1. Người Việt Nam muốn nhà truyền giáo người Pháp được phong thánh
Camille Dalmas, trên Aleteia ngày 14/05/24 tường trình rằng Cha Benoît Thuận (1880-1933), một linh mục truyền giáo người Pháp và là người sáng lập cộng đoàn Xitô ở Việt Nam, có thể sẽ sớm được Giáo Hội Công Giáo công nhận là bậc đáng kính.
“Cộng đoàn thành kính thắp hương dâng lên đấng sáng lập/ Hãy nếm hương thơm tưởng nhớ người cha kính yêu”: Những lời này, được hát bằng tiếng Việt trong căn phòng nhỏ tại Tòa Đại Diện Rôma vào một ngày Thứ Sáu ấm áp của tháng Năm, đánh dấu sự kiện bắt đầu lễ kết thúc cuộc điều tra của giáo phận đối với Cha Benoît Thuận.
Một con dấu công chứng bằng sáp đỏ, các hồ sơ dày sẽ được chuyển cho cáo thỉnh viên, người giờ đây sẽ phải bảo vệ án phong thánh tại Vatican để được công nhận “nhân đức anh hùng” của vị linh mục, bước đầu tiên trên con đường phong thánh.
Trong hội trường chức năng cao cấp của Cung điện Lateran, một số lượng lớn các tu sĩ mặc áo dài trắng và áo choàng đen được buộc với nhau bằng một chiếc thắt lưng da đơn giản. Phụ nữ cũng có thói quen tương tự, với việc đội thêm một chiếc khăn màu đen trên đầu. Họ là những tu sĩ Xitô, và nhiều người trong số họ là người Việt Nam.
Giám Mục Phụ Tá và phó giáo phận Rôma, Đức Giám Mục Baldassare Reina (giữa), được bao quanh bởi các tu sĩ dòng Xitô khi kết thúc giai đoạn giáo phận trong nghi lễ của Cha Benoît Thuận. Camille Dalmas
“Hôm nay, gần một nửa số tu sĩ Xitô đến từ Việt Nam,” Cha Tổng Viện Trưởng của Dòng, Mauro-Giuseppe Lepori, tiết lộ. Sự kiện này mắc nợ rất nhiều nơi người anh hùng thời đó, Cha Benoît Thuân (1880-1933), người gốc Pas-de-Calais.
Một ơn gọi tiệm tiến
Sinh năm 1880 tại Boulogne-sur-Mer, Pháp, người đàn ông lúc đó có tên là Henri Denis gia nhập tiểu chủng viện ở thành phố cảng lúc 12 tuổi, sau đó chuyển sang đại chủng viện Arras vào năm 1900. Nhưng người con này của Opal Coast mơ ước được đi biển để trở thành một nhà truyền giáo, và rời quê hương vào năm 1901 để đến chủng viện Truyền giáo Nước ngoài ở Paris.
Sau một thời gian đào tạo ngắn ngủi, ngài được thụ phong linh mục năm 1903 và được phái đi truyền giáo. Đối với ngài, đó là Huế, nơi lúc ấy được gọi là Đông Dương: Việt Nam. Ở đó, vị tông tòa đại diện, để giúp ngài hòa nhập với giáo xứ của mình, đã đặt cho ngài một cái tên mới: Benoît Thuận — trong tiếng Việt có nghĩa là “vâng lời”.
Cha Thuận rất tận tâm với công việc mục vụ của mình và nói được cả tiếng Việt lẫn tiếng Trung. Ngài phát triển mạnh mẽ ở vùng đất mới này, nhưng cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện diện chiêm niệm, nên ngài quyết định thành lập một cộng đồng tu sĩ, cộng đồng nam giới đầu tiên trong cả nước. Rôma đồng ý, và năm 1917 ngài thành lập đan viện Đức Mẹ An Nam ở Phước Sơn chỉ với một anh em.
Ngay từ đầu, ngài muốn đan viện của ngài thuộc về gia đình Xitô và đã khởi xướng các thủ tục để trở thành thành viên. Những năm tháng đó thật khó khăn, được đánh dấu bằng nạn đói và sự thù địch của một số người dân địa phương, nhưng dần dần ngài đã chiếm được cảm tình của họ và nhận được sự đồng cảm, kính trọng của người dân.
Dưới sự bảo vệ của Thánh Têrêxa
Ngài đã nhận được sự hỗ trợ bất ngờ cho sứ mệnh của mình khi, vào năm 1924, ngài viết thư cho chị gái của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ngay sau khi vị thánh bé nhỏ ở Lisieux được phong chân phước vào năm 1923 (bà được phong thánh năm 1925).
Trong câu trả lời của mình, Mẹ Agnes Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng người chị lúc đó là chân phước của Mẹ, người gần như đã được gửi đến Việt Nam, sẽ là “người bảo vệ cộng đồng”.
“Cha Thuận rất nổi tiếng vào thời của ngài,” Viện phụ Jean XXIII Nguyễn Văn Sơn, hiện là viện phụ của đan viện do Cha Thuận thành lập, cho biết. Cha Thuận qua đời năm 1933, ngay cả trước khi tu viện của ngài chính thức gia nhập Dòng Xitô vào năm 1935, nhưng vẫn được công nhận là người sáng lập dòng tu địa phương.
Ngày nay người Công Giáo Việt Nam biết rất ít về Cha Thuận, do họ phải chịu đựng sự im lặng và đàn áp khủng khiếp sau khi Chủ nghĩa Cộng sản xuất hiện. Nhưng con đường phong thánh có thể thay đổi mọi thứ: “Đối với các tín hữu Công Giáo Việt Nam, đó là một niềm vui lớn lao”, Viện phụ Jean XXIII nói.
Hoa trái của đan sĩ truyền giáo
“Cha Thuận đã kết trái,” vị viện phụ nói tiếp, đồng thời nhắc lại những lời chứng từ các tu sĩ cũ trong cộng đồng của mình, những người đã biết rõ về Cha. Dòng Thánh Gia, chi nhánh Việt Nam của Dòng do Cha Thuận thành lập, hiện có 12 đan viện ở Việt Nam, trong đó có 3 cộng đoàn nữ và hơn 1,300 thành viên.
“Cha Thuận rất phù hợp ngày nay và đã truyền cảm hứng cho cá nhân tôi,” Tổng viện phụ Mauro-Giuseppe Lepori giải thích. “Đời sống đan tu thường thiếu một chút chiều kích truyền giáo, và đời sống truyền giáo đôi khi thiếu chiều kích chiêm niệm của đời sống đan tu”, vị tu sĩ Thụy Sĩ giải thích, cho rằng loại nhân vật thánh thiện này mang lại một “sự cân bằng” và có thể đại diện cho một mô hình cho tương lai của dòng tu ngài.
2. Đức Tổng Giám Mục Caccia: Giải pháp quân sự không mang lại tương lai
Đức Tổng Giám Mục Gabriele Caccia, Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, tuyên bố rằng những gì đang xảy ra tại Ukraine và Trung Đông chứng tỏ rằng giải pháp quân sự “không ổn” và cho thấy hàng ngàn sinh mạng bị tiêu diệt, các gia đình tan vỡ, cùng với các gia cư và cơ cấu hạ tầng. Vì thế, cần đi theo con đường khác.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho các cơ quan truyền thông của Vatican, truyền đi hôm 14 tháng Năm vừa qua, Đức Tổng Giám Mục Caccia phác họa những hành trình cần thiết để đạt tới hòa bình, nêu bật những phương thế, kể cả những phương thế mà ngành ngoại giao quốc tế có được, có thể giúp giảm bớt xung đột và cho đến nay, chưa được sử dụng. Trong số các phương thế đó, có các cuộc thương thuyết, điều tra, làm trung gian, hòa giải, làm trọng tài, các quy luật xét xử, nại tới các tổ chức hoặc các hiệp định miền. Thêm vào đó, có hàng loạt các sáng kiến nhân đạo có thể giúp đạt tới các giải pháp. Tóm lại, là có nhiều chỗ cho các sáng kiến khác nhau, nhưng cơ bản vẫn là ý chí cương quyết và cùng muốn sử dụng chúng trong tinh thần tôn trọng công pháp quốc tế, chẳng vậy sẽ thật khó khăn thực thi chúng trong thực tế”.
Đức Tổng Giám Mục đại diện Tòa Thánh cũng nhắc lại tình trạng chi phí hiện nay, chưa từng có trước đây, những ngân khoản cho việc võ trang tại nhiều nước, lẽ ra, những số tiền đó phải được đầu tư để sử dụng tốt hơn cho sự phát triển xã hội kinh tế và trong các chương trình phòng ngừa xung đột, và cần tái lập sự tín nhiệm, các cơ cấu ngoại giao và cộng tác. “Căn cội của tình trạng trên đây là ảo tưởng nguy hiểm, nghĩ rằng an ninh là do võ lực và việc sở hữu võ khí mang lại. Trong thực tế, an ninh là kết quả của những tương quan dựa trên sự tín nhiệm nhau và tinh thần trách nhiệm. Theo nghĩa đó, Đức Tổng Giám Mục nói, lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô về tình huynh đệ hoặc về tình bạn xã hội, chắc chắn đòi có một sự hoán cải cần thiết nếu muốn đạt tới mục tiêu hòa bình”.
Ngoài ra, Đức Tổng Giám Mục Caccia tái bày tỏ sự lo âu của Giáo Hội Công Giáo trước những nguy cơ võ khí hạt nhân, một đe dọa cho sự sống còn của nhân loại nói chung.
Đức Tổng Giám Mục Caccia, người Ý, năm nay 66 tuổi (1858), phục vụ trong ngành ngoại giao Tòa Thánh từ 33 năm nay và đã từng làm phó Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tương đương với Thứ trưởng Nội vụ, và năm 2009 được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Sứ thần Tòa Thánh tại Liban, rồi chuyển sang Philippines, trước khi làm Quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại New York, từ 5 năm nay (2019).
3. Triều thiên do Đức Thánh Cha làm phép được đội cho tượng Đức Mẹ Fatima ở Ukraine
Hôm 12 tháng Năm vừa qua, áp ngày kỷ niệm 107 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, triều thiên do Đức Thánh Cha Phanxicô làm phép đã được cho đội tượng Đức Mẹ Fatima, tại tu viện Đa Minh thánh Phêrô và Martinô de Porres ở thành phố Fastov, nơi có trung tâm cứu trợ nhân đạo lớn nhất ở Ukraine, trong thời buổi chiến tranh tại nước này hiện nay.
Fastow là thành phố có 44 ngàn dân cư, gần thủ đô Kyiv. Tượng Đức Mẹ Fatima cổ kính tại đây được thực hiện tại Bồ Đào Nha năm 1919, tức là hai năm sau khi Đức Mẹ bắt đầu hiện ra tại Fatima.
Cha Mykhailo Romaniw, Dòng Đa Minh, là người trách nhiệm Trung tâm cứu trợ ở Fastow, với sự cộng tác của đông đảo các giáo dân thiện nguyện. Cha kể với Đài Vatican, chương trình tiếng Ba Lan, rằng: “Ý tưởng đội Bắc Hàn cho tượng Đức Mẹ đến từ một giáo dân trong giáo xứ chúng tôi, ông Aleksaner Lysenko. Ông thấy một tượng Đức Mẹ Fatima trên trang mạng về các đồ cổ. Tượng Đức Mẹ bằng gỗ cao 120 centimet đến từ Fatima và được tạc hồi năm 1919. Và chúng tôi đặc biệt quan tâm đến pho tượng này. Tiếp đến, điều quan trọng thứ hai là Đức Mẹ Fatima dạy chúng ta cầu nguyện cho nước Nga trong bối cảnh chiến tranh này. Điều này rất quan trọng và tôi luôn nhớ rằng không hề có mạc khải nào khác nói về nước Nga”.
Cha Romaniv cũng cho biết rằng ý tưởng xin Đức Thánh Cha làm phép triều thiên cũng xuất hiện liên quan đến cuộc viếng thăm của Đức Hồng Y Konrad Krajewski, Bộ trưởng Bộ bác ái của Đức Thánh Cha, đến viếng Ukraine, liền sau thảm họa: Nga phá sập đập nước bên sông Dnipro ở miền Novaya Kachoka. Việc trao triều Đức Mẹ diễn ra tại Kherson, một nơi rất biểu tượng, vì thành này mới được giải phóng khỏi sự xâm lược của Nga. Đông đảo những người thiện nguyện đến từ Fastow đã tới đây để giúp đỡ dân chúng tại Kherson. Nhờ số tiền giúp đỡ của Đức Thánh Cha, một quán ăn xã hội được thiết lập để giúp bữa ăn cho những người túng thiếu.
Cha Romaniv nói: “Triều thiên Đức Mẹ đã được Đức Thánh Cha làm phép trong dịp Thượng Hội đồng Giám mục, hồi tháng Mười năm ngoái do Đức Giám Mục Aleksander Jazlowiecki, Bản quyền của chúng tôi ở Giáo phận Kyiv Zhytomyr và ngài đợi đến ngày 12 tháng Năm vừa qua, áp kỷ niệm Đức Mẹ Fatima bắt đầu hiện ra, tiến hành nghi thức đội triều thiên cho tượng Đức Mẹ.
Còn thánh lễ trọng thể tại Fastow trong dịp đó do Đức Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Kyiv-Zhytomyr chủ sự, nơi có trung tâm bác ái của Dòng Đa Minh.