Ngày 29-06-2024
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Chúa Nhật Thứ 13 Mùa Quanh Năm 30/6 dành cho những người không thể đến nhà thờ
Giáo Hội Năm Châu
00:14 29/06/2024


BÀI ĐỌC 1  Kn 1:13-15-2:23-24

Bài trích sách Khôn ngoan.

Thiên Chúa không làm ra cái chết,

chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong.

Vì Người đã sáng tạo muôn loài

cho chúng hiện hữu,

mọi loài thọ tạo trên thế giới

đều hữu ích cho sinh linh,

chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại,

âm phủ không thống trị địa cầu.

Quả vậy, đức công chính thì trường sinh bất tử.

Phải, Thiên Chúa đã sáng tạo con người

cho họ được trường tồn bất diệt.

Họ được Người dựng nên

làm hình ảnh của bản tính Người.

Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị

mà cái chết đã xâm nhập thế gian.

Những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết.

Đó là Lời Chúa.

BÀI ĐỌC 2  2Cr 8:7,9,13-15

Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.

Thưa anh em, cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên này nữa.

Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.

Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều.

Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu.

Như thế, sẽ có sự đồng đều, hợp với lời đã chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.

Đó là Lời Chúa.

TUNG HÔ TIN MỪNG  

Alleluia, Alleluia!

Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh.

Alleluia

TIN MỪNG  Mc 5:21-43

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô.

Khi ấy, Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.

Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?”

Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.” Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường.

Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”

Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm. Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha-kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “

Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

Đó là Lời Chúa.
 
Chúa yêu thương chữa lành
Lm. Nguyễn Xuân Trường
03:12 29/06/2024
 
Văn Hóa
Tuyền thống Trí thức Công Giáo trong Thế kỷ Hai mươi, Phần Hai, Tín ngưỡng và Văn hóa: Chương 10
Vũ Văn An
14:47 29/06/2024

Chương 10: Hai nước Pháp

Lịch sử thông thường trình bày rằng Pháp đang trở thành một quốc gia thế tục (có những lúc quay trở lại chế độ quân chủ) trong thế kỷ 19—một quá trình tự do hóa và thế tục hóa chính trị cũng đi kèm với các quá trình văn hóa. Nhưng điều này, trên thực tế, khá sai lầm. Giống như nước Anh trong cùng thời kỳ, nước Pháp thế kỷ 19 cũng đã trải qua một sự nở hoa mạnh mẽ về mặt tâm linh—và một kiểu tái sinh của nền văn hóa Công Giáo. Sự hồi sinh bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân và đôi khi nghịch lý, nhưng dù sao thì nó cũng mạnh mẽ theo cách của nó. Hầu như bất cứ nỗ lực nào nhằm giải thích các yếu tố văn hóa lớn ở Pháp đều phải nhìn lại cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, cuộc cách mạng đã tạo ra điều thường được gọi là “hai nước Pháp”, một bên là thế tục và chống Giáo hội một cách hiếu chiến, bên kia có tính Công Giáo một cách truyền thống hơn đôi khi với một nỗi nhớ thương đối với các vị vua Pháp. Mặc dù sự phân chia này đã yếu đi phần nào trong những năm cuối của thế kỷ 20, nhưng nó vẫn giúp giải thích rất nhiều điều ngay trong thế kỷ 21. Thí dụ, cuộc đàn áp bạo lực đối với Giáo hội trong thời kỳ Khủng bố và nỗ lực coi Giáo hội là một lực lượng đàn áp đã đưa ra những lập luận phản bác, đáng chú ý nhất là The Genius of Christian [thiên tài của Kitô hữu] (1802) của Chateaubriand, nhấn mạnh tới mọi nghệ thuật, thi ca, hội họa, và kiến trúc, chưa nói đến cảm giác tôn giáo cao siêu, được tạo ra bởi Công Giáo. Cách tiếp cận của Chateaubriand có tính Lãng mạn và sẽ bị một số người Công Giáo bác bỏ ngay cả khi thị hiếu đã thay đổi. Nhưng cuốn sách của ông rất có ảnh hưởng và, xuất hiện rất sớm sau Cách mạng, đã nhấn mạnh sự kiện này là Kitô giáo không suy tàn như những kẻ thù của nó giả định.



Thật vậy, thế kỷ 19, thế kỷ ít chứng kiến tư tưởng Công Giáo vĩ đại ở Pháp, đã cho thấy những khoảnh khắc quan trọng của các lòng sùng kính và hiện ra của Công Giáo mới ở Lourdes, La Salette, Rue de Bac, Paray-le-Monial, Lisieux, và một số nơi khác. Và cũng có một trào lưu văn học Công Giáo ngầm. Charles Baudelaire, tác giả khét tiếng của tuyển tập thơ mang tên Les Fleurs du mal [Những bông hoa của Thần Ác] (xuất bản lần đầu năm 1857, nhưng được thêm vào trong một số lần xuất bản tiếp theo), là nhà thơ đầu tiên trong số những nhà thơ vĩ đại của Pháp hiện đại. Ông không phải là người Công Giáo khi viết những bài thơ đó, nhưng sau đó ông đã trở thành người Công Giáo, và khi nhìn lại, chúng ta có thể thấy rằng các chủ đề tôn giáo đã hiện diện xuyên suốt tác phẩm của ông. Chẳng hạn, trong bài thơ mở đầu, “Au Lecteur” [Gửi bạn đọc] của Les fleurs du mal, tội lỗi và ma quỷ là chủ đề trung tâm:

Gửi bạn đọc

Sự điên rồ và sai lầm, tham lam và thói xấu,
Sử dụng linh hồn của chúng ta và lãng phí sức mạnh của cơ thể chúng ta.
Như những người ăn xin xác xơ ủ rận của họ,
Chúng ta nuôi dưỡng sự hối hận vô thưởng vô phạt của mình.
Tội lỗi của chúng ta cứng đầu, ăn năn của chúng ta hèn nhát.
Đối với những lời thề yếu kém của chúng ta, chúng ta đòi giá quá cao.
Tin tưởng nước mắt của chúng ta sẽ rửa sạch bản án,
Chúng ta lẻn khỏi nơi con đường lầy lội lôi cuốn.
Được ẵm bế trong vòng tay tên ác, Pháp Sư Ba lần Vĩ đại đó,
Ác quỷ, làm rung chuyển tâm hồn chúng ta, không thể cưỡng lại;
Và kim loại phong phú của ý chí chúng ta
Bị bốc hơi bởi nhà giả kim hiền triết đó.
Ma quỷ giật dây mà nhờ đó chúng ta vốn làm việc:
Bởi tất cả các đối tượng nổi loạn lôi cuốn, chúng ta trượt
Xuống Địa ngục; mỗi ngày xuống một bước nữa chúng ta bị đẩy mạnh thình lình
Không cảm thấy rùng rợn, qua những bóng râm bốc mùi.
Như kẻ khốn cùng dâm đãng cắn và hôn
Bộ ngực đầy sẹo và teo tóp của một con điếm già,
Chúng ta đánh cắp, dọc theo con đường, những hạnh phúc lén lút,
Vắt chúng, giống như những quả cam cũ, để có thêm.
Đóng gói chặt chẽ, giống như tổ ong giòi, sôi sục dày đặc
Trong bộ não của chúng ta, một loạt ma quỷ trỗi dậy.
Đi sâu vào phổi của chúng ta trong mỗi hơi thở,
Những dòng chảy chết chóc, một dòng sông vô hình, những khúc bi ca rền rĩ.
Nếu hãm hiếp hoặc đốt phá, thuốc độc hoặc dao
Đã dệt không có hoa văn đẹp mắt trong các công cụ
Của bức tranh buồn tẻ này, chúng ta chấp nhận như cuộc sống—
Là do chúng ta chưa đủ can đảm!
Trong số những con chó rừng, báo hoa mai, chó lai, vượn,
Rắn, bọ cạp, kền kền, với âm thanh địa ngục,
Ré lên, gầm rú, quằn quại, nô đùa, trườn bò, với những hình thù quái dị,
Trong bầy thú tội lỗi xấu xa của mỗi người—
Có một thứ đáng nguyền rủa hơn tất cả. Nó không bao giờ nô đùa,
Không bò, cũng không gầm, nhưng, rút lui khỏi mọi thứ khác,
Rất vui khi toàn bộ trái đất này sẽ tạo thành một hỗn loạn
Và nuốt chửng hiện sinh bằng một cái ngáp...
Nhàm chán! Nó hút ống tẩu của mình, khi mơ màng
Nghĩ tới những giá treo cổ, khóc hết nước mắt không thể dập tắt.
Có vẻ như bạn cũng biết con quái vật dễ thương này—
Hỡi bạn đọc đạo đức giả!—Bạn!—Song sinh của tôi!—Anh em tôi! (1)

Tất nhiên, việc thừa nhận tội lỗi và sự điên rồ trong bài thơ (bản dịch ở đây dựa vào bản tiếng Anh của nhà thơ người Anh và người trở lại đạo Roy Campbell) vẫn chưa phải là một tầm nhìn hoàn toàn Công Giáo. Nhưng khi các nhà văn và nhà tư tưởng vĩ đại khác của Pháp thế kỷ 19—Verlaine, Huysmans, thậm chí cả Rimbaud—suy tư về thân phận con người, quan điểm Công Giáo bắt đầu có vẻ duy thực hơn quan điểm duy tự nhiên hay duy vật. Và họ, giống như Baudelaire, đã kết cục ở bên trong Giáo Hội, hoặc dù sao vẫn rất gần.

Hiện tượng này có thể nhìn thấy rõ ràng nhất trong phản ứng đối với một nhân vật văn hóa quan trọng ở Pháp thế kỷ 19, Ernest Renan. Người ta tin rằng Renan đã rời chủng viện trong vòng vài ngày sau khi Newman trở lại đạo ở Anh—một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng lại là một sự kiện có ý nghĩa đáng kinh ngạc. Renan sẽ trở thành người ủng hộ vĩ đại cho quan điểm thế tục và khoa học về thế giới, đáng chú ý là trong cuốn sách L'avenir de la Science (Tương lai của khoa học) năm 1890 của ông, một cuốn sách đưa ra quan điểm khá chuẩn mực vào thời điểm đó, cho rằng tôn giáo là một câu chuyện ngụ ngôn được tạo ra trong giai đoạn sơ khai của loài người mà giờ đây sẽ được thay thế bằng kiến thức thực tế, cứng rắn của nghiên cứu khoa học hiện đại. Tất nhiên, tự nó, một quan điểm như vậy là hoàn toàn phi nhân bản; nó không dành chỗ nào cho những điều nhân bản nhất, bao gồm tình yêu, vẻ đẹp, sự tận tâm và tinh thần. Và trong khi Renan rất có ảnh hưởng trong một bộ phận của nền văn hóa Pháp, thì ông lại tạo ra phản ứng ở một bộ phận khác. Trên thực tế, ông đã tạo ra phản ứng trong chính gia đình mình. Ernest Psichari, cháu trai của ông, đã phản kháng và trở thành một nhà văn huyền nhiệm Công Giáo và là bạn của Charles Péguy và Jacques Maritain, mặc dù cuộc đời của ông đã bị cắt ngắn một cách bi thảm bởi cái chết của ông vào những ngày đầu của Thế chiến I. Bản thân Maritain là cháu trai của Jules Favre, một trong những thủ lĩnh của phe Cộng hòa chống Công Giáo. Vợ chồng Maritains và Péguy là những người ngưỡng mộ Henri Bergson từ rất sớm, người mà toàn bộ nỗ lực triết học của ông đã được dành để bác bỏ cách hiểu đơn thuần máy móc về thế giới (Bergson, người có dòng máu Do Thái, chỉ không trở thành người Công Giáo vào những năm 1940 vì tình đoàn kết với người Do Thái, sau đó bị bức hại ở Pháp do Đức Quốc xã chiếm đóng). Nhưng phản ứng đối với một chủ nghĩa duy vật nghiêm ngặt tất nhiên sâu rộng hơn những khác biệt gia đình này.

Người hành hương Thể Tuyệt đối



Khía cạnh văn học của truyền thống trí thức Công Giáo Pháp trong thế kỷ 20 bao gồm, như các phong trào nghệ thuật luôn làm, nhiều người và tác phẩm lập dị khác nhau, nhưng không ai kỳ lạ hơn Léon Bloy. Bloy đặc biệt đến mức khó có thể nói ông và các trước tác của ông là gì. Ông đã viết những gì có thể được gọi một cách lỏng lẻo là một vài tiểu thuyết, Le désespéré [Kẻ thất vọng] và La femme pauvre [Người Đàn bà Nghèo], cả hai đều xuất hiện trước năm 1900. Chúng có những người bảo vệ chúng, thường là trên cơ sở ngoại giao. Nhưng rõ ràng Bloy là một trong những nhân vật có ảnh hưởng mang tính bản thân hơn - chúng ta có thể nói là mang tính tiên tri - hơn là bản chất văn chương. Giống như các nhà tiên tri lớn, đôi khi dường như ông gần như phát điên (không có từ nào khác hơn), liên quan đến những suy đoán ngông cuồng, trong đó phân tích của ông về con người và xã hội dường như là một mù mờ gồm cả tôn giáo lẫn tâm bệnh học [psychopathology] thực sự, gồm cả chỉ trích xã hội nghiêm túc lẫn việc quá quan tâm tới bản thân. Ông chấp nhận nghèo khó, tự nó tốt, nhưng không tốt đối với người cha một gia đình. Hai đứa con của ông có thể đã chết vì cái túi không tiền của cha chúng. Bloy tố cáo những người không nâng đỡ ông hoặc ý tưởng của ông, nhưng ông làm tha hóa một cách thiếu suy nghĩ nhiều người có thể có và biểu lộ những dấu hiệu của loại nhân cách mà, vì những lý do không hoàn toàn rõ ràng, gần như sẵn sàng chống lại những người ngay khi họ bắt đầu biểu lộ thiện cảm và thỏa thuận.

Làm thế nào mà một nhân vật cáu kỉnh như vậy lại gây ảnh hưởng ở nước Pháp đầu thế kỷ XX? Điều đó thật khó nói. Năm 1906, ông là cha đỡ đầu cho Jacques và Raïssa Maritain khi họ gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Nhờ bước đi này, vợ chồng Maritain đã đạt được mục đích tìm kiếm một lối sống có ý nghĩa trong một thế giới mà khoa học hiện đại dường như đã cho là vô lý. Vì vậy, sự gần gũi của họ với một người đàn ông như vậy - một người giống như một nhà tiên tri trong Cựu Ước chống lại nước Pháp duy vật và nhấn mạnh thông điệp của La Salette vốn dạy rằng bàn tay báo thù của Thiên Chúa sẽ không dừng lại - có thể có liên quan gì đó với chủ nghĩa duy cảm vào thời điểm “hai đứa trẻ hai mươi tuổi”, như Maritain sau này nói. Nhưng họ mãi bị thuyết phục, bất chấp mọi bằng chứng ngược lại – một bằng chứng chỉ những phát triển theo thời gian - rằng ông là "người hành hương của thể tuyệt đối", một nhân vật đặc biệt, người, mà bằng những cách thế kỳ lạ của Thiên Chúa, vốn là tiếng nói tiên tri trong nước Pháp của thời kỳ tiền Thế chiến I.

Tất nhiên, một phần của lập trường tiên tri đó là để tố cáo chủ nghĩa xã hội vô thần đang lên trong những năm đầu thế kỷ ở Pháp, bao gồm cả chính phủ của Émile Combes, chính phủ đã phế truất Giáo hội. Nhưng Bloy, và vợ chồng Maritain, cũng nhìn Giáo Hội Công Giáo một cách nghi ngờ, bao gồm phần lớn hàng giáo sĩ và phẩm trật, vì những liên minh dai dẳng của Giáo hội với chế độ cũ, giai cấp tư sản, và quân đội chống lại người nghèo và ít nhất điều được vợ chồng Maritains coi như nhân aí, tức các phát triển xã hội và trí thức. Maritain nghĩ rằng sự kịch liệt bản thân của Bloy chống điều được Maritain gọi là “những điều không thích đáng đối với Tin Mừng” là cần thiết để đánh thức những người đã như chết đối với Tin Mừng đến nỗi những giọng điệu cân nhắc và hợp lý hơn sẽ không đến được với họ. Tuy nhiên, bạo lực của Bloy có lẽ cũng đã khiến nhiều người bỏ đi. Nhưng ông cũng gây ấn tượng với họa sĩ Công Giáo cách mạng Georges Rouault và các nhân vật văn hóa khác, bất chấp—hoặc có lẽ vì—những thông điệp về ngày tận thế của ông, cho rằng một “bi kịch chưa từng có” sắp ập xuống nước Pháp. Hai cuộc chiến tranh thế giới diễn ra sau đó trong nửa thế kỷ, nhưng Bloy dường như đã nghĩ đến một điều gì đó thậm chí còn mang tính vũ trụ và kinh thiên động địa hơn.

Đối với con mắt trần, Maritain thừa nhận, bản chất như đá lửa của Bloy giống như “một thánh đường cháy đen” với màu trắng bên trong—đối lập hoàn toàn với “ngôi mộ tô vôi trắng”. Hoặc ông là một "máng xối nhà thờ". Maritain ngưỡng mộ tình liên đới của ông với người nghèo, đặc biệt là “người nghèo giữa các quốc gia: người Do Thái”. (2) Tuy nhiên, cuốn sách của Bloy Le salut par les Juifs (Sự cứu rỗi nhờ người Do Thái) ngày nay có vẻ kỳ lạ, cho phép người Do Thái có một vị trí đặc biệt trong lịch sử, nhưng đặc biệt ở chỗ chính họ trong lịch sử luôn đóng đinh “đồng tiền”, là máu của người nghèo, và phần nào cả Chúa Giêsu nữa. Việc các hình ảnh và ẩn dụ chuyển từ danh mục khái niệm này sang danh mục khái niệm nọ khiến tất cả các cuốn sách của ông đều gây khó chịu đối với người đọc. Trong một trường hợp khét tiếng khác, Bloy đã đồng nhất cơ quan sinh dục nữ với thiên đường và Thập giá với dương vật của nam giới, dễ hiểu là làm dấy lên những tiếng kêu phẫn nộ từ người Công Giáo. (3)

Tuy nhiên, chính lời kêu gọi bản thân và đôi khi những câu nói sâu sắc đó đây về tâm linh, đối với một số độc giả và người quen, đã mang lại cho ông sức mạnh thuyết phục trong tư cách “người hành hương Thể tuyệt đối”, một cụm từ có thể khiến hầu hết mọi người chế giễu. Chẳng hạn, Graham Greene đã đặt một trong những câu nói của Bloy làm đề từ (epigraph) cho cuốn The End of the Affair: “Con người có những chỗ trong trái tim mình nhưng chưa hiện hữu, và đau khổ đã vào trong đó, để chúng có thể hiện hữu.” Và ông đã dự ứng nhiều thế hệ người Công Giáo sẽ đến: “Ngày nay chúng ta cần các tông đồ, không phải những người tham dự hội nghị; các nhân chứng, không phải những người ăn nói khoa trương” Câu nói được trích dẫn nhiều nhất của ông đã trở thành một câu ngạn ngữ Công Giáo hiện đại: “Chỉ có một bi kịch: đó là không làm một vị thánh.”

Một người có thể viết được như thế, dù chỉ ngắn ngủi giữa nhiều điều kém sáng sủa, đã có một đời sống thiêng liêng thực sự. Ngay cả Jacques Maritain đầy ngưỡng mộ cũng thừa nhận rằng trong quá trình tìm kiếm công lý tuyệt đối, Bloy đôi khi bất công với các cá nhân, những người mà ông gần như tự động biến thành biểu tượng cho mối bận tâm tôn giáo của mình, (4) một thủ tục khắt khe từng có những kẻ thực hành trong số các nhà ý thức hệ thế tục trong cả thế kỷ XX, với những hậu khá đẫm máu. May mắn thay, có những người khác cũng kịch liệt như Bloy về tình trạng thiếu bác ái trong thế giới hiện đại nhưng họ cũng đủ khéo léo để có thể thu hút sự chú ý của một số độc giả rộng lớn hơn.

“từ Dostoyevsky chưa có ai...”



Có lẽ nhân vật văn hóa và văn học Công Giáo quan trọng nhất vào đầu thế kỷ 20 là người Công Giáo Pháp, trở thành nhà duy xã hội (thuộc loại độc đáo), trở thành—bằng một loại “đào sâu”— nhà duy xã hội Công Giáo (thuộc loại thậm chí còn khác thường hơn), đó là Charles Péguy (1873—1914). Một số người ở các quốc gia nói tiếng Anh có thể nghĩ rằng G. K. Chesterton xứng đáng với vị trí đó. Cả hai có chung một số đặc điểm, như sẽ xuất hiện ở bên dưới, nhưng có những cách trong đó, Péguy sở hữu một phạm vi trí thức và tâm linh lớn hơn. Thí dụ, theo một nghĩa nào đó, cả hai đều là những người trở lại đạo, nhưng Chesterton coi Công Giáo chủ yếu là sự lành mạnh [sanity] — liều thuốc giải độc cho sự điên rồ và rối loạn của chủ nghĩa hoài nghi cấp tiến như ông thấy chủ yếu ở Anh. Ngược lại, Péguy coi Kitô giáo là sự nối dài tình liên đới trần thế vào chính cõi vĩnh hằng. Ông không quan tâm nhiều đến chủ nghĩa hoài nghi, điều này không ảnh hưởng nhiều đến ông so với nhu cầu liên đới. Như ông đã từng tóm tắt một cách ngắn gọn những biện pháp bảo vệ đức tin hiện đại: “Không phải các luận điểm thiếu sót. Mà là đức ái... Tất cả những lập luận giả khoa học sẽ chẳng là gì, sẽ chẳng có trọng lượng gì, nếu có một chút đức ái.” (5) Đời sống và công việc của ông tạo thành một bằng chứng thống nhất cho sự chính trực và tính Công Giáo, theo mọi ý nghĩa của từ ngữ này. Ông đã giải quyết, theo kiểu thời trang, sự phân rẽ giữa “hai nước Pháp”, Cộng hòa và Công Giáo. Đáng chú ý hơn nữa, ông đã trình bày một viễn kiến đem lại với nhau cuộc sống ở thế giới này và ở thế giới tiếp theo, một điều không có song hành trong nền văn hóa Công Giáo hiện đại.

Giống như Chesterton, Péguy sáng tác nhiều một cách đáng kinh ngạc và đồng thời là một thiên tài phi khuôn phép vĩ đại. Và, giống như Chesterton, xét theo tiêu chuẩn thuần túy văn học, ông có thể đứng hơi thấp hơn trong văn học thời kỳ này so với các nhà thơ Công Giáo vĩ đại như Paul Claudel hay các tiểu thuyết gia vĩ đại như François Mauriac chẳng hạn. Nhưng về chiều sâu tâm linh và trực giác độc đáo, ông không có đối thủ. Giống như nhiều nhân vật khác trước Công đồng Vatican II, ông bị nền văn hóa thế tục đương thời bỏ quên vì những lý do chính trị và tôn giáo phức tạp, mặc dù các nhà lãnh đạo văn hóa lớn tuổi của Pháp đã bị ông thôi miên và một số trí thức Pháp đương thời đã tái khám phá ra cái nhìn sâu sắc của ông về các vấn đề hiện đại như một lời tiên tri, tuy khó có thể nắm được trong chính tính hiện đại. (6) Những bộ óc có năng khiếu tự khác biệt như triết gia người Pháp Gabriel Marcel, nhà thần học người Thụy Sĩ Hans Urs von Balthasar, và nhà thơ người Anh Geoffrey Hill đã cố gắng trong việc giúp nhiều độc giả khác nhau tiếp xúc với tinh thần vĩ đại của ông. (7) Thực thế, cuộc đời của Péguy là một bằng chứng mạnh mẽ cho thấy một tinh thần và trái tim vĩ đại vượt trội hơn cả một thiên tài đơn thuần. Khi các điều kiện văn hóa thay đổi, một ngày nào đó Péguy có thể được công nhận là một nhân vật thuộc cỡ Kierkegaard hoặc Newman, và có lẽ còn hơn thế nữa. Alain-Fournier, tác giả của cuốn tiểu thuyết cổ điển Pháp Le grand Meaulnes, người đã chết trong trận chiến gần như cùng ngày với Péguy trong Thế chiến thứ nhất, bày tỏ cảm nghĩ của nhiều người cùng thời với ông: “Tôi nói, biết những gì tôi đang nói, rằng kể từ Dostoievsky, chưa có một người nào rõ ràng là người của Thiên Chúa như vậy.” (8)

Trả giá

Péguy bị giết bởi một viên đạn xuyên qua đầu trong Trận chiến Marne năm 1914. Ông mới bốn mươi tuổi và đã đoán trước được cái chết của mình trong một đoạn trong bài sử thi dài Eve (Evà), bài thơ sau này đã trở thành một mục phổ biến trong các tuyển tập thơ tiếng Pháp:

Phúc thay những người mà trận đại chiến để lại
Nằm dài trên mặt đất trước nhan Thiên Chúa,
Phúc thay những cuộc đời mà chiến tranh vừa xóa sổ,
Phúc thay lúa mì chín vàng, lúa mì được thu thành bó.
Đó là một kết thúc bi hùng cho một cuộc đời anh dũng
.

Péguy không bao giờ là một nhà văn đơn thuần - kiểu nhà tư tưởng mà đôi khi ông gọi là "người theo chủ nghĩa trừu tượng khôn khéo" hay "nhà trí thức" - nghĩa là, một người đứng bên ngoài cuộc đời như một nhà quan sát siêu đẳng nào đó. Thậm chí ông còn bác bỏ cuốn thơ tuyệt vời Thần Kịch của Dante vì ông tin - một cách sai lầm, các học trò của Dante sẽ cho như thế - rằng Dante đã đi qua Địa ngục, Luyện ngục và Thiên đường như một loại khách du lịch, đích thân không liên hệ đến số phận của những linh hồn mà ông ta gặp ở thế giới bên kia, và không cảm thức tình liên đới nào với họ. Mặc dù phán đoán này là sai lầm, nhưng Péguy đã mạo hiểm bản thân, vợ con và “kho tàng đầu tiên... sự bình yên của tâm hồn” cho sự thật, và sự thật không chỉ là một khái niệm, mà là một sự gắn kết sống động với thực tại. Trong thực tại này, ông đã khai triển một số sự thật từ kinh nghiệm của chính mình và từ những quan niệm mà ông đã gặp khi tham dự các khóa giảng nổi tiếng của Bergson tại Sorbonne trong những năm đầu tiên của thế kỷ XX.

Như chúng ta đã thấy trong chương mở đầu của cuốn sách này, Jacques và Raïssa Maritain đã tham dự cùng những khóa giảng đó để thoát khỏi sự hiểu biết duy vật về thế giới dẫn đến tuyệt vọng. Ngược lại, Péguy cảm thấy ít bị hệ tư tưởng duy vật đe dọa hơn có lẽ vì ông có một mối quan hệ tự nhiên với cảm thức của Bergson về bản chất năng động của hiện hữu trái ngược với những khái niệm trừu tượng tĩnh tụ. Rõ ràng đó là một vấn đề của những tinh thần đồng cảm hơn là thỏa thuận trí thức. Bergson từng nói về ông: “Ông ấy có một năng khiếu kỳ diệu là vượt ra ngoài tính vật chất của các hữu thể, vượt ra ngoài nó và thâm nhập vào tâm hồn. Do đó, chính ông ấy là người biết suy nghĩ thầm kín nhất của tôi, như tôi chưa bao giờ bày tỏ nó, như tôi muốn bày tỏ nó.” (9)

Péguy đã không học được từ Bergson một tập hợp các ý tưởng có thể được phân tích và tranh luận, hoặc “đưa vào thực hành”. Tất cả những điều đó là điều mà Jacques Maritain sẽ đề cập - và nói chung là thấy thiếu sót - về công trình triết học của bậc thầy vĩ đại này. Thay vào đó, dưới bàn tay của Péguy, các trực giác trung tâm của Bergson nảy nở thành một cam kết trong cuộc sống. Thí dụ, một lần khi Georges Sorel đang đưa ra quan điểm trong cửa hàng nơi Péguy sản xuất tạp chí Cahiers de la quinzaine của mình, Péguy đã ngắt lời: “Bạn nói đúng, nhưng người ta không có quyền đúng trừ khi người đó đích thân trả giá cho việc chứng minh tính đúng đắn của sự thật.” (10) Nói cách khác (và theo những cách thậm chí còn vượt xa hơn một chút so với sự phân biệt nổi tiếng của Đức Hồng Y Newman giữa sự thật “chiểu danh” và sự thật “có thực chất”), sự thật đòi hỏi sự cam kết—và hành động của bản thân. Khi đọc Péguy, bạn không chỉ đơn thuần dõi theo một chuỗi từ ngữ hay theo một chuỗi suy luận, mà bạn bước vào dòng chảy sôi nổi của cuộc sống.

Ông sinh năm 1873 gần Orléans và lớn lên với mẹ và bà ngoại nói chung mù chữ (cha ông mất trong năm đầu tiên đời ông). Họ kiếm sống bằng nghề đan mây lại các chiếc ghế mười sáu giờ một ngày, bảy ngày một tuần. Péguy đã học nghề và cũng đã giúp đỡ, ngay từ khi còn ở tuổi thiếu niên, với các vụ thu hoạch hàng năm trong vùng. Lúc đầu, ông đi theo một hành trì điển hình: mất niềm tin vào tuổi thiếu niên để đi theo một kiểu chủ nghĩa xã hội không tưởng. Mặc dù đã bộc lộ năng khiếu tuyệt vời ngay từ khi mới nhập học, Péguy gần gũi với một nông dân như bất cứ nhân vật văn học hay trí thức lớn nào từng sống. Một phần thiên tài của ông nằm ở chỗ bám vào những chân lý nhân bản đơn giản cả khi đã chuyển sang các phức tạp của đức tin và lý trí và một loạt câu hỏi nảy sinh từ toàn bộ thế giới hiện đại. Duy sức mạnh của bộ óc đã đưa ông đến Trường Cao Đẳng Sư Phạm (École normale supérieure) và Sorbonne, đỉnh cao của hệ thống giáo dục Pháp. Nhưng ngoại trừ một số hoạt động vì mục đích chính trị, ông sẽ sống một cuộc đời phần lớn không biến động – ít nhất là theo cách mà hầu hết mọi người quan niệm về các biến cố. Hoạt động của ông bao gồm một nỗ lực trên phạm vi rộng nhằm phục hồi một đời sống vật chất và tinh thần đích thực từ những lớp vỏ thói quen khác nhau khiến việc tìm kiếm nó trong thế giới hiện đại trở nên khó khăn, ngay cả đối với những người đơn giản. Bất chấp sự đơn giản liên tục trong lời nói của ông, chúng có một sự sáng chói và uy quyền dường như làm hồi sinh chính trị, huyền nhiệm học, chiến tranh, hòa bình, tình yêu, danh dự và cái chết. Nơi ông, những tầng sâu phi thời gian của quá khứ cổ điển và Kitô giáo bỗng tìm thấy một tiếng nói mới, đồng thời cũng là một thông điệp mang tính tiên tri và cấp thiết cho hiện tại.

Khi còn trẻ ở Orléans, Péguy bị thu hút bởi những người lao động và nông dân giản dị, những người quan tâm đến tự do và học tập, ngay cả khi họ phải theo đuổi chúng vào buổi tối sau nhiều giờ làm việc: “Tôi coi là một phúc lành bản thân khi được biết, trong tuổi trẻ sớm nhất của tôi, một số trong những người cộng hòa cũ đó; những người đàn ông đáng ngưỡng mộ; khó khăn với chính họ; và tốt cho các biến cố; qua họ, tôi đã học được ý nghĩa của việc có một lương tâm trong sáng và ngay thẳng.” (11) Một số trí thức vô tư đã tranh luận về việc liệu bức chân dung hoa lệ của ông về nước Pháp cũ có chính xác hay không. Péguy cũng hoài nghi như bất cứ ai về những tưởng tượng lãng mạn, nhưng ông ở đó để làm chứng rằng những người như vậy đã từng hiện hữu và cách đây không lâu.

Trong một đoạn văn đáng chú ý được viết vào lúc gần cuối đời, Péguy mô tả một thế giới mà ông cho là đã đích thân biết đến. Dường như ông đã dự đoán một điều gì đó sâu sắc về sự chuyển đổi từ nước Pháp truyền thống sang nước Pháp hiện đại, và cách ông trình bày điều đó thật khó quên:

Chúng tôi đã biết, chúng tôi đã chạm vào nước Pháp đã qua và chúng tôi đã biết nó nguyên vẹn. Chúng tôi đã từng là con của nó.— Chúng tôi sẽ cố gắng trình bày điều này nếu có thể.— Kể từ khi có Chúa Giêsu Kitô, thế giới đã thay đổi ít hơn so với ba mươi năm qua [Péguy viết năm 1913]. Có thời cổ xưa (và thời của Kinh thánh). Có thời đại Kitô giáo. Có thời hiện đại. Cả sau chiến tranh [1870, Chiến tranh Pháp-Phổ], một trang trại ở vùng quê Beauce vẫn giống một trang trại thời Pháp-La Mã hơn rất nhiều so với chính trang trại này ngày nay. Hay đúng hơn, trang trại này giống như chính bản ngã Pháp-La Mã của nó, về phong tục, quy định, sự nghiêm túc, trọng lực, trong chính cấu trúc, định chế và phẩm giá. (Và thậm chí, về căn bản, nó gần với một trang trại vào thời Xenophon.) Chúng tôi sẽ cố gắng giải thích điều này. Chúng ta từng biết có một thời khi, một người phụ nữ đơn giản nói một lời nào đó, thì chính chủng tộc của nàng, con người nàng, dân tộc nàng, nói lời vừa phát ra. Và khi một người thợ châm điếu thuốc của họ, điều anh ta định nói với bạn không phải là điều mà một nhà báo đã nói trước trong tờ báo sáng hôm đó. Những người có tư tưởng tự do thời đó có tinh thần Kitô giáo nhiều hơn những người sùng đạo của chúng ta ngày nay. Một giáo xứ trung bình vào thời điểm đó vô cùng gần với một giáo xứ thế kỷ mười lăm-, hoặc một giáo xứ của thế kỷ thứ tư—hoặc chúng ta hãy nói một giáo xứ thế kỷ thứ năm hoặc thứ tám— hơn một trong những giáo xứ ngày nay của chúng ta....

Chúng ta sẽ không bao giờ biết được mức độ thực sự của sự tề chỉnh và trung thực trong tâm hồn của dân tộc này. Sự tinh tế như vậy, nền văn hóa sâu sắc như vậy sẽ không bao giờ được tìm thấy nữa. Một sự tinh tế và thận trọng trong ngôn từ cũng thế. Những con người thời đó sẽ đỏ mặt vì giọng điệu hay nhất của chúng ta ngày nay, đó là giọng điệu tư sản. Còn ngày nay, ai cũng là tư sản. (12)

Nhiều người ngày nay vô tình viện dẫn “nhân dân” và xã hội dân sự như một đối trọng đối với nhiều điều sai trái trong thế giới hiện đại. Có lẽ Péguy sẽ đồng ý, nhưng ông không nói về con người một cách bất cẩn và hời hợt của các phương tiện truyền thông hiện đại. Đối với ông, những nhân đức phổ biến trước đây- khi thực sự có những nhân đức như vậy- có mối liên hệ cụ thể với những đỉnh cao của cả văn hóa cổ điển và Kitô giáo, hai cực mà nhiều người cho là đã chia rẽ nước Pháp hiện đại. Péguy có một quan điểm rất khác. Chẳng hạn, trong một tiểu luận đáng chú ý, Les suppliants parallèles (Những người khẩn cầu song hành), ông cho thấy những song hành cao qúi giữa những lời thỉnh cầu mà các công nhân Nga đã đệ trình lên Sa hoàng trong tư cách các thần dân Kitô hữu vào năm 1905 và những đoạn hợp xướng của Oedipus Rex, vở bi kịch Hy Lạp cổ đại của Sophocles. (13) Không có lòng trung thành—một thuật ngữ chủ chốt trong từ vựng của Péguy—đối với sự cao quí nhân bản có thể có trong mọi tầng lớp xã hội, thì ngay cả nông dân và công nhân cũng sẽ trở nên đồi bại. (14) Thật vậy, một trong những mối bận tâm chính của ông là chính người dân Pháp đang trở nên đồi bại. Và chính “giới trí thức”, theo nghĩa một tầng lớp ưu tú văn hóa và trí thức không tin vào điều gì cao hơn sự ưu việt và tiện nghi vật chất của chính mình, đã góp phần gây ra sự đồi bại đó của người dân Pháp.

Điểm đặc trưng của Péguy là ông không đặt nguyên nhân của sự đồi bại này ở nơi mà những người khác thường đặt, tức trong những biến động kinh tế hoặc chính trị quy mô lớn vốn được coi như tiêu chuẩn. Đối với ông, Cách mạng Pháp, một khi đã ổn định trở thành các nguyên tắc cổ điển của nền Cộng hòa, không đối lập với Nước Pháp Cổ hay Kitô giáo như nhiều người vẫn nghĩ. Những nhà huyền nhiệm, vốn đại khái là cảm hứng lý tưởng của mỗi người, rất gần gũi nhau. Nhưng các nền chính trị, các việc đào tạo chính trị, một khi cứng ngắc xung quanh mỗi nhà huyền nhiệm, có thể trở thành kẻ thù mù quáng và cay đắng. Tất cả các nhà huyền nhiệm đều phát triển khía cạnh trần thế trong nền chính trị của họ, nhưng sẽ đến một điểm, giữa các Kitô hữu hoặc những người chủ trương nền Cộng hòa, khi tinh thần đảng phái chiếm ưu thế: “Toàn bộ điểm này (điều đáng kể), điều cốt yếu, là trong mỗi trật tự, trong mỗi hệ thống, người huyền nhiệm [the mystique) không nên bị nuốt chửng bởi chính trị mà mình đã sinh ra.”(15) Khi điều đó xảy ra, nhân tính sâu sắc chung của tất cả những nhà huyền nhiệm vĩ đại sẽ mất đi, và các chính trị gia và trí thức - những người không có mối liên hệ hữu cơ với người dân, vốn là nguồn thực sự của sự vĩ đại—chiếm ưu thế. Sự chia rẽ đó đã trở thành tai ương của nước Pháp.

Ông có một quan điểm có tính giáo dục và hài hước về sự chia rẽ:

Trên thực tế, những bậc thầy tốt lành của chúng ta ở trường tiểu học đã nói với chúng ta rằng, cho đến ngày 1 tháng 1 năm 1789 (giờ Paris), nước Pháp cũ kỹ nghèo nàn của chúng ta là vực thẳm của bóng tối và sự ngu dốt, của những đau khổ kinh hoàng, của sự man rợ thô bạo (thực tế là, họ chỉ làm công việc của họ, dạy bài học của họ), và tốt đến mức bạn khó có thể tin được: vào ngày 1 tháng 1 năm 1789, đèn điện được lắp đặt ở khắp mọi nơi. Những đối thủ tốt lành của chúng ta trong Trường [Công Giáo] đối diện đã nói với chúng ta, nói một cách đại khái, rằng cho đến ngày đầu tiên của tháng Giêng năm 1789, mặt trời của thiên nhiên đang chiếu sáng; kể từ ngày đầu tiên của tháng Giêng năm 1789, chúng ta chỉ có ánh sáng điện.(16)

Trong bầu không khí ý thức hệ sôi nổi của “hai nước Pháp”, ông kêu gọi một lý tưởng chung:

Cuộc tranh luận không phải giữa một chế độ cũ, một nước Pháp cũ, được cho là đã kết thúc vào năm 1789, và một nước Pháp mới, được cho là bắt đầu từ năm 1789. Cuộc chiến diễn ra sâu sắc hơn nhiều. Nó nằm giữa toàn bộ nước Pháp cũ, nước Pháp ngoại giáo (thời Phục hưng, các khoa nhân văn, văn hóa, chữ cổ và chữ hiện đại, tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh và tiếng Pháp), nước Pháp Kitô giáo, truyền thống và cách mạng, duy quân chủ, duy bảo hoàng và cộng hòa—và mặt khác, ở phía bên kia, phía đối lập, sự thống trị của một hình thức tư tưởng sơ đẳng, căn bản nào đó, được thành lập vào khoảng năm 1881, không phải là Cộng hòa mặc dù tự gọi mình là Cộng hòa, là kẻ ăn bám của Cộng hòa và đúng là nói lên sự thống trị của đảng trí thức.

Cuộc tranh luận không phải giữa anh hùng và thánh nhân; cuộc tranh đấu chống lại trí thức, những kẻ khinh miệt cả anh hùng lẫn thánh nhân ngang nhau.

Việc lập luận không ở giữa hai trật tự của sự vĩ đại. Cuộc đấu tranh diễn ra giữa những người ghét chính sự vĩ đại, những người ghét cả điều này lẫn điều kia bằng nhau, những người tự biến mình thành người ủng hộ chính thức tất cả những gì thấp hèn, nhỏ nhen và hèn hạ. (17)

Ông lập luận rằng vào khoảng năm 1881, niềm tự hào cũ về sự chăm làm, năng suất và tay nghề thủ công đã bắt đầu biến mất ngay cả trong các trang trại và xưởng thợ. Mặc dù Péguy là một nhà hoạt động vì công nhân, nhưng ông phản đối cách làm mới của các nhóm lao động chính thức là đòi mức thù lao cao nhất cho một công việc ít nhất và thậm chí, một điều không thể tưởng tượng được trong hệ thống cũ, là phá hủy các công cụ và máy móc trong các cuộc đình công. Ông tuyên bố, cả Giáo hội và Cộng hòa đã góp phần gây ra thảm họa xã hội này khi họ tấn công lẫn nhau một cách sai lầm và bằng chủ nghĩa duy trí thức thay vì tinh thần liên đới thực sự. Đối với Péguy, các nhân đức đích thực của Công Giáo và Cộng hòa thực sự là những thành tựu song hành, một mặt tạo ra các vị thánh và mặt khác tạo ra các anh hùng. Ông cảnh báo, sự suy tàn của Kitô giáo là một phần của cùng một tinh thần xấu xa dẫn đến sự suy tàn của nền Cộng hòa, của nền giáo dục, việc làm và của chính người dân Pháp.

Năm 1900, Péguy thành lập một tạp chí, Cahiers de la quinzaine, như một diễn đàn để bày tỏ sự thật một cách tự do, bởi vì, như ông giải thích, “con người không nói ra sự thật khi biết sự thật sẽ trở thành đồng phạm của những kẻ dối trá và gian lận.” (18) Đối với Péguy, gốc rễ của bất cứ nhà huyền nhiệm nào cũng hệ ở việc vẫn trung thành với sự thật và công lý bất chấp các cam kết đảng phái. Họ bác bỏ việc áp đặt một quan điểm chính thống ngay cả đối với các nhà văn của Cahiers de la quinzaine, tờ báo với tư cách là một tạp chí đích thực thực hành quyền tự do có quan điểm bằng cách cho phép những người đóng góp bày tỏ quan điểm không phải của mình: “Một tạp chí chỉ tiếp tục có sức sống trong đó bao lâu, mỗi vấn đề đều làm phiền ít nhất một phần năm số người đăng ký mua nó. Công lý nằm ở chỗ nhìn thấy rằng phần năm này không phải lúc nào cũng y như thế.” (19) Và ngay cả khi còn là một nhà duy xã hội trẻ tuổi, ông đã phản đối khi một đại hội duy xã hội yêu cầu các ấn phẩm không được đưa ra những tài liệu có thể gây hại cho đảng. Không có sự ủng hộ từ cánh hữu hoặc cánh tả trong một nước Pháp ý thức hệ gay gắt, lòng trung thành của ông đã dẫn đến sự bách hại, một niềm thống khổ giống như Chúa Kitô, và sự bóp nghẹt kinh tế dần dần của ông và của vợ con ông bởi các thế lực đã được thiết lập.

Hans Urs von Balthasar dành 120 trang kết luận của tập thứ ba trong cuốn Mỹ Thần học của ngài cho Péguy, gợi ý rằng “cách thức” của Péguy để kết hợp giữa vật chất và vĩnh cửu, xác thịt và tinh thần, giáo sĩ và phản giáo sĩ, Công Giáo và Cộng hòa, chính trị và huyền nhiệm, và một số cặp dường như đối lập khác là chủ yếu đối với sự phục hồi đích thực của Kitô giáo nhập thể trong thế giới hiện đại. Theo quan điểm của von Balthasar, Péguy có thể đạt được sự thống nhất như vậy bởi vì ông hoạt động ở một chiều sâu tâm linh tuyệt vời, vượt xa mọi đối lập hời hợt, nơi sự hội tụ trở thành khả hữu. Điều này còn hơn cả cách mô tả phổ biến của những người duy hiện đại về các chân lý bổ sung như “ở trong tình trạng căng thẳng”, thậm chí còn hơn cả “những nghịch lý Kitô giáo” của Chesterton. Nó dẫn đến một lĩnh vực ít nhất cũng có thể gợi ý về tính đơn nhất [oneness] nguyên thủy của Thiên Chúa phía sau tính đa nguyên của thế giới tạo dựng.

Ngoài ra, von Balthasar nhận thấy ở Péguy một trong những mối bận tâm sâu sắc nhất của chính ông: khôi phục niềm hy vọng như một nhân đức đối thần thậm chí có thể gợi ý khả thể cứu rỗi phổ quát—một cité harmonieuse [Kinh thành hoà điệu] trải dài khắp toàn bộ tự nhiên và siêu nhiên mà không một ai bị loại trừ, bất chấp tội nhân nặng nề đến đâu. (20) Một trở ngại lớn về Kitô giáo đối với chàng trai trẻ Péguy là học thuyết về địa ngục, rõ ràng là bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu và không thể bị bác bỏ một cách nhẹ nhàng hoặc nghiêm trọng. Péguy trở thành một trong số những nhân vật Công Giáo hàng đầu trong thế kỷ 20 xuất hiện để bày tỏ niềm hy vọng rằng địa ngục, với những hình phạt vĩnh viễn, mặc dù là một số phận có thể xảy ra, trên thực tế có thể không có dân cư nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa.

Péguy không hề nhún nhường trong những tuyên bố về tầm quan trọng của mình trong lịch sử tôn giáo Pháp. Như ông từng viết cho một người bạn sau khi “đào sâu” dẫn đến việc ông công khai trở lại Công Giáo: “Cuộc sống của tôi không phải là cuộc sống bình thường. Cuộc sống tôi là một ván đánh cuộc. Ở bình diện sâu sắc nhất, có một sự phục hưng Công Giáo đang tiến đến chỗ thành toàn thông qua tôi. Người ta phải thấy điều này như chính nó là và giữ vững lập trường của mình. Tôi là kẻ có tội. Tôi không phải là một vị thánh. Bạn có thể nhận ra một vị thánh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Tôi là một tội nhân tốt lành. Một nhân chứng. Một Kitô hữu trong giáo xứ, một tội nhân, nhưng là người sở hữu kho tàng ân sủng.” (21) Có những người khác đã đóng góp vào sự phục hưng này của nước Pháp. Nhưng trong thời hiện đại, chỉ có Péguy, cả trong cuộc sống và công việc của mình, thực sự cung hiến cơ hội mang “hai nước Pháp” lại với nhau, Cộng hòa và Công Giáo.

Một dấu hiệu của quyền lực này là ông đã được tuyên bố vào thế kỷ 20 bởi cả Cánh tả lẫn Cánh hữu chính trị Pháp. Thậm chí, ông có thể được cho là đã vượt qua một cách quan trọng (hoặc ít nhất là đã chỉ ra các giải pháp khả hữu) sự rạn nứt giữa quá khứ và hiện tại của nước Pháp, điều mà theo viễn kiến của ông thể hiện một cuộc khủng hoảng song song với sự rạn nứt trong truyền thống Cộng hòa hiện đại và trong chính Kitô giáo. Chẳng hạn, ông nói về Vụ án Dreyfus như một vụ án bộc lộ sự khủng hoảng hoặc rạn nứt trong ba nền huyền nhiệm: Do Thái giáo, Kitô giáo và Pháp. Khi người Công Giáo kịch liệt buộc tội Dreyfus vì họ bài Do Thái vào thời điểm đó, họ đã phản bội nền huyền nhiệm Công Giáo, vốn thực sự bắt nguồn từ Do Thái giáo. Tương tự như vậy, khi chính phủ duy Xã hội của Émile Combes (một cựu chủng sinh cay đắng và mù quáng) đàn áp các dòng tu, tịch thu tài sản, và gây khó khăn cho các trường Công Giáo hoạt động, như đã làm sau năm 1905, nó đang phản bội chính nền huyền nhiệm của chính nền Cộng hòa của nó.

Sự công bằng và trung thực căn bản này giúp giải thích cho sức hấp dẫn rộng rãi của ông vượt ra ngoài ranh giới đảng phái thông thường, một điều gần như độc nhất vô nhị ở một quốc gia như Pháp. Trong thập niên 1940, khi Jacques Maritain đang truyền thông điệp vô tuyến tới nước Pháp do Đức Quốc xã chiếm đóng từ New York, ông đã nhắc đến tên Péguy. Maritain đã từng làm việc cho Péguy khi còn trẻ ở Paris. Ông lên tiếng cả từ một quen biết bản thân lẫn từ một đánh giá đúng đắn về tinh thần anh hùng của Péguy khi gọi nước Pháp là “vùng đất cổ của Gioana thành Arc và Péguy” và người Pháp như “những người bạn đồng hành của Joinville và Péguy, những người dân của Gioana thành Arc”. Tại London, Charles de Gaulle cũng đưa ra những lời kêu gọi tương tự và bắt đầu cũng như kết thúc hồi ký của mình bằng những câu trích dẫn từ Péguy. Việc người Pháp tôn vinh Péguy trong một thời điểm quan trọng như vậy đã giúp đưa tên tuổi của ông đến với phần còn lại của Châu Âu và quá đó nữa. Ở Mỹ, những tuyển tập và bản dịch của Julien Green từ Péguy— Basic Verities and Men and Saints [Những Chân lý Căn Bản và Các Con Người Cùng Các Thánh]—xuất hiện ngay sau chiến tranh. Green đã thực hiện một công việc dẫn nhập xuất sắc (và giữ đúng thứ tiếng Pháp có một không hai của Péguy trên các trang đối diện với bản dịch), nhưng tác phẩm của ông cũng có thể tạo ra những ấn tượng sai lầm nào đó.

Những đoạn văn ngắn mà Green chọn có thể tạo ấn tượng Péguy là một nhà văn viết cách ngôn giống như Chesterton:

Cuộc cách mạng xã hội sẽ hợp luân, hoặc nó sẽ không hợp luân. (22)

Bạo quyền luôn được tổ chức tốt hơn tự do. (23)

Chỉ có một Mệnh Phụ trên thế giới đã gây ra nhiều chiến tranh hơn là bất công: và đó là công lý. (24)

Ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều sẵn sàng thực hiện một vai trò người khác không có khả năng thực hiện [stand on the breach]. Tất cả chúng ta đều đóng quân ở biên cương. Biên cương ở khắp mọi nơi. (25)

Tội nhân nằm ở chính tâm điểm của Kitô giáo. (26)

Homer mới mẻ vào sáng nay và có lẽ không gì cũ bằng tờ báo hôm nay. (27)

Mọi thứ đều bắt đầu từ nền huyền nhiệm và kết thúc trong chính trị. (28)

Điều này hoàn toàn tốt đẹp và tốt lành, và nhiều câu nói trong số này đã trở thành nổi tiếng ngay cả với những người chưa bao giờ đọc Péguy. Nhưng ông cũng cần được đọc trong thời gian dài hơn để thấy sức mạnh tuyệt đối và quỹ đạo thiên tài của ông. Thật vậy, tất cả tác phẩm của ông— từ những tiểu luận đầu tiên đến những bài thơ và cuốn sách cuối cùng — đều được đặc trưng bởi chất lượng mê hoặc, thần chú chỉ thỉnh thoảng được điểm xuyết bằng những câu nói súc tích.
 
VietCatholic TV
S-500 bất khả chiến bại vừa đến Crimea, trúng cú ATACMS, tan tành. Nga thừa nhận thất bại ở Kharkiv
VietCatholic Media
04:37 29/06/2024


1. Báo cáo cho biết ATACMS đã tấn công hệ thống SAM S-500 'Prometheus' mới nhất của Nga

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “ATACMS Struck Russia's Newest S-500 'Prometheus' SAM System—Reports”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Theo một nhà báo ở nước này, lực lượng Ukraine có thể đã tấn công hệ thống phòng không S-500 mới nhất của Nga bằng cách sử dụng hỏa tiễn phóng từ hệ thống hỏa tiễn chiến thuật lục quân, gọi tắt là ATACMS, do Mỹ cung cấp.

“Có thông tin cho rằng hệ thống phòng không S-500 mới nhất của Nga đã bị phá hủy bởi hỏa tiễn cụm ATACMS. Chi phí của một trong số này lên tới 600 triệu Mỹ Kim”, Andriy Tsaplienko, một nhà báo người Ukraine, cho biết trên kênh Telegram của mình. Hệ thống được cho là đã bị phá hủy ở mũi Chauda của Crimea hôm Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu.

Trung tướng Kyrylo Budanov, nhà lãnh đạo cơ quan tình báo quân sự HUR của Ukraine, nói với truyền thông Ukraine hôm 12 Tháng Sáu rằng Nga đã bố trí các bộ phận của hệ thống hỏa tiễn phòng không S-500 tại Crimea sáp nhập. Một chuyên gia quân sự hồi đầu tháng này đã đánh giá rằng Nga có thể có 4 hệ thống S-500, còn được gọi là hệ thống hỏa tiễn đất đối không Prometheus.

Truyền thông Nga mô tả S-500 là hệ thống hỏa tiễn phòng không thế hệ mới của Nga có khả năng tiêu diệt các mục tiêu đạn đạo và khí động học. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu cho biết vào tháng 4 rằng những mẫu SAM đầu tiên sẽ được chuyển giao cho quân đội Nga trong năm nay.

Sidharth Kaushal, nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Dịch vụ Thống nhất Hoàng gia có trụ sở tại Luân Đôn, nói với Newsweek vào ngày 17 Tháng Sáu rằng Nga hiện có một trung đoàn S-500 đang hoạt động. Điều này cho thấy Nga có hai tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có hai khẩu đội phòng không, mang lại cho Nga tổng cộng bốn hệ thống này.

Trong những tuần gần đây, lực lượng Ukraine dường như đã tăng cường tấn công vào các hệ thống phòng không của Nga.

Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh Hoa Kỳ, gọi tắt là ISW, một tổ chức tư vấn độc lập có trụ sở tại Mỹ, cho biết trong phân tích về xung đột ở Ukraine hôm 13 Tháng Sáu rằng Kyiv có thể đang tiến hành một nỗ lực nhằm làm suy thoái các hệ thống quân sự. Điều này “có thể cho phép Ukraine tận dụng sức mạnh không quân có cánh cố định có người lái một cách hiệu quả hơn về lâu dài”.

ISW cho biết, lực lượng của Kyiv có thể tìm cách chủ động làm suy yếu hệ thống phòng không của Nga trước khi lực lượng Ukraine nhận được một số lượng máy bay đáng kể “nhằm tạo điều kiện cho Ukraine sử dụng sức mạnh máy bay có người lái có cánh cố định trong tương lai gần các khu vực tiền tuyến hơn”.

ISW cho biết: “Các lực lượng Ukraine có thể đang cố gắng làm suy yếu hệ thống phòng không của Nga trước đợt chuyển giao chiến đấu cơ F-16 dự kiến cho Ukraine, được cho là sẽ bắt đầu với số lượng nhỏ vào mùa hè và mùa thu năm 2024”.

“Các lực lượng Ukraine cuối cùng có thể hướng tới một khái niệm hoạt động kết hợp sức mạnh không quân cánh cố định để hỗ trợ các hoạt động trên bộ nếu quân đội Ukraine nhận đủ số lượng chiến đấu cơ, các đối tác phương Tây đào tạo đủ phi công được đào tạo và nếu Ukraine thành công trong việc hạ cấp khả năng phòng không của Nga”, tổ chức nghiên cứu này nói thêm.

2. Financial Times: Ukraine, Mỹ, Israel đàm phán gửi 8 hệ thống Patriot tới Kyiv

Hôm Thứ Năm, 27 Tháng Sáu, tờ Financial Times đưa tin Mỹ, Israel và Ukraine đang đàm phán về việc cung cấp cho Ukraine tối đa 8 hệ thống phòng không Patriot.

Nguồn tin của Financial Times cho biết, các phác thảo của thỏa thuận vẫn chưa được hoàn thiện và đã được thảo luận giữa các bộ trưởng và quan chức cao cấp của ba quốc gia. Nó có thể bao gồm việc các hệ thống Patriot được gửi từ Israel tới Mỹ và sau đó tới Ukraine.

Các báo cáo được đưa ra vài ngày sau khi Washington tuyên bố đã sắp xếp lại ưu tiên cho các chuyến giao hàng quân sự nước ngoài theo kế hoạch cho các quốc gia khác, đặc biệt là hỏa tiễn Patriot và NASAMS, để có thể chuyển sang Ukraine.

Kyiv đã kêu gọi các đối tác của mình cung cấp thêm lực lượng phòng không khi Nga tăng cường các cuộc tấn công nhằm vào các trung tâm dân cư và cơ sở hạ tầng của Ukraine. Ukraine vận hành ít nhất ba hệ thống Patriot do Mỹ, Hòa Lan và Đức cung cấp, trong khi Berlin và Bucharest gần đây cam kết cung cấp thêm hai hệ thống nữa.

Bộ trưởng Ngoại giao Dmytro Kuleba nói với Financial Times: “Ukraine tiếp tục hợp tác với nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới để có thêm các hệ thống Patriot”.

Việc chuyển giao 8 hệ thống khác có thể tăng cường đáng kể khả năng phòng không của Ukraine, có khả năng bảo vệ các thành phố lớn nhất đất nước đồng thời được sử dụng để bảo vệ các điểm nóng quan trọng trên chiến trường.

Israel hồi tháng 4 tuyên bố sẽ bắt đầu ngừng hoạt động 8 khẩu đội Patriot đã hơn 30 năm tuổi để thay thế bằng các hệ thống hiện đại hơn. Tuy nhiên, các khẩu đội được sử dụng trong cuộc chiến Israel-Hamas vẫn chưa ngừng hoạt động do lo ngại leo thang.

Israel phần lớn tránh đứng về bên nào trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine và không cung cấp bất kỳ viện trợ quân sự có ý nghĩa nào cho Ukraine. Nước này có mối quan hệ lâu dài với Nga, vốn phức tạp do cộng đồng người Nga đông đảo ở Israel.

Kyiv lên tiếng ủng hộ Israel sau khi nước này hứng chịu một cuộc tấn công chết người của tổ chức chiến binh Hamas vào tháng 10 năm 2023, trong khi Hamas được cho là đã sử dụng vũ khí do Nga và Iran sản xuất trong cuộc chiến.

3. Điện Cẩm Linh cáo buộc Mỹ khiêu khích bằng máy bay điều khiển trên Hắc Hải, chuẩn bị phản ứng

Bộ trưởng Quốc phòng Nga đã ra lệnh cho quân đội nước này phát triển các biện pháp đối phó với điều mà ông ta gọi là “sự khiêu khích” từ các máy bay điều khiển từ xa chiến lược của Mỹ hoạt động trên Hắc Hải, đồng thời cho rằng chúng đang làm tăng nguy cơ “đối đầu trực tiếp” giữa Nga và NATO.

Trong tuyên bố đưa ra hôm Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu, Andrey Belousov, Bộ trưởng Quốc phòng Nga, cho biết các máy bay điều khiển từ xa đang được sử dụng để tiến hành trinh sát và tìm mục tiêu cho các “vũ khí có độ chính xác cao do các nước phương Tây cung cấp cho Lực lượng vũ trang Ukraine”. Ông nói rằng: “Điều này cho thấy sự can dự ngày càng tăng của Mỹ và các nước NATO vào cuộc xung đột ở Ukraine từ phía chính quyền Kyiv”.

Máy bay điều khiển từ xa của NATO hoạt động trên Hắc Hải không có gì bí mật và có thể bị theo dõi bằng cách sử dụng các trang web theo dõi chuyến bay công khai. Hắc Hải đã trở thành một trong những sân khấu chính của cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, trong đó Kyiv đã có nhiều thành công trong việc tấn công lực lượng hải quân Nga trong khu vực.

Bất kỳ quốc gia nào cũng có thể cho máy bay điều khiển từ xa bay qua các khu vực thuộc vùng biển quốc tế được chỉ định của Hắc Hải, miễn là chúng đi vào lãnh hải của một quốc gia cho phép.

Máy bay điều khiển từ xa của NATO hoạt động theo cách như vậy không vi phạm luật pháp quốc tế và không xâm phạm không phận Nga. Tuy nhiên, Nga tuyên bố rằng “các chuyến bay như vậy làm tăng đáng kể khả năng xảy ra sự việc trong không phận với máy bay của Lực lượng Hàng không Vũ trụ Nga, làm tăng nguy cơ đối đầu trực tiếp giữa liên minh và Liên bang Nga”, đồng thời nói thêm rằng “các nước NATO sẽ chịu trách nhiệm về cái này.”

4. Hình ảnh vệ tinh Crimea cho thấy đám cháy lan rộng tại khu huấn luyện quân sự

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Crimea Satellite Images Show Military Training Ground Fire Spreading”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Hình ảnh vệ tinh cho thấy đám cháy bùng phát tại địa điểm phóng máy bay điều khiển từ xa Shahed do Iran cung cấp ở Crimea đang lan rộng.

Ngọn lửa ở Cape Chauda, nơi đặt căn cứ quân sự của Nga, đã gia tăng đáng kể trong 24 giờ qua. Khu vực này được các lực lượng xâm lược của Nga sử dụng để phóng máy bay điều khiển từ xa kamikaze vào các mục tiêu của Ukraine từ bán đảo Hắc Hải, nơi đã bị nhà độc tài Vladimir Putin sáp nhập vào năm 2014.

Hãng tin này cho biết các hình ảnh vệ tinh cho thấy đám cháy đã nhấn chìm các tòa nhà trên lãnh thổ của đơn vị quân đội Nga.

Nguyên nhân vụ cháy vẫn chưa rõ ràng, nhưng nó bắt đầu từ hôm Thứ Tư, 26 Tháng Sáu, vài giờ sau khi cư dân địa phương báo cáo về các vụ nổ và khói bốc lên ở Cape Chauda.

Quân đội Ukraine tuyên bố các lực lượng xâm lược của Nga sử dụng khu vực này để phóng máy bay điều khiển từ xa kamikaze Shahed-136 do Iran sản xuất, vốn được sử dụng rộng rãi trong cuộc xung đột.

Illia Yevlash, phát ngôn nhân của Không quân Ukraine, nói với hãng tin RBC của Ukraine vào tháng trước rằng các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Nga được tiến hành từ Mũi Chauda, nhưng ông từ chối giải thích liệu quân đội Ukraine có đủ phương tiện để tấn công khu vực hay không.

“Đó là thông tin mật,” Yevlash nói và nói thêm rằng quân đội Nga có một số địa điểm phóng máy bay điều khiển từ xa cảm tử.

Yevlash cho biết Mạc Tư Khoa luân chuyển các địa điểm phóng này để gây nhầm lẫn cho lực lượng phòng không Ukraine.

“Máy bay điều khiển từ xa có thể thay đổi tuyến đường trong nước. Ví dụ, chúng có thể gặp nhau, sau đó tách ra, sau đó bay vòng quanh một thành phố và cố gắng xâm nhập mục tiêu”, ông giải thích.

“Shahed đã được lập trình; Người Nga phóng những chiếc máy bay điều khiển từ xa này sẽ phân tích các tuyến đường và nghĩ ra những khu vực mới mà họ chưa phóng hoặc phân tích thông tin trước đó để sử dụng những chiếc máy bay điều khiển từ xa này trong tương lai.”

5. Quan chức Nga cho biết máy bay điều khiển từ xa tấn công kho dầu ở Tambov

Hôm Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu, Thống đốc Maksym Yegorov, cho biết một đám cháy đã bùng phát tại một kho dầu ở tỉnh Tambov của Nga sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa.

Yegorov cho biết máy bay điều khiển từ xa đã tấn công cơ sở lúc 4:35 sáng giờ địa phương. Cuộc tấn công đã gây ra “một đám cháy” và Bộ Tình Trạng Khẩn Cấp đang tìm cách khống chế ngọn lửa.

Thống đốc cho biết các nhân viên cấp cứu đang dập tắt đám cháy và không có thương vong. Ông cho biết khu dân cư gần nhất, cách hiện trường 3 km, sẵn sàng di tản nếu cần thiết.

Trong những tháng gần đây, lực lượng Ukraine đã tiến hành một loạt cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa nhằm mục đích gây thiệt hại cho ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga, ngành thu lợi nhuận từ việc cung cấp nhiên liệu cho các nỗ lực chiến tranh của Mạc Tư Khoa.

Cơ quan An ninh Ukraine trước đó đã tấn công vào kho dầu Platonovskaya ở tỉnh Tambov trong hoạt động qua đêm vào ngày 20 Tháng Sáu.

6. Tổng thống Zelenskiy: 'Ukraine không muốn chiến tranh kéo dài nhiều năm', nên muốn hướng tới hội nghị thượng đỉnh hòa bình lần thứ 2

Tổng thống Volodymyr Zelenskiy nói với các nhà báo ở Brussels hôm 27 Tháng Sáu rằng một kế hoạch hành động chi tiết nên được chuẩn bị để xem xét tại hội nghị thượng đỉnh hòa bình lần thứ hai của Ukraine trong vài tháng tới.

Theo ông Zelenskiy, một kế hoạch như vậy nên bao gồm các bước liên quan đến “tất cả các cuộc khủng hoảng” do cuộc xâm lược toàn diện của Nga gây ra.

Thụy Sĩ đã tổ chức hội nghị thượng đỉnh hòa bình toàn cầu của Ukraine trong 2 ngày 15 và 16 tháng 6, với hơn 90 quốc gia và tổ chức tham dự. 78 quốc gia và 4 tổ chức đã ký thông cáo chung cuối cùng của hội nghị thượng đỉnh hòa bình vào ngày 16 tháng 6. Thêm 9 quốc gia nữa tham gia vào văn kiện này sau sự kiện.

Kyiv đang lên kế hoạch sắp xếp hội nghị thượng đỉnh hòa bình toàn cầu lần thứ hai trước cuối năm 2024. Kyiv hy vọng sẽ phát triển một kế hoạch hòa bình chung mới dựa trên đề xuất hòa bình 10 điểm của Zelenskiy, mặc dù vẫn để ngỏ ý kiến từ các nước khác.

“Chúng tôi không có nhiều thời gian. Chúng tôi có rất nhiều người bị thương, thiệt mạng, cả quân nhân lẫn dân thường. Vì thế chúng tôi không muốn cuộc chiến này kéo dài nhiều năm. Vì vậy, chúng tôi phải chuẩn bị kế hoạch này và đặt nó lên bàn đàm phán tại hội nghị thượng đỉnh hòa bình lần thứ hai”, ông Zelenskiy nói.

Tổng thống nói thêm Ukraine muốn các cuộc đàm phán diễn ra cởi mở.

Một số quốc gia tham gia nhưng đáng chú ý vắng mặt trong danh sách ký kết bao gồm Ấn Độ, Ả Rập Saudi, Indonesia, Colombia, Nam Phi, Thái Lan, Mexico và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Trung Quốc từ chối tham gia do sự vắng mặt của Nga và các báo cáo xuất hiện vào ngày 13 tháng 6 cho thấy Bắc Kinh đang thúc đẩy kế hoạch hòa bình khác của Tập Cận Bình.

7. Đồng minh của Putin chỉ trích thất bại trong cuộc tấn công vào Kharkiv: Đó chỉ là cỗ 'Máy xay thịt'

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Putin Ally Rues Kharkiv Offensive Failures: 'Meat Grinder'“. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Nhà tuyên truyền và blogger quân sự người Nga Alexander Kots đã đăng một đoạn video về cuộc tấn công hiện tại của Mạc Tư Khoa vào khu vực Kharkiv phía đông bắc Ukraine, cho thấy tổn thất về quân số tiếp tục ở mức rất cao.

Các cuộc đụng độ khốc liệt vẫn tiếp diễn sau khi lực lượng của Điện Cẩm Linh phát động cuộc tấn công ở khu vực Kharkiv vào ngày 10 Tháng Năm, chiếm giữ một số thị trấn ở biên giới phía đông bắc Ukraine và buộc hàng ngàn dân thường phải chạy trốn.

Cân nhắc về cuộc tấn công, blogger quân sự người Nga Kots, người phục vụ trong hội đồng nhân quyền của Điện Cẩm Linh, cho biết trong một video được công bố hôm Thứ Năm, 27 Tháng Sáu, rằng cuộc chiến giành khu vực nên được gắn nhãn hiệu “máy xay thịt”. Thuật ngữ này mô tả các trận chiến kéo dài, có số thương vong cao và tổn thất nguồn lực đáng kể.

“Về tình hình diễn ra ở hướng Kharkiv, đối phương đang cố gắng tấn công ở Lyptsi, gần Hlyboke và ở Vovchvansk. Ở đây, chúng ta chẳng có tiến bộ nào đáng kể trong tương lai”, Kots nói.

Ông nói thêm: “Như tôi đã nói, hoạt động 'máy xay thịt Ukraine' hiện đang được tiến hành ở đây.

“Thật không may, đối phương đã bắt đầu sử dụng vũ khí chính xác của Mỹ ở Belgorod, đặc biệt là HIMARS. Đây là chiến tranh. Đối phương rất nghiêm chỉnh; nó đang phát triển. Điều đó không thể tránh được.”

Đây là lần đầu tiên một nhân vật của Điện Cẩm Linh công khai thừa nhận những thất bại trong chiến dịch xâm lược Kharkiv.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói rằng tổn thất của Nga trong cuộc tấn công ở Kharkiv cao gấp 8 lần so với Ukraine.

“Một kết quả rất có ý nghĩa là quân đội Nga đã thất bại. Hướng Kharkiv đã được tăng cường. Và nó sẽ được tăng cường hơn nữa”, ông Zelenskiy nói sau cuộc gặp với nhà lãnh đạo quân đội Ukraine, Oleksandr Syrskyi.

Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh Hoa Kỳ, gọi tắt là ISW, một tổ chức tư vấn độc lập có trụ sở tại Hoa Kỳ, cho biết trong phân tích mới nhất về cuộc xung đột ở Ukraine rằng giao tranh vẫn tiếp diễn ở khu vực phía bắc Kharkiv vào hôm Thứ Năm, 27 Tháng Sáu, nhưng không có thay đổi nào được xác nhận ở tiền tuyến.

Nhà lãnh đạo tỉnh Kharkiv Ukraine Oleh Synehubov lưu ý rằng các lực lượng Ukraine tiếp tục tấn công một nhóm nhỏ quân Nga tại Nhà máy Tổng hợp Vovchansk trong bối cảnh tiếp tục có báo cáo về các cuộc giao tranh cận chiến dữ dội ở Vovchansk nằm ở phía đông bắc thành phố Kharkiv.

ISW cho biết thêm: “Các lực lượng Nga và Ukraine báo cáo giao tranh trong và xung quanh Vovchansk, phía đông Vovchansk gần Tykhe và gần Hlyboke phía bắc thành phố Kharkiv vào ngày 25 và 26 Tháng Sáu”.

8. Các nghị sĩ Âu Châu kêu gọi Charles Michel đình chỉ chức vụ chủ tịch Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu của Hung Gia Lợi

Các thành viên Đức của Nghị viện Âu Châu, Daniel Freund và Damian Bezelager, đã gửi thư tới Chủ tịch Hội đồng Âu Châu Charles Michel, yêu cầu đình chỉ chức chủ tịch Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu của Hung Gia Lợi.

Bức thư được cho là có chữ ký của 20.000 công dân Liên Hiệp Âu Châu và được xuất bản vào ngày 27 tháng 6 trên tài khoản của Freund trên X.

Chức chủ tịch của Bỉ trong Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu sẽ kết thúc vào cuối tháng 6. Nhiệm kỳ chủ tịch Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu của Hung Gia Lợi bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 và sẽ kéo dài trong nửa năm.

Bức thư có đoạn viết: “Sẽ cực kỳ có hại cho danh tiếng của Liên minh chúng ta nếu chính phủ Hung Gia Lợi hiện tại đại diện cho người Âu Châu chúng ta trên bất kỳ cương vị nào, ngay sau cuộc bầu cử Âu Châu”.

Các thành viên của Nghị Viện Âu Châu nhớ lại cách Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban so sánh Liên Hiệp Âu Châu với một chế độ độc tài và nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ của Hung Gia Lợi với Nga, quốc gia tiếp tục cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine.

Mức độ tham nhũng cao cũng như việc làm suy yếu nền pháp quyền và quyền tự do báo chí ở Hung Gia Lợi cũng được đề cập trong bức thư.

“Hung Gia Lợi, trong tình trạng hiện tại, sẽ không bao giờ vượt qua được các tiêu chuẩn gia nhập Liên Hiệp Âu Châu. Do đó, giới lãnh đạo tội phạm của nó không được phép đại diện cho Liên minh.”

Hung Gia Lợi đã nhiều lần phản đối việc Ukraine gia nhập NATO và Liên Hiệp Âu Châu cũng như các lệnh trừng phạt đối với Nga kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022.

Orban trước đó đã trình bày một chương trình bảy điểm sẽ trở thành kim chỉ nam cho Hung Gia Lợi với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu. Chương trình không ưu tiên hỗ trợ cho Ukraine.

Hung Gia Lợi cũng không có kế hoạch triệu tập hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu-Ukraine trong 6 tháng tới mà thay vào đó muốn tổ chức hội nghị thượng đỉnh ở Tây Balkan.

9. Bloomberg đưa tin Ba Lan, Tiệp, Đức yêu cầu Liên Hiệp Âu Châu giúp trang trải chi phí tiếp đón người tị nạn từ Ukraine

Đức, Ba Lan và Cộng hòa Tiệp đã yêu cầu Liên Hiệp Âu Châu hỗ trợ tài chính để trang trải chi phí tiếp đón người tị nạn Ukraine.

Các nhà lãnh đạo của ba quốc gia đã gửi một lá thư chung, với yêu cầu tài trợ của họ tới Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen. Thủ tướng Đức Olaf Scholz cho biết như trên hôm Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu.

Khoảng 4,2 triệu người tị nạn Ukraine cư trú tại Liên Hiệp Âu Châu dưới tình trạng bảo vệ tạm thời, trong đó gần 1 triệu người đã trú ẩn ở Ba Lan.

Theo báo cáo của UNHCR và Deloitte, từ tháng 3 năm 2024, người Ukraine chiếm từ 0,7% đến 1,1% GDP của Ba Lan vào năm 2023.

Ông cho biết Đức đã tiếp nhận hơn 1 triệu người tị nạn từ Ukraine kể từ tháng 2 năm 2022. Berlin đã chi hơn 20 tỷ euro để cung cấp chỗ ở và hội nhập cho những người tị nạn chiến tranh này.

Theo dữ liệu của Bộ Lao động Tiệp, Cộng hòa Tiệp chính thức tiếp nhận 340.000 người tị nạn Ukraine, những người trong quý đầu tiên đã phải trả gần gấp đôi số thuế họ nhận được từ phúc lợi xã hội.

Thủ tướng Olaf Scholz cho biết ba quốc gia này đã đón tiếp phần lớn những người tị nạn Ukraine chạy trốn kể từ khi cuộc chiến tổng lực bắt đầu.

“Hơn 50% người tị nạn Ukraine vào Liên minh Âu Châu sống ở Đức, Ba Lan và Cộng hòa Tiệp.”

Ông cho biết thêm, những thách thức không đồng đều đối với các quốc gia thành viên trong Liên Hiệp Âu Châu cũng thể hiện rõ ràng liên quan đến quy mô dân số tương ứng”

Các nước cho rằng tình hình không “tương thích” với mục tiêu chung là chia sẻ gánh nặng tiếp nhận người tị nạn từ Ukraine và “hậu quả đối với ngân sách quốc gia”.

“Cần có thêm và – liên quan đến chi phí thực tế – hỗ trợ tài chính đáng kể từ các quỹ hiện có của Khung tài chính đa phương 2021-2027 hiện tại cho những quốc gia thành viên bị ảnh hưởng đặc biệt để phản ánh đầy đủ các chi phí tiếp nhận, nhà ở và cung cấp cho người tị nạn từ Ukraine,” ông nói.

Phát biểu trước các báo cáo trước hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu tại Brussels, Thủ tướng Olaf Scholz nói rằng vấn đề về sự đóng góp của mỗi quốc gia thành viên trong việc tiếp nhận người tị nạn Ukraine “không được phân bổ rõ ràng”

Scholz nói thêm rằng Liên Hiệp Âu Châu nên bồi thường cho ba quốc gia đó những thứ như chi phí sinh hoạt, đào tạo nghề và các khóa học ngôn ngữ. Ông cũng lưu ý rằng chủ đề này sẽ được thảo luận tại Brussels.

Bình luận của Scholz tại Brussels được đưa ra sau tuyên bố ngày 24 tháng 6 của ông về việc Đảng Dân chủ Xã hội do ông đứng đầu ngày càng không được ưa chuộng, vì sự phản đối của một số cử tri đối với sự ủng hộ của đảng đối với Ukraine.

Hiệu ứng này được cảm nhận rõ ràng nhất ở một số bang ở phía đông nước Đức, nơi Đảng Dân chủ Xã hội chỉ nhận được 7% số người ủng hộ trước cuộc bầu cử địa phương sắp tới dự kiến vào tháng 9.

10. Vụ hack vào các email của đồng minh Putin tiết lộ kế hoạch của Nga tuyên bố chủ quyền lãnh thổ ở Bắc Cực

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Putin Ally's Email 'Hack' Reveals Plan for Territorial Claims in Arctic”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Một báo cáo cho biết các email bị tấn công của một trợ lý gửi cho cựu Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã vạch ra kế hoạch của Mạc Tư Khoa nhằm tăng cường các yêu sách lãnh thổ của Nga ở Bắc Cực.

Medvedev có mối quan hệ rất thân thiết với Vladimir Putin và từng giữ chức nguyên thủ quốc gia từ năm 2008 đến năm 2012. Hiện là Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh Nga, những luận điệu của Medvedev về cuộc xâm lược toàn diện của Putin vào Ukraine ngày càng trở nên diều hâu, liên quan đến các mối đe dọa lặp đi lặp lại đối với phương Tây..

Tin tặc từ nhóm InformNapalm, một sáng kiến tình nguyện được thành lập để đối phó với hành động gây hấn của Nga ở Ukraine, cho biết họ đã truy cập vào lưu lượng email của Alexei Zaklyazminsky, người mà nhóm này mô tả là một trong sáu trợ lý cá nhân của Medvedev.

Nhóm này cho biết họ đã theo dõi các email kể từ đầu năm nay và mặc dù một số thông tin thu được sẽ không được tiết lộ vì nó đang được lực lượng quốc phòng Ukraine sử dụng, nhưng họ đã tiết lộ các chi tiết khác về thư từ mà họ có thể công khai và đăng các ảnh chụp màn hình cho thấy việc lấy cắp các tài liệu mà họ cho biết đã hỗ trợ cho các tuyên bố của mình.

Nhóm này cho biết họ phát hiện ra rằng trợ lý của Medvedev thường xuyên nhận được nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Chiến lược và Kinh tế Tri thức tại Trường Kinh tế Cao cấp Mạc Tư Khoa, gọi tắt là HSE, một cơ quan cố vấn quan trọng của Điện Cẩm Linh, về các kế hoạch của Nga đối với khu vực Bắc Cực.

InformNapalm nói rằng lưu lượng email cho thấy HSE đã đề xuất Nga “gia tăng đáng kể các yêu sách lãnh thổ hàng hải ở Bắc Cực”.

InformNapalm cho biết những đề xuất này “phù hợp với chính sách gây hấn tổng thể của Liên bang Nga; và đề cập đến một nghị định vào tháng trước nhưng sau đó đã bị xóa sau khi xuất hiện trên trang web của chính phủ Nga cho biết Mạc Tư Khoa đang tìm cách thay đổi biên giới trên biển của Nga ở Biển Baltic.

Nga và NATO đã tăng cường các cuộc tập trận quân sự ở khu vực Bắc Cực, nơi Mạc Tư Khoa có các siêu dự án dầu khí và căn cứ quân sự. Vào năm 2023, chiến lược Bắc Cực của toàn chính phủ Hoa Kỳ cho biết việc Nga xâm lược Ukraine đã “làm gia tăng căng thẳng địa chính trị”.

Ngoài các kế hoạch có chủ ý của Nga ở Bắc Cực, các tin tặc cũng cho biết họ đã tìm thấy tài liệu về việc Medvedev đến thăm các nhà máy điện hạt nhân và giám sát một dự án của công ty hạt nhân nhà nước Rosatom về bảo vệ “cơ sở hạ tầng thông tin quan trọng”.

InformNapalm cho biết những phát hiện của họ cũng cho thấy rằng Medvedev có liên quan đến việc chuyển đổi nền kinh tế Nga sang nền tảng thời chiến, trích dẫn các khuyến nghị trợ cấp cho công ty kỹ thuật Kronstadt của Nga để sản xuất nhiều máy bay điều khiển từ xa hơn và phát triển các loại thép mới cho xe thiết giáp của Công ty Sắt thép Magnitogorsk.

11. Hung Gia Lợi: Nhà vô địch phòng thủ hai mặt của Liên Hiệp Âu Châu

Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Hungary: The EU’s two-faced defense champion”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Cẩm Yến.

Hung Gia Lợi, hay còn gọi là Hungary, là đồng minh hàng đầu của Nga ở Liên Hiệp Âu Châu và đang nỗ lực hết sức để ngăn cản viện trợ cho Ukraine. Nhưng đây cũng là nước chi tiêu quốc phòng lớn và là trung tâm sản xuất ngày càng quan trọng đối với các nhà sản xuất vũ khí của khối.

Những khuôn mặt xung đột đó sẽ được thể hiện đầy đủ trong nhiệm kỳ chủ tịch Hội đồng Liên Hiệp Âu Châu bắt đầu vào ngày 1 Tháng Bẩy, tới đây, nơi Budapest tuyên bố “việc củng cố chính sách quốc phòng Âu Châu” sẽ là ưu tiên hàng đầu.

Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán, cho biết vấn đề lớn sẽ là đạt được tiến bộ trong Chiến lược Công nghiệp Quốc phòng Âu Châu, gọi tắt là EDIS, và Chương trình Công nghiệp Quốc phòng Âu Châu, gọi tắt là EDIP - một nỗ lực nhằm thúc đẩy tổ hợp công nghiệp-quân sự của khối mà Hung Gia Lợi ủng hộ. Ngoài ra, sẽ có nỗ lực khởi động lại việc hoàn trả một phần cho những vũ khí viện trợ cho Ukraine của Cơ sở Hòa bình Âu Châu, từng bị Budapest ngăn chặn.

Ông cho biết: “Chúng ta cần phải tiến nhanh ngay bây giờ khi triển khai EDIS và tôi hy vọng họ sẽ không làm hỏng điều đó, cũng vì lợi ích an ninh của công dân Âu Châu”.

Nhưng các thủ đô khác của Liên Hiệp Âu Châu đang lo lắng về độ tin cậy của Hung Gia Lợi.

Orbán biết rằng nước này sẽ không thể “thông qua chương trình nghị sự” về Ukraine và các nước thành viên “sẽ rất hoài nghi về họ”, Gustav Gressel, chuyên gia chính sách cao cấp tại Hội đồng Âu Châu về quan hệ đối ngoại, cho biết.

Bộ trưởng János Bóka về các vấn đề liên quan đến Liên Hiệp Âu Châu nói với POLITICO: “Chúng tôi nhận thức được thực tế rằng chúng tôi sẽ bị theo dõi rất chặt chẽ nếu chúng tôi hợp tác chân thành với các quốc gia và tổ chức thành viên”.

Ông nói: “Không có gì chứng minh cho tuyên bố rằng chúng tôi ở gần Mạc Tư Khoa”.

Tuy nhiên, không khó để tìm thấy một góc độ ủng hộ Điện Cẩm Linh ở Budapest.

Ngoại trưởng Péter Szijjártó đã phá bỏ các hạn chế và thường xuyên gặp gỡ Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov, người bị Liên Hiệp Âu Châu trừng phạt.

Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán đã lên tiếng phản đối sự hỗ trợ của phương Tây dành cho Ukraine, và Szijjártó đã cảnh báo vào tháng trước về một ý tưởng “điên rồ” về việc áp đặt chế độ tòng quân bắt buộc trên khắp Âu Châu để hỗ trợ cho nguồn nhân lực đang suy giảm của Ukraine.

Orbán thậm chí còn đưa ra điều kiện ủng hộ Thủ tướng Hòa Lan sắp mãn nhiệm Mark Rutte làm tổng thư ký mới của NATO miễn là “không có nhân viên Hung Gia Lợi nào tham gia vào các hoạt động của NATO ở Ukraine và không có quỹ Hung Gia Lợi nào được sử dụng để hỗ trợ Ukraine”.

Nhưng Hung Gia Lợi cũng là một trong những quốc gia phòng thủ nghiêm chỉnh nhất của Liên Hiệp Âu Châu.

Orbán đã tăng chi tiêu quốc phòng lên 2,11% GDP trong năm nay, cao hơn mức hướng dẫn 2% của NATO. Nó có thể cao hơn. Ông cho biết vào tháng trước rằng nếu cuộc chiến ở Ukraine kéo dài sang năm 2025 thì “mức chi tiêu quốc phòng giai đoạn 2023-2024 sẽ không đủ và sẽ phải tăng lên”.

Gần một nửa số tiền đó - 48% - dành cho thiết bị mới, phần lớn là từ các nhà sản xuất Âu Châu.

Hung Gia Lợi đang mua 44 xe tăng Leopard 2 A7+ và 24 pháo tự hành PzH 2000 từ Krauss-Maffei Wegmann của Đức, cũng như trực thăng đa năng H145M và H225M từ Airbus. Đầu năm nay, họ đã ký thỏa thuận mua 4 chiến đấu cơ Saab JAS Gripen từ Thụy Điển. Hung Gia Lợi cũng sử dụng hệ thống phòng không tầm ngắn Mistral do MBDA sản xuất.

“Hung Gia Lợi đã phát động chương trình hiện đại hóa quân đội cách đây 8 năm” Đại sứ Hung Gia Lợi tại Liên Hiệp Âu Châu Bálint Ódor nói với POLITICO. Và “85% tổng số giao dịch mua đến từ các công ty Âu Châu… với điều này, chúng tôi đã góp phần củng cố cơ sở công nghiệp Âu Châu trong lĩnh vực quốc phòng.”

Ngân sách mua sắm lớn cộng với lao động giá rẻ và các chính sách thuế thuận lợi đang thúc đẩy các công ty quốc phòng Âu Châu xây dựng nhà máy ở Hung Gia Lợi.

Rheinmetall của Đức sản xuất xe chiến đấu bộ binh KF41 Lynx ở Zalaegerszeg và đang xem xét mở rộng hoạt động ở Hung Gia Lợi.

Rheinmetall cũng có thỏa thuận với Hung Gia Lợi để phát triển xe tăng chiến đấu chủ lực Panther thế hệ tiếp theo.

Một nhà máy của Airbus sản xuất phụ tùng cho máy bay trực thăng chiến đấu hiện đại cũng được đặt ở Hung Gia Lợi.

András Rácz, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Đức, một tổ chức nghiên cứu, cho biết Orbán “cảm thấy rằng việc mua vũ khí của Đức và sau đó là của Pháp có thể giúp Hung Gia Lợi có được những lợi ích chính trị”.

Nhưng với việc Brussels chặn các khoản tiền của Liên Hiệp Âu Châu dành cho Budapest vì vi phạm luật pháp và các tiêu chuẩn dân chủ của khối, cũng như việc đất nước này đang bị các đồng minh ngày càng bực tức chỉ trích, không rõ liệu vùng đệm ngoại giao vẫn còn hiệu quả hay không.

Tuy nhiên, những con cừu đen của khối vẫn thề sẽ tiếp tục thực hiện các chính sách quốc phòng được các nước thành viên khác ủng hộ rộng rãi.

Bộ trưởng Liên Hiệp Âu Châu Bóka cho biết, Tổng thống Hung Gia Lợi sẽ cố gắng thống nhất một đường lối chung về Chương trình Công nghiệp Quốc phòng Âu Châu. “Chúng tôi tin rằng điều này có thể củng cố cơ sở công nghiệp quốc phòng Âu Châu, vốn là điều kiện tiên quyết cho chính sách quốc phòng và an ninh Âu Châu mạnh mẽ và tự chủ”.