Trong cuộc phỏng vấn ngày 23 tháng 12, với Edgar Beltran thuộc tạp chí The Pillar, Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin đã thảo luận về Tuyên bố 'Fiducia supplicans'.
Theo tạp chí này, các nhà lãnh đạo Giáo hội đã bị cuốn vào cuộc tranh luận gay gắt trong tuần này, sau khi Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican, hôm thứ Hai, công bố Fiducia supplicans, một tuyên bố đưa ra một khuôn khổ cho việc ban phước lành giáo sĩ cho các cặp đồng tính và những người khác sống trong các mối quan hệ bên ngoài hôn nhân.
Một số hội đồng giám mục và giáo phận đã bật đèn xanh cho những phép lành như vậy, đặc biệt là ở Bỉ và Đức, đã thấy trong tài liệu này sự xác nhận cách tiếp cận của họ đối với vấn đề này, với một số hứa hẹn sẽ thách thức tài liệu bằng cách xuất bản các hướng dẫn về các phép lành phụng vụ cho các cặp đồng tính - một bước bị cấm bởi tuyên bố của Bộ Giáo lý Đức tin.
Nhưng một số hội đồng giám mục ở Châu Phi và Châu Á đã bác bỏ tài liệu này, trong đó một số cấm việc thực thi Fiducia supplicans trong lãnh thổ của họ. Một Hồng Y đã thách thức tính chính thống về mặt giáo lý của tài liệu, trong khi người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine cho biết văn bản này không áp dụng cho giáo đoàn của ngài.
Giữa một tuần đầy thử thách đối với Giáo hội, The Pillar đã liên lạc với Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, để đặt câu hỏi về tài liệu và những phản ứng mà nó đã tạo ra.
Cuộc phỏng vấn này được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha, qua email và được The Pillar dịch sang tiếng Anh.
Thưa Đức Hồng Y Fernandez, Fiducia supplicans nói rằng nó ‘vẫn giữ vững giáo lý truyền thống của Giáo hội về hôn nhân, không cho phép bất cứ loại nghi thức phụng vụ hoặc phép lành nào tương tự như nghi thức phụng vụ có thể tạo ra sự nhầm lẫn.’
Nó cũng nói rằng các phép lành mà nó thảo luận ‘không nên được ấn định theo nghi thức bởi các thẩm quyền của giáo hội để tránh tạo ra sự nhầm lẫn với phép lành riêng của bí tích hôn nhân’, và ‘những phép lành không theo nghi thức này không bao giờ ngừng là những cử chỉ đơn giản mang lại một phương tiện hữu hiệu tăng cường niềm tin tưởng vào Thiên Chúa nơi những người cầu xin chúng, cẩn thận để chúng không trở thành một hành vi phụng vụ hoặc bán phụng vụ, tương tự như một bí tích.'
Nhưng nhiều hội đồng giám mục khác nhau đã phê chuẩn các nghi thức ban phép lành cho các cặp trong những hoàn cảnh trái luật.
Điều đó có mâu thuẫn với tuyên bố không?
Tuyên bố rất rõ ràng trong việc phân biệt hai hình thức chúc lành: một hình thức theo hình thức phụng vụ-nghi thức và hình thức kia dành riêng cho công việc mục vụ - đây là sự đóng góp đặc biệt của nó.
Một số giám mục đã tiến bộ trong các hình thức nghi thức chúc phúc cho các cặp bất hợp lệ, và điều này là không thể chấp nhận được. Họ nên điều chỉnh lại đề xuất của mình về vấn đề đó.
Fiducia supplicans nói rằng: 'Trong một lời cầu nguyện ngắn trước phép lành tự phát này, thừa tác viên thụ phong có thể cầu xin cho các cá nhân có được bình an, sức khỏe, tinh thần kiên nhẫn, đối thoại và tương trợ - nhưng cũng có ánh sáng và sức mạnh của Chúa để có thể hoàn thành thánh ý Người hoàn toàn.'
Nó nói thêm rằng: 'Những hình thức chúc phúc này bày tỏ một lời cầu xin Thiên Chúa ban cho những trợ giúp xuất phát từ sự thúc đẩy của Thánh Thần Người - điều mà thần học cổ điển gọi là 'ơn hiện sủng' - để các mối quan hệ nhân bản có thể trưởng thành và phát triển trong sự trung thành với Tin Mừng, để họ được giải thoát khỏi những bất toàn và yếu đuối của mình, và để họ có thể phát biểu mình trong chiều kích ngày càng gia tăng của tình yêu Thiên Chúa.'
Phải chăng những đoạn văn đó có nghĩa là động cơ chính để ban phước lành như vậy phải là những cặp sống trong ‘hoàn cảnh bất hợp lệ’ phải tuân thủ cuộc sống của họ theo những lời dạy về luân lý và tín lý của Giáo hội?
Những loại phước lành này chỉ đơn giản là những kênh mục vụ đơn giản giúp thể hiện đức tin của mọi người, ngay cả khi những người đó là những tội nhân nặng nề.
Vì vậy, bằng cách ban phước lành này cho hai người tự nguyện đến cầu xin, người ta có thể cầu xin Chúa ban cho họ sức khỏe, bình an, thịnh vượng một cách hợp pháp - những điều mà tất cả chúng ta đều cầu xin và một tội nhân cũng có thể cầu xin.
Đồng thời, vì người ta có thể nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày của hai người này, không phải mọi thứ đều là tội lỗi, nên người ta có thể cầu nguyện cho họ [nhận được] tinh thần đối thoại, kiên nhẫn, giúp đỡ lẫn nhau.
Nhưng tuyên bố cũng đề cập đến lời cầu xin Chúa Thánh Thần giúp đỡ để mối quan hệ này, vốn thường không được linh mục biết đến, có thể được thanh lọc khỏi mọi điều không đáp lại Tin Mừng và ý muốn của Thiên Chúa, và có thể trưởng thành theo hướng kế hoạch của Thiên Chúa.
Như tôi nói, đôi khi vị linh mục, trong một chuyến hành hương, không biết cặp đôi đó, và đôi khi họ là hai người bạn rất thân chia sẻ những điều tốt đẹp, đôi khi họ có quan hệ tình dục trong quá khứ và bây giờ điều còn lại là cảm giác thân thuộc và hỗ tương giúp đỡ mạnh mẽ. Là một linh mục giáo xứ, tôi thường gặp những cặp như vậy, đôi khi rất gương mẫu.
Vì vậy, vì vấn đề không phải là bí tích xưng tội (!), mà là một phép lành đơn giản, nên vẫn xin tình bạn này được thanh lọc, trưởng thành và sống một cách trung thành với Tin Mừng. Và ngay cả khi có một loại quan hệ tình dục nào đó, dù được biết đến hay không, thì lời chúc phúc được thực hiện theo cách này cũng không xác thực hay biện minh cho bất cứ điều gì.
Trên thực tế, điều tương tự cũng xảy ra bất cứ khi nào có cá nhân được ban phép lành, bởi vì cá nhân đó xin phép lành - không phải sự tha tội - có thể là một tội nhân lớn, nhưng chúng ta không từ chối phép lành dành cho người đó.
Nhưng rõ ràng chúng ta phải phát triển niềm xác tín rằng các phép lành không theo nghi thức không phải là sự thánh hiến con người, chúng không phải là sự biện minh cho mọi hành động của người đó, chúng không phải là sự phê chuẩn cho lối sống mà người đó đang sống. Không. Không. Tôi không biết tại thời điểm nào mà chúng ta đã đề cao cử chỉ mục vụ đơn giản này đến mức chúng ta đánh đồng nó với việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Đó là lý do vì sao chúng ta muốn đặt ra thật nhiều điều kiện để được ban phước lành.
Tuyên bố nói rằng ‘ngoài hướng dẫn’ được nó cung cấp, ‘không nên có thêm phản hồi nào về những cách có thể để điều chỉnh các chi tiết hoặc những điểm đặc thù liên quan đến các phước lành kiểu này.’
Điều đó có nghĩa là sẽ không có bất cứ phản hồi hay khiển trách nào đối với các hội đồng giám mục hoặc giáo phận tìm cách điều chỉnh và nghi thức hóa các phép lành này - hoặc đối với những người tìm cách cấm chúng hoàn toàn?
Không, điều đó có nghĩa là người ta không nên mong đợi một cuốn sách hướng dẫn, một vademecum hoặc một hướng dẫn cho một việc quá đơn giản.
Tôi biết rằng ở một số giáo phận, các giám mục trước đây đã đưa ra những hướng dẫn cho những trường hợp này. Chẳng hạn, một số vị đã chỉ ra cho các linh mục rằng khi là vấn đề của một cặp nổi tiếng ở địa phương hoặc trong trường hợp có thể có một số tai tiếng, thì phép lành nên được ban hành một cách riêng tư, ở một nơi kín đáo. Nhưng tuyên bố này không muốn đi vào chi tiết hoặc thay thế sự phân định địa phương của các giám mục.
Mặt khác, để cố gắng giải thích câu hỏi của bạn, chúng tôi hiện đang thảo luận những vấn đề này với các chủ tịch hội đồng giám mục và với các nhóm giám mục đến thăm thánh bộ. Chẳng bao lâu nữa, một nhóm các bộ trưởng thánh bộ sẽ bắt đầu hành trình hoán cải và đào sâu hơn với các giám mục Đức và chúng tôi sẽ đưa ra tất cả những giải thích rõ ràng cần thiết.
Hơn nữa, tôi đang lên kế hoạch cho một chuyến đi đến Đức để có một số cuộc trò chuyện mà tôi tin là quan trọng.
Tuyên ngôn kêu gọi sự phân định ‘thực tế’ và ‘thận trọng và như một người cha’ của các linh mục để ban những phúc lành này.
Phải chăng cách tiếp cận đó làm giảm thẩm quyền của các giám mục trong việc quản lý giáo phận của họ, như hệ luận giáo hội học của Công đồng Vatican II - đặc biệt là sự nhấn mạnh đến thẩm quyền của các giám mục giáo phận?
Các giám mục đã cấm những phép lành này trong lãnh thổ của họ có mâu thuẫn trực tiếp với tuyên bố không?
Mỗi giám mục địa phương, với sứ mệnh riêng của mình, luôn có chức năng phân định tại địa phương, ở một nơi rất cụ thể mà ngài biết rõ hơn những người khác, vì đó là đàn chiên của ngài.
Chúng tôi không nói đến các hội đồng [giám mục] quốc gia, và càng không nói đến các hội đồng lục địa, bởi vì họ không thể áp đặt mọi thứ đối với các giám mục trong giáo phận của họ. Ngay cả khi họ có thể thống nhất các tiêu chuẩn, họ cũng không thể thay thế được vị trí độc nhất của vị giám mục trị nhậm Giáo hội địa phương của mình.
Nhưng chúng ta đang ở trong Giáo Hội Công Giáo, và ở đó Tin Mừng cho chúng ta thấy Phêrô.
Rõ ràng, khi có một văn bản được Đức Giáo Hoàng ký, để giải thích nó một cách rộng rãi, trước tiên các giám mục phải nghiên cứu nó một cách sâu sắc và không vội vàng, đồng thời để cho mình được soi sáng và làm phong phú bởi văn bản đó. Do đó, sự khôn ngoan và chú ý đến văn hóa địa phương có thể chấp nhận những cách áp dụng khác nhau, nhưng không thể phủ nhận hoàn toàn bước này được yêu cầu đối với các linh mục.
Tôi hiểu rõ mối quan tâm của các giám mục ở một số quốc gia châu Phi hoặc châu Á, ở những nơi mà người đồng tính có thể bị bỏ tù. Đó là một sự xúc phạm tới phẩm giá con người, chắc chắn làm các giám mục đau lòng và thách thức tư cách làm cha của họ. Có vẻ như các giám mục không muốn đẩy những người đồng tính vào tình trạng bạo lực. Bản thân họ đề cập đến “luật pháp” của đất nước họ.
Điều quan trọng là các hội đồng giám mục này không nắm giữ một học thuyết khác với tuyên bố được Đức Giáo Hoàng ký, bởi vì đó là học thuyết giống như mọi khi, nhưng đúng hơn họ nêu lên sự cần thiết phải nghiên cứu và phân định, để hành động với sự khôn ngoan mục vụ trong bối cảnh này.
Tôi không thể nói nhiều hơn thế vì tôi nhận ra rằng việc tiếp nhận những tài liệu này đòi hỏi thời gian cũng như một sự suy tư thanh thản và kéo dài.
Một cách giải thích đã được đưa ra cho tuyên bố là các phước lành sẽ được ban cho những con người chứ không phải cho sự kết hợp chuyên biệt của họ. Tuy nhiên, tài liệu nói rõ ràng ở phần thứ ba về việc chúc lành cho ‘các cặp.
Phải chăng điều này hàm ý rằng sự kết hợp “bất hợp lệ” của những người này đang được chúc phúc?
Cần phải phân biệt rõ ràng, và lời tuyên bố làm nên sự phân biệt này. Các cặp đôi được ban phước. Sự kết hợp không được chúc phúc, vì những lý do mà tuyên bố liên tục giải thích về ý nghĩa thực sự của hôn nhân Kitô giáo và quan hệ tình dục.
Đối với những người đọc văn bản một cách thanh thản và không có thành kiến về ý thức hệ, rõ ràng là không có sự thay đổi nào trong học thuyết về hôn nhân và về việc đánh giá khách quan các [loại] hành vi tính dục ngoài hôn nhân duy nhất hiện hữu- nam-nữ, độc chiếm, không thể hủy tiêu, tự nhiên mở ra cho sự phát sinh sự sống mới).
Nhưng điều này không ngăn cản chúng ta thực hiện một cử chỉ phụ tử và gần gũi, nếu không chúng ta có thể trở thành những thẩm phán lên án từ bệ thờ - khi những người thánh hiến chúng ta có nhiều điều làm nhục chúng ta như một Giáo hội, chúng ta đã gây ra gương xấu nghiêm trọng cho những người đơn sơ bằng chính tác phong của chúng ta.
Ngoài ra, tất cả chúng ta đều có những lỗi lầm cá nhân, chúng ta không hoàn toàn gắn kết với toàn bộ Tin Mừng, và những phán xét thô thiển của chúng ta đôi khi không tính đến việc cùng một thước đo chúng ta áp dụng cho người khác sẽ được áp dụng cho chúng ta. Tôi, người muốn lên Thiên đàng và được hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa, hãy cố gắng đừng quên lời cảnh báo này của Chúa Giêsu Kitô.
Theo tạp chí này, các nhà lãnh đạo Giáo hội đã bị cuốn vào cuộc tranh luận gay gắt trong tuần này, sau khi Bộ Giáo lý Đức tin của Vatican, hôm thứ Hai, công bố Fiducia supplicans, một tuyên bố đưa ra một khuôn khổ cho việc ban phước lành giáo sĩ cho các cặp đồng tính và những người khác sống trong các mối quan hệ bên ngoài hôn nhân.
Một số hội đồng giám mục và giáo phận đã bật đèn xanh cho những phép lành như vậy, đặc biệt là ở Bỉ và Đức, đã thấy trong tài liệu này sự xác nhận cách tiếp cận của họ đối với vấn đề này, với một số hứa hẹn sẽ thách thức tài liệu bằng cách xuất bản các hướng dẫn về các phép lành phụng vụ cho các cặp đồng tính - một bước bị cấm bởi tuyên bố của Bộ Giáo lý Đức tin.
Nhưng một số hội đồng giám mục ở Châu Phi và Châu Á đã bác bỏ tài liệu này, trong đó một số cấm việc thực thi Fiducia supplicans trong lãnh thổ của họ. Một Hồng Y đã thách thức tính chính thống về mặt giáo lý của tài liệu, trong khi người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine cho biết văn bản này không áp dụng cho giáo đoàn của ngài.
Giữa một tuần đầy thử thách đối với Giáo hội, The Pillar đã liên lạc với Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, để đặt câu hỏi về tài liệu và những phản ứng mà nó đã tạo ra.
Cuộc phỏng vấn này được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha, qua email và được The Pillar dịch sang tiếng Anh.
Thưa Đức Hồng Y Fernandez, Fiducia supplicans nói rằng nó ‘vẫn giữ vững giáo lý truyền thống của Giáo hội về hôn nhân, không cho phép bất cứ loại nghi thức phụng vụ hoặc phép lành nào tương tự như nghi thức phụng vụ có thể tạo ra sự nhầm lẫn.’
Nó cũng nói rằng các phép lành mà nó thảo luận ‘không nên được ấn định theo nghi thức bởi các thẩm quyền của giáo hội để tránh tạo ra sự nhầm lẫn với phép lành riêng của bí tích hôn nhân’, và ‘những phép lành không theo nghi thức này không bao giờ ngừng là những cử chỉ đơn giản mang lại một phương tiện hữu hiệu tăng cường niềm tin tưởng vào Thiên Chúa nơi những người cầu xin chúng, cẩn thận để chúng không trở thành một hành vi phụng vụ hoặc bán phụng vụ, tương tự như một bí tích.'
Nhưng nhiều hội đồng giám mục khác nhau đã phê chuẩn các nghi thức ban phép lành cho các cặp trong những hoàn cảnh trái luật.
Điều đó có mâu thuẫn với tuyên bố không?
Tuyên bố rất rõ ràng trong việc phân biệt hai hình thức chúc lành: một hình thức theo hình thức phụng vụ-nghi thức và hình thức kia dành riêng cho công việc mục vụ - đây là sự đóng góp đặc biệt của nó.
Một số giám mục đã tiến bộ trong các hình thức nghi thức chúc phúc cho các cặp bất hợp lệ, và điều này là không thể chấp nhận được. Họ nên điều chỉnh lại đề xuất của mình về vấn đề đó.
Fiducia supplicans nói rằng: 'Trong một lời cầu nguyện ngắn trước phép lành tự phát này, thừa tác viên thụ phong có thể cầu xin cho các cá nhân có được bình an, sức khỏe, tinh thần kiên nhẫn, đối thoại và tương trợ - nhưng cũng có ánh sáng và sức mạnh của Chúa để có thể hoàn thành thánh ý Người hoàn toàn.'
Nó nói thêm rằng: 'Những hình thức chúc phúc này bày tỏ một lời cầu xin Thiên Chúa ban cho những trợ giúp xuất phát từ sự thúc đẩy của Thánh Thần Người - điều mà thần học cổ điển gọi là 'ơn hiện sủng' - để các mối quan hệ nhân bản có thể trưởng thành và phát triển trong sự trung thành với Tin Mừng, để họ được giải thoát khỏi những bất toàn và yếu đuối của mình, và để họ có thể phát biểu mình trong chiều kích ngày càng gia tăng của tình yêu Thiên Chúa.'
Phải chăng những đoạn văn đó có nghĩa là động cơ chính để ban phước lành như vậy phải là những cặp sống trong ‘hoàn cảnh bất hợp lệ’ phải tuân thủ cuộc sống của họ theo những lời dạy về luân lý và tín lý của Giáo hội?
Những loại phước lành này chỉ đơn giản là những kênh mục vụ đơn giản giúp thể hiện đức tin của mọi người, ngay cả khi những người đó là những tội nhân nặng nề.
Vì vậy, bằng cách ban phước lành này cho hai người tự nguyện đến cầu xin, người ta có thể cầu xin Chúa ban cho họ sức khỏe, bình an, thịnh vượng một cách hợp pháp - những điều mà tất cả chúng ta đều cầu xin và một tội nhân cũng có thể cầu xin.
Đồng thời, vì người ta có thể nghĩ rằng trong cuộc sống hàng ngày của hai người này, không phải mọi thứ đều là tội lỗi, nên người ta có thể cầu nguyện cho họ [nhận được] tinh thần đối thoại, kiên nhẫn, giúp đỡ lẫn nhau.
Nhưng tuyên bố cũng đề cập đến lời cầu xin Chúa Thánh Thần giúp đỡ để mối quan hệ này, vốn thường không được linh mục biết đến, có thể được thanh lọc khỏi mọi điều không đáp lại Tin Mừng và ý muốn của Thiên Chúa, và có thể trưởng thành theo hướng kế hoạch của Thiên Chúa.
Như tôi nói, đôi khi vị linh mục, trong một chuyến hành hương, không biết cặp đôi đó, và đôi khi họ là hai người bạn rất thân chia sẻ những điều tốt đẹp, đôi khi họ có quan hệ tình dục trong quá khứ và bây giờ điều còn lại là cảm giác thân thuộc và hỗ tương giúp đỡ mạnh mẽ. Là một linh mục giáo xứ, tôi thường gặp những cặp như vậy, đôi khi rất gương mẫu.
Vì vậy, vì vấn đề không phải là bí tích xưng tội (!), mà là một phép lành đơn giản, nên vẫn xin tình bạn này được thanh lọc, trưởng thành và sống một cách trung thành với Tin Mừng. Và ngay cả khi có một loại quan hệ tình dục nào đó, dù được biết đến hay không, thì lời chúc phúc được thực hiện theo cách này cũng không xác thực hay biện minh cho bất cứ điều gì.
Trên thực tế, điều tương tự cũng xảy ra bất cứ khi nào có cá nhân được ban phép lành, bởi vì cá nhân đó xin phép lành - không phải sự tha tội - có thể là một tội nhân lớn, nhưng chúng ta không từ chối phép lành dành cho người đó.
Nhưng rõ ràng chúng ta phải phát triển niềm xác tín rằng các phép lành không theo nghi thức không phải là sự thánh hiến con người, chúng không phải là sự biện minh cho mọi hành động của người đó, chúng không phải là sự phê chuẩn cho lối sống mà người đó đang sống. Không. Không. Tôi không biết tại thời điểm nào mà chúng ta đã đề cao cử chỉ mục vụ đơn giản này đến mức chúng ta đánh đồng nó với việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Đó là lý do vì sao chúng ta muốn đặt ra thật nhiều điều kiện để được ban phước lành.
Tuyên bố nói rằng ‘ngoài hướng dẫn’ được nó cung cấp, ‘không nên có thêm phản hồi nào về những cách có thể để điều chỉnh các chi tiết hoặc những điểm đặc thù liên quan đến các phước lành kiểu này.’
Điều đó có nghĩa là sẽ không có bất cứ phản hồi hay khiển trách nào đối với các hội đồng giám mục hoặc giáo phận tìm cách điều chỉnh và nghi thức hóa các phép lành này - hoặc đối với những người tìm cách cấm chúng hoàn toàn?
Không, điều đó có nghĩa là người ta không nên mong đợi một cuốn sách hướng dẫn, một vademecum hoặc một hướng dẫn cho một việc quá đơn giản.
Tôi biết rằng ở một số giáo phận, các giám mục trước đây đã đưa ra những hướng dẫn cho những trường hợp này. Chẳng hạn, một số vị đã chỉ ra cho các linh mục rằng khi là vấn đề của một cặp nổi tiếng ở địa phương hoặc trong trường hợp có thể có một số tai tiếng, thì phép lành nên được ban hành một cách riêng tư, ở một nơi kín đáo. Nhưng tuyên bố này không muốn đi vào chi tiết hoặc thay thế sự phân định địa phương của các giám mục.
Mặt khác, để cố gắng giải thích câu hỏi của bạn, chúng tôi hiện đang thảo luận những vấn đề này với các chủ tịch hội đồng giám mục và với các nhóm giám mục đến thăm thánh bộ. Chẳng bao lâu nữa, một nhóm các bộ trưởng thánh bộ sẽ bắt đầu hành trình hoán cải và đào sâu hơn với các giám mục Đức và chúng tôi sẽ đưa ra tất cả những giải thích rõ ràng cần thiết.
Hơn nữa, tôi đang lên kế hoạch cho một chuyến đi đến Đức để có một số cuộc trò chuyện mà tôi tin là quan trọng.
Tuyên ngôn kêu gọi sự phân định ‘thực tế’ và ‘thận trọng và như một người cha’ của các linh mục để ban những phúc lành này.
Phải chăng cách tiếp cận đó làm giảm thẩm quyền của các giám mục trong việc quản lý giáo phận của họ, như hệ luận giáo hội học của Công đồng Vatican II - đặc biệt là sự nhấn mạnh đến thẩm quyền của các giám mục giáo phận?
Các giám mục đã cấm những phép lành này trong lãnh thổ của họ có mâu thuẫn trực tiếp với tuyên bố không?
Mỗi giám mục địa phương, với sứ mệnh riêng của mình, luôn có chức năng phân định tại địa phương, ở một nơi rất cụ thể mà ngài biết rõ hơn những người khác, vì đó là đàn chiên của ngài.
Chúng tôi không nói đến các hội đồng [giám mục] quốc gia, và càng không nói đến các hội đồng lục địa, bởi vì họ không thể áp đặt mọi thứ đối với các giám mục trong giáo phận của họ. Ngay cả khi họ có thể thống nhất các tiêu chuẩn, họ cũng không thể thay thế được vị trí độc nhất của vị giám mục trị nhậm Giáo hội địa phương của mình.
Nhưng chúng ta đang ở trong Giáo Hội Công Giáo, và ở đó Tin Mừng cho chúng ta thấy Phêrô.
Rõ ràng, khi có một văn bản được Đức Giáo Hoàng ký, để giải thích nó một cách rộng rãi, trước tiên các giám mục phải nghiên cứu nó một cách sâu sắc và không vội vàng, đồng thời để cho mình được soi sáng và làm phong phú bởi văn bản đó. Do đó, sự khôn ngoan và chú ý đến văn hóa địa phương có thể chấp nhận những cách áp dụng khác nhau, nhưng không thể phủ nhận hoàn toàn bước này được yêu cầu đối với các linh mục.
Tôi hiểu rõ mối quan tâm của các giám mục ở một số quốc gia châu Phi hoặc châu Á, ở những nơi mà người đồng tính có thể bị bỏ tù. Đó là một sự xúc phạm tới phẩm giá con người, chắc chắn làm các giám mục đau lòng và thách thức tư cách làm cha của họ. Có vẻ như các giám mục không muốn đẩy những người đồng tính vào tình trạng bạo lực. Bản thân họ đề cập đến “luật pháp” của đất nước họ.
Điều quan trọng là các hội đồng giám mục này không nắm giữ một học thuyết khác với tuyên bố được Đức Giáo Hoàng ký, bởi vì đó là học thuyết giống như mọi khi, nhưng đúng hơn họ nêu lên sự cần thiết phải nghiên cứu và phân định, để hành động với sự khôn ngoan mục vụ trong bối cảnh này.
Tôi không thể nói nhiều hơn thế vì tôi nhận ra rằng việc tiếp nhận những tài liệu này đòi hỏi thời gian cũng như một sự suy tư thanh thản và kéo dài.
Một cách giải thích đã được đưa ra cho tuyên bố là các phước lành sẽ được ban cho những con người chứ không phải cho sự kết hợp chuyên biệt của họ. Tuy nhiên, tài liệu nói rõ ràng ở phần thứ ba về việc chúc lành cho ‘các cặp.
Phải chăng điều này hàm ý rằng sự kết hợp “bất hợp lệ” của những người này đang được chúc phúc?
Cần phải phân biệt rõ ràng, và lời tuyên bố làm nên sự phân biệt này. Các cặp đôi được ban phước. Sự kết hợp không được chúc phúc, vì những lý do mà tuyên bố liên tục giải thích về ý nghĩa thực sự của hôn nhân Kitô giáo và quan hệ tình dục.
Đối với những người đọc văn bản một cách thanh thản và không có thành kiến về ý thức hệ, rõ ràng là không có sự thay đổi nào trong học thuyết về hôn nhân và về việc đánh giá khách quan các [loại] hành vi tính dục ngoài hôn nhân duy nhất hiện hữu- nam-nữ, độc chiếm, không thể hủy tiêu, tự nhiên mở ra cho sự phát sinh sự sống mới).
Nhưng điều này không ngăn cản chúng ta thực hiện một cử chỉ phụ tử và gần gũi, nếu không chúng ta có thể trở thành những thẩm phán lên án từ bệ thờ - khi những người thánh hiến chúng ta có nhiều điều làm nhục chúng ta như một Giáo hội, chúng ta đã gây ra gương xấu nghiêm trọng cho những người đơn sơ bằng chính tác phong của chúng ta.
Ngoài ra, tất cả chúng ta đều có những lỗi lầm cá nhân, chúng ta không hoàn toàn gắn kết với toàn bộ Tin Mừng, và những phán xét thô thiển của chúng ta đôi khi không tính đến việc cùng một thước đo chúng ta áp dụng cho người khác sẽ được áp dụng cho chúng ta. Tôi, người muốn lên Thiên đàng và được hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa, hãy cố gắng đừng quên lời cảnh báo này của Chúa Giêsu Kitô.