Ngày 22-12-2013
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Chương trình sám hối Mùa Vọng
Lm. Đan Vinh
11:41 22/12/2013
PHẦN MỘT: PHỤNG VỤ LỜI CHÚA VÀ XÉT MÌNH

I- CỘNG ĐOÀN TẬP HỌP :

NHD : Kính thưa Cộng đoàn,

MÙA VỌNG là mùa sống NIỀM HY VỌNG KITÔ GIÁO, giúp người tín hữu ĐÓN CHỜ NGÀY QUANG LÂM CỦA ĐỨC CHÚA, vị CHÚA TỂ CỦA LỊCH SỬ cũng như của HOÀN VŨ. Đồng thời, cũng là mùa CHUẨN BỊ TÂM HỒN mừng kỷ niệm LẦN ĐẾN THỨ NHẤT của NGÔI LỜI trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, một biến cố mà DÂN DO THÁI hằng trông đợi và được chuẩn bị từ bao thế kỷ trước bởi các NGÔN SỨ.

MÙA VỌNG còn giúp người tín hữu chuẩn bị lòng mình đón tiếp CHÚA cách HUYỀN NHIỆM trong CHÍNH MÌNH HÔM NAY và MỖI NGÀY. Đón tiếp Chúa đến qua LỜI CHÚA và MÌNH MÁU THÁNH CHUA, bởi THÁNH THẦN và HỘI THÁNH, nơi CON NGƯỜI và qua các BIẾN CỐ, trong PHỤNG VỤ và các BÍ TÍCH.

MÙA VỌNG năm nay 2013, Giáo Hội Việt Nam vừa kết thúc Nam Ð?c Tin, và chuẩn B? BU?C VO NAM TN PHC M HĨA Ð?I S?NG GIA ÐÌNH Năm 2014. Đáp lại lời kêu gọi của HÐGMVN, mỗi người Kitô hữu hãy chung sức cùng mọi người thiện tâm, kiến tạo nền VĂN HÓA SỰ SỐNG và VĂN MINH TÌNH THƯƠNG. Muốn làm được việc này, trước hết phải HIỆP THÔNG với Chúa, với Hội Thánh, để nhờ đó chúng ta HIỆP THÔNG với nhau h?u tích cực LOAN BÁO TIN MỪNG cho mọi người. Ð?c bi?t nam nay HÐGMVN ch?n l nam Tn phc m hĩa d?i s?ng gia dình. C?ng dồn gio x? Sao Mai luơn cng v?i cộng đoàn Dân Chúa Gio Ph?n s? nỗ lực canh tân tinh thần hiệp thông, hăng say làm chứng cho anh em lương dân nhận biết Chúa là TÌNH YÊU và là Đấng ban SỰ SỐNG. B?NG VI?C C? TH? CANH TN NGAY T? GIA ÐÌNH c?a mình.

Để chuẩn bị tâm hồn Mừng Chúa Giáng Sinh, chúng ta họp nhau trong Thánh Đường này để cử hành Sám Hối Cộng Đồng theo chủ đề c?a H?i Thnh Cơng Gio Vi?t Nam l: Tn Phc m Hĩa d?i sơng gia dình d du?c H?I Ð?NG GIM M?C Ð? RA d? TI?P N?I NAM Ð?C TIN; Ch? d? ny cung là nội dung c?a Thu chung HÐGM/VN gửi cộng đoàn Dân Chúa ngay 10/10/2013 v?a qua. Mua V?ng cũng là một thời điểm chứa chan ân sủng, thuận lợi cho việc HÒA GIẢI với Thiên Chúa và anh em đồng loại để nh?n được on tha th? c?a Cha.

Giờ đây, chúng ta khẩn khoản nài xin Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Như mảnh đất khô cằn mong trời đổ mưa, chúng ta dâng lên Ngài mọi nỗi ưu tư v vui mừng, hạnh phúc hay khổ đau, vi?c t?t v c? những thiếu sót tội lỗi. Xin Chúa đoái thương giúp chúng ta thành tâm sám hối và ban cho chúng ta sự BÌNH AN và NIỀM VUI khi có Chúa đồng hành trong cuộc sống. Mời Cộng đoàn đứng và cùng hát bài “TRỜI CAO”.

TRỜI CAO

ĐK: Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội. Trời cao, hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.

1- Trong đêm u tối chúng con mong ngày mau tới. Như nai đang khát ước mong mau tìm thấy suối. Chúa ơi, dừng cơn giận Chúa lại thôi. Chúa ơi, đoàn con đã hối tội rồi.

2- Thương xem dân Chúa đớn đau mây sầu che lối. Luôn mong Chiên thánh đến đây cải tạo thế giới, cứu dân đập tan xiềng xích tội nhơ. Chúa ơi, lòng nhân từ Chúa không bờ.

Đang khi Hát, LM CHỦ SỰ tiến ra.

Hát xong, LM Chủ Sự khai mạc:

* Nhân danh Cha v Con và Thánh Thần.

- CĐ: Amen.

* LM : Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, ở cùng tất cả anh chị em.

-CĐ : Và ở cùng Cha.

* LM Chủ Sự giới thiệu Chương Trình SÁM HỐI :

Anh Chị em thân mến,

Chúng ta đã bước vào những ngày cuối cùng của Mùa Vọng trong nam Ð?c Tin d? bu?c sang nam m?i Tn phc m hĩa d?i sơng gia dình tín h?u, H?i Thnh Việt Nam mời gọi mọi người:

- Quan tâm đến việc tăng trưởng và đào sâu mối hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, thể hiện qua mối tương quan hiệp nhất và yêu thương giữa các tín hữu với chủ chăn, cũng như giữa các tín hữu với nhau trong gio x? v trong m?i gia dình.

- Quan tâm đến trách nhiệm tham gia vào sứ vụ của Giáo Hội, mà tâm điểm là Loan Báo Tin Mừng bằng cả con người và cuộc đời của mình.

Trong buổi cử hành Sám Hối hom nay, chúng ta cùng lắng nghe Lời Chúa, và nhờ ánh sáng c?a Lời Chúa chung ta s? nhìn lại mối tương quan với Chúa, với Hội Thanh và với anh em. Đồng thời suy nghĩ dnh gi tu tu?ng, lời nói và lối sống của mình, xem mình đã thực sự là chứng nhân Tin Mừng hay chưa ? Cuối cùng chúng ta thành tâm sám hối, xin Chúa thứ tha và quyết tâm đón nhận Chúa Giê-su vào cuộc đời c?a mình, r?i nhờ Lời Chúa nuôi dưỡng, nh? Mình Máu Chúa ban sức mạnh, giúp mỗi người chung ta chu toàn sứ vụ làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ. Giờ đây chúng ta dâng lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, chúng con chúc tụng ngợi khen Chúa, vì yêu thương, Chúa đã sai NGÔI LỜI Nhập Thể để cứu độ và ở giữa chúng con. Cúi xin Chúa thương nhận lời chúng con, là những người yếu đuối đang thành tâm sám hối, để giải thoát chúng con khỏi vòng tội lỗi và được hưởng sự bình an của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con.

- CĐ : A-men.

I- PHỤNG VỤ LỜI CHÚA VÀ XÉT MÌNH :

Bài Đọc 1 : Is 7,10-14

NHD ( Mời Cộng Đoàn ngồi và đọc) :

Năm 734 trước Công Nguyên, A-khát, vua Giuđa từ chối việc liên minh với vua nước Đa-mát và Sa-ma-ri để chống lại đế quốc Át-sua. Vì thế họ tổ chức cuộc chiến chống Giê-ru-sa-lem, nhằm triệt hạ triều đại vua Giu-đa. Vào lúc mối đe dọa đến gần, Thiên Chúa đã dùng ngôn sứ I-sai-a để kêu gọi dân tin tưởng vào lời hứa của Chúa. Nhưng khi ngôn sứ đề nghị vua xin Chúa một dấu hiệu về sự có mặt và hành động của Chúa, thì vua tránh khéo, tỏ ra không tin cậy Chúa sẽ giúp mình. Cuối cùng, nhà vua đã cầu viện với At-sua, không thèm liên minh với Chúa, để chịu làm chư hầu một vua phàm trần.

* Một người đọc :

Lời Chúa trong sách Ngôn sứ I-SAI-A :

Khi ấy, Đức Chúa sai ngôn sứ I-sai-a nói với vua A-khát rằng: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”.

Vua A-khát trả lời “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Ông I-sai-a bèn nói: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít, các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.

ĐÓ LÀ LỜI CHÚA.

ĐÁP CA : Ca Đoàn hát : CON HƯỚNG TÂM HỒN LÊN.

Bài Đọc 2 : Rm 1,1-7

NHD: Thánh Phao-lô tông đồ đã cho chúng ta một tấm gương trong việc giáo dục đức tin. Ngài đã củng cố đức tin cho các tín hữu thành Rô-ma và khẳng định trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng của Ngài và của mỗi người tín hữu.

Chúa Giê-su xuống trần là do Chúa Cha sai đi với s? m?ng loan bo Tin M?ng c?u d? tr?n gian. Mỗi người tín hữu, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, cũng được Chúa Giê-su sai đi như thế: “Các con hãy nên trọn lành; Các con là muối, là men, là ánh sáng cho đời; Các con hãy loan báo Tin Mừng cho mọi dân mọi nước… để mọi người nhận biết Tình Yêu của Chúa và được hu?ng ơn Cứu độ”.

M?t ngu?i d?c:

Khởi đầu thư của Thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma :

Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su; tôi được gọi là tông đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Xét như một người phàm, Đức Gie-su Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.

Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông đồ, làm cho hết th?y các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu Danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.

Kính gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi là dân thánh.

Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.

ĐÓ LÀ LỜI CHÚA.

+ Tung hô Tin Mừng : Al-le-lu-ia, Al-le-lu-ia…. Lời Chúa sáng soi con đường đi…

1- Tin Mừng : Mt 1,18-24

* LM Chủ sự : Chúa ở cùng anh chị em

- CĐ : Và ở cùng Cha.

* LM Chủ sự :

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mát-thêu

- CĐ : Lạy Chúa, vinh danh Chúa.

Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì Người Con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh Con Trai và ông phải đặt tên cho Con Trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một Con Trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Em-ma-nu-el, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà mình.

ĐÓ LÀ LỜI CHÚA.

* LM Chủ sự Giảng – Giảng xong, mời gọi cộng đoàn suy nghĩ và xét mình :

* Linh mục Chủ sự :

Khi cử hành Năm Tn Phc m hĩa, Giáo Hội Việt Nam mong muốn các tín hữu ý thức tầm quan trọng của nền tảng Tin Mừng và các giáo huấn của Giáo Hội, ý thức trách nhiệm phải dạy dỗ các thế hệ trẻ Ki-tô giáo không chỉ về kiến thức nói chung, mà cả về nhân bản cũng như về đức tin. Đồng thời biết sống tinh thần HIỆP THÔNG và chu toàn SỨ VỤ loan báo Tin Mừng.

Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, qua sứ thần, Chúa đã nói với Thánh Giu-se trong giấc ngủ. Khi tỉnh giấc và biết được ý Chúa muốn, ngài đã mau mắn loại bỏ ý riêng mình để thực thi ý Chúa. Thật vậy, để có HIỆP THÔNG cần phải có đối thoại và sự đáp trả. Vậy giờ đây chúng ta cùng nhau xét mình về các mối hiệp thông với Chúa, với Giáo Hội, với anh em, đồng thời khiêm tốn nhìn lại sự đáp trả, cách xử sự của mình đã thực sự có “Chúa ở cùng chúng ta” hay không ?

5- XÉT MÌNH :

(Một người đọc):

+ HIỆP THÔNG VỚI CHÚA :

Vì yêu thương, Chúa sẵn sàng từ bỏ trời cao để xuống thế làm người, hầu cứu độ loài người du?c Chúa yêu thương. Chúa thương chúng ta nên Ngài mới đến; Chúa thương chúng ta qua cuộc đời rao giảng; Chúa thương chúng ta qua hành trình thập giá, qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển; Chúa thương chúng ta qua vi?c thi?t l?p Bí tích Thánh Thể để mỗi người chúng ta cĩ th? k?t hi?p với Chúa mỗi ngày; Chúa thương chúng ta nên d ban Chúa Thánh Thần đến đổi mới, canh tân, thánh hóa, hướng dẫn và soi sáng chúng ta trong cu?c đời làm con Thien Chúa. Chúa chúng ta là thế đó. Còn chúng ta hãy nhìn lại thái độ của mình.

(Một người đọc chậm và tâm tình, sau mỗi câu ngưng một chút rồi đọc tiếp) :

* Tôi đi lễ Chúa Nhật vì lòng yêu mến Chúa hay vì sợ phạm tội trọng và mất linh hồn ?

* Tôi có tự nguyện h?ng ngy đọc kinh sáng và kinh tối chung với gia đình không ?

* Tôi có cảm thấy được kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể qua việc rước lễ là di?u cần thiết cho đức tin và gia tăng lòng yêu mến Chúa không ?

* Khi đã trót phạm tội, tôi có mau mắn trở về làm hòa với Chúa qua bí tích giải tội hay chưa ? Hay tôi vẫn ù lì sống chung với tội l?i ?

* Tôi có siêng năng tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa và các Giáo Huấn của Hội thánh để nhận ra ý Chúa muốn tôi phải làm gì không ?

* Tôi có tích cực cộng tác với Giáo Hội trong công cu?c loan báo Tin Mừng cho tha nhân chưa ?

“Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con tuân giữ huấn lệnh Chúa truyền vì lòng yeu mến Chúa, hơn là để được Chúa ban thưởng hạnh phúc thiên đàng hay vì sợ bị phạt trong hỏa ngục đời sau. Xin giúp chúng Con biết sống đời cầu nguyện, siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là siêng năng rước lễ để lòng mến Chúa của chúng con ngày càng them mật thiết và thâm sâu hơn”.

(Một người đọc) :

+ HIỆP THÔNG VỚI THA NHÂN :

Thánh Gio-an tông đồ đã viết: Nếu ai nói “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1 Ga 4,20).

Chúa dạy chúng ta phải sống đạo, chứ không chỉ là giữ đạo. Sống đạo là những hành động cụ thể như : cúi xuống để nâng dậy những anh chị em khốn cùng, bất hạnh, đói rét… Là chấp nhận hao mòn sức lực, thời giờ, tiền bạc để hiến thân giúp đỡ tha nhân như chính Chúa đã hiến thân cho ta… Là sẵn sàng tha thứ để được thứ tha, là đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, là sẵn sàng yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù…

Còn thái độ của chúng ta thế nào ?

(Một người đọc chậm và tâm tình):

• Có lẽ trong chúng ta không ai nghĩ đến việc hãm hại anh em mình, nhưng thực ra: Bằng những sự đố kỵ, cố chấp, không bao dung; Bằng những lời nói không tốt về người khác, chúng ta đã xúc phạm đến tha nhân, gây đổ vỡ trong tình yêu, trong những mối tương thân tương ái và làm mất bình an trong lòng người khác.

• Trong gia đình, nền tảng và sức sống chính là Tình Yêu. Tình yêu ấy đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình để phục vụ cho nhau, để yêu thương và kính trọng nhau. Con cái phải thảo hiếu với cha mẹ – Cha mẹ ph?i hết lòng yêu thương và quan tam giáo dục con cái nên người – Chúng ta có cùng cộng tác để xây dựng gia đình trở thành một mái ấm yêu thương hay mạnh ai nấy sống, làm cho gia đình trở thành m?t quán trọ, thành hoả ngục cho nhau ?

• Tâm hồn của các trẻ em như tờ giấy trắng, như sáp ong mềm sẵn sàng khắc ghi và khó xoá nhoà những gì mắt các em nhìn thấy, tai cc em nghe người lớn nói năng, cư xử khong t?t với nhau. Vậy trong gia đình tôi hi?n nay có x?y ra những cãi v? nhau l?n tiếng hay không ? Co những cau chửi thề t? do thốt ra hay không ?

• Đứng trước các khó khăn của gia đình, trước các nạn nhân bị thiên tai, trước những người nghèo khổ và những mảnh đời bất hạnh khác… chúng ta có thái độ nào: sẵn sàng giúp đỡ, giang rộng đôi tay để phụ giúp hay quay lưng lại và nh?m m?t làm ngơ ?

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thực hành trọn vẹn l?i Chúa đã dạy chúng con: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”, bằng cách mở rộng tình thương trên mọi người, nhất là những người đau khổ. Xin Chúa cho những ai trong gia dình chng con đang sống trong s? hận thù chia rẽ biết sẵn sàng b? qua mọi hiềm khích, d? giao hòa với nhau và trở nên nhịp cầu yêu thương đem bình an đến cho mọi người chung quanh.

(Một người đọc) :

+ ĐỐI VỚI BẢN THÂN

Để có đối thoại thực sự, chúng ta phải biết :

- lắng nghe cách chân thành,

- quan tâm lo lắng đến hạnh phúc của người khác,

- tránh áp đặt ý muốn của mình trên người khác,

- nhất là thái độ sống đức tin của mình đối với Chúa: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

R?i chúng ta cũng s? dễ dàng đánh mất sự đối thoại khi :

- không biết lắng nghe tha nhan,

- khư khư giữ y rieng va lập trường riêng của mình,

- bắt bẻ từng câu, từng lời của người mình khong ua,

- không mở rộng lòng để đón nhận ngu?i khc.

Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại mình :

(Một người đọc chậm và tâm tình):

+ Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống đạo, về việc rao giảng Tin Mừng ra sao ? Tôi phải làm gì : sẵn sàng tham dự các lớp học về Kinh Thánh, về Bí Tích, về Phụng vụ hay tôi dửng dưng nghĩ rằng : các lớp đó chỉ dành riêng cho tu sĩ mà thôi ? Tôi có biết lắng nghe Chúa nói v?i mình hay chưa ?

+ Mọi hành động của tôi : làm ăn, buôn bán, việc đạo, việc đời… co nhằm mục đích làm sáng Danh Chúa, đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho bản thân và tha nhân; hay chỉ nhằm thoả mãn tính ích kỷ, tự cao tự đại c?a mình ?

+ Tôi đang sống trong bình an và niềm vui thực sự của Chúa, hay đang đi vào ngõ cụt với các tệ nạn xã hội, với những đam mê thiếu lành mạnh, với những đòi hỏi của sự đua đòi, ăn chơi lang phí… ? Tôi đang thi hành ý Chúa hay dang dịi Chúa ph?i làm cho “ý tôi được thể hiện”?

Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho con biết nhận ra tình thương của Chúa Cha qua những lời dạy của Chúa Con, để con cham ch? tìm hiểu về Chúa nhiều hơn, để con sẵn sàng tham gia các sinh hoạt trong Giáo Xứ, để con biết sử dụng thời gian Chúa ban m?t cch hữu ích và mang l?i k?t qu? t?t d?p.

(NHD): Mời cộng đoàn đứng.

Ca đoàn hát : NAY CON TRỞ VỀ

a) Con nay trở về, trở về cùng Chúa, Chúa ơi. Con nay trở về, lòng sầu thống hối khôn nguôi. Muốn khóc cho một niềm tin, đã trót đôi phen ngả nghiêng, bước chân hoang đàng ngưng bến yêu thương tình đáp tình.

ĐK: Ngài là Thiên Chúa rất nhân hậu và hay tha thứ. Ngài dựng nên con không khi nào mặc con thoái hư. Vì là buị đất con phải vương tục lụy yếu đuối. Dẫn con trên đường lành, thủy chung ơn nghĩa muôn đời.

b) Con không trở về cùng nhiều hy lễ nghênh ngang. Con không trở về, lòng còn bối rối hoang mang. Quyết chí ăn năn chừa lỗi, tránh hết nguy cơ lạc lối, thắp hương chân thành đây trái tim con tận hiến Ngài.

6- LỜI NGUYỆN CỘNG ĐOÀN :

+ LM Chủ sự :

Anh chị em thân mến,

Giờ đây chúng ta khẩn khoản dâng lên Chúa tâm tình sám hối và những quyết tâm tích cực LOAN BÁO TIN MỪNG bằng những việc bác ái cụ thể t? noi gia dình trong Mùa Giáng Sinh năm nay. (Sau mỗi câu xướng xin Cộng Đoàn lập lại: Lạy Chúa, xin mau đến và ban niềm vui ơn cứu độ cho chúng con).

(Một người xướng):

1- Lạy Chúa, xin mau đến và hãy biến những lao nhọc vất vả, những đau khổ hoạn nạn trong cuộc sống hằng ngày trở thành niềm vui, và là phương thế để chúng con gặp gỡ Chúa. Lạy Chúa, xin mau đến và ban niềm vui ơn cứu độ cho chúng con.

CĐ : Lạy Chúa, xin mau đến và ban niềm vui ơn cứu độ cho chúng con.

2- Lạy Chúa, nhiều người trong chúng con còn coi tiền bạc, danh vọng, sắc dục là nguồn vui của mình thay vì phải vui luôn trong Chúa. Xin Chúa mau đến ban niềm vui và sự bình an trong tâm hồn chúng con.

CĐ : Lạy Chúa, xin mau đến và ban niềm vui ơn cứu độ cho chúng con.

3- Lạy Chúa xin cho chúng con biết thể hiện niềm vui trong thái độ, cử chỉ khi tiếp xúc với tha nhân. Xin cho chúng con trở nên khí cụ BÌNH AN của Chúa cho mọi người, nhờ đó họ cũng được lãnh nhận niềm vui ơn cứu độ của Chúa

CĐ : Lạy Chúa, xin mau đến và ban niềm vui ơn cứu độ cho chúng con.

4- Lạy Chúa, xin cho mỗi gia đình trong Giáo Xứ chúng con biết sống yêu thương, hoà thuận giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái, giữa anh chị em với nhau. Nhờ đó anh em lương dân nhận biết chúng con thực sự là chứng nhân của Tình yêu Chúa.

CĐ : Lạy Chúa, xin mau đến và ban niềm vui ơn cứu độ cho chúng con.

+ LM Chủ sự:

Lạy Chúa, chúng con có sứ mạng công bố cho mọi người biết rằng: Con Chúa đã xuống thế làm người vì yêu thương nhân loại. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con biết dùng đời sống bác ái yêu thương mà minh chứng cho mọi người thấy rằng: Chúa muốn cứu rỗi hết mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

- CĐ : Amen

PHẦN HAI: NGHI THỨC SÁM HỐI

1- THÚ TỘI CHUNG :

* NHD : Sau khi đã suy nghĩ và xét mình, chúng ta sang phần NGHI THỨC SÁM HỐI. Trước hết, chúng ta hãy nhắc lại lòng nhân hậu của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Sau đó thú nhận tội lỗi với Chúa, với Giáo Hội và với anh em, để xứng đáng lãnh nhận lòng thương xót của Chúa.

* Lm Chủ sự xướng : “TÔI THÚ NHẬN CÙNG ..."

2- KINH CẦU SÁM HỐI :

NHD : Chúng ta hãy cầu xin Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta cầu bầu cho chúng ta trước Nhan Thánh Cha của Ngài, cũng là Cha của chúng ta. Ngõ hầu chúng ta được ơn tha thứ và bình an. (Sau mỗi câu xướng của Cha chủ sự, chúng ta đáp lại : XIN CHÚA THƯƠNG XÓT CHÚNG CON).

* Lm : Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã giáng sinh trong cảnh khó nghèo, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.

- CĐ : Xin Chúa thương xót chúng con.

* Lm : Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã tìm kiếm con chiên lạc và vui vẻ vác nó trên vai trở về. Xin Chúa thương xót chúng con.

- CĐ : Xin Chúa thương xót chúng con.

* Lm : Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã đến để kêu gọi và cứu chữa những người tội lỗi. Xin Chúa thương xót chúng con.

- CĐ : Xin Chúa thương xót chúng con.

* Lm : Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã mở cửa thiên đàng cho người trộm lành kêu xin Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.

- CĐ : Xin Chúa thương xót chúng con.

3- KINH LẠY CHA :

* Lm Chủ sự :

Con Thiên Chúa làm người để chúng ta được làm Con Thiên Chúa. Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Chính Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện để chúng ta biết thực thi ý Chúa, biết tha thứ cho nhau; nhờ đó chúng ta sống với Chúa trong tình con thảo, sống với nhau trong tình yêu thương, cùng nhau xây dựng một cuộc sống chan hòa yêu thương. Vậy chúng ta giang tay và cùng đọc lời kinh mà Chúa Giê-su đã dạy.

* Lm xướng : LẠY CHA CHÚNG CON ….

4- LỜI TỔNG NGUYỆN KẾT THÚC :

* Lm Chủ Sự : Chúng ta cùng cầu nguyện,

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu : Chúa không để nhân loại phải chết. Nhưng đã dủ thương sai CON MỘT giáng trần cứu độ chúng con. Xin Chúa đoái thương chấp nhận tâm tình SÁM HỐI của chúng con hôm nay, và ban ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần, để khi hân hoan đón mừng ngày Con Chúa giáng sinh làm người, chúng con biết tích cực LÀM CHỨNG cho Tin Mừng BÌNH AN của Chúa, và được hưởng phúc trường sinh khi Con Chúa trở lại trong uy quyền rực rỡ. Chúng con c?u xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con - CĐ : Amen.

(LM Chủ sự nhắc nhở mấy điều về hiệu quả của NGHI THÚC SÁM HỐI, sau đó ban phép lành kết thúc) :

5- PHÉP LÀNH :

* LM Chủ Sự :

XIN Thiên Chúa TOÀN NĂNG LÀ CHÚA CHA, CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN THƯƠNG XÓT, THA TỘI, VÀ CHÚC PHÚC LÀNH CHO ANH CHỊ EM.

- CĐ : Amen

 
Lễ đêm Giáng Sinh : Tin mừng cho toàn dân
Lm. Đan Vinh
11:44 22/12/2013
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14.

TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 2,1-14.

(1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (3) Ai nấy phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. (9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

2. Ý CHÍNH:

Bài tin mừng hôm nay nhằm trình bày việc Chúa Giê-su giáng sinh là một tin vui cho nhân loại. Ta có thể chia làm 2 phần chính như sau:

- Phần thứ nhất (1-7): Cuộc kê khai nhân khẩu là nguyên nhân khiến hai ông bà Giu-se Ma-ri-a phải lên đường trở về Giê-ru-sa-lem là quê hương của vua Đa-vít. Tại đây bà Ma-ri-a tới ngày sinh. Bà đã phải sinh con trong cảnh nghèo khó tột cùng vì hai ông bà quá nghèo không tìm được chỗ nơi nhà trọ.

- Phần thứ hai (c. 8-14): Một sứ thần của Chúa đã hiện đến báo tin vui cho các mục đồng ở ngoại ô Bê-lem. Sứ thần cũng cho biết dấu chỉ để họ nhận ra Đấng Thiên Sai là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Rồi có rất nhiều thiên thần đến hợp lời ngợi khen Thiên Chúa.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1 : + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rô-ma cai trị từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).

- C 2 : + “thành Vua Đa-vít”: Khi gán tước hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bê-lem (x. Mt 2,6), Tin Mừng dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).

- C 5 : + “Người đã đính hôn với ông Giu-se là bà Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).

- C 7 : + Bà sinh con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng” chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Lu-ca đề cập đến “con trai đầu lòng” ở đây là muốn nhắc đến điều luật Mô-sê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho Chúa”(x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm để chuộc lại con, sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi Giê-su (x. Lc 2,23). + Không tìm được chỗ trong nhà trọ: Các chủ quán từ chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ đón phụ nữ mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc kinh doanh của họ!

- C 11 : + Đấng Ki-tô Đức Chúa: Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Quyền Chúa Tể và Vương Đế của Người được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2,36).

- C 14 : + Bình an dưới thế”: Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6 ; Mk 5,4).\

4. HỎI ĐÁP: 1) Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CHÚA CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA:

Ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) rất yêu quí những người nghèo khổ bệnh tật. Mỗi ngày chàng ta bỏ nhiều thời giờ đến nhà thăm họ và sẵn sàng giúp đỡ những ai cần được trợ giúp. Có điều là hoàng tử thấy dân chúng vẫn dửng dưng thờ ơ khi chàng đến với họ. Rồi hoàng tử để tâm tìm hiểu lý do thì được biết sở dĩ dân chúng không mấy phấn khởi khi gặp gỡ chàng vì chàng không đáp ứng được các nhu cầu thực tế của họ. Từ đó hoàng tử A-lếch-xích âm thầm học hỏi chuẩn bị giúp dân một cách thiết thực hơn.

Sau một thời gian, một hôm dân chúng lại thấy một người ăn mặc đơn sơ đến thăm họ. Anh ta thuê một túp lều trong hẻm sâu làm nơi trú ngụ. Hàng ngày anh đến từng nhà và khám bệnh bốc thuốc miễn phí chữa bệnh cho các người nghèo. Chẳng bao lâu sau, anh ta gây được thiện cảm của mọi người chung quanh. Uy tín anh ngày một gia tăng khiến nhiều người nghe tiếng tìm đến nhờ anh giúp đỡ giải quyết những khó khăn họ đang gặp phải. Hôm nay anh dàn xếp được một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Hôm sau, anh lại làm cho một đôi vợ chồng sắp ly hôn làm hòa với nhau và yêu thương nhau như trước. Anh động viên mọi người tương trợ lẫn nhau và nhờ đó ai cũng mến anh vì anh đã hy sinh giúp đỡ cho họ.

Thật ra ông thầy lang ấy chính là hoàng tử A-lếch-xít. Hoàng tử đã rời bỏ cung điện phú quí, đến sống giữa đám dân nghèo đói dốt nát, và sống hòa mình với họ. Về nhau khi biết thầy lang chính là hòang tử A-lếch-xít thì dân chúng càng quý trọng hòang tử hơn rất nhiều.

Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện trên là hình ảnh của Đức Giê-su Đấng Cứu Thế. Người đã giáng sinh trong cảnh nghèo hèn để chia sẻ cảnh nghèo khó với lòai người chúng ta. Người đã yêu thương chúng ta và tình nguyện xuống trần gian để ban cho chúng ta sự sống đời đời.

2) NGƯỜI VỐN DĨ VÔ TỘI NHƯNG ĐÃ TRỞ THÀNH TỘI NHÂN VÌ CHÚNG TA:

Một vị quan lớn gửi thiệp mời các người thân quen đến dự tiệc mừng sinh nhật thất tuần của ông. Tất cả quan khách đến dự buổi liên hoan đều ăn mặc sang trọng và có xe hơi đưa đón. Một vị quan cao tuổi là bạn chí thân của chủ tiệc cũng đến dự. Do già yếu nên khi bước xuống xe, ông bị trượt chân té xuống một vũng nước dơ khiến các gia nhân gần đó cười ồ lên. Trước tình trạng quần áo bị hoen ố nước dơ, vị quan cảm thấy xấu hổ trước trăm con mắt nhạo cười và quyết định lên xe ra về. Các gia nhân hiện diện đã năn hỉ hết cách mà vị quan kia nhất định không vào nhà dự tiệc. Bấy giờ chủ nhà được gia nhân cấp báo liền vội vàng chạy tới. Khi ngang qua vũng nước, ông lại cố tình té ngã vào vũng nước và quần áo ông cũng vấy bẩn không khác vị quan khách kia bao nhiêu. Lần này bọn gia nhân không ai dám cười nữa. Sau đó chủ nhà đã nắm tay vị khách quý kia mời vào phòng dự tiệc, và ông này không còn viện lý do gì để từ chối nữa.

Việc làm của chủ nhà trong câu chuyện trên là hành động tế nhị và đầy tình người, khiến chúng ta hiểu được phần nào lý do tại sao Đức Giê-su vốn là Con Thiên Chúa mà lại hạ mình xuống làm một người phàm. Người muốn trở nên giống như chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta.

3. SUY NIỆM:

1) Đêm thánh vô cùng:

- Vào dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta lại được nghe những bài hát du dương thánh thót có khả năng đánh động lòng người, nhất là bài SAI-LÂN NAI, HÔ-LI NAI (Silent Night, Holy Night), lời Việt là “Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng”. Quả thực, đêm Giáng Sinh thật là một Đêm thiêng liêng, vì là giờ phút thiêng liêng, đất trời hòa hợp nhờ việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mùa Vọng là thời gian trông mong Đấng Cứu Thế mau đến. Hôm nay, Thiên Chúa đã đáp lại sự mong mỏi của lòai người bằng việc sai Con Một Ngài xuống thế làm người, đầu thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, trở thành một người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ không có tội.

- Làm sao hiểu được chuyện đó ? Làm sao Thiên Chúa lại trở thành một phàm nhân yếu đuối nghèo nàn ? Làm sao Đấng Vô Cùng lại có thể trở thành một con người hữu hạn ? Làm sao Đấng siêu thời gian lại đi vào trong thời gian và chịu sự chi phối của thời gian ? Làm sao Đấng Tạo Hóa hằng sống lại phải trở thành một loài thụ tạo hay chết ? Tóm lại: Tại sao Thiên Chúa lại giáng sinh làm người ? Chúng ta chỉ có thể trả lời rằng: Tất cả là do Tinh Thương.

2) Giáng Sinh là lễ của Tình Thương:

- Vì yêu thương loài người chúng ta và vì muốn cứu độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã xuống thế để ở cùng chúng ta, để dạy loài người chúng ta nhận biết Đấng tạo dựng nên mình và mở ra cho loài người một con đường sống, để về trời hưởng hạnh phúc với Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thể hiện tình thương của Thiên Chúa bằng việc thiết lập một Nước Trời là Hội Thánh, và đã chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho loài người, rồi sống lại để trả lại sự sống cho loài người. Tóm lại đêm nay kỷ niệm “Con Thiên Chúa giáng trần làm con loài người, để con loài người được nên Con Thiên Chúa”.

- Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Tin mừng trong ngày lễ Giáng Sinh hôm nay công bố sứ điệp: Thiên Chúa yêu thương loài người nên đã sai Con Một xuống thế để công bố cho loài người biết tình thương bao la của Thiên Chúa. Người muốn chúng ta đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau.

3) Dấu chỉ của Đấng Thiên Sai là sự nghèo khó:

- Chúa Giáng Sinh là một Tin mừng cho mọi người thiện tâm trên trần gian. Dấu chỉ để các mục đồng nhận ra Người là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.

- Các mục đồng sau khi được thiên thần báo tin đã lập tức lên đường tìm kiếm Hài Nhi và cuối cùng đã gặp được Người. Rồi họ lại đi loan Tin mừng cho kẻ khác. Đấng Cứu Thế đã chọn mang thân phận nghèo hèn đến với nhân loại, để chia sớt nỗi khổ đau với những người nghèo.

4) Chúng ta phải làm gì để chứng tỏ đức tin Đức Giê-su thật là Đấng Thiên Sai? :

Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đến với chúng ta qua những dấu chỉ khiêm tốn và nghèo hèn. Người trở thành một tấm bánh với vẻ bề ngoài tầm thường, Người hiện thân trong những kẻ tàn tật què quặt đui mù, Người đến trong những người nghèo khó bị người đời hắt hủi bỏ rơi.

- Trước dấu chỉ nghèo khó này, các chủ quán giàu có ở Bê-lem đã xua đuổi hai ông bà Giu-se Ma-ri-a khỏi nhà trọ của họ đang khi các mục đồng nghèo hèn lại vui mừng đón nhận Tin mừng về sự giáng sinh của Người.

- Đây là lúc chúng ta phải xác định lập trường, để biết mình thuộc hàng người nào: Là chủ quán giàu có khi thiếu lòng từ tâm xua đuổi người nghèo ? Hay là các mục đồng tuy nghèo khó, nhưng sẵn sàng đón nhận Tin mừng Chúa Giáng Sinh và quyết tâm đi tìm kiếm Chúa ?

4. THẢO LUẬN: 1) Giáng Sinh là lễ của tình thương. Vậy bạn đã làm gì để đáp lại tình thương của Thiên Chúa trong những ngày qua ? 2) Tặng quà là một hình thức biểu lộ tình thương cụ thể, vậy trong mùa Giáng Sinh này bạn sẽ tặng gì cho những người thân trong gia đình, những bè bạn, những người làm ơn cho bạn suốt trong năm qua, và hết những ai nghèo khổ cô đơn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị… là hiện thân của Chúa Giê-su ?

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU, Cách đây hơn 20 thế kỷ, Chúa đã giáng sinh làm người trong âm thầm lặng lẽ giữa đêm khuya, khi người đời đang chìm trong giấc điệp. Chúa đã đến với chúng con để ban ơn cứu độ cho chúng con. Chúa đến để dạy loài người con đường lên trời là đường chật hẹp, gai chông và ít người chịu đi, nhưng lại là đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Chúa đến để nối kết mọi người trên trần gian lại với nhau, trở thành anh chị em của nhau vì cùng có chung một Thiên Chúa là Cha. Hôm nay lại bắt đầu một mùa Giáng Sinh nữa. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người nô nức mừng Chúa giáng sinh trong những bữa tiệc vui vẻ sang trọng, rượu thịt ê hề. Nhưng những người lữ hành năm xưa vẫn còn đang lỡ bước và đang tiếp tục bị xua đuổi ra đầu đường xó chợ trong đêm nay, vì các chủ quán năm xưa vẫn còn đó: Những ai đi xe hơi và ăn mặc bảnh bao sẽ được chủ nhà ân cần đón tiếp vào trong khách sạn sang trọng, còn người nghèo khó thì lại bị đuổi ra lề đường ngủ qua đêm !

- LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết luôn nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó, những cụ già neo đơn không ai chăm sóc, những trẻ em mồ côi bụi đời… để chúng con ân cần thăm hỏi và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ giúp đỡ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ trở nên môn đệ đích thực của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH - HHTM
 
Chia sẻ niềm vui cứu độ
Lm. Đan Vinh
11:46 22/12/2013


HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ GIÁNG SINH ABC – LỄ RẠNG ĐÔNG

Is 62,11-12; Tt 2,4-7 ; Lc 2,15-20.

CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Lc 2,15-20

(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng lễ Rạng Đông nối tiếp Tin Mừng lễ Nửa Đêm mừng Giáng Sinh cho thấy thái độ của các mục đồng sau khi được sứ thần báo tin sự ra đời của Đấng Cứu Thế, đã vội vã lên đường đến Bê-lem, để coi xem sự việc xảy ra. Họ đã sớm tìm thấy Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ và có hai ông bà Giu-se Ma-ri-a ở bên. Rồi họ thuật lại mọi sự đúng theo những điều đã biết. Cuối cùng họ vui vẻ trở về nhà, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa, đã ban Đấng Cứu Thế cho loài người.

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hai Nhi này” (Lc 2,16-17).

2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁNG SINH: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA :

Vào thời trung cổ, ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) hoàng tử có một tình thương rất đặc biệt dành cho những người nghèo khổ. Hầu như ngày nào hoàng tử cũng dành ra buổi chiều để đi đến các xóm nghèo và ân cần thăm hỏi giúp đỡ những ai gặp cảnh khó khăn cơ cực. Tuy vậy, hoàng tử rất ngạc nhiên khi thấy dân chúng tỏ vẻ thờ ơ khi thấy chàng xuất hiện. Một hôm hoàng tử đến gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan để xin chỉ giáo phương cách chinh phục tình cảm của dân chúng.

Một thời gian khá lâu sau đó người ta không thấy hoàng tử xuất hiện đi thăm người nghèo. Nhưng rồi một ngày kia, dân chúng lại thấy một người tuổi trung niên đến thăm khu xóm nghèo. Khác với hoàng tử trước kia ăn mặc sang trọng, còn người này mặc áo quần màu trắng đơn sơ giống như một thầy thuốc. Ông ta thuê một căn nhà bình thường để ở. Rồi hàng ngày từ sáng sớm đã ra khỏi nhà, tay xách một chiếc cặp đựng các dụng cụ y tế và thuốc men. Ông ta đến thăm các gia đình có người đau nặng để khám bệnh và phát thuốc miễn phí chữa bệnh. Ông thầy thuốc này có tài chữa bệnh, nên rất nhiều bệnh nhân bị những chứng nan y nhưng chỉ được ông chữa vài lần là khỏi hẳn. Không bao lâu, ông ta đã chinh phục được cảm tình quí mến của mọi người từ già đến trẻ trong vùng, điều mà trước đó hoàng tử A-lếch-xít không sao đạt được. Mỗi khi thấy ông đến là mọi người đều bu lại chung quanh để nhờ cậy sự trợ giúp. Hôm thì ông giàn hòa được hai người đang tranh cãi ẩu đả nhau. Hôm khác ông lại hòa giải được đôi vợ chồng ghét bỏ muốn chia tay nhau. Ông cũng hòa mình chơi chung và khuyên dạy các trẻ em ngỗ nghịch và chúng đã dần dần trở nên ngoan ngoãn dễ dạy và học hành tấn tới hơn.

Thật ra người thầy thuốc đó không ai khác hơn là chính hoàng tử A-lếch-xít. Sau khi gặp vị ẩn sĩ, và nghe lời khuyên của vị này, hoàng tử đã dành thời giờ đi học nghề thầy thuốc mười năm. Sau khi thành tài, hoàng tử đã đến sống giữa xóm lao động nghèo khó, trở thành một người như họ và yêu thương phục vụ họ cách tận tình. Chính tình thương kèm theo sự khiêm hạ và hy sinh bản thân của hoàng tử đã đem lại kết quả tốt đẹp: Hoàng tử đã chinh phục được tình cảm yêu mến kính trọng của thần dân, đặc biệt là những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh.

2) “LỄ NO-EN THỜI THƠ ẤU”:

Trong quyển tự thuật “Đứa Trẻ Duy Nhất”, một nhà văn Ai-len tên là PHĂNG Ô CON-NO (Frank O’ Connor) đã tự thuật câu chuyện về lễ No-en trong cuộc đời ông như sau:

Khi còn bé, vào một ngày trước lễ Giáng Sinh, Ô CON-NO được ông già No-en tặng cho một món đồ chơi chạy bằng giây cót. Thế rồi vào chiều ngày lễ hôm ấy, cậu bé Con-no theo mẹ đi đến một tu viện ở gần nhà. Cậu bé mang theo món quà duy nhất mới nhận được để khoe với mấy nữ tu thân thiết với gia đình cậu.

Một nữ tu dẫn cậu đến viếng máng cỏ dựng trong nhà nguyện của tu viện. Nhì vào hang đá, cậu bé suy nghĩ khi thấy Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ mà không có món quà nào bên cạnh cả. Cậu nghĩ có lẽ bé Giê-su đang buồn vì không được ai tặng quà. Thế là cậu quay lại hỏi vị nữ tu tại sao Chúa Hài Đồng lại không có món quà nào cả. Bấy giờ nữ tu kia trả lời là: “Vì quá nghèo, nên Mẹ Ma-ri-a không có tiền mua quà cho con trẻ mới sinh”.

Câu trả lời ấy tuy giải tỏa được phần nào thắc mắc của cậu, nhưng cậu lại nghĩ: “Mẹ của mình cũng nghèo mà tại sao dịp Giáng Sinh nào cũng dành được tiền mua quà tặng mình ?” Món quà có khi là một hộp bút chì màu, một chiếc cặp da… Rồi lòng quảng đại chợt dâng lên trong lòng, cậu bé liền cầm lấy món đồ chơi mang theo, leo rào vào trong hang đá đặt món quà kia vào giữa đôi tay đang mở rộng của trẻ Giê-su. Cậu còn ân cần hướng dẫn cách lên giây cót, sợ rằng trẻ Giê-su do quá nhỏ sẽ không biết cách sử dụng thành thạo món quà cậu mới trao tặng.

3. SUY NIỆM:

Câu chuyện trên cho thấy lễ Giáng Sinh là một cơ hội để mỗi người chúng ta bày tỏ sự quan tâm đối với tha nhân. Chính Thiên Chúa đã nêu gương bằng cách ban Con Một cho nhân loại. Con Thiên Chúa không đến trong quyền lực và giàu sang, nhưng trong sự yếu đuối nghèo khó cùng cực. Người đến trong dáng vẻ yếu đuối để giúp chúng ta thêm tự tin vào tài năng Chúa ban và sử dụng chúng theo ý Chúa muốn. Người đến trong nghèo khó để an ủi và mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ cho những kẻ nghèo đang sống chung quanh chúng ta.

Giáng Sinh là một ngày đại lễ, giúp chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và hành động noi gương người. Người khuyến khích chúng ta mở rộng con tim và vòng tay trước những người đau khổ, nghèo đói và bất hạnh… Nhờ đó, chúng ta sẽ có bình an, niềm vui và sẽ quảng đại chia sẻ niềm vui ấy cho những người chung quanh noi gương các mục đồng ở Bê-lem xưa.

1) Về tục lệ làm hang đá Be-lem: Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta thường thấy nhiều hang đá tại nhà thờ hay tư gia. Trong hang đá có Hài Nhi Giê-su nằm trong máng cỏ, bên cạnh là Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đang quì thờ lạy. Cũng có mấy con bò và lừa đang quì gần bên thở hơi ấm cho Hài Nhi mới sinh. Việc dựng các hang đá như trên đã có từ thế kỷ thế 13. Vào năm 1223, thánh Phan-xi-cô Năm Dấu, lúc đó đang là bề trên một tu viện bên Ý. Ngài cho dọn một hang đá trong vườn cây ở gần Gờ-réc-xi-ô. Bên trong hang đá, ngài đặt tượng Hài Nhi Giê-su nằm trên máng cỏ, bên cạnh là một con bò và một con lừa. Vào đêm khuya hôm lễ Giáng Sinh, thánh Phan-xi-cô cùng các tu sĩ và dân chúng lân cận kéo nhau đến đứng quanh hang đá. Bên cạnh có đặt một bàn thờ, và thánh lễ đã được cử hành cách trang nghiêm. Từ đó, việc trưng bày hang đá tại nhà thờ và tư gia ngày càng phổ biến và đến nay đã trở thành tập tục chung cho cả thế giới.

2) Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta: Hài Nhi Cứu Thế Giê-su vì yêu thương nhân loại nên đã từ trời cao xuống thế làm một phàm nhân. Người được sinh ra trong thân phận nghèo khó, sống một cuộc đời thợ mộc vất vả tại làng Na-da-rét. Người đã trở thành Đấng Em-ma-nu-en nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Quả thật: “Con Thiên Chúa đã trở nên con loài người, để con loài người được trở nên Con Thiên Chúa”.

3) Giáng Sinh là tình yêu nhập thể và nhập thế: Mầu Nhiệm Giáng Sinh là cách Thiên Chúa diễn tả tình thương lớn lao nhất đối với nhân loại. Thiên Chúa đã sai Con Một nhập thể làm người, trở nên giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội. Người đã yêu thương chúng ta đến cùng, và biểu lộ tình yêu bằng việc nhập thế để rao giảng Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, lựa chọn và huấn luyện các tông đồ, lập các bí tích và cuối cùng sẵn lòng chịu chết nhục nhã trên cây thập giá để đền tội thay cho chúng ta, và sống lại để ban sự sống đời đời cho chúng ta. Người còn trao sứ vụ loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian và tuôn đổ ơn Thánh Thần giúp các Tông đồ và Hội Thánh chu toàn sứ mạng góp phần cứu độ loài người.

4) Con đường cứu độ của Đức Giê-su: Đức Giê-su đã mở ra một con đường cứu độ là đường hẹp leo dốc, là con đường yêu thương, hy sinh quên mình và khiêm tốn phục vụ mọi người. Đó là sống đức Tin bằng việc chấp nhận “trải qua đau khổ cuộc tử nạn để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Lc 9,22-23). Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta phải bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo Người (x. Mt 16,21). Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống lại với Người (x. 2 Tm 2,11b-13a) và sau này sẽ được hưởng hạnh phúc Thiên đàng với Người (x. Lc 23,43).

4. THẢO LUẬN: Sau khi được sứ thần loan báo tin vui, các mục đồng đã vội vã lên đường đi Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế. Rồi sau đó họ đã thuật lại những gì mắt thấy tai nghe về Hài Nhi này. Trong Mùa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta cần làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Giáng Sinh cho các bạn bè và những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa

5. LỜI CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đến để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Tuy nhiên, để được hưởng ơn cứu độ, tâm hồn chúng con phải có Chúa. Rồi sau khi đã gặp gỡ Chúa, chúng con còn phải biết chia sẻ niềm vui và hạnh phúc ấy cho tha nhân. Xin cho chúng con biết noi gương các mục đồng xưa: biết chia sẻ Chúa cho cha mẹ anh em và bạn bè của chúng con. Xin cho chúng con luôn ý thức sứ vụ làm chứng cho Chúa bằng việc mời gọi nhiều người nhận biết tin thờ yêu mến Chúa với chúng con.

- LẠY CHÚA. Hôm nay lễ Giáng Sinh lại về, trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, các bài thánh ca vang lên đó đây, người người chia sẻ niềm vui bên nhau. Nhưng còn biết bao người vẫn đang cô đơn lạc lõng, đang âm thầm đau khổ và không có niềm hy vọng. Xin Chúa cho chúng con biết nghĩ đến họ và giúp đỡ họ với hết khả năng của chúng con. Xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng trao tặng cho tha nhân một nụ cười tươi, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến thăm những người bất bạnh để chia sẻ tình thương của Chúa cho họ. Ước gì niềm vui lễ Giáng Sinh không chỉ dừng lại ở những của cải vật chất bên ngoài, nhưng còn ở chỗ tình người được nhân lên mãi, được nối lại thành vòng tay lớn, hầu mọi người chung tay xây dựng một thế giới mới vui tươi, bình an và hạnh phúc.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

LM ĐAN VINH - HHTM
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tông Huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Của Tin Mừng V
Phaolô Phạm Xuân Khôi
15:28 22/12/2013

TÔNG HUẤN

EVANGELII GAUDIUM – NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG



CHƯƠNG NĂM

NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN



259. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo (parrhesia), lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi.

260. Trong chương cuối cùng này, tôi sẽ không đưa ra một tổng hợp của linh đạo Kitô giáo, cũng không khai triển những chủ đề chính như cầu nguyện, chầu Thánh Thể hoặc cử hành đức tin, là những điều chúng ta đã có những bản văn có giá trị của Huấn Quyền và những tác phẩm nổi tiếng của các tác giả thời danh. Tôi không tự nhận là thay thế hoặc vượt trên sự phong phú này. Tôi chỉ đơn thuần đề nghị một số suy nghĩ về tinh thần của việc Tân Phúc Âm hóa.

261. Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một “tinh thần”, thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh. Trước khi đề ra một số lý do thúc đẩy và đề nghị tinh thần, một lần nữa tôi cầu khẩn Chúa Thánh Thần, tôi cầu xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.

I. Những lý do thúc đẩy một động năng truyền giáo mới

262. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Chúa Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo vừa cầu nguyện vừa làm việc. Từ quan điểm Phúc Âm hóa, những đề nghị thần bí mà không có một sự dấn thân xã hội và truyền giáo mạnh mẽ, hay những bài thuyết trình và những thực hành xã hội và mục vụ mà không có một linh đạo có sức biến đổi tâm hồn, sẽ chẳng giúp được gì. Những đề nghị bán phần và rời rạc ấy chỉ chạm đến một số người nhỏ và không có sức mạnh lan tràn lớn lao, bởi vì chúng cắt xén Tin Mừng. Chúng ta phải luôn luôn nuôi dưỡng một chỗ ở trong tâm hồn, là điều đem lại cho một Kitô hữu ý nghĩa của việc dấn thân và hoạt động. [205] Nếu không có những giờ phút lâu dài để tôn thờ, gặp gỡ Lời Chúa trong cầu nguyện, chân thành đối thoại với Chúa, thì các nhiệm vụ dễ dàng mất hết ý nghĩa, chúng ta sẽ bị suy yếu vì mệt mỏi hay vì những khó khăn, và lòng nhiệt thành sẽ bị dập tắt. Hội Thánh không thể làm được gì nếu không có lá phổi cầu nguyện, và lòng tôi vô cùng vui mừng vì sự gia tăng rất nhiều nhóm cầu nguyện, chuyển cầu, đọc Lời Chúa trong cầu nguyện và chầu Thánh Thể thường trực trong tất cả cơ cấu Hội Thánh. Đồng thời, “chúng ta phải đẩy lui cám dỗ về một linh đạo riêng tư và cá nhân không phù hợp với những đòi hỏi của đức ái, cũng như luận lý của mầu nhiệm Nhập Thể”. [206] Có một nguy cơ là một số giờ phút cầu nguyện biến thành một lý do để tránh sống đời truyền giáo, vì việc tư nhân hóa lối sống có thể dẫn các Kitô hữu đến việc nương náu ở một số linh đạo sai lầm.

263. Thật là bổ ích để nhớ đến các Kitô hữu tiên khởi và nhiều anh em trong suốt dòng lịch sử, là những người đầy niềm vui, đầy can đảm, không biết mệt trong việc rao giảng Tin Mừng cùng có khả năng hoạt động với sức chịu đựng tuyệt vời. Có những người tự an ủi bằng cách nói rằng ngày nay khó khăn hơn nhiều; nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng bối cảnh thời đế quốc Rôma không có lợi gì cho việc rao giảng Tin Mừng, hay đấu tranh cho công lý, hoặc bảo vệ phẩm giá con người. Trong mọi thời điểm của lịch sử, sự yếu đuối của con người, tính vụ lợi thiếu lành mạnh, sự tiện nghi ích kỷ, và cuối cùng, lòng ham muốn nhục dục đe dọa tất cả chúng ta. Thực tại này luôn luôn hiện diện, dươi hình thức này hay hình thức khác; chúng đến từ những giới hạn của con người chứ không phải tư các hoàn cảnh. Vì thế chúng ta không được nói rằng ngày nay khó khăn hơn; chúng khác nhau. Chúng ta hãy học nhiều từ các Thánh, là những vị đã đi trước chúng ta và đã trực diện với những khó khăn của thời đại các ngài. Để đạt được mục đích này, tôi đề nghị ngừng lại để tái khám phá ra một số lý do giúp chúng ta bắt chước các ngài ngõ hầu áp dụng trong thời đại chúng ta. [207]

Cuộc gặp gỡ cá nhân với tình yêu của Chúa Giêsu là Đấng cứu độ chúng ta

264. Lý do đầu tiên thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã nhận được, kinh nghiệm được Người cứu độ là điều thúc đẩy chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Nhưng có loại tình yêu nào mà không làm cho chúng ta cảm thấy cần phải nói về người mình yêu, chỉ cho người khác thấy Người, làm cho Người được biết đến không? Nếu chúng ta không cảm thấy có ước muốn mãnh liệt để truyền thông tình yêu này, chúng ta cần phải tạm ngừng lại trong cầu nguyện để cầu xin Người trở lại làm cho chúng ta say đắm. Chúng ta cần phải cầu xin mỗi ngày, để ân sủng Người mở rộng con tim giá lạnh của chúng ta và cải tổ cuộc sống hờ hững và nông cạn của chúng ta. Hãy đặt mình trước mặt Người với một con tim rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra cái nhìn yêu thương này là cái nhìn mà Nathaniel đã khám phá ra ngày Chúa Giêsu nói với ông: “Tôi nhìn thấy anh khi anh ở dưới cây vả” (Ga 1:48). Êm dịu biết bao khi đứng trước một cây Thánh Giá, hoặc quỳ trước Thánh Thể, và chỉ đơn thuần là ở trước mắt Người! Tốt biết bao cho chúng ta khi Người trở lại chạm vào cuộc đời chúng ta và thúc đẩy chúng ta truyền thông sự sống mới của Người! Vì vậy, kết cuộc là, “những gì chúng tôi đã thấy và đã nghe thì chúng tôi công bố” (1 Ga 1:3). Động lực tốt nhất cho quyết định truyền thông Tin Mừng là chiêm niệm nó với tình yêu, đọc chầm chậm những trang của nó và đọc bằng con tim của mình. Nếu chúng ta đến gần Tin Mừng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm cho chúng ta ngạc nhiên, và làm cho chúng ta say đắm mỗi lần chúng ta trở lại. Vì vậy, thật khẩn cấp để phục hồi tinh thần chiêm niệm, là điều cho phép chúng ta khám phá ra mỗi ngày rằng chúng ta là những người được ủy thác cho một gia sản, là điều nhân bản hóa chúng ta và giúp chúng ta sống một cuộc sống mới. Không có gì quý giá hơn để truyền lại cho những người khác.

265. Toàn thể đời sống của Chúa Giêsu, cách Người đối xử với những người nghèo, những cử chỉ của Người, sự kiên định của Người, lòng quảng đại của Người, sự đơn giản hằng ngày của Người, và cuối cùng là sự tự hiến hoàn toàn của Người, tất cả đều quý giá và nói với cuộc sống cá nhân của chúng ta. Mỗi lần chúng ta trở lại để tìm hiểu, chúng ta lại được thuyết phục rằng đây chính là những gì người khác cần, ngay cả khi chúng ta không nhận ra điều ấy: “Đấng mà anh em không biết nhưng vẫn tôn thờ, là Đấng mà tôi rao giảng cho anh em” (Cv 17:23). Đôi khi chúng ta mất lòng nhiệt thành đối với sứ vụ truyền giáo, mà quên rằng Tin Mừng đáp ứng nhu cầu sâu xa nhất của con người, bởi vì tất cả chúng ta đã được tạo ra cho những gì Tin Mừng cung cấp cho chúng ta: tình bằng hữu với Chúa Giêsu và tình yêu huynh đệ với anh chị em. Khi chúng ta thành công trong việc diễn tả đầy đủ và cách thẩm mỹ nội dung cơ bản của Tin Mừng, sứ điệp ấy chắc chắn sẽ đáp ứng những thắc mắc sâu xa nhất của con tim: “Nhà truyền giáo tin chắc rằng nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, đã có sẵn trong những cá nhân và các dân tộc một ước vọng, ngay cả khi người ta không ý thức, để biết sự thật về Thiên Chúa, con người, con đường dẫn đến việc giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Lòng nhiệt thành trong việc loan báo Đức Kitô xuất phát từ xác tín có thể đáp ứng được ước vọng này”. [208] Lòng nhiệt thành truyền giáo dựa trên xác tín này. Chúng ta có một kho báu sự sống và tình yêu không thể lừa dối, sứ điệp không thể bị thao tác hoặc lừa dối. Đó là một câu trả lời chìm vào tận đáy lòng con người, có thể nâng đỡ nó và nâng nó lên. Đó là chân lý không bao giờ lỗi thời bởi vì nó có thể thâm nhập vào những nơi không một điều gì khác có thể đến được. Nỗi buồn vô hạn của chúng ta chỉ có thể được chữa lành bằng một tình yêu vô hạn.

266. Tuy nhiên niềm xác tín này được nâng đỡ bằng kinh nghiệm cá nhân, không ngừng đổi mới, để tận hưởng tình bằng hữu của Người và sứ điệp của Người. Chúng ta không thể kiên trì trong một việc truyền giáo đầy nhiệt tình nếu chúng ta không còn được thuyết phục nữa bằng kinh nghiệm riêng của mình rằng gặp gỡ Chúa Giêsu hoàn toàn khác với việc không biết Người, bước đi với Người hoàn toàn khác với mò mẫm, có thể lắng nghe Người hoàn toàn khác với việc coi thường Lời Người, có thể chiêm niệm, thờ phượng, nghỉ ngơi trong Người hoàn toàn khác với việc không làm những điều ấy. Cố gắng xây dựng thế giới với Tin Mừng của Người không giống như làm việc ấy chỉ với những lý do riêng của mình. Chúng ta biết rằng cuộc sống với Chúa Giêsu trở nên đầy đủ hơn nhiều và với Người chúng ta dễ dàng tìm thấy ý nghĩa của tất cả mọi sự hơn. Đó là lý do tại sao chúng ta rao giảng Tin Mừng. Một nhà truyền giáo thực sự, là người không bao giờ ngừng là một môn đệ, biết rằng Chúa Giêsu đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Cảm thấy Chúa Giêsu đang sống cùng mình ở giữa sứ vụ truyền giáo. Nếu chúng ta không tìm thấy điều này ở trung tâm của các hoạt động truyền giáo, thì chúng ta sẽ sớm mất nhiệt tình và không còn chắc chắn về điều mình thông truyền, chúng ta sẽ thiếu nghị lực và lòng say mê. Và khi một người không được thuyết phục, không có nhiệt tình, không đáng tin cậy, không được yêu, thì người ấy sẽ chẳng thuyết phục được ai.

267. Kết hợp với Chúa Giêsu, chúng ta tìm những gì Người tìm, chúng ta yêu những gì Người yêu. Cuối cùng, điều chúng ta tìm kiếm là vinh quang của Chúa Cha, chúng ta sống và hành động “để ngợi khen vinh quang của ân sủng Người” (Eph 1:6). Nếu chúng ta hiến thân cách trọn vẹn và kiên định, chúng ta phải vượt trên bất cứ động lực nào khác. Đây là động lực cuối cùng, sâu sắc nhất, lớn nhất, là lý do và ý nghĩa tối hậu của mọi động lực khác. Đó chính là vinh quang Chúa Cha, mà Chúa Giêsu đã tìm suốt cuộc đời của Người. Người là Con luôn luôn vui lòng với tất cả con người của mình “ở trong cung lòng Chúa Cha” (Ga 1:18). Nếu chúng ta là những nhà truyền giáo, thì trên hết chính vì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Bằng cách này mà Chúa Cha được tôn vinh, là các con sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:8). Vượt trên sự kiện là chúng ta đồng ý hay không, thích hay không, cần hay không, vượt trên những giới hạn bé nhỏ của những ham muốn của chúng ta, sự hiểu biết và động cơ thúc đẩy chúng ta, chúng ta rao giảng Tin Mừng vì vinh quang cao cả của Chúa Cha là Đấng yêu thương chúng ta.

Niềm vui tinh thần của việc là một dân

268. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta là một dân duy nhất: “Xưa kia anh em không phải là một dân, nhưng nay đã là Dân Thiên Chúa” (1 Phr 2:10). Để là những nhà truyền giáo đích thực chúng ta cũng cần phải phát triển một vị giác tinh thần để ở gần đời sống của con người, đến độ nó trở thành một nguồn vui cao thượng hơn. Việc truyền giáo là một sự say mê với Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là một sự say mê với dân Người. Khi chúng ta đứng trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta nhận ra tất cả tình yêu của Người, là điều nâng đỡ chúng ta và ban cho chúng ta phẩm giá, tuy nhiên, đồng thời, trừ khi chúng ta bị mù, chúng ta bắt đầu nhận thức rằng cái nhìn của Chúa Giêsu mở rộng và quay về phía toàn thể dân Người với đầy trìu mến và nhiệt tình. Vì vậy, chúng ta nhận ra rằng Người muốn dùng chúng ta để gần gũi hơn với dân yêu quý của Người. Người lấy chúng ta từ giữa dân Người và sai chúng ta đến với họ, vì thế chúng ta sẽ không thể hiểu được căn tính của mình nếu không thuộc về dân này.

269. Chính Chúa Giêsu là kiểu mẫu của sự lựa chọn cách rao giảng Tin Mừng này, là cách đưa chúng ta vào lòng dân chúng. Thật tốt cho chúng ta khi thấy Người gần gũi tất cả mọi người! Khi Người nói chuyện với ai, thì Người nhìn thẳng vào mắt người ấy với một sự ân cần yêu thương sâu thẳm, “Chúa Giêsu nhìn anh, và thương mến anh” (Mc 10:21). Chúng ta thấy Chúa dễ tiếp cận thế nào với người mù bên vệ đường (x. Mc 10:46-52), và khi Người ăn uống với những kẻ tội lỗi (x. Mc 2:16), Người chẳng bận tâm gì đến việc bị người khác coi là mê ăn uống và chè chén say sưa (x. Mt 11:19). Chúng ta thấy Người sẵn sàng để cho một cô gái điếm xức dầu đôi bàn chân của Người (x. Lc 7:36-50), hoặc tiếp ông Nicôđêmô vào ban đêm (Ga 3:1-15). Sự tự hiến của Chúa Giêsu trên thập giá không là gì khác hơn là tột đỉnh của cách thế này, là cách thế đã đánh dấu toàn thể cuộc đời của Người. Được thu hút bởi kiểu mẫu này, chúng ta muốn gia nhập cách trọn vẹn vào xã hội, chia sẻ cuộc sống của mình với tất cả mọi người, lắng nghe những quan tâm của họ, cộng tác với họ cả về vật chất lẫn tinh thần trong những nhu cầu của họ, vui với người vui, khóc với người khóc và dấn thân trong việc xây dựng một thế giới mới, tay trong tay với những người khác. Nhưng luôn luôn không coi đó như một điều bị bắt buộc, như một gánh nặng mà chúng ta phải gánh, nhưng như một sự lựa chọn cá nhân tràn ngập niềm vui và cho chúng ta một căn tính.

270. Đôi khi chúng ta cảm thấy bị cám dỗ là những Kitô hữu trong khi vẫn giữ một khoảng cách an toàn với những vết thương của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự đau khổ của con người, chạm vào da thịt đau khổ của những người khác. Người muốn chúng ta ngưng tìm kiếm những nơi trú ẩn cá nhân hay cộng đồng, là những nơi cho phép chúng ta giữ một khoảng cách với trung tâm của những thảm cảnh của con người, ngõ hầu chúng ta thực sự chấp nhận tiếp xúc với đời sống cụ thể của những người khác, và biết sức mạnh của sự dịu dàng. Khi chúng ta làm như thế, đời sống của chúng ta sẽ luôn luôn phức tạp một cách kỳ diệu và chúng ta sống kinh nghiệm mãnh liệt của một dân, kinh nghiệm thuộc về một dân.

271. Đúng là trong mối liên hệ của mình với thế giới, chúng ta được yêu cầu cung cấp một lý do của niềm hy vọng của mình, nhưng không phải như kẻ thù, bằng cách chỉ tay và lên án. Chúng ta đã được cảnh báo rất rõ ràng: “phải làm với sự hiền lành và tôn trọng” (1 Phr 3:16), và “Nếu có thể, thì ít ra về phần anh em, hãy sống hòa thuận với mọi người” (Rm 12:18). Chúng ta cũng được khuyến khích cố gắng chiến thắng “sự dữ bằng việc lành” (Rm 12:21), mà không được mệt mỏi “làm điều lành” (Gl 6:9), và không cố gắng tỏ ra là những người trên, nhưng coi “những người khác hơn mình” (Phl 2:3). Thực ra, các Tông Đồ của Chúa “được lòng tất cả mọi người” (Cv 2:47, xem 4,21.33; 5:13). Rõ ràng là Đức Chúa Giêsu Kitô không muốn chúng ta như những ông hoàng trông rất thô bạo, nhưng như những người nam nữ của dân chúng. Đây không phải là ý kiến của một giáo hoàng hoặc một lựa chọn mục vụ giữa những lựa chọn khác mà chúng ta có thể làm; chúng là những dấu chỉ của Lời Chúa rất tỏ tường, trực tiếp và hiển nhiên đến nỗi chúng không cần phải được giải thích, là điều sẽ giảm bớt sức mạnh chất vấn của chúng. Chúng ta hãy sống chúng “sine glossa”, mà không cần chú giải. Bằng cách này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui chia sẻ cuộc sống truyền giáo với những người trung thành với Thiên Chúa trong khi cố gắng đốt lên một ngọn lửa ở trung tâm thế giới.

272. Tình yêu đối với người khác là một sức mạnh tinh thần thúc đẩy cuộc gặp gỡ Thiên Chúa một cách trọn vẹn đến mức bất cứ ai không yêu anh em mình là “đi trong bóng tối “ (1 Ga 2:11), là “ở lại trong sự chết” (1 Ga 3, 14) và “không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4:8). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói rằng “nhắm mắt mình trước những người lân cận của chúng ta cũng làm cho chúng ta mù trước mặt Thiên Chúa” [209] và rằng tình yêu cuối cùng là ánh sáng duy nhất “luôn luôn có thể soi sáng một thế giới đang tối tăm và ban cho chúng ta can đảm để sống và hành động”. [210] Vì vậy, khi chúng ta sống tiếp cận thần bí với tha nhân nhằm mục đích tìm kiếm sự tốt lành cho họ, chúng ta mở rộng nội tâm của mình để nhận những hồng ân tốt đẹp nhất của Chúa. Mỗi lần chúng ta gặp gỡ một con người trong tình yêu, chúng ta đặt mình vào một điều kiện thuận lợi để khám phá một điều gì mới mẻ về Thiên Chúa. Mỗi lần chúng ta mở mắt để nhận ra những người khác, thì đức tin của chúng ta được sáng suốt hơn để nhận ra Thiên Chúa. Vì thế, nếu chúng ta muốn lớn lên trong đời sống tinh thần, chúng ta không thể ngưng là những nhà truyền giáo. Dấn thân truyền giáo phong phú hóa tâm trí và tâm hồn, mở ra cho chúng ta những chân trời tâm linh, giúp chúng ta nhạy cảm hơn để nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần, đưa chúng ta ra khỏi những mô thức tâm linh hạn hẹp của mình. Đồng thời, một nhà truyền giáo hoàn toàn dấn thân vào việc truyền giáo cảm nghiệm được niềm vui của việc trở thành một nguồn, tràn đầy và làm tươi mát những người khác. Chúng ta chỉ có thể là một nhà truyền giáo khi cảm thấy tốt trong việc tìm kiếm những điều tốt đẹp cho người khác và muốn hạnh phúc cho người khác. Việc mở rộng tâm hồn là nguồn gốc của hạnh phúc, bởi vì “cho đi thì có phúc hơn nhận được” (Cv 20:35). Không ai có thể sống tốt hơn bằng cách chạy trốn những người khác, ẩn nấp, từ chối chia sẻ, không chịu cho đi và nhốt mình trong sự thoải mái. Điều này chẳng khác gì một việc tự vận từ từ.

273. Việc truyền giáo (sứ vụ) giữa lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống của tôi, hoặc một đồ trang sức mà tôi có thể bỏ đi, nó cũng không phải là một phần phụ thuộc, hoặc một thời điểm trong nhiều thời điểm của cuộc sống. Nó là một điều mà tôi không có thể xóa bỏ khỏi con người của tôi nếu tôi không muốn tiêu diệt chính mình. Tôi là một việc truyền giáo (sứ vụ) trên thế gian này, và đó là lý do tại sao tôi đang ở trong thế gian. Tôi phải nhận ra rằng mình đã được đóng ấn bằng lửa cho sứ vụ này để soi sáng, chúc lành, sinh động hóa, nâng lên, chữa lành, và giải phóng. Tôi sẽ thấy chung quanh mình các y tá với linh hồn, các thầy giáo với linh hồn, các chính trị gia với linh hồn, là những người đã quyết định tận đáy lòng là sống với những người khác và cho những người khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta tách rời nhiệm vụ ra khỏi cuộc sống riêng tư của mình, thì tất cả mọi sự sẽ trở thành màu xám và chúng ta sẽ liên tục cố gắng tìm kiếm danh vọng hoặc bảo vệ những nhu cầu riêng tư của mình. Chúng ta không còn là một dân nữa.

274. Để chia sẻ cuộc sống của mình với mọi người và hiến thân một cách quảng đại, chúng ta cần phải nhận ra rằng tất cả mọi người đều đáng cho chúng ta hiến thân. Không phải vì vẻ bề ngoài của họ, khả năng của họ, ngôn ngữ của họ, não trạng của họ hoặc sự thỏa mãn mà chúng ta có thể cung cấp, nhưng vì họ là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, là tạo vật của Ngài. Ngài đã tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài, và họ phản ánh một phần nào đó vinh quang của Ngài. Mỗi con người là đối tượng của sự ân cần vô cùng của Chúa, và chính Người ngự trong cuộc sống của họ. Đức Chúa Giêsu Kitô đã ban bửu huyết của Người trên Thánh Giá cho người ấy. Vượt ra ngoài bất kỳ vẻ bề ngoài nào, mỗi người đều vô cùng thánh thiêng và xứng đáng với tình yêu của chúng ta và sự tận tụy của chúng ta. Vì vậy, nếu tôi có thể giúp một người sống tốt lành hơn, chỉ điều này mà thôi cũng đã đủ để biện minh cho việc hiến đời sống của tôi làm món quà cho người ấy. Thật là tốt đẹp khi là dân trung thành của Thiên Chúa. Và chúng ta đạt được sự viên mãn khi chúng ta phá đổ các bức tường, để cho tâm hồn của mình chứa đầy những gương mặt và những tên của họ!

Công trình mầu nhiệm của Chúa Phục Sinh và Chúa Thánh Thần

275. Trong chương hai chúng ta đã suy nghĩ về việc thiếu linh đạo sâu xa là điều đưa đến bi quan, tin vào định mệnh và mất niềm tin. Một số người không tận tâm với sứ vụ bởi vì họ tin rằng không gì có thể thay đổi được, và do đó đối với họ, phấn đấu là điều vô ích. Họ nghĩ như thế này: “Tại sao tôi phải tước đi sự thoải mái và thú vui của tôi nếu tôi không nhìn thấy một kết quả đáng kể nào”. Với não trạng này thì chúng ta sẽ không tài nào truyền giáo được. Thái độ này là một lý do xấu để biện minh cho việc vẫn còn khép mình trong sự thoải mái, lười biếng, buồn rầu vì không thỏa mãn tính ích kỷ trống rỗng của mình. Nó là một hành vi tự hủy diệt vì “con người không thể sống mà không có hy vọng: đời sống sẽ trở nên vô nghĩa và không thể chịu nổi”. [211] Nếu chúng ta nghĩ rằng mọi sự sẽ không thay đổi, chúng ta hãy nhớ rằng Đức Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi cùng sự chết và có đầy đủ quyền năng. Đức Chúa Giêsu Kitô thật sự đang sống. Bằng không, “nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi là trống rỗng” (1 Cor 15:14). Tin Mừng cho chúng ta biết rằng khi các môn đệ đầu tiên đi rao giảng, “Chúa đã làm việc với các ông và xác nhận lời rao giảng của các ông” (Mc 16:20). Điều này xảy ra ngay cả ngày nay. Chúng ta được mời gọi để khám phá ra điều này và sống với điều này. Đức Kitô Phục Sinh và vinh quang là nguồn gốc sâu xa của niềm hy vọng của chúng ta, và chúng ta đừng bỏ lỡ sự giúp đỡ của Người để hoàn thành sứ mệnh được trao phó cho chúng ta.

276. Việc Phục Sinh của Người không phải là một điều trong quá khứ; nó chứa đựng một sức sống đã thấm nhập thế gian. Ở đâu mọi sự dường như đã chết, thì khắp nơi mầm non của sự sống lại đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức mạnh vô song. Đúng là nhiều lần dường như không có Thiên Chúa: chúng ta thấy sự bất công, gian ác, thờ ơ và tàn nhẫn không thuyên giảm. Nhưng chúng ta cũng không kém chắc chắn rằng ở giữa bóng tối luôn luôn bắt đầu nở ra một điều gì đó mới, sớm hay muộn cũng sinh hoa trái. Trong một cánh đồng bằng phẳng sự sống xuất hiện, kiên trì và không gì có thể thắng nổi. Sẽ có nhiều điều xấu, nhưng điều tốt luôn luôn có khuynh hướng quay lại nở hoa và lan tràn. Mỗi ngày trên thế giới cái đẹp tái sinh, mọc lên được biến đổi qua những thảm kịch của lịch sử. Các giá trị luôn luôn có khuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những hình thức mới, và thực ra, nhân loại được tái sinh nhiều lần từ những tình trạng dường như không thể đảo ngược được. Đây là sức mạnh của sự sống lại và mỗi người rao giảng Tin Mừng là một công cụ của động năng này.

277. Những khó khăn mới cũng liên tục xuất hiện, những kinh nghiệm thất bại, những sự nhỏ nhen của con người tạo nên quá nhiều sự dữ. Tất cả chúng ta đều biết từ kinh nghiệm rằng đôi khi một công tác không đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn mà chúng ta mong ước, thành quả hiếm hoi, và những thay đổi thì chậm chạp, và chúng ta bị cám dỗ trở nên mệt mỏi. Tuy nhiên, khi một người vì mệt mỏi mà tạm thời hạ tay xuống thì khác với những người buông xuôi vì bị khống chế bởi bệnh bất mãn kinh niên và bởi sự lười biếng làm khô héo linh hồn. Điều có thể xảy ra là tâm hồn mệt mỏi trong cuộc chiến đấu bởi vì chúng ta thực ra chỉ nghĩ đến mình, đến danh vọng, như khao khát được người khác biết đến, được ca tụng, được thưởng và có địa vị. Khi ấy chúng ta không hạ thấp nổi cánh tay, nhưng chúng ta cũng không còn kiên quyết, sự sống lại không có ở đó. Như vậy, Tin Mừng, là sứ điệp đẹp nhất mà chúng ta có trong thế giới này, vẫn còn bị chôn vùi dưới một đống lý do để tự bào chữa.

278. Đức tin có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Ngài thực sự yêu thương chúng ta, tin rằng Ngài hằng sống, rằng Ngài có thể can thiệp một cách mầu nhiệm, rằng Ngài không bỏ rơi chúng ta, rằng Ngài có thể rút ra sự tốt lành từ sự dữ bởi quyền năng và óc sáng tạo vô biên của Ngài. Nó có nghĩa là tin rằng Ngài tiến bước khải hoàn trong lịch sử cùng với “những người thuộc về Ngài... những người được gọi, và được chọn, là các tín hữu” (Kh 17:14). Chúng ta tin rằng Tin Mừng nói rằng Nước Thiên Chúa đã hiện diện trong thế gian, và đang phát triển ở đây và ở đó, bằng nhiều cách khác nhau: như hạt giống nhỏ có thể biến thành một cây lớn (x. Mt 13:31-32), như một ít men làm dậy men cả một đống bột (x. Mt 13:33), và như hạt giống tốt mọc ở giữa cỏ dại (x. Mt 13:24-30), và có thể luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên cách thú vị. Nước Thiên Chúa đang hiện diện, sẽ trở lại, phấn đấu để phát triển mạnh mẽ trở lại. Sự Sống Lại của Đức Kitô tạo ra ở mọi nơi những hạt giống của thế giới mới này; và ngay cả khi chúng bị cắt đi, chúng lại mọc lên, bởi vì sự Phục Sinh của Chúa đã thâm nhập vào cơ cấu tàng ẩn của lịch sử này, bởi vì Chúa Giêsu đã không sống lại một cách vô ích. Chớ gì chúng ta đừng ở bên lề cuộc hành trình hy vọng được sống này!

279. Vì chúng ta không luôn luôn nhìn thấy những chồi non, nên chúng ta cần một sự chắc chắn nội tâm, đó là, lòng tin tưởng rằng Thiên Chúa có thể hoạt động trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngay cả giữa những thất bại tỏ tưởng, bởi vì “chúng ta có kho báu này trong những bình sành” (2 Cor 4:7). Sự chắc chắn này là điều được gọi là “một cảm thức mầu nhiệm.” Đó là biết một cách chắc chắn rằng tất cả những ai phó thác cho Thiên Chúa trong tình yêu, nhất định sẽ sinh hoa kết quả (x. Ga 15,5). Khả năng sinh hoa quả này thường vô hình, khó nắm bắt và không thể đo lường được. Chúng ta có thể biết rõ rằng cuộc sống của mình sẽ mang lại kết quả, nhưng không tự nhận rằng mình biết thế nào, ở đâu và khi nào. Chúng ta có thể chắc chắn rằng không một việc nào chúng ta làm vì yêu, hoặc bất cứ hành động nào chúng ta làm vì chân thành lo lắng cho tha nhân sẽ bị mất đi. Không một hành động yêu mến nào dành cho Thiên Chúa sẽ bị mất đi, không một cố gắng đại lượng nào sẽ ra vô nghĩa và không một kiên nhẫn đau khổ nào sẽ ra vô ích. Tất cả mọi sự đi vòng quanh thế giới của chúng ta như sức sống. Đôi khi những nỗ lực của chúng ta dường như không đem lại một kết quả nào, nhưng việc truyền giáo không phải là một thương vụ hoặc một kế hoạch kinh doanh, nó cũng không thậm chí là một tổ chức nhân đạo, không phải là một buổi trình diễn để đếm xem có bao nhiêu người tham dự nhờ việc tuyên truyền của chúng ta; nó là một điều gì đó sâu xa hơn nhiều, vượt ra ngoài tất cả mọi đo lường. Có lẽ Chúa dùng sự dấn thân của chúng ta để đổ phúc lành xuống một nơi nào khác trên thế giới mà chúng ta sẽ không bao giờ đi đến. Chúa Thánh Thần hoạt động như Ngài muốn, khi Ngài muốn và ở nơi nào Ngài tùy ý Ngài; chúng ta tận tâm hy sinh nhưng không mong thấy kết quả tỏ tường. Chúng ta chỉ biết rằng việc hiến thân của mình là điều cần thiết. Chúng ta hãy học nghỉ ngơi trong vòng tay âu yếm của Chúa Cha, giữa cuộc dấn thân sáng tạo và quảng đại của mình. Chúng ta hãy tiếp tục tiến bước, hãy dâng tất cả cho Ngài, nhưng hãy để cho Ngài làm cho những nỗ lực của chúng ta có kết quả như ý Ngài.

280. Để duy trì lòng nhiệt thành truyền giáo phải có một niềm tin mãnh liệt vào Chúa Thánh Thần, bởi vì Ngài “giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta” (Rm 8:26). Nhưng lòng tin tưởng quảng đại như vậy phải được nuôi dưỡng và do đó chúng ta phải liên tục cầu khẩn Ngài. Ngài có thể chữa lành tất cả những gì làm cho chúng ta yếu đuối trong việc dấn thân truyền giáo của mình. Đúng là lòng tin tưởng vào Đấng vô hình này có thể làm chúng ta chóng mặt: giống như lao mình xuống biển mà không biết mình sẽ gặp phải những gì. Bản thân tôi đã kinh nghiệm điều này nhiều lần. Tuy nhiên, không có tự do nào lớn hơn việc để cho chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn, bằng cách từ bỏ việc tính toán và kiểm soát tất cả mọi sự, và để Ngài soi sáng chúng ta, hướng dẫn chúng ta, định hướng chúng ta, đưa chúng ta đến nơi mà Ngài muốn. Ngài biết rõ những gì chúng ta cần ở mọi thời đại và ở mọi lúc. Điều này được gọi là hiệu quả huyền nhiệm!

Sức mạnh truyền giáo của việc chuyển cầu

281. Có một hình thức cầu nguyện đặc biệt khuyến khích chúng ta hiến thân trong việc Phúc Âm hóa và thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự tốt lành cho người khác là chuyển cầu. Chúng ta hãy một ít giây phút ra để quan sát con người nội tâm của một nhà truyền giáo vĩ đại như Thánh Phaolô, để hiểu xem lời cầu nguyện của ngài như thế nào. Lời cầu nguyện này đầy ắp những người: “Mỗi khi cầu nguyện cho tất cả anh em, tôi luôn luôn cầu xin với niềm hân hoan, […] bởi vì tôi ấp ủ anh em trong lòng tôi” (Phl 1:4.7). Như vậy chúng ta thấy rằng cầu nguyện chuyển cầu không ngăn cách chúng ta khỏi việc chiêm niệm thật, bởi vì chiêm niệm mà bỏ tha nhân ra ngoài là một sự lừa dối.

282. Thái độ này cũng biến thành một lời tạ ơn Thiên Chúa cho người khác: “Trước tiên, tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi qua Đức Chúa Giêsu Kitô cho tất cả anh em” (Rm 1:8). Đó là một lời cảm tạ liên tục: “Tôi luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa của tôi cho anh em vì những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho anh em trong Đức Chúa Giêsu Kitô” (1 Cor 1:4), “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi mỗi khi tôi nhớ đến anh em” (Phl 1:3). Đây không phải là một cái nhìn hoài nghi, tiêu cực và vô vọng, nhưng là một cái nhìn tâm linh, của đức tin sâu thẳm, công nhận rằng chính Thiên Chúa hoạt động trong những người khác. Đồng thởi, đó là lòng biết ơn đến từ một quả tim thực sự chú ý tới những người khác. Bằng cách này, khi một nhà truyền giáo cầu nguyện xong, quả tim người ấy trở nên đại lượng hơn, được giải thoát khỏi ý thức cô lập và sẵn sàng làm điều lành cùng chia sẻ sự sống với người khác.

283. Những người nam nữ vĩ đại của Thiên Chúa đã là những đấng cầu bầu cả thể. Việc chuyển cầu như “nắm men” ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là cách đi xâu vào lòng Chúa Cha và khám phá ra những chiều kích mới soi sáng các hoàn cảnh cụ thể và những thay đổi. Chúng ta có thể nói rằng trái tim của Thiên Chúa được chạm đến bởi lời chuyển cầu, nhưng thực ra Ngài luôn luôn tiên liệu, và điều chúng ta có thể làm với lời cầu bầu của mình là làm cho quyền năng của Ngài, tình yêu của Ngài và lòng trung tín của Ngài được biểu lộ một cách rõ ràng hơn nơi dân Ngài.

II. Đức Mẹ Maria, Mẹ của Phúc Âm hóa

284. Với Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ Maria luôn luôn ở giữa dân chúng. Mẹ tụ họp cùng các môn đệ để kêu cầu Ngài (Cv 1:14), và do đó làm cho sự phát triển nhanh chóng của việc truyền giáo có thể xảy ra trong Lễ Ngũ Tuần. Mẹ là Mẹ của việc Phúc Âm hóa của Hội Thánh và không có Mẹ, chúng ta không thể hoàn toàn hiểu được tinh thần của việc Tân Phúc Âm hóa.

Món quà của Chúa Giêsu cho dân Người

285. Trên thập giá, khi Đức Kitô chịu đau khổ trong thân xác của Người, ở đó xảy ra cuộc gặp gỡ bi thảm giữa tội lỗi của thế gian và lòng thương xót của Thiên Chúa, Người có thể nhìn thấy dưới chân Người sự hiện diện an ủi của Mẹ Người và bạn Người. Ở thời điểm chủ yếu đó, trước khi Người hoàn thành công việc mà Chúa Cha đã trao phó cho Người, Chúa Giêsu thưa cùng Đức Mẹ Maria: “Thưa Bà, đây là con Bà!”. Sau đó, Người nói với người bạn thân yêu của Người: “Này là Mẹ con!” (Ga 19:26-27). Những lời này của Chúa Giêsu ở ngưỡng cửa sự chết trước hết không diễn tả một mối quan tâm từ bi đối với Mẹ Người, nhưng là một công thức của mặc khải tỏ lộ mầu nhiệm của một sứ vụ cứu độ đặc biệt. Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta Mẹ Người như Mẹ của chúng ta. Chỉ sau khi làm thế Chúa Giêsu mới có thể cảm thấy rằng “tất cả mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:28). Dưới chân Thánh Giá, giờ tối cao của việc tạo dựng mới, Đức Kitô dẫn chúng ta đến cùng Đức Mẹ Maria. Người dẫn chúng ta đến với Mẹ bởi vì Người không muốn chúng ta bước đi mà không có một người Mẹ, và chúng ta đọc trong hình ảnh người Mẹ này tất cả những mầu nhiệm của Tin Mừng. Chúa không muốn rời Hội Thánh mà không có biểu tượng người nữ này. Mẹ, Đấng đã sinh ra Người với đức tin vĩ đại, cũng đồng hành với “những con cái còn lại của mình, [...] những người giữ các điều răn của Thiên Chúa và mang chứng tích của Chúa Giêsu” (Kh 12:17). Sự nối kết mật thiết giữa Đức Mẹ Maria, Hội Thánh và tất cả các tín hữu, theo nhiều cách khác nhau, tạo ra Đức Kitô, đã được trình bày cách tuyệt mỹ bởi Thánh Isaac đệ Stella: “Trong Thánh Kinh được Thiên Chúa linh hứng, điều gì được hiểu cách chung về Hội Thánh, người mẹ trinh nữ, thì cũng được hiểu cách đặc thù về Đức Trinh Nữ Maria [...] Người ta cũng có thể nói cách tương tự rằng mỗi linh hồn là một hiền thê trung tín của Lời Chúa, là mẹ, là con gái và em gái của Đức Kitô, đồng trinh và mẹ đông con [...]. Đức Kitô đã ở chín tháng trong cung lòng của Đức Mẹ Maria, sẽ ở trong đền tạm của đức tin của Hội Thánh cho đến thời sau hết; và trong sự hiểu biết và tình yêu của tâm hồn tín hữu, cho đến muôn đời”. [212]

286. Đức Mẹ Maria là Đấng biết cách biến một hang nuôi súc vật thành ngôi nhà cho Chúa Giêsu, với một tã vải nghèo nàn và một núi đầy âu yếm. Mẹ là nữ tỳ bé nhỏ của Cha, Đấng đã vui mừng hát lên lời chúc tụng Ngài. Mẹ là người bạn luôn luôn lưu tâm ngõ hầu chúng ta không thiếu rượu trong cuộc sống của mình. Mẹ là người có trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu qua, Đấng hiểu tất cả nỗi thống khổ của chúng ta. Như Mẹ của tất cả mọi người, Mẹ là một dấu chỉ của niềm hy vọng cho những người bị đau đớn vì sinh nở cho đến khi công lý được sinh ra. Mẹ là nhà truyền giáo đến gần chúng ta để đồng hành với chúng ta trong cuộc sống, mở lòng chúng ta ra với đức tin bằng tình mẫu tử của Mẹ. Như một người Mẹ thật, Mẹ bước đi với chúng ta, chiến đấu với chúng ta, và không ngừng tuôn đổ sự gần gũi của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Qua những việc sùng kính Đức Mẹ khác nhau, thường liên quan đến các đền thờ, Mẹ chia sẻ lịch sử của tất cả những dân nhận được Tin Mừng, và trở thành một phần căn tính lịch sử của họ. Nhiều cha mẹ Kitô giáo xin cho con cái họ được Rửa Tội ở một đền Đức Mẹ, như thế tỏ bày niềm tin vào hành động mẫu tử của Đức Mẹ Maria trong việc sinh ra những người con mới cho Thiên Chúa. Ở đó, nơi các đền Đức Mẹ, chúng ta có thể quan sát Đức Mẹ Maria tụ tập chung quanh Mẹ những con cái, là những người với cố gắng hành hương đến để thấy Mẹ, để cho mình được Mẹ nhìn ngắm. Ở đó chúng ta tìm thấy sức mạnh của Thiên Chúa để chịu đựng những đau khổ và mệt mỏi của cuộc sống. Như đối với Thánh Juan Diego, Đức Mẹ ban cho họ sự an ủi và tình từ mẫu của mình và nói với họ, “Tâm hồn các con đừng xao xuyến [...] Mẹ là Mẹ của các con, Mẹ không có ở đây sao?” [213]

Ngôi sao của Tân Phúc Âm Hóa

287. Chúng ta xin Mẹ của Tin Mừng hằng sống cầu bầu cho chúng ta để toàn thể cộng đồng Hội Thánh chấp nhận lời mời gọi vào một giai đoạn mới của việc Phúc Âm hóa này. Mẹ là người nữ của đức tin, bước đi trong đức tin, [214] và “cuộc hành trình đức tin đặc biệt của Mẹ đại diện cho một điểm quy chiếu liên tục của Hội Thánh”. [215] Mẹ để cho mình được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần, qua một cuộc hành trình đức tin, hướng về một số phận phục vụ và sinh hoa trái. Bây giờ chúng ta hãy nhìn lên Mẹ, để xin Mẹ giúp chúng ta công bố sứ điệp cứu độ cho mọi người, và biến các môn đệ mới thành những nhà truyền giáo siêng năng. [216] Trong cuộc hành hương rao giảng Tin Mừng này sẽ không thiếu những giây phút khô khan, đen tối và thậm chí mệt mỏi, như Đức Mẹ đã sống trong những năm ở Nazareth, khi Chúa Giêsu đã lớn lên: “Đây là sự khởi đầu của Tin Mừng, tin mừng hân hoan. Tuy nhiên, không khó để thấy trong lúc ban đầu ấy một sự nặng nề đặc biệt của tâm hồn, kết hợp với một loại “đêm đen của đức tin” - sử dụng những lời của Thánh Gioan Thánh Giá - gần như là một “bức màn che” mà qua đó chúng ta phải tiếp cận Đấng vô hình và sống trong sự thân mật với mầu nhiệm. Thực ra, đây là cách mà Đức Mẹ Maria, trong nhiều năm, đã sống mật thiết với mầu nhiệm của Con Mẹ, và tiến bước trong cuộc hành trình của đức tin của Mẹ”. [217]

288. Có một “kiểu” Maria trong hoạt động truyền giáo của Hội Thánh. Bởi vì mỗi khi chúng ta nhìn lên Đức Mẹ, chúng ta lại tin vào sức mạnh cách mạng của sự dịu dàng và lòng trìu mến. Trong Mẹ, chúng ta thấy rằng khiêm nhường và dịu dàng không phải là nhân đức của những người yếu đuối nhưng của những người mạnh mẽ, là những người không cần phải đối xử tệ với người khác để cảm thấy rằng mình quan trọng. Nhìn lên Đức Mẹ Maria, chúng ta khám phá ra rằng Mẹ ca ngợi Thiên Chúa vì “Ngài đã hạ những người quyền hành xuống khỏi ngai vàng” và “đã cho những người giàu có trở về tay không” (Lc 1:52,53) giống như một người đem hơi ấm đến cho việc theo đuổi công lý của chúng ta. Đây cũng là người “cẩn thận giữ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Đức Mẹ Maria biết làm thế nào để nhận ra bước chân của Thần Khí Thiên Chúa trong những biến cố lớn và ngay cả trong những biến cố dường như không thể nhận thấy được. Đó là chiêm niệm về mầu nhiệm của Thiên Chúa trong thế gian, trong lịch sử và trong đời sống hàng ngày của mỗi người và mọi người. Chính Mẹ là người phụ nữ cầu nguyện và làm việc ở Nadareth, và cũng là Đức Mẹ Giúp Đỡ, một người “vội vã” rời làng mình để đi giúp đỡ người khác (Lc 1:39). Động năng này của công lý và sự dịu dàng, chiêm niệm cùng đi đến với những người khác, là những gì làm cho Mẹ trở nên một mô hình cho việc truyền giáo của Hội Thánh. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ để qua lời cầu nguyện từ mẫu của Mẹ, Mẹ giúp cho Hội Thánh trở nên một nhà cho nhiều người, một người mẹ cho tất cả các dân tộc, và làm cho có thể phát sinh một thế giới mới. Chính Đấng Phục Sinh đã nói với chúng ta, bằng một quyền năng, đổ đầy chúng ta với lòng tin tưởng và niềm hy vọng không gì có thể lay chuyển nổi: “Này, Ta làm mọi sự ra mới” (Kh 21:5). Cùng với Đức Mẹ Maria, chúng ta hãy tin tưởng tiến về phía lời hứa này, và hãy cùng nhau cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria, Nữ Trinh và Hiền Mẫu

Mẹ là Đấng đã được tác động bởi Chúa Thánh Thần,

đã đón nhận Lời ban sự sống

tận đáy lòng đức tin khiêm cung của Mẹ,

khi Mẹ phó thác hoàn toàn cho Đấng Muôn Đời,

xin giúp chúng con biết thưa tiếng “xin vâng”

trong sự cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết,

để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu.

Mẹ, là Đấng tràn đầy sự hiện diện của Đức Kitô,

Mẹ mang lại niềm vui cho Thánh Gioan Tẩy Giả,

làm cho ngài nhảy mừng ngay trong lòng mẹ.

Mẹ, lòng rộn ràng hoan hỉ,

Mẹ đã hát lên ca tụng những kỳ công của Chúa.

Mẹ, là Đấng đã đứng vững dưới chấn Thập Giá

với một đức tin kiên vững vô cùng,

Mẹ nhận được sự an ủi vui mừng về tin Sống Lại,

và đã hợp cùng các môn đệ trong Chúa Thánh Thần

ngõ hầu Hội Thánh rao giảng Tin Mừng có thể được sinh ra.

Xin cầu cho chúng con giờ đây có một nhiệt huyết mới của Phục Sinh

đề mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng sự sống

là điều đã chiến thắng sự chết.

Xin ban cho chúng con ơn mạnh dạn thánh để kiếm tìm những con đường mới

để đem đến cho tất cả mọi người

hồng ân của vẻ đẹp không bao giờ phai tàn.

Lạy Mẹ, Đức Trinh Nữ biết lắng nghe và chiêm niệm,

Mẹ của tình yêu, nàng dâu của tiệc cưới vĩnh cửu,

xin cầu bầu cho Hội Thánh, mà Mẹ là biểu tượng rất khiết trinh,

để không bao giờ Hội Thánh tự khép kín nơi mình

hoặc mất lòng say mê trong việc thiết lập Nước Trời.

Lạy Ngôi Sao của Tân Phúc Âm hóa,

xin giúp chúng con tỏa sáng qua việc làm chứng nhân của sự hiệp thông,

của phục vụ, của đức tin nhiệt thành và quảng đại,

của công lý và tình yêu dành cho người nghèo,

để cho niềm vui của Tin Mừng

có thể đi đến tận cùng của trái đất

và không có ngoại vi nào mà không có ánh sáng của nó.

Lạy Mẹ của Tin Mừng hằng sống,

nguồn mạch của niềm vui cho những người bé nhỏ,

xin cầu cho chúng con.

Amen. Alleluia!

Ban hành tại Rôma, nơi Đền Thờ Thánh Phêrô, vào dịp kết thúc năm của Đức Tin, ngày 24 tháng 11, Đại Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, năm 2013, năm thứ nhất của triều đại Giáo Hoàng của tôi.


PHANXICÔ

http://giaoly.org/vn/

---------------------------------

Notes:

[205] Cf. Propositio 36.

[206] JOHN PAUL II, Apostolic Letter Novo Millennio Ineunte (6 January 2001), 52: AAS 93 (2001), 304.

[207] Cf. V.M. FERNÁNDEZ, “Espiritualidad para la esperanza activa. Discurso en la apertura del I Congreso Nacional de Doctrina Social de la Iglesia (Rosario 2011)”, in UCActualidad, 142 (2011), 16.

[208] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990), 45: AAS 83 (1991), 292.

[209] BENEDICT XVI, Encyclical Letter, Deus Caritas Est (25 December 2005), 16: AAS 98 (2006), 230.

[210] Ibid., 39: AAS 98 (2006), 250.

[211] SECOND SPECIAL ASSEMBLY FOR EUROPE OF THE SYNOD OF BISHOPS, Final Message, 1: L’Osservatore Romano, Weekly English-language edition, 27 October 1999, 5.

[212] ISAAC OF STELLA, Sermo 51: PL 194, 1863, 1865.

[213] Nican Mopohua, 118-119.

[214] Cf. SECOND VATICAN ECUMENICAL COUNCIL, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 52-69.

[215] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Redemptoris Mater (25 March 1987), 6: AAS 79 (1987), 366-367.

[216] Cf. Propositio 58.

[217] JOHN PAUL II, Encyclical Letter Redemptoris Mater (25 March 1987), 17: AAS 79 (1987), 381.
 
Đức Phanxicô và lời mời gọi đối thoại với Hồi Giáo
Vũ Văn An
19:07 22/12/2013
Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng có nhiều điều tích cực, nó thúc đẩy người Kitô Giáo và người Hồi Giáo hướng tới một liên hệ yêu thương và sự thật, làm việc cho hòa bình, phong phú hóa lẫn nhau, chào đón di dân… Nhưng cũng có những điều khiến người ta phê phán: “Thiên Chúa cảm thương và nhân từ” của Hồi Giáo có thực sự là một với Thiên Chúa Ba Ngôi hay không? Và Chúa Giêsu cùng Đức Mẹ trong Kinh Kôrăng có giống hệt như trong các Tin Mừng hay không? Và chủ nghĩa cực đoan Kitô Giáo có y như chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo hay không? Như Đức Phanxicô nhấn mạnh, điều thực sự khẩn thiết là “đọc Kinh Kôrăng một cách thích đáng” điều mà người Hồi Giáo vẫn từ khước.

Theo Cha Samir Khalil Samir (*), Dòng Tên, một chuyên gia về Hồi Giáo và thường xuyên tiếp xúc với thế giới Trung Đông, tiết nói về đối thoại liên tôn (các số 250-254) của Niềm Vui Tin Mừng gây ấn tượng nơi cha hơn cả. Tuy nhiên, khi đọc kỹ phần nói về Hồi Giáo (các số 252-253), cha thấy cần phải phân tích một số điểm quan trọng và đáng lưu ý, đồng thời nêu ra một số khía cạnh quan yếu và gây thắc mắc trong mối liên hệ với Hồi Giáo dù nhận định chung của Cha Samir về Niềm Vui Tin Mừng là: Đức Phanxicô rất tích cực, một điều mang lại lợi ích thực sự cho xã hội hoàn cầu hóa của ta.

A. Sự cấp thiết của cuộc đối thoại chân chính

1. Chân lý và tình yêu (số 250)

Điều đầu tiên nhận thấy trong đoạn số 250 là “thái độ cởi mở trong chân lý và tình yêu”. Điều này hẳn nhiên phải lên đặc điểm cho mối liên hệ với các tôn giáo khác. Nó rất quan trọng đối với xã hội hoàn cầu hóa của ta, nơi ta thường xuyên tiếp xúc với thành viên các tôn giáo khác.

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh tới con đường đúng đắn phải theo để gặp gỡ và đối thoại, một con đường đòi cả “chân lý và tình yêu”: sẽ không có chân lý trong việc cứng rắn hóa các chủ trương; cũng sẽ không có tình yêu trong một đối thoại hàm hồ và mờ ảo. Thái độ cân bằng giữa chân lý và tình yêu là thái độ đúng đắn nhất, nhưng ngày nay dường như rất thiếu.

2 . Đối thoại và công bố (số 251 )

Ta thấy cùng một chủ đề trên trong đoạn số 251: “Trong cuộc đối thoại luôn thân ái và thành thực này, lúc nào cũng phải chú ý tới sợi dây chủ yếu liên kết đối thoại với việc công bố”.

Trong đối thoại, khi đụng tới việc công bố, hình như ta làm đối tác không hài lòng, vì họ hay tố cáo ta cải đạo họ. Thực ra, không hề là cải đạo. Vì yêu thương, tôi công bố tin mừng từng giải thoát tôi và đem niềm vui cho tôi. Và cả bạn nữa, bạn cũng nên cho tôi hay tin vui bạn tìm được trong đức tin của bạn. Ta nên giải thoát ta khỏi châm chích, tranh luận và thực hành trí thức nhằm thắng người khác, thay vì làm chứng về sự thật với nhau.

Mặt khác, chữ “công bố”, “tin mừng” có trong Thánh Kinh, và cũng có trong Kôrăng nữa. Chữ “tin mừng”, "euanghelos", tìm thấy trong Isaia, Máccô, Luca… Trong Kôrăng, ta thấy động từ "bashshara" = đem tin mừng (bishāra) và các phái sinh của nó. Người ta thường cho rằng Đức Muhammad được phái “đem tin mừng” (mubashshiran) tới. Và theo Kôrăng (61:6), chính Chúa Kitô nói với người Do Thái: “Tôi tới đem tin mừng (mubashshiran) của một tiên tri đến sau tôi, tên của ngài sẽ là Ahmad." Người Hồi Giáo giải thích đấng “Ahmad” này tương đương với Muhammad.

Còn hành động đem tin mừng thì trong tiếng Ả Rập là tabshīr, một chức năng tiêu biểu của các tiên tri. Người Hồi Giáo ngày nay dùng chữ này để chỉ trích các Kitô hữu, tố cáo họ thi hành "tabshīr" theo nghĩa cải đạo (proselytizing), do đó đã làm sai lệch ý nghĩa của tiếng Ả Rập trong Kôrăng. Người Hồi Giáo luôn dùng câu 61:6 này để xác minh rằng Chúa Giêsu loan báo sự xuất hiện của Đức Muhammad. Cải đạo là điều cần được lên án, vì qua phương thức này, tôi cố gắng dùng thủ đoạn để chinh phục người khác. Nhưng công bố có khác, nó đề nghị một điều tốt đẹp từng giải thoát tôi, và bạn, đến lượt bạn, bạn cũng nên công bố chân lý của bạn cho tôi.

Mỗi người chúng ta đều xác tín rằng ta có “tin mừng” cho nhân loại, tin mừng này trùng hợp với đức tin của ta. Người Hồi Giáo và cộng đồng Hồi Giáo có bổn phận phải truyền bá Hồi Giáo bằng Da'wa, nghĩa là “lời mời gọi” trở thành tín hữu Hồi Giáo, để mọi nhà nước Hồi Giáo đều có một thừa tác vụ Da'wa. Cũng thế, Kitô hữu và cộng đồng Kitô hữu cũng có bổn phận phải công bố đức tin, phải mời gọi người khác khám phá ra tin mừng! Hiểu một cách đúng đắn, đây là một hành vi yêu thương người khác. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng mời gọi ta công bố Tin Mừng cùng với đối thoại, trong một cử chỉ yêu thương và trọng sự thật.

Ngược lại, chủ nghĩa ba phải, chiết trung không tôn trọng cả tình yêu lẫn chân lý. Bởi thế, trong câu sau đây, Đức Giáo Hoàng mạnh dạn lên án chủ nghĩa ba phải này “Chủ nghĩa ba phải dễ dãi sau cùng sẽ trở thành cử chỉ độc tài toàn trị”.

3 . Chào đón người di dân Hồi Giáo (số 253)

Ngay cuối số 253, Đức Giáo Hoàng vẫn can đảm nói: “Kitô hữu chúng ta nên âu yếm và kính trọng đón lấy các di dân Hồi Giáo tới các xứ sở của ta”. Ở đây, Đức Giáo Hoàng cho ta thấy hậu quả lời ngài nói về “chân lý và tình yêu”: ta phải chào đón người di dân chứ không nên đóng cửa biên giới đối với họ như thường thấy hiện nay ở Tây Phương.

Chính ngài làm gương cụ thể khi đích thân tới Lampudesa ngày 8 tháng Bẩy năm 2013 và đọc bài diễn văn khởi đầu như sau: "Các di dân chết trên biển, trong những chiếc thuyền vốn được coi như cỗ xe hy vọng mà thực ra đã trở thành những cỗ xe chết chóc. Đó là cách các hàng tít lớn đã mô tả. Lần đầu tiên khi nghe biết thảm họa này cách nay mấy tuần, và được hiểu rằng nó xẩy ra rất thường xuyên, thảm họa này ám ảnh tôi hoài như chiếc gai làm trái tim tôi đau đớn. Bởi thế tôi thấy rằng tôi phải đến đây, phải cầu nguyện và tỏ dấu hiệu gần gũi, nhưng cũng để thách thức lương tâm ta kẻo thảm họa này cứ thế được lặp lại. Xin đừng, đừng để thảm họa này được lặp lại!” (1).

4 . Các nước Hồi Giáo nên chào đón các Kitô hữu (số 253)

Đồng thời ở đoạn số 253, Đức Giáo Hoàng nói thêm: “tôi yêu cầu và khiêm tốn khẩn khoản các nước ấy [và ở đây chúng tôi muốn nói Saudi Arabia, Iran, Afghanistan , ...] dành cho các Kitô hữu quyền tự do thờ phượng và thực hành đức tin của họ, dưới ánh sáng tự do mà các tín hữu Hồi Giáo đã được hưởng tại các nước Tây Phương!”

Ở đây, Đức GH Phanxicô đã có can đảm nói với các nước giầu có nhất trên thế giới, Saudi Arabia và một số nước của Vịnh Ả Rập, để họ bảo đảm quyền tự do thờ phượng. Cần phải nói rằng ngài không đề cập tới tự do lương tâm, hay tự do từ một tôn giáo này chuyển qua một tôn giáo khác. Nhưng tự do thờ phượng có tính quan trọng ngay trong nó và từ nó, trong khi hai triệu Kitô hữu đang sống và làm việc tại Bán Đảo Ả Rập không có quyền được có một nhà nguyện riêng!

Cũng trong khi đó, tự do lương tâm được mọi quốc gia Tây Phương bảo đảm. Chẳng sớm thì muộn, ta sẽ phải đòi hỏi đến cả tự do lương tâm tại các nước Hồi Giáo: đây là điều kiện của một sống chung thực sự, biết tôn trọng cá nhân, trong chân lý và tình yêu.

B. Mục đích của đối thoại

1 . Phục vụ hòa bình (số 250)

Mục đích của đối thoại là bảo đảm hòa bình trên thế giới: “đối thoại liên tôn là điều kiện cần thiết đối với hòa bình trên thế giới, và do đó, nó là một bổn phận đối với các Kitô hữu và các cộng đồng tôn giáo khác” (số 250) .

Xa hơn chút nữa, Đức Giáo Hoàng nói thêm: “sau đó ta có thể cùng nhau nhận lãnh bổn phận phục vụ công lý và hòa bình, bổn phận này phải trở thành nguyên tắc căn bản của mọi trao đổi giữa chúng ta” (số 250). Do đó, phục vụ là một bổn phận, và đặc biệt là phục vụ công lý và hòa bình. Và đó là bổn phận của các Kitô Hữu và mọi người có tín ngưỡng.

Thiển nghĩ, chữ “cùng nhau” rất quan trọng: đối thoại không phải chỉ là “tôi nói anh nghe” rồi sau đó “anh nói tôi nghe”, mà sự thật là việc “cùng nhau” ta phục vụ công lý và hòa bình. Đây là viễn kiến rất thực tiễn và có tính mục vụ của vị đương kim giáo hoàng.

Cuối cùng, cặp bài trùng “công lý” và “hòa bình” rất đáng lưu ý: “sau đó ta có thể cùng nhau nhận lãnh bổn phận phục vụ công lý và hòa bình, bổn phận này phải trở thành nguyên tắc căn bản của mọi trao đổi giữa chúng ta”.

Bạn không thể tạo hòa bình nếu không có công lý. Bao lâu có ai đó còn cảm thấy bất công, thì sẽ không có hòa bình. Ta hãy nghĩ tới cuộc tranh chấp giữa người Palestine và người Do Thái. Người Palestine tin rằng phần lớn lãnh thổ, nơi họ đang sống và đã sống hàng bao thế kỷ qua, nay bị tước đoạt khỏi tay họ, dù họ chẳng có lỗi lầm chi, để trao cho người khác đến từ phương xa, điều này quả bất công. Bao lâu sự bất công này không được thừa nhận và đền bù, sẽ không có hòa bình!

2 . Chấp nhận nhau với các khác biệt của ta (số 250, 252 và 253)

Hậu quả thực tiễn của cuộc đối thoại này là việc tôn trọng sự khác biệt của người khác, lắng nghe người khác, có thái độ thân ái với người khác.

Ở đoạn 250, ngài viết “Bằng cách này, ta học cách chấp nhận người khác và cách họ sống, suy nghĩ và ăn nói khác của họ. Việc chấp nhận người khác như khác biệt với tôi này rất chủ yếu. Chính trong nó, nhờ lắng nghe nhau, cả đôi bên đều được thanh tẩy và phong phú hóa”.

Không nên dùng lắng nghe và đối thoại để tấn công người khác, để nhục mạ, thay vì như một hành động thanh tẩy và phong phú hóa đối với tôi. Phải nhìn sự khác biệt từ một góc nhìn tích cực.

Chủ đề này được nói tới nhiều lần. Thí dụ, về người Hồi Giáo, ngài nói nhiều điều rất tích cực: “Điều kỳ diệu là được thấy người Hồi Giáo, cả trẻ lẫn già, cả đàn ông lẫn đàn bà, đã dành thì giờ ra sao để cầu nguyện hàng ngày và trung thành tham gia các buổi thờ phượng tôn giáo” (số 252).

Là Kitô hữu, ta nên học nơi họ trong việc dành giờ thường xuyên cầu nguyện. Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh tới tính tích cực trong việc làm chứng nhân của người Hồi Giáo, ngược với tính lỏng lẻo của Kitô Giáo Tây Phương.

Ngài cũng ca ngợi lòng đạo của người Hồi Giáo, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa: “Nhiều người trong số họ cũng có xác tín sâu sắc rằng đời sống họ, toàn bộ đời sống họ, phát sinh từ Thiên Chúa và dành cho Thiên Chúa” (số 252). Thái độ này phải cải sửa được thế giới Tây Phương ngày nay, một thế giới bị chủ nghĩa Prometheanism rù quyến, tức chủ nghĩa quá tin vào sức người.

Ở đoạn 253, ngài nhắc họ nhớ rằng một trong các điều kiện của đối thoại là phải “vững vàng và hân hoan đặt cơ sở trên chính bản sắc của họ, nhưng đồng thời cũng phải thừa nhận giá trị của người khác, biết đánh giá các quan tâm nằm bên dưới các đòi hỏi của họ, và soi sáng các niềm tin chung”.

Điều Đức Phanxicô nói về Hồi Giáo rất đúng, và nhiều người Hồi Giáo cảm nhận được điều ấy. Thí dụ, nhiều người Hồi Giáo coi trọng việc cầu nguyện. Nhưng theo cha Samir, chỉ chừng 10% người Hồi Giáo trung thành với việc cầu nguyện mà thôi. Chính cha, cách nay mấy ngày, đã gặp một gia đình Hồi Giáo ở Tripoli, Lebanon. Cả gia đình này, gồm cha mẹ và con cái, đều tôn trọng các giờ cầu nguyện. Chỉ vì tôn trọng cha, họ mới không rút lui để cầu nguyện mà thôi. Tuy nhiên, chuông điện thoại luôn reo đúng lúc để nhắc họ nhớ giờ cầu nguyện.

Tâm thức đạo đức nơi người Hồi Giáo mạnh mẽ hơn so với tâm thức Kitô hữu. Đức Phanxicô nhấn mạnh tới các khía cạnh tích cực này của Hồi Giáo để sửa sai phần nào những quên sót và bỏ sót của các Kitô hữu.

C. Các điểm cần minh xác

Giờ đây ta hãy xem sét một số điểm cần được minh xác. Ở đoạn 252, Đức Phanxicô trích dẫn văn kiện nổi danh của Công Đồng Vatican II, tức Nostra Aetate, để nói rằng người Hồi Giáo “tuyên bố duy trì đức tin của Ápraham, và cùng với ta, họ thờ lạy Thiên Chúa duy nhất và nhân từ, Đấng sẽ phán xét nhân loại vào ngày sau hết” (2) (số 198).

1 . Người Hồi Giáo “cùng chúng ta thờ lạy Thiên Chúa duy nhất và nhân từ” (số 252).

Thiển nghĩ nên thận trọng ở đây. Quả thực, người Hồi Giáo thờ lạy Thiên Chúa duy nhất và nhân từ. Câu này có thể khiến một số người nghĩ rằng: hai quan niệm về Thiên Chúa giống như nhau. Ấy thế nhưng Thiên Chúa của Kitô Giáo, trong yếu tính, vốn là Tam Vị Nhất Thể, một đa tính được tình yêu kết hợp lại: Người không phải chỉ là khoan dung và nhân từ mà thôi. Chúng ta có hai quan niệm rất khác nhau về Thiên Chúa duy nhất. Người Hồi Giáo coi Thiên Chúa là Đấng ta không thể tới gần được. Viễn kiến của Kitô Giáo về tính duy nhất của Tam Vị Nhất Thể nhấn mạnh rằng Thiên Chúa là tình yêu được thông truyền: Cha-Con-Thánh Thần, hay Đấng Yêu-Đấng Được Yêu-Tình Yêu, như Thánh Augustinô gợi ý.

Hơn nữa, người Hồi Giáo hiểu gì về lòng nhân từ của Thiên Chúa? Người có lòng nhân từ đối với những ai Người muốn chứ không phải đối với những kẻ Người không thích. “Allah chấp nhận những ai Người muốn vào tình nhân từ của Người” (Kôrăng 48:25) Kiểu nói này, nếu xét theo chiểu tự, thì giống như câu trong Cựu Ước (Xh 33:19). Nhưng nó không bao giờ tiến tới chỗ nói được rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4:16) như Thánh Gioan vốn định nghĩa.

Trong Hồi Giáo, lòng nhân từ là lòng thương của người giầu cúi xuống người nghèo và ban cho họ một điều gì đó. Nhưng Thiên Chúa của Kitô Giáo là Đấng đã hạ mình xuống hàng con người nghèo hèn để có thể nâng họ lên; Người không tỏ sự giầu sang của Người để được người nghèo tôn kính (hay sợ sệt); Người tự hiến mình để người nghèo được sống.

2 . Họ “duy giữ lại một số giáo huấn của Kitô Giáo? (No. 252)

Một điểm tế nhị nữa trong tông huấn là lời quả quyết rằng “các trước tác thánh của Hồi Giáo đã giữ lại một số giáo huấn Kitô Giáo” (số 252).

Điều này đúng theo một nghĩa nào đó, nhưng phần nào hàm hồ. Quả người Hồi Giáo có giữ lại một số chữ và sự kiện trong các tin mừng chính thức, như trình thuật Truyền Tin mà ta thấy hầu như nguyên văn trong các chương 3 (Gia đình Imran) và chương 19 (Mariam).

Nhưng thường xuyên hơn, Kôrăng được gợi hứng bởi những chuyện đạo đức lấy từ các tin mừng ngụy thư và không rút tỉa từ đó ý nghĩa thần học chứa đựng trong đó, và không cho các sự kiện và các chữ này ý nghĩa thực sự của chúng, không hẳn vì ác ý, mà đơn giản chỉ vì không mang theo viễn kiến toàn bộ của sứ điệp Kitô Giáo.

3 . Khuôn mạo Chúa Kitô trong các Tin Mừng và trong Kôrăng (số 252)

Kôrăng nhắc tới “Giêsu và Maria như là đối tượng của lòng tôn kính sâu xa”. Nói cho đúng, Chúa Giêsu không phải là đối tượng của lòng tôn kính trong truyền thống Hồi Giáo. Chỉ có Đức Maria mới được tôn kính, đặc biệt giữa giới phụ nữ Hồi Giáo, những người sẵn sàng đi tới những nơi hành hương để tôn kính ngài.
Việc thiếu lòng tôn kính đối với Chúa Giêsu Kitô có lẽ được giải thích bởi sự kiện: trong Kôrăng, Chúa Giêsu là một đại tiên tri, nổi danh vì các phép vì người nghèo và người bệnh, nhưng Người không bằng Muhammad. Chỉ những nhà huyền nhiệm mới tôn kính Người chút đỉnh, như là “Thần Khí Thiên Chúa”.

Thực ra, tất cả những gì Kôrăng nói về Chúa Giêsu đều ngược hẳn với giáo huấn Kitô Giáo. Người không phải là Con Thiên Chúa, mà chỉ là một tiên tri và chỉ có thế. Thậm chí, Người không phải là tiên tri sau cùng, vì “ấn tín các tiên tri” là Muhammad (Koran 33:40 ). Mạc khải Kitô Giáo chỉ được coi là bước hướng tới mạc khải tối hậu do Muhammad đem tới, tức Hồi Giáo.

4 . Kôrăng đi ngược mọi tín điều nền tảng của Kitô Giáo

Mọi tín điều nền tảng của Kitô Giáo đều bị Kôrăng và Hồi Giáo bác bỏ.

Khuôn mạo Chúa Kitô như Ngôi Hai Thiên Chúa Ba Ngôi bị kết án. Trong Kôrăng, người ta nói rõ với các Kitô hữu: “Ôi dân Thánh Kinh! Trong tôn giáo các ngươi, đừng nói quá cũng đừng nói bất cứ điều gì liên quan tới Allah ngoại trừ sự thật. Đấng Xức Dầu, Giêsu con Maria, chỉ là một thiên sứ của Allah, và là lời của Người mà chính Người truyền cho Maria, và là một thần trí phát xuất từ Người. Nên hãy tin Allah và các thiên sứ của Người, và đừng nói “Ba” – Hãy ngưng lại! (điều này) tốt hơn cho các ngươi!- Allah là Thiên Chúa duy nhất. Điều ấy quá xa vời đối với Uy Linh Siêu Việt của Người” (Koran 4:171 ). Những lời phản bác Ba Ngôi này đã quá rõ, không cần giải thích gì thêm.

Kôrăng vì thế thẳng thừng bác bỏ thần tính của Chúa Kitô: “Ôi Giêsu, con Maria, ngài có nói với dân ‘Hãy coi ta và mẹ ta như thần thánh ngoài Allah ra không?” (Koran 5:116 ). Và Chúa Giêsu trả lời: không!

Cuối cùng, Kôrăng cũng bác bỏ việc cứu chuộc. Thậm chí nó còn nói rằng Giêsu Kitô không chết trên Thánh Giá, nhưng chỉ giống như chết mà thôi: “Và họ không giết ngài, cũng không đóng đinh ngài; nhưng [một người khác] được tạo ra trông giống như ngài đối với họ” (Koran 4:157 ). Nhờ cách này, Thiên Chúa đã cứu ngài khỏi bàn tay tàn ác của người Do Thái. Nhưng như thế thì Đấng Kitô đâu có cứu chuộc thế gian!

Nói tóm lại, Kôrăng và người Hồi Giáo bác bỏ các tín điều chủ chốt của Kitô Giáo: Ba Ngôi, Nhập Thể và Cứu Chuộc. Cần thêm rằng đây là quyền tuyệt đối nhất của họ! Nhưng như thế bạn không thể cho rằng “các trước tác thánh của Hồi Giáo duy trì một phần giáo huấn của Kitô Giáo”. Bạn phải nói về đấng “Giêsu của Kôrăng” là đấng chẳng ăn nhằm gì với Chúa Giêsu của các Tin Mừng (3).

Kôrăng nhắc tới Chúa Giêsu vì nó muốn dùng mạc khải của Chúa Kitô để hiển dương Muhammad. Mặt khác, căn cứ vào những gì Chúa Giêsu và Đức Maria làm trong Kôrăng, ta thấy đó chỉ là việc áp dụng luật cầu nguyện và ăn chay theo Kôrăng mà thôi. Chắc chắn Đức Maria là nhân vật đẹp nhất trong tất cả các nhân vật được Kôrăng trình bày: Ngài là Trinh Nữ Mẫu Thân, người mà chưa người đàn ông nào đụng tới. Nhưng ngài không thề là Theotokos; ngài chỉ là người Hồi Giáo tốt (4).

D. Nhiều điểm tế nhị nữa

1 . Đạo đức trong Hồi Giáo và trong Kitô Giáo (số 252)

Câu cuối cùng của điểm này nói về người Hồi Giáo như sau: “Họ cũng thừa nhận nhu cầu đáp trả Thiên Chúa bằng một cam kết đạo đức và bằng lòng nhân từ đối với những ai túng thiếu”. Điều này đúng và lòng cảm thương đối với người nghèo là một đòi hỏi của Hồi Giáo.

Tuy nhiên, thiển nghĩ: có sự dị biệt kép giữa đạo đức Hồi Giáo và đạo đức Kitô Giáo.

Thứ nhất, đạo đức Hồi Giáo không luôn phổ quát. Nó thường là vấn đề liên đới bên trong cộng đồng Hồi Giáo, trong khi theo truyền thống Kitô Giáo, liên đới là liên đới với mọi người. Ta nên để ý: khi một thiên tai giáng xuống một vùng nào đó trên thế giới, các nước thuộc truyền thống Kitô Giáo giúp đỡ bất kể các xác tín tôn giáo của những người cần được giúp đỡ, trong khi các nước Hồi Giáo giầu có như các nước thuộc Bán Đảo Ả Rập chẳng hạn, thì không.

Thứ hai, Hồi Giáo cột đạo đức vào pháp luật. Những ai không ăn chay trong tháng Ramadan đều bị kết án và tại một số quốc gia còn phải ngồi tù nữa. Nếu bạn giữ chay, từ sáng tới tối, bạn là người hoàn hảo, dù sau đó từ lúc mặt trời lặn tới lúc mặt trời mọc vào ngày hôm sau, bạn muốn ăn bao nhiêu, hơn cả lệ thường cũng không sao, “ăn những thứ ngon nhất và ăn bừa phứa” như một người bạn Hồi Giáo Ai Cập nói với Cha Samir. Xem ra ăn chay dịp Ramadan đã mất hết ý nghĩa nếu nó trở thành dịp để người ta ăn nhiều hơn, và ăn những của ngon nhất. Ngày hôm sau, nếu không ai ngủ vì bận ăn uống suốt đêm, thì không ai đi làm cả. Tuy nhiên, theo quan điểm chính thức, tất cả đều phải ăn chay ít giờ. Đây là nền đạo đức có tính pháp chế: nếu bạn làm điều đó, bạn o.k. Một nền đạo đức bề ngoài.

Thay vào đó, ăn chay trong Kitô Giáo nhằm đem ta lại gần sự hy sinh của Chúa Kitô hơn, trong tình liên đới với người nghèo. Nó không cho phép có khoảng thời gian ban ngày hay ban đêm trong đó, ta được quyền bù trừ ăn những thức ăn mình chưa ăn.

Bao lâu tín hữu giữ luật Hồi Giáo, mọi sự đều yên ổn. Công lý do luật pháp đòi hỏi, nhưng không nên đi quá. Đó là lý do tại sao theo Kôrăng, không có bổn phận nào phải tha thứ, trong khi trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy ta phải tha thức bẩy mười lần bẩy (xem Mt 18:21-22). Trong Kôrăng, lòng nhân từ không bao giờ đạt tới mức yêu thương.

Đối với đa thê cũng thế: bạn có thể lấy tới 4 vợ. Nếu bạn muốn có bà thứ năm, thì chỉ cần bỏ một trong những bà đã có, có thể là bà già nhất, và cưới cô dâu trẻ hơn. Và như thế, vì tôi chỉ luôn luôn có bốn vợ trong một thời gian nhất định, nên mọi sự đều hợp luật một cách hoàn hảo.

Cũng có chuyện ngược lại, như đối với đồng tính luyến ái. Mọi tôn giáo đều coi đó là tội.Nhưng đối với người Hồi Giáo, nó còn là một hình tội đáng phạt tử hình nữa. Trong Kitô Giáo, nó là một tội nhưng không phải là một hình tội. Lý do rất hiển nhiên: Hồi Giáo không những là một tôn giáo, một nền văn hóa mà còn là một hệ thống xã hội và chính trị nữa, nó là một thực tại toàn diện. Và điều đó đã được công bố rõ ràng trong Kôrăng. Tin Mừng thì trái lại phân biệt rõ chiều kích thiêng liêng và chiều kích đạo đức trong đời sống xã hội, văn hóa và chính trị.

Đối với sự trong sạch cũng thế, như Chúa Kitô đã giải thích rõ với người Biệt Phái “Điều vào miệng người ta không làm họ ô uế, nhưng điều từ miệng họ mà ra mới làm cho người ta ô uế” (Mt 15 , 11) .

2 . "Những người duy cực đoan ở cả hai phía" (số 250 và 253)

Sau cùng, có hai điểm thiết tưởng nên xem sét: thứ nhất, là việc Đức Phanxicô liệt kê mọi chủ nghĩa cực đoan chung với nhau. Trong đoạn 250, ngài viết “Thái độ cởi mở trong chân lý và tình yêu phải lên đặc điểm cho cuộc đối thoại với các tín hữu của các tôn giáo không phải là Kitô Giáo, bất chấp một số trở ngại và khó khăn khác nhau, nhất là các hình thức duy cực đoan ở cả hai phía”.

Thứ đến là câu kết luận của phần nói về các liên hệ với Hồi Giáo kết thúc bằng câu này: “đứng trước các thời kỳ bất hòa của chủ nghĩa cực đoan bạo động, lòng tôn trọng của ta đối với các tín hữu đích thực của Hồi Giáo nên dẫn ta tới việc tránh các tổng quát hóa có tính kỳ thị, vì Hồi Giáo chân chính và việc đọc Kôrăng đúng đắn đối nghịch hẳn với mọi hình thức bạo động” (số 253).

Thiển nghĩ không nên đặt cả hai hình thức cực đoan này trên cùng một bình diện: những người Kitô hữu duy cực đoan không mang vũ khí; chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo bị phê phán, vì người Hồi Giáo tìm cách sao chép mô thức của Muhammad. Trong đời ngài, Muhammad vốn mở hơn 60 cuộc chiến tranh (5), nên nay, nếu ngài là mô thức siêu đẳng (như Koran 33:21 quả quyết), thì đâu có lạ gì khi một số người Hồi Giáo sử dụng bạo lực để bắt chước đấng sáng lập ra Hồi Giáo.

3 . Bạo lực trong Kôrăng và trong đời Muhammad (số 253)

Cuối cùng, Đức Phanxicô nhắc đến bạo lực trong Hồi Giáo. Ở đoạn số 253, ngài viết: “Hồi Giáo đích thực và việc giải thích đúng đắn Kinh Kôrăng chống lại mọi bạo lực”.

Câu trên rất đẹp và biểu lộ thái độ thiện cảm của Đức Giáo Hoàng đối với Hồi Giáo. Tuy nhiên, theo thiển ý, nó nói lên một ước vọng hơn là một thực tế. Nói rằng đa số người Hồi Giáo chống đối bạo lực thì có thể đúng. Nhưng nếu nói “Hồi Giáo đích thực chống lại mọi bạo lực” thì xem ra không đúng lắm. Vì rõ ràng trong Kôrăng có bạo lực (6). Thành thử nói “Hồi Giáo đích thực và việc giải thích đúng đắn Kinh Kôrăng chống lại mọi bạo lực” thì cần phải giải thích rất nhiều.

Chỉ cần trích các chương 2 và 9 của Kôrăng. Về khía cạnh này, đúng hơn nên nói: Hồi Giáo cần được “giải thích đúng đắn”. Một số học giả vốn đã chọn con đường này nhưng không đủ để đánh đổ sức mạnh của đa số. Nhóm thiểu số này cố gắng tái giải thích các bản văn Kôrăng nói tới bạo lực, bằng cách chứng tỏ rằng những bản văn này liên hệ tới bối cảnh của vùng Arabia vào lúc đó và chính viễn kiến chính trị và tôn giáo của Muhammad.

Nếu Hồi Giáo cứ nhất định ở lại trong viễn kiến ấy, thì bạo lực vẫn luôn còn đó. Nhưng nếu Hồi Giáo mốn tìm ra một nền linh đạo sâu sắc, như một số không nhỏ các nhà huyền nhiệm của họ từng làm, thì bạo lực sẽ không còn đó nữa.

Hồi Giáo đang ở một ngã tư đường: hoặc tôn giáo là con đường dẫn tới chính trị và tới một xã hội được tổ chức theo chính trị, hoặc nó là một linh hứng để ta sống và yêu thương trọn vẹn hơn.

Những người chỉ trích Hồi Giáo về phương diện bạo lực không tổng quát hóa một cách bất công và đáng ghét, bởi họ có quá nhiều minh chứng qua các tranh chấp đẫm máu liên tiếp diễn ra trong thế giới Hồi Giáo.

Tại đây, tức tại Phương Đông này, người ta hiểu rất rõ rằng chủ nghĩa khủng bố Hồi Giáo đã được tôn giáo lên động lực với rất nhiều trích dẫn, lời cầu nguyện và kết án (fatwas) của các giáo sĩ nhằm khuyến khích bạo lực. Sự thật là không hề có một thẩm quyền trung ương nào để kiểm soát việc thao túng Hồi Giáo này. Điều này có nghĩa giáo sĩ nào cũng có thể là một mufti (luật sĩ?), có thẩm quyền đối với cả nước, toàn quyền ra các phán quyết nói là do Kôrăng linh hứng và do đó ra lệnh giết chóc được.

E. Kết luận: đọc Kôrăng cho đúng đắn

Xét cho cùng, điều quan trọng nhất vẫn là một cách “đọc đúng đắn”. Trong thế giới Hồi Giáo, cuộc tranh luận nóng bỏng nhất, thực ra bị cấm đoán hơn cả, chính là việc giải thích sách thánh. Người Hồi Giáo tin rằng Kôrăng phát xuất từ Muhammad, một cách trọn vẹn, dưới hình thức ta biết hiện nay. Họ không có quan niệm linh hứng về các bản văn thánh, một quan niệm biết chừa chỗ cho việc giải thích các yếu tố nhân bản trong lời Thiên Chúa.

Ta hãy lấy một thí dụ. Thời Muhammad, với các bộ lạc sống trong hoang địa, người ta trừng phạt kẻ trộm bằng cách cắt đôi tay anh ta. Nhằm mục đích gì? Để anh ta hết còn ăn trộm. Như thế, ta hẳn phải hỏi: ngày nay, ta có thể duy trì được mục đích kia cách nào để anh ta đừng ăn trộm nữa không? Liệu ta có thể sử dụng các phương pháp khác mà không cần đến việc cắt tay người ăn trộm nữa không?

Ngày nay, mọi tôn giáo đều có vấn đề này: phải tái giải thích các bản văn thánh ra sao, vì các bản văn này tuy có giá trị trường cửu nhưng giá trị trường cửu này đã phát xuất hàng thế kỷ, thậm chí cả hàng nghìn năm trước.

Khi hỏi đâu là mục đích (maqased), hay định mức trong Kôrăng, thì một số luật sĩ và thần học gia của Hồi Giáo cho hay ta nên tìm “các mục tiêu của luật Thiên Chúa” (maqāsid al-sharī'a) . Kiểu nói này tương đương với điều Tin Mừng gọi là “tinh thần” của bản văn, ngược với “chữ nghĩa” (text). Ta nên đi tìm ý hướng của bản văn thánh trong Hồi Giáo. Khám phá ra các ý hướng này để thích ứng bản văn Kôrăng với thế giới hiện đại. Thiển nghĩ đây mới thực sự là điều Đức Phanxicô muốn nói khi ngài đề cập tới việc “đọc Kôrăng cách đúng đắn”.

(*) AsiaNews, 12/19/2013 VATICAN - ISLAM, Pope Francis and his invitation to dialogue with Islam
[1] http://www.vatican.va/holy_father/francesco/homilies/2013/documents/papa-francesco_20130708_omelia-lampedusa_en.html
[2] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, 16.
[3] Muốn xem thêm cuộc thảo luận về điều này, xin xem Samir Khalil SAMIR, "Christian and Muslims or how to live together with different dogmas," trong: AsiaNews, 1 tháng Tư, 2008.
[4] Xem Michel DOUSSE, Mary the Muslim. The importance and significance of the mother of the Messiah in the Koran (ed. Arkeios, 2008).
[5] Xem tiểu sử Tiên Tri Hồi Giáo, Kitāb al-Maghāzī do Al-Wāqidī viết 748-822, cuốn này được coi như trước tác sớm sủa nhất về cuộc đời Muhammad. Bản dịch tiếng Anh History of Muhammad's Campaigns của Marsden Jones và Alfred von Kremer (Calcutta, 1856) có trên internet: https://archive.org/details/kitbalmaghz00kremgoog.
[6] Xem: Samir Khalil SAMIR, Violence et Non-violence dans le Coran et l'Islam, coll. «Cahiers de l'Orient Chrétien» 4 (Beyrouth : CEDRAC, 2005), p. 64.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thiếu nhi Giáo xứ Phú Bình thi làm hang đá
Lê Hoàng Vũ
12:33 22/12/2013
SAIGÒN - Hôm nay, Chúa Nhật ngày 22.12.2013, tại khuôn viên nhà thờ giáo xứ Phú Bình, các em thiếu nhi đã có cuộc thi làm hang đá mừng Chúa Giáng sinh. Được biết, đây là sinh hoạt cách năm một lần của đoàn thiếu nhi, nhằm đánh động các em có sự chuẩn bị tâm hồn đón mừng lễ Giáng sinh.Sau thánh lễ 7 giờ dành cho thiếu nhi, các em trở về với lớp giáo lý của mình theo sự hướng dẫn của các anh chị Huynh trưởng đã cùng nhau làm hang đá.Riêng với các lớp Chiên con và Ấu nhi, các anh chị làm thay cho các em, và các em được mời cùng tham gia.

Hình ảnh

Sau đó, khoảng 14 giờ 30 các lớp đều hoàn tất công việc và chuẩn bị cho phần chấm điểm thi đua.Cha chánh xứ Phú Bình Giuse Nguyễn Văn Niệm, Sr phụ trách và các anh chị Huynh trưởng trong ban điều hành TNTT đi qua từng kiểu hang đá của các lớp. Mỗi lớp một vẻ, với 12 kiểu hang đá, các em thiết kế theo sự hiểu biết đơn sơ của mình, trình bày về mầu nhiệm Chúa Giáng sinh một cách rất đời thường và dung dị.Trong tâm thức của những bạn nhỏ khoảng từ 5 - 10 tuổi, lớp Ấu và Chiên con, nổi bật lên lòng yêu mến Chúa Giêsu giáng sinh trong cảnh nghèo hèn lạnh giá.Ngài là một người bạn thân thiết của mỗi thiếu nhi.Kiểu hang đá của những lớp này thường được trang trí bằng những cánh thiệp, những bức thư gởi Chúa Giêsu Hài Đồng, tâm sự vui buồn với Chúa.

Riêng với những bạn lớp lớn của đoàn thiếu nhi như Nghĩa sĩ. Hiệp sĩ,Tông đồ đội trưởng, kiểu hang đá của các lớp này diễn tả một chọn lựa dứt khoát theo Chúa Giêsu, qua việc dành thời giờ cho Chúa.Các em cũng nói lên được thực trạng xã hội hôm nay, người trẻ đang bị thu hút bởi các mạng xã hội Facebook,Twitter,Youtube, các thần tượng ngôi sao âm nhạc thể thao làm cho các em quên mất Chúa trong đời sống của mình, nhiều bạn không còn tha thiết với việc tham dự thánh lễ, học giáo lý…Các em cũng nói lên được ý nghĩa của Năm Tân Phúc âm hóa gia đình bằng những kiểu hang đá theo mô hình của một quyển sách Kinh Thánh.

Đi qua từng lớp giáo lý, cha chánh xứ nghe các em trình bày về kiểu mẫu hang đá của lớp mình và luôn kèm theo những tràng pháo tay những trận cười vui vẻ.Cha cũng khuyên các em hãy sống tuổi thơ của mình làm sao diễn tả được niềm vui Chúa Giáng sinh, Chúa mang đến niềm vui cho tất cả mọi người, và các em phải sống thật ngoan hiền dễ thương, luôn yêu thương và biết vâng lời cha mẹ.Cha chánh xứ cũng chụp hình lưu niệm với các em cùng với những kiểu hang đá của mỗi lớp.
 
Bế giảng lớp Giáo lý Hôn nhân liên xứ
Thanh Xuân
12:37 22/12/2013
PHAN THIẾT - Lúc 9h00 sáng Chúa Nhật ngày 22/12/2013, Giáo xứ Thanh Xuân tổ chức lễ Bế giảng và trao chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân cho các học viên thuộc 4 giáo xứ liên hệ vùng Lagi: Vinh Tân, Vinh Thanh, Thanh Xuân và Tân Lý. Lớp học còn có sự tham dự của những học viên thuộc nhiều giáo xứ khác trong và ngoài giáo phận đang công tác hay làm việc tại vùng Lagi.

Hình ảnh

Tham dự lễ Bế giảng có sự hiện diện của Cha Phêrô Nguyễn Viết Hiền (Chính xứ Giáo xứ Thanh Xuân), Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu (Chính xứ Giáo xứ Vinh Tân, trưởng Ban Giáo lý Giáo phận), Cha Tôma Nguyễn Văn Hiệp (phó xứ Thanh Xuân), quí Thầy Phó tế, quí Giảng viên, quí Hội đồng Mục vụ Giáo xứ… và đông đủ các học viên.

Theo định hướng, mỗi năm sẽ có 4 khóa Giáo lý Dự bị Hôn nhân Liên xứ mở liên tục luân phiên tại 4 giáo xứ liên hệ. Hiện nay đã tổ chức được hai khóa: khóa I tổ chức tại Giáo xứ Vinh Tân, kết thúc vào tháng 9/2013; khóa II tổ chức tại Giáo xứ Thanh Xuân từ ngày 06/10 – 22/12/2013; Còn khóa III sẽ được tổ chức tại Giáo xứ Tân Lý vào tháng 01/2014; khóa IV tại Giáo xứ Vinh Thanh.

Khóa II có tất cả 107 học viên. Sau ba tháng học cùng với ba lần thi kiểm tra (kinh, giáo lý căn bản, giáo lý hôn nhân), cuối khóa có 95 học viên được cấp chứng chỉ. Trong đó, có 46 học viên đạt loại giỏi (48,2%), 37 học viên đạt loại khá (40,2%), 12 học viên trung bình (11,6%).

Trong bài huấn từ, Cha Chính xứ Thanh Xuân mời gọi các học viên hãy đem những kiến thức đã học vào đời sống gia đình, hầu có thể tạo dựng một gia đình hạnh phúc theo giáo huấn của Giáo Hội và thánh ý Chúa.

Cha Giuse trong tư cách là Trưởng ban Giáo lý Giáo phận cũng có lời chúc mừng các học viên đã đạt kết quả tốt và xem mô hình đào tạo Giáo lý Hôn nhân Liên xứ là sáng kiến mục vụ cần được nhân rộng. Mô hình đào tạo này tiết kiệm được thời gian cho các cha quản xứ và thuận tiện cho các học viên. Ngoài ra, ban giảng huấn lại chất lượng và hùng hậu bao gồm các cha, các phó tế và các chuyên viên chọn lựa từ các giáo xứ.

Sau phần trao chứng chỉ Giáo lý Dự bị Hôn nhân là tâm tình biết ơn của các học viên đối với quí Cha và Ban Giảng huấn. Nhìn những ánh mắt long lanh đong đầy niềm vui như thấy được sự dâng trào khát vọng muốn kiến tạo nên những mái ấm gia đình yêu thương trong thánh ý Chúa nơi các học viên.
 
GP. Ban Mê Thuột : Hội diễn thánh ca Noel 2013
Anh Thư
21:22 22/12/2013
Năm nay, được sự chấp thuận và cổ vũ của ĐGM Giáo phận, liên Ban Văn hóa Truyền Thông và Thánh Nhạc tổ chức hai đêm trình diễn Thánh Ca 19 và 20 tháng 12 năm 2013, tại Trung Tâm Mục Vụ Giáo phận, với nội dung Tôn vinh Mầu Nhiệm Nhập Thể và ngợi khen Đức Maria như là Bình Minh báo hiệu Đấng Cứu Thế ngự đến.

Xem Hình

Trung Tâm Mục vụ Giáo phận Banmêthuột mấy ngày nay đã được trang hoàng rực rỡ với những ánh đèn đủ sắc màu. Hai đêm 19 và 20. 12. 2013 trong bầu khí tưng từng đón mừng đại lễ Con Thiên Chúa giáng trần, từng đoàn người từ nhiều giáo xứ trong giáo phận tuôn về Trung Tâm Mục vụ để dự đêm Hội Diễn Thánh Ca Giáng sinh. Những bản thánh ca từ máy phát vang lên trong không khí giá lạnh mùa đông trên cao nguyên, đã làm cho bầu khí kỷ niệm ngày Con Chúa nhập thể năm nay thêm rộn rã, khởi đầu cho năm TÂN PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH.

ĐÊM 19. 12. 2013

Đúng 19g00, quí linh mục hai ban Văn Hóa Truyền Thông và Thánh Nhạc đón tiếp Đức Giám Mục Giáo phận, Linh mục, Tu sĩ và quí khách tiến về lễ đài trong tiếng nhạc hoành tráng âm vang.

Mở đầu đêm Thánh nhạc là màn chào mừng của đội trống giáo xứ Đông Sơn và đội kèn của giáo xứ Phúc Lộc rộn rã hân hoan, khiến đất trời cao nguyên như bừng sáng chào đón Đấng Cứu Tinh. Linh mục Antôn Vũ Thanh Lịch, Trưởng Ban Văn hóa Truyền Thông và là trưởng Ban tổ chức Đêm Hội diễn Thánh nhạc, đọc diễn văn chào mừng: Đêm nay, chúng ta tưởng niệm và tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa nhập thể làm người(Ga 1, 14) Vì lẽ đó, ta cũng có thể nói: “Ngôi Lời nhập thể chính là Tình yêu Thiên Chúa Nhập Thể. Thiên Chúa quyền năng, nhưng sự cao cả đích thực của Người là ở khả năng yêu thương vô bờ bến, khả năng khơi lên ngọn lửa yêu mến từ chính nguồn lửa thiêng nơi Người. Nói tắt đó là: Một tình yêu có khả năng đi vào cái chết để cứu độ chúng ta”.

Cha Antôn cũng nói lên ý nghĩa chủ đề: “ Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người”: “Chúng ta vừa qua một năm, gọi là năm Đức Tin. Năm Đức tin nhằm củng cố, bồi dưỡng Đức Tin. Nội dung Đức Tin và tâm điểm của Đức Tin chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người và ở giữa chúng ta, Ngài là ánh sáng thật đã đến thế gian, và chiếu soi mọi người, (Ga 1, 9 – 10). Như vậy, Đức Tin của chúng ta cũng là ánh sáng có khả năng chiếu sáng mọi ngõ ngách cuộc đời con người. Để có ánh sáng mạnh mẽ thấu suốt như thế, nó dứt khoát phải đến từ ThiênChúa như cội nguồn nguyên thủy (Lumen Fidei) - Đêm nay, chúng ta cũng ca ngợi một người phụ nữ được mệnh danh là Mẹ của lòng tin, Đấng Đầy Ân Sủng, là Mẹ Thiên Chúa, Đấng là Vinh Hiển, là Niềm Vui của Israel mới, là Bình Minh báo trước Đấng Cứu Độ sẽ đến… đó là Đức Maria Diễm Phúc."

Những bản thánh ca đã được các ca đoàn dàn dựng thật kỹ lưỡng, công phu được ĐGM đánh giá cao. Có những ca đoàn từ những giáo xứ xa vài trăm cây số, rất hăng hái tham gia như giáo xứ Long Điền, Bù Đăng. Các giáo xứ như Phúc Lộc, Vinh Hương Quảng Đà, Xuân Hòa cách xa gần trăm cây số, có nơi từ vùng sâu vùng xa như giáo xứ Quảng Đà. Tất cả đã làm cho đêm Thánh Nhạc thật rộn rã vui tươi. Bởi năm nay (theo lời ĐGM) nhiều ca đoàn đầy thiện chí tập hợp nhiều thế hệ cùng hát chung. Những bản thánh ca nối tiếp nhau cất lên như liên khúc của Tình Yêu, khơi dậy trong lòng mọi người niềm khát khao một mùa Giáng Sinh an bình và hạnh phúc. Từ những ca đoàn kỳ cựu như Châu Sơn, Vinh Hòa, Kim Phát, Vinh Hương, đến những ca đoàn mới nổi như Long Điền, Phúc Lộc, Duy Hòa, Xuân Hòa, Nam Thiên… Những màn vũ "Thiên sứ ánh sáng" và hoạt cảnh "Tiệc cưới Cana" của giáo xứ Bù Đăng...tạo nên đêm thánh ca thật sống động vui tươi và đầy ý nghĩa. Những điệu múa dân tộc H'Mông của giáo xứ Quảng Đà độc đáo, hay "Âm vang Tây nguyên" của nội trú Chính Nghĩa uyển chuyển bên tiếng cồng chiêng ngân vang. Tất cả trên 1000 diễn viên, đã làm nên đêm Thánh ca mừng Chúa giáng thế thật phong phú, sinh động và vui tươi.

ĐÊM 20. 12. 2013

Khi gió đông về, những cơn gió càng lúc càng mạnh hơn, vạn vật dần chìm trong u ám của mùa đông, chờ mùa xuân đến. Hội Thánh đang sống những ngày cuối cùng của Mùa Vọng trong tâm tình khát khao chờ mong Đấng Cứu Thế - Hoàng Tử Bình An, Mùa Xuân của nhân loại. Trong lời chào mừng ĐGM, quí linh mục, tu sĩ, quí khách mời, quí anh chị em thuộc các tôn giáo bạn và toàn thể cộng đoàn dân Chúa, linh mục Antôn Vũ Thanh Lịch, trưởng Ban Tổ chức đêm Hội diễn Thánh ca, đã nói lên ý nghĩa của sự chờ mong đó: “Tất cả Cựu ước dẫn ta đến với Đức Kitô như là tâm điểm của Đức Tin Kitô giáo. Đức Giêsu cũng đã quả quyết: “Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của Tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ” (Ga 8, 56). Thánh giáo phụ Augustinô cũng hiểu như thế khi quả quyết: “ Các Tổ phụ đã được cứu bởi Đức Tin. Tin vào Đức Kitô sẽ đến. Người trở thành câu trả lời “CÓ” dứt khoát cho mọi lời hứa”. Nơi Đức Kitô mọi lời hứa được thực hiện, sự khả tín của Thiên Chúa được đóng dấu, và Tình Yêu của Ngài được bày tỏ trọn vẹn. Chính vì thế, Đức tin Kitô giáo là tin vào một tình yêu tuyệt hảo làm nền tảng cho mọi thực tại, và dẫn đến vận mệnh sau cùng”.

Với tâm tình tha thiết nài van xin Chúa đến, toàn thể cộng đoàn cùng đứng cất cao bài “Trời Cao” mở đầu chương trình đêm Thánh ca:

Trời cao hãy đổ sương xuống

Và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội

Trời cao hay đổ sương xuống

Và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời …

Tiết mục “Cồng chiêng Tây nguyên” tiếp tục chương trình đêm Hội diễn Thánh ca Noel, do các em dân tộc nhà lưu trú Têrêxa trình diễn rất độc đáo, đã làm cho không khí đêm Thánh ca Mùa Cứu Rỗi tưng bừng rộn rã bởi những tràng pháo tay tán thưởng. Các ca đoàn tham gia trình diễn đã đem hết khả năng và tinh hoa của mình để trình bày các bản hợp xướng với những giai điệu thánh thót du dương, những khúc ca hoành tráng để ca ngợi Tình Yêu Giáng Thế qua các bản nhạc kinh điển: “Mầu Nhiệm Tình Thương”(Kim Long), của ca đoàn giáo xứ Đồng Xoài; “Kinh Ngợi khen” (của Hải Linh) do ca đoàn giáo xứ Vinh An; "Halleluia " (của Frideric Handel) do ca đoàn Tân Hòa; “Đêm Bêlem” (của Kim Long) do ca đoàn Dũng Lạc; “Đêm Nhiệm Mầu” (của Ngọc Linh) của ca đoàn Chính tòa BMT; “Vinh Danh Thiên Chúa” ca đoàn Đồng Xoài; "Vị Cứu tinh" (Kim Long) ca đoàn Kim Châu;"Đêm Linh Thiêng" (Ngọc Linh) ca đoàn Chi Lăng;"Đêm tình Yêu" (nhạc Thái Nguyên) ca đoàn Đức Hạnh. Ngợi khen Đức Maria với bài “Nữ Vương Hòa Bình” ( Hải Linh) của ca đoàn Vinh Quang... Những bản hợp xướng, điệu múa, hoạt cảnh, nhạc cảnh do các giáo xứ trong Giáo phận trình diễn rất phong phú, đã khiến hàng ngàn khán thính giả say sưa thưởng thức một “bữa tiệc” thánh nhạc Giáng Sinh đến phút cuối. Hai đêm thánh ca đã qui tụ 2.268 diễn viên các giáo xứ trong Giáo phận, từ cụ già 80 tuổi đến những em bé mẫu giáo mầm non Họa Mi. Đặc biệt những "chú chim Họa Mi" đơn sơ, vui tươi, nhí nhảnh, dễ thương, biểu diễn múa hát "Ánh sáng Bêlem" thể hiện qua bài hát TÍT TRÊN CAO ( của nhạc sĩ Thông Vi Vu), được khán thính giả hoan nghênh nhiệt liệt.

Được mời phát biểu, nhạc sĩ Linh Nga Niê Kdam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Chi hội trưởng hội âm nhạc Daklak bày tỏ: “Tôi thật vui sướng được tham dự hai đêm thánh ca ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh này, lòng tôi rộn rã hân hoan. Đã hơn 20 năm tôi qua chưa được nghe những bản hợp xướng tuyệt vời như vậy, chất giọng ca solo thật điêu luyện, tôi rất cảm phục các anh chị ca viên, diễn viên… Tôi rất cảm phục!”

Trong lời huấn từ, ĐGM đã ca ngợi: “Đêm Thánh ca thật tuyệt vời”. Ngài nói: “ Chúng ta vừa hát, vừa nghe hát, vừa cùng chung tâm tình cầu nguyện trong niềm vui Giáng Sinh. Các ca đoàn hát rất hay, có khả năng hát những bài hợp xướng của Hải Linh, Kim Long, Frederic Handel. ..Tất cả mọi người làm nên một đại gia đình, đều tham gia với hết khả năng và lòng nhiệt thành của mình; từ các các ca viên đến các đội múa, các chuyên viên âm thanh, ánh sáng… đã nỗ lực hết mình để có được đêm Thánh ca làm rung động tâm hồn mỗi người. Nhạc cảnh của Trường mầm non Họa Mi, dòng Nữ Vương Hòa Bình, Hoa Cúc, giáo xứ Buôn Hồ, Hòa Bình…rất sinh động hào hứng. Những ca viên là những người lao động giỏi trên nương rẫy, chân lấm tay bùn, những học sinh, các em nhỏ mẫu giáo mầm non... hòa với ánh đèn rực rỡ đã làm đêm Thánh ca thật huy hoàng… Tất cả làm nên đại gia đình Giáo phận hiệp nhất, yêu thương.”

ĐGM cảm ơn Ban Tổ chức, cảm ơn tất cả mọi thành phần dân Chúa, các ca đoàn đến từ Bình Phước, Daknông, Daklak, tất cả mọi người đã góp phần vào sự thành công của hai Đêm Hội Diễn thánh ca mừng Chúa Giáng Sinh.

Trước khi kết thúc chương trình hai đêm thánh ca, ĐGM và toàn thể mọi người trang trọng và sốt sắng cất cao bài thánh ca "Hang Bêlêm" trong tâm tình kính mừng Vua Trời Giáng Thế. ĐGM ban phép lành và chúc mọi người một mùa Giáng Sinh an bình trong Tình Yêu Chúa Hài Nhi.

Mọi người hân hoan ra về mà vẫn còn nghe văng vẳng bài thánh ca:

Đêm thanh nghe hát của Thiên Thần, chung nhau đàn ca thánh hót hỉ hoan.

Trên Thiên Cung vẳng xuống cõi dương trần, ngân nga câu kính chúc hiển vinh…

Canh khuya nghe náo nức muôn cung đàn, vang trên đồng quê thức giấc đêm đông.

Trên không trung vắng tiếng của Thiên Thần, loan tin mừng vui Chúa đã Giáng Sinh…

Glo..ri...a. ..glo ri a.....

ANH THƯ
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Suy niệm những ngày trước Lễ Giáng Sinh
Bùi Hữu Thư
21:44 22/12/2013
Suy niệm ngày Chúa Nhật 22 tháng 12.

Thiên thần đầu tiên được nêu danh trong tường thuật dài nhất về Chúa Giêsu giáng sinh là Gabrien, ngài đã hiện ra tại Nazareth cho thiếu nữ đã hứa hôn, nhưng chưa lấy chồng là Maria với sứ điệp là bà đã mang thai Đấng Xức Dầu mà dân Do Thái đã mong đợi (Luca 1:26-35). Dĩ nhiên, bà sợ hãi trước sự hiện ra của thiên thần, và cũng hoang mang về sứ điệp, nhưng Thiên Chúa đã ban cho bà ân sủng không những để chấp nhận biến cố này mà còn ca tụng Thiên Chúa trong bài ca Magnificat ("Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa!"). Các mục đồng cũng thế, khi được báo tin, chúng cũng sợ hãi nhưng rồi hân hoan vui mừng. Gương của Mẹ và của các mục đồng nhắc chúng ta phải dịu hiền với chính chúng ta và tha nhân trong tuần lễ này, vì đáp trả bằng cách vâng phục trước tình yêu Thiên Chúa có thể không là phản ứng đầu tiên của chúng ta, bất kể chúng ta có thấu hiểu được tình yêu này ra thế nào.

Suy niệm ngày Thứ Hai 23 tháng 12:

Các Kitô hữu mừng vui vì đón nhận sự nhập thể của tình yêu Thiên Chúa trong thân xác loài người trong mùa Vọng và mùa Giáng Sinh. Trước sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa chúng ta như một đồng loại, ngay cả những người không phải là các tiên tri như Môisen hay Isaiah, bây giờ có thể cảm nhận được qua các giác quan Chúa đã dựng nên cho con người: " Thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là ĐỨC CHÚA các đạo binh! " (Isaiah 6:5). Trong Mùa này, ngay từ tuần một, chúng ta đã suy niệm về niềm hy vọng vào những lời hứa của Thiên Chúa được các thiên thần loan báo,chúng ta được nhắc nhớ rằng nhận biết tình yêu Thiên Chúa là có thực và hiện hữu không chỉ là một kinh nghiệm được dành riêng cho các tiên tri và các thiên thần, mà có thể được chia xẻ với chúng ta và qua chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa sống động nơi đây và hiện diện ngay bây giờ trước chúng ta, với Lời Chúa, và hành động của Người.

Trong khi chúng ta suy niệm về tình yêu Thiên Chúa trong tuần này, chúng ta có thể tự hỏi: Tình yêu Thiên Chúa là gì? Phúc Âm thánh Luca mô tả Maria ca hát sau khi thiên thần Gabrien loan tin Mẹ mang thai Chúa Giêsu: “Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư.” (Luca 1:52-53). Lời ca của Mẹ nhắc chúng ta là tình yêu Thiên Chúa không trừu tượng và không chỉ là một cảm xúc. Tình yêu Thiên Chúa luôn luôn đến với nhân loại dưới hình thức của sự săn sóc, trợ giúp và an ủi chúng ta ban cho nhau – không chỉ riêng cho người thân trong gia đình mà còn cho những ai thiếu thốn nhất khắp mọi nơi.

Một trong những thánh kinh cổ xưa nhất kể lại rằng, sau khi Chúa Giêsu giáng sinh, Chúa dùng một giấc mơ để chỉ dậy cho chồng Maria là Giuse phải cứu mạng hài nhi Giêsu khỏi bị sát hại vì lệnh của Hoàng Đế La Mã đòi phải hạ sát các con trẻ Do Thái, và phải đưa Maria và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập. Sau đó, vào lúc an toàn hơn, một thiên thần lại hiện ra với thánh Giuse và bảo ngài phải đưa hài nhi Giêsu và Mẹ Maria trở về Nazareth (Mát thêu 2:13-23). Mẹ Maria và thánh Giuse chứng tỏ tình yêu của họ dành cho Chúa Giêsu và cho nhau bằng cách gìn giữ cho nhau được an toàn, bằng cách bảo vệ nhau và nuôi nấng lẫn nhau. Suy niệm về gương sáng của Thánh Gia trong tuần này, chúng ta được nhắc nhớ rằng chúng ta chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa hôm nay không chỉ bằng việc trao cho nhau những quà tặng bằng hiện vật, mà bằng việc thực sự săn sóc lẫn nhau, gìn giữ nhau cho an toàn, nuôi dưỡng và lo lắng cho nhau.

Suy niệm ngày Thứ Ba 24 tháng 12:

Vào đêm Vọng Giáng Sinh, các tín hữu cử hành bốn tuần Mùa Vọng cũng thường thắp lên một ngọn nến trắng, đôi khi còn được gọi là nến Chúa Kitô (Ga 1:29). " Kitô" tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Đấng đã được xức dầu” và bầy tỏ niềm tin rằng Giêsu thành Nazareth là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu cách đặc biệt như đã được mô tả trong các lời tiên tri về đấng thiên sai - Immanuel (Chúa ở cùng chúng ta), ánh sáng của muôn nước (Giao ước đầy ân sủng của Thiên Chúa bây giờ bao gồm tất cả mọi dân nước). Khi thắp lên cây nến trắng, chúng ta được nhắc nhớ rằng mục đích của việc cử hành đức tin Kitô giáo này không phải là để có được nhiều tài vật hơn, cũng như để chỉ chú trọng đến những người thân trong gia đình, mà là để cho đi, và để trở thành ánh sáng cho thế gian như một tập thể, bằng cách bầy tỏ tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người qua hy vọng, hân hoan, săn sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ.
 
Văn Hóa
Tiếng hát Việt Dzũng trong CD VietCatholic: Kinh Hòa Bình
Kim Long / VietCatholic
10:49 22/12/2013
Nhấn vào đây nghe bản nhạc Kinh Hòa Bình, sáng tác của Kim Long, với tiếng hát Việt Dzũng, trong dĩa CD do VietCatholic thực hiện.

Việt Dzũng là một trong những thành viên tiên khởi Đoàn Nghệ Sĩ Công Giáo do LM Văn Chi và LM Trần Công Nghị sáng lập tại Hoa Kỳ. Anh luôn luôn có mặt giúp vui trong những buổi văn nghệ lớn của Công Giáo Việt Nam. Năm 2003 khi người Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại tổ chức Đại Hội Niềm Tin ở Roma, Việt Dzũng là người huy động các ca nhạc sĩ Công Giáo khắp năm châu về Roma trình diễn Đại hội Văn Nghệ.



LM Trần Công Nghị và toàn ban VietCatholic xin chân thành chia buồn
cùng gia đình và thân nhân Việt Dzũng.
Xin Chúa sớm đưa linh hồn Việt Dzũng sớm về hưởng nhan Thánh Chúa trên Thiên Quốc.
như lời ca Việt Dzũng hát:.. . "Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.."

Việt Dzũng là tác giả của nhiều ca khúc được đồng bào hải ngoại yêu mến, như “Chút Quà Cho Quê Hương,” “Lời Kinh Ðêm,” “Mời Em Về”…Việt Dzũng là một người đa tài và có lòng với cộng đồng tị nạn hải ngoại. Anh cũng là một nhà báo, là xướng ngôn viên của các đài phát thanh tại nam California, như Little Saigon Radio (1992-1996), Bolsa Radio từ 1996 đến nay.

Trong các sinh hoạt cộng đồng, Anh luôn hoạt động tích cực, đấu tranh cho các vấn đề tự do, nhân quyền cho Việt Nam.

Chương trình tang lễ Việt Dzũng

Thứ Sáu, 27-12:
- 4-5 PM Lễ phát tang ​ tai Peek Family Colonial Funeral Home,7801 Bolsa Ave, Room #1, Westminster, CA 92683- (714) 893-3525​
- 5-8 PM thăm viếng linh cữu Viet Dzũng​
- Từ 8 PM Đài SBTN làm lễ vinh danh, tưởng niệm V​iệt Dzũng tại Tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ:​ 14180 All Amrican Way, Westminster CA 92863​.

Thứ Bảy, 28-12:
- Thăm viếng suốt ngày từ 8 AM -8 PM

Chúa Nhật, 29-12:
- Thăm viếng từ 8:AM – 5PM

Thứ Hai, 30-12:
- 7​:30AM – 8​:30AM Lễ tại nhà quàn ​ ​Peek Family Colonial Funeral Home,7801 Bolsa Ave, Room #1
- 9:30 AM di quan tới nhà thờ Thánh Linh (Holy Spirit):17270 Ward St., Fountain Valley, CA 92708​
- Sau ​thánh ​lễ - lễ di quan (linh cữu) tới Nghĩa trang ​Good Shepherd Cemetery, 8301 Talbert Ave, Huntington Beach, CA 92605, (714) 847-8546​
 
Vinh danh Chúa cả trên trời
Trầm Hương Thơ
08:45 22/12/2013
VINH quang Chúa Cả muôn phương
DANH Cha tỏa sáng cậy nương bóng Ngài
CHÚA ban Thiên Tử Ngôi Hai
CẢ trên trời đất khoan thai đón chờ
TRÊN cao thần thánh phụng thờ
TRỜI giao hòa đất se tơ chữ đồng

BÌNH minh chờ đón rạng đông
AN vui vũ trụ ánh hồng tỏa quang
DƯỚI trần đêm thánh huy hoàng
THẾ nhân sửa soạn gọn gàng tâm linh
CHO nhau lời chúc ân tình
NGƯỜI ơi sửa soạn hồn trinh đón chờ
HIỀN từ nhã nhặn nên thơ
LƯƠNG tâm mở cửa Người mơ hãy vào

GIÁNG trần đêm lắng tâm giao
SINH vào hồn nhỏ mong chào Chúa ta
MỞ tung khắp cả hồn hoa
CỬA Bê lem hỡi! hòa ca nhày mừng
THIÊN cung nhạc tấu vang lừng
ĐƯỜNG dương gian cũng tưng bừng đêm đông

NGÀI sinh ra giữa cánh đồng
ĐEM bình an đến nhưng không cho đời
ƠN lành Thiên Tử từ trời
THÁNH thần chung nhịp khắp nơi hòa cùng
THIÊN đường dưới thế mừng chung
VƯƠNG quyền muôn thuở cửu trùng Chúa ta
XUỐNG thăm hồn nhỏ giao hòa
TRẦN hoàn hết thảy ngợi ca ơn Trời.

Trầm Hương thơ 22.12.2013
 
Dọn lòng mình để đón Chúa Giêsu Hài Đồng
Tuyết Mai
12:55 22/12/2013
Quả cuộc đời thì luôn là những bôn ba, bộn bề, lo toan như con thoi không bao giờ được ngừng nghỉ và như những giàn máy khổng lồ của những công ty lớn không bao giờ chúng được Off …. Chỉ trừ khi chúng bị Hư. Thiết nghĩ con người của chúng ta phải có giá trị Sống cao hơn những máy móc thưa có phải? Sao cứ tự luôn tự quay mình như cái chong chóng cách dại khờ như thế hay sao?.

Rồi thì có ai suy nghĩ rằng tiền của ấy chúng sẽ đi đâu, sẽ để lại cho ai đó đốt cháy, chi xài cách phung phí?. Nếu ai trong chúng ta có trải qua đau thương, mất mát, bệnh tật mới nhận ra rằng cuộc sống của chính mình mới thật đáng quý, giá trị, và nên sống cho có ý nghĩa hơn là tiền của có được nơi Trần Gian này!.

Vì chỉ cần một lần đụng xe, ngã bệnh hay té xỉu thôi sẽ không bảo đảm là sau đó chúng ta sẽ còn được tỉnh táo hay còn sống cuộc sống bình thường như trước đây nữa! Thì ôi lạy Thiên Chúa của chúng con là từ việc nhỏ nhất chúng con cũng không có thể tự mình mà làm cho được. Rồi thì người thân người thương của chúng con ngay là vợ, chồng, hay con cái cũng không có thể hầu hạ chúng con mãi được.

Vì ai cũng có bổn phận và trách nhiệm trong vấn đề làm ăn, kiếm sống, và gia đình riêng, cũng đã làm trì nặng đôi vai của mọi người. Do đó mà chúng tôi khuyên tất cả anh chị em hãy biết tự thương mình, thương gia đình của mình và hãy sống được như Lời Chúa dậy trong kinh Lạy Cha là xin cho được “Hằng ngày dùng đủ” mà thôi!.

Nhất là trong những ngày đại Lễ Giáng Sinh này, khi mà toàn thể nhân loại trên Thế Giới sống rất tích cực trong công việc làm Từ Thiện và Bác Ái. Là dịp để cho người người có cơ hội tiến dâng Chúa những món quà thật có ý nghĩa, có giá trị thiết thực là: Chia sẻ, cho đi, mở rộng tấm lòng, trái tim, đôi bàn tay và đôi bàn chân đến với những người không có mà Chúa Giêsu rất vui, rất muốn được nhận những món quà tinh thần như thế.

Là Cứu Đói, Cứu Nghèo cho anh chị em khốn cùng sống chung quanh và ở khắp cùng mọi nơi. Có được cơm no, áo ấm và quan trọng vẫn là để người người cùng được sưởi ấm bằng tình người trong suốt mùa đông giá rét này!. Thưa những việc làm đầy tình người đó hẳn thật xứng đáng để dâng tiến Chúa làm Lễ Vật còn hơn ba món quà mà ba nhà Đạo Sĩ đã dâng tiến Chúa là Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược năm nào.

Không ai để ý rằng những món quà có giá trị hơn cả vẫn là món quà yêu thương mà mỗi thành phần trong gia đình chúng ta nên Có để trao cho nhau. Đó là cho nhau yêu thương, vui vẻ thuận hòa, xóa tan mọi hiểu lầm, tha thứ cho nhau cách vô điều kiện và để được giống như Gia Đình Thánh Gia. Vì không phải Gia Đình Thánh Gia là Thánh mà không gặp những thử thách trong cuộc đời đâu.

Minh chứng thực tế nhất có phải là cuộc hành trình của Mẹ Maria và thánh cả Giuse duy chỉ có việc đi tìm Nơi ẩn náu và để sinh hạ Chúa Giêsu quả không phải là việc dễ dàng mà không gian lao, khổ cực, hay không lo lắng vì Giờ Chúa đã Đến càng lúc càng gần. Cả hai Đức Mẹ và thánh cả Giuse đã bị người đời khước từ, không muốn chứa chấp vì họ tin dị đoan sợ rằng sự bầu bì của Mẹ sẽ làm cho họ ra xui xẻo?. Nên nơi sau cùng mà hai ông bà có thể tìm trú được lại là một Hang Đá lạnh lẽo vô cùng hôi hám.

Thế thì hỡi toàn thể nhân loại hãy sắp xếp một Hang Đá cho tương xứng và ấm áp để mọi người có thể Đón Chúa Hài Nhi Giêsu vào căn nhà tâm hồn ấm áp và chân thành của chúng ta!. Hãy quét dọn cho sạch sẽ mọi tội lỗi và hãy đặt một Máng Cỏ trong cung lòng của chúng ta để Hài Nhi Giêsu sẽ Đến, ban phép lành, ban cho từng người chúng ta sự Bình An.

Chúng ta hết thảy hãy lợi dụng dịp Lễ Giáng Sinh này để nghỉ ngơi, sống cho mình và cho gia đình, cùng cho người anh chị em vô gia cư, vô người thân thương đang rất cần sự giúp đỡ và an ủi của chúng ta. Hãy cùng nhau xăn tay áo lên, năng động tới lui, chung nhau gói những gói quà thật có ý nghĩa để ngay ngày Chúa Giêsu Đến Trần Gian chúng ta sẽ đến tận Hang Bêlem mà dâng lên cho Chúa món quà Lòng và hát to lên những bài hát Giáng Sinh trong đêm Noel ….

“Hát khen mừng Chúa Giáng Sinh Ra Đời, Chúa sinh ra đời nằm trong Hang Đá nơi Máng Lừa. Trong Hang Bê lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng, nghe trên không trung tiếng hát Thiên Thần vang lừng ….”.
 
Ông Già Noel thế nào?
Trầm Thiên Thu
12:16 22/12/2013
Bạn có dạy cho trẻ rằng Ông Già Noel có thật? Hoặc bạn có lo những chuyện như vậy có thể gặp rắc rối đối với sự hiểu biết về ý nghĩa đích thực của lễ Giáng sinh?

Chủ đề này đã và đang được bàn thảo trên các trang web thường xuyên trong giới Công Giáo trong Mùa Vọng này.

Những người thông minh và có ý xấu tranh luận về Ông Già Noel ở nhiều nơi. Cách nghĩ của bạn về Ông Già Noel được xác định bằng cách bạn được giáo dục.

Nếu bạn được dạy tin vào Ông Già Noel và đó là kinh nghiệm đẹp kỳ diệu đối với bạn thì bạn sẽ muốn chia sẻ với con cái. Nếu bạn được dạy không tin Ông Già Noel thì bạn có thể sẽ thấy chuyện kể về Ông Già Noel là có thật.

Có lần tôi đã hỏi mẹ tại sao không “tạo” Ông Già Noel trong gia đình khi tôi đã lớn. Tôi hy vọng câu trả lời triết lý nào đó về tầm quan trọng của việc không lẫn lộn ngày lễ tôn giáo với truyền thống đời, nhưng điều tôi có là một câu chuyện xúc động về việc làm cha mẹ thực tế.

Mẹ tôi nói với tôi: “Cha mẹ đã cố gắng tạo Ông Già Noel, nhưng bây giờ em con về nhà nói với mẹ rằng bạn nó phải là đứa con ngoan hơn nó vì nó có nhiều quà dịp lễ Giáng sinh, thế là hết chuyện Ông Già Noel”.

Trong gia đình tôi ngày nay, chúng tôi không dạy các con rằng Ông Già Noel có thật, vì… (có thể làm hư nó!) và vì Ông Già Noel không có thật. Nhưng chúng ta “giả bộ tin” thôi.

Chúng tôi dạy các con về Thánh Nicholas và mừng lễ kính ngài, nhưng chúng biết rằng chúng tôi là những người bỏ quà vào nhưng chiếc giầy cho chúng vào ngày 6 tháng 12. Có những món quà và những chiếc vớ vào ngày 25 tháng 12, nhưng chúng biết rằng cha mẹ và ông bà của chúng là những người làm điều đó.

Chúng tôi cũng không tránh né Ông Già Noel. Thật vậy, Ông Già Noel là “người vui vẻ” nên có vào mùa này. Chúng tôi đọc những truyện viết về ông, xem ông trên truyền hình, và nói vui về cách ông có thể xoay xở tìm cách vào nhà, nơi có ống khói dẫn thẳng xuống lò sưởi.

Tôi có thể chắc chắn rằng việc không tin Ông Già Noel sẽ không làm hại kinh nghiệm Giáng sinh của bất kỳ ai hơn là tin Ông Già Noel tục hóa lễ Giáng sinh.

Khi tôi lớn khôn, tôi biết ý nghĩa thật về lễ Giáng sinh, về sự giáng sinh của Chúa Giêsu, và tặng phẩm Ơn Cứu Độ. Sự thật là cha mẹ tôi đã để dành tiền mua những món quà “bí mật”, tổ chức bữa tiệc, và dựng một cây Noel được trang trí đèn để mừng đón món quà vĩ đại của Thiên Chúa, và tình yêu thương là điều kỳ diệu mà tôi cần.

Còn bạn thì sao? Bạn có đóng vai Ông Già Noel vui vẻ trong gia đình vào mùa Giáng sinh này?
 
Lời nguyện hòa bình
Đinh Văn Tiến Hùng
20:38 22/12/2013
Lời Nguyện Hòa Bình

*“Một Nhân Vật mệnh danh là Vầng Đông, sẽ lên ngôi cửu trùng, đem lại Hòa Bình cho trăm họ. Người hiển trị khắp cùng thế giới, cũng chính Người đem lại Hòa Bình”
( Đc.1&2 – Thánh Vịnh Phụng Vụ )

*Hiệp thông Sứ Điệp của ĐTC Phanxicô cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 47: 1/1/14.


Bốn phương Huynh Đệ Một Nhà,
Cùng Con Thiên Chúa, đều là Anh Em,
Thành tâm suy nghĩ mà xem,
Đất trời muôn vật ai đem cho mình,
Cùng chung lời nguyện câu kinh,
Hồng Ân Chúa xuống Hòa Bình thế nhân.

Chúa đã đến từ hai ngàn năm trước,
Khi đất trời đang yên giấc ngủ say,
Xưa Chúa xuống thế cũng như đêm nay,
Mang thân phận nghèo nàn loài thụ tạo,
Đem tình thương thay cho lòng tàn bạo.
Mang an bình trải rộng khắp muôn nơi,
Đổ Man-na cứu độ cho loài người
Để nhân loại sống Hòa bình bất diệt.

Ôi Đêm Thánh! Đêm Hồng ân diễm tuyệt!
Con dâng Ngài lời nguyện ước Hoà bình
Cho địa cầu chấm dứt cảnh đao binh,
Ngưng tham vọng và mưu đồ quỉ quyệt,
Thôi thù hận đừng bày trò chém giết,
Vì an bình thật sự ở trong tim,
Ngông cuồng càng cao,càng lạc hướng tìm,
Hòa bình sẽ chôn vùi trong ác mộng,
Cho nhân loại đừng lao vào tuyệt vọng,
Biết nhận ra một chân lý ngàn đời,
Trong Phúc âm mang ấn tích từ trời,
Đuổi Ác quỉ và dẹp tan Thần chết.
Hòa bình – Chiến tranh thật là khác biệt,
Bom bạo tàn khác hoa nở yêu thương,
Say chiến thắng làm sao thấy Thiên đường,
Mà nhân loại muôn đời hằng mong ước.

Chúa đã đến từ hai ngàn năm trước,
Khi đất trời đang yên giấc ngủ say,
Xưa Chúa xuống thế cũng như đêm nay,
Mang thân phận nghèo nàn loài thụ tạo,
Đem tinh thương thay cho lòng tàn bạo.
Vâng đêm nay trước Máng cỏ Chúa sinh,
Con dâng lên Ngài Lời Nguyện Hòa Bình,
Cho nhân loại và hồn con tội lỗi……

ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cao Cung Lên
Thérésa Nguyễn
22:21 22/12/2013
CAO CUNG LÊN
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Đàn ôi! Cứ rung những điệu réo rắt
Hát khen Con Một Chúa Trời
Rầy sinh xuống cõi đời
Ôi người dương thế lặng nghe cung đàn
Mau tìm cho tới thờ kính Vua giáng trần.
(Trích ca khúc của Nguyễn Khắc Xuyên, Hoài Đức)