ĐGM GIUSE VŨ DUY THỐNG
GIÁM MỤC PHỤ TÁ TỔNG GIÁO PHẬN SÀI GÒN

BẢY LỜI CỦA ĐỨC MARIA & ĐỜI SỐNG LINH MỤC



GIẢNG TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN PHAN THIẾT TỪ NGÀY 5 ĐẾN 9/1/2009

LỜI THỨ NHẤT Lc 1, 26-34 Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

BIẾT MÌNH “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34) I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA 1. Từ thái độ bối rối 2. Đến câu hỏi “thế nào?” 3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH 1. Biết mình 2. Linh mục và lời “tôi biết” 3. Linh mục và lời “tôi không biết” LỜI THỨ HAI Lc 1, 35-38 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

VÂNG PHỤC “Này tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38) I. LỜI XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA 1. “Này tôi” 2. “là tôi tá Đức Chúa Trời” 3. “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” II. SỰ VÂNG PHỤC TRONG ĐỜI LINH MỤC 1. Vâng phục là thành phần cuộc đời linh mục 2. Vâng và phục 3. Vài lãnh vực đang cần đến sự vâng phục

LỜI THỨ BA Lc 1, 39-45 Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

BẰNG HỮU Đức Maria vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elizabeth (Lc 1,40) I. TÌNH BẰNG HỮU CỦA ĐỨC MARIA 1. Vội vã lên đường 2. Vui vẻ gặp gỡ 3. Vồn vã giúp đỡ II. TÌNH BẰNG HỮU TRONG ĐỜI LINH MỤC 1. Từ tình bằng hữu đời thường 2. đến tình bằng hữu linh mục đoàn 3. Vấn đề thực tế

LỜI THỨ TƯ (Lc 1, 46-56) Bấy giờ bà Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới: Từ nay hết mọi đời Sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, Như đã hứa cùng cha ông chúng ta, Vì Người nhớ lại lòng thương xót Dành cho tổ phụ Abraham Và cho con cháu đến muôn đời”. Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

KINH MAGNIFICAT “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-55) I. KINH MAGNIFICAT CỦA ĐỨC MARIA 1. Nhãn giới mầu nhiệm 2. Nhãn giới sứ vụ 3. Nhãn giới hiệp thông II. KINH MAGNIFICAT TRONG ĐỜI LINH MỤC 1. Ngợi khen bằng đời sống linh mục đích thực 2. Ngợi khen bằng đời sống linh mục gương mẫu 3. Ngợi khen bằng đời sống sứ vụ nhiệt thành

LỜI THỨ NĂM Lc 2, 41-52 Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chugn với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hăng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta. MỤC VỤ TÌM KIẾM CHIÊN LẠC “Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48) I. LỜI CỦA ĐỨC MARIA 1. Từ sự cố trẻ Giêsu ở lại Đền Thờ 2. Đến lời đối đáp giữa hai mẹ con 3. Để sáng lên lời mời gọi vượt qua II. LỜI THỨ NĂM VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC 1. Sứ mạng tìm kiếm chiên lạc 2. Những bóng dáng chiên lạc hôm nay 3. Những bước chân không mỏi

LỜI THỨ SÁU Ga 2, 1-4 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”.

MỤC VỤ GIA ĐÌNH “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3) I. LỜI “HỌ HẾT RƯỢU RỒI” 1. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông tin 2. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông cảm 3. “Họ hết rượu rồi”: một lời chuyển cầu II. LỜI THỨ SÁU TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC 1. Khi cuộc sống gia đình “hết rượu” 2. Mục vụ với trái tim 3. Nhờ Mẹ Chúa Giêsu chuyển cầu

LỜI THỨ BẢY Ga 2, 5-11 Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”. Và họ đã đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

MỤC VỤ LỜI CHÚA “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5) I. LỜI THỨ BẢY CỦA ĐỨC MARIA 1. “Người” 2. “bảo gì” 3. “các anh cứ việc làm theo” II. LỜI THỨ BẢY VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC 1. Gặp gỡ Lời Chúa 2. Thực hành Lời Chúa 3. Giảng Lời Chúa

BIẾT MÌNH

“Việc đó được xảy đến thế nào,

vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34)

Có một bài thánh ca từ lâu đã nổi tiếng, nhưng từ hơn một năm nay lại càng nổi tiếng hơn. Nổi tiếng vì nội dung phong phú như ánh sáng muôn đời soi dẫn cuộc đời phụng sự, nhưng cũng nổi tiếng vì cách vận dụng bài thánh ca ấy trong những tình huống cụ thể để trở thành bài ca thời sự cho người có đạo cũng như cho người ngoại đạo, cho tín hữu trong nước cũng như cho tín hữu ngoài nước. Bài ca là lời kinh gieo tin yêu hy vọng và nhất là khi được hát cộng đồng đã trở thành sức mạnh làm chứng đức tin, bất kể những khó khăn mọi mặt. Đó là bài hát cha Kim Long phổ nhạc lời “Kinh hoà bình” của thánh Phanxicô Khó Khăn mà hầu như mọi tín hữu Việt Nam đã thuộc nằm lòng. Bài hát là một lời kinh tin tưởng mở đường mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, cũng là bài ca vẽ lên chương trình phục vụ và yêu thương mọi người trong Chúa. Bài hát là kinh nguyện hoà bình dâng lên Chúa và cũng là ước nguyện đấu tranh bất bạo động gửi gắm cho con người.

Bản thân, khi được hoà vào dòng chảy hoà bình mạnh mẽ ấy, nhất là với ánh nến trên tay giữa bóng tối vây quanh, tôi cũng cảm nhận được những nghịch lý quắt quay của hành trình đức tin Kitô giáo. Hôm nay, nếu được hát bài ca này giữa cộng đoàn, xin chỉ dừng lại trong một nghịch lý cũng là chân lý ngàn đời của người phụng sự: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”, để thấy được rằng khi quên mình tưởng là không biết mình mà kỳ thực lại là cách khẳng định mình đẹp nhất, cũng như nói “mình không biết” lại là cách diễn tả “mình biết mình” hơn cả bao giờ.

Lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm là lời khẳng định Mẹ không biết, nhưng chính lại là lời cho thấy Mẹ biết mình rất rõ để từ đó làm cơ sở mà bước vào chương trình của Thiên Chúa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”. Trong khuôn khổ của những ngày tĩnh tâm linh mục, chúng ta trước hết sẽ tìm hiểu ý nghĩa lời của Đức Maria trong bối cảnh năm xưa, và tiếp theo sẽ xét xem lời đó rọi sáng điều gì trên đời sống hôm nay của linh mục.

I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA

1. Từ thái độ bối rối

Khi thốt lên lời thứ nhất, Đức Maria đang ở trong một hoàn cảnh khó xử. Khó xử bên ngoài có thể vì sự xuất hiện của một gương mặt lạ trong nhà mình, cho dẫu với kiến thức truyền thống của một thiếu nữ Sion ngoan đạo, Mẹ đã chẳng lạ gì với những tên tuổi thiêng liêng phụng mệnh Thiên Chúa. Trình thuật Phúc Âm đã không vòng vo để gọi tên vị khách lạ ấy là thiên sứ Gabriel. Sự xuất hiện của một người lạ phàm nhân như người hàng xóm chẳng hạn, có lẽ không gây khó xử vì là chuyện thường ngày; nhưng khi sứ thần Thiên Chúa đến gặp ai thì không còn là chuyện thường ngày nữa, mà xem ra đã là chuyện trọng đại ngoại thường. Nhưng khó xử bên trong nội dung câu chuyện trao đổi, từ lời chào cho đến sứ điệp chuyển đạt, mới là điều đáng nói. Nghe những lời ấy, ruột gan Đức Maria rối bời. Có thể lý giải những bối rối của Đức Maria, dựa trên chính lời nói của thiên sứ Gabriel.

Bối rối thứ nhất: Hồng ân Chúa quá cao, phận mình lại bé nhỏ. Trước lời chào đặc biệt của thiên sứ “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”, Đức Maria đã cảm nhận một bầu khí hồng ân đang bao bọc lấy mình. Đây không chỉ là lời chào thông thường, mà còn là lời xác nhận Thiên Chúa luôn hiện diện hỗ trợ. Đây cũng không chỉ là lời chào khuôn định xã giao, mà còn là lời mời gọi hãy mừng vui lên vì được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn để góp công góp sức góp thân góp phận vào công trình yêu thương của Ngài. Tiếng chào cao hơn mâm cỗ. Nếu mâm cỗ ở đây là ân sủng đầy tràn của Thiên Chúa, thì lời chào “Mừng vui lên” đã được đẩy lên tầm cao tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.

Lạ lùng lắm sứ thần Gabriel sử dụng từ “kêcharitômênê - đầy ân sủng” áp dụng cho người trần, nên càng hiểu hơn nữa tâm tình phản tỉnh của Đức Maria. Trong tiếng Việt, có thể phân tích bằng ba chữ “đ” = “đã được đầy”. 1/ đã: Từ muôn đời Thiên Chúa đã thương ban ơn và Ngài còn luôn ban ơn cho đến ngàn sau (chiều dài); 2/ được: Những ơn sủng Đức Maria có đều là nhận được từ Thiên Chúa tình thương (chiều cao); 3/ đầy: Tràn lan, chứa chan, trọn vẹn mỗi ơn và toàn vẹn mọi ơn (chiều rộng). Như thế, từ “kêcharitômênê” khi biến thành danh xưng gọi Đức Maria phải được giải thích là “Đấng đã được ban đầy tràn ân sủng”. Quả là một danh xưng ngoại thường, được xướng lên trong một khung cảnh trang trọng của buổi truyền tin, nhất là lại có sự xuất hiện của nhân vật từ trời, thử hỏi người nghe có thể bình tĩnh được chăng? Thảo nào, Phúc Âm kể: Đức Maria rất bối rối.

Bối rối thứ hai: Sứ mạng Chúa trao quá lớn, sức mình lại yếu ớt. Có lẽ chẳng cần dài lời lý giải, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh của Đức Maria năm xưa, cũng đủ hình dung tâm tình của Mẹ trước câu nói của sứ thần. “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.

Quả là bối rối trước hàng loạt nghịch lý của sứ mạng đề ra: trinh nữ mà lại sinh con; con người mà lại sinh ra Con Đấng Tối Cao; nhà hai lúa mà lại được ban cho ngai vàng Đavít. Với đầu óc thiếu nữ thực dụng ngày nay, có thể đây là cơ hội ngàn vàng kiểu “ăn mày gặp xôi gấc”, phải chộp lấy ngay kẻo dịp may không quay trở lại, chẳng phải đắn đo lo nghĩ làm gì cho già người đi. Thế nhưng với Đức Maria thì khác. Ngài nghĩ: Chúa trao sứ mạng quá lớn, mà ngài thì sức yếu vai mềm làm sao gánh vác nổi. Phận cỏ mình rơm của một thiếu nữ miền quê Nagiarét làm sao dám mơ với lên lá ngọc cành vàng của Đức Chúa là Thiên Chúa.

Vì thế, đã bối rối về hồng ân cao cả lãnh nhận, lại càng bối rối hơn về sứ mạng lớn lao được trao, nhất là trong tình huống cụ thể của một gia đình tương lai mà Đức Maria chưa tưởng tượng hết được, ở đó việc đặt tên tuỳ thuộc phần lớn ở người đàn ông như trường hợp gia đình Giacaria chẳng hạn, còn ở đây, theo lời sứ thần, Mẹ sẽ phải cáng đáng nhiệm vụ ấy để nhận tên trước cho con trẻ là Giêsu, với ý nghĩa cao quý ở đỉnh cao lòng mong chờ của toàn dân: Giêsu = Giavê là Đấng Cứu Độ.

2. Đến câu hỏi “thế nào?”

Bối rối trước hồng ân và bối rối trước sứ mạng, dẫu thật là thế, cũng chỉ là những cảm nhận trong tâm tưởng của Đức Maria khi đối chiếu mình với lời nói của sứ thần Gabriel; nhưng chính khi buột miệng thốt ra lời đầu tiên, Đức Maria mới để lộ cho thấy điều ngài quan tâm hơn cả không phải là một tương lai dòng dõi hoàng vương, cũng không phải là một vị thế gia phong huy hoàng choáng ngợp nằm mơ cũng không thấy; mà là một điều liên hệ trực tiếp đến chính bản thân ngài vốn là một trinh nữ làm sao có thể đi vào nhịp cầu sinh nở, hay nhạy cảm hơn, làm sao có thể đón nhận mối quan hệ nam nữ như cửa ngõ duy nhất của việc sinh con, làm sao có thể dung hoà giữa hai bậc sống khác biệt đồng trinh và gia đình, và làm sao một cuộc đời đã thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn lại có thể chia sẻ ra để thuộc về người khác. Nghĩ sao nói vậy, Đức Maria thưa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”.

Về lời đáp của Đức Maria dành cho sứ thần, cũng là một câu hỏi can dự đến lựa chọn bậc sống của ngài, trong tiếng Việt, có một cách dịch nghe ra không thuận lắm vì có thể làm suy giảm tâm tình cởi mở của Mẹ trước đề nghị của Thiên Chúa, đó là lời dịch “Việc đó xảy đến thế nào được”. Đã đành có bối rối, nhưng không thể để xuất hiện một lời mang hàm ý từ chối, trong khi lời dịch “Việc đó được xảy đến thế nào” lại bộc lộ một thái độ tiếp nhận dù còn chờ giải thích rõ hơn. Tiếng Việt hay lắm. Chỉ đảo vị trí chữ “được” thôi cũng thay đổi hẳn cả ý nghĩa, ấy là chưa nói đến cách bỏ dấu: “thế nào được!” sẽ đi với dấu chấm than, trong khi “được thế nào?” sẽ gọi theo dấu chấm hỏi.

Trong lời của Đức Maria, nếu phần đầu là một nỗi băn khoăn dấu hiệu của tâm tình bối rối: “việc đó được xảy đến thế nào?”, thì phần sau lại là một lý do hàm chứa một khẳng định quan trọng: “tôi không biết đến việc vợ chồng”. Lời này cho thấy:

Trực tiếp là việc Mẹ đưa ra lý do “không biết đến việc vợ chồng”. Mà đúng thật. Trong ngôn ngữ Do Thái, động từ “biết” là một động từ đặc biệt, nó không nhằm thái độ tri thức của một chủ thể đối với một khách thể cho bằng muốn diễn tả mối liên hệ cận thân xoắn xuýt của những thể ấy với nhau đến nỗi dẫu trong thực tế vẫn phân biệt chủ khách, nhưng trong thực thể không còn phân chia khách chủ nữa. Nói đúng hơn, chủ khách đã “nên một”. Chẳng phải nói dài lời, chỉ cần lần giở mục từ “biết” trong cuốn Điển ngữ Thần học Thánh Kinh hoặc trong một vài điểm chú giải của những bộ Thánh Kinh, người ta cũng có thể hình dung được ý nghĩa đặc trưng này, cách riêng trong mối quan hệ vợ chồng.

Khi Thánh Kinh nói “Adam biết Eva” thì không chỉ hiểu là họ nhận ra nhau trong tình thân vô tư theo kiểu bài hát sinh hoạt “Gần nhau trong cho nhau yêu thương tình loài người”, mà còn phải hiểu là họ đã gần nhau nên một xương một thịt, đã gần nhau qua việc chia sẻ sự sống cho nhau và đã gần nhau để ăn đời ở kiếp với nhau. Vì thế, khi Đức Maria nói không biết đến việc vợ chồng thì chắc chắn ngài đã sử dụng động từ “biết” của ngôn ngữ Do Thái trong ý nghĩa hiện thực nhất, tức là không liên hệ thân xác với người khác phái, cho dẫu đã đính hôn với một người phái nam theo quy định của luật pháp đường hoàng.

Nhưng gián tiếp, Đức Maria lại khẳng định “tôi biết mình là một trinh nữ”, một người nữ đã chọn cho mình bậc sống đồng trinh, một người nữ đã hiến dâng đời mình để trọn vẹn thuộc về Chúa. Trong trình thuật Phúc Âm liên hệ, thánh Luca đã sử dụng từ “trinh nữ” 2 lần. “Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê gọi là Nagiarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27).

Tại sao tác giả Phúc Âm không dùng chữ “thiếu nữ” hay “thiếu phụ”? Thưa chỉ vì muốn cho độc giả nhớ lại lời các tiên tri đã từng khẳng định Thiên Chúa sẽ được trinh nữ Israel đón nhận. Nếu trong bao thế kỷ, Thiên Chúa đã phải gánh chịu những tội bất tín bất trung của dân mình nhưng đã tha thứ hết cho họ, thì khi xuống thế làm người, Người lại muốn được dân mình đón nhận với lòng trung trinh, với đức tin hoàn hảo, nghĩa là, với một cuộc đời tựa đoá hoa ẩn kín chưa hề bị chiếm hữu, và muốn biến cả đời mình thành tặng phẩm hoàn toàn hiến dâng.

Chắc hẳn khi nêu lên lý do “không biết đến việc vợ chồng”, Đức Maria đã ý thức, đã biết rất rõ về nhân thân đồng trinh của mình; nếu không, không thể hiểu được tại sao Mẹ phải bối rối trước mặt thiên sứ, tại sao Mẹ phải bối rối khi nghe những lời ngọt ngào chào kính “bà đầy ân sủng” và “bà đẹp lòng Thiên Chúa”, và tại sao Mẹ phải phản tỉnh suy tư tự hỏi mình chán rồi mới bật ra thành lời, mà lời ấy lại là một câu hỏi thăm dò tìm hiểu xin soi sáng khởi đi trong tâm là “sự biết mình”, nhưng ngoài miệng là “sự không biết đến việc vợ chồng”.

3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi

Những ghi nhận nêu trên cho thấy trong lời đầu của Đức Maria đã hàm chứa cả một nghịch lý mang màu biện chứng giữa biết và không biết cả trên bình diện tri thức lẫn bình diện hiện thực, tương tự như biện chứng của thánh Phanxicô Khó Khăn giữa quên mình và gặp lại mình.

Nếu châm ngôn “Không nên nói hết những gì mình biết, mà nên biết hết những gì mình nói” là lời phổ cập cho hết mọi người, thì xem ra càng đúng hơn với trường hợp của Đức Maria với câu nói đầu tiên này: Mẹ biết hết những gì Mẹ nói. Đây không chỉ là phong cách đời sống mà xem ra đã là cốt cách của Mẹ trong cả cuộc đời dấn thân đón lấy hồng ân Chúa gửi và nhận lấy sứ mạng Chúa trao.

Nói “không biết đến việc vợ chồng, vì Mẹ biết mình là một trinh nữ” hay nói “biết mình là một trinh nữ, nên Mẹ không biết đến việc vợ chồng”, cách nào cũng không thay đổi ý nghĩa. Nghĩa minh nhiên hàm chứa nghĩa mặc nhiên, và nghĩa mặc nhiên làm điều kiện cho nghĩa minh nhiên. Biện chứng là thế và nghịch lý cũng là thế. Vừa là trinh nữ, vừa là mẹ; là trinh nữ mà vẫn sinh con; là mẹ mà vẫn ngàn đời trinh khiết.

Luôn luôn các biến cố đời Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu đều được xây dựng trên nền của cái thế đong đưa biện chứng giữa biết và không biết ấy. Chả thế mà trong trình thuật đời thơ ấu của Chúa Giêsu với những biến cố dồn dập, bao giờ cũng thế, thánh sử cẩn thận ghi lại tư thế của Đức Maria là: “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”. Tại sao vậy? Phải chăng vì Mẹ ít nói hay nói ít, cả Phúc Âm chỉ ghi lại bảy lời? Phải chăng vì Mẹ thích suy tư phản tỉnh trước mọi tình huống, hay vì Mẹ trầm tĩnh đắm mình trong biện chứng đong đưa giữa sự kiện và mầu nhiệm, giữa những gì rõ mười mươi trước mắt và những gì còn ẩn khuất bên trong, nói tóm lại, giữa biết và không biết? Ghi nhớ những việc xảy ra, vì Mẹ biết rõ mồn một; và suy niệm trong lòng vì Mẹ chưa biết hết ý nghĩa của từng việc, nhất là khi kết nối những việc ấy lại trong nhãn giới cứu độ. Ghi nhớ vì đã là kinh nghiệm thuộc về quá khứ; và suy niệm trong lòng vì việc đó còn là kinh nguyện cho tương lai. Ghi nhớ là kho tàng chất chứa những gì đã biết, còn suy niệm trong lòng là kho tàng để dành những gì hôm nay chưa biết hết nhưng sẽ được khám phá dần dần vào những ngày sắp đến tiếp theo.

Lấy ví dụ biến cố Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, người ta sẽ hiểu hơn về lối sống trong tinh thần biết mình của Đức Maria. Khi biết mình phải chu toàn lễ thanh tẩy vì mới sinh con và phải thánh hiến con đầu lòng cho Thiên Chúa theo quy định của lề luật, Đức Maria đâu có ngờ gặp cụ ông Simêon và nghe ông cụ móm mém hát bài ca an bình ra đi. Nghe mừng mừng tủi tủi. Tính biện chứng giữa biết và không biết của biến cố cũng được trải ra thật rõ ở đây. Đức Maria biết mình phải dâng con phút đầu đời, nhưng không biết con mình cũng nên quà tặng cho những người phút cuối đời nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu đang được ẵm bế trong vòng tay mình, nhưng không biết trẻ ấy còn được trao cho những vòng tay khác nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu Hoàng Tử hoà bình, nhưng lại không biết trẻ thánh còn nên duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên; Đức Maria biết mình đang ôm ấp trẻ Giêsu hạnh phúc, nhưng không biết trẻ ấy sẽ còn thành dấu hiệu cho người đời chống báng; Đức Maria đã biết nhiệm vụ nuôi nấng chăm sóc trẻ Giêsu, nhưng làm sao biết được mầu nhiệm của lưỡi gươm sẽ đâu thấu tâm hồn.

Tóm lại, tìm hiểu lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm theo kiểu chẻ sợi tóc ra làm tư sẽ dẫn ta đến một nhận thức: biết mình là một bước quan trọng trong hành trình đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa.

Biết mình là bước đầu thật cơ bản làm tiền đề cho những bước tiếp theo. Nếu bước đầu biết đắn đo, những bước sau sẽ không phải lo nghĩ nhiều. Đầu xuôi đuôi lọt mà. Nhưng nếu bước đầu đã buông trôi, chẳng mong gì những bước sau sẽ vững chãi. Biết mình cũng là cả một hành trình biện chứng giữa biết và không biết. Nếu biết là chính đề thì không biết là phản đề, và hợp đề là những kinh nghiệm rồi quyết tâm đilên theo một bước biện chứng mới. Nơi Đức Maria, biết mình còn là một lối sống luôn luôn rộng mở để ghi nhớ và suy niệm trong lòng, để lắng nghe và thực hành lời Chúa. Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong bộ sách nổi tiếng “Từ đỉnh cao Thập giá”, đã khéo nối kết lời đầu của Chúa Giêsu trên Thánh giá với lời đầu của Đức Maria trong Phúc Âm để nêu cao nhận định về nét tích cực trong việc không biết. Chúa Giêsu xin Cha mở lòng tha thứ cho lý hình vì họ không biết việc họ làm; Đức Maria mở lòng cho ý định của Thiên Chúa vì Mẹ không biết đến việc vợ chồng. Cả trong lời của Chúa Giêsu và lời của Đức Mẹ, sự không biết đã bật mở ra những câhn trời mới của hồng ân. Càng biết mình bao nhiêu, càng biết Chúa bấy nhiêu; và ngược lại, càng biết Chúa bao nhiêu, càng biết mình bấy nhiêu.

II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH

Nhìn vào Đức Maria qua lời đầu tiên của Mẹ, ta đã thấy sáng lên không chỉ một phản ứng cấp thời, mà còn cả một chiều dài của lối sống đức tin. Ánh sáng ấy đã dẫn Đức Mẹ tiến bước theo Chúa Giêsu trên đường cứu độ. Chậm mà chắc. Nhưng ánh sáng ấy sẽ chiếu dọi điều gì trên đời sống của linh mục hôm nay?

1. Biết mình

Ngay từ những năm đầu của Đại chủng viện, qua ban Triết học, mỗi đại chủng sinh đã được làm quen với một phương pháp quan sát suy tư thuộc loại hàng đầu nếu muốn bước sâu tiến xa vào lầu đài triết học, đó là phương pháp nội quan: mình quan sát mình, mình nhìn vào mình để có những phản tỉnh và nhận thức về chính mình. Nhớ lại hồi ấy, khi cha giáo nêu ra dẫn chứng là câu “Connais-toi, toi-même” (Hãy biết mình) được ghi trên cổng đền thờ hy lạp nào đó, thú thật chủng sinh chẳng hiểu gì nhiều, cứ như lời cảnh báo xa gần của cha giám luật về hạnh kiểm cuối năm hoặc như lời giảng giải xét mình của cha linh hướng mỗi lần cử hành bí tích hoà giải. Thế nhưng, nghe riết rồi thấm; làm riết rồi quen, để khi lãnh chức linh mục đã thấy hình thành trong mình tự thuở nào một phương pháp suy tư phản tỉnh.

Rồi khi thi hành nhiệm vụ linh mục, ngày từng ngày, những lúc xét mình, những khi sám hối, những phút hồi tâm, những giờ linh hướng đã tích luỹ nơi mỗi linh mục một thứ hành trang không thể thiếu được, dẫu chẳng phơi bày, đó là việc biết mình. Cũng như nơi Đức Maria, biết mình nơi từng linh mục ảnh hưởng lên lối sống và nhất là hình thành nơi người mục tử một bản lĩnh đức tin.

Một linh mục đã nghỉ hưu nhưng còn khoẻ khoắn lắm, vẫn thường có mặt trong mọi sinh hoạt của Giáo Phận có lần đã chia sẻ kinh nhgiệm với các linh mục trẻ rằng: Nếu mỗi ngày sống trọn vẹn những phút hồi tâm sáng trưa chiều tối, đời sống linh mục sẽ khoẻ lắm. Nghe trong lời chia sẻ chân thành ấy, người ta hiểu xét mình chính là một cách biết mình không thể thay thế, để tiến triển trên đường nên thánh.

Nhưng linh mục biết mình đâu chỉ là biết một mình theo kiểu “một mình mình biết một mình mình hay” mà còn là biết mình trong tương quan với người khác qua việc đối nhân xử thế. Nếu cụm từ “chỉ biết mình” mang một nghĩa xấu diễn tả tính ích kỷ bo bo một mình, thì cụm từ “biết mình biết người” lại bộc lộ tính khôn khéo của kẻ thành công được lòng mọi người, vừa khôn trong tính toán, vừa khéo trong tương giao. Linh mục được sai đến một giáo xứ để phục vụ, dẫu làm việc hết mình, chẳng ai cầu toàn rằng mình được hết mọi người quý mến, nhưng thiết tưởng với châm ngôn “biết mình biết người” hướng dẫn cách cư xử, linh mục sẽ tìm được sức mạnh nâng đỡ để nếu gặp khó khăn cũng dễ vượt lên, gặp truân chuyên cũng dễ khắc phục và nếu có gặp sung túc cũng dễ chia sẻ giúp đỡ người khác. Ngày nào còn biết mình, ngày ấy còn hy vọng để tâm hồn thăng hoa; nhưng chẳng may một khi không còn biết mình đầy đủ nữa, linh mục sẽ vô tình dẫn vào đời mình một cách sống xa lạ với chính mình, một lối sống xa rời xã hội và ngại hơn nữa là một đời sống xa lìa lý tưởng hiến dâng và phục vụ. Trong ngôn ngữ hiện nay, người ta gọi đó là “đánh mất mình”.

Một linh mục trẻ vừa được thuyên chuyển chỉ vì quá mê vi tính, tối ngày khép mình không tiếp xúc với ai, quên cả ngủ ngáy, quên cả lễ lạy, không còn biết mình là linh mục được sai đi để phục vụ nữa. Khổ.

Biết mình sẽ giúp linh mục định vị được mình giữa mớ bòng bong đa chiều của những phận vụ đạo đời. Cha phụ tá nào được sai đến giúp một cha sở ở một giáo xứ nhất định và biết mình trong vị trí đó, ắt hẳn sẽ có những cư xử đúng mực. Phụ tá không phải phụ tá cho một giáo xứ mà cho một cha sở vốn là “chủ chăn riêng của một nơi” theo Giáo luật, nên không nóng vội coi mình bằng vai phải lứa với cha sở, để lên mặt cho mình gần gũi với giáo dân hơn cha sở hoặc lên máu hăng say qua mặt ngài trong mọi việc. Nhiều vị phụ tá nghĩ đơn giản rằng mình với cha sở đều là linh mục cả, nên đâu phải giữ khoảng cách làm gì. Nghe có vẻ thuận lý và thường được một số giáo dân tâng bốc đồng tình, nhưng như thế là không biết rõ về vị trí của mình. Xin nhớ cho rằng phần lớn những thất bại của các cha phụ tá là ở điểm này.

Cha sở nào có cha phụ tá và biết mình trong vị trí cha sở, ắt cũng có những cách chăm sóc thắm tình dành cho cha phụ tá của mình. Những tháng năm làm phụ tá cho những cha sở như thế sẽ trở thành kỷ niệm khó quên. Đước Giáo Hoàng Piô X luôn coi những năm làm phụ tá cho cha sở Costantini ở Tombolo là những năm hạnh phúc trong đời linh mục của ngài. Nơi cha sở, ngài nhìn được gương sáng đạo đức, ngài gặp được tấm lòng nhân hậu và ngài còn được chỉ dẫn tận tình về những công việc mục vụ. Phần đông các cha sở hôm nay đều hân hoan đón nhận cha phụ tá vàhết lòng nâng đỡ các ngài trong mọi việc để nên gương sáng cho giáo dân. Nhiều giáo dân rất ngưỡng phục mẫu gương ấy khi thấy đi đâu cha phụ tá cũng đèo cha sở mình trên chiếc Honda. Nhưng đó đây vẫn còn một số vị chưa coi các cha phụ tá như người cộng sự, như người hợp tác làm việc trên cùng cánh đồng dân Chúa, thậm chí có vị còn coi cha phụ tá của mình như một gánh nặng chẳng đặng đừng.

Một cha sở hiền hoà ở một giáo xứ lớn vừa được giám mục gỡ đi cha phụ tá đã tâm sự rằng: ở một mình làm việc vất vả nhưng vui vẻ; có cha phụ tá việc nhẹ nhàng hơn nhưng cuộc sống không vui. Chỉ vì cha phụ tá không biết vị trí của mình. Một cha phụ tá trẻ trung ở một giáo xứ lớn khác thường bị anh em cùng khoá chọc ghẹo là “linh mục ôsin” lại than thở rằng: cuộc sống ở xứ như ở đợ, cha sở bắt làm lễ nợ, cả năm cho ăn chứ không cho bổng lễ. chuyện khó tin nhưng có thật. Chỉ vì cha sở không biết vị trí của mình.

Những mảng sáng tối trong đời sống được nêu lên chỉ muốn khẳng định rằng: từng người biết mình, cuộc sống sẽ bình an ổn định; từng linh mục biết mình, cuộc đời sẽ bản lĩnh và hạnh phúc. Giống như trong thân thể từng bộ phận chu toàn phận vụ của mình, chủ nhân của thân thể ấy sẽ có sức khoẻ tốt làm điều kiện cho một đời sống hài hoà. Kinh nghiệm thường thức cũng xác nhận điều này: người táo bón thường hay cau có, kẻ mập mạp thường khó đi nhanh.

2. Linh mục và lời “tôi biết”

Biết mình trong tương quan với chính mình hoặc trong tương quan với người khác đã là những cách tích cực, nhưng linh mục trong nhịp sống thiêng liêng, chỉ có thể biết mình rõ nét khi đặt mình trong tương quan với Chúa. Chính ở đây, câu hỏi “linh mục là ai?” được nêu lên và mong ước trong tinh thần biết mình mỗi người sẽ đưa ra những câu trả lời xác định.

Linh mục trước hết là người thuộc về Chúa Kitô. Thực ra, theo định nghĩa cơ bản, là kitô hữu, ai mà chả thuộc về Chúa Kitô. Nhưng linh mục thì khác, biết mình thuộc về Chúa Kitô là Đầu, được chọn gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và cũng để làm việc trong tư cách của Chúa Kitô, in personna Christi Capitis. Lời khẳng định này linh mục nào mà chả biết. Thế nhưng từ biết chung chung trong học thuyết đến biết thuần nhị cá nhân để có thể khẳng định “tôi biết” lại là một khoảng cách không nhỏ. Thật vậy, biết mình thuộc về Chúa Kitô không dừng lại trong nhận thức mà còn trải ra thực hành, từ thực hành nhỏ đến thực hành lớn, từ thực hành một ngày đến thực hành một đời.

Qua những nỗ lực không ngơi nghỉ hướng về Chúa Kitô, linh mục quy chiếu mọi khoảnh khắc và công việc trong phận vụ mình vào đời sống Chúa Kitô để có sự hoà điệu thánh thiêng cần thiết mà diễn tả tính khả tín cũng như khả ái của sứ vụ được trao. Nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô mà đời sống không quy hướng về Chúa Kitô để dựng xây thì e rằng đã làm giảm thiểu tính khả tín trong sứ vụ; ngược lại những ý mình nghĩ những lời mình nói những việc mình làm biết quy hướng về Chúa Kitô sẽ cho thấy một khuôn mặt khả ái của linh mục ở giữa cộng đoàn. Giáo dân hôm nay xem ra rất bén nhạy về khía cạnh này. Ở đây tâm tình của thánh Phaolô cũng phải là tâm tình của mỗi linh mục: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nữa, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Và rồi, như ngựa chạy đường dài sẽ có ngày thấm mệt, linh mục trong đời cũng có những lúc đàn lỡ nhịp hoặc chùng dây không còn tấu lên điệu khúc dâng hiến như mộng ước ban đầu, những lúc ấy nhận thức mình thuộc về Chúa Kitô lại là một sức mạnh đem lại hy vọng để vươn lên tìm về với Chúa Kitô mà nhận lại sự sống. Như vậy, thuộc về Chúa Kitô là những nét cơ bản giúp linh mục soi bóng để biết mình.

Nhưng linh mục dầu thiện chí đến đâu cũng không tự mình có thể dấn thân vào đường sứ vụ. Sứ vụ phải được trao và được nhận, vì thế cùng với ý thức mình thuộc về Chúa Kitô, linh mục cũng biết mình thuộc về Giáo Hội. Giáo Hội phổ quát là cả một kho tàng mênh mông ơn thánh, nhưng Giáo Hội địa phương nơi mình được sai đến mới là trọn vẹn tấm lòng gửi trao và cuộc đời thể hiện. Nếu trong đời sống dân sự, không thể có một công dân không quốc tịch, thì trong đời sống tôn giáo, cũng không thể có một linh mục trên không chằng dưới không rễ lông bông lang thang khắp nơi mà chẳng chịu nhập tịch vào Giáo Phận nào. Linh mục mà không thuộc về Giáo Hội địa phương nào thì không còn là linh mục đúng nghĩa nữa. Vì thế khi trả lời cho câu hỏi “linh mục là ai?” thì cũng là lúc khẳng định mình thuộc về Giáo Hội nào, nếu không sẽ có nguy cơ sống kiểu bèo giạt mây trôi vừa đánh mất mình vừa không nêu gương sáng cho người khác. Linh mục thuộc về Chúa Kitô nên cũng thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô để nhận lấy trách vụ làm việc cho Chúa Kitô. Như Đức Maria, linh mục biết mình là người của hồng ân và sứ mạng, nên luôn ghi tâm khắc cốt: hồng ân Chúa ban, dấn thân theo đuổi, dong duổi một đời.

3. Linh mục và lời “tôi không biết”

Những khẳng định mình biết sẽ dẫn tới những lãnh vực mình khong biết nơi đời linh mục, vừa như một thái cực ngược lại để đối chiếu, vừa như một liệt kê tương phản để nỗ lực vượt qua.

Trước hết là lãnh vực tình cảm. Người ta bảo khác với đàn bà, trái tim đàn ông có nhiều ngăn lắm, mỗi ngăn dành cho một đối tượng theo thứ tự ưu tiêu. Không biết có đúng không? Khổ nỗi linh mục cũng là đàn ông, nên xin mượn hình ảnh ấy để minh hoạ. Trái tim linh mục cũng có nhiều ngăn: ngăn dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội; ngăn dành cho gia đình ruột thịt mẹ cha, rồi đến ngăn bao la dành cho già trẻ lớn bé bạn bè cộng sự. Lý ra những ngăn ấy được xếp theo thứ tự ưu tiên, nhưng nhiều khi lu bu tình Chúa tình người hoặc cả nể yêu người như mình ta vậy, những ngăn đó cứ bị đảo tung lên, sự việc đổ bể khiến mình bị thương tứ bề. Bị thương theo cả hai nghĩa: bị thương mến kiềm toả bủa vây và bị thương tổn danh dự khó vớt vát được.

Về tình yêu nam nữ, theo lý thuyết linh mục chẳng yêu riêng ai và cũng chẳng có ai làm của riêng cho mình, nhưng trên thực tế hành trình của động từ yêu nơi đời linh mục rối rắm khó lý giải lắm. Con tim có lý lẽ của nó. Có khi mới đầu chỉ là tình bạn giúp đỡ hỗ trợ một việc già đó, rồi dần dà thân thiết mọc cánh yêu thương; vẫn biết nam nữ thọ thọ bất thân, mà làm sao lại cứ cọ có rất thân không dứt ra được. Khổ. Có khi lúc đầu chỉ là tình cha con đỡ nâng dắt dìu dạy dỗ, rồi lâu ngày cô bé lớn lên bỗng muốn được dặt dìu tay đỡ tay nâng dạy ít dỗ nhiều, nên linh mục cũng khó tránh khỏi lưới giăng.

Kể ra thì nhiều lắm, vả lại cũng không cần thiết. Có điều là trong lãnh vực này, mỗi linh mục quyết tâm khảng khái như Đức Maria: “Tôi không biết đến việc vợ chồng”.

Một lãnh vực khác cũng cần linh mục nói lời “tôi không biết”, đó là lãnh vực tiền bạc. Tất nhiên, tiền bạc ai mà không cần. Có tiền mới có thể trang trải chi phí cho đời sống được, có tiền mới làm việc bác ái được, có tiền mới xây dựng mở mang cơ sở vật chất được. Nhưng cần tiền thì khác, còn dính bén đến tiền bạc thì khác.

Nhiều linh mục ở những giáo xứ rất giàu, nhưng cuộc sống riêng tư lại rất đạm bạc, chẳng màng chi của cải. Tiền bạc đi đâu? Thưa ngài dùng tiền chung để góp phần phát triển đời sống xứ đạo và giúp đỡ giáo dân cũng như những người nghèo khó. Giáo dân ở đó rất quý rất trọng ngài như người cha có trái tim người mẹ. Ngược lại, có một vài linh mục có những biểu hiện khác thường đối với tiền bạc, chẳng những quý tiền lại còn mê làm tiền nữa. Xây thì ít cất thì nhiều, khiến đời sống xứ đạo mỗi ngày mỗi tẻ nhạt. Trong câu chuyện sau lưng, giáo dân thường bảo cha chỉ thích những nhà mặt tiền thôi. Gặp ai cha cũng than thở mình túng thiếu, nhưng đến khi bị mất trộm, người ta mới biết cha bị mất cả bạc tỷ kìa. Một vài linh mục khác nữa lại rơi vào vòng luẩn quẩn tiền tình, cho cô này mượn một ít, cho cô kia giữ một ít, đến lúc có việc chung muốn lấy lại không được. Bắc thang lên hỏi ông trời, có tiền cho gái có đòi được không?

Cuối cùng là lãnh vực quyền bính vốn là lãnh vực ít nhiều các linh mục phải hành xử trong sinh hoạt mục vụ điều hành giáo xứ. Ngoài những quyền thuộc diện quản trị điều khiển điều phối được quy định trong giáo luật và theo hướng dẫn của giáo phận mà linh mục nào cũng phải biết và biết chắc, còn có một số thẩm quyền được xem xét và hành xử tuỳ theo nhãn quan của mỗi mục tử trong những tình huống cụ thể nhằm lợi ích cho các linh hồn. Nhưng chính đó lại là những kẽ hở nhiều khi mở cho tính khí tác động làm nhạt nhoà đi mục đích cứu rỗi để chỉ còn là một biện pháp chế tài gây buồn lòng cho người trong cuộc và gây buồn cười cho khách bàng quan.

Chẳng hạn như một cha sở nọ quy định chỉ xức dầu cho các bậnh nhân vào chiều ngày thứ sáu đầu tháng, nên nhà nào có người đau yếu muốn nhận bí tích này phải báo trước cho ngài biết để ngài sắp xếp đến tận nhà. Ai không giữ quy định này thì đừng mong ngài phục vụ. Rủi có một người đau bất thình lình xin ngài ban bí tích sau hết bị từ chối và đêm ấy người ta mất, thế là cả nhà người ta ca thán giận hờn. Không bào chữa được. Có một cha sở khác chỉ vì mong muốn cho giáo xứ thăng tiến về mặt đạo đức, đã dùng bí tích giải tội như một biện pháp chề tài một giáo dân có gương xấu trong giáo xứ. Ngài công khai cấm ông ta sáu tháng không được xưng tội rước lễ, ông ta tức khí đứng lên bảo cho cha một năm luôn cho chẵn. Dở khóc dở cười. Mong rằng mỗi linh mục chúng ta biết nói không với những loại thẩm quyền mong manh ấy.

Tóm lại, lời đầu tiên của Đức Maria là một lời khẳng khái biết mình “không biết việc vợ chồng”, để trở nên lối sống gương mẫu vượt lên những nghịch lý biện chứng giữa biết và không biết trong đời của Mẹ, đồng thời cũng là lời dọi sáng trên đời sống của mỗi linh mục trong dịp tĩnh tâm. Mong rằng những gì linh mục biết về căn tính của mình sẽ nên nguồn lực giúp linh mục từ chối không biết đến những lãnh vực xa lạ với căn tính ấy, để đừng như bài hát “vì tôi là linh mục” vớ vẩn vẩn vơ vô vọng, mà sẽ trở thành lời kinh xác tín như thánh Phanxicô Khó Khăn “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” hay như bài báo của một GMVN “xứng đáng là biết mình bất xứng”.
(còn tiếp)