Lúc 10 giờ, sáng Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười năm 2024, tại Quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tuyên thánh cho 14 Chân Phước.

Tiểu sử các vị thánh mới

Đứng đầu danh sách là mười một vị tử đạo năm 1860 ở Damasco, thủ đô Syria, gồm tám tu sĩ Dòng Phanxicô, trong đó có sáu linh mục và hai tu huynh, cùng với ba anh em giáo dân thuộc Giáo Hội Công Giáo Maronite: đó là cha Emanuele Ruiz López, người Tây Ban Nha. Tiếp đến là sáu vị Tây Ban Nha và một vị người Áo, là cha Engelbert Kolland.

Ba anh em giáo dân là ông Phanxicô Massabki, anh cả, cha của tám người con. Tiếp đến là Mooti, cha của 5 người con. Ông vẫn đến cầu nguyện và dự lễ hằng ngày ở nhà thờ thánh Phaolô ở Damasco và dạy giáo lý tại đó. Người trẻ nhất là Raphael.

Trong đêm mùng 9 rạng ngày 10 tháng Bảy năm 1970, tám tu sĩ Phanxicô và ba giáo dân Công Giáo Maronite chạy vào một tu viện với những bức tường kiên cố để lánh nạn. Cha Bề trên Emmanuele Ruiz chuẩn bị tinh thần cho mọi người, mời gọi họ xưng tội và rước lễ, sẵn sàng đón nhận tai ương.

Ba anh em Massabki cũng có mặt trong nhà thờ đêm hôm đó. Những kẻ tấn công nói với ông anh cả Phanxicô rằng ông sẽ thoát chết cùng với hai người em, nếu từ bỏ đức tin Kitô để theo Hồi giáo. Nhưng ông Phanxicô trả lời: “Chúng tôi là Kitô hữu và trong niềm tin nơi Chúa Kitô, chúng tôi sẵn sàng chết. Là tín hữu Kitô, chúng tôi không sợ những người giết thân xác chúng tôi, như Chúa Giêsu đã dạy”. Rồi ông nhìn hai em và khuyến khích họ hãy can đảm và kiên vững trong đức tin, vì triều thiên chiến thắng đã được chuẩn bị trên trời cho những người kiên trì đến cùng”. Rồi cả ba tuyên xưng đức tin với những lời này: “Chúng tôi là tín hữu Kitô và chúng tôi muốn sống và chết như Kitô hữu”.

Tám tu sĩ Phanxicô và ba giáo dân đã bị sát hại tàn bạo: người thì bị chém đầu bằng gươm và rìu, người khác thì bị đâm hoặc bị đập chết.

Ba vị thánh hiển tu

Đứng đầu danh sách ba vị hiển tu là cha Giuseppe Allamano, người Ý, sáng lập Dòng Thừa sai Đức Mẹ an ủi, qua đời năm 1926, thọ 75 tuổi.

Cha Giuseppe Allamano là mẫu gương nổi bật cho các tín hữu, đặc biệt nhân Ngày Thế giới Truyền giáo và chính cha đã góp phần thành lập ngày này trong Giáo hội. Cha sinh tại làng Castelnuovo d’Asti năm 1851, bắc Ý, cùng quê hương với thánh Gioan Bosco. Cha gia nhập Chủng viện năm 15 tuổi và thụ phong linh mục năm 22 tuổi. Cha vẫn nuôi ước mộng được đi truyền giáo ở những nước xa xăm, nhưng sức khỏe yếu ớt không cho phép cha thực hiện. Cha Allamano được Đức Cha Lorenzo Gastaldi, Tổng giám mục Giáo phận Torino, bổ nhiệm làm phụ tá Giám đốc Đại chủng viện và sau đó làm linh hướng tại đây. Ngài làm việc rất chăm chỉ và cố gắng học thêm cho đến khi lấy Tiến sĩ Thần học tại Thần học viện Torino.

Đức Tổng Giám Mục bản quyền đề nghị cha Allamano đảm trách Đền thánh Đức Mẹ An Ủi ở thành phố Torino.

Là người nhiệt thành cầu nguyện, thông minh, hăng say hoạt động, cha Giuseppe Allamano đã tìm cách đáp ứng những khát vọng sâu xa của con người thời đại của ngài. Cha đề ra nhiều sáng kiến giúp các tín hữu đào sâu lòng kính mến và hiểu biết về Đức Mẹ. Đền thánh Đức Mẹ An Ủi được cha trùng tu và trở thành trung tâm hành hương và đào luyện tinh thần cho các tín hữu. Ngôi nhà trọ gần đền thánh cũng được cha Allamano biến thành Học viện cho các chủng sinh và cha đảm nhận môn Thần học luân lý tại đây.

Khát vọng sâu xa của cha Allamano là mang Tin mừng đến cho những người chưa biết Chúa. Lời Chúa dạy “Các con hãy đi khắp thế gian, loan báo Tin mừng cho mọi người” vẫn luôn thôi thúc cha tìm cách đáp lại. Vì vậy, cha nghĩ đến việc thành lập một hội dòng thừa sai đi truyền giáo ở nước ngoài.

Ngày 29 tháng Giêng năm 1901, Dòng Thừa sai Đức Mẹ An Ủi được chính thức thành lập. Bốn thừa sai đầu tiên, gồm hai linh mục và hai giáo dân được gửi tới làm việc truyền giáo tại Kenya, ngày 08 tháng Năm năm 1902. Tám năm sau đó, 1910, theo lời yêu cầu của thánh Piô X Giáo hoàng, cha Allamano thành lập thêm Dòng các nữ tu Thừa sai Đức Mẹ An ủi. Giáo huấn của cha Allamano xoay quanh nguyên tắc đơn sơ này: “Là người đầu tiên thực hiện... làm điều thiện một cách hoàn hảo... Nên thánh trước rồi trở thành nhà truyền giáo sau. Sự thánh thiện dựa trên lòng kính mến sâu xa đối với Bí tích Thánh Thể, và lòng kính mến vững chắc đối với Mẹ Thiên Chúa”.

Ngành nam của dòng hiện có hơn 910 tu sĩ hoạt động truyền giáo tại 241 nhà trên thế giới. Và ngành nữ có 530 nữ tu hoạt động tại 73 nhà trên thế giới.

Sau cùng là hai nữ tu sáng lập dòng: Mẹ Elena Guerra, người Ý, sáng lập Dòng các Hiến sĩ Chúa Thánh Linh, và Mẹ Marie-Léonie Paradis người Canada, sáng lập Dòng Tiểu Muội Thánh Gia hồi năm 1880.

Nghi thức phong thánh

Sau khi tiểu sử mười bốn vị được xướng lên, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hát kinh cầu các thánh, xin ơn phù trợ của các thánh. Rồi ngài long trọng đọc công thức, lấy quyền tông đồ ghi tên mười bốn vị chân phước vào sổ bộ các thánh và truyền từ nay các vị thánh mới được tôn kính theo nghi thức của Giáo hội.

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:

Chúa Giêsu hỏi Giacôbê và Gioan: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Ngay sau đó, Người hỏi họ: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chúa Giêsu đặt ra những câu hỏi và khi làm như vậy, Người giúp chúng ta phân định, vì những câu hỏi cho phép chúng ta khám phá ra những gì bên trong chúng ta, làm sáng tỏ những ước muốn trong lòng chúng ta, ngay cả những ước muốn mà chúng ta không nhận ra.

Chúng ta hãy để cho lời Chúa chất vấn chúng ta. Chúng ta hãy tưởng tượng rằng Người đang hỏi mỗi người chúng ta: “Các con muốn Ta làm gì cho các con?”; và câu hỏi thứ hai: “Các con có thể uống chén của Ta không?”.

Qua những câu hỏi này, Chúa Giêsu tiết lộ mối liên hệ giữa Người và các môn đệ, cũng như kỳ vọng của họ đối với Người, với tất cả các khía cạnh điển hình của bất kỳ mối quan hệ nào. Thánh Giacôbê và Thánh Gioan thực sự có mối liên hệ với Chúa Giêsu, nhưng các ngài cũng có những yêu cầu nhất định. Các ngài bày tỏ mong muốn được ở gần Người, nhưng chỉ để chiếm một vị trí danh dự, để đóng một vai trò quan trọng, “một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái của Thầy, trong vinh quang của Thầy” (Mc 10:37). Rõ ràng họ nghĩ về Chúa Giêsu như Đấng Messiah, một Đấng Messiah chiến thắng và vinh quang, và mong đợi Người chia sẻ vinh quang của Người với họ. Họ nhìn thấy ở Chúa Giêsu Đấng Messiah, nhưng coi Người như một phạm trù quyền năng.

Chúa Giêsu không dừng lại ở lời các tông đồ, nhưng đào sâu hơn, lắng nghe và đọc được trái tim của mỗi người trong số họ và cả mỗi người chúng ta. Sau đó, trong cuộc trao đổi, thông qua hai câu hỏi, Người cố gắng tiết lộ mong muốn trong những yêu cầu của họ. Đôi khi ngay cả trong Giáo hội, chúng ta cũng thấy những ý tưởng này về danh dự hoặc quyền lực.

Trước tiên, Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”, một câu hỏi tiết lộ những suy nghĩ trong lòng họ, làm sáng tỏ những kỳ vọng và ước mơ vinh quang ẩn giấu mà các môn đồ âm thầm vun đắp. Khi Chúa Giêsu hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”, theo cách này, Người vạch trần mong muốn thực sự của họ: một Đấng Messiah quyền năng và chiến thắng, Đấng sẽ ban cho họ một vị trí danh dự.

Với câu hỏi thứ hai, Chúa Giêsu bác bỏ hình ảnh về Đấng Messia này và do đó giúp họ thay đổi quan điểm của họ, tức là được hoán cải: “Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Như vậy, Người cho thấy Người không phải là Đấng Messia mà họ nghĩ; Người là Thiên Chúa của tình yêu, Đấng cúi xuống để với tới người đã chìm sâu; Đấng làm cho mình yếu đuối để nâng đỡ người yếu đuối, Đấng làm việc cho hòa bình chứ không phải cho chiến tranh, Đấng đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Chén mà Chúa sẽ uống là lễ vật là mạng sống của Người, được ban cho chúng ta vì tình yêu, thậm chí đến chết, và chết trên thập giá.

Hơn nữa, bên phải và bên trái Người sẽ có hai tên trộm, bị treo giống Người trên thập giá và không được ngồi trên ngai vàng quyền lực; hai tên trộm bị đóng đinh với Chúa Kitô trong đau đớn, không được tôn vinh trong vinh quang. Vị vua bị đóng đinh, người công chính bị kết án trở thành nô lệ của tất cả: thực sự người này là Con Thiên Chúa! (x. Mc 15:39). Những kẻ thống trị không chiến thắng, chỉ những người phục vụ vì tình yêu. Chúng ta cũng được nhắc nhở về điều này trong Thư gửi tín hữu Do Thái: “Chúng ta không có một vị thượng tế không biết cảm thông với những nỗi yếu đuối của chúng ta, nhưng chúng ta có một vị đã bị thử thách trong mọi phương diện như chúng ta” (Dt 4:15).

Đến lúc này, Chúa Giêsu có thể giúp các môn đệ của Người hoán cải, thay đổi tư duy của họ: “Các con biết rằng giữa các dân ngoại, những người được họ coi là thủ lãnh thì thống trị họ, và những người làm lớn thì dùng bạo lực mà cai trị họ” (Mc 10:42). Nhưng không được như vậy đối với những người theo Chúa, Đấng đã tự biến mình thành tôi tớ để tiếp cận mọi người bằng tình yêu của Người. Những người theo Chúa Kitô, nếu họ muốn trở nên vĩ đại, phải phục vụ bằng cách học hỏi từ Người.

Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu cho thấy những suy nghĩ, ước muốn và dự phóng của trái tim chúng ta, đôi khi vạch trần những kỳ vọng của chúng ta về vinh quang, sự thống trị, quyền lực và sự phù phiếm. Người giúp chúng ta không còn suy nghĩ theo tiêu chuẩn của thế gian nữa, nhưng theo đường lối của Thiên Chúa, Đấng trở nên rốt hết để những kẻ rốt hết được nâng lên và trở nên đầu tiên. Trong khi những câu hỏi này của Chúa Giêsu, với lời dạy của Người về sự phục vụ, thường khó hiểu đối với chúng ta như đối với các môn đệ, nhưng bằng cách bước theo Người, bước theo dấu chân Người và chào đón món quà tình yêu của Người biến đổi cách suy nghĩ của chúng ta, chúng ta cũng có thể học được cách phục vụ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên ba từ cho thấy phong cách phục vụ của Thiên Chúa: gần gũi, thương xót và dịu dàng. Thiên Chúa đến gần, trở nên thương xót và dịu dàng để phục vụ. Gần gũi, thương xót và dịu dàng.

Đây là điều chúng ta nên khao khát: không phải quyền lực, mà là sự phục vụ. Phục vụ là lối sống của người theo tín hữu Kitô. Nó không phải là một danh sách những việc cần làm, để khi hoàn thành, chúng ta có thể coi như phần việc của mình đã hoàn thành; những người phục vụ bằng tình yêu thương không nói: “bây giờ đến lượt người khác”. Đây là cách nhân viên nghĩ, không phải cách nghĩ của chứng nhân. Phục vụ nảy sinh từ tình yêu thương, và tình yêu thương không biết giới hạn, nó không tính toán, nó chi tiêu và nó cho đi. Nó không chỉ làm những việc để mang lại kết quả, nó không phải là sự phục vụ thỉnh thoảng, mà là điều gì đó nảy sinh từ trái tim, một trái tim được đổi mới bởi tình yêu thương và trong tình yêu thương.

Khi chúng ta học cách phục vụ, mọi cử chỉ quan tâm và chăm sóc, mọi biểu hiện dịu dàng, mọi công việc thương xót của chúng ta đều trở thành sự phản ánh tình yêu của Chúa. Vì vậy, theo cách này, tất cả chúng ta - mỗi người chúng ta - hãy tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trên thế giới.

Dưới ánh sáng này, chúng ta có thể nhớ đến các môn đệ của Phúc Âm đang được phong thánh ngày hôm nay. Trong suốt lịch sử đầy biến động của nhân loại, họ vẫn là những người tôi tớ trung thành, những người đàn ông và phụ nữ đã phục vụ trong sự tử đạo và trong niềm vui, giống như Cha Manuel Ruiz López và các bạn đồng hành của ngài. Các vị là những linh mục và tu sĩ nhiệt thành với lòng nhiệt thành truyền giáo, giống như Cha Joseph Allamano, Sơ Marie Leonie Paradis và Sơ Elena Guerra. Những vị thánh mới này đã sống theo cách của Chúa Giêsu: phục vụ. Đức tin và công việc tông đồ mà họ thực hiện không nuôi dưỡng những ham muốn trần tục và cơn đói quyền lực của các ngài, nhưng ngược lại, các ngài đã tự biến mình thành những người tôi tớ của anh chị em mình, sáng tạo trong việc làm điều thiện, kiên định trong khó khăn và quảng đại đến cùng.

Chúng ta tin tưởng cầu xin sự chuyển cầu của các ngài để chúng ta cũng có thể theo Chúa Kitô, theo Người trong việc phục vụ và trở thành chứng nhân hy vọng cho thế giới.

Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật với Đức Thánh Cha

Trước khi kết thúc thánh lễ, Đức Thánh Cha đã có vài lời trước khi đọc kinh truyền tin. Ngài nói:

Trước khi kết thúc Thánh lễ này, tôi xin cảm ơn tất cả anh chị em đã đến để tôn vinh các vị Thánh mới. Tôi xin chào các Hồng Y, các giám mục, những người nam và nữ tận hiến, đặc biệt là các tu sĩ dòng Phanxicô và các tín hữu Maronite, các nhà truyền giáo Consolata, các nữ tu dòng Thánh Gia và các tu sĩ dòng Chúa Thánh Thần, cũng như các nhóm hành hương khác đến từ nhiều nơi khác nhau. Tôi xin gửi lời chào trân trọng đến Tổng thống Cộng hòa Ý, các phái đoàn chính thức khác và các nhà chức trách dân sự.

Tôi chào đoàn đông đảo các tín hữu hành hương Uganda, cùng với Phó Tổng thống nước này, những người đã đến đây sáu mươi năm sau ngày các vị tử đạo Uganda được phong thánh.

Xin chứng tá của Thánh Giuseppe Allamano nhắc nhở chúng ta về sự quan tâm cần thiết đối với những nhóm dân số yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất. Tôi đặc biệt nghĩ đến người Yanomami, trong khu rừng Amazon của Brazil, nơi mà phép lạ liên quan đến việc phong thánh hôm nay đã xảy ra giữa những thành viên của họ. Tôi kêu gọi các nhà chức trách chính trị và dân sự bảo đảm bảo vệ những người dân này và các quyền cơ bản của họ, và chống lại mọi hình thức khai thác phẩm giá và lãnh thổ của họ.

Hôm nay chúng ta cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo, với chủ đề – “Hãy đi và mời mọi người đến dự tiệc” (x. Mt 22:9) – nhắc nhở chúng ta rằng việc loan báo truyền giáo có nghĩa là mang đến cho mọi người lời mời gọi đến một cuộc gặp gỡ lễ hội với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta và muốn chúng ta chia sẻ niềm vui hôn nhân của Người. Như các vị Thánh mới dạy chúng ta: “Mỗi Kitô hữu được kêu gọi tham gia vào sứ mệnh phổ quát này bằng cách đưa ra chứng tá của riêng mình cho Tin Mừng trong mọi bối cảnh” (Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 98, ngày 25 Tháng Giêng năm 2024). Chúng ta hãy hỗ trợ, bằng lời cầu nguyện và sự hỗ trợ của chúng ta, tất cả các nhà truyền giáo, những người thường hy sinh rất nhiều, mang lời loan báo sáng ngời của Tin Mừng đến mọi nơi trên thế giới.

Và chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người dân đang phải chịu đau khổ vì chiến tranh – Palestine, Israel, Li Băng, Ukraine, Sudan, Miến Điện và nhiều quốc gia khác – và chúng ta hãy cầu xin món quà hòa bình cho tất cả mọi người.

Xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta trở thành những chứng nhân can đảm và vui tươi của Tin Mừng giống như Mẹ và các Thánh.


Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana