Xem hình ảnh

Những chuyện lạ lùng:

Giống như một câu chuyện thần kỳ giả tưởng, thu hút trí tưởng tượng của con trẻ trên màn ảnh Hollywood, như chuyện một anh chàng nọ, nhờ thần báo mộng mà tìm ra một kho tàng vô giá chôn giấu hàng ngàn năm dưới lòng đất. Thì câu chuyện về ngôi nhà của Đức Mẹ ở Ephesus, từng bị lãng quên hàng ngàn năm, nhưng nhờ thị kiến của một nữ tu người Đức nằm liệt giường trong thế kỷ 18 tên là Anna Katharina Emmerick mà đã được tìm ra.

Ngôi nhà đó nay có tên là House of Virgin Mary, thuộc thị xã Selcuk, Thổ Nhĩ Kỳ.

Ngôi Nhà, tuy bị Thế Giới Kitô Giáo lãng quên một thời gian rất dài, nhưng một điều lạ lùng là những người Hồi Giáo ở quanh vùng thì lại không, họ đã duy trì một truyền thống lễ hội để cầu phước với Đức Mẹ tại nơi này mỗi năm, đúng vào ngày giỗ của Người, là ngày 15 tháng 8, trùng với ngày lễ “Đức Bà Hồn Xác Lên Trời” của Công Giáo.

Nhờ có truyền thống lễ hội đó mà ngôi nhà đã bị bỏ trống và đổ nát qua nhiều thế kỷ ấy, vẫn được người Hồi Giáo tôn kính không xâm phạm và gọi nó là Panaya Kapulu ("Cửa dẫn đường tới Đức Trinh Nữ, Doorway to the Virgin ")

Với những ai đang ngạc nhiên về sự tôn kính Đức Mẹ của người Hồi giáo thì xin hiểu rằng họ coi Đức Mẹ là người được Chúa chọn một cách riêng để làm gương mẫu cho giới phụ nữ, và Chúa Giêsu con của Đức Mẹ thì được họ coi là một Tiên Tri lớn, và do có một lòng sùng kính như thế cho nên mỗi khi có việc nói về Chúa Giêsu thì họ viết rằng “Giêsu, con Đức Maria”.

Kinh Qu’ran (Kinh thánh của Hồi Giáo) đã ca tụng nhân đức của Đức Mẹ nhiều tới 34 lần, so với toàn bộ Kinh Thánh của Kitô giáo chỉ nhắc tới Đức Mẹ có 19 lần mà thôi (21 lần nếu kể tới Kinh Thánh Gioan không dùng tên nhưng dùng tước hiệu là Mẹ Chúa Giêsu)

Cho nên ngày nay, trong số những người đi hành hương kính viếng Ngôi Nhà của Đức Mẹ ở Ephesus thì phần đông hơn vẫn là người Hồi Giáo. (theo tin năm 2024 của The American Society of Ephesus, là cơ quan quốc tề lo việc quản thủ và bảo trì các thánh tích của Kitô giáo trên toàn Thế Giới).

Bây giờ chúng ta sẽ nhắc tới Sơ Emmerick là người đã có thị kiến về ngôi Nhà và việc này đã dọn đường mở cửa lại cho Thế Giới Kitô giáo như đã nói ở trên.

Chân phườc Anne Catherine Emmerich, CRV (Anna Katharina Emmerick; 8 tháng 9 1774 – 9 tháng 2 1824)

Có lẽ trong chúng ta ít có người nghe đến và biết rõ về Chân Phước Emmerich, nhưng thực ra hầu hết chúng ta đã gặp gỡ Chân Phước về mặt tinh thần rồi và còn hơn thế nữa, đã đồng cảm và cùng thổn thức với nhịp tim thổn thức của vị nữ tu này.

Sau năm 2004 trở về đây, cuốn film The Passion of the Christ của Mel Gibson đã được trình chiếu mỗi năm trong mùa Thương Khó, và các xứ đạo cũng thường chiếu lại nhiều đoạn cảm động trong film. Ông Mel Gibson thay vì bi thảm hóa cảnh Thương Khó bằng những tưởng tượng phong phú nhưng bừa bãi của những nhà văn Holliwood lúc bấy giờ, ông ta đã xử dụng những thị kiến của Chân Phước Emmerich mà bổ xung cho những chi tiết của Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.

Hằng tỷ người trên Thế Giới đã rơi lệ trước những cảnh Thương Khó đau thương đã đành, nhưng hàng tỷ người cũng cảm thấy thấm thía một cách sâu sa vì những mô tả về tình cảm thiêng liêng, như là tình Mẫu Tử trong màn Đức Mẹ tất tưởi chạy đi tìm người con đang vác Thánh Giá, thì những người thân đã giữ Mẹ lại vì lúc đó đám quân lính đang hung bạo quá, đánh đập tàn nhẫn tới cả những người đứng bên vệ đường…Thế nhưng khi Chúa Giêsu ngã xuống đất, thì một người mẹ đã từng nâng đứa con thơ của mình dậy khi “con Trẻ Giêsu” thường ngã xuống đất trong lúc chập chững tập đi những bước đầu đời, thì đâu có gì còn có thể cản trở “cái lòng của người mẹ” ấy được nữa, và Đức Mẹ đã chạy tới mà ôm lấy đứa con của mình đang dính đầy máu.

Bây giờ thì xin được tóm tắt cuộc đời của Chân phước Emmerich.

Ngài là một nữ tu dòng Augustinô, nhà rất nghèo ở làng Flamschen, quận Coesfeld, địa phận Münster, bang Westphalia, Đức quốc. Từ bé Ngài đã thường nói mình được nói chuyện với Chúa Giêsu và nhìn thấy các linh hồn ở luyện ngục, nhưng lúc đó người ta nghĩ rằng con bé này vì thiếu ăn nên hay nói nhảm…Ngài học rất ít hầu như mù chữ, chỉ biết việc giúp gia đình làm ruộng và không có tài năng gì đặc biệt nào ngoài việc chăm chỉ và rất thích đọc kinh. Khi lên 12 tuổi thì bắt đầu lao động ở các nông trại quanh vùng hoặc may vá mà sống qua ngày.

Chân Phước Emmerich đã xin gia nhập nhiều dòng tu nhưng đều bị từ chối vì không có của hồi môn, mãi cho đến lúc 28 tuổi thì được dòng Augustinô nhận (1802), và năm sau thì khấn trọn đời.

Năm 1812, vua của xứ Westphalia là Jérôme Bonaparte (em của Hoàng Đế Napoleon) ra lệnh đóng cửa mọi dòng tu. Sơ Emmerich phải ra ngoài sống nhờ một bà góa.

Vào cuối năm 1812 sang đầu năm 1813, thì Sơ Emmerich bắt đầu chịu 5 dấu thánh ở trên cơ thể, và đau đớn phải nắm liệt giường từ đó, cùng lúc đó Sơ không còn ăn uống gì cả, chỉ sống nhờ vào việc rước Mình Thánh Chúa mà thôi (13 năm). Vị cha sở đã trình lên địa phận để điều tra và bắt đầu áp dụng những biện pháp cô lập để tránh những kẻ tò mò.

Vào năm 1818 thì các vết thương ngưng chảy máu và lành lại, nhưng có người tố cáo rằng Sơ Emmerich đã giả mạo cho nên đã bị chính quyền bắt giữ, và cô lập để điều tra. Sau 3 tuần lễ thì phái đoàn điều tra ấy có nhiều ý kiến trái ngược nhau nên không đưa ra một kết luận nào cả.

Từ năm 1819 cho đến khi lìa đời (1824), Chân phước Emmerich được một nhà Thơ tên là Clemens Maria Brentano đến thăm thường xuyên và ông ta đã ghi lại cách vội vàng những lời kể về các thị kiến của Chân Phước.

Có một trở ngại lớn giữa ông Brentano và Chân Phước Emmerich, đó là hai người nói hai thổ ngữ khác nhau, do thế mà việc ghi chép vội vàng của ông Brentano có nhiều mâu thuẫn và khó hiểu. Chúng ta có thể ví von rằng nó giống như ông Brentano là một người ở Hanoi, đi vào Quảng Nam mà nói chuyện với một bà đang nằm liệt giường trong một làng vùng sâu vùng xa, và thì thào kể lể, thì việc “bà nói gà mà ông viết vịt” là điều dễ hiểu lắm.

(còn tiếp)