Phần II: Cuộc tranh luận hiện nay về ly dị tái hôn: đề xuất của Đức HY Kasper



Ai cũng biết trong mật nghị hội Hồng Y mới đây, để chuẩn bị cho THĐ bất thường vào tháng Mười này bàn về mục vụ gia đình, Đức HY Kasper đã được Đức Phanxicô đích thân mời trình bày một đề xuất. Nhiều người lo sợ rằng quan điểm của Đức HY sẽ được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chấp nhận, do đó, dự định tổ chức một cuộc chống đối công khai. Nhưng không thiếu người bình chân như vại, coi chuyện đó không thể xẩy ra được. Những người này cho rằng dù được Đức Giáo Hoàng khuyến khích thảo luận, đề xuất của Đức HY Kasper bị nhiều chống đối ngay trong mật nghị hội. Vả lại cảm thức đức tin luôn hỗ trợ tính bất khả tiêu của hôn nhân, nên họ cho rằng đề xuất này đơn thuần chỉ phản ảnh “cảm thức bất tín” mà thôi. Nhưng như thế, chả lẽ cố gắng của Đức GH Phanxicô và của Đức HY Kasper là công cốc cả sao?

Thực hư vấn đề thế nào, thiển nghĩ cũng nên vào sâu chút nữa.

Âu Châu, Bắc Mỹ và các nơi khác

Sandro Magister của tờ L’Espresso trước nhất lưu ý tới sự chia rẽ rõ rệt khi đụng tới các vấn đề nóng bỏng về luân lý giữa “ý kiến đa số ở một số khu vực thuộc Âu Châu và Bắc Mỹ, nơi ngự trị của chính sách dửng dưng đối với phá thai, tiêu hủy hôn nhân, và ý thức hệ phái tính, và sự mẫn cảm ngược lại của những khu vực mênh mông khác trên thế giới, nhất là thuộc Phi và Á Châu, là những khu vực dù sao cũng có những vấn đề nghiêm trọng của riêng họ, từ hôn nhân sắp xếp tới đa hôn”. Khi THĐ Giám Mục họp vào tháng Mười sắp tới, Giáo Hội chắc chắn sẽ được nghe các giám mục Phi Châu lên tiếng cho hay các cộng đoàn của các vị không thể nào chịu được bất cứ hàm hồ nào về tính độc hữu của hôn nhân. Các vị giám mục Á Châu sẽ nhấn mạnh tới tính vĩnh viễn của nó. Người ta mong rằng một số vị giám mục Âu Châu và Bắc Mỹ sẽ có can đảm dám nói tới các tai hại của việc người Công Giáo coi thường giáo huấn của Giáo Hội.

Tác giả này hỏi rằng: ta có nên phớt lờ các vị giám mục trên đây để chiều theo nhu cầu của những người Công Giáo luôn chỉ biết đến mình ở Tây Phương hay không? Làm thế, theo ông, là vi phạm mục tiêu chủ yếu của triều giáo hoàng này. Vì Đức Phanxicô luôn khuyên ta không nên chỉ khép mình trong các vành đai địa dư và văn hóa của riêng mình, mà phải mở cửa hướng tới những “vùng ngoại biên” của thế giới.

Người ta có quyền hy vọng như Magister. Trong khi ấy, có những người như Michael Brendan Dougherty đi xa hơn bảo rằng không nghe các vị giám mục trên là tự mâu thuẫn với chính mình: giảng một đàng làm một nẻo. Giảng rằng phải sạch tội trọng mới được rước lễ, nhưng lại cho những người đang mang tội trọng được rước lễ vì rõ ràng ly dị và tái hôn mà chưa được tuyên bố vô hiệu là mang tội trọng.

Thực ra Đức HY Kaspers đã nói những gì?

Theo nguồn tin chính thức, bài nói chuyện của Đức HY Kasper tại mật nghị hội Hồng Y hồi đầu năm nay sẽ không được công bố cho công chúng. Không hẳn vì sợ gây hoang mang, cho bằng bài nói chuyện này có đối tượng chuyên biệt, tức các vị có nhiệm vụ đưa ra các đề cương cho hai thượng hội đồng giám mục thế giới sắp tới về gia đình. Chính vì thế, mặc dù có lời yêu cầu công khai của Đức HY Reinhard Marx của Munich, bài diễn văn này vẫn chưa được chính thức công bố cho dân chúng.

Về việc này, ta thấy có nhiều điều đáng ghi nhận: Đức HY Marx là một trong các thành viên của Hội Đồng Hồng Y cố vấn cho Đức GH về việc cải tổ Tòa Thánh. Ngài cho rằng giữ mật bài diễn văn này là điều vô dụng vì gần 200 bản của nó đã được phân phối, do đó, chắc chắn bài diễn văn này sẽ được phổ biến rộng rãi.

Có lẽ vì thế, một tờ báo Ý đã cho đăng nguyên văn bài diễn văn của này bằng tiếng Ý. Và chính Đức HY Kasper cũng cho đăng tải nội dung bài diễn văn này trong cuốn “Gospel of the Family” xuất bản hồi tháng Ba vừa qua.

Trong cuốn sách nhỏ trên đây, phần 5 nói đến “Vấn Đề Về Người Ly Dị Và Tái Hôn”. Đức HY Kasper khởi đầu bằng cách cho rằng: vấn đề này là “một vấn đề phức tạp và gai góc”. Nên không thể chỉ rút gọn nó vào việc cho những người này rước lễ mà thôi, vì đây là “việc chăm sóc mục vụ đối với đời sống hôn nhân và gia đình trong tính toàn bộ của chúng”. Việc chăm sóc này vốn bắt đầu với tuổi trẻ và việc chuẩn bị hôn nhân, sau đó là cùng đồng hành với những người đã kết hôn và các gia đình. Việc chăm sóc này trở nên nhất thiết và tức khắc khi hôn nhân hay gia đình gặp khủng hoảng: phải làm những gì có thể về mục vụ để hàn gắn và hòa giải hôn nhân hay gia đình.

Nhưng có những tình huống trong đó, mọi cố gắng hợp lý để cứu vãn hôn nhân đã tỏ ra vô hiệu. Người ta thán phục và hỗ trợ sự anh hùng của những người phối ngẫu bị bỏ rơi, vẫn tiếp tục ở một mình và một mình tiếp tục chiến đấu. Tuy nhiên, nhiều người phối ngẫu bị bỏ rơi khác, vì lợi ích của con cái, đã phải lệ thuộc một cuộc chung sống mới và một cuộc hôn nhân dân sự, “một cuộc hôn nhân mà họ không thể bỏ một lần nữa mà không bị mặc cảm tội lỗi. Trong các nối kết mới này, họ thường cảm nhận được hạnh phúc nhân bản - gần như một hồng phúc từ trời – sau các cảm nhận đắng cay trước đây”.

Và Đức HY Kasper đặt câu hỏi: “Trong những tình huống như thế, Giáo Hội có thể làm gì?”. Rồi ngài vội minh định: “Giáo Hội không thể đề xuất một giải pháp bên ngoài hay ngược với lời dạy của Chúa Giêsu. Tính bất khả tiêu của một cuộc hôn nhân bí tích và việc không thể kết ước một cuộc hôn nhân bí tích thứ hai lúc sinh thời của người phối ngẫu kia là thành phần bó buộc trong truyền thống đức tin của Giáo Hội, một truyền thống mà ta không thể bãi bỏ hay gia giảm được bằng cách nại tới một cảm thức nhân từ (mercy) theo nghĩa phiến diện và rẻ tiền”.

Ngài tiếp liền sau đó rằng “Lòng trung thành của Thiên Chúa, xét cho cùng, là lòng trung thành của Người với chính Người và với tình yêu của Người. Vì Thiên Chúa trung thành, nên Người cũng nhân từ, và trong lòng nhân từ của Người, Người trung thành, ngay cả lúc chúng ta bất trung (2Tm 2:13). Nhân từ và trung thành luôn đi đôi với nhau. Cho nên, không thể có tình huống nào của con người mà lại tuyệt đối vô vọng và tuyệt vọng cả. Bất kể con người nhân bản xuống thấp đến đâu, họ cũng không xuống sâu đến nỗi lòng nhân từ của Thiên Chúa không với tới được”.

Thành thử “câu hỏi là Giáo Hội, trong thực hành mục vụ của mình đối với người ly dị và tái hôn dân sự, có thể tuân thủ ra sao sự cố kết bất khả phân giữa lòng trung thành và lòng nhân từ này?” Đây là một câu hỏi tương đối mới có đây, xuất hiện lần đầu kể từ ngày Napoléon đưa ra đạo luật hôn nhân dân sự năm 1804 và sau đó, được nhiều quốc gia khác mô phỏng.

Đối với câu hỏi trên, Đức HY Kasper cho hay: Giáo Hội đã có những ứng phó tiệm tiến theo chiều tích cực. Thực vậy, Bộ Giáo Luật năm 1917, điều 2356, vẫn coi những người ly dị và tái hôn dân sự là song hôn, một việc tiền kết (ipso facto) bị coi là bất xứng và tùy theo mức độ, còn có thể bị tuyệt thông. Nhưng Bộ Giáo Luật 1983, điều 1093, không còn những hình phạt như thế nữa, các giới hạn cũng đã được nới lỏng. Trong khi ấy, tông huấn Familiaris consortio (số 84) và tông huấn Sacramentum caritatis (số 29), nói tới các Kitô hữu này một cách gần như âu yếm, nhắc nhở họ rằng họ vẫn thuộc về Giáo Hội và được mời gọi tham dự vào sinh hoạt của Giáo Hội.

Cùng một chiều tích cực ấy đã đồng thời được Giáo Hội áp dụng trong các phạm vi khác. Thí dụ phạm vi đại kết và tự do tôn giáo chẳng hạn: Giáo Hội vốn có những thông điệp và quyết định gây khó khăn cho chúng. Nhưng Vatican II đã mở nhiều cánh cửa cho 2 vấn đề này tuy không đi ngược lại truyền thống tín lý có tính bó buộc của Giáo Hội. Bởi thế, ta có quyền đặt câu hỏi: có thể áp dụng cùng một chiều hướng phát triển này vào trường hợp ly dị rồi tái hôn dân sự đang bàn ở đây hay không?

Hai tình huống cần xem sét

Đức HY Kasper ngầm cho thấy rằng có, có thể áp dụng được, nhưng phải áp dụng một cách “có sắc thái” (nuanced) vì các tình huống ở đây rất khác nhau và cần được dị biệt hóa một cách thận trọng (FC số 84). Nghĩa là không thể có một giải pháp chung cho mọi trường hợp. Chỉ có hai trường hợp có thể áp dụng mà thôi, và ở cả hai, “tôi chỉ muốn đặt câu hỏi và ấn định ra phương hướng cho các giải đáp có thể có mà thôi. Thượng Hội Đồng sẽ phải đưa ra giải đáp dứt khoát”.

Chủ quan tin rằng cuộc hôn nhân trước vô hiệu

Điều đó đương nhiên. Trường hợp thứ nhất, theo Familiaris consortio, một số người ly dị và tái hôn xác tín một cách chủ quan trong lương tâm của họ rằng cuộc hôn nhân đổ vỡ vô phương cứu chữa trước của họ chưa bao giờ thành sự cả (FC 84). Trên thực tế, “nhiều vị mục tử xác tín rằng nhiều cuộc hôn nhân tuy được kết ước theo hình thức của Giáo Hội, nhưng vẫn không được kết ước một cách thành sự. Vì là một bí tích của đức tin, nên hôn nhân tiền giả định phải có đức tin và việc ưng thuận các đặc tính chủ yếu của nó, tức tính đơn hôn và tính bất khả tiêu”.

Câu hỏi của Đức HY Kasper là: “Nhưng, trong tình huống này, liệu ta có thể giả thiết một cách không vẽ vời rằng các cặp đính hôn có cùng một niềm tin vào mầu nhiệm được bí tích chỉ về và họ thực sự hiểu được và khẳng định được các điều kiện giáo luật để cuộc hôn nhân của họ thành sự hay không? Há sự suy đoán thành hiệu (praesumptio juris) mà từ đó giáo luật tiến hành thường không phải là một hư cấu luật pháp (fictio juris) đó sao?”

Trả lời cho 2 câu hỏi trên, Đức HYKasper cho rằng “Vì hôn nhân, trong tư cách một bí tích, vốn có đặc tính công cộng, nên việc quyết định về tính thành sự của một cuộc hôn nhân không thể nào để mặc cho phán đoán chủ quan của các bên liên hệ. Tuy nhiên, người ta có thể hỏi liệu con đường luật pháp, một con đường trên thực tế vốn không phải là thiên luật (jure divino), nhưng đã được phát triển trong dòng lịch sử, có phải là con đường duy nhất để giải quyết vấn đề, hay liệu có thể quan niệm được các thủ tục khác, có tính mục vụ và thiêng liêng hơn hay không? Một cách khác, ta có được phép tưởng tượng điều này: giám mục có thể ủy thác nhiệm vụ này cho một linh mục có nhiều kinh nghiệm về thiêng liêng và mục vụ làm đại diện xá giải hay đại diện giám mục”.

Đến đây, Đức HY nhắc tới bài diễn văn của Đức Phanxicô đọc trước Tòa Thượng Thẩm Rôma ngày 24 tháng Giêng, 2014 trong đó có đoạn nói tới việc hai chiều kích luật pháp và mục vụ không đối nghịch nhau, “ngược lại, hệ thống giáo luật vốn có đặc điểm chủ yếu là mục vụ”.

Nhưng mục vụ có nghĩa gì? “Chắc chắn không đơn thuần là dung thứ (indulgence), vốn hiểu sai cả chăm sóc mục vụ lẫn lòng nhân từ. Nhân từ không loại bỏ công lý; nhân từ không phải là ơn thánh giá rẻ hay một loại hàng bán tống bán táng (clearance sale). Chăm sóc mục vụ và nhân từ không mâu thuẫn với công lý, nhưng có thể nói, là sự công chính cao hơn vì phía sau mọi cuộc kháng án luật lệ cá thể nào không những chỉ là một vụ án có thể xem sét bằng lăng kính qui luật tổng quát, mà còn là một con người nhân bản, một con người không những chỉ là một vụ án mà đúng hơn là một hữu thể có một phẩm giá bản vị độc đáo. Điều này khiến ta cần tới một nền giải thích vừa có tính luật pháp vừa có tính mục vụ và là một nền giải thích áp dụng luật lệ tổng quát một cách thận trọng và khôn ngoan, theo đức công bằng và thẳng thắn (fairness), vào một tình huống cụ thể, đôi khi phức tạp. Hay như Đức GH Phanxicô từng nói: một nền giải thích được linh hứng bởi tình yêu của Đấng Chăn Chiên Lành và là lối giải thích thấy phía sau mọi diễn trình là những con người đang chờ mong công lý”.

Với phương thức trên, Đức HY cho ta hiểu nếu chỉ dựa vào hồ sơ nghĩa là dựa vào giấy tờ, và sau hai hay ba phiên tòa, người ta khó có thể đưa ra được quyết định đúng đắn phản ảnh vui buồn hay thăng trầm của một con người mà không biết gì tới con người và tình huống của họ.

Không nên nới rộng thủ tục tuyên bố vô hiệu

Tìm giải pháp bằng cách nới rộng diễn trình tuyên bố vô hiệu là điều lầm lẫn. Vì điều này sẽ gây ấn tượng tai hại là Giáo Hội cư xử một cách bất trung thực bằng cách chấp nhận ly dị trên thực tế. Theo Đức HY, ta cũng cần nhớ rằng ở đây ta đang nói tới cuộc hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp giữa những người đã chịu phép rửa nhưng rồi cuộc hôn nhân của họ đổ vỡ một cách vô phương cứu chữa và một người trong số họ kết ước cuộc hôn nhân thứ hai ở tòa đời.

Ngài cho rằng năm 1994, Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin tuyên bố, và điều này được Đức Bênêđíctô XVI nhắc lại trong Đại Hội Gia Đình Thế Giới năm 2012 tại Milan, rằng người ly dị và tái hôn nhất định không thể rước lễ theo bí tích, nhưng có thể rước lễ thiêng liêng. Như thế, vấn đề nêu ra là: Chịu lễ thiêng liêng vẫn là được nên một với Chúa Kitô và do đó đâu có đi ngược lại lệnh truyền của Người, thì tại sao họ lại bị cấm không được rước lễ theo bí tích cũng là việc để nên một với Người? Nếu ta loại các Kitô hữu ly dị và tái hôn có ý hướng tốt ra khỏi các bí tích và bảo họ tìm đến phương cách cứu rỗi ngoài bí tích (extrasacramental), chẳng hóa ra ta nghi vấn cơ cấu bí tích nền tảng của Giáo Hội? Như thế thì cần Giáo Hội để làm gì? Như thế, há ta đã không trả một giá quá cao hay sao?”

Hỏi như thế rồi, Đức HY Kasper cho rằng một số người lý luận rằng chính sự kiện không tham dự vào việc rước lễ đã chứng minh tính thánh thiêng của bí tích. Nhưng “câu hỏi ngược lại là: há việc đó không phải là một bóc lột đối với con người nhân bản sao, nếu ta biến họ thành dấu chỉ cho một điều gì khác khi họ kêu xin giúp đỡ? Có phải ta đang để cho họ chết đói về phương diện bí tích để người khác được sống không?”

Rồi Ngài dẫn chứng: Giáo Hội sơ khai cho ta một gợi ý có thể chỉ đường cho ta ra khỏi thế lưỡng nan, một gợi ý mà Giáo Sư Joseph Ratzinger đã nhắc đến năm 1972. Đó là chính sách chào đón người bỏ đạo (lapsi) trở về: bằng thủ tục thống hối hợp giáo luật, giống phép rửa thứ hai, không bằng nước mà bằng nước mắt, một thứ phao cấp cứu cho người bị đắm tầu.

Dẫn chứng thứ hai: phản ứng của các giáo phụ đối với những người ly dị và tái hôn. Phản ứng này không thống nhất. Nhưng ở một số Giáo Hội địa phương có luật phong tục (customary law) theo đó, các Kitô hữu đang sống trong mối liên hệ thứ hai lúc người phối ngẫu trước vẫn còn sống, sau một thời kỳ thống hối, được quyền, nhất định không phải là kết hôn lần thứ hai, mà là rước lễ. Origen coi việc này “không vô lý”. Thánh Basilêô Cả và Thánh Grêgôriô thành Nazianzus cũng đề cập tới thực hành này. Ngay Thánh Augustinô, người vốn ngặt nghèo về vấn đề này, xem ra không loại bỏ giải pháp này.

Theo Đức HY Kasper, “vì quan tâm mục vụ, ‘để tránh điều tệ hại hơn’, các giáo phụ trên sẵn sàng dung thứ một điều tự nó không thể nào chấp nhận được. Do đó, về phương diện mục vụ, quả có việc thực hành dung thứ, nhân từ và kiên nhẫn và có đủ lý do vững chãi để cho rằng thực hành này đã được Công Đồng Nixêa (325) xác nhận, chống lại chủ nghĩa khắt khe của phái Nôvatiônô (cấm tha tội trọng).

Vì các nhà chuyên môn còn đang tranh luận về các chi tiết có tính lịch sử trong các vấn đề trên, nên Giáo Hội chưa chấp nhận chủ trương nào. Nhưng điều rõ ràng là Giáo Hội luôn tìm cách vượt lên trên cả chủ nghĩa khắt khe lẫn chủ nghĩa lỏng lẻo và sẵn sàng sử dụng tới thẩm quyền tha và buộc đã được chính Chúa ủy thác (Mt 16:19; 18:18; Ga 20:23). Trong Kinh Tin Kính, ta tuyên xưng: tôi tin phép tha tội. Nghĩa là với những ai thống hối, tha thứ là điều khả hữu. Nếu tha thứ là điều khả hữu đối với kẻ giết người, thì nó cũng khả hữu đối với kẻ ngoại tình. Thống hối và phép giải tội là cách nối kết cả hai khía cạnh lại với nhau: nghĩa vụ đối với lời Chúa và nghĩa vụ đối với lượng nhân từ vô tận của Người. Hiểu như thế, lòng nhân từ của Thiên Chúa không phải là một ơn thánh rẻ tiền, được thông ban mà không cần hồi tâm. Đàng khác, các bí tích không phải là phần thưởng dành cho tác phong tốt hay cho một thành phần ưu tú mà loại bỏ những kẻ cần đến chúng hơn hết (EG 47).

Thành thử, câu hỏi đang thách thức ta là: phải chăng con đường vượt trên chủ nghĩa khắt khe và chủ nghĩa lỏng lẻo, con đường hồi tâm vốn phát xuất từ bí tích nhân từ này, tức bí tích giải tội, cũng là con đường ta có thể theo trong vấn đề này?

Hỏi như thế rồi, Đức HY Kasper nêu ra các điều kiện cho một câu trả lời tích cực. Theo ngài, chắc chắn không phải cho mọi trường hợp. Nhưng 1) nếu người ly dị và tái hôn thực sự thống hối vì đã sai phạm trong cuộc hôn nhân đầu; 2) Nếu các cam kết của cuộc hôn nhân đầu đã được minh giải và việc trở lại cuộc hôn nhân ấy nhất quyết không được đặt ra; 3) nếu một trong hai người không thể cởi bỏ các cam kết giả thiết phải có trong cuộc hôn nhân dân sự thứ hai mà không cảm thấy mặc cảm tội lỗi mới; 4) nếu một trong hai người cố gắng hết sức mình trong việc sống cuộc hôn nhân dân sự thứ hai cho phù hợp với đức tin và dưỡng dục con cái trong đức tin; 5) nếu một trong hai người mong được lãnh nhận các bí tích làm nguồn sức mạnh cho tình huống của mình, thì liệu ta có phải từ khước hay có thể từ khước, không cho họ lãnh nhận bí tích giải tội và rước lễ, sau một thời gian tái định hướng không?

Một dè chừng: giải pháp trên, nếu có, không thể là giải pháp chung, áp dụng cho quần chúng nói chung, nhưng là con đường hẹp chỉ dành cho một số người ly dị và tái hôn trung thực tha thiết lãnh nhận bí tích.

Một cảnh cáo: không nhận giải pháp trên, một điều tệ hại hơn có thể xẩy ra: con cái người ly dị và tái hôn, khi thấy cha mẹ không lãnh nhận các bí tích, cũng sẽ không xưng tội và rước lễ nữa. Nếu thế, không những ta đánh mất thế hệ kế tiếp, mà còn nhiều thế hệ tiếp theo nữa. Phải chăng triết lý thực hành mà ta ra công duy trì xưa nay hóa ra lại phản hữu dụng đến thế sao?

Một đóng góp: Về phần Giáo Hội, con đường trên đòi discretio, sự phân biệt thiêng liêng, sự thận trọng mục vụ, và đức khôn ngoan. Đối với Thánh Bênêđíctô, thánh phụ đời sống đơn tu, discretio hay biện phân là mẹ của mọi nhân đức và là nhân đức nền tảng của vị viện phụ. Và dĩ nhiên của cả vị giám mục nữa. Sự biện phân này không hề là một thoả hiệp rẻ tiền giữa những cực đoan của chủ nghĩa khắt khe và chủ nghĩa lỏng lẻo, mà đúng hơn, cũng giống như mọi nhân đức khác, là con đường trung dung đầy trách nhiệm và là biện pháp đúng dắn.

Đức HY mong rằng loại discretio, loại biện phân này, sẽ là đường đi của THĐ sắp tới, giúp ta tìm được một giải pháp vừa làm chứng một cách đáng tin rằng trong các hoàn cảnh khó khăn của con người, Lời Thiên Chúa vừa là sứ điệp tín trung vừa đồng thời là sứ điệp nhân từ, đem lại sự sống và hân hoan.

Các phản ứng

Bản tin Catholic World News ngày 21 tháng Ba, 2014 tường thuật “phát súng” đầu tiên phản bác đề xuất của Đức HY Kasper là của Đức HY Raymond Burke. Xuất hiện trên chương trình “The World Over” (Khắp Thế Giới) của EWTN/TV, vị Hồng Y này nói với người hướng dẫn chương trình là Raymond Arroyo rằng đề xuất của Đức HY Kasper nói trên dường như đi ngược lại tín lý và giáo luật cố cựu của Giáo Hội Công Giáo.

Ngài bảo: “theo lượng giá của tôi trong tư cách một nhà giáo luật học, tôi không nghĩ đề xuất này khả hữu’. Đức HY Burke hiện là chủ tịch Toà Án Tối Cao (apostolic signatura) của Giáo Hội. Ngài nói thêm: “tôi tin rằng trong những ngày tới… sự lầm lẫn của phương thức này sẽ trở nên rõ ràng hơn”.

Vị Hồng Y người Hoa Kỳ này cho biết lý do tại sao ngài lên tiếng: thoạt đầu, bài diễn văn của Đức HY Kasper được bảo mật vì chỉ dành cho các vị Hồng Y thảo luận mà thôi. Nhưng sau đó, nó đã “bị” quảng bá sâu rộng, nên buộc lòng ngài phải lên tiếng.

Phản kiến thứ hai: chiều kích đích thực của lòng từ bi. Một trong các lời ca ngợi của Đức Phanxicô đối với Đức HY Kasper là các cái nhìn thông sáng của ngài về lòng từ bi thương xót, điều được ngài nhấn mạnh nhiều trong phương thức mới đối với người ly dị tái hôn. Một lòng từ bi bị Đức HY Burke coi là lầm lẫn, rẻ tiền. Ta thử xem thêm quan điểm của Đức Hồng Y Gerhard Ludwig Müller, bộ trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, về lòng từ bi trong ngữ cảnh cuộc tranh luận hiện nay về người ly dị tái hôn.

Tháng Sáu vừa qua, Carlos Granados, giám đốc Tủ Sách Các Tác Giả Kitô Giáo ở Madrid, có phỏng vấn Đức HY Muller. Trong cuộc phỏng vấn này, Đức HY trả lời nhiều câu hỏi liên quan tới đề tài đang bàn ở đây.

Trước nhất, được hỏi có thể có thay đổi trong huấn quyền về người ly dị tái hôn hay không, Đức Hồng Y cho hay: “ngay một công đồng cũng không thể thay đổi tín lý của Giáo Hội… Chúng ta đã có một tín lý được khai triển và có cấu trúc đàng hoàng về hôn nhân, dựa trên lời Chúa Giêsu mà ta phải trình bày một cách trọn vẹn. Tính bất khả tiêu tuyệt đối của một cuộc hôn nhân thành sự không phải chỉ là một học thuyết, mà đúng hơn là một tín điều thần thánh đã được Giáo Hội định tín. Trước việc đổ vỡ trên thực tế của một cuộc hôn nhân thành sự, cuộc hôn nhân dân sự mới không thể được chấp nhận. Nếu chấp nhận, ta sẽ đối diện với một mâu thuẫn, vì nếu cuộc kết hợp trước, cuộc hôn nhân “thứ nhất”, thực sự là một cuộc hôn nhân, thì cuộc kết hợp sau không phải là “hôn nhân”…

Được hỏi hiện người ta đang nói tới khả thể cho phép các người phối ngẫu “bắt đầu sống trở lại một lần nữa”. Người ta cũng đang nói rằng tình yêu giữa các người phối ngẫu Kitô Giáo có thể “chết”. Điều ấy có đúng không? Đức HY Muller trả lời rằng: những lý thuyết này đều lầm cả. Người ta không thể viện cớ tình yêu giữa hai người phối ngẫu "đã chết" để tuyên bố một cuộc hôn nhân không còn nữa. Tính bất khả tiêu của hôn nhân không tùy thuộc tình cảm của con người, nó là một đặc tính do chính Thiên Chúa dự kiến… Cho nên, có thể ngưng hiệp thông thể lý qua việc sống chung và yêu thương, một điều ta vốn gọi là ly thân, nhưng không được phép tái hôn bao lâu người phối ngẫu của mình còn sống.

Thế còn lòng cảm thương? Có thể lấy nó làm luật trừ cho luật luân lý chăng? Đức HY Muller trả lời nguyên văn như sau: “Nếu ta mở Tin Mừng, ở đoạn đối thoại với Biệt Phái về ly dị, ta sẽ thấy cả Chúa Giêsu cũng đã có ý đặt một song hành giữa “ly dị” và “cảm thương” (xem Mt 19:3-12). Người tố cáo Biệt Phái không có lòng cảm thương, vì theo lối giải thích Lề Luật tinh vi của họ, họ kết luận rằng chính Môsê đã cho phép rẫy vợ. Nhưng Chúa Giêsu nhắc ta nhớ rằng lòng cảm thương của Thiên Chúa đã chống lại các yếu đuối nhân bản của ta. Thiên Chúa ban cho ta ơn thánh của Người để ta có thể sống trung thành.

“Đấy mới là chiều kích đích thực của lòng cảm thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ cả thứ tội nặng nề như ngoại tình; nhưng Người không cho phép một cuộc hôn nhân khác khiến người ta hoài nghi cuộc hôn nhân bí tích đang hiện hữu, là cuộc hôn nhân thực sự mới nói lên sự trung thành của Thiên Chúa. Nại tới điều được coi là lòng cảm thương tuyệt đối của Thiên Chúa như kể trên cũng giống như việc chơi chữ không giúp ta được gì trong việc làm sáng tỏ vấn đề. Trên thực tế, đối với tôi, dường như đấy là cách khiến người ta không chịu tìm hiểu sự sâu xa của lòng thương xót chân thực nơi Thiên Chúa.

“Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy một số nhà thần học sử dụng cùng một lối suy luận như trên về lòng cảm thương để lấy cớ cho phép những người ly dị và nay kết hôn ở ngoài dân sự được lãnh nhận các bí tích. Tiền đề là vì Chúa Giêsu đứng về phía với người đau khổ, tỏ tình yêu đầy cảm thương đối với họ, nên lòng cảm thương là dấu chỉ đặc biệt lên đặc điểm cho mọi hình thức làm môn đệ. Điều này đúng một phần. Tuy thế, nhắc tới lòng cảm thương một cách lầm lẫn sẽ có nguy cơ trầm trọng là tầm thường hóa hình ảnh Thiên Chúa, theo đó, Thiên Chúa không có tự do, mà đúng hơn bị buộc phải tha thứ. Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tỏ lòng thương xót ta: vấn đề là ta mệt mỏi không xin tha thứ nữa, không khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi ta, như Đức GH Phanxicô luôn nhắc nhở trong một năm rưỡi đầu tiên của triều giáo hoàng của ngài.

“Các sự kiện trong Thánh Kinh cho ta thấy rằng ngoài lòng cảm thương, sự thánh thiện và đức công chính cũng thuộc mầu nhiệm Thiên Chúa. Nếu ta cố tình làm mờ nhạt các phẩm tính này của Thiên Chúa và tầm thường hóa thực tại của tội lỗi, thì đâu còn cần phải nhân danh Người mà khẩn cầu Thiên Chúa xót thương làm gì nữa. Điều này khiến ta hiểu tại sao sau khi xử sự một cách hết sức cảm thương đối với người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói thêm một biểu hiệu nữa của tình yêu nơi Người: ‘Hãy đi và đừng phạm tội nữa’ (Ga 8:11). Lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là miễn chước ta khỏi thi hành các giới răn của Người và các lời dạy của Giáo Hội. Nó hoàn toàn trái ngược với điều đó: Trong lòng xót thương vô biên của Người, Thiên Chúa ban cho ta sức mạnh của ơn thánh để ta chu toàn các giới răn của Người và nhờ thế tái lập trong ta hình ảnh hoàn hảo của Người như Cha Trên Trời, sau khi ta sa ngã”.

Trả lời một câu hỏi khác, Đức HY Muller cho rằng rước lễ nói lên mối liên hệ bản thân và cộng đoàn với Chúa Giêsu Kitô. Không như anh em Thệ Phản, đối với người Công Giáo, có một kết hợp hoàn toàn giữa Kitô học và Giáo Hội học: ta không thể có mối liên hệ bản thân với Chúa Kitô và với Thân Thể đích thực của Người trong bí tích bàn thờ mà lại đồng thời mâu thuẫn với cùng một Chúa Kitô và nhiệm thể của Người hiện diện trong Giáo Hội và trong sự hiệp thông Giáo Hội. Cho nên, ta có thể quả quyết mà không sợ sai lầm rằng nếu ai thấy mình trong tình trạng tội trọng, thì không thể và đừng nên rước lễ.

Điều trên không chỉ áp dụng vào trường hợp người ly dị và tái hôn, mà đúng hơn còn áp dụng vào mọi trường hợp trong đó có việc khách quan bác bỏ những gì Thiên Chúa muốn cho ta. Theo định nghĩa, đó là sợi dây được thiết lập trong các bí tích. Chính vì thế, ta phải cẩn trọng chống lại quan niệm duy nội tại (immanentist) về bí tích Thánh Thể, một chủ trương đặt nền tảng trên một chủ nghĩa duy cá nhân thái quá, biến việc lãnh nhận các bí tích hay tham dự vào hiệp thông Giáo Hội tùy thuộc nhu cầu hay khiếu thẩm mỹ của cá nhân.

Đối với một số người, chìa khóa của vấn đề là ước muốn được rước lễ theo bí tích, như thể ước muốn này là một quyền lợi. Với nhiều người khác, rước lễ đơn thuần chỉ là cách nói lên tư cách thành viên của mình trong cộng đồng. Lẽ dĩ nhiên, không thể quan niệm bí tích Thánh Thể theo lối giản lược coi nó như biểu thức của một quyền lợi hay căn tính cộng đồng: Thánh Thể không thể là “một cảm nhận xã hội”!

Đôi khi có người gợi ý rằng quyết định rước lễ nên dành cho lương tâm cá nhân của người ly dị và tái hôn. Luận điểm này cũng nói lên một quan niệm sai lầm về “lương tâm”, từng bị Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin bác bỏ năm 1994. Trước khi lên rước lễ, tín hữu biết họ phải xét lương tâm, một việc cũng buộc họ phải không ngừng đào tạo lương tâm này và do đó phải sốt sắng đi tìm sự thật.

Nhưng còn vấn đề phải thích nghi tín lý vào “thực tế mục vụ”, tuy không thay đổi nó, thì sao? Đức Hồng Y cho rằng việc tách biệt đời sống khỏi tín lý là một trong các đặc điểm của chủ nghĩa nhị nguyên ngộ đạo. Giống như việc tách biệt công lý ra khỏi cảm thương, Thiên Chúa ra khỏi Chúa Kitô, Đức Kitô Thầy Dạy ra khỏi Đức Kitô Chăn Dắt, hay Đức Kitô ra khỏi Giáo Hội. Chỉ có một Đức Kitô. Đức Kitô bảo đảm sự hợp nhất giữa Lời Thiên Chúa, tín lý, và chứng từ đời sống. Mọi Kitô hữu đều biết rằng chỉ nhờ tín lý vững vàng, ta mới đạt tới đời sống vĩnh cửu.

Nhưng có nhiều lý thuyết hiện nay nhằm biến tín lý Công Giáo thành một thứ bảo tàng viện trưng bày các học thuyết Kitô Giáo, một thứ khu bảo tồn chỉ được một ít chuyên viên lưu tâm. Đời sống sẽ không có gì liên quan tới Chúa Giêsu Kitô như Người vốn là và như Giáo Hội vốn dạy về Người. Kitô Giáo đúng nghĩa trở thành một thứ tôn giáo dân sự mới, chính xác về chính trị và bị rút gọn vào một số giá trị được xã hội khoan dung. Điều này sẽ giúp một số người đạt được mục tiêu ngầm của họ: loại bỏ Lời Chúa, nhường chỗ cho ý thức hệ trong cố gắng kiểm soát toàn bộ xã hội.

Chúa Giêsu không trở thành xác phàm để trình bày một số lý thuyết đơn giản nhằm làm cho lương tâm thanh thản và cuối cùng để mặc sự việc ở nguyên trạng. Sứ điệp của Chúa Giêsu là cuộc sống mới. Ai đó nếu nghĩ và sống bằng cách tách biệt đời sống ra khỏi tín lý, không những đã làm méo mó tín lý của Giáo Hội bằng cách biến nó thành một thứ ngụy triết lý duy lý tưởng mà còn tự lừa dối chính mình. Sống làm Kitô hữu là sống trên căn bản đức tin vào Thiên Chúa. Giả mạo sự sắp xếp này là thực hiện một thỏa hiệp dơ bẩn giữa Thiên Chúa và ma qủy.

Trả lời một câu hỏi khác nói rằng một số Giáo Phụ có khuynh hướng khoan dung đối với những cuộc hôn nhân thứ hai trong khi người phối ngẫu đầu vẫn còn sống, Đức HY Muller cho hay: trong khoa giáo phụ học, quả có những giải thích hay thích ứng vào đời sống cụ thể, tuy nhiên, vẫn không có chứng từ giáo phụ nào ngả về phía chấp nhận cuộc hôn nhân thứ hai khi người phối ngẫu đầu còn sống.

Dĩ nhiên, tại Phương Đông Kitô Giáo, một số mơ hồ lẫn lộn diễn ra giữa luật dân sự của hoàng đế và luật lệ của Giáo Hội, từ đó, phát sinh ra nhiều tập tục mà trong một vài vụ quả có đưa tới việc chấp nhận ly dị. Nhưng dưới sự lãnh đạo của giáo hoàng, Giáo Hội Công Giáo trong nhiều thế kỷ qua đã khai triển ra một truyền thống khác được đưa vào bộ giáo luật hiện hành và vào nhiều qui định khác của Giáo Hội, một truyền thống minh nhiên chống lại bất cứ mưu toan nào nhằm thế tục hóa hôn nhân. Điều này cũng xẩy ra trong một số cộng đồng Kitô Giáo Phương Đông.

Đức HY cũng cho rằng đôi khi ta thấy một số trích dẫn Giáo Phụ tuy khá chính xác nhưng ra ngoài ngữ cảnh nhằm hỗ trợ khả thể ly dị và tái hôn. Ngài không tin rằng điều đó đúng theo cái nhìn của phương pháp học khi cô lập hóa một bản văn, lấy nó ra khỏi ngữ cảnh, biến nó thành một trích dẫn biệt lập, tách biệt khỏi bức tranh toàn diện của truyền thống. Trọn bộ truyền thống thần học và huấn quyền phải được giải thích dưới ánh sáng Tin Mừng, và liên quan tới hôn nhân, ta tìm thấy những lời dạy tuyệt đối rõ ràng của chính Chúa Giêsu. Ngài không nghĩ ta có thể đưa ra một giải thích khác với lời giải thích đã được trình bày trong thánh truyền và huấn quyền của Giáo Hội mà không bất trung với Lời nhập thể.