PHẦN II
ÍT VẤN ĐỀ THỜI SỰ VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
A. ĐỒNG GIỚI LUYẾN ÁI (30)
Một vấn đề không còn là xa lạ ở Việt Nam. Đã gặp ở Toà Giải Tội cả nơi nam lẫn nơi nữ giới.
Thánh kinh ghi lại đôi trường hợp: x. Kn 19.1-29 và Rm 1,24-27; 1C 6,10; 1Tm 1,10. Truyền thống giáo huấn của Giáo Hội vẫn coi đó là những hành vi “theo bản chất lộn xộn ”( 31) trái luật tự nhiên. Đã nhiều nơi trên thế giới người ta đòi luật pháp đời công nhận và bảo vệ quyền được sống chung như thế ngang hàng với mọi quyền lợi của đời lứa đôi thật. Có nơi cũng đòi Giáo Hội công nhận như vậy. Gần đây, để yểm trợ cho đòi hỏi đó, có người dựa vào nghiên cứu khoa học cho rằng: những người có xu hướng đồng giới luyến ái là do gen cha mẹ để lại, và đâu kết luận tất nhiên sẽ là: các hành vi họ làm đều vô tội vì vô trách nhiệm.
Xét về mặt khách quan, các hành vi đồng giới luyến ái là “lộn xộn ”, có tội. Nặng hay nhẹ hoặc có khi không mắc tội là tuy ở các nạn nhân có tâm lý bình thường hay ít nhiều bất bình thường.
Xét về mặt mục vụ, là mục tử nhân lành, linh mục giải tội phải hết sức tế nhị khuyến thiện, nâng đỡ họ sửa sai.có thể giải tội cho họ, nếu đủ điều kiện.
B. SỐNG CHUNG MÀ KHÔNG KẾT HÔN
Ngày 21/11/2000, hội đồng Toà Thánh về Gia Đình (32) đã công bố văn kiện về các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn
Gần đây có nhiều ý kiến và phong trào vịn cớ nhân quyền đã nên tiếng yêu cầu quốc hội nhiều nước nhìn nhận tư cách pháp lý của các cặp nam nữ sống chung không kết hôn với quyền lợi được bảo vệ như luật hôn nhân
Rõ ràng, điều bất thường muốn được ngang hàng với định chế hôn nhân về mặt pháp lý. Tình trạng này gây nên nhiều hậu quả trầm trọng cho xã hội và Giáo Hội
Vì thế văn kiện Toà thánh nhằm giúp các vị mục tử biết ứng xử mục vụ thế nào đối với lớp người này (xem văn kiện phần 6). Chủ yếu, Toà thánh nhắc lại giá trị, phẩm giá của khế ước hôn nhân - phải lo phòng ngừa tệ nạn nhờ dạy giáo lý về hôn nhân và gia đình - những người công giáo công tác về chính trị hay luật pháp phải theo đúng giáo lý của Phúc âm
Khi nghị viện Châu Au biểu quyết công nhận “các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn” (gọi là coples de fait), các cặp đồng giới luyến ái được hưởng qui chế ngang hàng với định chế gia đình, thì hội đồng toà thánh về gia đình đã ra tuyên bố này 17/3/2000 rằng: “Pháp chế đó đi ngược lại công ích và nghịch lại sự thật về con người; nói cho đúng đó là điều bất chính”. Bản tuyên bố còn đánh giá các lối sống đó không xứng với tầm vóc của một luật lệ, “Non videtur esse lex, quae justa non fuerit” (33). Do đấy, họ không đủ điều kiện để được giải tội, dù phải cư xử với họ trong tình yêu thương.
C. LIÊN QUAN ĐẾN ĐỜI SỐNG THÂN MẬT VỢ CHỒNG
Mọi Kitô hữu phải sống đức trong sạch tuỳ theo bậc sống của mình: Đời độc thân tận hiến cho Chúa - đời đôi bạn - đời hứa hôn (GLHTCG 2349) và tuyên bố của bộ Giáo lý đức tin, (Persona humana số 11)
Vợ chồng sẽ “chẳng làm điều gì xấu khi tìm kiếm và tận hưởng khoái lạc (=xác thịt). Họ đón nhận những gì Đấng Sáng Tạo đã ban cho họ” (34)
Riêng các “hành vi thực hiên sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí và chính đáng. Được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn” (35), “dù vợ chồng (cũng phải) vượt qua xu hướng nhục dục thuần tuý,… nếu được sùng bái một cách ích kỷ, sẽ… kéo theo những hậu quả thảm hại ”< br>Một vấn đề thời sự nóng bỏng của đời vợ chồng là làm thế nào để điều hoà sinh sản. Công đồng đã nhận định rất thẳng thắn “muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hoà, đôi bạn thường vấp phải một số tình huống sinh sống khó khăn hiện tại và có thể lâm vào những tình cảch khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian; đó là lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và chung sống trọn vẹ” (Gs 51,1)
Trong ứng xử cụ thể, giữ đúng cương vị nhà giáo dục, chúng ta không nên chọn biện pháp ngừ thụ thai nào thay cho vợ chồng, dù được hỏi, cùng lắm trừ bác sĩ. Cũng không kết án gì dù biết họ đã xử dụng cách thế chưa hợp đạo dạy. Cứ khách quan trình bày rõ ràng giáo huấn của Giáo hội, rồi để họ “chọn lấy trước mặt Thiên chúa” (Gs 50.2) vì tin tưởng vào khả năng quyết định của một Kitô hữu trưởng thành, duf còn vấp váp và tiệm tiến. Vả lại, luật lệ nào cũng do con người soạn ra, kể cả Giáo Hội, cũng không thể tránh hết mọi hạn chế. Vì vậy khi thực tế cuộc sống không đủ điều kiện buộc thi hành luật thì tín đồ lỏng lay theo lương tâm thực tình mà coi luật đó chưa có thể áp dụng. Đó là nguyên tắc epikeia của Giáo Hội (36).Nguyên tắc đó tìm thi hành chủ đích thật của luật buộc (finis legis) hơn là làm theo mặt chữ. Ngày nay vì trọng tự giác trách nhiệm hơn, công đồng Vaticanô II nêu nguyên tắc sử xự phổ cập như sau: “Đừng lầm tưởng các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng. Cũng đừng lầm tưởng các chủ chăn vốn có sứ mệnh ấy. Nhưng tốt hơn là chính họ được đức khôn ngoan Kitô Giáo soi dẫn và cẩn thận chú ý các Giáo huấn của Giáo hội, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình” (Gs 42,4). Y ngay lành được bảo đảm bằng lòng thánh kính và lương tâm ngay thẳng vừa tỏ ra lòng trọng luật Giáo hội, vừa biểu lộ ý chí trung thành với ý Chúa xuyên qua một hoàn cảnh cụ thể. Phải chăng cũng chiều hướng mục vụ thiết thực đó mà Đức Phao Lô VI đã khuyến cáo các linh mục phải “trình bày minh bạch giáo huấn của Giáo hội về Hôn nhân”, đồng thời “phải làm theo đức nhẫn nại và hiền từ như chính Chúa đã nêu gương trong cách cư xử với tha nhân. Ước gì các vợ chồng luôn luôn gặp được trong lời nói, nơi con tim các linh mục âm vang tiếng nói và tình yêu của Đấng Cứu Thế,… Hãy chuẩn bị cho họ thường xuyên và tin tưởng chạy đến các bí tích Thánh Thể và Cáo Giải. Đừng bao giờ để họ ngã lòng vì yếu đuối” (HV 29). Với chính đôi bạn còn vấp ngã, đức Phao lô VI khuyến khích: “Nếu tội lỗi còn đè nặng trên họ thì họ cũng đừng nản chí ngã lòng, nhưng với lòng khiêm cung bền bỉ, họ hãy cầu khẩn lòng nhân từ Chúa như Bí tích Cáo giải” ( HV25). Đừng nản chí ngã lòng, vì tiến bộ nơi con người thường phải có thời gian và phải lên núi xuống đèo, chứ không lên như máy bay!
Dù sao, uỷ ban Giáo Hoàng về Gia Đình đã cho linh mục giải tội một nguyên tắc thật yên tâm:
“Vị Giải tội buộc phải báo cho hối nhân biết những vi phạm luật Chúa tự chúng là nặng. Phải làm cho họ ước mong được giải tội, được Chúa tha thứ và dôc quyết nghiêm túc tu sửa cách sống của họ. Sự sa đi ngã lại những tội ngừa thai, không phải tự nó là lý do để từ chối ban xá giải; chỉ có thể từ chối ban xá giải khi hối nhân thiếu ăn năn hoặc dốc lòng chừa” (37)
Chúa Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi” (Ga 10,14). Sự hiểu biết và tấm lòng cảm thông của Chúa, bao hàm trong chữ “biết” đã được tỏ rõ khi ứng xử vụ một phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-11). “tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa ”. Am tường tội trạng và tâm tư sợ chết của chị, Chúa đã tìm ra lối thoát may mắn và khích lệ chị biến đổi cuộc sống
Trong vụ xử kiện cho hai gái điếm dành giựt con, vua Salomon (1V 3,16-28) đã thấu cảm hết lòng người mẹ. Nhờ thế Vua đã cứu được đứa bé, nhờ bà mẹ thật của nó vừa sẵn lòng thà mất con hơn để con mình bị vua phân đôi. “Thưa Chúa thượng, xin Ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống, còn giết chết nó thì xin đừng” trái lại chị không sinh ra nó đã thuận tình theo ý vua: “Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia đôi ra!” (26)
Hai thái độ ứng xử đáng gẫm suy khi chúng ta ngồi toà. Nếu vì tôn trọng sự thật khách quan, phải quy chiếu vào nguyên tắc, thì thái độ ứng xử có lý có tình như người trong cuộc, sẽ dễ thuyết phục và cảm hoá lòng người hơn.
NB: Luật Hôn Nhân và Gia Đình của nước CHXHCNVN năm 1986, theo thiển ý của chúng tôi có nhiều điểm phù hợp với Giáo Lý Công Giáo trừ vấn đề Ly Hôn.
Đã có Luật Hôn Nhân và Gia Đình mới công bố tháng 6/2000. Song chúng tôi chưa đọc nội dung để có ý kiến.
PHẦN III.
KITÔ HỮU TRƯỚC VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SỐNG (38)
A. MỘT VẤN ĐỀ THỜI SỰ NÓNG BỎNG
1. Thực trạng môi trường sống
Saint-Exupery đã nhắc nhở mọi người : “Chúng ta không thừa hưởng trái đất của tổ tiên chúng ta, chúng ta mượn trái đất đó của con em chúng ta. (39)”
Hàng tháng nếu không phải hàng tuần, đài báo thông tin những biến động về môi sinh trên khắp thế giới: nạn ô nhiễm bầu khí quyển - tầng ô-zôn bỉ thủng lớn, khiến khí hậu và thời tiết đổi thay khôn lường. Các nhà máy thải khí cacbon quá nhiều, khiến trời nóng hơn, gây lũ lụt, giông bão bất thường - chiến tranh làm cho bạt ngàn hecta đất bị bỏ trống - nạn phá rừng kiến đất hoang hóa, gây nạn thiếu nguồn nước dự trữ v.v.. Ngay tại Việt Nam, chúng ta không quên được cơn lũ lụt thế kỷ ở miền trung năm 1999 - nạn ô nhiễm nguồn nước hay môi trường sống ở nơi này nơi nọ - nạn săn bắt lậu các vật quý hiếm - nạn bắt cá bằng chất nổ v.v…
Đã có nhiều báo động dư luận về nguy cơ mất thăng bằng sinh thái (40). Song còn cần đưa báo động thành phong trào rộng khắp nữa thì may ra cứu vãn vớt vát được môi trường sống hiện nay của thế giới. Phải thức tỉnh cho dư luận quần chúng nhìn nhận bảo vệ môi sinh là vấn đề sinh tử của loài người, là vấn đề đạo đức cấp bách hầu cải tạo cách ngĩ cách sống cách làm hợp đạo làm người đối với thiên nhiên cũng như đối với môi trường sống. Phải xác tín rằng: trái đất là của mọi người chứ không dành riêng cho ai hay riêng một lớp người nào, nước nào. Vì thế phải chung lưng đấu cật mà bảo vệ, khai thác hợp lý để phục vụ mọi người.
2. đâu là những nguyên cớ gây rối loạn môi sinh?
Mất ý thức đạo đức về trách nhiệm đối với môi sinh đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ nó, thể hiện qua tahái độ coi thường sự sống, coi khinh con người là nguyên cớ chủ yếu. Chẳng hạn tiến bộ khoa học và kỹ thuật ngày nay đã đem lại nhiều cải thiện cho đời sống con người. Đó cũng là biểu chứng con người đã cộng tác với trách nhiệm vào công trình sáng tạo của thiên Chúa. Song cùng lúc người ta không nhìn đến các hậu quả tác hại lâu dài cho những người sống chung quanh hoặc cho nơi mình không có liên hệ. Vì thế say mê phát triển khai thác thiên nhiên mà ít quan tâm đến hậu quả tác hại người khác, nơi khác chịu. Chẳng hạn nạn “đào vàng” ở Tiên Phước, Quảng Nam. Nhà máy hóa chất ở đầu nguồn thải chất độc ra sông Danube ở Hung gary, gây ô nhiễm và chết sinh vật trong sông. Nổ mìn bắt cá phá hại luôn san hô ở Hạ Long với mọi sinh vật cư trú trong đó …. Thật là sống chết mặc bây miễn tôi được lợi. Sử dụng và khai thác môi trường để phát triển phải luôn luôn kèm theo nhận thức nhân đạo: mình vì người khác, người khác vì mình.
Biểu chứng cho thái độ thờ ơ, coi thường ấy, Hiệp Hội Các Giám Mục Á Châu = FABC họp tại Tagaytay, Philippine từ 31/1 đến 5/2/1993, đã bày tỏ lo âu về môi trường sống ở Á Châu (41) như sau: nạn phá rừng làm xói lở núi đồi gây lũ lụt và hạn hán - nạn tích tụ khí hiệu ứng nhà kiếng, đặc biệt thán khí làm cho trái đất nóng lên - nguồn năng lượng bị cạn kiệt dần vì ưu tiên cho chủ nghĩa sản xuất đe dọa chất lượng cuộc sống của các thế hệ mai sau - nguồn sinh vật biển giảm đi trầm trọng do đánh bắt bằng chất nổ phá hoại san hô kèm theo nạn đổ chất thải độc hại vào ven biển - thải bừa bãi các chất độc hại của thành phố …. - cho thoát các chất phóng xạ giết người gây bao trọng bệnh - hoa màu bị nhiễm độc do dùng thuốc trừ sâu không hạn chế - dân số phát triển quá nhanh, khiến làm cạn kiệt dần nguồn thực phẩm - di rời dân vì mở mang xây dựng như đập thủy điện, làm xa lộ, đường sắt.
Có thể gồm tóm các nguyên cớ trên vào ba nguyên cớ trọng điểm sau đây:
- Dân quá nghèo nên bụng đói chân phải bò.
- Lòng tham vô đáy của con người - chỉ theo chủ nghĩa sản xuất.
- Không mấy ai ý thức về cuộc khủng hoỉang môi sinh trên thế giới.
B. KITÔ HỮU PHẢI NGHĨ GÌ VÀ LÀM GÌ VỀ MÔI SINH?
THỨ NHẤT: phải quan niệm đúng về vũ trụ. Trời đất và vạn vật trong đó là một thể thống nhất hài hòa. Con người phải tôn trọng trật tự đó. Thiên Chúa giao vũ trụ cho loài người “thống trị nó” (x. Kn 1,28) bằng quản lý, khai thác, phát triên và làm đẹp theo sự bảo toàn hệ sinh thái thống nhất hài hòa, ích lợi cho mọi người chứ không phải được tự ý làm gì tùy thích. Công đồng Vatican 2 đã nhắc lại sự thật ấy như sau: “Thiên Chúa đã ấn định cho trái đất và mọi cái nó chứa chất nên hữu dụng cho mọi người và mọi dân nước” (GS số 69). Bởi vậy thật là bất công xã hội khi người ăn không hết người lần không ra ! Thiên Chúa Sáng Tạo mà Kitô hữu tôn thờ là một Thiên Chúa yêu thương, công bằng và có chủ trương giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc bất công phi lý. Vì vậy Kinh Tạ Ơn IV ca lên: “Chúa đã lấy thượng trí và tình thương mà sáng tạo muôn loài. Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao cho trách nhiệm trông coi vũ trụ, để khi phụng sự một mình Chúa là đấng Tạo Hóa, con người làm chủ mọi loài thọ sinh” trong hài hòa và cân bằng sinh thái . Điều này xảy ra hàng ngàytrong cuộc sống thiên nhiên. Mươi năm trước đây, huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam đã mất mùa lớn vì nạn chuột nhiều quá phá hết lúa trồng. Hỏi ra thì một nông dân trả lời rất đúng hệ sinh thái mà chính họ không hiểu ra: người ta đua nhau săn bắt hết rắn bán cho Trung Quốc, vì thế chuột phát triên rất nhiều. Cách đây vài tháng đài THVN cho chiếu phóng sự việc cả ngàn dân tụ tập đào vàng ở vùng cao huyện Trà My, Tiên Phước tỉnh Quảng Nam. Hậu quả cho dân vùng hạ lưu sông ngòi: môi trường sống đã tiêu diệt hết tôm cá, lại còn làm hư đất không trồng trọt được, do nhiều hoá chất của lọc vàng… Cha ông ta nói: sai một ly đi một dặm là thế. Lũ lụt lới mấy năm qua phải chăng không do nạn phá rằng phần nào? Tính cái lợi ngắn hạn và trước mắt, làm mất hết lại lợi sống còn lâu dài của người khác, nơi khác. Con người được quyền “thống trị địa cầu, làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật” (Kn 1,28), song không phải là chúa tể tuyệt đối và ích kỷ, độc quyền theo kiểu sống chết mặc bay. Người ta có quyền xử dụng vũ trụ, song không có quyền lạm dụng nó. Phải điều hành nó với trách nhiệm và với tinh thần liên đới với kẻ khác. Thái độ tôn trọng cân bằng hài hoà sinh thái được tỏ rõ trong lệnh Chúa ban bố cho dân Chúa xưa: “Trong sáu năm ngươi sẽ gieo vãi ruộng ngươi (…) và gặt lấy hoa lợi; nhưng đến năm thứ bảy sẽ có Hưu lễ đại hưu cho đất đai (…) Người sẽ không gieo (..) không tỉa. Lúa chín ngươi sẽ không gặt, nho không tỉa mà đơm quả, ngươi sẽ không hai; đó là năm hưu lễ cho đất đai”. “Ngươi sẽ tính bảy tuần năm, (…); thời gian bảy tuần năm sẽ là bốn mươi chín năm.(…). Các ngươi sẽ thánh hóa năm thứ năm mươi (…) rao (…) ân xá cho toàn thể dân cư. (…) Mỗi người sẽ về lại sản nghiệp của mình (..) Năm ấy các ngươi sẽ không gieo, không gặt lúa sót mọc lại, và không hái vườn nho bỏ hoang” (Lv 25,1…12). Cha ông chúng ta thường nói, dù không thể tuyệt đối đúng: trời sinh voi trời vinh cỏ: “hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng ”( Mt 6,26).
Thứ hai: Kitô hữu hãy học cho biết chiêm ngưỡng, thưởng thức, bảo vệ quang cảnh hùng vĩ, vẻ đẹp của thiên nhiên. Vì thiên nhiên là phản quang sự tốt lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Sách GLC viết: “Các tạo vật khác nhau phản ảnh mỗi vật một cách, theo bản chất riêng của chúng, một tia sáng của sự khôn ngoan và của sự tốt lành vô cùng của Thiên Chúa. Bởi vậy người ta phải tôn trọng sự tốt lành riêng biệt của mỗi tạo vật để tránh đừng xử dụng chúng một cách mất trật tự, khinh bỉ Đấng Tạo Hóa.” (số 339). Thánh vịnh 19 đã xác nhận:
“Vinh quang Thiên Chúa
trời thăm thẳm vang lời kể lể
và vòm cao xanh thuật lại
việc của tay Người. (câu 2)
như vậy Kitô hữu dấn thân bảo vệ môi sinh lại là một cách biểu lộ lòng kính tin và yêu mến đối với đấng dựng nên trời đất muôn vật. Trong sứ điệp ngày quốc tế hòa bình năm 1990, Đức Gioan Phaolô II đã giới thiệu thánh Phanxicô thành Assidi như tiêu biểu cho những ai tha thiết với môi trường sống qua bài ca tụng tạo vật thiên nhiên của thánh nhân: (42)
“Lạy Chúa, xin cho Chúa
được chúc tụng ngợi khen
nơi mọi loài Chúa đã dựng nên,
nhất là nơi anh Mặt Trời
nhờ anh, Chúa cho chúng con
ánh sáng ban ngày. Anh đẹp quá,
tỏa ra ánh sáng rực rỡ
và là biểu tượng của Chúa, Đấng Tối Cao…
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa
Vì chị Nước của con.
Chị rất hữu ích và rất khiêm nhường,
Chị thật quý hóa và thanh tịnh ….
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa
Vì chị Đất, mẹ chúng con
Chị cưu mang và nuôi dưỡng chúng con
Chị sinh ra đủ các thứ trái cây
Và muôn hoa sặc sỡ và cỏ xanh …” (x. GLC số 344)
Nếu có đức tin, du lịch sinh thái hoặc tham quan thắng cảnh quả là cơ hội để gặp Chúa nơi tạo vật thiên nhiên.
Thứ ba: bảo vệ môi sinh đã vượt tầm tay của mỗi người, mỗi nước.
Ở chung cư thì mọi người phải quan tâm săn sóc, bảo vệ nó. Sẽ không thể giải quyết mọi nguyên cớ gây khủng hoảng môi sinh (x. phần A), nếu không có hợp tác quốc tế. Thật đáng mừng, những thao thức môi sinh đã được quốc tế quan tâm qua các hội nghị ở Stockholm và Rio de Janeiro. Phản ứng dữ dội của quốc tế chống lại Hoa Kỳ qua tuyên bố của tổng thống G. Bush tuần vừa qua, quyết đinh rút khỏi cam kết ở Tokyo năm trước về giảm thải khí cacbon vào khí quyền, cho thấy rõ lòng Hoa Kỳchỉ nghĩ “bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ” theo như ông Bush nói.
Đang khi đó Hoa Kỳ là nước thải khí ấy ra tới ¼ của thế giới.
Thứ bốn: chiến tranh, đói khổ, phát triển dân số nhanh vẫn là cơ hội tốt cho việc hủy hoại môi trường sống. Chính vì vậy Đức Gioan Phaolô II đã chọn chủ đề cho ngày quốc tế về Hòa Bình cho năm 1999 là: “La paix avec Dieu Créateur, la Paix avec toute la création” (x. DC. 1990 số 1997 tr. 9-12).
CHÚ THÍCH:
1. Vừa khởi sự viết bài này, ngày 2/3/2001 đài THVN, VTV2, lúc 14g15 - 14g35 đã phát hình một phóng sự bàn tròn về nhân bản con người theo phương pháp vô tính (= vô phối), với cuộc tranh cãi giữa một số nhà khoa học nước ngoài. Rõ ràng có hai lập trường ủng hộ và chống đối, với kết luận: chừng 50 năm nữa, vấn đề hiển nhiên được dư luận chấp nhận, kể cả về pháp luật. Và sự thành công nhân bản con người không còn là vấn đề khó khăn lắm nữa. Song le tự hỏi: con người có thật sự là người với mọi giá trị thể chất (dĩ nhiên có thể thành tựu) và tinh thần (là điều có nhiều lý do e ngại) không ?
2. Jan Wilmut, năm 2001 được 56 tuổi.thời sinh viên ông nghiên cứu nông học tại Nottingham University rồi lấy bằng tiến sĩ chuyên ngành về nghiên cứu làm lạnh tinh dịch lợn. Sau đó tiếp tục làm luận án tiến sĩ về phôi đông lạnh. Năm 1974, chuyển nghiên cứu tại Roslin. Sau khi con cừu Dolly ra dời (chỉ chính thức công bố vào 25/2/1997, gây chấn động thế giới vì chú cừu sinh ra bằng phương pháp sinh sản vô tính, tạm dịch anh ngữ là clone), Wilmut hằng lo lắng về phát minh của mình vì những hậu quả khôn lường của cách sinh sản vô tính.
3. Rất tiếc tôi không nhớ số và ngày phát hành.
4. Đó là lấy một tế bào của động vật mẫu đem cấy vào trứng rỗng (= đã lấy hết nhiễm sắc thể) của một động vật mẫu thứ hai. Sau đó đem cấy vào tử cung của một động vật mẫu thứ ba cho nó mang thai. Thế là sẽ có được con vật (ví dụ cừu, khỉ, bò…) thứ tư giống hệt (= bản sao) con vật đầu tiên. - như vậy theo nguyên tắc khoa học, có thể dùng cách sinh sản vô tính mà tạo nên loạt người in hệt con người mẫu thứ nhất,ví dụ: một nhà bác học thiên tài, một tên cướp … kết luận rõ ràng: trong chừngmực nào đó, ranh giới giữa khoa học và đạo đức bị đe dọa nghiêm trọng và chắc chắn sẽ mang lạinhững hậu quả.
5. Le Point 3, 1997
6. Báo Lao Động 13/3/1997 dẫn dịch theoTime, Newsweek, Who. Thật ra theo Mc Gee ý nghĩ nhân bản hàng loạt những kẻ hủy diệt loài người đã có từ năm 1978 với bộ phim kinh dị “The Boys from Brazil” hay “Multiplicity” năm 1996.
7. x. báo Lao Động ra 13/3/1997.
8. xem lại các chú thích trên.
9. Gs. Ngô Đạt Tam, giám đốc trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người
10. J. Fisches, La vie de Mahatma Gandhi, dịch theo bản dịch Pháp văn, tr. 398
11. x. Xh 20,13; Tl 5,17.
12. Donum vitae, của J. Phaolô II số 5, trong Sách Giáo Lý của GHCG số 2258
13. Kn 1,26
14. x. chú thích Kn 1,26, chữ r
15. L. Fischer, La vie du Mahatma Gandhi, Calmann Lévy 1952 tr. 282.
16. Lm. Nguyễn Thế Thuấn chú thích.
17. Trích trong Vì Độc Lập, Tự Do, Vì Chủ Nghĩa Xã Hội, Sự Thậ, Hà Nội 1970 tr. 53.
18. Sens Chrétien de l’homme tr. 159.
19. Ngày 16/12/2000, VTV2 lúc 14g00 có một ph1ong sự về nạo thai tại việt Nam. Phóng sự rất cởi mở, thẳng thắn và tích cực với mục đích cảnh báo dư luận để ngăn chặn bớt nạn đó:
- nạo phá thai tịa Việt Nam càng ngày càng tăng. Riêng thành phố Hà Nội, hàng năm có tới 6.000 vụ qua những trung tâm y tế chính thức.
- giới trẻ nhất là lớp tuổi trước kết hôn, kể cả một số không nhỏ là vị thành niên.
- cuộc trao đổi (gồm chuyên gia tâm lý, bác sĩ khoa sản, đặc trách dân số và mấy thanh niên nam nữ) đưa đến kết luận: nạo phá thai là có hại về thể lý, nhất là phụ nữ - hại về tâm lý, đặc biệt nơi nữ giới (=mặc cảm giết con - sợ bị người tình bỏ) - hại về xã hội: đứa con sinh ra vô thừa nhận một cách vô tội, bất công, gánh nặng cho xã hội.
20. Đài BBC sáng 20/12/2000 đưa tin: Quốc hội Anh đã cho phép dùng phôi thai nguời tới 15 ngày tuổiđể nghiên cứu y học với hy vọng sẽ điều trị được một số ninh, ví dụ: Parkinson, bịnh quên trong tuổi già … Dĩnhiên quyết định của Quốc Hội Anh đã bị Giáo Hội Công Giáo lên án.
21. Huấn từ của Đức Gioan Phaolô II cho hàng giám mục Hungari về Roma “a limina” ngày 30/1/2001. Báo Oss. Rom. 6/2/2001 tr 4.
22. x. Oss. Rom. 6/2/2001 tr 9, bài của Hàn Lâm Viện Toà Thánh về sự sống bàn về vấn đề chết êm dịu.
23. x. người bệnh ung thư đi tìm ý nghĩa cuộc sống, Nxb Trẻ 1998 của Nt. Phạm Thị Oanh, chuyên viên tâm lý tư vấn giáo dục và tình yêu hôn nhân gia đình. Có nhiều chứng từ về vấn đề.
24. Trích trong báo Oss. Rom. 6/2/2001 tr 9.
25. Bản tuyên bố ở Madrid đã giới thiệu trên, phần IV.
26. x. Th. Rey Mermet, Ti, bản dịch Việt Ngữ của Phạm Minh thiện CSSR, tủ sách Tin. Quyến tập 2 tr. 96-102. Và xem Oss. Rom. 6/2/2001 tr 8 bài : allons-nous vers une socíeté eugénique? Của Gm. Bouchex, Avignon.
27. x. Piô XII, diễn từ ngày ngày 14/9/1952.
28. x. Tuổi Trẻ 9/3/1997.
29. Ở Hoa Kỳ có các tổ chức: National Institutes of Health (1996) và Institutional Review Boards (1974-1982). Ơ Pháp có Uy ban tư vấn về đạo đức: Comité Consultatif National d’éthique 1983.
30. Đài BBC sáng ngày 20/12/2000 nhắc lại tin: Hạ Viện Hà Lan đã cho phép đồng giới luyến ái được “kết hôn” hợp pháp với nhau giống như hôn nhân thường tình. Họ cũng được nhận con nuôi. Giáo Hội Công Giáo đã lên án.
31. Tuyên bố của Bộ GiáoLý Đức Tin, Persona humana, 8
32. x. OR. Số 48 ra ngày 28/11/2000.
33. Thánh Aug. De libero arbitrio 1,5,11
34. Piô XII, bài giảng 29/10/1951 trích trong sách Giáo lý đã dẫn số 2362
35. GS. 49,2; sách Giáo lý trích ở số 2362
36. x. chú giải của Naz 1 số 170
37. DC. 6 Avril 1997 số 2157 tr. 336 số 5. Cha Nguyễn Soạn dịch theo bản Pháp văn
38. x. Báo Questions actualles số Juillet - Aout 2000 dành chuyên đề l’ Ecologie
39. trích dẫn kết thúc tài liệu của UBGM Pháp lo về các vấn đề xã hội, ra ngày 13/1/2000. X. DC. 2000 số 2219 tr. 117-124
40. LHQ đã tổ chức hội nghị về bảo vệ môi sinh lần thứ nhất ở Stockholm, Thụy Điển năm 1972 - Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh họp tại Rio de Janeiro, Brazil kết thúc với bản Agenda 21 - chương trình hành động 21.
41. x. tạp chí Questions actuelles số tháng Juillet 2000 tr. 29
42. Ngài được đặt làm bổn mạng các nhà môi sinh năm 1978.
ÍT VẤN ĐỀ THỜI SỰ VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
A. ĐỒNG GIỚI LUYẾN ÁI (30)
Một vấn đề không còn là xa lạ ở Việt Nam. Đã gặp ở Toà Giải Tội cả nơi nam lẫn nơi nữ giới.
Thánh kinh ghi lại đôi trường hợp: x. Kn 19.1-29 và Rm 1,24-27; 1C 6,10; 1Tm 1,10. Truyền thống giáo huấn của Giáo Hội vẫn coi đó là những hành vi “theo bản chất lộn xộn ”( 31) trái luật tự nhiên. Đã nhiều nơi trên thế giới người ta đòi luật pháp đời công nhận và bảo vệ quyền được sống chung như thế ngang hàng với mọi quyền lợi của đời lứa đôi thật. Có nơi cũng đòi Giáo Hội công nhận như vậy. Gần đây, để yểm trợ cho đòi hỏi đó, có người dựa vào nghiên cứu khoa học cho rằng: những người có xu hướng đồng giới luyến ái là do gen cha mẹ để lại, và đâu kết luận tất nhiên sẽ là: các hành vi họ làm đều vô tội vì vô trách nhiệm.
Xét về mặt khách quan, các hành vi đồng giới luyến ái là “lộn xộn ”, có tội. Nặng hay nhẹ hoặc có khi không mắc tội là tuy ở các nạn nhân có tâm lý bình thường hay ít nhiều bất bình thường.
Xét về mặt mục vụ, là mục tử nhân lành, linh mục giải tội phải hết sức tế nhị khuyến thiện, nâng đỡ họ sửa sai.có thể giải tội cho họ, nếu đủ điều kiện.
B. SỐNG CHUNG MÀ KHÔNG KẾT HÔN
Ngày 21/11/2000, hội đồng Toà Thánh về Gia Đình (32) đã công bố văn kiện về các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn
Gần đây có nhiều ý kiến và phong trào vịn cớ nhân quyền đã nên tiếng yêu cầu quốc hội nhiều nước nhìn nhận tư cách pháp lý của các cặp nam nữ sống chung không kết hôn với quyền lợi được bảo vệ như luật hôn nhân
Rõ ràng, điều bất thường muốn được ngang hàng với định chế hôn nhân về mặt pháp lý. Tình trạng này gây nên nhiều hậu quả trầm trọng cho xã hội và Giáo Hội
Vì thế văn kiện Toà thánh nhằm giúp các vị mục tử biết ứng xử mục vụ thế nào đối với lớp người này (xem văn kiện phần 6). Chủ yếu, Toà thánh nhắc lại giá trị, phẩm giá của khế ước hôn nhân - phải lo phòng ngừa tệ nạn nhờ dạy giáo lý về hôn nhân và gia đình - những người công giáo công tác về chính trị hay luật pháp phải theo đúng giáo lý của Phúc âm
Khi nghị viện Châu Au biểu quyết công nhận “các cặp nam nữ sống chung mà không kết hôn” (gọi là coples de fait), các cặp đồng giới luyến ái được hưởng qui chế ngang hàng với định chế gia đình, thì hội đồng toà thánh về gia đình đã ra tuyên bố này 17/3/2000 rằng: “Pháp chế đó đi ngược lại công ích và nghịch lại sự thật về con người; nói cho đúng đó là điều bất chính”. Bản tuyên bố còn đánh giá các lối sống đó không xứng với tầm vóc của một luật lệ, “Non videtur esse lex, quae justa non fuerit” (33). Do đấy, họ không đủ điều kiện để được giải tội, dù phải cư xử với họ trong tình yêu thương.
C. LIÊN QUAN ĐẾN ĐỜI SỐNG THÂN MẬT VỢ CHỒNG
Mọi Kitô hữu phải sống đức trong sạch tuỳ theo bậc sống của mình: Đời độc thân tận hiến cho Chúa - đời đôi bạn - đời hứa hôn (GLHTCG 2349) và tuyên bố của bộ Giáo lý đức tin, (Persona humana số 11)
Vợ chồng sẽ “chẳng làm điều gì xấu khi tìm kiếm và tận hưởng khoái lạc (=xác thịt). Họ đón nhận những gì Đấng Sáng Tạo đã ban cho họ” (34)
Riêng các “hành vi thực hiên sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quí và chính đáng. Được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn” (35), “dù vợ chồng (cũng phải) vượt qua xu hướng nhục dục thuần tuý,… nếu được sùng bái một cách ích kỷ, sẽ… kéo theo những hậu quả thảm hại ”< br>Một vấn đề thời sự nóng bỏng của đời vợ chồng là làm thế nào để điều hoà sinh sản. Công đồng đã nhận định rất thẳng thắn “muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hoà, đôi bạn thường vấp phải một số tình huống sinh sống khó khăn hiện tại và có thể lâm vào những tình cảch khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian; đó là lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và chung sống trọn vẹ” (Gs 51,1)
Trong ứng xử cụ thể, giữ đúng cương vị nhà giáo dục, chúng ta không nên chọn biện pháp ngừ thụ thai nào thay cho vợ chồng, dù được hỏi, cùng lắm trừ bác sĩ. Cũng không kết án gì dù biết họ đã xử dụng cách thế chưa hợp đạo dạy. Cứ khách quan trình bày rõ ràng giáo huấn của Giáo hội, rồi để họ “chọn lấy trước mặt Thiên chúa” (Gs 50.2) vì tin tưởng vào khả năng quyết định của một Kitô hữu trưởng thành, duf còn vấp váp và tiệm tiến. Vả lại, luật lệ nào cũng do con người soạn ra, kể cả Giáo Hội, cũng không thể tránh hết mọi hạn chế. Vì vậy khi thực tế cuộc sống không đủ điều kiện buộc thi hành luật thì tín đồ lỏng lay theo lương tâm thực tình mà coi luật đó chưa có thể áp dụng. Đó là nguyên tắc epikeia của Giáo Hội (36).Nguyên tắc đó tìm thi hành chủ đích thật của luật buộc (finis legis) hơn là làm theo mặt chữ. Ngày nay vì trọng tự giác trách nhiệm hơn, công đồng Vaticanô II nêu nguyên tắc sử xự phổ cập như sau: “Đừng lầm tưởng các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng. Cũng đừng lầm tưởng các chủ chăn vốn có sứ mệnh ấy. Nhưng tốt hơn là chính họ được đức khôn ngoan Kitô Giáo soi dẫn và cẩn thận chú ý các Giáo huấn của Giáo hội, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình” (Gs 42,4). Y ngay lành được bảo đảm bằng lòng thánh kính và lương tâm ngay thẳng vừa tỏ ra lòng trọng luật Giáo hội, vừa biểu lộ ý chí trung thành với ý Chúa xuyên qua một hoàn cảnh cụ thể. Phải chăng cũng chiều hướng mục vụ thiết thực đó mà Đức Phao Lô VI đã khuyến cáo các linh mục phải “trình bày minh bạch giáo huấn của Giáo hội về Hôn nhân”, đồng thời “phải làm theo đức nhẫn nại và hiền từ như chính Chúa đã nêu gương trong cách cư xử với tha nhân. Ước gì các vợ chồng luôn luôn gặp được trong lời nói, nơi con tim các linh mục âm vang tiếng nói và tình yêu của Đấng Cứu Thế,… Hãy chuẩn bị cho họ thường xuyên và tin tưởng chạy đến các bí tích Thánh Thể và Cáo Giải. Đừng bao giờ để họ ngã lòng vì yếu đuối” (HV 29). Với chính đôi bạn còn vấp ngã, đức Phao lô VI khuyến khích: “Nếu tội lỗi còn đè nặng trên họ thì họ cũng đừng nản chí ngã lòng, nhưng với lòng khiêm cung bền bỉ, họ hãy cầu khẩn lòng nhân từ Chúa như Bí tích Cáo giải” ( HV25). Đừng nản chí ngã lòng, vì tiến bộ nơi con người thường phải có thời gian và phải lên núi xuống đèo, chứ không lên như máy bay!
Dù sao, uỷ ban Giáo Hoàng về Gia Đình đã cho linh mục giải tội một nguyên tắc thật yên tâm:
“Vị Giải tội buộc phải báo cho hối nhân biết những vi phạm luật Chúa tự chúng là nặng. Phải làm cho họ ước mong được giải tội, được Chúa tha thứ và dôc quyết nghiêm túc tu sửa cách sống của họ. Sự sa đi ngã lại những tội ngừa thai, không phải tự nó là lý do để từ chối ban xá giải; chỉ có thể từ chối ban xá giải khi hối nhân thiếu ăn năn hoặc dốc lòng chừa” (37)
Chúa Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi” (Ga 10,14). Sự hiểu biết và tấm lòng cảm thông của Chúa, bao hàm trong chữ “biết” đã được tỏ rõ khi ứng xử vụ một phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-11). “tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa ”. Am tường tội trạng và tâm tư sợ chết của chị, Chúa đã tìm ra lối thoát may mắn và khích lệ chị biến đổi cuộc sống
Trong vụ xử kiện cho hai gái điếm dành giựt con, vua Salomon (1V 3,16-28) đã thấu cảm hết lòng người mẹ. Nhờ thế Vua đã cứu được đứa bé, nhờ bà mẹ thật của nó vừa sẵn lòng thà mất con hơn để con mình bị vua phân đôi. “Thưa Chúa thượng, xin Ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống, còn giết chết nó thì xin đừng” trái lại chị không sinh ra nó đã thuận tình theo ý vua: “Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia đôi ra!” (26)
Hai thái độ ứng xử đáng gẫm suy khi chúng ta ngồi toà. Nếu vì tôn trọng sự thật khách quan, phải quy chiếu vào nguyên tắc, thì thái độ ứng xử có lý có tình như người trong cuộc, sẽ dễ thuyết phục và cảm hoá lòng người hơn.
NB: Luật Hôn Nhân và Gia Đình của nước CHXHCNVN năm 1986, theo thiển ý của chúng tôi có nhiều điểm phù hợp với Giáo Lý Công Giáo trừ vấn đề Ly Hôn.
Đã có Luật Hôn Nhân và Gia Đình mới công bố tháng 6/2000. Song chúng tôi chưa đọc nội dung để có ý kiến.
PHẦN III.
KITÔ HỮU TRƯỚC VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SỐNG (38)
A. MỘT VẤN ĐỀ THỜI SỰ NÓNG BỎNG
1. Thực trạng môi trường sống
Saint-Exupery đã nhắc nhở mọi người : “Chúng ta không thừa hưởng trái đất của tổ tiên chúng ta, chúng ta mượn trái đất đó của con em chúng ta. (39)”
Hàng tháng nếu không phải hàng tuần, đài báo thông tin những biến động về môi sinh trên khắp thế giới: nạn ô nhiễm bầu khí quyển - tầng ô-zôn bỉ thủng lớn, khiến khí hậu và thời tiết đổi thay khôn lường. Các nhà máy thải khí cacbon quá nhiều, khiến trời nóng hơn, gây lũ lụt, giông bão bất thường - chiến tranh làm cho bạt ngàn hecta đất bị bỏ trống - nạn phá rừng kiến đất hoang hóa, gây nạn thiếu nguồn nước dự trữ v.v.. Ngay tại Việt Nam, chúng ta không quên được cơn lũ lụt thế kỷ ở miền trung năm 1999 - nạn ô nhiễm nguồn nước hay môi trường sống ở nơi này nơi nọ - nạn săn bắt lậu các vật quý hiếm - nạn bắt cá bằng chất nổ v.v…
Đã có nhiều báo động dư luận về nguy cơ mất thăng bằng sinh thái (40). Song còn cần đưa báo động thành phong trào rộng khắp nữa thì may ra cứu vãn vớt vát được môi trường sống hiện nay của thế giới. Phải thức tỉnh cho dư luận quần chúng nhìn nhận bảo vệ môi sinh là vấn đề sinh tử của loài người, là vấn đề đạo đức cấp bách hầu cải tạo cách ngĩ cách sống cách làm hợp đạo làm người đối với thiên nhiên cũng như đối với môi trường sống. Phải xác tín rằng: trái đất là của mọi người chứ không dành riêng cho ai hay riêng một lớp người nào, nước nào. Vì thế phải chung lưng đấu cật mà bảo vệ, khai thác hợp lý để phục vụ mọi người.
2. đâu là những nguyên cớ gây rối loạn môi sinh?
Mất ý thức đạo đức về trách nhiệm đối với môi sinh đồng thời có nghĩa vụ bảo vệ nó, thể hiện qua tahái độ coi thường sự sống, coi khinh con người là nguyên cớ chủ yếu. Chẳng hạn tiến bộ khoa học và kỹ thuật ngày nay đã đem lại nhiều cải thiện cho đời sống con người. Đó cũng là biểu chứng con người đã cộng tác với trách nhiệm vào công trình sáng tạo của thiên Chúa. Song cùng lúc người ta không nhìn đến các hậu quả tác hại lâu dài cho những người sống chung quanh hoặc cho nơi mình không có liên hệ. Vì thế say mê phát triển khai thác thiên nhiên mà ít quan tâm đến hậu quả tác hại người khác, nơi khác chịu. Chẳng hạn nạn “đào vàng” ở Tiên Phước, Quảng Nam. Nhà máy hóa chất ở đầu nguồn thải chất độc ra sông Danube ở Hung gary, gây ô nhiễm và chết sinh vật trong sông. Nổ mìn bắt cá phá hại luôn san hô ở Hạ Long với mọi sinh vật cư trú trong đó …. Thật là sống chết mặc bây miễn tôi được lợi. Sử dụng và khai thác môi trường để phát triển phải luôn luôn kèm theo nhận thức nhân đạo: mình vì người khác, người khác vì mình.
Biểu chứng cho thái độ thờ ơ, coi thường ấy, Hiệp Hội Các Giám Mục Á Châu = FABC họp tại Tagaytay, Philippine từ 31/1 đến 5/2/1993, đã bày tỏ lo âu về môi trường sống ở Á Châu (41) như sau: nạn phá rừng làm xói lở núi đồi gây lũ lụt và hạn hán - nạn tích tụ khí hiệu ứng nhà kiếng, đặc biệt thán khí làm cho trái đất nóng lên - nguồn năng lượng bị cạn kiệt dần vì ưu tiên cho chủ nghĩa sản xuất đe dọa chất lượng cuộc sống của các thế hệ mai sau - nguồn sinh vật biển giảm đi trầm trọng do đánh bắt bằng chất nổ phá hoại san hô kèm theo nạn đổ chất thải độc hại vào ven biển - thải bừa bãi các chất độc hại của thành phố …. - cho thoát các chất phóng xạ giết người gây bao trọng bệnh - hoa màu bị nhiễm độc do dùng thuốc trừ sâu không hạn chế - dân số phát triển quá nhanh, khiến làm cạn kiệt dần nguồn thực phẩm - di rời dân vì mở mang xây dựng như đập thủy điện, làm xa lộ, đường sắt.
Có thể gồm tóm các nguyên cớ trên vào ba nguyên cớ trọng điểm sau đây:
- Dân quá nghèo nên bụng đói chân phải bò.
- Lòng tham vô đáy của con người - chỉ theo chủ nghĩa sản xuất.
- Không mấy ai ý thức về cuộc khủng hoỉang môi sinh trên thế giới.
B. KITÔ HỮU PHẢI NGHĨ GÌ VÀ LÀM GÌ VỀ MÔI SINH?
THỨ NHẤT: phải quan niệm đúng về vũ trụ. Trời đất và vạn vật trong đó là một thể thống nhất hài hòa. Con người phải tôn trọng trật tự đó. Thiên Chúa giao vũ trụ cho loài người “thống trị nó” (x. Kn 1,28) bằng quản lý, khai thác, phát triên và làm đẹp theo sự bảo toàn hệ sinh thái thống nhất hài hòa, ích lợi cho mọi người chứ không phải được tự ý làm gì tùy thích. Công đồng Vatican 2 đã nhắc lại sự thật ấy như sau: “Thiên Chúa đã ấn định cho trái đất và mọi cái nó chứa chất nên hữu dụng cho mọi người và mọi dân nước” (GS số 69). Bởi vậy thật là bất công xã hội khi người ăn không hết người lần không ra ! Thiên Chúa Sáng Tạo mà Kitô hữu tôn thờ là một Thiên Chúa yêu thương, công bằng và có chủ trương giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc bất công phi lý. Vì vậy Kinh Tạ Ơn IV ca lên: “Chúa đã lấy thượng trí và tình thương mà sáng tạo muôn loài. Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao cho trách nhiệm trông coi vũ trụ, để khi phụng sự một mình Chúa là đấng Tạo Hóa, con người làm chủ mọi loài thọ sinh” trong hài hòa và cân bằng sinh thái . Điều này xảy ra hàng ngàytrong cuộc sống thiên nhiên. Mươi năm trước đây, huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam đã mất mùa lớn vì nạn chuột nhiều quá phá hết lúa trồng. Hỏi ra thì một nông dân trả lời rất đúng hệ sinh thái mà chính họ không hiểu ra: người ta đua nhau săn bắt hết rắn bán cho Trung Quốc, vì thế chuột phát triên rất nhiều. Cách đây vài tháng đài THVN cho chiếu phóng sự việc cả ngàn dân tụ tập đào vàng ở vùng cao huyện Trà My, Tiên Phước tỉnh Quảng Nam. Hậu quả cho dân vùng hạ lưu sông ngòi: môi trường sống đã tiêu diệt hết tôm cá, lại còn làm hư đất không trồng trọt được, do nhiều hoá chất của lọc vàng… Cha ông ta nói: sai một ly đi một dặm là thế. Lũ lụt lới mấy năm qua phải chăng không do nạn phá rằng phần nào? Tính cái lợi ngắn hạn và trước mắt, làm mất hết lại lợi sống còn lâu dài của người khác, nơi khác. Con người được quyền “thống trị địa cầu, làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật” (Kn 1,28), song không phải là chúa tể tuyệt đối và ích kỷ, độc quyền theo kiểu sống chết mặc bay. Người ta có quyền xử dụng vũ trụ, song không có quyền lạm dụng nó. Phải điều hành nó với trách nhiệm và với tinh thần liên đới với kẻ khác. Thái độ tôn trọng cân bằng hài hoà sinh thái được tỏ rõ trong lệnh Chúa ban bố cho dân Chúa xưa: “Trong sáu năm ngươi sẽ gieo vãi ruộng ngươi (…) và gặt lấy hoa lợi; nhưng đến năm thứ bảy sẽ có Hưu lễ đại hưu cho đất đai (…) Người sẽ không gieo (..) không tỉa. Lúa chín ngươi sẽ không gặt, nho không tỉa mà đơm quả, ngươi sẽ không hai; đó là năm hưu lễ cho đất đai”. “Ngươi sẽ tính bảy tuần năm, (…); thời gian bảy tuần năm sẽ là bốn mươi chín năm.(…). Các ngươi sẽ thánh hóa năm thứ năm mươi (…) rao (…) ân xá cho toàn thể dân cư. (…) Mỗi người sẽ về lại sản nghiệp của mình (..) Năm ấy các ngươi sẽ không gieo, không gặt lúa sót mọc lại, và không hái vườn nho bỏ hoang” (Lv 25,1…12). Cha ông chúng ta thường nói, dù không thể tuyệt đối đúng: trời sinh voi trời vinh cỏ: “hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng ”( Mt 6,26).
Thứ hai: Kitô hữu hãy học cho biết chiêm ngưỡng, thưởng thức, bảo vệ quang cảnh hùng vĩ, vẻ đẹp của thiên nhiên. Vì thiên nhiên là phản quang sự tốt lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Sách GLC viết: “Các tạo vật khác nhau phản ảnh mỗi vật một cách, theo bản chất riêng của chúng, một tia sáng của sự khôn ngoan và của sự tốt lành vô cùng của Thiên Chúa. Bởi vậy người ta phải tôn trọng sự tốt lành riêng biệt của mỗi tạo vật để tránh đừng xử dụng chúng một cách mất trật tự, khinh bỉ Đấng Tạo Hóa.” (số 339). Thánh vịnh 19 đã xác nhận:
“Vinh quang Thiên Chúa
trời thăm thẳm vang lời kể lể
và vòm cao xanh thuật lại
việc của tay Người. (câu 2)
như vậy Kitô hữu dấn thân bảo vệ môi sinh lại là một cách biểu lộ lòng kính tin và yêu mến đối với đấng dựng nên trời đất muôn vật. Trong sứ điệp ngày quốc tế hòa bình năm 1990, Đức Gioan Phaolô II đã giới thiệu thánh Phanxicô thành Assidi như tiêu biểu cho những ai tha thiết với môi trường sống qua bài ca tụng tạo vật thiên nhiên của thánh nhân: (42)
“Lạy Chúa, xin cho Chúa
được chúc tụng ngợi khen
nơi mọi loài Chúa đã dựng nên,
nhất là nơi anh Mặt Trời
nhờ anh, Chúa cho chúng con
ánh sáng ban ngày. Anh đẹp quá,
tỏa ra ánh sáng rực rỡ
và là biểu tượng của Chúa, Đấng Tối Cao…
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa
Vì chị Nước của con.
Chị rất hữu ích và rất khiêm nhường,
Chị thật quý hóa và thanh tịnh ….
Lạy Chúa, chúc tụng Chúa
Vì chị Đất, mẹ chúng con
Chị cưu mang và nuôi dưỡng chúng con
Chị sinh ra đủ các thứ trái cây
Và muôn hoa sặc sỡ và cỏ xanh …” (x. GLC số 344)
Nếu có đức tin, du lịch sinh thái hoặc tham quan thắng cảnh quả là cơ hội để gặp Chúa nơi tạo vật thiên nhiên.
Thứ ba: bảo vệ môi sinh đã vượt tầm tay của mỗi người, mỗi nước.
Ở chung cư thì mọi người phải quan tâm săn sóc, bảo vệ nó. Sẽ không thể giải quyết mọi nguyên cớ gây khủng hoảng môi sinh (x. phần A), nếu không có hợp tác quốc tế. Thật đáng mừng, những thao thức môi sinh đã được quốc tế quan tâm qua các hội nghị ở Stockholm và Rio de Janeiro. Phản ứng dữ dội của quốc tế chống lại Hoa Kỳ qua tuyên bố của tổng thống G. Bush tuần vừa qua, quyết đinh rút khỏi cam kết ở Tokyo năm trước về giảm thải khí cacbon vào khí quyền, cho thấy rõ lòng Hoa Kỳchỉ nghĩ “bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ” theo như ông Bush nói.
Đang khi đó Hoa Kỳ là nước thải khí ấy ra tới ¼ của thế giới.
Thứ bốn: chiến tranh, đói khổ, phát triển dân số nhanh vẫn là cơ hội tốt cho việc hủy hoại môi trường sống. Chính vì vậy Đức Gioan Phaolô II đã chọn chủ đề cho ngày quốc tế về Hòa Bình cho năm 1999 là: “La paix avec Dieu Créateur, la Paix avec toute la création” (x. DC. 1990 số 1997 tr. 9-12).
CHÚ THÍCH:
1. Vừa khởi sự viết bài này, ngày 2/3/2001 đài THVN, VTV2, lúc 14g15 - 14g35 đã phát hình một phóng sự bàn tròn về nhân bản con người theo phương pháp vô tính (= vô phối), với cuộc tranh cãi giữa một số nhà khoa học nước ngoài. Rõ ràng có hai lập trường ủng hộ và chống đối, với kết luận: chừng 50 năm nữa, vấn đề hiển nhiên được dư luận chấp nhận, kể cả về pháp luật. Và sự thành công nhân bản con người không còn là vấn đề khó khăn lắm nữa. Song le tự hỏi: con người có thật sự là người với mọi giá trị thể chất (dĩ nhiên có thể thành tựu) và tinh thần (là điều có nhiều lý do e ngại) không ?
2. Jan Wilmut, năm 2001 được 56 tuổi.thời sinh viên ông nghiên cứu nông học tại Nottingham University rồi lấy bằng tiến sĩ chuyên ngành về nghiên cứu làm lạnh tinh dịch lợn. Sau đó tiếp tục làm luận án tiến sĩ về phôi đông lạnh. Năm 1974, chuyển nghiên cứu tại Roslin. Sau khi con cừu Dolly ra dời (chỉ chính thức công bố vào 25/2/1997, gây chấn động thế giới vì chú cừu sinh ra bằng phương pháp sinh sản vô tính, tạm dịch anh ngữ là clone), Wilmut hằng lo lắng về phát minh của mình vì những hậu quả khôn lường của cách sinh sản vô tính.
3. Rất tiếc tôi không nhớ số và ngày phát hành.
4. Đó là lấy một tế bào của động vật mẫu đem cấy vào trứng rỗng (= đã lấy hết nhiễm sắc thể) của một động vật mẫu thứ hai. Sau đó đem cấy vào tử cung của một động vật mẫu thứ ba cho nó mang thai. Thế là sẽ có được con vật (ví dụ cừu, khỉ, bò…) thứ tư giống hệt (= bản sao) con vật đầu tiên. - như vậy theo nguyên tắc khoa học, có thể dùng cách sinh sản vô tính mà tạo nên loạt người in hệt con người mẫu thứ nhất,ví dụ: một nhà bác học thiên tài, một tên cướp … kết luận rõ ràng: trong chừngmực nào đó, ranh giới giữa khoa học và đạo đức bị đe dọa nghiêm trọng và chắc chắn sẽ mang lạinhững hậu quả.
5. Le Point 3, 1997
6. Báo Lao Động 13/3/1997 dẫn dịch theoTime, Newsweek, Who. Thật ra theo Mc Gee ý nghĩ nhân bản hàng loạt những kẻ hủy diệt loài người đã có từ năm 1978 với bộ phim kinh dị “The Boys from Brazil” hay “Multiplicity” năm 1996.
7. x. báo Lao Động ra 13/3/1997.
8. xem lại các chú thích trên.
9. Gs. Ngô Đạt Tam, giám đốc trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người
10. J. Fisches, La vie de Mahatma Gandhi, dịch theo bản dịch Pháp văn, tr. 398
11. x. Xh 20,13; Tl 5,17.
12. Donum vitae, của J. Phaolô II số 5, trong Sách Giáo Lý của GHCG số 2258
13. Kn 1,26
14. x. chú thích Kn 1,26, chữ r
15. L. Fischer, La vie du Mahatma Gandhi, Calmann Lévy 1952 tr. 282.
16. Lm. Nguyễn Thế Thuấn chú thích.
17. Trích trong Vì Độc Lập, Tự Do, Vì Chủ Nghĩa Xã Hội, Sự Thậ, Hà Nội 1970 tr. 53.
18. Sens Chrétien de l’homme tr. 159.
19. Ngày 16/12/2000, VTV2 lúc 14g00 có một ph1ong sự về nạo thai tại việt Nam. Phóng sự rất cởi mở, thẳng thắn và tích cực với mục đích cảnh báo dư luận để ngăn chặn bớt nạn đó:
- nạo phá thai tịa Việt Nam càng ngày càng tăng. Riêng thành phố Hà Nội, hàng năm có tới 6.000 vụ qua những trung tâm y tế chính thức.
- giới trẻ nhất là lớp tuổi trước kết hôn, kể cả một số không nhỏ là vị thành niên.
- cuộc trao đổi (gồm chuyên gia tâm lý, bác sĩ khoa sản, đặc trách dân số và mấy thanh niên nam nữ) đưa đến kết luận: nạo phá thai là có hại về thể lý, nhất là phụ nữ - hại về tâm lý, đặc biệt nơi nữ giới (=mặc cảm giết con - sợ bị người tình bỏ) - hại về xã hội: đứa con sinh ra vô thừa nhận một cách vô tội, bất công, gánh nặng cho xã hội.
20. Đài BBC sáng 20/12/2000 đưa tin: Quốc hội Anh đã cho phép dùng phôi thai nguời tới 15 ngày tuổiđể nghiên cứu y học với hy vọng sẽ điều trị được một số ninh, ví dụ: Parkinson, bịnh quên trong tuổi già … Dĩnhiên quyết định của Quốc Hội Anh đã bị Giáo Hội Công Giáo lên án.
21. Huấn từ của Đức Gioan Phaolô II cho hàng giám mục Hungari về Roma “a limina” ngày 30/1/2001. Báo Oss. Rom. 6/2/2001 tr 4.
22. x. Oss. Rom. 6/2/2001 tr 9, bài của Hàn Lâm Viện Toà Thánh về sự sống bàn về vấn đề chết êm dịu.
23. x. người bệnh ung thư đi tìm ý nghĩa cuộc sống, Nxb Trẻ 1998 của Nt. Phạm Thị Oanh, chuyên viên tâm lý tư vấn giáo dục và tình yêu hôn nhân gia đình. Có nhiều chứng từ về vấn đề.
24. Trích trong báo Oss. Rom. 6/2/2001 tr 9.
25. Bản tuyên bố ở Madrid đã giới thiệu trên, phần IV.
26. x. Th. Rey Mermet, Ti, bản dịch Việt Ngữ của Phạm Minh thiện CSSR, tủ sách Tin. Quyến tập 2 tr. 96-102. Và xem Oss. Rom. 6/2/2001 tr 8 bài : allons-nous vers une socíeté eugénique? Của Gm. Bouchex, Avignon.
27. x. Piô XII, diễn từ ngày ngày 14/9/1952.
28. x. Tuổi Trẻ 9/3/1997.
29. Ở Hoa Kỳ có các tổ chức: National Institutes of Health (1996) và Institutional Review Boards (1974-1982). Ơ Pháp có Uy ban tư vấn về đạo đức: Comité Consultatif National d’éthique 1983.
30. Đài BBC sáng ngày 20/12/2000 nhắc lại tin: Hạ Viện Hà Lan đã cho phép đồng giới luyến ái được “kết hôn” hợp pháp với nhau giống như hôn nhân thường tình. Họ cũng được nhận con nuôi. Giáo Hội Công Giáo đã lên án.
31. Tuyên bố của Bộ GiáoLý Đức Tin, Persona humana, 8
32. x. OR. Số 48 ra ngày 28/11/2000.
33. Thánh Aug. De libero arbitrio 1,5,11
34. Piô XII, bài giảng 29/10/1951 trích trong sách Giáo lý đã dẫn số 2362
35. GS. 49,2; sách Giáo lý trích ở số 2362
36. x. chú giải của Naz 1 số 170
37. DC. 6 Avril 1997 số 2157 tr. 336 số 5. Cha Nguyễn Soạn dịch theo bản Pháp văn
38. x. Báo Questions actualles số Juillet - Aout 2000 dành chuyên đề l’ Ecologie
39. trích dẫn kết thúc tài liệu của UBGM Pháp lo về các vấn đề xã hội, ra ngày 13/1/2000. X. DC. 2000 số 2219 tr. 117-124
40. LHQ đã tổ chức hội nghị về bảo vệ môi sinh lần thứ nhất ở Stockholm, Thụy Điển năm 1972 - Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh họp tại Rio de Janeiro, Brazil kết thúc với bản Agenda 21 - chương trình hành động 21.
41. x. tạp chí Questions actuelles số tháng Juillet 2000 tr. 29
42. Ngài được đặt làm bổn mạng các nhà môi sinh năm 1978.