Sự phân chia thế hệ mạnh mẽ về quan điểm chính trị giữa các linh mục Công Giáo tại Hoa Kỳ đã được khẳng định lại trong một cuộc khảo sát năm 2025 cho thấy các linh mục trẻ bảo thủ hơn nhiều so với các linh mục lớn tuổi.

Nghiên cứu Quốc gia về Linh mục Công Giáo, được công bố vào ngày 14 tháng 10, do Dự án Công Giáo thuộc Đại học Công Giáo Hoa Kỳ ủy quyền và do Gallup thực hiện. Các nhà nghiên cứu đã khảo sát chính những linh mục đã được khảo sát trong cuộc khảo sát năm 2022 của Dự án Công Giáo nhằm tìm hiểu về chức linh mục tại Hoa Kỳ.

Theo báo cáo, cuộc khảo sát năm 2025 “phản ánh chặt chẽ” những phát hiện vào năm 2022 và cho thấy “sự chuyển dịch rõ ràng giữa các thế hệ khỏi xu hướng tự nhận dạng theo chủ nghĩa tự do”.

Khoảng 51% linh mục được thụ phong vào năm 2010 hoặc sau đó cho biết quan điểm chính trị của các ngài là bảo thủ hoặc rất bảo thủ. 37% khác cho biết các ngài ôn hòa và 12% còn lại cho biết các ngài tự do hoặc rất tự do.

Trong số các linh mục được thụ phong từ năm 2000 đến năm 2009, 44% có quan điểm bảo thủ hoặc rất bảo thủ và 44% có quan điểm ôn hòa. Một lần nữa, chỉ có 12% linh mục được thụ phong trong những năm này cho biết các ngài có quan điểm tự do hoặc rất tự do.

Các linh mục được thụ phong từ năm 1990 đến năm 1999 có xu hướng bảo thủ, nhưng ở mức độ thấp hơn, với 38% cho biết các ngài có phần bảo thủ, 34% xác định là ôn hòa và 26% cho biết các ngài cấp tiến hoặc rất cấp tiến.

Đối với các linh mục được thụ phong trong thập niên trước, từ 1980 đến 1989, chủ nghĩa bảo thủ giảm xuống còn khoảng 22%, và 36% tự nhận mình là người ôn hòa. Khoảng 40%, phần lớn, tự nhận mình là người theo chủ nghĩa cấp tiến hoặc rất cấp tiến.

Các linh mục lớn tuổi có tư tưởng cấp tiến hơn nhiều. Phần lớn các linh mục được thụ phong từ năm 1975 đến năm 1979, khoảng 53%, cho biết họ theo chủ nghĩa cấp tiến hoặc rất cấp tiến. Khoảng 34% ôn hòa và 11% bảo thủ. Khoảng 61% các linh mục được thụ phong trước năm 1975 cho biết họ theo chủ nghĩa cấp tiến hoặc rất cấp tiến, 25% ôn hòa và 13% bảo thủ.

Theo các nhà nghiên cứu, khuynh hướng thần học của các linh mục cũng đi theo một mô hình tương tự, với sự suy giảm mạnh mẽ hơn nữa của chủ nghĩa tiến bộ thần học. Khoảng 70% linh mục được thụ phong trước năm 1975 tự nhận mình là người theo chủ nghĩa tiến bộ thần học, và chỉ 8% linh mục được thụ phong từ năm 2010 trở về sau nói như vậy.

Khoảng 70% các linh mục trẻ tuổi tự nhận mình là người bảo thủ/chính thống hoặc rất bảo thủ/chính thống về các vấn đề thần học.

Sự chia rẽ thế hệ về các ưu tiên mục vụ

Sự thay đổi về chính trị và thần học dẫn đến sự chia rẽ giữa các thế hệ về những vấn đề mà Giáo hội nên ưu tiên, chẳng hạn như biến đổi khí hậu, tiếp cận cộng đồng LGBTQ và tính chất công đồng.

Về vấn đề biến đổi khí hậu, 78% linh mục được thụ phong trước năm 1980 cho biết đây phải là vấn đề ưu tiên, tương tự như 61% linh mục được thụ phong từ năm 1980 đến năm 1999. Chỉ có 35% linh mục được thụ phong vào năm 2000 hoặc sau đó đồng ý.

Xu hướng này cũng tương tự đối với việc tiếp cận cộng đồng LGBTQ khi 66% linh mục được thụ phong trước năm 1980 coi đây là ưu tiên, nhưng chỉ có 49% linh mục được thụ phong từ năm 1980 đến năm 1999 và 37% linh mục được thụ phong năm 2000 trở đi đồng ý.

Tính công đồng cũng được ưa chuộng trong giới linh mục lớn tuổi, với 77% những người được thụ phong trước năm 1980 coi đây là ưu tiên. Khoảng 57% linh mục được thụ phong từ năm 1980 đến năm 1999 cũng đồng ý như vậy, nhưng chỉ 37% linh mục được thụ phong từ năm 2000 trở đi đồng ý.

Một số vấn đề cho thấy khoảng cách thế hệ nhỏ hơn. Ví dụ, 93% linh mục được thụ phong trước năm 1980 coi nhập cư và hỗ trợ người tị nạn là ưu tiên hàng đầu, tương tự với 82% được thụ phong từ năm 1980 đến 1999 và 74% được thụ phong từ năm 2000 trở đi. Ngoài ra, 98% linh mục được thụ phong trước năm 1980 coi nghèo đói, vô gia cư và mất an ninh lương thực là ưu tiên hàng đầu, tương tự với 92% được thụ phong từ năm 1980 đến 1999 và 79% được thụ phong từ năm 2000 trở đi.

Có sự phân chia thế hệ về việc liệu lòng sùng kính Thánh Thể hay việc tham dự Thánh lễ La tinh truyền thống là ưu tiên, trong đó các linh mục trẻ tập trung nhiều hơn vào những vấn đề đó.

Khoảng 88% linh mục được thụ phong vào năm 2000 hoặc sau đó coi việc tôn sùng Thánh Thể là ưu tiên, tương tự như 66% những người được thụ phong từ năm 1980 đến năm 1999 và 57% những người được thụ phong trước năm 1980. Khoảng 39% những linh mục được thụ phong vào năm 2000 hoặc sau đó coi việc tham dự Thánh lễ bằng tiếng Latinh là ưu tiên, nhưng chỉ có 20% những linh mục được thụ phong từ năm 1980 đến năm 1999 và 11% những linh mục được thụ phong trước năm 1980 đồng ý.


Source:Catholic News Agency