Các nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta lúc 5h chiều thứ Sáu 29 tháng Ba tại Đền Thờ Thánh Phêrô.
Trong ngày đớn đau này, Giáo Hội tưởng niệm những giây phút cuối cùng khi Chúa Giêsu tiến gần đến cái chết, khi sức sống và sức mạnh của Ngài đang cạn kiệt dần.
Bài Phúc Âm tường thuật cho chúng ta cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và một trong hai người tội phạm cùng bị đóng đinh với Ngài mà truyền thống thường gọi là người “trộm lành”, người đã hoán cải trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi nhé!”
Rồi có tiếng đáp lại của Chúa Giêsu, nhanh chóng và như một lời thì thầm: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi trên nước Thiên Đàng”
Trong ngày đau khổ và đớn đau này, hai người bị đóng đinh ấy không nói gì khác, nhưng vài lời thốt lên từ trong cổ họng khô kiệt của họ vang dội đến ngày nay. Những lời này còn tiếp tục vang dội như một dấu chỉ của hy vọng và ơn cứu độ cho những ai đã phạm tội nhưng cũng đã tin và tín thác ngay cả trước đường biên cuối cùng của cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phanxicô đang đứng trước bàn thờ chính Đền Thờ Thánh Phêrô. Vì những vấn đề ở đầu gối, Đức Thánh Cha đã không nằm phủ phục như thường lệ.
Trước sự hiện diện của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục trong giáo triều Rôma, Đức Thánh Cha mở đầu với lời nguyện, xin Chúa nhớ lại lòng từ bi và đoái thương, bảo vệ gia đình mà Chúa Kitô, Con Chúa, đã khai mạc mầu nhiệm vượt qua cho họ trong máu của Người.
Giảng trong buổi cử hành, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa nói:
“Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là TA LÀ” (Ga 8:28). Đây là lời Chúa Giêsu đã thốt ra khi kết thúc cuộc tranh cãi gay gắt với những người chống đối Người. Có một sự tiến bộ vượt bậc so với những câu “Ta Là” trước đó được Chúa Giêsu tuyên bố trong Tin Mừng Gioan. Ngài không còn nói: “Ta Là” điều này hay điều kia như bánh sự sống, ánh sáng thế gian, sự sống lại và sự sống, v.v. Ngài chỉ đơn giản nói “TA LÀ” mà không cần xác định thêm. Điều này mang lại cho lời tuyên bố của Ngài một chiều hướng siêu hình, tuyệt đối. Tuyên bố ấy cố tình nhắc lại lời được được viết trong sách Xuất Hành 3:14 và Isaia 43:10-12, trong đó chính Thiên Chúa đưa ra lời tuyên bố thần thánh “TA LÀ” của Ngài.
Tính mới lạ đáng kinh ngạc của lời khẳng định này trên miệng Chúa Kitô chỉ được khám phá nếu chúng ta chú ý đến những gì xảy ra trước lời khẳng định của Chúa Kitô: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết TA LÀ”. Như muốn nói: Tôi là gì - và do đó, Thiên Chúa là gì! - sẽ chỉ được biểu hiện trên thập tự giá. (Như chúng ta biết, trong Tin Mừng Thánh Gioan, cụm từ “bị treo lên” ám chỉ biến cố thập giá!)
Chúng ta đang phải đối mặt với sự đảo ngược hoàn toàn quan niệm của con người về Thiên Chúa và một phần quan niệm của Cựu Ước. Chúa Giêsu đến không phải để cải thiện và hoàn thiện quan niệm của con người về Thiên Chúa, nhưng, theo một nghĩa nào đó, để lật đổ nó và tỏ lộ dung nhan đích thực của Thiên Chúa. Đây là điều mà Thánh Phaolô là người đầu tiên hiểu được. Ngài đã viết:
Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. (1 Cr 1:21-24).
Hiểu theo cách này, lời Chúa Kitô mang một ý nghĩa phổ quát, thách thức những ai đọc nó, trong mọi thời đại và hoàn cảnh, kể cả thời đại chúng ta. Thực ra, sự đảo ngược quan niệm về Thiên Chúa luôn cần được đổi mới. Thật không may, trong tiềm thức của mình, chúng ta tiếp tục mang theo chính ý tưởng này về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến để thay đổi. Chúng ta có thể nói về một Thiên Chúa là Đấng có tinh thần thuần khiết, là đấng tối cao, v.v., nhưng làm sao chúng ta có thể nhìn thấy Ngài trong sự hủy diệt của cái chết trên thập giá? Chắc chắn Chúa là Đấng toàn năng, nhưng đó là loại quyền năng gì? Đối mặt với loài người, Thiên Chúa thấy mình không có khả năng gì, không chỉ khả năng áp đặt mà ngay cả khả năng tự vệ. Ngài không thể can thiệp bằng quyền lực để áp đặt mình lên họ. Ngài không thể không tôn trọng đến mức độ vô hạn trước những lựa chọn tự do của con người.
Và như vậy Chúa Cha mạc khải bộ dung nhan đích thật về quyền năng toàn năng của Người nơi Con của Người, Đấng quỳ gối trước các môn đệ để rửa chân cho các ông; nơi Đấng bị giảm thiểu đến mức bất lực triệt để nhất trên thập giá và tiếp tục yêu thương và tha thứ mà không lên án ai. Sự toàn năng của Thiên Chúa là sự toàn năng của tình yêu không có khả năng tự vệ.
Cần ít sức mạnh để phô diễn; nhưng phải mất rất nhiều sức mạnh để đặt mình sang một bên và che giấu bản thân. Chúa chính là sức mạnh vô hạn của sự tự che giấu này! Exinanivit semetipsum: Người đã trút bỏ chính mình (Philíp 2:7). Thiên Chúa đã phản kháng lại “ý chí quyền lực” của chúng ta bằng sự bất lực tự nguyện của Ngài.
Thật là một bài học cho chúng ta, những người ít nhiều có ý thức luôn muốn khoe khoang. Thật là một bài học cho các cường quốc trên trái đất! Hoặc ít nhất là đối với những người trong số họ thậm chí không nghĩ đến việc phục vụ mà chỉ nghĩ đến quyền lực vì sự khát khao quyền lực; đó là những kẻ – như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng – là những kẻ “đàn áp dân chúng” và tệ hại hơn nữa, lại “tự coi mình là ân nhân” của họ (x. Mt 20:25; Lk 22:25).
* * *
Nhưng chẳng phải chiến thắng của Chúa Kitô trong sự phục sinh của Người đã lật đổ tầm nhìn này, khôi phục quyền toàn năng bất khả chiến bại của Thiên Chúa đó sao? Đúng, nhưng theo một nghĩa rất khác so với những gì chúng ta thường nghĩ. Rất khác với những “chiến thắng” được tổ chức khi hoàng đế trở về sau các chiến dịch thắng lợi, dọc theo con phố vẫn được gọi là “Via Trionfale” ở Rôma ngày nay.
Chắc chắn đã có một chiến thắng trong trường hợp của Chúa Kitô, và một chiến thắng vừa dứt khoát vừa không thể đảo ngược được về vấn đề đó! Nhưng chiến thắng này thể hiện như thế nào? Sự sống lại diễn ra một cách bí ẩn, không có nhân chứng. Cái chết của Ngài - chúng ta đã nghe trong trình thuật Cuộc Thương Khó - đã được một đám đông lớn nhìn thấy và có sự tham gia của các nhà chức trách tôn giáo và chính trị cao nhất. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu chỉ hiện ra với một số môn đệ, ngoài tầm chú ý.
Bằng cách này, Ngài muốn nói với chúng ta rằng sau khi chịu đau khổ, chúng ta không nên mong đợi một chiến thắng hữu hình bên ngoài, chẳng hạn như vinh quang trần thế. Chiến thắng được ban cho một cách vô hình và có đẳng cấp vô cùng cao hơn bởi vì nó là vĩnh cửu! Các vị tử đạo hôm qua và hôm nay là những ví dụ về điều đó.
Đấng Phục Sinh tự biểu hiện qua những lần hiện ra, đủ để cung cấp một nền tảng đức tin rất vững chắc cho những ai ngay từ đầu đã không từ chối tin. Nhưng đó không phải là hành động trả thù nhằm hạ nhục đối thủ của mình. Ngài không xuất hiện giữa họ để chứng minh họ sai hay chế nhạo cơn giận bất lực của họ. Bất kỳ sự trả thù nào như vậy sẽ không phù hợp với tình yêu mà Chúa Kitô muốn làm chứng trong cuộc khổ nạn của Người.
Như khi bị hủy diệt trên Đồi Can vê, Ngài cư xử khiêm tốn trong vinh quang của sự phục sinh. Mối quan tâm của Chúa Giêsu phục sinh không phải là làm cho kẻ thù của Người bối rối, nhưng là để trấn an các môn đệ đang thất vọng của Người, và trước họ, là những người phụ nữ chưa bao giờ ngừng tin vào Người.
* * *
Trong quá khứ, chúng ta sẵn sàng nói về “chiến thắng của Giáo hội Thánh thiện”. Mọi người cầu nguyện cho điều đó và những thành tựu cũng như lý do lịch sử đã sẵn sàng được ghi nhớ. Nhưng chúng ta đã nghĩ đến loại chiến thắng nào? Ngày nay chúng ta nhận ra kiểu chiến thắng đó khác với kiểu chiến thắng của Chúa Giêsu biết bao. Nhưng chúng ta đừng phán xét quá khứ. Luôn có nguy cơ không công bằng khi chúng ta đánh giá quá khứ từ góc độ hiện tại.
Đúng hơn, chúng ta hãy chấp nhận lời mời mà Chúa Giêsu gửi đến thế giới từ thập giá của Người: “Hãy đến với Ta, tất cả những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Nó gần như sẽ bị coi là mỉa mai và nhạo báng! Một người không có hòn đá để tựa đầu, một người bị dân mình ruồng bỏ, bị kết án tử hình, một người bị “bịt mặt để không nhìn thấy” (xem Is 53:3), dám nói với toàn thể nhân loại, ở mọi nơi và mọi thời, và nói: “Tất cả hãy đến với Ta, và Ta sẽ cho được nghỉ ngơi!”
Hãy đến với Ta, bạn là người già, bệnh tật và cô đơn, bạn là người mà thế giới bỏ mặc chết trong nghèo đói, hoặc trong khi bị bắn phá; bạn, những người đang mòn mỏi trong xà lim vì niềm tin vào Ta, hoặc vì cuộc chiến giành tự do của bạn, hãy đến với Ta, bạn là nạn nhân của bạo lực. Tóm lại, tất cả mọi người, không trừ ai: Hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi! Cha đã chẳng hứa với các con: “Khi Ta được treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta” đó sao? (Ga 12:32)
“Nhưng Ngài có thể cho chúng tôi phần còn lại nào, hỡi người đàn ông của thập giá, bị bỏ rơi và mệt mỏi hơn những người Ngài muốn an ủi?” “Vâng, hãy đến với Ta, vì TA LÀ! Ta là Chúa! Ta đã bác bỏ ý tưởng của ngươi về sự toàn năng, nhưng Ta vẫn giữ sự toàn năng của Ta, đó là sự toàn năng của tình yêu. Người ta viết rằng “sự yếu đuối của Thiên Chúa mạnh hơn sức mạnh của con người” (1 Cor 1:25). Ta có thể an ủi và cho ngươi nghỉ ngơi mà không làm biến mất đi sự mệt mỏi trên thế giới này. Hãy hỏi những người đã trải nghiệm nó!
Vâng, lạy Chúa chịu đóng đinh, với tâm hồn đầy lòng biết ơn, vào ngày chúng con tưởng nhớ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa, chúng con cùng với tông đồ Phaolô của Chúa lớn tiếng tuyên xưng:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?[…] Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta. (Rm 8,35-39).