Theo tin Tòa Thánh, ngày 6 tháng 11, trên chuyến bay từ Bahrain trở về Rôma, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dành cho các nhà báo tháp tùng ngài một cuộc phỏng vấn hào hứng.
Trong cuộc họp báo này, ngài trả lời hết sức đầy đủ, không quên đưa ra nhiều chi tiết cá nhân. Nhưng nổi bật vẫn là khát vọng hòa bình. Ngài khuyên các nhà báo trở thành những người chủ hòa. Ngài đề cập tới Ukraine và nhiều cuộc xung đột trên thế giới. Ngài nói về tình bạn của mình với Đại Imam của Al Azhar, về tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền lợi và sự bình đẳng cho phụ nữ, về các vấn đề di cư và chống lạm dụng trẻ em. Đối với những người Công Giáo Đức, ngài nói: "Nước Đức đã có một Giáo Hội Tin lành tuyệt vời, tôi không muốn nhìn thấy một Giáo Hội Tin lành khác".
Sau đây là nguyên văn cuộc họp báo, do Bộ Truyền thông của Tòa Thánh thực hiện và phổ biến.
Fatima Al Najem Hãng thông tấn Bahrain: Tôi muốn nói với ngài một điều trước khi ngỏ câu hỏi của tôi với ngài. Ngài có một vị trí rất đặc biệt trong trái tim tôi, không những vì ngài đã đến thăm đất nước của tôi mà vì ngài được bầu làm Giáo hoàng vào ngày sinh nhật của tôi. Tôi có một câu hỏi: ngài đánh giá như thế nào về kết quả chuyến thăm lịch sử của mình tới Vương quốc Bahrain và ngài đánh giá thế nào về những nỗ lực mà Bahrain đang thực hiện trong việc củng cố và thúc đẩy cuộc sống cộng đồng, trong mọi lĩnh vực xã hội, mọi tôn giáo, giới tính và chủng tộc?
Đức Phanxicô: Đó là một chuyến thăm gặp gỡ vì mục đích thực sự là để đối thoại liên tôn với Hồi giáo và đối thoại đại kết với Bartholomew. Các ý tưởng được đưa ra bởi Đại Imam của Al-Azhar là theo hướng tìm kiếm sự đoàn kết, đoàn kết trong Hồi giáo, tôn trọng các sắc thái và sự khác biệt, nhưng một cách đoàn kết; đoàn kết với các Kitô hữu và với các tôn giáo khác. Để tham gia đối thoại liên tôn hoặc đối thoại đại kết, bạn cần có bản sắc riêng của mình. 'Tôi theo đạo Hồi', 'tôi theo đạo Kitô,' tôi có danh tính này và vì vậy tôi có thể nói với danh tính. Khi danh tính của bạn không được xác định, khi hơi ở 'trong không khí', thật khó để tham gia vào cuộc đối thoại vì không có qua lại và đó là lý do tại sao điều đó lại quan trọng. Và hai [nhà lãnh đạo] đã đến, cả Đại Imam của Al-Azhar và Thượng phụ Bartholomew, cả hai đều có một danh tính mạnh mẽ. Và điều đó là điều tốt.
Theo quan điểm Hồi giáo, tôi đã lắng nghe kỹ ba bài phát biểu của Đại Imam và tôi có ấn tượng bởi cách ông kiên quyết đối thoại nội bộ Hồi giáo, không phải để xóa bỏ sự khác biệt mà để hiểu nhau và làm việc với nhau, không chống lại nhau. Những người theo đạo Thiên chúa chúng tôi có một chút lịch sử tồi tệ về những khác biệt đã dẫn chúng tôi đến những cuộc chiến tranh tôn giáo: Người Công Giáo chống lại người Chính thống giáo hoặc chống lại người Luthêrô. Bây giờ, tạ ơn Chúa, sau Công đồng, có một sự gần gũi và chúng tôi có thể đối thoại và làm việc với nhau và đó là điều quan trọng, một chứng từ về việc làm điều tốt cho người khác. Rồi, các chuyên gia, nhà thần học sẽ và có thể thảo luận về những vấn đề thần học, nhưng chúng ta phải cùng nhau bước đi với tư cách là tín hữu, như bạn bè, như anh chị em, làm điều tốt.
Tôi cũng rất có ấn tượng với những điều đã được nói trong Hội đồng các trưởng lão, về sáng thế và bảo tồn sáng thế, và đây là mối quan tâm chung của tất cả mọi người, người Hồi giáo, Kitô giáo, tất cả mọi người. Giờ đây, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Đại Imam của Al-Azhar đang từ Bahrain đến Cairo trên cùng một chiếc máy bay, với nhau như anh em. Đây là một điều khá cảm động. Đây là một điều đã tạo ra một điều tốt đẹp.
Sự hiện diện của Thượng phụ Bartholomew - ngài là một người có thẩm quyền trong lĩnh vực đại kết - cũng đã làm rất tốt. Chúng tôi thấy điều đó trong buổi lễ đại kết mà chúng tôi tổ chức, và cả trong những lời mà ngài đã phát biểu trước đó. Tóm lại: Đó là một cuộc hành trình gặp gỡ. Đối với tôi, sự mới lạ của việc tìm hiểu một nền văn hóa là cởi mở đối với tất cả mọi người: ở đất nước của bạn, có chỗ cho tất cả mọi người. Ngoài ra, tôi nhìn thấy Nhà vua, người đã nói với tôi: 'Ở đây mọi người làm những gì họ muốn, nếu một người phụ nữ muốn làm việc, hãy để cô ấy làm việc.' Cởi mở hoàn toàn. Và cả về phần tôn giáo, cũng có sự cởi mở. Tôi có ấn tượng bởi con số Kitô hữu - người Phi luật tân, người Ấn Độ từ Kerala - đang ở đây và họ sống và làm việc tại đất nước này.
Fatima Al Najem: Họ cầu chúc ngài mọi sự tốt đẹp...
Đức Phanxicô: Đó là ý niệm, tôi khám phá ra một điều gì đó mới mẻ giúp tôi hiểu và tương tác nhiều hơn với mọi người. Chữ chủ yếu là đối thoại, và để đối thoại, bạn phải bắt đầu từ bản sắc của mình, phải có bản sắc.
Fatima Al Najem: Cảm ơn ngài, thưa Đức Thánh Cha. Tôi sẽ cầu nguyện Allah Toàn năng ban phước lành cho ngài được sức khỏe tốt, hạnh phúc và một cuộc sống lâu dài.
Đức Phanxicô: Vâng, xin cầu nguyện cho tôi, đừng chống lại tôi [cười].
Imad Atrach: Thưa Đức Thánh Cha, kể từ khi ký Văn kiện về Tình huynh đệ nhân bản cách đây ba năm, khi đến thăm Baghdad, và gần đây đến Kazakhstan: Đây có phải là con đường mà ngài nghĩ là đang mang lại kết quả hữu hình không? Chúng ta có thể mong đợi nó đạt đến cao điểm là một cuộc họp tại Vatican không? Sau đó, tôi muốn cảm ơn ngài đã đề cập đến Lebanon ngày hôm nay, bởi vì với tư cách là một người Lebanon, tôi có thể nói với ngài rằng chúng tôi thực sự rất cần chuyến thăm của ngài, đặc biệt là vì bây giờ chúng tôi thậm chí không có Tổng thống, vì vậy ngài có thể đến và ôm lấy nhân dân một cách trực tiếp.
Đức Phanxicô: Xin cảm ơn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều trong những ngày này - và chúng tôi đã nói về nó với Đại Imam - về ý tưởng Tài liệu Abu Dhabi đã ra đời ra sao, Tài liệu đó chúng tôi đã cùng nhau làm, tài liệu đầu tiên. Đại Imam đã đến Vatican để thăm xã giao; khi kết thúc cuộc họp theo nghi thức của chúng tôi, thì cũng đã gần đến giờ ăn trưa và ông sắp sửa tạm biệt, và khi tháp tùng để chào tạm biệt ông, tôi đã hỏi ông: 'ngài định ăn trưa ở đâu?' Tôi không biết ông đã nói gì với tôi nhưng chúng tôi quyết định ăn trưa với nhau. Đó là một điều xuất phát từ bên trong. Sau đó, ngồi tại bàn ăn - ông, thư ký của ông, hai cố vấn, tôi, thư ký của tôi, cố vấn của tôi - chúng tôi lấy bánh mì, bẻ ra và đưa cho nhau. Một cử chỉ của tình bạn, đưa bánh cho nhau. Đó là một bữa trưa rất tốt đẹp, rất huynh đệ. Và đến phút chót, tôi không biết ai đã đưa ra ý tưởng, nhưng chúng tôi nói, 'Tại sao chúng ta không làm một văn kiện về cuộc gặp gỡ này?' Và thế là Văn kiện Abu Dhabi ra đời. Hai thư ký phải làm việc, với một bản thảo trao đổi qua lại, và cuối cùng, chúng tôi đã tận dụng cuộc họp ở Abu Dhabi để công bố nó. Đó là một điều xuất phát từ Thiên Chúa. Bạn không thể hiểu nó cách khác, bởi vì không ai trong chúng tôi nghĩ đến điều này. Nó xuất hiện trong một bữa ăn trưa thân thiện, và đó là một điều vĩ đại.
Sau đó, tôi tiếp tục suy nghĩ, và Văn kiện Abu Dhabi là cơ sở cho thông điệp Fratelli tutti; những gì tôi đã viết về tình bạn giữa con người trong Fratelli tutti đều dựa trên Văn kiện Abu Dhabi. Tôi tin rằng người ta không thể nghĩ tới một con đường như vậy mà không nghĩ tới một phước lành đặc biệt từ Thiên Chúa trên con đường này. Tôi muốn nói điều này vì tôn trọng công lý, dường như rất đúng khi bạn nghĩ rằng chính Chúa đã truyền cảm hứng cho con đường này. Tôi thậm chí còn không biết tên Đại Imam nghĩa là gì, và rồi chúng tôi trở thành bạn bè và làm một điều gì đó trong tư cách hai người bạn, và hiện giờ chúng tôi nói chuyện mỗi khi gặp nhau. Ngày nay, Tài liệu có liên quan và công việc đang được thực hiện để làm cho nó được biết đến.
Rồi, về Lebanon... Lebanon là một nỗi buồn đối với tôi. Bởi vì bản thân Lebanon không phải là một quốc gia - một vị Giáo hoàng đã nói điều đó trước tôi - Lebanon không phải là một quốc gia, mà là một thông điệp. Lebanon có một ý nghĩa rất lớn đối với tất cả chúng ta. Và Lebanon ngay bây giờ đang phải đau khổ. Tôi cầu nguyện, và tôi nhân cơ hội này kêu gọi các chính trị gia Lebanon: hãy gạt tư lợi sang một bên, nhìn vào đất nước và hãy nhất trí. Đầu tiên là Thiên Chúa, sau đó là đất nước, sau đó là quyền lợi. Thiên Chúa và đất nước. Ngay bây giờ tôi không muốn nói, 'Hãy cứu lấy Lebanon,' bởi vì chúng ta không phải là những vị cứu tinh, nhưng xin làm ơn, các bạn phải ủng hộ Lebanon, giúp đỡ để Lebanon dừng lại việc sa lầy này, để Lebanon lấy lại sự vĩ đại của mình. Có những phương tiện... đó là sự hào phóng của Lebanon. Có biết bao người tị nạn chính trị ở Lebanon! Nó rất rộng lượng nhưng nó đang đau khổ. Tôi nhân cơ hội này xin mọi người cầu nguyện cho Lebanon, cầu nguyện cũng là một tình bạn. Các bạn là nhà báo, hãy nhìn Lebanon và nói về nó để nâng cao ý thức. Cảm ơn bạn.
Carol Glatz, CNS: Thưa Đức Thánh Cha, trong chuyến đi đến Bahrain này, Đức Thánh Cha đã nói về các quyền căn bản, bao gồm quyền của phụ nữ, phẩm giá của họ, quyền có không gian của họ trong lĩnh vực xã hội và công cộng; và Đức Thánh Cha đã khuyến khích những người trẻ tuổi có lòng can đảm, để gây ra tiếng ồn; để tiến tới một thế giới công bằng hơn. Trước tình hình cận kề, ở Iran, với các cuộc biểu tình bùng nổ bởi một số phụ nữ và nhiều thanh niên muốn có thêm tự do, Đức Thánh Cha có ủng hộ nỗ lực này của phụ nữ và nam giới đòi có các quyền căn bản, những quyền cũng tìm thấy trong Văn kiện về Tình huynh đệ nhân bản không?
Đức Phanxicô: Chúng ta phải nói sự thật cho nhau. Cuộc đấu tranh cho quyền của phụ nữ là một cuộc đấu tranh liên tục. Bởi vì ở một số nơi, phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới, nhưng ở những nơi khác thì không. Không? Tôi nhớ vào những năm 1950 ở đất nước tôi, khi có cuộc đấu tranh cho quyền công dân của phụ nữ: phụ nữ có quyền bầu cử. Bởi vì cho đến khoảng những năm 50 chỉ có nam giới mới có thể làm như vậy. Và tôi nghĩ về cuộc đấu tranh tương tự này ở Hoa Kỳ. Nhưng tại sao, tôi tự hỏi mình, người phụ nữ phải đấu tranh như thế này để giữ quyền của mình? Có một... Tôi không biết đó có phải là truyền thuyết hay không, truyền thuyết về nguồn gốc trang sức của phụ nữ - có thể đó là truyền thuyết - giải thích cho sự tàn nhẫn của rất nhiều tình huống đối với phụ nữ. Người ta nói rằng phụ nữ đeo nhiều đồ trang sức bởi vì ở một đất nước - tôi không nhớ, có lẽ đó là một sự thật lịch sử - có một phong tục là khi người chồng chán ngấy người phụ nữ, anh ta sẽ nói với cô ấy, 'Hãy cút đi!' và cô ấy không thể quay lại và lấy bất cứ thứ gì. Cô phải ra đi với những gì cô có trên người. Và (đó sẽ là) lý do tại sao họ tích lũy vàng, để có thể ít nhất lấy đi một thứ gì đó. Họ nói rằng đây là nguồn gốc của đồ trang sức. Tôi không biết nó có đúng hay không, nhưng hình ảnh này có ích đối với chúng ta.
Quyền lợi là điều căn bản. Nhưng tại sao trên thế giới ngày nay chúng ta lại không thể ngăn chặn được bi kịch khóa trinh (infibulation) của các cô gái trẻ? Điều này thật tồi tệ. Ngày nay. Sự kiện vẫn là thực hành này còn tồn tại, nhân loại không thể ngăn chặn tội ác này, một hành vi tội ác! Phụ nữ, theo hai nhận xét mà tôi đã được nghe, hoặc là chất liệu "sài rồi bỏ" - điều đó thật tệ - hoặc họ là 'một loài được bảo vệ.' Nhưng sự bình đẳng giữa nam và nữ vẫn chưa được thấy ở khắp nơi, và có những trường hợp như vậy, trong đó phụ nữ là công dân hạng hai hay tệ hơn. Chúng ta phải tiếp tục đấu tranh vì điều đó vì phụ nữ là một hồng ân. Thiên Chúa đã không tạo ra con người và sau đó cho anh ta một con chó nhỏ để mua vui. Người đã không làm thế. Người đã tạo ra họ bình đẳng, đàn ông và đàn bà. Và những gì Thánh Phaolô đã viết trong một bức thư của ngài về các mối liên hệ nam nữ, điều có vẻ cổ hủ đối với chúng ta ngày nay, vào thời điểm đó mang tính cách mạng đến mức gây tai tiếng. Ngài nói người đàn ông nên chăm sóc người phụ nữ như da thịt của mình. Điều này, vào thời điểm đó, là một điều mang tính cách mạng. Tất cả các quyền của phụ nữ đều xuất phát từ sự bình đẳng này. Và một xã hội không thể trao cho người phụ nữ vị trí của họ thì xã hội này không thể tiến về phía trước. Chúng tôi có kinh nghiệm (về điều này). Thí dụ, trong cuốn sách tôi đã viết, Torniamo a sognare, trong phần về kinh tế học, có những nhà kinh tế học nữ trên thế giới đã thay đổi tầm nhìn kinh tế và có thể thực thi nó. Bởi vì họ có một thiên phú khác. Họ biết cách điều hành mọi thứ theo một cách khác, không hề thua kém, nhưng có tính bổ sung.
Tôi đã từng trò chuyện với một người đứng đầu chính phủ, một người đứng đầu chính phủ vĩ đại, một bà mẹ có nhiều con, người đã rất thành công trong việc giải quyết các tình huống khó khăn. Và tôi nói với bà ấy, 'Nói cho tôi biết, thưa bà, bà đã giải quyết một tình huống khó khăn như vậy như thế nào?' Bà ấy bắt đầu cử động tay như thế này, trong im lặng. Rồi bà ấy nói với tôi: 'Đây là cách các bà mẹ [chúng tôi] làm điều đó.'
Phụ nữ có cách giải quyết vấn đề của riêng họ, đó không phải là cách của đàn ông. Và cả hai cách phải làm việc cùng nhau: người phụ nữ, bình đẳng với người đàn ông, làm việc vì lợi ích chung với cái nhìn sâu sắc mà phụ nữ có. Tôi đã thấy ở Vatican, mỗi khi một phụ nữ đến làm một công việc ở Vatican, mọi thứ trở nên tốt hơn. Thí dụ, phó thống đốc của Vatican là một phụ nữ, phó thống đốc là một phụ nữ, và mọi thứ đã thay đổi theo hướng tốt nhất. Trong Hội đồng Kinh tế, có sáu Hồng Y và sáu giáo dân, tất cả đều là nam giới. Tôi đã thay đổi thành phần giáo dân, tôi đặt một nam và năm nữ. Và đây là một cuộc cách mạng vì phụ nữ biết cách tìm ra con đường đúng đắn, họ biết cách tiến về phía trước. Và bây giờ tôi đã đưa Marianna Mazzuccato vào Giáo hoàng Hàn lâm việc về Sự sống. Cô ấy là một nhà kinh tế vĩ đại xuất thân từ Hoa Kỳ, tôi đặt cô ấy ở đó để tạo thêm một chút tính nhân bản vào đó.
Phụ nữ mang sắc thái riêng của họ, họ không cần phải trở nên giống như nam giới. Không! họ là phụ nữ, chúng ta cần họ. Và một xã hội xóa bỏ phụ nữ khỏi cuộc sống công cộng là một xã hội tự làm nghèo chính mình. Nó tự làm nghèo chính nó. Bình đẳng về quyền lợi, vâng. Nhưng cũng bình đẳng về cơ hội. Bình đẳng về cơ hội để tiến lên phía trước, nếu không chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn.
Tôi nghĩ với điều đó, tôi đã nói những gì cần phải làm khắp hoàn cầu. Nhưng chúng ta vẫn còn một đọan đường dài phải đi. Bởi vì vẫn có thứ 'machismo' [tự tôn nam giới]. Tôi xuất thân từ một dân tộc thích “machismo”. Người Á Căn Đình chúng tôi luôn theo chủ nghĩa nam giới. Và điều đó thật tồi tệ, nhưng rồi chúng tôi hướng về các bà mẹ của chúng tôi, họ là những người giải quyết vấn đề. Cái chủ nghĩa tự tôn nam giới này giết chết nhân loại. Cảm ơn bạn đã cho tôi cơ hội nói điều này, đó là [điều mà] tôi mang trong lòng. Hãy đấu tranh không chỉ vì quyền lợi, mà vì chúng ta cần có phụ nữ trong xã hội để giúp chúng ta thay đổi.
Antonio Pelayo, Vida Nueva: Thưa Đức Thánh Cha, lần duy nhất Thưa Đức Thánh Cha nói ứng khẩu trong chuyến đi này là nói đến 'Ukraine bị dày xé' và 'các cuộc đàm phán hòa bình.' Con muốn hỏi liệu Đức Thánh Cha có thể cho chúng con biết điều gì không về việc các cuộc đàm phán này đang diễn ra như thế nào về phía Vatican. Và một câu hỏi khác: Gần đây Đức Thánh Cha có nói chuyện với Putin hay ngài có ý định làm như vậy trong tương lai gần không?
Đức Phanxicô: Tốt. Trước hết: Vatican không ngừng chú ý, Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh làm việc và hoạt động tốt, hoạt động tốt. Tôi biết rằng thư ký, Đức Tổng Giám Mục Gallagher, làm việc tốt ở đó.
Rồi, một chút lịch sử. Vào ngày sau khi [bắt đầu] chiến tranh - tôi nghĩ rằng điều này không thể thực hiện được, một điều bất thường - tôi đã đến đại sứ quán Nga, để nói chuyện với đại sứ, một người tốt. Tôi đã biết ông ấy sáu năm, kể từ khi ông ấy đến. Ông ấy là một nhà nhân bản. Tôi nhớ một nhận xét ông ấy nói với tôi hôm đó: ‘Nous sommes tombés dans la dictature de l'argent’ [Chúng ta đã rơi vào chế độ độc tài của tiền bạc], khi nói tới văn minh. Một người theo chủ nghĩa nhân bản, một người đấu tranh cho bình đẳng. Tôi nói với ông ấy rằng tôi sẵn sàng đến Moscow để nói chuyện với Putin, nếu có nhu cầu. Lavrov [bộ trưởng ngoại giao] trả lời rất lịch sự - 'Cảm ơn' - [nhưng] điều đó không cần thiết vào lúc này.
Kể từ đó chúng tôi đã rất quan tâm. Tôi đã nói chuyện điện thoại hai lần với Tổng thống Zelensky; sau đó với đại sứ một vài lần nữa. Và công việc đang được thực hiện để tiến gần hơn, tìm kiếm giải pháp. Tòa thánh cũng làm những gì liên quan đến tù nhân, những việc này... chúng là những việc luôn luôn được làm và Tòa thánh đã luôn luôn làm chúng, luôn luôn.
Và (sau đó) là lời rao giảng cho hòa bình. Điều khiến tôi kinh ngạc - đó là lý do tại sao tôi dùng từ 'dày xé' cho Ukraine - là sự tàn ác, không phải của người dân Nga, có lẽ... bởi vì người dân Nga là một dân tộc vĩ đại. Đó là của những người lính đánh thuê, của những người lính ra trận như một cuộc phiêu lưu, những người lính đánh thuê... Tôi thích nghĩ về nó theo cách này vì tôi có lòng kính trọng cao đối với nhân dân Nga, chủ nghĩa nhân bản Nga. Hãy nghĩ tới Dostoevsky, người truyền cảm hứng cho chúng ta ngày nay, truyền cảm hứng cho Kitô hữu nghĩ tới Kitô giáo.
Tôi có tình cảm rất lớn đối với người dân Nga và tôi cũng có tình cảm lớn đối với người dân Ukraine. Khi tôi mười một tuổi, có một linh mục gần gũi với tôi cử hành bằng tiếng Ukraine và không có cậu giúp lễ, nên ngài đã dạy tôi giúp lễ bằng tiếng Ukraine, và tất cả những bài hát tiếng Ukraine này tôi đều biết bằng ngôn ngữ của họ vì tôi đã học chúng khi còn là một đứa trẻ. Vì vậy, tôi có một tình cảm rất lớn đối với phụng vụ Ukraine. Tôi đang ở giữa hai dân tộc mà tôi yêu mến.
Đó không chỉ là tôi. Tòa thánh đã có nhiều cuộc họp mật, nhiều kết quả tốt đẹp. Bởi vì chúng ta không thể phủ nhận rằng một cuộc chiến, ngay từ đầu, có lẽ khiến chúng ta dũng cảm. Nhưng rồi, nó làm ta mệt mỏi và đau đớn và chúng ta thấy điều ác do chiến tranh gây ra. Điều này liên quan đến phần nhân bản hơn, gần gũi hơn.
Rồi, tôi muốn than vãn, tận dụng câu hỏi này: ba cuộc chiến tranh thế giới chỉ trong một thế kỷ! Cuộc chiến tranh của các năm 1914-1918, cuộc chiến tranh của các năm 1939-1945, và cuộc chiến này! Đây là một cuộc thế chiến, bởi vì đúng là khi các đế quốc, bên này hay bên kia suy yếu, họ cần phải gây chiến để cảm thấy mạnh mẽ - và cũng để bán vũ khí! Tôi tin rằng ngày nay tai họa lớn nhất trên thế giới là ngành kỹ nghệ vũ khí. Xin làm ơn! Tôi đã được nói, tôi không biết có đúng hay không, rằng nếu chúng ta không chế tạo vũ khí trong một năm, chúng ta có thể chấm dứt nạn đói trên thế giới. Ngành kỹ nghệ vũ khí thật khủng khiếp.
Cách đây vài năm, ba hoặc bốn năm, một con tàu chở đầy vũ khí từ một quốc gia nào đó đến Genoa và họ phải chuyển vũ khí lên một con tàu lớn hơn để đưa đến Yemen. Các công nhân ở Genoa không muốn làm điều đó... Đó là một cử chỉ. Yemen: hơn mười năm chiến tranh. Trẻ em Yemen không có thức ăn. Người Rohingya, di chuyển từ phía này sang phía kia vì họ bị trục xuất, luôn có chiến tranh. Myanmar, thật khủng khiếp những gì đang xảy ra... Bây giờ tôi hy vọng một điều gì đó sẽ dừng lại ngày hôm nay ở Ethiopia, với một hiệp ước...
Nhưng chúng ta đang có chiến tranh ở khắp mọi nơi và chúng ta không hiểu điều này. Bây giờ chúng ta đang bị ảnh hưởng một cách gần gũi, ở châu Âu, bởi cuộc chiến Nga-Ukraine. Nhưng nó ở khắp mọi nơi, trong nhiều năm. Ở Syria, mười hai đến mười ba năm chiến tranh, và không ai biết liệu có tù nhân hay không và điều gì xảy ra ở đó. Sau đó, Lebanon, chúng tôi đã nói về thảm kịch này...
Tôi không biết có khi nào tôi đã nói điều này với các bạn chưa. Khi tôi đến Redipuglia, năm 2014, tôi thấy điều đó - và ông tôi đã ở Piave và đã kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra ở đó - và tất cả những ngôi mộ của những người đàn ông trẻ tuổi đó... Tôi đã khóc, tôi đã khóc, tôi không xấu hổ khi nói ra điều đó. Rồi một lần, vào ngày 2 tháng 11, một ngày mà tôi luôn đến nghĩa trang, tôi đến Anzio và nhìn thấy mộ của tất cả những cậu trai người Mỹ đó, [những người đã chết] trong cuộc đổ bộ Anzio. [Họ] 19-20-22-23 tuổi, và tôi đã khóc, thực sự, điều đó xuất phát từ trái tim tôi... Và tôi nghĩ đến những người mẹ và khi họ nghe thấy tiếng gõ cửa: 'Thưa bà, một phong bì cho bà. "Bà mở phong bì:" Thưa bà, tôi rất vinh dự được thông báo rằng bà có một người con là anh hùng của quê cha đất tổ... ". Những bi kịch của chiến tranh.
Tôi không muốn nói xấu bất cứ ai, nhưng điều đó đã chạm đến trái tim tôi: khi lễ kỷ niệm cuộc đổ bộ Normandy diễn ra. Những người đứng đầu của rất nhiều chính phủ đã ở đó để tưởng nhớ biến cố đó. Đó là sự khởi đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa Quốc xã, đó là sự thật. Nhưng có bao nhiêu cậu trai bị bỏ lại trên các bãi biển ở Normandy? Họ nói ba mươi nghìn... Ai nghĩ đến những cậu trai đó? Chiến tranh gieo rắc tất cả những điều này. Đó là lý do tại sao các bạn, những nhà báo, xin hãy là những người chủ hòa, hãy lên tiếng phản đối chiến tranh, chống chiến tranh. Tôi yêu cầu các bạn như một người anh em. Cảm ơn bạn.
Hugues Lefevre I.Media: Thưa Đức Thánh Cha, sáng nay trong bài phát biểu trước các giáo sĩ Bahrain, Đức Thánh Cha đã nói về tầm quan trọng của niềm vui Kitô giáo. Nhưng trong những ngày qua, nhiều tín hữu Pháp đã mất đi niềm vui này khi họ phát hiện ra trên báo chí rằng Giáo hội đã giấu kín việc kết án vào năm 2021 một giám mục, hiện đã nghỉ hưu, người đã phạm tội lạm dụng tình dục vào những năm 1990, trong khi còn là một linh mục. Khi câu chuyện này xuất hiện trên báo chí, 5 nạn nhân mới đã lên tiếng. Ngày nay, nhiều người Công Giáo muốn biết liệu văn hóa giữ bí mật của công lý giáo luật có nên thay đổi và trở nên minh bạch hay không, (và con) muốn biết liệu Đức Thánh Cha có nghĩ rằng các hình phạt giáo luật nên được công khai hay không. Cảm ơn Đức Thánh Cha.
Đức Phanxicô: Cảm ơn bạn về câu hỏi. Tôi muốn bắt đầu [với]) một chút lịch sử về điều này. Vấn nạn lạm dụng luôn ở đó, không chỉ trong Giáo hội mà ở khắp mọi nơi. Bạn biết rằng 42-46% lạm dụng tình dục diễn ra trong gia đình hoặc cộng đồng. Điều này rất nghiêm trọng, nhưng thói quen luôn luôn là che đậy; trong gia đình, thậm chí ngày nay mọi thứ đều được che đậy, và ngay cả trong cộng đồng, mọi thứ đều được che đậy, hoặc ít nhất là trong đa số các trường hợp. Một thói quen xấu xí bắt đầu thay đổi trong Giáo hội khi một vụ tai tiếng xuất hiện ở Boston vào thời Đức Hồng Y Law, người, vì vụ tai tiếng, đã từ chức; đây là lần đầu tiên [một trường hợp lạm dụng] được đưa ra như một vụ tai tiếng.
Kể từ đó, Giáo hội ý thức được điều này và bắt đầu hành động, trong khi trong xã hội và các thể chế khác, điều đó thường được che đậy. Khi có cuộc họp của các Chủ tịch Hội đồng Giám mục [về vấn đề này] Tôi đã yêu cầu UNICEF, Liên Hiệp Quốc, cung cấp thống kê về [hiện tượng] này, số liệu phần trăm: trong gia đình, cộng đồng, trường học, thể thao...
Một số người nói rằng chúng ta là một thiểu số nhỏ, nhưng [tôi nói] ngay cả khi chỉ một trường hợp đơn lẻ, nó vẫn sẽ là bi kịch, bởi vì bạn, trong tư cách một linh mục, có ơn gọi làm cho mọi người phát triển, nhưng khi cư xử theo cách này, bạn đã phá hủy họ. Đối với một linh mục, lạm dụng giống như đi ngược lại bản chất linh mục và chống lại bản chất xã hội của ông ta. Đó là lý do tại sao nó là bi kịch và tại sao chúng ta không được dừng lại, chúng ta không được dừng lại.
Trong sự thức tỉnh này, thực hiện các cuộc điều tra và tiến tới việc buộc tội, mọi thứ không phải lúc nào [và ở mọi nơi] đều giống nhau, một số điều đã bị che giấu. Trước khi vụ tai tiếng ở Boston người ta bị thay thế [tức là các linh mục đã được thuyên chuyển], bây giờ mọi thứ đều minh bạch và chúng tôi đang tiến về phía trước, đó là lý do tại sao chúng ta không nên ngạc nhiên khi những trường hợp như thế này được đưa ra ánh sáng. Bây giờ vụ của một giám mục khác đến với tôi, có những trường hợp bạn biết không...? Và [bây giờ] không dễ dàng để nói: "Chúng tôi không biết," hoặc "Đó là văn hóa vào thời điểm đó và nó tiếp tục là một nền văn hóa che giấu."
Tôi xin nói với bạn điều này: Giáo hội kiên định về điều này, và ở đây tôi muốn công khai cảm ơn thái độ anh hùng của Đức Hồng Y O'Malley, một giáo sĩ Capuchin tốt, người đã cảm thấy cần phải định chế hóa điều này với Ủy ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên mà ngài đang cầm đầu. Và điều này tốt cho tất cả chúng ta và mang lại cho chúng ta sự can đảm. Chúng tôi đang làm việc với tất cả những gì có thể, nhưng biết rằng có những người trong Giáo hội vẫn không thấy rõ, không chia sẻ... Đây là một diễn trình mà chúng tôi đang thực hiện và chúng tôi đang thực hiện một cách can đảm, và không phải ai cũng có dũng khí; đôi khi có sự cám dỗ muốn thỏa hiệp, và tất cả chúng ta cũng là nô lệ cho tội lỗi của mình, nhưng ý muốn của Giáo hội là làm sáng tỏ mọi sự.
Thí dụ, tôi đã nhận được hai lời phàn nàn trong những tháng gần đây về các trường hợp lạm dụng đã bị che đậy và không được Giáo hội đánh giá tốt: Tôi ngay lập tức yêu cầu một nghiên cứu mới [trong hai trường hợp] và bây giờ một phán quyết mới đang được đưa ra; cũng có điều này, việc duyệt lại các bản án cũ, không được thực hiện tốt [không được thực hiện cách thích đáng]. Chúng ta làm những gì chúng ta có thể, tất cả chúng ta đều là tội nhân, bạn biết không?
Điều đầu tiên chúng ta phải cảm thấy là xấu hổ, sự xấu hổ sâu xa về tất cả những điều đó. Tôi tin rằng xấu hổ là một ân sủng. Chúng ta có thể chiến đấu chống lại mọi tệ nạn trên thế giới nhưng không xấu hổ.... [điều đó vô dụng].
Đó là lý do tại sao tôi ngạc nhiên khi Thánh Inhaxiô, trong Linh Thao, bắt bạn cầu xin sự tha thứ cho tất cả những tội lỗi bạn đã phạm, ngài đã khiến bạn phải đi đến chỗ xấu hổ, và nếu bạn không có ơn xấu hổ bạn không thể tiến tới. Một trong những lời nhục mạ mà chúng tôi có ở đất nước tôi là 'Bạn thật không biết xấu hổ' và tôi tin rằng Giáo hội không thể ‘không biết xấu hổ’. Phải xấu hổ về những điều xấu cũng như phải tạ ơn Chúa về những điều tốt mình làm. Điều này tôi có thể nói với bạn: [chúng tôi có] tất cả thiện chí muốn tiến tới, nhưng cũng nhờ sự giúp đỡ của các bạn.
Vania De Luca Rai-Tg3: Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha cũng đã nói về những người di cư trong những ngày gần đây. Bốn con tàu ngoài khơi bờ biển Sicily, với hàng trăm phụ nữ, đàn ông, trẻ em, đang gặp khó khăn - nhưng không phải tất cả họ đều có thể lên bờ. Đức Thánh Cha có sợ chính sách ‘đóng cửa’ của phe trung hữu quay trở lại ở Ý không? Và Đức Thánh Cha đánh giá thế nào về lập trường của một số nước Bắc Âu về điều này? Và rồi con cũng muốn hỏi Đức Thánh Cha một cách tổng quát: Đức Thánh Cha có ấn tượng gì, đánh giá gì về chính phủ mới của Ý, lần đầu tiên do một phụ nữ lãnh đạo?
Đức Phanxicô: Đó là một thách thức, đó là một thách thức. Về người di cư, [đây] là nguyên tắc: Người di cư phải được chào đón, đồng hành, cổ vũ và hòa nhập; nếu không thực hiện được bốn bước này thì công việc với người di cư không thể tốt. Được chào đón, đồng hành, cổ vũ và hòa nhập; chúng ta phải tiến tới hòa nhập.
Và điều thứ hai tôi nói: Mỗi chính phủ của Liên Hiệp Âu Châu phải đồng ý về việc họ có thể tiếp nhận bao nhiêu người di cư. Thay vào đó, có bốn quốc gia tiếp nhận người di cư: Síp, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha, những quốc gia gần Địa Trung Hải nhất. Trong nội địa có một số, như Ba Lan, Belarus...
Nhưng [nói] về vấn đề lớn di dân vượt biển: sinh mạng phải được cứu. Bạn có biết ngày nay Địa Trung Hải là một nghĩa trang không? Có lẽ là nghĩa trang lớn nhất trên thế giới. Tôi nghĩ lần trước tôi đã nói với các bạn rằng tôi đã đọc một cuốn sách bằng tiếng Tây Ban Nha tên là Hermanito, nó là cuốn sách rất nhỏ và đọc rất nhanh, tôi nghĩ chắc chắn nó đã được dịch sang tiếng Pháp và cả sang tiếng Ý. Có thể đọc nó trong hai giờ. Đó là câu chuyện về một cậu bé đến từ Châu Phi, tôi không biết cậu đến từ Tanzania hay quê ở đâu, cậu theo bước chân của anh trai mình đến Tây Ban Nha: cậu đã phải chịu chế độ nô lệ năm lần trước khi lên tầu! Cậu kể lại, nhiều người được đưa vào ban đêm trên những con thuyền đó - không phải những con tàu lớn, vốn có vai trò khác - và nếu họ không muốn lên những con tầu này thì: bùm, bùm! Và họ để những người này lại trên bãi biển - đó thực sự là một chế độ độc tài nô lệ do những người đó làm - và rồi có nguy cơ chết trên biển. Nếu bạn có thì giờ, nên đọc cuốn sách này, nó khá quan trọng.
Chính sách di dân phải được thống nhất giữa tất cả các nước; bạn không thể đưa ra chính sách mà không có sự đồng thuận và Liên minh Châu Âu phải thực hiện chính sách hợp tác và giúp đỡ, không thể qui trách trách nhiệm cho tất cả những người di cư đến các bãi biển của Síp, Hy Lạp, Ý và Tây Ban Nha. Chính sách của chính phủ từ trước đến nay là cứu người, điều đó đúng. Đến một thời điểm nào đó. Và tôi nghĩ chính phủ [Ý] này cũng có chính sách tương tự... Chi tiết thì tôi không biết, nhưng tôi không nghĩ nó muốn thay đổi. Tôi nghĩ rằng nó đã đến với trẻ em, bà mẹ và người bệnh, ít nhất là từ những gì tôi nghe được, ý định đã có ở đó. Ý, chúng ta hãy nghĩ ở đây... chính phủ này không thể làm gì nếu không có sự đồng ý của Châu Âu; trách nhiệm là trách nhiệm của châu Âu.
Và rồi tôi muốn đề cập đến một trách nhiệm khác của châu Âu đối với châu Phi. Tôi nghĩ điều này đã được nói bởi một trong những nữ chính khách vĩ đại mà chúng ta đã và đang có - bà Merkel. Bà nói rằng vấn đề người di cư phải được giải quyết ở châu Phi. Nhưng nếu chúng ta nghĩ về Châu Phi với phương châm: “Châu Phi phải bị khai thác”, thì điều hợp lý là những người di cư - người ta – phải bỏ chạy thôi. Ở châu Âu, chúng ta phải cố gắng lập kế hoạch phát triển cho châu Phi. Nghĩ rằng một số quốc gia ở Châu Phi không phải là người làm chủ đất cái (subsoil) của chính họ, họ vẫn phụ thuộc vào các cường quốc thực dân! Thật là đạo đức giả khi muốn giải quyết vấn đề người di cư ở Châu Âu; chúng ta cũng phải giải quyết nó ở quê quán của họ. Sự bóc lột người dân ở Châu Phi thật khủng khiếp vì quan niệm này.
Vào ngày 1 tháng 1, tôi đã có một cuộc gặp gỡ với các sinh viên đại học đến từ Châu Phi. Cuộc họp giống như tôi đã có với Đại học Loyola ở Hoa Kỳ. Những sinh viên đó có một năng lực, một trí tuệ, một ý thức phê bình [tiếng Ý: ‘criticità’], một khát vọng tiến lên, nhưng đôi khi họ không thể vì lực lượng thực dân mà châu Âu có trong chính phủ của họ. Nếu chúng ta muốn giải quyết tốt vấn đề người di cư, hãy giải quyết vấn đề Châu Phi. Những người di cư đến từ nơi khác ít hơn, họ ít hơn, nhưng chúng ta có Châu Phi, hãy giúp đỡ Châu Phi.
Chính phủ [Ý] hiện nay mới bắt đầu. Tôi ở đây: Tôi ước mong nó gặp được điều tốt nhất. Tôi luôn cầu chúc những điều tốt đẹp nhất đến với một chính phủ vì chính phủ phục vụ mọi người và tôi ước mong nó gặp được điều tốt nhất để nó có thể đưa nước Ý tiến lên. Và đối với tất cả những người khác chống lại đảng chiến thắng, tôi hy vọng họ cộng tác với ý thức phê phán, với sự giúp đỡ, nhưng phải là một chính phủ hợp tác, không phải một chính phủ nơi 'họ đối xử tốt với bạn chỉ ở bề ngoài, nhưng họ đang làm việc để bạn suy sụp '[Tiếng Ý: 'ti muovono il viso, ti fanno cadere'] nếu bạn không thích điều này hay điều khác. Xin làm ơn, về điểm này tôi kêu gọi trách nhiệm. Hãy nói cho tôi biết, có công bằng không khi từ đầu thế kỷ đến nay nước Ý đã có 20 chính phủ? Hãy dừng lại với những trò đùa này.
Ludwig Ring-Eifel, Centrum Informationis Catholicum: Con cũng muốn nói một điều có tính bản thân trước, bởi vì con cảm thấy rất xúc động, bởi vì sau 8 năm chia tay, con đã trở lại trên chuyến bay của Đức Giáo Hoàng. Con rất biết ơn khi được ở đây một lần nữa....
Đức Phanxicô: Chào mừng bạn trở lại.
Ludwig: Cảm ơn Đức Thánh Cha, rất vui được trở lại. Chúng con trong nhóm người Đức rất ít - chỉ có ba người trên chuyến bay này - và chúng con nghĩ: Làm thế nào chúng con có thể tạo mối liên hệ giữa những gì chúng con thấy ở Bahrain và tình hình ở Đức? Bởi vì ở Bahrain, chúng con thấy một Giáo hội nhỏ, một đoàn chiên nhỏ, một Giáo hội nghèo, với nhiều hạn chế, vân vân, nhưng là một Giáo hội sống động, tràn đầy hy vọng và đang phát triển. Mặt khác, ở Đức, chúng con có một Giáo hội lớn, với những truyền thống tuyệt vời; giàu có, với thần học, tiền bạc, và mọi thứ, nhưng mất đi ba trăm ngàn tín đồ mỗi năm, họ lìa bỏ, họ đang rơi vào khủng hoảng sâu xa. Có điều gì để học hỏi từ bầy chiên nhỏ mà chúng ta đã thấy ở Bahrain cho nước Đức vĩ đại không?
Đức Phanxicô: Đức có một lịch sử tôn giáo lâu đời. Trích dẫn Hölderlin, tôi xin nói: 'Nhiều thứ họ đã thấy, rất nhiều...' Lịch sử tôn giáo của bạn rất vĩ đại và phức tạp, [một lịch sử] của những cuộc đấu tranh. Tôi nói với những người Công Giáo Đức: Nước Đức có một Giáo Hội Tin lành tuyệt vời và đẹp đẽ; tôi không muốn một Giáo Hội Tin lành khác, mà lại không tốt bằng Giáo Hội kia; nhưng tôi muốn [một] Giáo Hội Công Giáo, trong tình anh em với Giáo Hội Tin lành. Đôi khi chúng ta đánh mất ý thức tôn giáo của người ta, của Dân trung thành thánh thiện của Thiên Chúa, và chúng ta sa vào những cuộc thảo luận về đạo đức, những cuộc thảo luận về những điều phụ thuộc, những cuộc thảo luận có hậu quả thần học, nhưng không phải là cốt lõi của thần học. Dân thánh và trung thành của Thiên Chúa nghĩ gì? Dân thánh của Thiên Chúa cảm thức điều gì? Hãy đến đó và tìm xem điều họ cảm thức, chính là lòng đạo đơn sơ bạn tìm thấy nơi ông bà. Tôi không nói đi ngược lại, không; mà hãy đi về cội nguồn cảm hứng, về cội nguồn. Tất cả chúng ta đều có lịch sử bắt nguồn từ đức tin; ngay cả các dân tộc cũng có: hãy tìm nó! Nhận xét đó của Holderlin xuất hiện trong tâm trí tôi, đối với thời đại của chúng ta: 'Ông già nên giữ [niềm tin với] những gì ông đã hứa khi còn là một cậu bé". Chúng ta, thời niên thiếu... đã hứa rất nhiều điều, rất nhiều điều. Bây giờ chúng ta tham gia vào các cuộc thảo luận về đạo đức, vào các cuộc thảo luận những điều phụ thuộc, nhưng gốc rễ của tôn giáo là cái tát vào mặt bạn của Tin Mừng, đó là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô hằng sống: và từ đó những hậu quả [sẽ theo sau], tất cả; từ đó bạn có được sự can đảm tông đồ để đi đến các vùng ngoại vi, thậm chí đến các vùng ngoại vi đạo đức của mọi người để giúp đỡ; nhưng [nó bắt đầu] từ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô. Nếu không có cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, sẽ có một thứ đạo đức giả dạng Kitô giáo. Đây là những gì tôi muốn nói, từ trái tim. Cảm ơn bạn.