẫn có trong nghi lễ tôn giáo của dân ngoại, nên Luật Mô-sê cấm dân Ít-ra-en uống máu và ăn thịt thú chưa cắt tiết giống như dân ngoại (x. Lv 19,26).
Ngày nay Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn tiết canh hay thịt thú vật chưa cắt tiết, vì Luật Mô-sê đã được Đức Giê-su kiện toàn (x. Mt 5,17), khi truyền cho các tín hữu “ăn Thịt và uống Máu của Người” (x. Mt 26,26-28).
Còn về việc Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 ra nghị quyết không buộc lương dân theo đạo phải chịu phép Cắt Bì theo luật Mô-sê, mà chỉ yêu cầu họ “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Thực ra những yêu cầu không ăn tiết này không phải vì lý do đức tin mà chỉ là một phương thế để bảo vệ sự hiệp nhất nội bộ của cộng đoàn Hội Thánh, bấy giờ gồm các tín hữu gốc Do Thái và gốc lương dân hiệp nhất và ăn uống chung mâm bàn với nhau, như lời ông Gia-cô-bê đã phát biểu: “Phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và kiêng ăn tiết, Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Mô-sê, đều có những người rao giảng: Họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày Sa-bát” (Cv 15,21). Ngày nay do không còn nguy cơ phân hóa giữa các tín hữu gốc Do thái và gốc lương dân như thời sơ khai, nên Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn thịt và uống máu huyết thú vật theo Luật Mô-sê nữa.
II. Sống Lời Chúa
1. Lời Chúa : “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
2. Câu chuyện :
1) Chiếc nhẫn - kỷ vật của tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, người chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói thân thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng làm về nhà. Anh bị cảm nặng phải nằm liệt giường nhiều ngày và trong thời gian này anh đã được chị vợ tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện và được bác sĩ chẩn đoán bị sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày thêm trầm trọng. Sau đó, bệnh viện kết luận anh đã bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô phương cứu chữa. Khi sắp chết, anh chồng đã cầm tay vợ và thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ chồng mình đã tặng cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an lành hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã làm trong thánh lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp từ giã cuộc đời.
2) Cậu bé Már-xen-li-nô sẵn sàng chết để được gặp mẹ đã qua đời :
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về một cậu bé tên là MAR-XEL-LI-NO. Mẹ cậu đã chết đang khi sinh cậu, và do không còn người thân nên cậu đã bị người ta mang đến đặt trước cửa một tu viện, và cậu đã được các tu sĩ nhận nuôi dưỡng.
Cậu bé vốn tính hiếu động, nên thày đầu bếp đã cấm cậu không được leo trèo hoặc lai vãng đến những nơi không được thầy cho phép. Nhưng vì tính tò mò, một ngày kia Marcellino đã lén leo lên gác lẽ ra cậu không được vào. Cậu rất ngạc nhiên nhìn thấy một người khổng lồ đang bị treo trên cây thập giá. Cho rằng người ấy đang bị đói, nên đêm hôm ấy Marcellino lén vào bếp trộm mấy chiếc bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đã đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười cám ơn cậu. Từ đó, ngày nào cậu cũng lén mang bánh lên cho người ấy. Người này không ai khác hơn chính là Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một hôm, Người đã âu yếm ôm cậu bé và hỏi:
- Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
- Con muốn được gặp mẹ ruột của con.
Chúa liền nói với cậu:
- Con sẽ được gặp mẹ con sớm nếu con bằng lòng chết đi.
Hôm sau các tu sĩ đã tìm thấy cậu bé nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giê-su trên cây thập giá. Chính vì yêu mẹ và muốn sớm được gặp mẹ, mà Marcellino đã sẵn sàng chịu chết.
Đức Giêsu cũng vì yêu thương loài người chúng ta nên đã sẵn lòng chịu chết để chúng ta được sống. Người còn lập bí tích Thánh Thể để được ở mãi với loài người chúng ta, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, hầu ai đón nhận Người sẽ được sống muôn đời như Người đã hứa: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
3. Suy niệm :
Hơn hai ngàn năm trước đây, Chúa Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong sự cảm thông và hiệp nhất yêu thương như Tin Mừng Gio-an viết: Ý thức rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn, để lại cho Hội Thánh dấu chỉ của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh Người dưới hình bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ sự sống đời đời.
1) Bí tích Thánh Thể - Bữa Tiệc Thánh yêu thương :
Tin Mừng cho thấy việc chuẩn bị thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể của Đức Giê-su đều diễn ra trong khung cảnh bữa ăn yêu thương như sau:
- Bữa tiệc cưới tại thành Ca-na: Trong tiệc cưới này, Đức Giê-su đã thể hiện tình thương đối với đôi tân hôn, khi nể lời Đức Ma-ri-a cầu bầu, Người đã làm phép lạ biến nước lã trở thành rượu ngon giúp đôi tân hôn, và củng cố đức tin của các môn đệ mới đi theo Người.
- Bữa ăn cho đám đông nơi hoang địa: Cảm thông với đám đông dân chúng bị đói khi theo Người vào hoang địa nghe giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no và còn dư mười hai giỏ đầy bánh còn lại (x. Mt 14,14-21). Sau đó, Đức Giê-su đã giảng về bí tích Thánh Thể để ban thịt máu mình làm của ăn của uống hầu mang lại sự sống đời đời cho các tín hữu: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ có sự sống đời đời. Và Tôi, Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày tận thế” (Ga 6,55-56).
- Bữa Tiệc Ly chiều thứ Năm Tuần Thánh: Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến cùng nên Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, trước khi từ biệt các ông để chịu khổ nạn như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy’. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’ (Mt 26,26-28).
- Bữa tối của hai môn đệ làng Em-mau: Chúa Phục Sinh dưới dáng vẻ như một khách bộ hành đi chung đường với hai môn đệ đang trong tâm trạng chán nản thất vọng. Người đã dùng Lời Kinh Thánh để cho các ông hiểu về ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Đấng Thiên Sai. Rồi “khi ngồi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,30-31). Chính trong khung cảnh bữa ăn yêu thương kèm theo cử chỉ và lời đọc Người đã từng làm, khiến mắt hai môn đệ mở ra và nhận biết người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã từ cõi chết sống lại.
2) Tin hay không tin mầu nhiệm trong Bí tích Thánh Thể:
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, mặc dù biết đám đông đang xầm xì phản đối, vì cho rằng đây là một điều vô lý không thể chấp nhận, nhưng Đức Giê-su vẫn cương quyết khẳng định thêm về mầu nhiệm này (x. Ga 6,60). Về phần các môn đệ sau khi hiểu Đức Giê-su muốn lập bí tích Thánh Thể để biến Thịt Máu Mình làm của ăn của uống, nên đã bảo nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy Thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”. Sau đó, một số đông môn đệ đã bỏ không còn đi theo làm môn đệ Người nữa (x. Ga 6,66). Đức Giê-su cho biết: để tin vào mầu nhiệm này, đòi người ta phải được Chúa Cha ban ơn (x. Ga 6,65). Sau đó, Đức Giê-su đã hỏi nhóm 12 Tông đồ về quyết định tin hay không tin, chọn bỏ đi hay ở lại với Người. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai thưa rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Như vậy, trước mầu nhiệm này, người ta không thể cảm nghiệm bằng giác quan, mà phải nhờ ơn Thiên Chúa ban và thành tâm tin nhận.
3) Cần tham dự Bí Tích Thánh Thể với tình yêu thương hiệp nhất:
Thánh Phao-lô dạy về thái độ phải có của các tín hữu khi tham dự Bữa Tiệc Thánh Thể như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Do đó, khi đến dự lễ, chúng ta cần có tình yêu thể hiện qua thái độ cảm thông và hiệp nhất, noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ, Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
4) Tham dự Thánh Lễ thế nào cho đẹp lòng Chúa ?
- “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Cần dọn mình lên rước lễ mỗi lần tham dự thánh lễ, vì chẳng có ai đi dự tiệc mà lại không xem người khác ăn, còn mình thì không ăn uống gì ? Cũng cần kéo dài thánh lễ giữa đời thường, như Đức Cha HELDER CAMERA đã nói: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi lại gặp gỡ Đức Ki-tô nơi tha nhân. Vì tôi gặp cũng một Đức Ki-tô trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Như vậy: Hiệp nhất với Chúa Giê-su trong thánh lễ phải dẫn chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Người đang hiện thân nơi những người đang sống bên chúng ta, nhất là những người nghèo đói bệnh tật và bất hạnh (x.Mt 25).
- Hiệp nhất với Chúa Giê-su Thánh Thể cũng đòi hiệp thông với tha nhân, đòi chúng ta noi gương Chúa quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân, làm cho tha nhân được hạnh phúc.
- Một khi được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ ý thức bổn phận chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói, tích cực góp phần cải thiện xã hội là gia đình, khu xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” được sách Khải Huyền tiên báo: Bấy giờ “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
4. Thảo luận : Để đáp lại tình yêu tột cùng của Đức Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu chúng ta cần dự lễ hay dự các giờ chầu Thánh Thể như thế nào… ?
5.Cầu nguyện:
- Lạy Chúa Giêsu, Con muốn ngợi ca lòng từ bi nhân hậu và đầy yêu thương của Chúa khi thiết lập bí tích Thánh Thể. Nhờ bí tích này, Chúa ban Mình Máu Chúa làm của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Cũng nhờ bí tích ấy, Chúa giúp chúng con tưởng niệm về mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa, để được sống đời đời.
- Lạy Chúa Giê-su. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa thiết lập và mời chúng con tham dự nhằm biểu lộ tình yêu thương và sự hiệp nhất cộng đoàn. Chúa muốn chúng con phải tránh thói ích kỷ và những việc làm gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã quở trách giáo đoàn Cô-rin-thô như sau: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say ! Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án !” (1 Cr 11,18-22.33-34). Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với tha nhân mỗi khi tham dự thánh lễ: Cho chúng con biết thể hiện tình bác ái huynh đệ bằng việc vào ngồi trong nhà thờ thay vì đứng ở ngoài sân; Cho chúng con biết mở miệng thưa kinh chung với cộng đoàn. Xin cho chúng con luôn biết dấn thân, sẵn sàng đi bước trước bắt chuyện làm quen với những người lạ, sẵn sàng nhường chỗ tốt cho những người già cả tật nguyền… để Thánh Lễ trở thành cơ hội giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất với Chúa và hiệp thông với tha nhân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria .- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Đnl 8,2-3.14b-16a ; I Cr 10,16-17 ; Ga 6,51-58
Ăn bánh Thánh Thể sẽ được sống muôn đời
I. Học Lời Chúa
1. Tin Mừng: Ga 6,51-58
(51) “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?”. (53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời”. (59) Đó là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um.
2. Ý chính:
Tin Mừng lễ Mình Máu Chúa hôm nay gồm mấy điểm chính như sau:
Đức Giê-su tự nhận là Bánh Hằng Sống. Ai ăn vào thì sẽ được sống muôn đời (51). Bánh đó là Thịt Mình của Người (51). Khi người Do thái thắc mắc, thì Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (52). Ngay từ bây giờ họ đã được kết hiệp với Người (56) và được sống nhờ Người (57). Khác với bánh man-na mà tổ tiên họ xưa đã ăn mà vẫn bị chết, còn ai ăn Bánh Thánh Thể Đức Giê-su ban cho, sẽ được sống muôn đời (58).
3. Chú thích:
- C 51-52: + Bánh Hằng Sống: Đức Giê-su là sự sống và ánh sáng của Thiên Chúa (x. Ga 1,4), được ban cho loài người dưới hình dạng tấm bánh có thể ăn được. Bánh này chứa đựng sức sống thiêng liêng vĩnh cửu, và những ai ăn thì sẽ nhận được sự sống ấy. + Từ trời xuống: Đức Giê-su từ Chúa Cha mà đến (x. Ga 6,46; 16,28). + Bánh tôi sẽ ban tặng: Bánh Thánh Thể Người sẽ lập trong bữa Tiệc Ly sau này (x. Lc 22,19-20). + Chính là Thịt tôi đây: Bánh Hằng Sống được đồng hóa với Thịt của Đức Giê-su. Từ ngữ “thịt” trong tiếng Hy lạp là sarx, ám chỉ thịt của người sống, bao gồm cả hồn xác (x. Ga 1,14). + Để cho thế gian được sống: Hiệu quả của Bánh Thánh Thể là thông ban cho những ai lãnh nhận sẽ được sự sống thiêng liêng, mà Đức Giê-su đã chuộc lại bằng cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Người Do thái liền tranh luận với nhau: Làm sao ông này cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?: Họ thắc mắc vì đã hiểu thịt đó là thân xác của Đức Giê-su hiện tại, người đang hiện diện ở giữa họ, trong khi Đức Giê-su nói về Thịt của Người dưới hình tấm bánh dùng trong bữa tiệc Vượt Qua. Bánh ấy sau lời truyền phép sẽ hóa thành Thịt của Đức Giê-su tử nạn và phục sinh (x. 1 Cr 11,23-26). Thịt trong bí tích Thánh Thể này mới thực là Bánh mà Người sẽ ban để cho thế gian được sống.
- C 53-54: + Thật, tôi bảo thật các ông: Đức Giê-su không cải chính khi người Do thái hiểu lầm lời Người theo nghĩa đen, mà Người càng nhấn mạnh hơn khi quả quyết: “Thật, tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người…: Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể là một điều kiện không thể thiếu để được sống đời đời. Nếu họ không ăn uống Thịt Máu Người trong bí tích Thánh Thể, thì họ sẽ không nhận được sự sống đời đời do Người chuộc lại nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh. + Ai ăn Thịt và uống Máu tôi, thì được sống muôn đời: Đây là kiểu nói khác lặp lại tư tưởng trên. + Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết: Hiệu quả của việc ăn Thịt và uống Máu Chúa khi lên rước lễ là sẽ được Chúa Phục Sinh ban sự sống siêu nhiên, làm cho họ được sống lại trong ngày tận thế.
- C 55-56: + Vì Thịt Tôi: Chúa Giê-su nhấn mạnh Thịt và Máu Người thật là lương thực để ăn uống, và thông ban sự sống muôn đời. Qua bí tích Thánh Thể, người ta sẽ được nghe Lời Người để có đức tin, sẽ được ăn Thịt uống Máu Người để được nuôi dưỡng đức tin. Nhờ đức tin này họ sẽ có sự sống đời đời. + “Ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”: Câu này nói lên sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa Giê-su Thánh Thể với người rước lễ. Sự kết hiệp này giống như sự kết hiệp giữa hai người bạn tâm giao luôn nghĩ đến nhau và sống vì nhau.
- C 57-59: + Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi…: Chúa Giê-su được Chúa Cha sai xuống thế gian. Người sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì Người cũng ban cho những ai rước Mình Máu Người được tham phần sự sống siêu nhiên như vậy. + Thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy: Sự sống siêu nhiên ấy phát xuất từ Chúa Cha, qua Chúa Giê-su, xuống tới người tín hữu đã lãnh nhận bí tích Thánh Thể. + Đây là Bánh từ trời xuống…: Sự sống ban cho kẻ rước lễ là sự sống đời đời phát xuất từ Thiên Chúa, khác hẳn sự sống thể xác do man-na. Man-na là bánh từ trên không trung rơi xuống, nên dân Do thái thời Mô-sê, dù đã ăn man-na suốt trong thời gian Xuất Hành 40 măm trong hoang địa, nhưng vẫn phải chết. + Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Đây là câu tóm lược bài giảng về Bánh Hằng Sống. Chúa Giê-su tự ví là Bánh từ trời mà xuống. Người mang lại sự sống thiêng liêng cho loài người đang phải chết vì phạm tội, nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh của Người. + Hội đường ở Ca-phác-na-um: Nơi Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống là một hội đường Do thái ở thành Ca-phác-na-um gần biển hồ Ga-li-lê, nơi Đức có trụ sở truyền giáo của Đức Giê-su (x Ga 6,1).
4. Hỏi đáp :
- Hỏi 1: Tại sao người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Đức Giê-su và họ đã tranh luận với nhau điều gì? Tại sao ông Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại với Đức Giê-su? Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như thế nào?
Đáp:
+ Sở dĩ người Do thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không đi theo Người nữa (x. Ga 6,66), vì đã hiểu lời Đức Giê-su dạy về việc ăn Bánh Thánh Thể theo nghĩa đen, nghĩa là ăn Thịt Máu của Người, giống như ăn thịt các con chiên, bò, gà… Do đó, họ đã tranh cãi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được ?”. Cũng như các thân nhân Đức Giê-su ở Na-da-rét có lần đã coi Người bị mất trí (x. Mc 3,21), thì ở đây các đầu mục dân Do thái cũng coi lời Đức Giê-su thật chói tai và không thể chấp nhận được (x. Ga 6,52). Tuy nhiên, thay vì cải chính, Đức Giê-su lại càng nhấn mạnh về điều này hơn: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình… Vì Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi thật là của uống” (Ga 6,53.55). Nghe vậy, một số môn đệ đã hiểu rõ Đức Giê-su nói về bí tích Thánh Thể và đã bỏ đi vì không tin lời Người.
+ Riêng Phê-rô và Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại, sau khi nghe giảng về Bánh Hằng Sống, vì các ông đã tin Người là Đấng Thiên Sai và Lời Người là sự thật, dù bây giờ chưa hiểu rõ tại sao. Khi được Thầy hỏi, Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin như sau: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết Thầy chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Hỏi 2: Luật Mô-sê cấm dân Do thái không được ăn máu và thịt thú chưa cắt tiết (x. Lv 19,26), và nghị quyết của Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 cũng yêu cầu các Ki-tô hữu gốc dân ngoại “phải kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết và ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm” (x. Cv 15,29). Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại cho phép các tín hữu ăn tiết canh là món ăn máu đông ?
Đáp:
Thời Mô-sê, người ta tin rằng: Máu là sinh khí tụ lại, nên chỉ dành riêng để tế lễ dâng cho Thiên Chúa trong ngày lễ Xá Tội. Vì Chúa chính là chủ tể của sự sống (x. Lv 17,11). Đàng khác, tục uống máu các con vật được sát tế dâng cho thần linh, vẫn có trong nghi lễ tôn giáo của dân ngoại, nên Luật Mô-sê cấm dân Ít-ra-en uống máu và ăn thịt thú chưa cắt tiết giống như dân ngoại (x. Lv 19,26).
Ngày nay Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn tiết canh hay thịt thú vật chưa cắt tiết, vì Luật Mô-sê đã được Đức Giê-su kiện toàn (x. Mt 5,17), khi truyền cho các tín hữu “ăn Thịt và uống Máu của Người” (x. Mt 26,26-28).
Còn về việc Công Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 ra nghị quyết không buộc lương dân theo đạo phải chịu phép Cắt Bì theo luật Mô-sê, mà chỉ yêu cầu họ “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”. Thực ra những yêu cầu không ăn tiết này không phải vì lý do đức tin mà chỉ là một phương thế để bảo vệ sự hiệp nhất nội bộ của cộng đoàn Hội Thánh, bấy giờ gồm các tín hữu gốc Do Thái và gốc lương dân hiệp nhất và ăn uống chung mâm bàn với nhau, như lời ông Gia-cô-bê đã phát biểu: “Phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và kiêng ăn tiết, Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Mô-sê, đều có những người rao giảng: Họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày Sa-bát” (Cv 15,21). Ngày nay do không còn nguy cơ phân hóa giữa các tín hữu gốc Do thái và gốc lương dân như thời sơ khai, nên Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn thịt và uống máu huyết thú vật theo Luật Mô-sê nữa.
II. Sống Lời Chúa
1. Lời Chúa : “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
2. Câu chuyện :
1) Chiếc nhẫn - kỷ vật của tình yêu.
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được hơn một năm. Trong thời gian đó họ đã sống rất hạnh phúc. Mỗi buổi sáng trước khi rời nhà đi làm, và buổi chiều khi vừa trở về ngôi nhà thân thương, người chồng không bao giờ quên trao cho vợ một cử chỉ âu yếm và một lời nói thân thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng bị trúng mưa trên đường từ xưởng làm về nhà. Anh bị cảm nặng phải nằm liệt giường nhiều ngày và trong thời gian này anh đã được chị vợ tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh được vợ mang đến bệnh viện và được bác sĩ chẩn đoán bị sưng màng phổi. Dù đã được các bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày thêm trầm trọng. Sau đó, bệnh viện kết luận anh đã bị ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba và vô phương cứu chữa. Khi sắp chết, anh chồng đã cầm tay vợ và thều thào nói: “Em yêu quí ! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được tiếp tục sống bên em nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà cách đây hơn một năm, hai vợ chồng mình đã tặng cho nhau khi kết ước trước bàn thờ Chúa. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an lành hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã làm trong thánh lễ hôn phối của hai người. Sau khi chết, anh được an táng trong một nghĩa trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào nghĩa trang. Chị đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của người chồng quá cố đã để lại cho chị khi sắp từ giã cuộc đời.
2) Cậu bé Már-xen-li-nô sẵn sàng chết để được gặp mẹ đã qua đời :
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện về một cậu bé tên là MAR-XEL-LI-NO. Mẹ cậu đã chết đang khi sinh cậu, và do không còn người thân nên cậu đã bị người ta mang đến đặt trước cửa một tu viện, và cậu đã được các tu sĩ nhận nuôi dưỡng.
Cậu bé vốn tính hiếu động, nên thày đầu bếp đã cấm cậu không được leo trèo hoặc lai vãng đến những nơi không được thầy cho phép. Nhưng vì tính tò mò, một ngày kia Marcellino đã lén leo lên gác lẽ ra cậu không được vào. Cậu rất ngạc nhiên nhìn thấy một người khổng lồ đang bị treo trên cây thập giá. Cho rằng người ấy đang bị đói, nên đêm hôm ấy Marcellino lén vào bếp trộm mấy chiếc bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đã đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười cám ơn cậu. Từ đó, ngày nào cậu cũng lén mang bánh lên cho người ấy. Người này không ai khác hơn chính là Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một hôm, Người đã âu yếm ôm cậu bé và hỏi:
- Con thích nhất điều gì trên trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
- Con muốn được gặp mẹ ruột của con.
Chúa liền nói với cậu:
- Con sẽ được gặp mẹ con sớm nếu con bằng lòng chết đi.
Hôm sau các tu sĩ đã tìm thấy cậu bé nằm chết như đang ngủ say trong vòng tay thương mến của Chúa Giê-su trên cây thập giá. Chính vì yêu mẹ và muốn sớm được gặp mẹ, mà Marcellino đã sẵn sàng chịu chết.
Đức Giêsu cũng vì yêu thương loài người chúng ta nên đã sẵn lòng chịu chết để chúng ta được sống. Người còn lập bí tích Thánh Thể để được ở mãi với loài người chúng ta, trở thành lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng ta, hầu ai đón nhận Người sẽ được sống muôn đời như Người đã hứa: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
3. Suy niệm :
Hơn hai ngàn năm trước đây, Chúa Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong sự cảm thông và hiệp nhất yêu thương như Tin Mừng Gio-an viết: Ý thức rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể trong khung cảnh một bữa ăn, để lại cho Hội Thánh dấu chỉ của một tình yêu vô cùng lớn lao là Mình Máu Thánh Người dưới hình bánh rượu, để nên của ăn của uống cho các tín hữu, hầu ban cho họ sự sống đời đời.
1) Bí tích Thánh Thể - Bữa Tiệc Thánh yêu thương :
Tin Mừng cho thấy việc chuẩn bị thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể của Đức Giê-su đều diễn ra trong khung cảnh bữa ăn yêu thương như sau:
- Bữa tiệc cưới tại thành Ca-na: Trong tiệc cưới này, Đức Giê-su đã thể hiện tình thương đối với đôi tân hôn, khi nể lời Đức Ma-ri-a cầu bầu, Người đã làm phép lạ biến nước lã trở thành rượu ngon giúp đôi tân hôn, và củng cố đức tin của các môn đệ mới đi theo Người.
- Bữa ăn cho đám đông nơi hoang địa: Cảm thông với đám đông dân chúng bị đói khi theo Người vào hoang địa nghe giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no và còn dư mười hai giỏ đầy bánh còn lại (x. Mt 14,14-21). Sau đó, Đức Giê-su đã giảng về bí tích Thánh Thể để ban thịt máu mình làm của ăn của uống hầu mang lại sự sống đời đời cho các tín hữu: “Thịt Tôi thật là của ăn, Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ có sự sống đời đời. Và Tôi, Tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày tận thế” (Ga 6,55-56).
- Bữa Tiệc Ly chiều thứ Năm Tuần Thánh: Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến cùng nên Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ, trước khi từ biệt các ông để chịu khổ nạn như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy’. Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội’ (Mt 26,26-28).
- Bữa tối của hai môn đệ làng Em-mau: Chúa Phục Sinh dưới dáng vẻ như một khách bộ hành đi chung đường với hai môn đệ đang trong tâm trạng chán nản thất vọng. Người đã dùng Lời Kinh Thánh để cho các ông hiểu về ý nghĩa cái chết và sự phục sinh của Đấng Thiên Sai. Rồi “khi ngồi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc 24,30-31). Chính trong khung cảnh bữa ăn yêu thương kèm theo cử chỉ và lời đọc Người đã từng làm, khiến mắt hai môn đệ mở ra và nhận biết người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã từ cõi chết sống lại.
2) Tin hay không tin mầu nhiệm trong Bí tích Thánh Thể:
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống, mặc dù biết đám đông đang xầm xì phản đối, vì cho rằng đây là một điều vô lý không thể chấp nhận, nhưng Đức Giê-su vẫn cương quyết khẳng định thêm về mầu nhiệm này (x. Ga 6,60). Về phần các môn đệ sau khi hiểu Đức Giê-su muốn lập bí tích Thánh Thể để biến Thịt Máu Mình làm của ăn của uống, nên đã bảo nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy Thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”. Sau đó, một số đông môn đệ đã bỏ không còn đi theo làm môn đệ Người nữa (x. Ga 6,66). Đức Giê-su cho biết: để tin vào mầu nhiệm này, đòi người ta phải được Chúa Cha ban ơn (x. Ga 6,65). Sau đó, Đức Giê-su đã hỏi nhóm 12 Tông đồ về quyết định tin hay không tin, chọn bỏ đi hay ở lại với Người. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai thưa rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Như vậy, trước mầu nhiệm này, người ta không thể cảm nghiệm bằng giác quan, mà phải nhờ ơn Thiên Chúa ban và thành tâm tin nhận.
3) Cần tham dự Bí Tích Thánh Thể với tình yêu thương hiệp nhất:
Thánh Phao-lô dạy về thái độ phải có của các tín hữu khi tham dự Bữa Tiệc Thánh Thể như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Do đó, khi đến dự lễ, chúng ta cần có tình yêu thể hiện qua thái độ cảm thông và hiệp nhất, noi gương cộng đoàn Hội Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ, Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
4) Tham dự Thánh Lễ thế nào cho đẹp lòng Chúa ?
- “Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Cần dọn mình lên rước lễ mỗi lần tham dự thánh lễ, vì chẳng có ai đi dự tiệc mà lại không xem người khác ăn, còn mình thì không ăn uống gì ? Cũng cần kéo dài thánh lễ giữa đời thường, như Đức Cha HELDER CAMERA đã nói: “Mỗi sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi lại gặp gỡ Đức Ki-tô nơi tha nhân. Vì tôi gặp cũng một Đức Ki-tô trên bàn thờ và ngoài đường phố”. Như vậy: Hiệp nhất với Chúa Giê-su trong thánh lễ phải dẫn chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Người đang hiện thân nơi những người đang sống bên chúng ta, nhất là những người nghèo đói bệnh tật và bất hạnh (x.Mt 25).
- Hiệp nhất với Chúa Giê-su Thánh Thể cũng đòi hiệp thông với tha nhân, đòi chúng ta noi gương Chúa quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân, làm cho tha nhân được hạnh phúc.
- Một khi được nuôi dưỡng bằng Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ ý thức bổn phận chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói, tích cực góp phần cải thiện xã hội là gia đình, khu xóm, trường học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” được sách Khải Huyền tiên báo: Bấy giờ “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
4. Thảo luận : Để đáp lại tình yêu tột cùng của Đức Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu chúng ta cần dự lễ hay dự các giờ chầu Thánh Thể như thế nào… ?
5.Cầu nguyện:
- Lạy Chúa Giêsu, Con muốn ngợi ca lòng từ bi nhân hậu và đầy yêu thương của Chúa khi thiết lập bí tích Thánh Thể. Nhờ bí tích này, Chúa ban Mình Máu Chúa làm của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của chúng con. Cũng nhờ bí tích ấy, Chúa giúp chúng con tưởng niệm về mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa, để được sống đời đời.
- Lạy Chúa Giê-su. Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa thiết lập và mời chúng con tham dự nhằm biểu lộ tình yêu thương và sự hiệp nhất cộng đoàn. Chúa muốn chúng con phải tránh thói ích kỷ và những việc làm gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã quở trách giáo đoàn Cô-rin-thô như sau: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say ! Anh em không có nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của ?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án !” (1 Cr 11,18-22.33-34). Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết hiệp thông với tha nhân mỗi khi tham dự thánh lễ: Cho chúng con biết thể hiện tình bác ái huynh đệ bằng việc vào ngồi trong nhà thờ thay vì đứng ở ngoài sân; Cho chúng con biết mở miệng thưa kinh chung với cộng đoàn. Xin cho chúng con luôn biết dấn thân, sẵn sàng đi bước trước bắt chuyện làm quen với những người lạ, sẵn sàng nhường chỗ tốt cho những người già cả tật nguyền… để Thánh Lễ trở thành cơ hội giúp chúng con thể hiện tình yêu thương hiệp nhất với Chúa và hiệp thông với tha nhân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria .- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.