Một nhóm ba người được biết đến dưới nhiều danh xưng như ba học giả, nhà thông thái, vua, chiêm tinh, tìm đến bái kiến, thờ lậy hài nhi Giêsu mới sinh, vua đất trời. Hài Nhi Giêsu sinh xuống trần không phải riêng cho một dân tộc nào mà chung toàn thể nhân loại. Ngài đến mang bình an vĩnh cửu cho tâm hồn thiện tâm như lời ca vang của ca đoàn thiên thần vang vọng trên không trung. Truyền thống cho biết các vị đó tên là Caspar, Melchior, và Balthasar. Các vị từ Đông Phương, khi đi mang theo nhũ hương, trầm hương, mộc dược, vàng ròng tìm đến bái kiến thờ lậy hài nhi Giêsu.
Các vị đi đúng đường khi lần theo ánh sáng từ trời cao chỉ dẫn; các vị lạc đường, sai lối khi lần theo ánh sáng trần gian. Ánh sáng từ trời cao soi sáng đây thể hiện qua ánh sao chỉ đường. Ánh sáng trên cao chiếu soi tâm hồn kẻ có lòng ngay, thành tâm, thiện chí, dấn thân tìm kiếm ánh sáng Giêsu vĩnh cửu. Loại ánh sáng mà sau này Đức Kitô nói rõ 'Ta là ánh sáng trần gian' ban cho môn đệ và người có lòng ngay. Ánh sáng đó sinh xuống trần gian, chỉ có thể tìm thấy qua con người hài nhi Giêsu Kitô, Cứu Thế. Trái với ánh sáng thiên quốc là ánh sáng trần gian. Ánh sáng Đức Kitô ban mang lại đức tin. Ánh sáng trần gian không thể mang lại đức tin. Loại ánh sáng chiếu ra từ cung điện vua Hêrôđê. Cung điện nhà vua được thắp sáng nhờ ánh đèn dầu, đèn cầy hay cây đuốc toả sáng. Loại ánh sáng vật thể này bao gồm cả kiến thức sách vở ghi chép lại, tri thức, hiểu biết đến từ suy đoán lí luận của khối óc, kinh nghiệm có được của người từng trải trong cuộc sống. Họ dùng ánh sáng trí thức để suy đoán, lí luận, lí giải rồi đưa ra câu giải đáp hợp lí. Ánh sáng trần gian thực dụng về những vấn đề nhìn thấy, sở mó, đụng chạm được, làm thí nghiệm được. Khi áp dụng vào niềm tin Kitô thì ánh sáng trần gian rất hạn hẹp, thường sai lầm.
Khi vua Hêrôđê nghe ba vị từ Phương Đông hỏi Đức Vua mới sinh ra tại đâu? Nhà vua nghe hỏi thì giật mình, kinh hãi, nghĩ là ngai vàng bị lung lay. Vua lấy lại bình tĩnh rồi triệu tập thượng tế, đạo sĩ dò hỏi thực, hư. Các vị đó đáp sách ghi chép Đức Vua mới sinh ra tại Belem, miền Giuđê. Tâm địa độc ác phát sinh, Hêrôđê nói dối thượng khách là khi các vị tìm gặp vua mới sinh, xin báo để trẫm cũng đến thờ lậy. Hêrôđê không thể lừa gạt được sứ thần Thiên Chúa. Sứ thần báo cho các vị đạo sĩ hãy về đường khác, đừng trở lại với Hêrôđê. Khi biết tin ba vị đạo sĩ không trở lại, Hêrôđê không hối hận, trái lại ra lệnh giết tất cả trẻ trai toàn xứ từ ba tuổi trở xuống. Điềy này thể hiện tâm địa sát nhân. Vua không chỉ gian trá, sảo ngôn mà còn tàn ác, miễn sao đạt được mục đích. Tim vua chai lì trước tiếng khóc than của trẻ em, và mẹ các em.
Hành động của Hêrôđê và của ba nhà đạo sĩ đưa ra hai lối sống đối nghịch nhau. Ba vị đạo sĩ Phương Đông chân thành, dấn thân tìm kiếm hài nhi vua Giêsu mới sinh. Lòng thành của họ vượt trên lạnh giá, gió rét. Dấn thân ra đi, không sợ đường xa, khó nhọc, vất vả, nguy hiểm, thành tâm tìm kiếm để bái kiến, thờ lậy. Ngoài ra các đạo sĩ còn khiêm nhường, mang theo quà tặng làm lễ vật; phủ phục trước hang đá Belem khẩn nguyện. Nghịch lại là cách của Hêrôđê, ngồi trong lâu đài, tiệc tùng no say, đàn ca, xướng hát, có con ăn, đầy tớ đứng hầu nhưng lòng bất an, tâm lo lắng vì sợ ngày nào đó quyền chức vuột khỏi tầm tay, vinh quang mờ nhạt, lụi tàn.
Mừng đại lễ Giáng Sinh cần thanh tẩy tâm hồn, quyết tâm thay tâm đổi tâm tính, trở về làm hoà cùng vua đất trời. Thiếu hoán cải và niềm tin là mừng lễ hình thức. Chú trọng nhiều đến bên ngoài, trang trí, tiệc tùng là cách của Hêrôđê. Ông khoác hoàng bào, vàng lấp lánh, sán lạn, ngoài vỏ thì như thế; tâm hồn thì xạm đen như đồng thau lâu ngày không chùi bị oxy hoá làm cho ra tối tăm. Hoàng bào không mang lại bình an, niềm vui thực. Ba đạo sĩ Đông Phương vất vả nhưng sống an bình. Chỉ những tâm hồn khiêm nhu, hoán cải mới thực sự cảm nhận ơn lành hài nhi Giêsu mang đến cho nhân loại.
Các vị đi đúng đường khi lần theo ánh sáng từ trời cao chỉ dẫn; các vị lạc đường, sai lối khi lần theo ánh sáng trần gian. Ánh sáng từ trời cao soi sáng đây thể hiện qua ánh sao chỉ đường. Ánh sáng trên cao chiếu soi tâm hồn kẻ có lòng ngay, thành tâm, thiện chí, dấn thân tìm kiếm ánh sáng Giêsu vĩnh cửu. Loại ánh sáng mà sau này Đức Kitô nói rõ 'Ta là ánh sáng trần gian' ban cho môn đệ và người có lòng ngay. Ánh sáng đó sinh xuống trần gian, chỉ có thể tìm thấy qua con người hài nhi Giêsu Kitô, Cứu Thế. Trái với ánh sáng thiên quốc là ánh sáng trần gian. Ánh sáng Đức Kitô ban mang lại đức tin. Ánh sáng trần gian không thể mang lại đức tin. Loại ánh sáng chiếu ra từ cung điện vua Hêrôđê. Cung điện nhà vua được thắp sáng nhờ ánh đèn dầu, đèn cầy hay cây đuốc toả sáng. Loại ánh sáng vật thể này bao gồm cả kiến thức sách vở ghi chép lại, tri thức, hiểu biết đến từ suy đoán lí luận của khối óc, kinh nghiệm có được của người từng trải trong cuộc sống. Họ dùng ánh sáng trí thức để suy đoán, lí luận, lí giải rồi đưa ra câu giải đáp hợp lí. Ánh sáng trần gian thực dụng về những vấn đề nhìn thấy, sở mó, đụng chạm được, làm thí nghiệm được. Khi áp dụng vào niềm tin Kitô thì ánh sáng trần gian rất hạn hẹp, thường sai lầm.
Khi vua Hêrôđê nghe ba vị từ Phương Đông hỏi Đức Vua mới sinh ra tại đâu? Nhà vua nghe hỏi thì giật mình, kinh hãi, nghĩ là ngai vàng bị lung lay. Vua lấy lại bình tĩnh rồi triệu tập thượng tế, đạo sĩ dò hỏi thực, hư. Các vị đó đáp sách ghi chép Đức Vua mới sinh ra tại Belem, miền Giuđê. Tâm địa độc ác phát sinh, Hêrôđê nói dối thượng khách là khi các vị tìm gặp vua mới sinh, xin báo để trẫm cũng đến thờ lậy. Hêrôđê không thể lừa gạt được sứ thần Thiên Chúa. Sứ thần báo cho các vị đạo sĩ hãy về đường khác, đừng trở lại với Hêrôđê. Khi biết tin ba vị đạo sĩ không trở lại, Hêrôđê không hối hận, trái lại ra lệnh giết tất cả trẻ trai toàn xứ từ ba tuổi trở xuống. Điềy này thể hiện tâm địa sát nhân. Vua không chỉ gian trá, sảo ngôn mà còn tàn ác, miễn sao đạt được mục đích. Tim vua chai lì trước tiếng khóc than của trẻ em, và mẹ các em.
Hành động của Hêrôđê và của ba nhà đạo sĩ đưa ra hai lối sống đối nghịch nhau. Ba vị đạo sĩ Phương Đông chân thành, dấn thân tìm kiếm hài nhi vua Giêsu mới sinh. Lòng thành của họ vượt trên lạnh giá, gió rét. Dấn thân ra đi, không sợ đường xa, khó nhọc, vất vả, nguy hiểm, thành tâm tìm kiếm để bái kiến, thờ lậy. Ngoài ra các đạo sĩ còn khiêm nhường, mang theo quà tặng làm lễ vật; phủ phục trước hang đá Belem khẩn nguyện. Nghịch lại là cách của Hêrôđê, ngồi trong lâu đài, tiệc tùng no say, đàn ca, xướng hát, có con ăn, đầy tớ đứng hầu nhưng lòng bất an, tâm lo lắng vì sợ ngày nào đó quyền chức vuột khỏi tầm tay, vinh quang mờ nhạt, lụi tàn.
Mừng đại lễ Giáng Sinh cần thanh tẩy tâm hồn, quyết tâm thay tâm đổi tâm tính, trở về làm hoà cùng vua đất trời. Thiếu hoán cải và niềm tin là mừng lễ hình thức. Chú trọng nhiều đến bên ngoài, trang trí, tiệc tùng là cách của Hêrôđê. Ông khoác hoàng bào, vàng lấp lánh, sán lạn, ngoài vỏ thì như thế; tâm hồn thì xạm đen như đồng thau lâu ngày không chùi bị oxy hoá làm cho ra tối tăm. Hoàng bào không mang lại bình an, niềm vui thực. Ba đạo sĩ Đông Phương vất vả nhưng sống an bình. Chỉ những tâm hồn khiêm nhu, hoán cải mới thực sự cảm nhận ơn lành hài nhi Giêsu mang đến cho nhân loại.