Ngày 13-12-2013
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mùa Vọng 2013
Vũ Văn An
09:48 13/12/2013
Mùa vọng là mùa trông đợi, ngóng chờ Chúa đến. Chúa đã đến rồi và Chúa còn đang đến. Nhưng đối với phần đông con người hiện đại chúng ta, nhất là những người sống trong các xã hội tiêu thụ, đối tượng trông đợi Giáng Sinh hình như có khác: tặng quà, một việc càng ngày càng trở nên quan trọng đến trở thành tập chú chính.

Tìm kiếm, lắng nghe, yêu thương, cầu nguyện và bác ái

Tác giả Randy Haine (By this all men will know you are my disciples, www.integratedcatholiclife.org) muốn dựa vào xu hướng không mấy tốt đẹp này để cố gắng kéo ta về một hướng ít tiêu cực hơn: giúp đỡ người khác trong Mùa Vọng. Và xét cho cùng, quả không có chuẩn bị nào tốt hơn, vì yêu người đồng nhất với yêu Chúa.

Haine cho rằng trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, khó có thể nghĩ tới ai khác ngoài chính bản thân ta. Các cuộc lao đao bản thân thường khiến ta tập chú vào chính mình, ít nghĩ tới anh chị em ta trong Chúa Kitô. Thật khác xa với các anh chị em Kitô hữu tiên khởi, những người thực sự nghiêm chỉnh sống lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Chúa Kitô” (Gl 6:2).

Đối với Haine, ngoài việc chia sẻ gánh nặng cho nhau, điều cũng quan trọng là các Kitô hữu tiên khởi luôn khuyến khích nhau vững mạnh trong đức tin. Ông đưa ra 5 khí cụ làm chất xúc tác trong việc giúp đỡ người khác theo cung cách các Kitô hữu tiên khởi: tìm kiếm, lắng nghe, yêu thương, cầu nguyện và bác ái.

Ta thường không biết ai trong cộng đoàn cần sự giúp đỡ. Tìm kiếm họ đòi ta phải quan sát cẩn thận hơn và biểu lộ một quan tâm sâu sắc hơn và chân thực hơn đối với cuộc sống người khác. Ta hãy biến câu xã giao “Anh (chị) có mạnh giỏi không?” thành lòng thành thực muốn thực sự hiểu điều gì đang xẩy ra trong đời sống bạn đồng sở, bạn bè, gia đình và các giáo dân trong xứ đạo. Và nếu ta thành thực và trong sáng trong chính các thách thức của riêng ta, chắc chắn ta sẽ thấy người khác cởi mở với mình.

Lắng nghe rất quan trọng. Khi một ai đó sẵn sàng cởi mở với ta, ta đừng bao giờ nhẩy xổ ra đưa giải pháp ngay tức khắc. Nam giới thường hay mắc lỗi lầm này. Kiên nhẫn lắng nghe và đơn thuần làm một người bạn sẽ giúp họ bộc lộ hết cõi lòng của họ vì họ tin rằng ta thực sự quan tâm tới họ.

Các hành động yêu thương của ta như những Kitô hữu phải luôn được động lực hóa bởi ý muốn khuyến khích và giúp đỡ người khác và đặt nhu cầu của họ lên trước nhu cầu của ta. Tình yêu cũng loại bỏ việc hành xử kiểu phê phán người khác. Chúa Giêsu cho ta Điều Răn Mới trong Ga 13:34-35 khi Người dạy: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu thương các con thế nào, các con cũng phải yêu thương nhau như vậy. Bởi điều này mọi người sẽ biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau”. Trong buổi đầu Kitô Giáo, người ta thấy các Kitô hữu khác biệt với người khác do việc họ thương yêu nhau tha thiết.

Cầu nguyện cho người khác là điều tuyệt đối cần thiết. Ta hãy cầu nguyện hàng ngày cho những người cần được giúp đỡ và xin Chúa làm việc qua ta để ta cung cấp sự giúp đỡ ấy. Thiên Chúa sẽ rất vui khi ta tha thiết cầu nguyện cho người khác và cho các nhu cầu của họ.

Bác ái – sự hoàn thiện của yêu thương này vượt qua mọi gốc gác nhân bản. Nó là cách tốt nhất để gieo vãi sự thiện quanh ta. Bác ái là một trong ba nhân đức đối thần (hai nhân đức kia là đức tin và đức cậy) và như Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 1827 từng dạy “Việc thực hành mọi nhân đức đều được sinh động hóa và linh hứng hóa bởi đức ái, là đức ‘nối kết mọi sự với nhau trong một hòa hợp hoàn hảo’; nó là mô thức của các nhân đức; nó nối kết và xếp đặt giữa chúng với nhau; nó là nguồn gốc và là mục đích của việc thực hành Kitô Giáo. Đức ái bảo đảm và thanh tẩy khả năng yêu thương nhân bản của ta, và nâng nó lên hàng hoàn hảo siêu nhiên của tình yêu Thiên Chúa”.

Haine cho rằng vươn tay ra với mọi người ta gặp gỡ hàng ngày ngày cũng quan trọng như vươn tay ra với vô vàn những người vô gia cư, nghèo đói, thất nghiệp, nghiện ngập, bị lạm dụng và không có đức tin không sống trong cộng đồng ta, không làm việc với ta hay không tham dự giáo xứ ta. Cho tiền là điều quan trọng, nhưng hiện diện để giúp đỡ còn là một tặng phẩm vô giá hơn nữa, không phải cho riêng người nhận mà còn cho cả ta nữa.

Xét mình thời liên mạng

Phó tế Greg Kandra (An Examination of conscience for the Internet, www.patheos.com) thì nhấn mạnh tới khía cạnh ăn năn thống hối trong Mùa Vọng, như lời Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi. Và dù mới đây, Đức Phanxicô kêu gọi tín hữu sử dụng Internet như một nguồn hy vọng (xem bài diễn văn trước Hội Nghị Toàn Thể lần thứ 26 của HĐGH về Giáo Dân), phó tế cho rằng phạm vi thông tin kỹ thuật số là phạm vi ta cần thống hối ăn năn hơn hết, và do đó, cần được xét mình hơn cả. Ông dựa vào bản xét mình của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ công bố mới đây để đưa ra bản xét mình về việc sử dụng Internet, cũng dựa theo Mười Điều Răn.

Điều răn thứ nhất: tôi có coi người, biến cố hay sự vật quan trọng hơn Thiên Chúa không? Tôi có nâng Internet lên hàng thần thánh không? Việc nhận định trên Facebook, Twitter hay các blog có thay thế sinh hoạt cầu nguyện của tôi hay không?

Điều răn thứ hai: Lời nói của tôi có tích cực hay thụ động hạ giá Thiên Chúa, hạ giá Giáo Hội hay người ta không? Tôi có gây thương tích cho Nhiệm Thể Chúa Kitô bằng cách biểu lộ bất kính, bất đồng hay khinh thường không? Tôi có chế diễu trên mạng các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, bất kể là Đức Giáo Hoàng, là giám mục hay mục tử của tôi không?

Điều răn thứ ba: Tôi có đi tham dự Thánh Lễ khi nên đi không? Tôi có tránh việc làm khiến tôi bị ngăn trở không thờ phượng Thiên Chúa được không? Tôi có dành quá nhiều thì giờ của ngày Chúa Nhật để lục tìm Internet và các phòng hay diễn đàn tán gẫu, khi tôi có thể dùng nó cho gia đình hay cho Thiên Chúa không?

Điều răn thứ tư: Tôi có tỏ lòng tôn kính cha mẹ tôi hay không? Tôi có duy trì việc chuyện trò tốt với cha mẹ tôi không? Tôi có chỉ trích các ngài với người khác hay trên liên mạng không?

Điều răn thứ năm: Tôi có gây hại cho người khác bằng các phương tiện thể lý, ngôn từ hay xúc cảm, trong đó có nói hành không? Tôi có phá hủy danh thơm tiếng tốt của người khác trên liên mạng không? Tôi có dùng các nhận định để chế nhạo, tỏ bất kính, nói hành hoặc tấn công người khác không? Tôi có hân hoan chế diễu sự thất bại của người khác trên liên mạng và hả hê về các lầm lỗi của họ không? Tôi có sử dụng tới việc đặt tên lếu láo cho người khác để áp đảo họ hay làm họ cảm thấy xấu xa không? Tôi có làm mất nhân phẩm ai trên liên mạng không?

Điều răn thứ sáu: Tôi có tôn trọng phẩm giá thể lý và tính dục của người khác và của chính tôi không? Tôi có dùng Internet để xem các trang khiêu dâm hay để chuyện vãn tục tĩu về tính dục không?

Điều răn thứ bẩy: Tôi có cướp hay lãng phí thì giờ hoặc tài nguyên vốn thuộc về người khác không? Tôi có dùng thì giờ vào liên mạng trong khi đáng lẽ phải dùng nó để làm việc không?

Điều răn thứ tám: Tôi có tán láo, phao tin thất thiệt hay thêu dệt chuyện hại tới người khác không? Tôi có đăng lên liên mạng một điều tôi hồ nghi không đúng sự thật không?

Điều răn thứ chín: Tôi có tôn trọng người phối ngẫu của tôi bằng một tình âu yếm trọn vẹn và độc hữu không? Tôi có biến thì giờ trên liên mạng thành quan trọng hơn thì giờ dành cho vợ/chồng tôi không?

Điều răn thứ mười: Tôi có bằng lòng với các phương tiện và nhu cầu của riêng tôi hay tôi so sánh tôi với người khác một cách không cần thiết? Tôi có lục lọi trên các trang mua sắm liên mạng, chỉ mong mỏi mua được những món hàng thực sự mình không cần đến nhưng vì ghen hay tức với người khác không?
 
Kiên nhẫn trong gian khổ để chờ ngày Chúa đến
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
08:26 13/12/2013
Chúng ta đang tiến gần đến ngày lễ Noel. Bầu không khí lễ hội dường như đã lan tỏa khắp nơi nơi từ trong các giáo xứ đến ngoài đường phố và các cửa tiệm. Có thể nói, tại Tây Phương, Noel phá tan không khí ảm đạm của mùa động lạnh giá và tăng thêm vẻ sinh động cho cuộc sống vì làm cho con người không bị tẻ nhạt bởi sự lặp đi lặp lại nếp sống thường nhật trong suốt một năm qua. Thật là thiếu sót nếu quên đi nhân vật chính của ngày lễ và sứ điệp chính yếu của ngày này. Riêng đối với Kitô hữu, Mừng Chúa sinh ra không thể không sống tâm tình Mùa Vọng trước đó.

Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị để mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Con Chúa sinh xuống làm người. Tự bản chất, vọng có nghĩa là mong đợi. Sống trong đợi chờ bao giờ cũng kèm theo niềm hy vọng. Nuôi dưỡng niềm hy vọng là trông đợi một tương lai tươi đẹp hơn so với thời điểm hiện tại của cuộc sống. Tương lai ấy là điều sẽ phải đến chứ không phải là một cái gì mơ mộng hão huyền nhằm quên đi những thực tại đầy bất trắc và gian nan.

Đây là một nền tảng vững chắc để chúng ta đứng vững giữa bao nhiêu thăng trầm của trong dòng chảy của cuộc đời. Để được như vậy, chúng ta cần phải xem xét lại tất cả mọi mặt trong cuộc sống của mình nhằm xây dựng hướng đi vững bền cho mình. Chúng ta cần đặt lại những câu hỏi để xác định mối liên hệ của mình với Đức Giêsu và để ý thức sự hiện diện của Ngài xuyên suốt cuộc đời mình. Ngài là ai trong cuộc đời của tôi ? Ngài mang đến cho nhân loại và cho cá nhân tôi những gì ? Tại sao tôi lại phải đón tiếp Ngài trong cuộc đời của mình ? Tại sao tôi lại đặt niềm tin tưởng và hy vọng nơi Người ? Đâu là thái độ tôi cần có để đón chờ ngày giờ Ngài đến vào cuối cuộc đời của tôi ?

Các bài đọc và bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng mời gọi chúng ta sống trọn vẹn tâm tình chờ mong ngày Chúa đến khai mở triều đại của Đấng Mêssia trong kiên tâm bền trí giữa những thử thách với một tinh thần chủ động và khát khao mong mỏi, đặc biệt là qua tấm gương mẫu mực của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã được trao phó nhiệm vụ dọn đường cho Chúa đến.

1. Hãy can đảm lên

Trước hết, bài đọc thứ nhất trích trong sách tiên tri Isaia hướng dân Thiên Chúa đến ngày mai tương sáng trong thời kỳ Chúa đến và ban ơn cứu độ. Ngày đó sẽ là ngày vui mừng hoan hỷ. Ngày Người biểu lộ vinh quang của mình. Tất cả con người và cảnh vật được thay đổi theo chiều hướng tích cực : « Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non ». Ngày ấy, Thiên Chúa cũng chữa lành khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền, và giải thoát khỏi ách nô lệ, mở ra một triều đại của niềm hoan lạc bất tận : « Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa ».

Ngày đó sẽ đến. Đó là lời khẳng định chắc chắn của ngôn sứ Isaia. Do đó, dù trong hoàn cảnh bi đát, dân Chúa được hướng đến một tương lai huy hoàng. Tất nhiên, họ không thể chờ đợi ngày đó cách thụ động mà cũng phải đóng góp tích cực phần của cá nhân mình nữa : « Hãy can đảm lên và đừng sợ hãi ». Như vậy, việc trông đợi ngày cứu độ của Thiên Chúa tiếp thêm sức mạnh cho dân Thiên Chúa và giúp họ cản đảm đứng thẳng dậy để đối diện với các thử thách hiện tại ngõ hầu đi đến một tương lai đầy hy vọng đang đợi họ ở phía trước.

2. Bền chí trong gian khổ

Chờ đợi ngày cứu độ bằng thái độ can đảm không sợ hãi, thánh Giacôbê còn khích lệ Kitô hữu cần trang bị cho mình một tinh thần kiên tâm. Ngài đã dùng hình ảnh người nông dân chờ đợi ngày mùa đến để tận hưởng những thành quả lao động của mình trong sự kiên trì. Qua đó, thánh nhân nhấn mạnh rằng, ngày của Chúa sắp đến gần và chúng ta cần phải sống theo gương các tiên tri : « Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa ». Như vậy, kiên nhẫn trong gian khổ là quãng đường cần phải đi qua để tiến đến đích điểm là ngày của Thiên Chúa cứu độ. Có thể nói đây là cái giá cần thiết để được chung hưởng niềm vui trong vinh quang cùng các tôi tớ của Thiên Chúa. Điều này mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, nhất là trong những thời điểm khó khăn và đen tối thì ở đó vẫn có nguồn ánh sáng hy vọng để dẫn đưa chúng ta đến với một tương lai tương sáng đang chờ đợi ở phía trước.

3. Theo gương Gioan Tẩy Giả

Kiên tâm chờ đợi trong gian khổ mà thánh Giacôbê đề cập đến trong thư của mình có đưa ra gương chứng nhân của các tiên tri, mà cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay có nêu ra trường hợp điển hình của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đã được Thiên Chúa trao sứ mệnh dọn đường cho Đức Giêsu Kitô. Ông đã sống hết mình với sứ mệnh này bằng trọn vẹn cuộc đời và sức lực của mình. Nay bị tống giam chốn ngục tù, ngài cũng chẳng hề nao núng và đã phái môn đệ của mình đến gặp gỡ Đức Giêsu : « Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác? ». Chúng ta thử điểm qua một vài nét chính trong cuộc đời con người này.

Trước hết, ông đã dành ra một thời gian dài sống ẩn dật trong hoang địa bằng một cuộc sống rất khắc khổ với lương thực nuôi thân là mật ong rừng và châu chấu, với của mặc bằng lông lạc đà và dây thắt lưng làm bằng da. Chính Đức Giêsu đã ca ngợi ông trong bài Tin Mừng hôm nay khi dùng hình ảnh « một cây sậy phất phơ trong gió nơi hoang địa ». Có thể nói, thời gian chuẩn bị cho sứ mệnh được bắt đầu chính bằng việc xem xét lại đời mình trong mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó, Gioan mới có thể giới thiệu Đấng phải đến nhân danh Thiên Chúa cho con người thuộc thời đại ông sống.

Để chuẩn bị cho dân chúng tâm hồn đón Đấng Mêssia, Gioan Tiền Hô đã kêu gọi sám hối và khuyên mỗi người sống đúng với ơn gọi và hoàn thành bổn phận của mình, với tư cách là người thu thuế, binh sĩ và dân thường…Lời kêu gọi mà ông đưa ra thật là khẩn thiết và thúc giục mọi người cần phải thi hành ngay, vì « cây rìu đã kề sẵn bên gốc cây ». Như vậy, sám hối là thái độ cần có để chuẩn bị đón ngày Chúa đến.

Nhìn vào cuộc sống của Gioan, chúng ta còn thấy ông dám sống và chết cho sứ mệnh của mình bằng cách luôn bảo vệ sự thật cho đến cùng. Vì ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy bà Hêrôđia, vợ của người anh trai mình là Philipphê (x. Mc 6, 17), ông đã bị tống giam trong ngục. Sau đó còn phải trả giá bằng chính cả mạng sống của mình.

Suốt trong Mùa Vọng, khuôn mặt Gioan Tẩy Giả được Tin Mừng nhắc đến như là tiếng kêu để sửa đường cho Chúa đến. Các đồi núi cần được san cho bằng phẳng, đường quanh co phải được uốn cho ngay thẳng. Tiếng kêu của ông thôi thúc dân chúng nhìn nhận lại lỗi lầm thiếu sót của mình để thay đổi đời sống. Chính ông là mẫu gương tuyệt vời của sự trông chờ ngày Chúa đến qua một cuộc sống đầy thuyết phục : từ lúc ẩn dật cho đến lúc thi hành sứ mạng và sau cùng là dám chết để bênh vực cho sự thật.

Với tấm gương sống động này, thánh Giacôbê mời gọi chúng ta ngày hôm nay tiếp tục học hỏi và bắt chước. Chính Đức Giêsu cũng đã ca ngợi ông như là người cao trọng nhất từ trước đến nay. Trong cuộc sống, vẫn có những thử thách và khó khăn, ước gì mỗi người chúng ta luôn thấm nhuần Lời Chúa hôm nay để đứng vững trong các thử thách bằng thái độ kiên tâm trong gian khổ, bằng một tinh thần không biết sợ hãi, để hướng đến một tương lai huy hoàng mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai yêu mến và sẵn sàng thực thi thánh ý của Người.

Ngày 12 tháng 12 năm 2013
 
Dung mạo Đức Kitô
+ TGM Ngô Quang Kiệt
09:43 13/12/2013
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: "Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?"

Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.

Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:

1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.

John the Baptist 3Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: "Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói." Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: "Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa." "Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc." Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.

2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.

Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: "Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân." Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: "Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?" Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.

Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng."

Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.

Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.

Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.

Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.

Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.

Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen!
 
Sức mạnh để đạt được nước trời
Anmai, CSsR
10:24 13/12/2013
Chúa Nhật 3 MV năm A

Is 35, 1-6a.10; Gc 5, 7-10; Mt 11, 2-11

MẠNH SỨC ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NƯỚC TRỜI

Ai trong chúng ta cũng hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một cơn mưa làm dịu đi khí trời nóng bức. Khi nóng bức như vậy, ai cũng mong và thậm chí cầu khẩn "ơn trên" để cho có mưa móc. Và, khi có mưa rồi thì niềm vui khôn tả được bày tỏ.

Trong tâm tình chờ đợi mưa móc đó, Isaia cho ta thấy niềm vui của những đồng cỏ cháy gặp được mưa :

Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,

vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,

hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,

và hân hoan múa nhảy reo hò.

Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,

vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.

Niềm vui mà Isaia nói đây không chỉ dừng lại ở ơn mưa móc mà còn hơn thế nữa, đó là Đấng Công Chính - Đấng Cứu Độ trần gian đến. Khi Đấng Cứu Độ trần gian đến thì muôn dân sẽ thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa.

Isaia nói tiếp :

Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa,

và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.

Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,

cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.

Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!

Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,

ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.

Chính Người sẽ đến cứu anh em."

Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.

Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,

miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.

Vì có nước vọt lên trong sa mạc,

khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.

Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về,

tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,

mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.

Họ sẽ được hớn hở tươi cười,

đau khổ và khóc than sẽ biến mất.

Cũng dễ hiểu niềm vui mà Isaia nói vì không phải là mưa móc tự nhiên mà là Đấng Cứu Độ. Và vì thế, niềm vui này là niềm vui khôn tả bởi lẽ khi Đấng Cứu Độ trần gian đến rồi thì sẽ cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và, khi đó, họ vui cười hớn hở vì đau khổ và khóc lóc không còn nữa.

Và, như Gioan đã loan báo, Đấng Cứu Độ trần gian đã đến trần gian.

Đấng Cứu Độ trần gian đã đến không chỉ dọn lòng mà còn phải đương đầu với những thế lực đen tối mới có thể gặp và đoạt được. Chúa Giêsu nói rõ trong Tin Mừng hôm nay : "Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được".

Trong chờ đợi, có những người đã mất kiên nhẫn để rồi nản chí và khi nản chí rồi không đủ sức mạnh để chiếm lấy Nước Trời. Thánh Giacôbê mời gọi ta sống tâm tình kiên nhẫn trong thư của Ngài : "Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa".

Phận con người mỏng dòn non yếu nên đôi khi đánh mất kiên nhẫn, đánh mất sự chờ đợi.

Thật sự thì Chúa đã đến giữa cuộc đời ta rồi nhưng lòng ta không hân hoan để đón Chúa bởi lẽ đón Chúa vào lòng ta thì làm sao ta sống như Chúa muốn được. Ta đã buông lòng ta theo những cám dỗ của trần gian, của xác thịt để rồi chúng ta không đủ "công lực" để đón Chúa nữa.

Cuộc sống, nhất là ngày hôm nay giữa sóng xô của cuộc đời và ngày mỗi ngày con người tăng thêm lòng ích kỷ, hờn ghen, chụp giật thì lại càng căng thẳng cho sự chiến thắng của ta với những cám dỗ cứ bày ra trước mặt của ta. Phần con người, chúng ta dễ ngã để đi tìm nhưng giá trị trần gian mau qua chóng tàn mà quên đi rằng quê hương chúng ta ở trên Trời và chúng ta ngày mỗi ngày vẫn trông mong và chờ đợi.

Gioan Tẩy Giả cũng là người mỏng dòn xác thịt và như Chúa Giêsu nói Gioan là người nhỏ nhất nhưng vì Gioan biết tìm ai và chọn ai. Dĩ nhiên Gioan cũng phải đấu tranh với lòng mình để khỏi phải thiệt thân, thiệt mạng của mình. Cũng chỉ vì sự thật, chân lý mà Gioan đã bị chém đầu. Không giản đơn để chấp nhận cuộc xử trảm như Gioan. Chỉ vì niềm tin vào Thiên Chúa đặc biệt qua Chúa Giêsu mà Gioan đã chấp nhận chém đầu.

Cuộc chiến đấu mà Gioan chiến đấu không phải là cuộc chiến đấu đơn giản nhưng là cuộc giằng co kinh khủng trong cuộc đời. Gioan chiến thắng bởi vì Gioan từ ngày lọt lòng mẹ cho đến ngày chết luôn luôn gắn kết với Chúa, kết hiệp với Chúa và đặc biệt sống tâm tình khiêm hạ nhỏ bé.

Ngày mỗi ngày, chúng ta đã vẫn phải chiến đấu giữa những phong ba bão táp của cuộc đời với Nước Thiên Chúa. Tự sức người của ta chắc chắn ta sẽ không làm được nhưng nhờ ơn Chúa giúp ta sẽ chiến thắng để đạt được Nước Trời như lòng Chúa mong muốn và lời Chúa mời gọi.

 
Giá phải trả cho niềm tin
LM. Vũ Xuân Hạnh
10:26 13/12/2013
Chúa nhật III mùa Vọng: GIÁ PHẢI TRẢ CHO LÒNG TIN

Đi theo Chúa, trung thành thờ phượng Chúa, là nhiệm vụ của con người. Hãy biết rằng, chỉ vì Thiên Chúa là Đấng Phải được tôn thờ mà tôi tôn thờ Người, chứ không phải vì bất cứ một lý do nào khác.

Bởi đó, nếu ai nghĩ rằng thờ phượng Chúa để được một cuộc sống dễ dàng, một sự bình an bảo đảm cho cuộc đời này, hay thoát khỏi những vây bũa của bệnh tật, của đói nghèo…, người đó thất bại. Chúa không hứa ban hạnh phúc trần gian. Ngược lại, Chúa mời gọi hãy vác thập giá đời mình theo Chúa, nghĩa là hãy chấp nhận mọi hoàn cảnh, mọi biến cố trong cuộc đời mà vẫn trung thành giữ vững đức tin.

Cuộc đời thánh Gioan Tẩy giả là bằng chứng. Suốt đời mình, Thánh Gioan đã trung thành thờ phượng Chúa, trung thành với sứ mệnh tiên tri Chúa trao phó. Ngài đã trung thành với ơn gọi đến nỗi bất chấp mọi nguy hiểm, bất chấp mọi quyền hành đe dọa mạng sống mình, dám lên tiếng phản đối cả tội lỗi của vua chúa, phản đối cả hoàng triều Hêrôđê Antipas.

Ngay đầu bài Tin Mừng, thánh Mathêô đã ghi nhận: “Lúc bấy giờ ông Gioan đang ở trong tù”, nghĩa là thánh Gioan đang phải nếm trải khổ ải bởi sự bị giam cầm gây ra. Thánh Gioan phải ngồi tù vì Hêrôđê Antipas muốn bịt miệng ngài, vì ngài dám chống lại việc nhà vua sống loạn luân với người chị dâu của mình.

Một con người trung thành với Thiên Chúa, với đức tin, với lề luật như thánh Gioan, lẽ ra phải được bình an, phải sống trong hạnh phúc, phải được cảm nhận về sự nâng đỡ của Thiên Chúa, thì ngược lại, thánh Gioan lại có một cuộc sống trần gian không bảo đảm chút nào.

Bài Tin Mừng cho biết thánh Gioan Tẩy giả đang bị cầm tù. Giống như chúng ta nhiều lần bị giao động khi đối diện với đau khổ. Trong lao khổ của nhà tù, hình như thánh Gioan đã bị giao động. Qua các môn đệ của mình, thánh Gioan đã phải nặng lòng cất tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”.

Như bao nhiêu người Dothái cùng thời, thánh Gioan đang mong mỏi Đấng Cứu Chuộc trần gian đến giải thoát con người. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện, mọi người đều hy vọng Chúa sẽ cứu dân của Người khỏi bàn tay bạo quyền, khỏi mọi áp bức, khỏi cảnh bị đô hộ.

Nhưng càng chờ đợi, càng hy vọng nơi Chúa, người ta càng mỏi mòn, bởi Chúa không làm một hành động nhỏ nào để giải thoát cuộc đời trần thế của dân chúng, mà chỉ hứa ban hạnh phúc xa xôi nào đó chỉ có ở đàng sau cái chết. Nhất là đối với bản thân, sống một đời yêu mến Chúa, bây giờ lại phải ngồi tù, mạng sống cũng đang bị đe dọa từng ngày, đã khiến thánh Gioan chới với hơn, chao đảo hơn.

“Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”. Nghe lời hỏi này, làm gợi nhớ trong ta tất cả những lời rao giảng của thánh Gioan đã từng rao giảng rất mạnh mẽ, rất dứt khoát, rất xác tín:

- Ngài coi biến cố Chúa đến là một biến cố biểu dương sức mạnh đến nỗi như người cầm rìu đốn ngã thân cây không sinh lợi ích và ném vào lửa (Mt 3, 10);

- Hoặc hình ảnh một người sàng sảy sân lúa và ném lúa xấu vào lửa (Mt 3, 12);

- Hoặc “Người (Đấng Thiên Sai) đến sau tôi, nhưng mạnh hơn tôi, tôi không đáng xách giày cho Người” (Mt 3, 11);

- Khi Đấng Thiên Sai đến, Người sẽ thanh tẩy tâm hồn con người “trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3, 11).

Đối với thánh Gioan, Đấng Thiên sai, quả thật, rất đáng sợ. Người không những mạnh mẽ, mà còn uy quyền, còn cao cả vô cùng.

Sự gợi nhớ này cho ta thấy, nơi nội tâm thánh Gioan đang diễn ra một cuộc chiến đấu đầy mâu thuẫn.

Đó cũng là một nội tâm trăn trở, dằn co, xung khắc. Một nội tâm hình như cũng không có bình yên như chính sự ngồi tù của thánh Gioan.

Một mặt, thánh Gioan vẫn biết và biết rất rõ, Đấng Thiên Sai là Đấng quyền năng, là Đấng xuất phát từ Thiên Chúa, là Đấng thống trị toàn dân, là Đấng được Thiên Chúa xức dầu phong vương trên trời dưới đất, vì thế không có bất cứ sức mạnh nào có thể sánh ví.

Mặt khác, nhìn vào thực tế, ngài cũng nhận ra Chúa Giêsu là chính Đấng Thiên sai của Thiên Chúa.

Nhưng những gì đang diễn ra thì không như thánh Gioan hiểu: Chúa Giêsu như chẳng có quyền hành gì, Chúa vẫn giữ im lặng trước bao nhiêu bất công, trước tình trạng một đất nước và một dân tộc là chính đất nước và dân tộc của mình đang bị đô hộ.

Đặc biệt hơn, nhiều người công chính, mà thánh Gioan là đại diện, bị cầm tù, bị tiêu diệt…

Nỗi hoang mang của thánh Gioan có lý do: Tại sao Đấng Thiên sai, Đấng Cứu tinh trần thế đã đến rồi, mà nhân loại vẫn cứ còn đó bao nhiêu thống khổ, bao nhiêu nghi nan, bao nhiều tối tăm giăng mắc và đè bẹp… Phải chăng còn phải chờ đợi Đấng cứu tinh trần thế nào khác, chứ không phải Người, Chúa Giêsu Kitô?

Những năm đầu mới lãnh nhận đức tin, tôi ngay thơ nghĩ rằng, các thánh là những người biết rõ thánh ý Chúa. Họ là những người mà khi cần, Chúa sẽ dùng trung gian, có khi là những trung gian rất thế giá (thiên thần chẳng hạn), mạc khải cho họ.

Với suy nghĩ ấy, đối diện cùng đau khổ của chính mình, tôi đã không ít lần ghen với các thánh.

Nhưng trải qua năm tháng trong đời sống đức tin, nhất là đọc nhiều mẫu gương các thánh, tôi càng hiểu ra rằng, các thánh không tự nhiên trở thành thánh. Các ngài là những anh hùng của đức tin, các ngài dọi sáng một đức tin kiên cường trong mọi cảnh huống của đời mình, dù trải qua và hứng chịu không biết bao nhiêu thăng trầm của đời sống.

Đặc biệt, khi phải vật lộn cùng thử thách đeo bám cả đời, các thánh vẫn một mực tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, dám ngã vào vòng tay Chúa để đi đến cùng của cuộc chiến đầy thương tích giành lấy đức tin.

Thánh Gioan Tẩy giả mà bài Tin Mừng nêu gương và chúng ta đang suy niệm về ngài, cũng không là trường hợp ngoại thường. Như các thánh của Hội Thánh, thánh Gioan đang bị thử thách. Và cuộc thử thách của thánh Gioan là cuộc thử thách liên quan trực tiếp đến chính mạng sống của ngài. Ngài biết rất rõ, kẻ thù có thể đi xa hơn, chứ không chỉ giam cầm trong nhà tù, trong cuộc bịt miệng ngài đối với lời chân lý mà ngài đã anh dũng loan báo.

Đúng như thế, trong cuộc thử thách này, ngài sẽ bị giết chết bởi âm mưu của bà Hêrôđia (chị dâu của vua Hêrôđê mà vua lấy làm vợ) và bàn tay vấy máu của Hêrôđê, một ông vua nhu nhược đã để cho người chị dâu, kẻ lăn loàn với mình, giật giây.

Ngoài ra, còn một yếu tố nữa, đó là dân tộc Dothái đang nô lệ dưới gót giày Lamã. Vì thế, sự nhiễu nhương của thời đại, cũng có thể là yếu tố tác động không nhỏ lên chính nội tâm của thánh Gioan.

Hiểu như thế, ta thấy câu hỏi “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” của thánh Gioan không đơn giản chỉ là câu hỏi cho cá nhân mình, nhưng còn phản ánh nỗi nhục nhằn, lời than thở của dân tộc, của tất cả những ai tin tưởng vào Chúa.

Đặc biệt, dân tộc Dothái, không những là dân của giao ước, của lời hứa, mà còn là dân riêng Thiên Chúa đã tuyển chọn. Dân Thiên Chúa tuyển chọn mà lại đày ải như thế sao? Còn đâu là quyền năng của Thiên Chúa, của Đấng “nhân danh Chúa mà đến”? Quả thật, nỗi hoang mang của thánh Gioan không nhỏ chút nào.

Câu hỏi “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”của thánh Gioan, cũng chính là câu hỏi của chúng ta. Nhiều lần mất bình an, chúng ta đã nghi ngờ Chúa, trách móc Chúa: “Có Chúa không? Tại sao Chúa lại để tôi phải khổ sở thế này?”.

Đành rằng, chúng ta yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng hãy nhớ, theo Chúa không là nhung là lụa, là gấm vóc, nhưng theo Chúa là vác thập giá đời mình.

Hiểu như thế, chúng ta sẽ bắt chước thánh Gioan sống tiếp cuộc đời của mình và can đảm đón nhận tất cả những biến động trong cuộc đời ấy. Nếu thánh Gioan đã đổ máu cho đức tin, chúng ta cũng hãy sống cuộc sống tử đạo từng ngày, suốt đời mình.

Không chỉ thánh Gioan, nhiều anh chị em chân chính trong thời đại chúng ta, cùng là anh em với chúng ta, cùng mang lấy thánh giá như thánh Gioan và như chúng ta.

Chẳng hạn, vào khoảng gần giữa thế kỷ XX, khi mà nỗi đau diệt chủng của Đức Quốc xã đang lan tràn, thì nhiều tấm gương của nhiều anh chị em Công giáo sáng lung linh.

Người ta ghi nhận trường hợp của cha Gapp. Ngài là người Đức, đã bị cầm tù và chịu tử đạo trong nhà tù phátxit. Trọn một lòng trung thành với Thiên Chúa, ngài đã để lại những dòng chữ cuối cùng vào buổi sáng hôm bị hành quyết:

“Nơi đây, tôi đã chiến đấu đến cùng. Tôi đã bị bắt tám tháng qua chỉ vì bảo vệ đức tin Công giáo. Vào dịp lễ Thánh Tâm, họ đã tuyên án tử hình tôi. Tôi đã làm hết sức mình, chỉ vì một mục đích duy nhất là: mọi người được tự do đến với ơn cứu độ. Tôi đã chiến đấu cho đức tin bằng lời nói và hành động. Giây phút định đoạt đã đến với tôi để hành động một lần cho cả đời. Hôm nay là ngày hành quyết. Vào lúc 7 giờ, tôi sẽ trình diện trước mặt Đấng Cứu chuộc tôi, Đấng mà tôi đã hết lòng yêu mến. Xin đừng thương tiếc tôi. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Nước Trời tồn tại… Tôi đã sống, không chút nghi ngờ, từng giây phút từ khi bị bắt cho đến nay… Tôi đã trải qua những ngày chìm ngập trong nỗi buồn âm u; nhưng tôi đã có cơ hội để chuẩn bị cho cái chết của tôi tốt hơn. Đổ máu cho Đức Kitô và cho Hội Thánh của Ngài là niềm khao khát của tôi” (Sách đã dẫn, Vietcatholic News, linh mục Phêrô Phạm Ngọc Lê).

Các thánh cũng như mọi Kitô hữu chấp nhận hiến dâng đời mình cho Chúa, là những anh chị em của chúng ta.

Họ được vẻ vang trong ánh sáng rạng ngời của chân lý, thì vẻ đẹp đó, không phải tự nhiên mà có, nhưng vẻ đẹp đó đã được mua với giá đắc là chính cuộc đời đầy bất ổn của họ.

Hãy bắt chước họ mà tiến lên trong tinh thần vâng phục và phó thác. Đừng tìm an thân, nhưng hãy lao vào cuộc chiến dành lấy phần thắng cho đức tin thêm lung linh, thêm tỏa sáng.

Hãy luôn tâm niệm rằng, theo đạo, giữ đạo và sống đạo là nhiệm vụ cao cả của mọi tín hữu, để trung thành với Thiên Chúa, Chủ tể đời mình.

Một khi theo Chúa, thì cũng sẽ nên giống như Chúa, hoàn thành cây thập giá không phải trong một ngày, một buổi, nhưng là suốt chiều dài của đời mình.

Bởi thế, chúng ta sẽ thất bại nặng nếu nghĩ rằng, đạo sẽ mang lại sự an thân cho ta trong cuộc sống này.

Nhưng trên hết, ta phải hiểu rằng, sự trả giá nào cũng đau đớn. Cuộc trả giá cho đức tin đòi ta chấp nhận sự đau đớn bằng nỗi đau thập giá, một nỗi đau khó có đủ lời diễn tả.

Ta hãy xác tín rằng, đạo là đường dẫn ta đi qua thử thách của đời này để vinh hiển bước vào đời vĩnh cửu.

Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm đón nhận thánh ý Chúa. Xin cho chúng con đừng nghi nan nhưng luôn tin tưởng và phó thác cho Chúa mọi hoàn cảnh của đời sống chúng con. Xin thánh Gioan, đấng đã trung thành gìn giữ đức tin suốt đời mình, cầu bàu cho chúng con trong mọi cuộc chiến bảo vệ đức tin của chính chúng con. Amen.

Lm. VŨ XUÂN HẠNH
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Hòa Bình thế giới
Lm. Trần Đức Anh OP
09:46 13/12/2013
VATICAN. Sáng ngày 12-12-2013, Sứ điệp đầu tiên của ĐTC Phanxicô nhân ngày hòa bình thế giới lần thứ 47 đã được công bố về đề tài: ”Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường tiến tới hòa bình”.

ĐHY Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình, đã cùng với Đức Cha Tổng thư ký Mario Toso SDB, giới thiệu Sứ điệp của ĐTC trong cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh.

Văn kiện này được giới báo chí chào mừng như một tổng hợp đạo lý của ĐTC Phanxicô về xã hội, qua đó ngài kêu gọi tái khám phá tình huynh đệ trong gia đình, trong nền kinh tế và trong tương quan của các dân tộc với nhau. Ngài khẳng định rằng ”Nếu không có tình huynh đệ thì không thể xây dựng một xã hội công chính và một nền hòa bình liên đới và lâu bền”.

Trong sứ điệp, ĐTC cũng mạnh mẽ kêu gọi những kẻ gieo rắc bạo lực và chết chóc hãy từ bỏ con đường võ khí, đồng thời ngài cũng lên án nạn tham nhũng, nạn mafia hay là tội phạm có tổ chức.

Sứ điệp được phổ biến bằng 11 thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Arập và Nga, Hindi và Tamil bên Ấn Độ, không kể các ngôn ngữ chính ở Tây Phương. Ngoài đoạn nhập đề và kết luận, Sứ điệp còn được chia làm 8 đoạn khác với những tiểu đề: ”Cain, em ngươi ở đâu?” (St 4,9) (1), ”Tất cả các con là anh em với nhau” (Mt 23,8) (2); Tình huynh đệ, nền tảng và con đường dẫn đến hòa bình (3); Tình huynh đệ, tiền đề để chiến thắng nghèo đói (5); Tái khám phá tình huynh đệ trong nền kinh tế (6); Tình huynh đệ dập tắt chiến tranh (7); Nạn tham ô và tội ác có tổ chức cản trở Tình huynh đệ (8) và sau cùng: Tình huynh đệ giúp bảo tồn và vun trồng thiên nhiên (9).

Trình bày của ĐHY Turkson

ĐHY Turkson nhận xét rằng ”Trong sứ điệp này, ĐTC tự hỏi tại sao trong thế giới ngày nay có sự thiếu thốn trầm trọng tình huynh đệ như vậy? Tại sao lòng ích kỷ làm cho chúng ta trở nên mù quáng trước tình huynh đệ không thể thiếu được như thế? Phải chăng sự sợ hãi và cạnh tranh đã gây nhiễm độc cho phẩm giá khôn sánh của chúng ta là con cái Thiên Chúa, làm ô nhiễm quan hệ giữa anh chị em với nhau?

ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và hòa bình nêu bật một số điểm trong sứ điệp của ĐTC Phanxicô. Ngài suy tư về người nghèo, về hòa bình, về thiên nhiên dưới một tựa đề bao quát và đầy ý nghĩa, đó là ”tình huynh đệ”. Ngài cũng mời gọi chúng ta suy tư, cầu nguyện và hành động theo xác tín và niềm tin. Những điều xúc phạm đến tình huynh đệ tạo thành một danh sách thật dài, danh sách đau buồn và ô nhục. Sau mỗi tội ác sát nhân của con người, Thiên Chúa kêu lên: ”Em ngươi ở đâu?”. Con tim ích kỷ và tội lỗi đáp lại: ”Tôi có phải là người canh giữ em tôi đâu!”. Trong khi đó con tim huynh đệ trả lời với lòng biết ơn: 'Cám ơn Cha, vì đã làm cho con trở thành người canh giữ các anh chị em con! Cám ơn Cha vì đã làm cho họ trở thành những người canh giữ con!”.

Đoạn thứ 5 và thứ 6 của Sứ điệp được ĐTC dành để nói về nền kinh tế, và trình bày một số phương dược thực sự để chữa trị nghèo đói. Ngài nhận xét rằng những chênh lệch kinh tế chính là kẻ thù của hòa bình. ”Những cuộc khủng hoảng kinh tế nối tiếp nhau phải làm cho những người hữu trách suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế”.

Sự cộng tác trong việc theo đuổi công ích phải thay thế sự cạnh tranh tai hại làm cho tất cả mọi người đều lâm vào tình trạng rủi ro nguy hiểm.

Các quan hệ huynh đệ cũng phải được biểu lộ trong các chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi người dân được hưởng an sinh và sung túc; các quan hệ ấy cũng phải diễn tả trong một lối sống điều độ hơn, giới hạn vào những điều thiết yếu; và trên bình diện rộng lớn hơn, cần ”mau lẹ suy nghĩ lại những kiểu mẫu phát triển kinh tế của chúng ta”.

Trong đoạn thứ 7 và thứ 8 của Sứ điệp Hòa bình, ĐTC trình bày những ý tưởng nhắm giúp giảm bớt và loại trừ chiến tranh đủ mọi loại, cũng như loại trừ nạn tham ô và tội các có tổ chức. Tình huynh đệ chiến thắng thái độ dửng dưng lãnh đạm, dửng dưng đứng trước bao nhiêu chiến tranh. Tình huynh đệ chiến thắng xu hướng coi kẻ thù không phải là người, coi họ là ma quỉ. Tình huynh đệ thúc đẩy làm việc cam go cần thiết để đạt tới mục tiêu không làm cho võ khí lan tràn, giải giáp, kể cả việc giải trừ các võ khí hạt nhân, võ khí hóa học, qui ước và các võ khí gọi là 'thông minh' và võ khí nhẹ.

ĐTC viết: ”Tôi lập lại lời kêu gọi của các vị tiền nhiệm về việc không làm lan tràn võ khí và giải giáp từ phía tất cả mọi người, bắt đầu là võ khí hạt nhân và hóa học.. Bao lâu vẫn còn số lượng võ khí lớn như thế được lưu hành như ngày nay, thì người ta sẽ luôn tìm ra những cớ mới để khởi sự chiến tranh”.

ĐTC cũng khẳng định rằng ”Tôi muốn mạnh mẽ kêu gọi những người đang dùng võ khí gieo rắc bạo lực và chết chóc: họ hãy tái khám phá người anh em nơi người mà ngày nay họ chỉ coi là một kẻ thù phải triệt hạ, và hãy dừng tay lại.. Hãy từ bỏ con đường võ khí, và đi gặp tha nhân trong cuộc đối thoại, tha thứ và hòa giải, để xây dựng công lý, sự tín nhiệm và hy vọng quanh chúng ta”.

Trong các cuộc xung đột xã hội, tình huynh đệ chống lại nạn tham nhũng, mafia, buôn bán ma túy, nạn nô lệ, buôn người, mại dâm và những hình thức gọi là 'chiến tranh kinh tế và tài chánh” hủy hoại sự sống, các gia đình, và các hoạt động doanh nghiệp”.

Trong đoạn số 9 của Sứ điệp, ĐTC nói đến một nhu cầu cấp thiết là phải bảo tồn và vun trồng thiên nhiên như thể đó là căn nhà trần thế của chúng ta và là nguồn mạch mọi thiện ích vật chất, bây giờ và cho các thế hệ tương lai. Trong tinh thần huynh đệ, chúng ta phải họ cách xử lý môi trường thiên nhiên như một món quà của Đấng Tạo Hóa, một món quà cần được hưởng chung, một cách nhưng không và công bằng. Canh nông sản xuất trong tinh thần trách nhiệm, và các xí nghiệp kiểm soát sự phân phối đúng đắn, và tránh phí phạm, đó là những cách biểu lộ tình huynh đệ cần thiết trong thế giới ngày nay.

Trình bày của Đức Cha Mario Toso, SDB

Hiện diện trên bàn chủ tọa cuộc họp báo cũng có Đức Cha Mario Toso, dòng Don Bosco, Tổng thư ký Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa bình. Ngài nêu nhận xét về những đoạn đầu của Sứ điệp, qua đó ĐTC khẳng định rằng tình huynh đệ nói lên liên hệ tính của con người, và hướng tới sự viên mãn của con người. Xét vì tình huynh đệ có tính chất nội tại nơi con người, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống và hoạt động của con người, nên nó là điều tối quan trọng để kiến tạo một xã hội công chính và an bình. Nếu không có tình huynh đệ, thì thật là khó lòng chấp nhận và hòa hợp những khác biệt hợp pháp, sống sự tha thứ và hòa giải, và chắc chắn là rất khó bài trừ nạn tham những lan tràn, sự trốn thuế vì ích kỷ, sự loại trừ và bất công trong các cơ cấu xã hội, cũng vậy rất khó bài trừ sự ”hoàn cầu hóa thái độ dửng dưng” và phá đổ thần tượng tiền bạc, chế độ độc tài của một nền kinh tế vô nhân đạo và không có mục tiêu thực sự là nhân bản. Đó cũng là những tai ương và tệ nạn mà ĐTC Phanxicô đã tố giác trong Tông Huấn ”Niềm vui Phúc Âm”.

Đức Cha Toso cũng nhận xét rằng trong sứ điệp Hòa bình, ĐTC chỉ trình bày một số con đường có thể dẫn đến hòa bình, xuất phát từ sự đón nhận và liên kết nguyên tắc huynh đệ. Những con đường này đi qua các lãnh vực quan trọng như nạn nghèo đói, kinh tế, nạn tham nhũng, chiến tranh, và thiên nhiên. Trong các lãnh vực ấy, ĐTC chỉ đường, nêu lên phương pháp cần theo, và có thể áp dụng chúng cho một số vấn đề khác, nhờ đào sâu và nghiên cứu và thí nghiệm. ĐTC kêu gọi dấn thân mạnh mẽ về phương diện văn hóa, sư phạm và quan điểm, cần có sự động viên của cộng đoàn, khởi hànhtừ sự loan báo tin mừng, hoán cải và giáo dục ở mọi cấp độ, từ tiểu học cho đến đại học.

Trong Sứ điệp, ĐTC kêu gọi cảnh giác đối với thứ tình huynh đệ không tham chiếu siêu việt, thứ huynh đệ này sẽ không tồn tại được. Con người và xã hội nào loại bỏ Thiên Chúa và không nhìn nhận Ngài đang sống giữa họ, thì khó lòng nhìn nhận nhau và sống với nhau như con của cùng một Cha. Tiếp đến, ĐGH Phanxicô nêu rõ rằng đối với mỗi ngừơi và mỗi xã hội, việc đạt tới kinh nghiệm về tình phụ tử của Thiên Chúa, và từ đó đạt tới tình huynh đệ, sẽ trở nên dễ dàng hơn nhờ đón nhận Chúa Giêsu Kitô là Adong mới, được hòa giải với Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc mỗi người với mọi chiều kích của họ, kể cả lý trí được tăng cường hơn. Nhờ sự nhập thể, sự chết và sống lại, Chúa Giêsu gieo vãi trong lịch sử và nơi tâm hồn con người, một tình người huynh đệ hơn, vì hoàn toàn hiệp thông với Thiên Chúa và nhờ đó có khả năng nhìn nhận và sống tình huynh đệ với những người đồng lại, và sống với cả thiên nhiên trên một bình diện khác.

Đức Cha Toso nêu rõ một nhận xét của ĐTC trong sứ điệp, đó là trong thế giới hoàn cầu hóa của chúng ta, có sự gia tăng giàu có và tài nguyên, nhưng đồng thời cũng có sự gia tăng sự chênh lệch và nghèo đói tương đối. Gia đình nhân loại bị chia thành những dân tộc và các nhóm, trong đó một thiểu số ngày càng giàu hơn, trong khi đa số khác ngày càng bị nguy cơ gạt ra ngoài lề. Tình trạng di cư gia tăng mạnh mẽ, kèm theo những hiện tượng đau buồn như nạn buôn người, một số kẻ lợi dụng tình trạng tuyệt vọng của những người khác để làm giàu không chút băn khoăn do dự, và nhiều khi gây ra cái chết cho các nạn nhân.

Ngoài những cuộc chiến bằng võ khí, còn có những cuộc chiến tranh khác ít tỏ tường hơn, nhưng không kém phần tàn ác: nó diễn ra trong lãnh vực kinh tế, tài chánh, bằng những phương thế tàn hạn không kém đối với con người, gia đình, xí nghiệp. Chế độ thực dân xưa kia nay được thay thế bằng những chế độ mới, buộc các nước khác phải tùng phục về kinh tế và chính trị, với những cuộc khai thác bóc lột đất đai và khoáng sản, từ phía các quốc gia hoặc các xí nghiệp nước ngoài, mà dân chúng địa phương không được hưởng các tài nguyên thiên nhiên của đất nước họ; tệ hơn nữa, đất đai và môi trường sống của họ bị ô nhiễm. Tất cả sự chênh lệch, nghèo đói và bất công đó không những cho thấy sự thiếu nền văn hóa liên đới, nhưng còn là dấu hiệu chứng tỏ sự thiếu tình huynh đệ, tạo nên tình trạng nghèo nàn về quan hệ. Vì thế, để có thể sống trong hòa hợp và an bình, nhân loại chúng ta cần có thêm tình huynh đệ được cảm nghiệm, tôn trọng gia đình là tế bào của xã hội, vốn là một nguồn mạch vô tận (1).
 
Đức Thánh Cha kêu gọi hiệp lực bài trừ nạn buôn người
Lm. Trần Đức Anh OP
09:46 13/12/2013
VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 17 tân đại sứ sáng 12-12-2013, ĐTC kêu gọi các chính quyền và những người thiện chí hợp lực để chống lại nạn buôn người.

Trong số 17 vị Đại Sứ mới cạnh Tòa Thánh đến trình ủy nhiệm thư, có các đại sứ Na Uy, Đan Mạch, Giordani, Pakistan, Uganda, Kuwait, Sierra Leone, Algeri, và cả đại diện của chính quyền Palestine nữa.

Theo thông lệ, các vị Đại sứ cạnh Tòa Thánh thường trú tại Roma được ĐTC tiếp kiến riêng, còn các vị không thường trú thì được ngài tiếp kiến chung.

Trong lời chào mừng các vị tân đại sứ, ĐTC đặc biệt chia sẻ mối quan tâm sâu đậm của ngài về nạn buôn người, ”một hình thức nô lệ mới ngày càng lan tràn, có liên hệ tới mỗi nước, kể cả những nước phát triển nhất, và liên quan tới những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội: các phụ nữ, thiếu nữ, trẻ em nam nữ, người khuyết tật và những người nghèo nhất.”

ĐTC nói: ”Nơi họ, các tín hữu Kitô đặc biệt nhận thấy tôn nhan của Chúa Giêsu Kitô, là Đấng tự đồng hóa với những người bé mọn và túng thiếu nhất. Những người khác, tuy không tham chiếu một tín ngưỡng tôn giáo, nhưng nhân danh tình người chung, họ cùng cảm thương đối với những đau khổ và dân thân giải thoát cũng như thoa dịu các vết thương của các nạn nhân. Cùng nhau chúng ta có thể và phải dấn thân để các nạn nhân được giải thoát và chấm dứt việc buôn bán đáng kinh tởm này”.

ĐTC nhắc đến hàng triệu nạn nhân bị buôn bán để bị khai thác tình dục hoặc cưỡng bách lao động. Ngài nói: ”Tất cả những điều ấy không thể tiếp tục. Nó là một sự vi phạm trầm trọng chống lại các nhân quyền của các nạn nhân và là một xúc phạm đến phẩm giá của họ, và là một thất bại đối với cộng đồng thế giới. Những người thiện chí, dù có tín ngưỡng tôn giáo hay không, không thể để cho các phụ nữ, những người nam, các trẻ em ấy, bị đối xử như đồ vật, bị lường gạt, bạo hành, thường bị bán đi nhiều lần, với những mục đích khác nhau, và sau cùng bị giết, hoặc bị tàn hại về thể lý và tâm trí, để rồi bị gạt bỏ và bỏ rơi. Đó thực là một điều ô nhục..”

”Nạn buôn người thực là một tội ác chống lại nhân loại. Chúng ta phải hiệp sức để giải thoát các nạn nhân và chặn đứng tội ác ngày càng mạnh mẽ, không những đe dọa cá nhân, nhưng cả những giá trị nền đảng của xã hội và an ninh, công lý quốc tế, cũng như nền kinh tế, gia đình, và chính sự sống chung nữa”.

ĐTC khuyến khích các chính phủ và cộng đồng quốc tế đề ra những biện pháp để bảo vệ các nạn nhân và chống lại nạn buôn người. ”Để đạt được những kết quả tốt cũng cần những hoạt động ảnh hưởng trên bình diện văn hóa và truyền thông. Ngài nói: ”Về bình diện này, cần xét mình sâu rộng: thực vậy, bao nhiêu lần chúng ta để cho một người bị coi như đồ vật, bị bày bán như một sản phẩm hoặc để thỏa mãn những ước muốn vô luân? Con người không bao giờ phải chịu sự mua bán như một món hàng. Ai sử dụng và khai khác con người, dù là gián tiếp, thì đồng lõa với tội ác ấy” (SD 12-12-2013)
 
Michael Novak đồng quan điểm với Đức Phanxicô
Vũ Văn An
22:27 13/12/2013
Phe hữu tại Hoa Kỳ, trong những ngày gần đây, cực lực chỉ trích Đức Phanxicô về nội dung của tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” khi đề cập tới kinh tế. Có người gọi ngài là người theo chủ nghĩa Mác. Có người thậm chí còn bảo ngài đừng nên pha mình vào lãnh vực kinh tế là lãnh vực ngài không những không hiểu biết mà còn chẳng ăn uống gì tới thừa tác vụ của ngài cả. Họ khuyên ngài, trong lãnh vực này nên nhường bước cho những người Công Giáo như Michael Novak.

Điều nghịch thường là ngày 7 tháng Mười Hai vừa qua, Michael Novak, trên National Review Online (www.nationalreview.com), có một bài tựa là “Agreeing with Pope Francis: The exhortation looks very different read through the lens of Argentine experience” (Đồng Ý Với Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Tông Huấn Có Dáng Rất Khác Khi Đọc Qua Lăng Kính Kinh Nghiệm Á Căn Đình”. Ta biết Novak là một người Hoa Kỳ cánh hữu, và vì thế, vẫn cho rằng hình thức tư bản của Hoa Kỳ “bao gồm” người nghèo hơn mọi quốc gia khác và giải quyết tốt nhất nền kinh tế chính trị, cực lực chỉ trích bất cứ ai nói ngược lại, kể cả tông huấn của một vị giáo hoàng. Nhưng ông đồng ý rằng tình yêu là nguyên tắc tối hậu của tư tưởng xã hội Công Giáo, một tư tưởng đặt người nghèo ở tâm điểm, không giúp đỡ người nghèo là không yêu mến Thiên Chúa. Một cách mặc nhiên, ông thừa nhận Đức Phanxicô đúng cả trong việc phê phán chủ nghĩa tư bản, trên quan điểm mục tử, vì ngài đâu có đứng trên quan điểm kinh tế chính trị, cũng không nói về kinh tế chính trị, mà nói về Niềm Vui Tin Mừng. Sau đây là bài nhận định của ông.


Đọc tông huấn mới của Đức GH Phanxicô sau các trình bày hết sức sai lạc về nó của GuardianReuters (cả hai đều thuộc phe tả của báo giới Anh), và đọc nó bằng lỗ tai ngôn ngữ Hoa Kỳ, thoạt đầu tôi rất ngỡ ngàng về việc có tới 5 hay 6 câu của nó sao mà phe phái và vô căn cứ về thực nghiệm đến thế.

Nhưng đọc tông huấn trong bản dịch tiếng Anh đầy đủ của nó, và đọc nó bằng con mắt của vị giáo sư – giám mục – giáo hoàng từng lớn lên ở Á Căn Đình này, tôi bắt đầu có cảm tình hơn với các câu chữ được Đức Giáo Hoàng Phanxicô sử dụng.

Bởi một lẽ, tôi từng nghiên cứu cẩn thận các trước tác đầu tiên của Đức GH Gioan Phaolô II, tức các trước tác phát sinh từ kinh nghiệm sống lâu dài với chế độ cộng sản hà khắc, một chế độ tự cho mình là người hoàn toàn tranh đấu cho “bình đẳng” nhưng lại cưỡng chế việc kiểm soát hoàn toàn chính sách cai trị, kinh tế, và văn hoá bằng một nhà nước toàn trị và tàn ác. Từ 1940 (dưới sự chiếm đóng của Quốc Xã và Xô Viết) cho tới 1978 (khi ngài di chuyển về Vatican), Karol Wojtyla hầu như không có bất cứ một kinh nghiệm nào về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chính sách cai trị dân chủ/cộng hòa. Để có thể hiểu được các ý niệm đứng đàng sau thứ kinh tế chính trị này, ngài đã phải thận trọng lắng nghe và học hỏi thứ ngữ vựng hoàn toàn khác biệt này.

Các kinh nghiệm buổi đầu của hai vị giáo hoàng này rất khác nhau. Thành thử, sau khi đã thuyết trình lâu năm tại Á Căn Đình và tại Chilê từ cuối thập niên 1970, tôi đọc toàn bộ tông huấn này bằng một lỗ tai từng có được các vang vọng của đời sống kinh tế và chính trị hàng ngày tại Á Căn Đình.

Trong các cuộc viếng thăm Á Căn Đình của mình, tôi nhận thấy một phân rẽ hết sức rõ nét giữa giai cấp thượng trung lưu và giai cấp nghèo hơn hẳn bất cự sự phân rẽ nào tại Hoa Kỳ. Tại Á Căn Đình, tôi thấy rất ít nẻo đường để người nghèo theo đó thoát khỏi cảnh nghèo của họ. Tại Hoa Kỳ, nhiều người, hiện nay giầu có hay thuộc giai cấp trung lưu, trước đây từng đến (hay cha mẹ họ từng đến) Mỹ Châu này khố rách áo ôm, nhiều người trong chúng ta còn không nói được tiếng Anh, được đi học rất ít, và chủ yếu chỉ có kỹ năng tay chân. Nhưng trước mặt chúng ta trải dài nhiều nẻo đường đi lên. Như Hernando de Soto của Peru từng nhấn mạnh, Hoa Kỳ có thượng tôn pháp luật và các quyền tư hữu rõ ràng, dựa vào đó, người ta có thể an tâm xây dựng tương lai qua nhiều thế hệ.

Hầu như mọi người tôi quen biết lúc lớn lên đều trải nghiệm cảnh nghèo ở buổi đầu. Cha ông chúng ta có thể làm nghề may vá, thợ sắt, thư ký cửa tiệm, làm vườn, làm thợ sửa vặt, công nhân cổ xanh đủ loại, không có bảo hiểm xã hội, Medicaid, phiếu thực phẩm, phụ cấp nhà ở, hay những thứ tương tự. Nhưng họ chịu khó làm việc và phần nào đã có khả năng gửi con cái tới cao đẳng và đại học. Bây giờ thì con cái họ là bác sĩ, luật sư, giáo sư, chủ bút, chủ nhân tiểu thương khắp nước.

Trong cuốn Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (1776), Adam Smith so sánh lịch sử kinh tế của Châu Mỹ La Tinh với lịch sử kinh tế Bắc Mỹ. Ông nhận định rằng ở Châu Mỹ La Tinh vẫn còn nhiều định chế của một Âu Châu phong kiến: các chủ đất lớn, các đồn điền lớn, các nhân công đồn điền. Ở Bắc Mỹ, chỉ các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ mới có các đặc điểm này.

Ở khắp Châu Mỹ La Tinh, trong suốt gần hai thế kỷ cho tới lúc Smith viết tác phẩm trên, các quyền lực và giấy phép kinh tế đều được ban hành bởi các viên chức chính phủ tận mãi Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha xa xôi vạn dặm. Tại Cộng Hòa Dominican, chẳng hạn, một nông gia muốn lập một xưởng nấu sắt nhỏ phải đợi hàng tháng hay hàng năm mới có quyết định từ Tây Ban Nha. Buôn bán với giặc biển dễ dàng hơn nhiều. Trong khi ấy, tại các khu khai phá nói tiếng Anh ở Bắc Mỹ, một nông gia có thể lập một xưởng nấu sắt bất cứ lúc nào, không cần phải xin phép bất cứ ai. Thậm chí, cả sau khi một số nước giành được độc lập, thói quen chờ phép tắc của nhà nước vẫn còn nguyên tại đó như một tục lệ muôn đời bất biến.

Vả lại, kinh nghiệm trong thế giới nói tiếng Anh đã dẫn tới việc không tin tưởng vua chúa và các triều đình của họ, cũng như các vương bá sau này và giới qúy tộc nói chung, vì những người này không được ai coi là lưu tâm tới và phục vụ ích chung. Ngược lại, tại khắp thế giới nói tiếng La Tinh, thói quen ngược lại đã đâm rễ rất sâu. Ở đấy, các viên chức nhà nước thường xuyên được ủy thác việc chăm sóc ích chung, bất chấp thành tích dài thượt đủ các phản bội nhiệm vụ, các bột phát bạo tàn, và sử dụng tài nguyên kinh tế để làm giầu cho tầng lớp lãnh đạo nhà nước liên tiếp nhau. Ở Châu Mỹ La Tinh, khu vực tư có tính đa nguyên bị người ta ngờ vực, nhưng nhà nước thì được tín nhiệm.

Ngược lại, ở Hoa Kỳ, dưới một chính phủ bị giới hạn bởi luật lệ nghiêm khắc, quyền tư hữu cá nhân phát triển hầu như phổ quát (ngoại trừ dưới cái định chế nô lệ ác ôn, được coi như tội nguyên tổ tại Mỹ Châu), có sự hiện diện của nhiều tiểu xí nghiệp, và rất nhiều tiểu nông gia phồn thịnh. Smith mô tả việc tạo ra thịnh vượng tại Bắc Mỹ giống như vọt lên từ bên dưới, từ dưới đáy, nơi các thói quen tằn tiện đã dẫn tới nhiều đầu tư khôn ngoan vào đường rầy, vào kinh đào, và vào các doanh thương lớn lao khác.

Non 70 năm sau khi Smith viết tác phẩm trên, một người con của một nông trại tiền phong ở trung Illinois, Abraham Lincoln, đã hùng hồn nói tới các chứng cớ của một doanh thương hoàn cầu, thấy rõ trong các căn hộ ở khắp vùng thảo nguyên: thuốc lá, bông vải, hương liệu, rượu mạnh, đường, trà, đồ thủy tinh, đồ bằng bạc. Ông gán việc buôn bán đem lại giầu có này cho óc mạo hiểm của các thủy thủ Hoa Kỳ (như Tocqueville đã nhất trí).

Lincoln cũng viết về điều lệ cầu chứng và tác quyền trong hiến pháp Hoa Kỳ, là điều lệ bảo đảm quyền các nhà sáng chế được hưởng thành quả các sáng chế của họ bằng tiền bạc. Lincoln cho rằng cái điều lệ nhỏ nhoi này thực là một trong sáu đóng góp to lớn nhất cho tự do trong lịch sử thế giới. Ông nghĩ rằng điều cực kỳ quan yếu là giải phóng con người nhân bản ở khắp nơi khỏi lầm than và bạo chúa.

Cái câu duy nhất ấy, trong đó hạn từ “quyền” được sử dụng trong toàn bộ Hiến Pháp, đã phát động cho thế giới cả một mô thức kinh tế hoàn toàn mới, không dựa vào đất đai (như đã diễn ra cả hàng mấy ngàn năm trước) mà dựa vào ý tưởng sáng tạo, vào sáng chế,vào khám phá, đều là những điều đẩy nhanh cả một dòng thác cải tiến mới và sản phẩm mới làm phong phú cuộc sống của người dân thường. Các cải tiến này càng giúp đỡ được nhiều người bao nhiêu, càng làm cho tiền tác quyền (royalties) của người sáng chế cao hơn. Bằng cách phục vụ người khác, họ gặt hái được phần thưởng cho chính mình. Những phần thưởng này càng thăng tiến ích chung hơn.

Vị giáo hoàng người Ba Lan, Gioan Phaolô II, thừa nhận sự thay đổi xã hội lớn lao này trong Centesimus Annus (Năm Thứ Một Trăm, 1991). Đoạn 32 của văn kiện này mở đầu như thế này “Ở thời đại ta, cách riêng, có một hình thức sở hữu khác không kém phần quan trọng như đất đai: đó là sở hữu kỹ thuật, hiểu biết và kỹ năng. Sự thịnh vượng của các nước kỹ nghệ hóa đặt căn bản trên loại sở hữu này nhiều hơn trên các tài nguyên thiên nhiên”. Phần còn lại của đoạn này khá súc tích trong việc đào sâu các nguyên nhân của thịnh vượng và vai trò của con người và hiệp hội nhân bản trong đức tính liên đới, mà việc hoàn cầu hóa chính là biểu thức bên ngoài.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mau mắn thừa nhận rằng ngày nay “nhân tố có tính quyết định [trong sản xuất] càng ngày càng chính là con người, nghĩa là, kiến thức của họ, nhất là kiến thức khoa học, khả năng tổ chức rất liên quan và khắng khít với nhau của họ, cũng như khả năng nhận thấy nhu cầu của người khác và thỏa mãn các nhu cầu này.

Rồi trong đoạn 42, Đức Gioan Phaolô II định nghĩa chủ nghĩa tư bản lý tưởng của ngài một cách ngắn gọn như một hệ thống kinh tế phát sinh từ óc sáng tạo, dưới sự thượng tôn pháp luật, và “cốt lõi của nó là đạo đức và tôn giáo”. Mười năm trước đó, trong thông điệp xã hội đầu tiên của ngài, tựa là Laborem Exercens (Về Lao Công Con Người, 1981), khi trực tiếp bác bỏ ngôn ngữ Mácxít chính thống về lao công, Đức Gioan Phaolô II cũng đã dự phóng dự án “thần học sáng thế” để thay thế cho nền “thần học giải phóng”. Sau đó không lâu, ngài đạt tới ý niệm “vốn nhân bản” (human capital). Từng bước, tư duy của ngài vươn tới viễn kiến riêng về nền kinh tế tốt đẹp nhất đối với con người nhân bản, không hẳn hoàn hảo trong thung lũng nước mắt này, nhưng tốt đẹp hơn bất cứ nền kinh tế nào, cả Cộng Sản lẫn truyền thống. Đức Gioan Phaolô II coi nó như “mô thức cần được đề xuất cho các nước Thế Giới Thứ Ba đang đi tìm con đường tiến bộ về kinh tế và dân chính”.

Đầu thế kỷ 20, Á Căn Đình được xếp hàng 15 trong các nước kỹ nghệ hàng đầu, và càng ngày, nền thịnh vượng của họ càng phát sinh từ các sáng chế hiện đại hơn là từ đất đai cày cấy. Rồi một hình thức kinh tế chính trị có tính hủy hoại, lúc ấy lan tràn như một bệnh dịch phát xuất từ Âu Châu, tức chủ nghĩa phátxít mị dân với việc chính phủ kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế, đã làm đà tiến bộ của Á Căn Đình về kinh tế và chính trị khựng lại. Bất ổn về thượng tôn pháp luật đã phá nát óc sáng tạo về kinh tế. Lạm phát gia tốc lên tới cao độ không thể tưởng tượng được. (Đầu thập niên 1980, tôi mang từ Á Căn Đình về một tờ giấy bạc mệnh giá 1 triệu pesos Á Căn Đình, nhưng chỉ còn đáng giá 2 xu Mỹ lúc ấy).

Trong 3 thế hệ, rất ít tài nguyên quốc gia và cơ hội thăng tiến xã hội được dành cho người nghèo. Khả thể thăng tiến từ dưới đi lên đã và vẫn còn bất thường xuyên. Ngày nay, số phận người nghèo ở Á Căn Định vẫn bất động. Người nghèo nhận được rất ít huấn giáo bản thân để quay trở lại với óc sáng tạo và sáng kiến tự lập. Rất ít đạo luật, rất ít định chế cho vay cũng như các sắp xếp thực tiễn khác hỗ trợ họ trong việc vươn lên. Các năng lực nhân bàn bị cạn kiệt vì tinh thần lệ thuộc vào phúc lợi của nhà nước. Kết quả trông thấy là cả một xã hội phần lớn trì trệ, với rất ít cơ may để người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo của họ. Quả là một nỗi nhục nội tâm đối với người nghèo khi họ thấy mình hoàn toàn lệ thuộc, không tự tạo được một thành quả bản thân nào. Nếu đây là điều Đức Phanxicô tượng hình một cách đau đớn khi viết tông huấn này, thì đó chính là điều được con mắt nhiều nhà quan sát khác nhận thấy.

Chỉ một chữ “chủ nghĩa tư bản” mà thôi cũng đã có nhiều nghĩa rất khác nhau rồi, dựa trên các kinh nghiệm rất khác nhau. Tại nhiều quốc gia Châu Mỹ La Tinh, các lãnh tụ công ty ngày nay thường là cháu chắt của những chủ đất vĩ đại ngày trước. Trong số này, một số người có viễn kiến, có óc sáng chế, có sáng kiến bản thân tự tạo cơ sở riêng cho chính mình. Ấy thế nhưng cho tới nay, phần lớn người Hoa Kỳ không thể kể tên bất cứ món hàng nổi danh nào do Nam Mỹ sáng chế cả.

Đúng, trong một số lãnh vực mới, óc sáng tạo và sáng chế đang lớn mạnh tại Châu Mỹ La Tinh. Các máy phản lực Embraier của Ba Tây (được sử dụng trong đoàn máy bay của nhiều công ty vận chuyển Hoa Kỳ), chẳng hạn, là những nguyên phẩm hết sức hữu dụng. Tuy thế, hệ thống kinh tế của Á Căn Đình và của các nước Châu Mỹ La Tinh khác vẫn là một hệ thống thị trường truyền thống tĩnh tại, chứ chưa có tính tư bản chủ nghĩa trong sáng chế và trong óc làm ăn.

Bất cứ ai nhận định về các chủ đề kinh tế của Niềm Vui Tin Mừng nên ghi nhận từ đầu rằng điều Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh trong văn kiện này chưa nói đầy đủ trọn các quan điểm của ngài về nền kinh tế chính trị, mà chỉ nói lên quan tâm mục vụ của ngài mà thôi. Trong đoạn 51, Đức Phanxicô viết rằng: “Đức Giáo Hoàng không có nhiệm vụ trình bày một phân tích chi tiết và toàn diện về những thực tại đương thời, nhưng tôi mời gọi tất cả các cộng đồng ‘luôn luôn tỉnh táo để phân biệt các dấu chỉ của thời đại’. Đó là một nhiệm vụ quan trọng, bởi vì một số thực tại hiện nay, nếu không tìm ra những giải pháp tốt đẹp, có thể gây ra những tiến trình phi nhân bản là điều sau đó rất khó mà đảo ngược lại được. Chúng ta cần phải phân biệt rõ ràng những gì có thể là hoa quả của Nước Thiên Chúa và những gì đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là chúng ta không những chỉ nhận ra và giải thích những tác động của thần lành và thần dữ, - và đây là điều quyết định - nhưng chọn những tác động của thần lành và loại bỏ những tác động của thần dữ. Tôi bao hàm các phân tích khác nhau đã được đề ra trong các tài liệu khác của Huấn Quyền phổ quát, cũng như những điều mà các Giám Mục quốc gia và vùng đã đề nghị. Trong Tông Huấn này, tôi có ý chỉ bàn đến một cách ngắn gọn với nhãn quan mục vụ về một số khía cạnh của những thực tại có thể ngăn chặn hoặc làm suy yếu động lực canh tân truyền giáo của Hội Thánh, hoặc vì chúng có ảnh hưởng đến sự sống và nhân phẩm của dân Thiên Chúa, hoặc vì chúng cũng liên quan trực tiếp đến các cơ cấu của Hội Thánh và đến việc thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh”.

Nhưng có khoảng sáu "cú đấm" (swipes) của ngài có tính phe phái và thiên vị đến độ hình như vượt ra ngoài sự thanh thản và tinh thần đại lượng thông thường của ngài. Nói một cách chính xác, những kiểu nói có tính phe phái (partisan) này tự nhiên bị những cơ sở truyền thông như ReutersGuardian túm lấy. Trong số này, có “các lý thuyết nhỏ giọt” (trickle-down theories), “những bàn tay vô hình”, “thờ ngẫu thần tiền bạc”, “bất bình đẳng” và lòng tin vào nhà nước “được trao cho việc canh chừng ích chung”.

Mary Anastasia O’Grady, một trong các quan sát viên sắc sảo nhất về Châu Mỹ La Tinh hiện nay, nêu câu hỏi: nếu thế thì tại sao “phần lớn người nghèo cùng cực nhất hiện nay lại tập trung ở những nơi nhà nước chiếm một vai trò quá cỡ trong nền kinh tế chính vì dựa trên những cơ sở như thế?” Kể từ thời Max Weber, tư tưởng xã hội Công Giáo đã bị qui lỗi cho phần lớn sự nghèo khó tại các quốc gia Công Giáo. Đức Phanxicô vô tình đã thêm bằng chứng cho luận đề của Weber.

Đúng, ta sẽ công bình hơn nếu có được một sử gia kinh tế biết đặt mỗi chủ đề có tính nổ bùng và có tính phe phái này vào ngữ cảnh của nó, để giải thích mỗi chủ đề này có nghĩa gì đối với tác giả viết ra nó, ngược với cách dùng có tính phe phái của giới truyền thông ngày nay. Ở đây, tôi chỉ xin phép tập chú vào các thiếu sót của một trong các chủ trương vội vàng của Đức Giáo Hoàng mà thôi: ngài đã bất cẩn nhắc tới “các lý thuyết nhỏ giọt”. Thực ra sự lầm lẫn ở đây hình như đã bị cường điệu hóa bởi lối dịch nghèo nàn, như thấy rất rõ giữa bản dịch Anh Ngữ chính thức của Vatican và nguyên bản Tây Ban Nha của Đức Giáo Hoàng.

Nguyên bản Tây Ban Nha viết như sau: “En este contexto, algunos todavía defienden las teorías del “derrame,” que suponen que todo crecimiento económico, favorecido por la libertad de mercado, logra provocar por sí mismo mayor equidad e inclusión social en el mundo”.

Bản bất hạnh bằng tiếng Anh là “In this context, some people continue to defend trickle-down theories which assume that economic growth, encouraged by a free market, will inevitably succeed in bringing about greater justice and inclusiveness in the world” (trong ngữ cảnh này, một số người tiếp tục bênh vực các lý thuyết nhỏ giọt là các lý thuyết cho rằng phát triển kinh tế, được thị trường tự do khuyến khích, sẽ nhất thiết thành công trong việc tạo ra sự công bình và tính bao hàm lớn hơn trên thế giới).

Đầu tiên xin bạn đọc chú ý: chữ “nhỏ giọt” (trickle-down) không hề có trong nguyên bản Tây Ban Nha, như thể Đức Giáo Hoàng có ý nói tới khẩu hiệu xung trận của Đảng Dân Chủ Hoa Kỳ chống lại Đảng Cộng Hòa Mỹ! Các thông dịch viên chuyên nghiệp tiếng Tây Ban Nha cho rằng lối dịch đúng của chữ derrame là “spillover” hay “overflow” (tràn ra từ cái gì đã đầy, dư tràn?). Thay vào đó, bản dịch tiếng Anh đã đưa vào đoạn này cả một ý nghĩa khác hẳn lẫn một cung giọng mới khó nghe. Chỉ những ai thù nghịch với chủ nghĩa tư bản và các cải cách thành công của Reagan, và với các chính sách của Đảng Cộng Hòa nói chung sau chính sách đi xuống của thời Carter, mới sử dụng kiểu nói châm chọc “nhỏ giọt” mà thôi, nhằm hí hoạ hóa điều thực sự xẩy ra dưới thời Reagan, tức chính sách đi lên đáng kể. Về phương diện này, xin xem bài của tôi tựa là “The Rich, the Poor, & the Reagan Administration” (Người Giầu, Người Nghèo và Chính Phủ Reagan).

Những ai nhấn mạnh tới các thành công của chủ nghĩa tư bản trong việc nâng người nghèo ra khỏi cảnh nghèo không sử dụng hạn từ này. Họ cho rằng chuyển động có tính cổ điển của các nền kinh tế tư bản là chuyển động đi lên dành cho người nghèo: tỷ lệ nhân dụng cao hơn, lương bổng cũng cao hơn, sáng kiến cá nhân và các thương sở mới có thể đo lường được, cơ may chưa từng có để người nghèo tiến lên, các di dân có thể thoát khỏi cảnh nghèo trong vòng chưa tới 10 năm, giai cấp “vô sản” lao công trở thành các thành viên vững vàng của giai cấp trung lưu, có thể sở hữu căn nhà riêng và hỗ trợ nền học vấn cao đẳng của con cái họ.

Niềm Vui Tin Mừng cho rằng không có chứng cớ thực nghiệm nào đối với niềm tin vào các thành quả kinh tế này. “Đó là một niềm tin thô thiển và ngây thơ vào tính tốt bụng của những người nắm giữ quyền lực kinh tế và vào cơ chế được thánh thiêng hóa của hệ thống kinh tế đương thịnh”. Ở Á Căn Đình và ở các hệ thống bất động khác vốn không có chính sách đi lên (upward mobility), nhận định này có thể hiểu được. Ở những quốc gia với nhiều thế hệ của chính sách đi lên đáng tin cậy, nó không đúng chút nào.

Chuyển động đi lên được một số hệ thống tư bản cổ vũ là một trải nghiệm, chứ không phải là “niềm tin thô thiển và ngây thơ”, của đại đa số người Hoa Kỳ. “Nhỏ giọt” không phải là một mô tả thích hợp cho những điều đang xẩy ra tại đây; đúng hơn, điều vốn được trải nghiệm xưa nay là sự giầu có “vọt lên từ bên dưới”. Chính xác đó là điều vẫn tiếp tục lôi cuốn hàng triệu di dân tới nền kinh tế của ta.

Ngoài ra, bản dịch tiếng Anh của Niềm Vui Tin Mừng nhấn mạnh rằng có những người tin rằng phát triển kinh tế sẽ nhất thiết tạo ra sự công bình và tính bao hàm lớn lao hơn (equidad e inclusión sociál). Nhưng bản tiếng Tây Ban Nha không sử dụng chữ ta có thể dịch đúng là “nhất thiết” (inevitable). Kiểu nói khiêm tốn hơn và chính xác hơn được sử dụng là por si mismo, hay “tự nó”. Không như bản dịch tiếng Anh, nguyên bản tiếng Tây Ban Nha viết đúng như thế này: Cần nhiều hơn phát triển kinh tế mới có thể làm cho một hệ thống trở nên “công bằng” (equitable). Ta cần có việc thượng tôn pháp luật, việc bảo vệ các quyền tự nhiên, và sự quan tâm kiểu Do Thái /Kitô Giáo đối với quả phụ, cô nhi, người đói khát, người bệnh tật, người ngồi tù, tóm lại, quan tâm một cách hữu hiệu đối với mọi con người yếu thế và khốn khó.

Bất chấp một số sai lạc rõ ràng, nhất là trong khu vực giải trí: âm nhạc thời thượng tục tĩu và khiêu dâm, các hình ảnh và chủ đề sa đoạ trong phim ảnh, hệ thống Hoa Kỳ luôn “bao hàm” người nghèo hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Có hai điều tôi đặc biệt trân quí trong Niềm Vui Tin Mừng. Toàn thể vũ trụ và trọn bộ sự sống con người đều là những ngọn lửa bùng lên từ sự sống bên trong của Đấng Tạo Hóa, từ caritas, tức tình yêu sáng tạo, hướng ra ngoài là chính Thiên Chúa. Như Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI rất thông thái và nổi bật từng cho thấy qua thông điệp đầu tiên của ngài,tức Thông Điệp Deus Caritas Est, mọi sự có tính chủ yếu đối với sự sống con người đều bắt đầu từ trong caritas của Thiên Chúa. Qúy bạn hãy nghĩ điều này trong cuộc sống của mình: há tình yêu bạn dành cho người phối ngẫu, con cái thân yêu cũng như bạn thân của mình không phải là trải nghiệm “thần thánh” nhất qúy bạn từng biết đó sao?

Đó là một lý do tại sao tư tưởng xã hội Công Giáo bắt đầu từ trong caritas. Đó cũng là lý do tại sao người nghèo lại ở gần tâm điểm các quan tâm của Kitô Giáo đến thế, và cả trong việc thờ phượng của họ nữa.

Điểm thứ hai được tôi trân quí nhất chính là sự tập chú mà Niềm Vui Tin Mừng đã đặt vào nhiệm vụ thực tiễn chính yếu của thế hệ chúng ta: bẻ gẫy xiềng xích cuối cùng trói buộc cảnh nghèo xưa. Năm 1776, chỉ non tỉ người sống trên mặt đất. Đại đa số những người này nghèo, lại phải sống dưới các chính quyền bạo chúa. Chỉ hai thế kỷ sau, thế giới có hơn 7 tỉ người. Các khám phá và sáng chế y khoa dồn dập đã giúp tăng tuổi thọ trung bình lên hơn hai lần, giảm tử suất trẻ sơ sinh rất nhiều, và chữa lành hàng trăm thứ bệnh khác nhau. Nhờ tiến bộ kinh tế, sáu phần bẩy loài người đã thoát khỏi cảnh nghèo: hơn một tỉ từ năm 1950 tới năm 1980 và một tỉ nữa từ năm 1980. Còn một tỉ nữa vẫn còn sống trong xiềng xích này. Nhiệm vụ người Do Thái Giáo, người Kitô Giáo và mọi người nhân đạo là phá xiềng xích nghèo khổ cho số người còn lại này.

Bất cứ ta cầu gì trong việc thờ phượng ngày Chúa Nhật cũng chỉ có được thực chất của nó qua điều người Kitô hữu chúng ta làm trong đời sống hàng ngày để giúp đỡ người nghèo. Không tới giúp đỡ người nghèo, là ta không yêu mến Thiên Chúa.

Thánh Gioan, trong thư thứ nhất của ngài, từng viết rằng “Không ai từng trông thấy Thiên Chúa, nhưng nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa sống trong ta, và tình yêu của Người nên trọn vẹn trong ta” (1Ga 4:12). Còn Chúa Giêsu thì dạy ta “Bất cứ các con làm gì cho một trong những anh chị em bé nhỏ này của Ta, là các con làm cho Ta” (Mt 25:40).

Tông huấn không hẳn là một văn kiện giáo huấn nhằm trình bày một luận điểm cẩn thận, đây là trách vụ của một thông điệp. Đúng hơn, nó giống một bài giảng hơn, một dịp phần nào không chính thức để Đức Giáo Hoàng trình bày viễn kiến của ngài như một mục tử, và trình bày nó như một lời mời gọi đạt tới một lòng đạo đức và sùng kính tận đáy lòng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất trổi vượt trong ngôn từ có tính bản vị này.

Trong tương lai, Đức Phanxicô sẽ trình bày đầy đủ hơn các luận điểm của ngài về một nền kinh tế chính trị tốt nhất có thể giúp người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo. Tôi chỉ có thể nghĩ rằng các tham khảo về đề tài này đã được bắt đầu rồi.

Tôi hy vọng các phụ tá của Đức Giáo Hoàng sẽ bắt đầu với câu kết luận do kinh nghiệm thúc đẩy, tiến bộ một cách hơi miễn cưỡng, nhưng trình bày một cách hữu lý ở số 42 thông điệp Centesimus Annus của Đức Gioan Phaolô II: “Có lẽ có thể nói được chăng là sau thất bại của Chủ Nghĩa Cộng Sản, chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hỗi chiến thắng và chủ nghĩa tư bản nên được coi là mục tiêu của các quốc gia hiện đang cố gắng tái thiết nền kinh tế và xã hội của họ? Phải chăng chủ nghĩa này là kiểu mẫu cần được đề xuất với các quốc gia của Thế Giới Đệ Tam đang tìm kiếm con đường tiến bộ thực sự về kinh tế và dân chính?”

Với câu hỏi này, Đức Gioan Phaolô trả lời cả có lẫn không. Ngài viết tiếp: “Câu trả lời hiển nhiên là phức tạp. Nếu hiểu ‘chủ nghĩa tư bản’ là một hệ thống kinh tế biết nhìn nhận vai trò nền tảng và tích cực của kinh doanh, của thị trường, của quyền tư hữu và trách nhiệm từ đó mà ra đối với các phương tiện sản xuất, cũng như óc sáng tạo nhân bản tự do trong lãnh vực kinh tế, thì câu trả lời chắc chắn là khẳng định, mặc dù có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu gọi đây là “kinh tế kinh doanh”, “kinh tế thị trường” hay đơn thuần là “kinh tế tự do”. Nhưng nếu hiểu ‘chủ nghĩa tư bản’ là một hệ thống trong đó tự do trong lãnh vực kinh tế không bị qui định trong một khuôn khổ pháp chế mạnh mẽ biết đặt nó vào việc phục vụ tự do con người trong tính toàn bộ của nó, và coi nó như một khía cạnh đặc thù của tự do mà cốt lõi chính là tự do đạo đức và tôn giáo này, thì câu trả lời chắc chắn là phủ định.

“Giải pháp Mácxít đã thất bại, nhưng các thực tại chèn ép (marginalization) và bóc lột vẫn tồn tại trên thế giới, nhất là tại Thế Giới Đệ Tam, cũng như thực tại tha hóa con người, nhất là tại các nước tiến bộ hơn. Giáo Hội mạnh mẽ lên tiếng chống lại các hiện tượng này. Số rất đông người vẫn đang sống trong các điều kiện nghèo khổ lớn lao về vật chất và tinh thần. Việc sụp đổ của hệ thống Cộng Sản tại nhiều quốc gia chắc chắn sẽ loại bỏ một trở ngại đối với việc đương đầu với các vấn đề này một cách thoả đáng và thực tiễn, nhưng mang lại giải pháp mà thôi không đủ. Thực vậy, vẫn còn nguy cơ là ý thức hệ triệt để tư bản còn đang tràn lan sẽ bác bỏ không xem sét các vấn đề này, vì tiên thiên tin rằng bất cứ mưu toan nào nhằm giải quyết vấn đề cũng chắc chắn sẽ thất bại, và mù quáng ủy thác cách giải quyết chúng cho việc phát triển tự do các lực lượng của thị trường”.

Mặc dù phát triển kinh tế không hẳn là mục đích duy nhất của các xã hội tự do, nhưng các phúc lợi của nó về giáo dục, cải thiện y tế, triển nở tự do lương tâm, và việc tài trợ tư cho cuộc sống dân chính và nhiều hình thức nhân đạo không phải là không chủ yếu đối với ích chung.

Hơn nữa, không phải chỉ có các hệ thống thị trường mới đem lại chính sách đi lên, tiến bộ kinh tế cho mọi người và cơ hội kinh tế rộng mở. Á Căn Đình luôn luôn có nền kinh tế thị trường. Cũng vậy, hầu hết các dân tộc trong lịch sử nhân loại đều có nền kinh tế này. Giêrusalem thời Thánh Kinh từng trân trọng quyền tư hữu (“chớ lấy của người”, “chớ tham của người”), và sống còn nhờ một thị trường sinh động (như một giao diện thương mãi của ba lục địa). Nhưng trong suốt 1,800 năm sau Chúa Kitô, không một thị trường thế giới nào, hay tổng hợp của chúng, đã tạo ra được nhiều phát triển kinh tế. Các nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục tương đối tĩnh tại vì phải đương đầu với một chu kỳ tàn nhẫn gồm những năm “mập mạp” tiếp theo những năm “gầy yếu”. Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, các hệ thống thị trường truyền thống kinh qua nhiều trận đói kém và bệnh dịch giết người hàng loạt hầu như trong mọi thế hệ.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhìn ra thực tế lịch sử đó. Cái nhìn thấu suốt của ngài vẫn còn là kho báu đối với giáo huấn xã hội Công Giáo, và dĩ nhiên, nó đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô lưu ý vì ngài dành trọn một tiết của Niềm Vui Tin Mừng cho chủ đề “Thực tại mạnh mẽ hơn ý niệm”.

Sau cùng, tôi muốn đưa ra một đánh cuộc: rất nhiều con người nhân bản hơn nữa sẽ thoát khỏi cảnh nghèo nhờ các phương pháp dân chủ và tư bản chủ nghĩa hơn hẳn bất cứ phương thế nào khác.

Chứng cớ thực nghiệm hết sức áp đảo nếu ta xét tới đà đi lên nhanh chóng của những nền kinh tế bị chiến tranh san bằng trong các năm 1946-1948, tức các nền kinh tế của Nhật và của Đức, và cả các nền kinh tế của Tân Gia Ba, Hồng Kông, Đài Loan, và Nam Hàn nữa, tất cả các nước này đều hướng về dân chủ và hình thức này hay hình thức nọ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng cũng có chứng cớ từ phần lớn chúng ta tại Hoa Kỳ là những người có ông bà vốn là “những đồ phế thải đang thương” của quả địa cầu, thế mà nay, trong một thời gian ngắn, gia đình họ đã được kể vào số những người giấu có nhất thế giới. Chuyện ấy làm sao có thể có được? Nhờ hệ thống nào việc đó được thực hiện và đâu là các bí quyết có thể bắt chước được?

Những ai muốn thực tiễn và thành công trong việc bẻ gẫy các xiềng xích nghèo khó còn tồn đọng trên thế giới, nên học hỏi những gì đã thành đạt từ trước tới nay, ngay trước mắt ta.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chuyện tử tế dịp Giáng sinh về
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
19:03 13/12/2013
CHUYỆN TỬ TẾ DỊP GIÁNG SINH VỀ

Hằng năm vào dịp Giáng Sinh về quý vị công bộc của nhân dân khắp nơi trên nước Việt gửi giấy mời các chức bậc đạo Tin Lành và Công Giáo tập họp để chúc mừng Lễ Giáng Sinh và tặng chút quà mừng. Dĩ nhiên là có lời chúc mừng trang trọng dăm bảy phút nhưng trước đó các ông chủ phải ngồi nghe một “bài giáo huấn” được mang tên là thông tin về tình hình chính trị, kinh tế. văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng…

Chuyện tử tế ở đây là có đó nhiều đấng bậc vốn “thuộc vai ông chủ” chuyên trách tôn giáo đang tất bật việc bổn phận lại phải vất vả đường xa một vài cây số, vài chục có khi cả trăm cây số và mất toi một buổi hay suốt cả ngày để đáp lại tấm thịnh tình của các ngài đầy tớ nhân dân, nếu không thì rất dễ bị mất lòng hoặc bị “phân loại”.

Chuyện tử tế này còn có vị cay cay khi mà các đấng bậc tôn giáo nhận chút quà biếu từ tay những vị đầy tớ nhân dân thì đoàn con cái thiếu nhi, thiếu niên là học sinh phải gồng mình “bị” thi một hai môn học nào đó của học kỳ I trong chính ngày 25-12. Một vị đắng mà nhiều đấng bậc Tin Lành cũng như Công Giáo đã lên tiếng mà dường như vẫn chưa nuốt hay nhả ra được, ngoại trừ một vài địa phương nào đó như tỉnh Thừa Thiên với chỉ thị của Chính Quyền là không bố trí thi học kỳ trong ngày 25-12, ngày Lễ Chúa Giáng Sinh.

Ôi cái chuyện tử tế dạng kiểu này đến bao giờ phải bị bức tử đây? Chắc chắn nó sẽ tồn tại khá lâu dài nếu vẫn còn sự thoả hiệp với nhiều cớ lý có thể dễ nghe hoặc nếu vẫn còn sự thiếu chân thành thẳng thắn vì đang bị những nỗi sợ nào đó bủa vây.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Người việt Xấu Xí
Blog Hanwonders
10:30 13/12/2013
Người việt Xấu Xí

Bài viết này sẽ không có một chữ việt nam nào được viết hoa. Bởi chúng ta có xứng đáng được trân trọng như vậy không? Không hề.

Cách đây đã lâu, tôi đọc “người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Đài Loan), chưa bàn tới hay/dở/đúng/sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách. Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn “Người Mỹ xấu xí”, “Người Nhật Bản xấu xí”, rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” & nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ… Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?

Một đất nước mà hơn phân nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng mình có quay cóp một cách hoàn toàn không có chút tự trọng (đó là được hỏi, còn báo chí không cần hỏi vẫn có những hình ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy thì thi cái gì? Thi xem ai quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó còn có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay không thi thì năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su-Ju” của nó là nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đình, nhà trường, xã hội – những nền tảng đã cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận được với Su-Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung hô! Chính là những đứa trẻ sẵn lòng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế… trước thần tượng. Một dân tộc gì đã sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế?

Con nít nó học cha anh mà ra, chúng ta đã nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao? Đừng ai đổ thừa cho ai. Vì trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xã hội, xã hội đổ cho cha mẹ & nhà trường. Tóm lại, đừng đổ nữa. Hãy biết hốt về mình đi! Tất cả chúng ta là người lớn, chúng ta đều có lỗi.

Bởi người lớn có hơn gì? Một xã hội mà người ta đang sẵn lòng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc bất kể lương tri. Làm quan thì chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại bang để duy trì sự thống trị trước nhân dân. Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường & trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có,… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm”. Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình”.

Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình? Đơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân & gia đình nó – nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này? Đừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ Đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động”.

Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,...

Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa?

Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức:

Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh & ức hiếp bên dưới.

Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?!

Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của nhân dân!

Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sàigòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan.

Bọn công bộc đó đã đẩy 2 mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa thân ở giữa đường để đòi lại công bằng. Vì trong tay họ còn có gì để chống lại chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai thèm đoái tới?

Bọn công bộc đó đã đẩy đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công quyền vì không còn sức để chịu đựng…

Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi. Đáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội – thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.

Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,… không còn một lựa chọn nào khác.

Không biết làm gì khác, không có phản ứng gì khác!

Vì chúng ta lương thiện. Kẻ không lương thiện có những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như một sự kết tinh cao cấp hơn của một xã hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.

Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.

Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật.

Tôi đọc tin một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và chút ít tài sản.

Tôi đọc tin bọn chủ & lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng.

Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt.

Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào.

Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp!

… còn rất nhiều tin.

Một dân tộc gì mà độc ác và hèn hạ thế?

Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó.

Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc”.

Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói mình đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu,thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” một cách đúng nghĩa. Vì hãy quên những hình tượng cách mạng cao đẹp trong văn chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Đó không phải là văn chương, nó là thuốc pháo, tìm cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết & chết. Không hơn không kém.

Các bạn có tìm kiếm giống tôi không? Và các bạn có tìm thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta chỉ có 3 loại:

- Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.

- Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?

- Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!

Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.

Còn những thứ hổ lốn lai căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, vì đó là nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu mình đi, không cần suy nghĩ nữa làm gì cho mệt óc.

Vậy cái gì đã gây nên nông nỗi?

Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản.

Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng sản.

Nhưng cộng sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, thì chúng ta cũng tệ không kém!

Nghe nói cụ Tản Đà có câu:

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn!

Cho nên quân ấy mới làm quan.

Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại.

Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế?

Ngoài sự cấu kết quyền lực – quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa?

Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp.

Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đã hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ,… Vì những người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,… thì họ còn sợ gì nữa?

Việc gì mà họ không dám làm?

Còn những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng mình, giúp đỡ mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa vào đâu để tìm lại niềm lạc quan mà sống, mà tranh đấu để tự tìm lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đã ban cho mỗi chúng ta?

Tôi có cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất – nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không?

Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta. Chúng ta - những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ mình lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách, nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực, một nền nghệ thuật có thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng.

Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói:

Đời chúng mày chỉ cần độc lập – tự do – hạnh phúc.

Chúng ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản gì?

Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân mình, một con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những gì mà một con người có lương tri cần phải hành động.

Bạn có đang tự hào vì mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu trĩ mang trong mình một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” đã từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à?

Ta thắng Mỹ để có một xã hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi… Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm nhục?

Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Đông”, “bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn”,... để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Đĩ” chưa từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?

Còn dân việt nam thì sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa.

Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.
 
Tin Đáng Chú Ý
Bản chất cộng sản ''cực kỳ tàn bạo'': Mạng người không bằng con chó!
Hà Long
14:43 13/12/2013
Bản chất cộng sản "cực kỳ tàn bạo": Mạng người không bằng con chó!

Trong mấy ngày này tình hình chính trị nóng bỏng tại Bắc Hàn cộng sản với cuộc thanh trừng đẫm máu của dòng tộc Kim với bản án tử hình nhanh nhất từ trước tới nay trong nội bộ thượng tầng tại Bình Nhưỡng: xử tử ông dượng Jang Song Taek (67 tuổi) của chủ tịch Kim Jung-un với tội đồ "Kẻ phản bội quốc gia lớn nhất của mọi thời đại" ("Traitor to the nation for all ages" - "Größter Verräter aller Zeiten").

Bản án còn phỉ báng hạ cấp xuống thành hàng thú vật: "Tồi tệ hơn cả một con chó" ("Worse than a dog" - „Schlimmer als ein Hund“).

Nếu là một người sống ở đầu đường xó chợ thì chẳng can chi, nhưng đằng này một người nắm trong tay đầy quyền lực đứng thứ 2 của cộng sản Bắc Hàn - một người với tay tận trời từ thời ông bố Kim Jung-il cho đến đời con Jung-un, nhưng đã bị nhục nhã dẫn độ trong một cuộc họp đảng hôm 9/12 và bị xét xử nhanh chóng vào ngày 13/12.

Nếu đúng nguồn tin đang được truyền thông Tây Phương kiểm chứng thì càng cho thấy cách hành xử tàn ác của cộng sản đúng vào hạng thú vật: Vợ đi tố cáo chồng.

Vì thế, chẳng lạ gì khi chính phủ Hoa Kỳ đã lên án cuộc thanh trừng trong dòng tộc Kim là hành vi "cực kỳ tàn bạo".

Ông Jang Song Taek kết hôn năm 1972 với em gái của chủ tịch Kim Jong-il, bà Kim Kyong-hui (sinh năm 1946), hiện đang mang quân hàm đại tướng. Với kiểu lập công bán đứng người chồng thì bà đại tướng này – theo nhận định của Tây Phương vẫn còn được lòng của đứa cháu Jung-un mà an toàn tại vị.

Trong khi đó Kim Jung-un đang tiếp tục thanh trừng các bè cánh của ông dượng Jang Song Taek. Từ trên xuống dưới những người theo ông Jang có khoảng từ 10.000 đến 30.000. Bây giờ là cơ hội để Hoa Kỳ, Trung Cộng và Nam Hàn tìm cách cứu vớt các nhân vật này nhằm khai thác các tin tức tình báo. Chắc chắn đây là một cuộc đào tẩu chính trị lớn nhất của cộng sản Bắc Hàn. Trung Cộng đang điều thêm quân đến biên giới, có thể với ẩn ý giúp đỡ nhóm đào tẩu chăng? Bắc Kinh đã bị mất đi một đồng minh trung thành qua việc xử tử ông Jang Song Taek.

Tại thủ đô Bình Nhưỡng, bộ máy tuyên truyền khuếch đại qua Thông tấn xã KCNA loan tin Jang Song Taek là một „kẻ phản cách mạng, kẻ cặn bã và hèn hạ, tham vọng chính trị đê hèn và là kẻ lừa đảo… hành vi bị nguyền rủa đến 3 lần“.

Bản cáo trạng tiếp thêm: „Jang Song Taek bị buộc tội đã tập hợp lực lượng không thể chấp nhận và thành lập một nhóm phe phái hiện đại trong một thời gian dài. Do đó đã phạm tội ác ghê tởm như âm mưu lật đổ nhà nước bằng tất cả các loại thủ đoạn và phương tiện đê hèn với một tham vọng hoang đường giành lấy quyền lực tối cao của đảng và nhà nước“.

Theo tờ báo Nhật Mainichi cho biết kẻ bị tử hình thứ hai cùng với Jang Song Taek là cựu đại sứ Ri Su-yong (73 tuổi) của Bình Nhưỡng ở Thụy Sĩ. Ông phục vụ tại thủ đô Bern một thời gian dài 22 năm với một tên gọi khác, đồng thời trong lúc này ông bảo quản bí mật một tài sản to lớn được ước tính 4 tỷ Đôla của gia đình họ Kim tại các ngân hàng Thụy Sĩ. Tại đây, thời cậu bé Jung-un còn đi học thì chính ông Ri Su-yong là người giám hộ cho cậu ta.

Kể từ khi trở về Bình Nhưỡng vào ba năm trước đây, ông Ri Su-yong đã làm việc chặt chẽ với ông Jang Song Taek. Hai người đã trở thành một cầu nối kinh tế quan trọng nhằm thu hút giới đầu tư nước ngoài, đặc biệt là giới đầu tư từ láng giềng Trung Cộng.

Giết người giám hộ Ri Su-yong thì cậu ấm Kim Jung-un đã bịt kín được tất cả bí mật của mình trong thời gian sống ở Thụy Sĩ cũng như tiếp tục dấu được món tiền khổng lồ ở đây.

Bản chất cộng sản "cực kỳ tàn bạo" luôn được tiếp nối từ thời Stalin, Mao, Chruschtschow, Ceaușescu, Kim (kéo dài 3 đời), v.v… chỉ có biết giết và giết. Cộng sản Việt Nam cũng mù quáng đi theo con đường này như văn nô Tố Hữu đã vinh danh sự giết người:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,

Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin bất diệt.”

Cộng sản Bắc Hàn đang dạy đứa cháu 30 tuổi giết thẳng thừng ông cậu dượng của mình!

Hà Long
 
Văn Hóa
Chuyện Vợ Chuyện Chồng: Jesus Christ Is Coming to Town
Nguyễn Trung Tây, SVD
04:48 13/12/2013
□ Nguyễn Trung Tây, SVD

Chuyện Vợ Chuyện Chồng: Jesus Christ Is Coming to Town


Chuyện thời bây giờ kể rằng, ở thung lũng điện tử Silicon, San Jose, California của Hoa Kỳ có một đôi vợ chồng, con trai tên Bòn, bốn tuổi, con gái tên Bon, mýời tháng. Chồng là Kỹ Sý ðiện. Vợ làm Assembler trong hãng điện tử. Cả hai vợ chồng là những thành viên trung thành trong Ban Giáo Lý giáo xứ Việt Nam.



Thằng Bòn nắm áo bố, hỏi,

— Bố ơi, Santa Claus có thật hay không?

Bố trợn mắt nhìn con, nhưng không suy nghĩ, nói ngay,

— Santa Claus có thật chớ. Bộ con quên rồi sao, tuần trước hai bố con mình đi coi phim cartoon The Polar Express. Con thấy Ông già Noel mặc áo đỏ với cái bụng bự phát quà cho con nít đó. Nhớ chưa?

Vui miệng chồng mở miệng hát oang oang,

— “Oh! You'd better watch out,

You'd better not cry,

You'd better not pout,

I'm telling you why: Santa Claus is coming to town!”.

Nghe bố hát, thằng Bòn mắt sáng rực, háo hức nhảy lên bộ ghế salông, nhìn ra ngoài khung cửa sổ, ngó dọc ngó ngang tìm kiếm,

— Đâu? Đâu? Bố ơi, Santa Claus đâu?

Bố lắc lắc đầu,

— À! Bây giờ thì... thì Santa Claus chưa tới.

Thằng Bòn nắm áo bố, nôn nóng,

— Bố ơi, vậy bao giờ Santa Claus mới tới?

Bố gãi gãi đầu, lại hát bài, "À", nhưng lần này chặc lưỡi,

— À! Cái này phải là đúng nửa đêm ngày 24 tháng 12, ông già Noel mới chui ống khói, nhét vào chiếc vớ món quà con đã viết thư xin ông già Noel...

Chồng dừng lại, nhìn con, nghi ngờ,

— Mà... Mà Bòn đã viết thư chưa?

Thằng Bòn nói ngay,

— Oh, yeah! Con viết rồi!

Bố nho nhỏ giọng, làm mật thám điều tra hình sự,

— Nè, nói bố nghe... Chỉ riêng hai bố con mình thôi! Ai dậy Bòn viết thư?

Bòn thành thật khai báo,

— Mommy dậy con.

Bố vỗ hai tay kêu đôm đốp như pháo nổ,

— Giỏi! Giỏi quá! Nói nho nhỏ cho bố nghe coi?

Thằng Bòn ngơ ngác,

— Nói cái gì hả bố?

Bố dụ con như mẹ mìn dụ con nít,

— Bòn xin Santa Claus món quà gì vậy?

Thằng Bòn lắc đầu quầy quậy,

— Thôi, thôi! Con không nói cho bố nghe đâu...

Bố quê quê, cố gắng vớt vát một bàn danh dự, nói chữa thẹn,

— OK! OK! Cũng không sao...

Rồi lại nghêu ngao hát tiếp như muốn lãng chuyện,

— “Santa Claus is coming to town”.

Ngay lúc đó, vợ bế bé Bon đi vào. Nhìn chồng và con trai cười đùa hát hỏng om xòm, vợ háo hức rộn ràng, vui theo,

— Anh Bòn đang đợi Santa Claus, còn bé Bon đợi ai?

Bé Bon mở to đôi mắt nhìn mẹ, đôi môi be bé như hai múi quýt chu lại, không hiểu mẹ nói chi. Chồng đang vui với con với vợ, hứng chí, mở miệng "rap" ngay một bài nhạc chế,

— Bé Bon đợi ai?

Bon đợi tô bột.

Bon lười không ăn.

Bon ăn hai roi.

Bé kêu ơi ới!!!

Vợ lườm chồng,

— "Bé kêu ơi ới"... Có duyên quá hen?

Vợ hỏi,

— Còn anh? Anh thì sao? Đang đợi ai?

Chồng tự nhiên ấm ớ, ăn nói dở hơi,

— Vớ vẩn chưa. Thế mà cũng hỏi! Không đợi Chúa Hài Đồng thì đợi ai?

Chồng nói nho nhỏ,

— Đợi, đợi... cô nào nhé?

Vợ thách thức,

— Anh dám?

Chồng bỏ đi, miệng tiếp tục hát oang oang,

— “Oh! You'd better watch out,

You'd better not cry,

You'd better not pout,

I'm telling you why:

‘Jesus Christ is coming to town!”.



Suy Niệm

I. Mùa Vọng 1


Mùa Vọng là mùa “Jesus Christ is coming to town”. Nhưng,

Tôi có tin vào sự hiện hữu của Santa Claus Jesus Christ hay không?

Nếu bạn nói không, mời bạn coi đi coi phim "The Nativity Story", hoặc phim "The Passion of the Christ". Đặc biệt phim Cuộc Tử Nạn của Đức Kitô sẽ dẫn chúng ta tới thẳng Núi Sọ, nơi đó bạn và tôi sẽ hiểu Trời Cao yêu con người như thế nào.

Có người nói tình yêu đồng nghĩa với mù lòa, bởi khi yêu người ta trở nên dại khờ. Nhưng Chúa thì không định nghĩa tình yêu như thế. Đối với Chúa yêu thì không chỉ mù lòa nhưng còn là từ bỏ ngôi vị thiên đàng, sinh xuống trần gian trong hình dạng một hài nhi đơn sơ trong máng cỏ nghèo hàn, sau cùng nhắm mắt lại chết đi lặng lẽ trên cây thánh giá cho người mình yêu.

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới đáy nước hồ reo,

Để nghe tơ liễu run trong gió,

Và để xem trời giải nghĩa yêu


(Hàn Mặc Tử)

Nếu đã theo dõi và sống với bộ phim Cuộc Thương Khó của Đức Kitô để mà nhận ra được dung mạo của người tình Giêsu, làm sao tôi lại có thể làm ngơ, nhắm mắt, cố tình không tin vào sự hiện hữu của Santa Claus Jesus Christ cho được?

II. Mùa Vọng 2

Mùa Vọng là mùa “Jesus Christ is coming to town”. Nhưng,

Tôi đã ngồi xuống viết lên tờ giấy (wish list) những món quà cần thiết cho đời sống nội tâm hay chưa?

Nếu chưa, mời bạn, chúng ta cùng cầm bút viết,

Wish List

(1). Con cần bình an, nhiều thật nhiều,

(2). Con cần hạnh phúc, cũng nhiều thật nhiều,

(3). Xin cho con biết tha thứ,

(4). Xin cho con (...)

Dấu ba chấm (...) là dấu mời gọi để bạn viết tiếp tới Santa Claus Jesus Christ những món quà chỉ riêng bạn (riêng bạn mà thôi đấy nhé, chứ không phải là của người khác) cần đến trong mùa Vọng và mùa Giáng Sinh.

III. Wish List

Nếu bạn thắc mắc muốn biết cái wish list của riêng tôi gồm có những "món" chi, thì đây, xin được chia sẻ với bạn. Tôi sẽ chọn mục số...

(3). Xin cho con biết tha thứ,

của Wish List. Tôi chỉ xin Santa Claus một điều mà thôi, tha thứ, bởi tin rằng một người nếu có khả năng tha thứ, bình an ngự trong hồn. Như một điều kiện ắt có và đủ, hạnh phúc sẽ xuất hiện trên khuôn mặt của người đó.

— Bạn không tin vào phép lạ của Tha Thứ?

— Vâng, thì đây, mời bạn lắng nghe câu truyện:

Chuyện kể có một người ăn mày. Một lần kia, anh ta ghé vào nhà một người phú hộ ăn xin. Gặp ông phú hộ, người ăn mày mở miệng xin thức ăn. Nhưng thay vì bố thí cho người ăn mày một chút lòng từ tâm, ông phú hộ lại lấy hòn đá ném anh ta. Nổi giận, người ăn mày nhặt hòn đá, cất vào trong bị, hẹn mai này sẽ trả thù. U chu choa!

Thời gian trôi qua, người ăn mày đã gặp phải không biết bao nhiêu người trái khoáy (không ban tặng thì thôi, nhưng lại nghịch ngợm) giơ tay quẳng đá ném thẳng vào người anh ta. Cứ mỗi lần như thế, người ăn mày lại nhặt hòn đá cho vào bao bị, hẹn sẽ trả thù.

Cho tới một ngày, người ăn mày tự nhiên khám phá ra túi vải của anh ta trở nên quá nặng nề, khiến lưng anh ta bẻ oằn cong xuống, mặc dù người ăn mày còn quá trẻ. Nhờ ơn lộc của trời cao, người ăn mày chợt khám phá ra hành trang đường đời ngày càng trở nên nặng nề chính bởi bị vải chứa đựng toàn là đá mà người ta đã quẳng ném anh, và anh đã nhặt chúng lên hẹn sẽ trả thù.

Người ăn mày quyết định tha thứ, bỏ qua, quên đi, và xóa nhòa. Anh ta lần lượt nhặt từng cục đá rồi từng cục đá từ trong bị vải quẳng ném ra ngoài. Cứ thế, một cục đá ném ra khỏi bị, người ăn mày khám phá ra lưng của anh ta thôi, không còn oằn cong nữa, nhưng dần dần vươn thẳng và vươn cao. Và tự nhiên, người ăn mày cảm thấy dường như anh ta vừa cất ra khỏi trên lưng của chính mình một hòn núi đá nặng nề ngàn cân. Thể xác của người ăn mày trở nên thanh thản nhẹ nhàng. Tâm hồn của người biết tha thứ bỗng dưng ngập tràn hạnh phúc.

Bấy giờ người ăn mày mới nhận ra, chỉ đơn giản bằng một hành động tha thứ, cuộc đời của anh ta hoàn toàn thay đổi, từ dư thừa bất an biến sang bát ngát bình an, từ sôi sục giận hờn biến sang ngập tràn hạnh phúc.

IV. Jesus Christ Is Coming To Town

Mùa Vọng là mùa “Jesus Christ is coming to town”. Nếu tôi đã viết lên những trang giấy xin Santa Claus Jesus Christ những điều cần thiết cho đời sống nội tâm, giờ này tôi có thể đứng ngóng trông ngay bên cửa sổ, nói với linh hồn,

— Hồn tôi ơi,

Hãy tỉnh thức!

“Jesus Christ is coming to town!”.

□ Lời Nguyện

Lạy Chúa, xin dậy con tin vào sự hiện hữu của Santa Claus Jesus Christ, xin cầm tay con viết lên trang giấy cầu xin Ông già Noel Jesus những điều con đang cần để đời sống nội tâm của con ngày càng thêm phong phú, tràn đầy, và sung mãn.

□ Nguyễn Trung Tây, SVD

www.nguyentrungtay.com
 
Tôi muốn
Lm Vũđình Tường
06:46 13/12/2013
Những điều tôi muốn không thể nào kể hết. Mỗi ngày tôi có nhiều ý muốn khác nhau. Có những ý muốn thông thường nhỏ nhặt. Có những ý muốn quan trọng liên quan tới anh chị em tôi. Có những ý muốn liên quan đến đức tin. Có những ý muốn khôn ngoan. Có những ý muốn ngược đời. Có những ý muốn có lợi cho tôi và cho người khác. Có những ý muốn có lợi cho tôi không mà thôi. Tôi rất ít muốn có hại cho tôi và cho người khác.

Trong những số ý muốn đó:
Có điều tôi muốn không phải là điều Chúa muốn.
Có điều Chúa muốn không phải là điều tôi muốn.

Cũng có những trường hợp:
Điều Chúa muốn chính là điều tôi muốn.
Điều tôi muốn trùng hợp với điều Chúa muốn.

Sự khác biệt hay trùng hợp trên không phải là ngẫu nhiên. Nó bắt nguồn từ căn bản tình yêu. Nếu cả hai cùng bắt đầu bằng tình yêu thì thế nào cũng gặp nhau. Nói rõ hơn, nếu điều tôi muốn bắt đầu bằng tình yêu thì điều tôi muốn trùng hợp với điều Chúa muốn. Thiên Chúa là tình yêu. Những gì Chúa muốn đều bắt nguồn từ đó. Tình yêu Chúa vô biên, ý Chúa đại lượng. Lòng Ngài nhân từ. Việc Ngài làm thì công minh chính trực. Những gì Chúa muốn đều trọn hảo, tốt lành. Những điều tốt lành tôi muốn là một phần của ý Chúa.

Chúa tạo dựng con người. Con người thì hữu hạn. Chúa cho ta tự do. Tự do của ta vô hạn. Ý Chúa và ý ta trùng nhau khi cái hữu hạn của ta nằm trong cái vô hạn của Chúa. Có tự do con người xử dụng nó:
Điều Chúa muốn trùng hợp với điều tôi muốn hoặc
Điều Chúa muốn không phải là điều tôi muốn.

Tự do có lợi chi nếu nó không được hướng dẫn bởi tình yêu. Nếu được hướng dẫn đâu chi còn tự do. Trong thực tế, tự do cần được hướng dẫn, bảo vệ. Có nhiều luật lệ quá sẽ giết chết tự do. Không có luật nào cả cũng giết chết tự do. Tự do không có nghĩa nếu nó đứng một mình. Khi nói đến tự do là nói đến mối quan hệ của nó. Chẳng hạn tự do sống, tự do ăn nói. Tự do tự bản chất không có giới hạn. Những quan hệ của nó có giới hạn. Sống, có giới hạn. Ăn nói có điều độ, lễ phép. Tự do bị ràng buộc bởi những quan hệ chung quanh. Như thế tự do là tự do có định hướng.

Chúa cho ta tự do. Nó bị ràng buộc bởi tình yêu. Con người tự do yêu. Con người không được yêu tự do. Tự do yêu là tình yêu đã định hướng. Tự do yêu trong hướng đã định. Yêu tự do là gặp gì cũng yêu được, bất kể tốt xấu. Yêu như thế là yêu càn, không xử dụng tự do chọn lựa của mình cho xứng hợp. Ăn càn dễ bị ngộ độc. Uống càn dễ sinh bệnh tật. Nói càn dễ mất danh giá. Làm càn dễ toi mạng. Yêu càn dễ yêu bậy. Yêu càn là tự mâu thuẫn. Con người không thể yêu cả tốt lẫn xấu, mà cần chọn lựa.

Chọn để yêu điều tốt
Chọn để yêu điều xấu.

Tự do được hướng dẫn bởi luật yêu thương. Tình yêu giúp tự do chọn lựa. Nếu chọn điều tốt, ý ta và ý Chúa trùng hợp. Ngược lại, ý ta và ý Chúa xung khắc. Dù chọn cách nào thì con người cũng vẫn có tự do trong cách chọn và tự do thi hành điều đã chọn.

Xin cho ý con trùng ý Chúa Cha trên trời là xin tình yêu Chúa hướng dẫn tự do. Tình yêu Chúa bao trùm con người như bầu trời bao trùm cụm mây. Nếu cần hy sinh trong chọn lựa. Ta chọn bầu trời mà không chọn cụm mây. Đúng vậy, nếu chọn bầu trời ta có được cả cụm mây. Nếu chọn cụm mây ta sẽ mất bầu trời. Dĩ nhiên mất trời là mất cả mây. Mất tất cả. Tình yêu cũng vậy, nếu chọn Thiên Chúa. Ta có cả Thiên Chúa lẫn tự do. Nếu chọn tự do, ta sẽ mất tình yêu. Tự do không có tình yêu đi kèm là tự do mù quáng. Mù quáng không thể dẫn đến quyết định sáng suốt. Nếu phải quyết định thì không thể nào hợp ý Chúa. Tự do được hướng dẫn bởi tình yêu giúp tôi chọn theo đúng ý Chúa.

Tự do còn gắn liền với trách nhiệm. Không có trách nhiệm nếu không có tự do. Trách nhiệm càng cao nếu tự do càng nhiều. Người thi hành mệnh lệnh chịu ít trách nhiệm hơn người ra lệnh. Thiên Chúa ban cho con người quyền tự do. Con người phải chịu trách nhiệm về điều họ chọn. Trách nhiệm ngăn cản chọn lựa mù quáng. Trách nhiệm càng nặng thì việc chọn lựa càng kĩ. Vì trách nhiệm dẫn tới hậu quả thưởng phạt. Chọn lựa không phải là chọn được thưởng hay bị phạt. Tuy nhiên vì trách nhiệm mà ta có thể phỏng đoán được hậu quả một chọn lựa.

Trao cho ta tự do chính là trao cho ta lòng tin. Chính là cách đối xử như người trưởng thành. Tin tưởng rằng người đó sáng suốt trong việc xử dụng tự do. Con người tự làm giảm giá trị về lòng tin và mức trưởng thành của mình nếu người đó lợi dụng tự do làm điều sai quấy. Tôi muốn tự do chính là muốn chịu trách nhiệm về điều tôi chọn.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
 
Xin Ngài đến
Trúc Nguyễn
08:27 13/12/2013
Mùa Vọng đến nhắc con đừng bám víu
Vào cuộc đời trần thế cõi phù du
Vào bạc tiền và danh vọng hẩm hiu
Vào dục vọng và muôn điều vui thú

Con cần nhớ đời con còn dang dỡ
Trần gian nay chỉ tạm bợ mà thôi
Quê hương con thật sự ở trên trời
Nơi Chúa ngự lòng con hằng mong tới

Cho con biết khát khao ngày Chúa đến
Biết sẵng sàng chờ đợi ngày vinh quang
Luôn tỉnh thức dọn mình theo năm tháng
Sống yêu thương lòng hoan hỉ dâng lên

Dâng lên Chúa mãnh đời con lưu lạc
Xin Ngài dìu từng bước nhỏ con đi
Tin vào Chúa một lòng con phó thác
Lời Ngài truyền con nguyện luôn khắc ghi

Xin Ngài đến trong hồn con thơ dại
Cho con về yêu thương hết mọi người
Cho con sống hiền hòa như Chúa dạy
Mặt luôn tươi miệng luôn nở môi cười

Mùa vọng đến nhắc con dừng chân lại
Để gẫm suy tình Thiên Chúa giáng trần
Để cõi lòng con sẽ hết phân vân
Mong đợi Chúa tình Ngài vào xâm lấn

Con sẽ đổi cậy nhờ vào ơn Chúa
Sống thiện tâm mong thấy cõi bình an
Có như thế đời con không héo úa
Khi hồn con ngập ánh sáng Thiên Đàng.
 
Bài thơ ánh sáng Giáng Sinh cuả Đức Thánh Cha Phanxicô
Trần Mạnh Trác
13:06 13/12/2013
Chúng ta biết Đức Thánh Cha Phanxicô không hề làm thơ, những lời giảng cuả Ngài thì đơn sơ để mọi người có thể hiểu được. Nhưng...ẩn chứa trong những lời lẽ bình dân đó là cả một áng thơ tuyệt vời...

Đây, một chút trích dịch từ những suy tư cuả Ngài về ánh sáng Giáng Sinh qua bài giảng tại Nguyện đường Santa Marta, ngày 4 tháng 9, 2013:



Ánh sáng cuả trần gian mang lại,

muôn phần rực rỡ

choí loà hơn cả ánh sáng Chúa Kitô,

sáng như pháo hoa lễ hội rạng ngời,

sáng như đèn chớp máy ảnh.

..

Ánh sáng Chúa Kitô, một ánh sáng nhu mì,

cuả an bình và tĩnh mịch,

của đêm Giáng sinh đầu tiên:

không lừa giối.

Đây là một thứ ánh sáng biếu tặng và đem lại hòa bình và...

một ánh sáng khiêm nhường nhưng mang sức mạnh của dịu dàng;

một ánh sáng nói thẳng vào con tim

và mang theo Thập Tự cứu chuộc đến.


(từ lời Đức Thánh Cha Phanxicô)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Nhộn Nhịp Mùa Giáng Sinh
Nguyễn Bá Khanh
22:12 13/12/2013
NHỘN NHỊP MÙA GIÁNG SINH
Ảnh của Nguyễn Bá Khanh
Vào Đông mùa lễ cuối năm
Người người hối hả lo chăm sắm quà
Phố phường tấp nập người qua.
Vui chơi xin chớ quên quà Chúa ban.
(nđc)