Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:20 28/10/2024
6. Khi cầu nguyện mà cố ý nghĩ bậy bạ lung tung thì có tội, và phá hoại công hiệu của cầu nguyện.
(Thánh Thomas Aquinas)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:23 28/10/2024
79. DẶN DÒ CỦA TIÊN NỮ
Đổng Vĩnh vì người mà nói lời chân thật, thảo hiếu với cha mẹ, khiến cho thượng đế cảm động, bèn sai một tiên nữ giáng trần làm vợ anh ta, các tiên nữ đều đến đưa tiễn.
Lúc tạm biệt, các tiên nữ phấn khởi chúc phúc cho cuộc giáng trần của tiên nữ ấy, và nói:
- “Đi nhân gian lần này, tiên vàn xin chị đi nghe ngóng chút xíu, coi có chàng trai nào biết nói thật và có hiếu, thì nhất định là phải viết thư gởi về cho tụi em nhé !”
(Thời Hưng tiếu thoại)
Suy tư 79:
Tiên nữ là chuyện thần tiên nên được...lấy chồng, nhưng các thiên thần và các thánh nữ thì có thật nên không lấy chồng, vì các vị ấy có một vị Phu Quân tuyệt vời, đó chính là Đức Chúa Giê-su.
Thời nay không có chuyện tiên nữ giáng trần để lấy chồng, nhưng có chuyện các tiểu thơ con nhà giàu, học giỏi, nết na đức hạnh đi tu làm tôi tớ phục vụ Thiên Chúa trong mọi người, đó là các nữ tu ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới đang ngày đêm phục vụ, cầu nguyện, hy sinh cho lý tưởng tận hiến...
Thời nay không có chuyện nữ tu đòi lấy chồng, nhưng vẫn có chuyện nữ tu tình nguyện đi đến nơi đất khách quê người để phục vụ và truyền giáo, họ ra đi khi tuổi đời thanh xuân dâng hiến cho Đấng mà mình yêu mến trong những con người bất hạnh, nghèo khó và bị đời hất hủi...
Các tiên nữ -dù đã làm tiên- nhưng vẫn ngấm nghé đòi kiếm chồng ở trần gian, bởi vì đó là “tiên dõm” và là tiên thần thoại, nhưng các nữ tu dù ở trần gian nhưng không mê trần gian mà chỉ muốn phục vụ mà thôi, bởi vì các nữ tu là những nàng tiên đích thực của mọi người...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Đổng Vĩnh vì người mà nói lời chân thật, thảo hiếu với cha mẹ, khiến cho thượng đế cảm động, bèn sai một tiên nữ giáng trần làm vợ anh ta, các tiên nữ đều đến đưa tiễn.
Lúc tạm biệt, các tiên nữ phấn khởi chúc phúc cho cuộc giáng trần của tiên nữ ấy, và nói:
- “Đi nhân gian lần này, tiên vàn xin chị đi nghe ngóng chút xíu, coi có chàng trai nào biết nói thật và có hiếu, thì nhất định là phải viết thư gởi về cho tụi em nhé !”
(Thời Hưng tiếu thoại)
Suy tư 79:
Tiên nữ là chuyện thần tiên nên được...lấy chồng, nhưng các thiên thần và các thánh nữ thì có thật nên không lấy chồng, vì các vị ấy có một vị Phu Quân tuyệt vời, đó chính là Đức Chúa Giê-su.
Thời nay không có chuyện tiên nữ giáng trần để lấy chồng, nhưng có chuyện các tiểu thơ con nhà giàu, học giỏi, nết na đức hạnh đi tu làm tôi tớ phục vụ Thiên Chúa trong mọi người, đó là các nữ tu ở Việt Nam và ở khắp nơi trên thế giới đang ngày đêm phục vụ, cầu nguyện, hy sinh cho lý tưởng tận hiến...
Thời nay không có chuyện nữ tu đòi lấy chồng, nhưng vẫn có chuyện nữ tu tình nguyện đi đến nơi đất khách quê người để phục vụ và truyền giáo, họ ra đi khi tuổi đời thanh xuân dâng hiến cho Đấng mà mình yêu mến trong những con người bất hạnh, nghèo khó và bị đời hất hủi...
Các tiên nữ -dù đã làm tiên- nhưng vẫn ngấm nghé đòi kiếm chồng ở trần gian, bởi vì đó là “tiên dõm” và là tiên thần thoại, nhưng các nữ tu dù ở trần gian nhưng không mê trần gian mà chỉ muốn phục vụ mà thôi, bởi vì các nữ tu là những nàng tiên đích thực của mọi người...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Ngày 29/10: Nước Thiên Chúa ví với cái gì? - Lm. Giuse Lăng Kinh Luân, CS
Giáo Hội Năm Châu
02:14 28/10/2024
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su nói với dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.”
Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”
Đó là lời Chúa
Chúa mời gọi ta nên Thánh
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
04:31 28/10/2024
SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
(Mt 5, 1-12a)
Chúa mời gọi ta nên Thánh
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, từ lời kinh, tiếng hát, đến các bài đọc, thánh ca vang lên thánh thót, lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi nên Thánh và Các Ngài đã không ngừng phấn đấu với ơn Chúa để đạt tới mục tiêu tối hậu là Thánh.
Thiên Chúa là Thánh
“Thánh” trong tiếng Do Thái nguyên bản là “kadash”. Từ gốc có nghĩa là "cắt, hoặc tách ra”. Từ “thánh” có nghĩa là “được biệt riêng cho một mục đích cụ thể”.
Mọi sự thánh thiện đều bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng ba lần thánh (Is 6,3). Danh Ngài là thánh (Tv 33,21). Ngài tỏ cho ta thấy Ngài là đấng thánh qua những cuộc thần hiển (ở Sinai Xh 19).
Thánh thiện là tách biệt để thuộc về Chúa, điều này áp dụng cho dân Israel: “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26).
"Thánh" là phẩm tính đi với những gì dành riêng để thuộc về Thiên Chúa. Nơi chốn: Đất thánh (Xh 3,5), thành thánh Giêrusalem (Is 48,2), cung thánh (Xh 26,33), Đền thánh (Is 64,10). Con người: tư tế (Lv 21,6), ngôn sứ (Kn 11,1), dân thánh (Lv 19,2). Đồ vật: của thánh (Xh 29,33), các đồ trong phụng tự, phẩm phục. Thời gian: ngày Sabbat (Xh 20,11; 31,14), Năm Thánh Toàn Xá (Lv 25,12). Đây là những thực tại dành riêng cho Thiên Chúa, không dùng cho những mục tiêu phàm tục. Chỉ có Chúa là Thánh.
Chúa mời gọi chúng ta nên Thánh
Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta nên Thánh: “Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44); Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các người thuộc về Ta” (Lv 20,26).
Thánh Tông đồ Phêrô lặp lại ý muốn của Chúa trong sách Lêvi và nói với chúng ta: “Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (1Pr 1, 16).
Nên thánh không phải là đặc ân dành cho một số người, nhưng nên thánh thuộc về ơn gọi Kitô hữu (Ep 1,4). Nên thánh không phải là một nỗ lực của con người nhưng là do ơn của Thiên Chúa, Đấng thánh thiện ban cho chúng ta. Đóng góp của con người chỉ là để cho mình được Chúa cuốn hút vào thế giới thần linh của Ngài mà không cưỡng lại.
Chúa Giêsu mời gọi mọi chúng ta nên thánh bằng cách bắt chước chính Thiên Chúa. Thư 1 Phêrô cũng mời kitô hữu “hãy nên thánh trong mọi cách ăn nết ở” (1Pr 1,15-16). Nên thánh nhờ bắt chước Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, vì “chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có Chúa là Đấng Tối cao” (Kinh Vinh Danh).
Sống các Mối Phúc đên nên thánh
Trong Tông huấn về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay Gaudete et Exsultate, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về các Mối Phúc (số 63-94). Ngài viết: “Từ ‘hạnh phúc' hay ‘được chúc phúc' trở thành từ đồng nghĩa với “thánh thiện” (số 64). Nói cách khác, người được chúc phúc là người thánh thiện trước mặt Chúa. Trong phụng vụ lễ Các Thánh, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về các Mối Phúc. Các Mối Phúc là những con đường nên thánh. Đức Giêsu đã sống tận căn các Mối Phúc này trong đời Ngài.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta: hãy cố làm thánh! Đức Phanxicô khuyên chúng ta: Đừng sợ nên thánh. Để nên thánh không cần phải là một giám mục, linh mục hay tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho một số người. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh. Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung. (x. Bài Giáo Lý, Triều Yết Chung ngày 19 tháng 11, 2014).
Các Thánh Nam Nữ của Chúa, cầu cho chúng con. Amen.
(Mt 5, 1-12a)
Chúa mời gọi ta nên Thánh
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, từ lời kinh, tiếng hát, đến các bài đọc, thánh ca vang lên thánh thót, lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi nên Thánh và Các Ngài đã không ngừng phấn đấu với ơn Chúa để đạt tới mục tiêu tối hậu là Thánh.
Thiên Chúa là Thánh
“Thánh” trong tiếng Do Thái nguyên bản là “kadash”. Từ gốc có nghĩa là "cắt, hoặc tách ra”. Từ “thánh” có nghĩa là “được biệt riêng cho một mục đích cụ thể”.
Mọi sự thánh thiện đều bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng ba lần thánh (Is 6,3). Danh Ngài là thánh (Tv 33,21). Ngài tỏ cho ta thấy Ngài là đấng thánh qua những cuộc thần hiển (ở Sinai Xh 19).
Thánh thiện là tách biệt để thuộc về Chúa, điều này áp dụng cho dân Israel: “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26).
"Thánh" là phẩm tính đi với những gì dành riêng để thuộc về Thiên Chúa. Nơi chốn: Đất thánh (Xh 3,5), thành thánh Giêrusalem (Is 48,2), cung thánh (Xh 26,33), Đền thánh (Is 64,10). Con người: tư tế (Lv 21,6), ngôn sứ (Kn 11,1), dân thánh (Lv 19,2). Đồ vật: của thánh (Xh 29,33), các đồ trong phụng tự, phẩm phục. Thời gian: ngày Sabbat (Xh 20,11; 31,14), Năm Thánh Toàn Xá (Lv 25,12). Đây là những thực tại dành riêng cho Thiên Chúa, không dùng cho những mục tiêu phàm tục. Chỉ có Chúa là Thánh.
Chúa mời gọi chúng ta nên Thánh
Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta nên Thánh: “Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (Lv 11,44); Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các người thuộc về Ta” (Lv 20,26).
Thánh Tông đồ Phêrô lặp lại ý muốn của Chúa trong sách Lêvi và nói với chúng ta: “Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh” (1Pr 1, 16).
Nên thánh không phải là đặc ân dành cho một số người, nhưng nên thánh thuộc về ơn gọi Kitô hữu (Ep 1,4). Nên thánh không phải là một nỗ lực của con người nhưng là do ơn của Thiên Chúa, Đấng thánh thiện ban cho chúng ta. Đóng góp của con người chỉ là để cho mình được Chúa cuốn hút vào thế giới thần linh của Ngài mà không cưỡng lại.
Chúa Giêsu mời gọi mọi chúng ta nên thánh bằng cách bắt chước chính Thiên Chúa. Thư 1 Phêrô cũng mời kitô hữu “hãy nên thánh trong mọi cách ăn nết ở” (1Pr 1,15-16). Nên thánh nhờ bắt chước Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, vì “chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa, chỉ có Chúa là Đấng Tối cao” (Kinh Vinh Danh).
Sống các Mối Phúc đên nên thánh
Trong Tông huấn về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay Gaudete et Exsultate, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về các Mối Phúc (số 63-94). Ngài viết: “Từ ‘hạnh phúc' hay ‘được chúc phúc' trở thành từ đồng nghĩa với “thánh thiện” (số 64). Nói cách khác, người được chúc phúc là người thánh thiện trước mặt Chúa. Trong phụng vụ lễ Các Thánh, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về các Mối Phúc. Các Mối Phúc là những con đường nên thánh. Đức Giêsu đã sống tận căn các Mối Phúc này trong đời Ngài.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục chúng ta: hãy cố làm thánh! Đức Phanxicô khuyên chúng ta: Đừng sợ nên thánh. Để nên thánh không cần phải là một giám mục, linh mục hay tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho một số người. Không phải thế. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống đời mình với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Bạn được mời gọi sống đời thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống sự dấn thấn ấy cách thật vui tươi. Bạn đã kết hôn ư? Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội thánh. Bạn phải làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc thật tận tụy và chu đáo để phục vụ anh chị em mình. Bạn là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ con cháu biết theo Chúa Giêsu. Bạn đang ở một địa vị có quyền lực ư? Hãy nên thánh bằng cách quên lợi riêng để phục vụ ích chung. (x. Bài Giáo Lý, Triều Yết Chung ngày 19 tháng 11, 2014).
Các Thánh Nam Nữ của Chúa, cầu cho chúng con. Amen.
Từng chút một
Lm Minh Anh
15:41 28/10/2024
TỪNG CHÚT MỘT
“Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men!”.
“Việc chấp nhận một con tàu là điều rất khó khi trời chỉ mới đổ mưa. Cái chết là một cơn bão tức thì ập xuống, đến nỗi khi bạn với tay cầm lấy chiếc ô, thì biết rằng, mình cần một đôi cánh để có thể bay trong nước! Vì thế, từng bước một, ‘từng chút một’, bạn hãy biến đổi tâm hồn để có thể đến gần con tàu và yêu lấy nó!” - Calvin Miller.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Từng chút một’, ý tưởng của Miller được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến một điều gì to tát, nhưng nói đến cái nhỏ bé đến nỗi gần như không trông thấy - một chút men. Ấy thế, như men trong bột, ân sủng Thánh Thần cũng biến đổi linh hồn ‘từng chút một!’.
Men - một thứ luôn hấp dẫn - nhỏ bé nhưng lại tác dụng mạnh mẽ đối với bột. Men hoạt động chậm nhưng hiệu quả; với men, bột sẽ lặng lẽ biến đổi và dậy lên. Đây luôn là điều hấp dẫn đối với trẻ em; bạn sẽ chứng kiến những đôi mắt thiên thần tròn xoe khi các trẻ có mặt tại lò bánh mì. Đây cũng là cách thức Tin Mừng hoạt động. Việc biến đổi một trái tim hiếm khi diễn ra trong một ngày hay trong một khoảnh khắc; đành rằng, mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc đều quan trọng, nhưng hẳn có những khoảnh khắc chuyển đổi mạnh mẽ mà mỗi người có thể chỉ ra. Như chút men âm thầm làm cho thúng bột dậy lên, việc biến đổi một trái tim cũng thường diễn ra ‘từng chút một!’.
Đôi khi, sự ồn ào của thế giới với những ê chề của nó cùng bao biến động trong cuộc sống ngăn cản chúng ta dừng lại để xem cách Thiên Chúa đang vận hành lịch sử. Tuy nhiên, Tin Mừng bảo đảm, Thiên Chúa đang hoạt động như men âm ỉ và ‘từng chút một’, ‘thúng bột thế giới’ đang dậy lên. Chút men của những việc lành nơi chúng ta tuy nhỏ - phát xuất từ Chúa - vẫn đem lại những hiệu quả tuyệt vời trong tất cả mọi hành vi cử chỉ, dẫu tất cả luôn xảy ra trong khiêm nhu, tiềm ẩn, và thường là vô hình.
Suy gẫm về đời sống hôn nhân Kitô giáo, Phaolô nói, “Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” - bài đọc một. Khi nói điều đó, hẳn Phaolô đã nghĩ đến Chúa Thánh Thần - men tác động và kết hợp hai người nam nữ nên vợ chồng. Cũng trong Thánh Thần, Chúa Kitô và Hội Thánh làm nên gia đình Thiên Chúa giữa lòng thế giới. Đó là một gia đình kính sợ Chúa, “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Cho đến khi tất cả bột dậy men”. Viên men đầu tiên Thiên Chúa vùi vào ‘thúng bột nhân loại’ là Giêsu; không chỉ vùi vào lòng nhân loại, nó còn vùi vào đất. Và ‘từng chút một’, ‘từng con người một’, ‘từng mảnh đất một’ đã thấm nhuần men yêu thương của Ngài. Vì thế, bạn và tôi không còn là “bột men” thường, nhưng là “bột men Giêsu”. Và Ngài đang vùi chúng ta vào công sở, trường học, đồng áng… mọi ngõ ngách của thế giới. Ngài ước men Tin Mừng trong chúng ta ‘từng chút một’ với khả năng và hoàn cảnh rất riêng của mình, đem những con người chúng ta gặp gỡ trên đời ‘đến gần con tàu và yêu lấy nó’; “Con Tàu Giêsu”, “Con Tàu Giáo Hội’, để cả họ, cũng được biến đổi!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con ‘từng chút’ để con có thể ‘yêu lấy con tàu Giêsu’ từng ngày; đừng để con mất chất, nhưng luôn là men nhiệt tâm, men nồng nàn!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men!”.
“Việc chấp nhận một con tàu là điều rất khó khi trời chỉ mới đổ mưa. Cái chết là một cơn bão tức thì ập xuống, đến nỗi khi bạn với tay cầm lấy chiếc ô, thì biết rằng, mình cần một đôi cánh để có thể bay trong nước! Vì thế, từng bước một, ‘từng chút một’, bạn hãy biến đổi tâm hồn để có thể đến gần con tàu và yêu lấy nó!” - Calvin Miller.
Kính thưa Anh Chị em,
‘Từng chút một’, ý tưởng của Miller được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến một điều gì to tát, nhưng nói đến cái nhỏ bé đến nỗi gần như không trông thấy - một chút men. Ấy thế, như men trong bột, ân sủng Thánh Thần cũng biến đổi linh hồn ‘từng chút một!’.
Men - một thứ luôn hấp dẫn - nhỏ bé nhưng lại tác dụng mạnh mẽ đối với bột. Men hoạt động chậm nhưng hiệu quả; với men, bột sẽ lặng lẽ biến đổi và dậy lên. Đây luôn là điều hấp dẫn đối với trẻ em; bạn sẽ chứng kiến những đôi mắt thiên thần tròn xoe khi các trẻ có mặt tại lò bánh mì. Đây cũng là cách thức Tin Mừng hoạt động. Việc biến đổi một trái tim hiếm khi diễn ra trong một ngày hay trong một khoảnh khắc; đành rằng, mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc đều quan trọng, nhưng hẳn có những khoảnh khắc chuyển đổi mạnh mẽ mà mỗi người có thể chỉ ra. Như chút men âm thầm làm cho thúng bột dậy lên, việc biến đổi một trái tim cũng thường diễn ra ‘từng chút một!’.
Đôi khi, sự ồn ào của thế giới với những ê chề của nó cùng bao biến động trong cuộc sống ngăn cản chúng ta dừng lại để xem cách Thiên Chúa đang vận hành lịch sử. Tuy nhiên, Tin Mừng bảo đảm, Thiên Chúa đang hoạt động như men âm ỉ và ‘từng chút một’, ‘thúng bột thế giới’ đang dậy lên. Chút men của những việc lành nơi chúng ta tuy nhỏ - phát xuất từ Chúa - vẫn đem lại những hiệu quả tuyệt vời trong tất cả mọi hành vi cử chỉ, dẫu tất cả luôn xảy ra trong khiêm nhu, tiềm ẩn, và thường là vô hình.
Suy gẫm về đời sống hôn nhân Kitô giáo, Phaolô nói, “Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” - bài đọc một. Khi nói điều đó, hẳn Phaolô đã nghĩ đến Chúa Thánh Thần - men tác động và kết hợp hai người nam nữ nên vợ chồng. Cũng trong Thánh Thần, Chúa Kitô và Hội Thánh làm nên gia đình Thiên Chúa giữa lòng thế giới. Đó là một gia đình kính sợ Chúa, “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Cho đến khi tất cả bột dậy men”. Viên men đầu tiên Thiên Chúa vùi vào ‘thúng bột nhân loại’ là Giêsu; không chỉ vùi vào lòng nhân loại, nó còn vùi vào đất. Và ‘từng chút một’, ‘từng con người một’, ‘từng mảnh đất một’ đã thấm nhuần men yêu thương của Ngài. Vì thế, bạn và tôi không còn là “bột men” thường, nhưng là “bột men Giêsu”. Và Ngài đang vùi chúng ta vào công sở, trường học, đồng áng… mọi ngõ ngách của thế giới. Ngài ước men Tin Mừng trong chúng ta ‘từng chút một’ với khả năng và hoàn cảnh rất riêng của mình, đem những con người chúng ta gặp gỡ trên đời ‘đến gần con tàu và yêu lấy nó’; “Con Tàu Giêsu”, “Con Tàu Giáo Hội’, để cả họ, cũng được biến đổi!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con ‘từng chút’ để con có thể ‘yêu lấy con tàu Giêsu’ từng ngày; đừng để con mất chất, nhưng luôn là men nhiệt tâm, men nồng nàn!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Tình yêu : Alpha và Omêga của cuộc sống
Lm Phêrô Phan Văn Lợi
21:52 28/10/2024
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN NĂM B : MC 12,28b-34
28b Khi ấy, có một người trong các kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi : “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” 29 Đức Giê-su trả lời : “Điều răn đứng hàng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31 Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó”. 32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. 34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
TÌNH YÊU : ALPHA VÀ OMÊGA CỦA CUỘC SỐNG
Trong bối cảnh của một cuộc tranh luận, Đức Giê-su được một kinh sư phái Pha-ri-sêu hỏi ý kiến : “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu”. Người đáp lại : tình yêu là quy tắc hàng đầu của mọi cuộc sống tôn giáo.
Trong hai thế kỷ đầu, các rabbi, lấy lại cách phân loại của tiền nhân, đã tính ra có tới 613 giới răn trong Lề luật Do-thái : 365 giới cấm và 248 răn buộc. Trong các giới răn này, một số được gọi là “trọng” hay “lớn”, số khác thì “nhẹ” hay “nhỏ”. Và pháp học Do-thái đã cố gắng xác định xem điều khoản trọng nhất trong Lề luật là gì. Đó là lệnh cấm thờ ngẫu tượng (sách Talmud), là lệnh cấm xúc phạm danh Thiên Chúa, cấm đổ máu, cấm loạn luân, cấm lỗi hưu nhật, cấm giết người (văn chương Do-thái) v.v… Do-thái giáo đã không thể thấy sự ưu đẳng của giới luật tình yêu, vì tất cả nền tu đức lẫn cuộc sống của nó bị một quan niệm duy luật tỉ mỉ thái quá ám ảnh. Mà giả như có chăng nữa, ví dụ qua câu nói “Điều gì không làm hài lòng anh, thì chớ làm cho đồng loại anh điều ấy. Đó là tất cả lề luật, mọi cái khác chỉ là giải nghĩa” (rabbi Hillel, 20 năm trước ĐKT), nền tu đức Do-thái vẫn in vết não trạng tiêu cực và bài ngoại : “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Đức Giê-su thành thử là người đầu tiên đã cho nổ tung những nền móng cũ, để lao mình vào một công trình xây dựng hoàn toàn mới.
1. Yêu mến Thiên Chúa vì Người là “Đức Chúa duy nhất”
Biết những lời nói của mình sẽ có uy lực hơn trước mắt vị kinh sư nếu chúng dựa vào Kinh Thánh là cái quen thuộc với ông, Đức Giê-su đã trích dẫn Đnl 6,4-5 và Lv 19,18.
Đnl 6,4-5 có hai điểm nổi bật : tuyên xưng mạnh mẽ đức tin độc thần (bởi thế nó được dân Ít-ra-en lấy làm kinh nhật tụng, kinh “Shema Israel=Nghe đây, hỡi Ít-ra-en”) và đề cao đặc biệt lòng yêu mến Thiên Chúa (yêu Người không hạn chế, đang khi Cựu Ước thường đề cập đến vấn đề “sợ hãi”, “làm tôi” Người). Tác giả sách Đnl hình như đã lợi dụng công trình tinh luyện thần học của các ngôn sứ; các ông này (đặc biệt Hô-sê) đã so sánh mối quan hệ giữa Ít-ra-en và Đức Chúa với mối quan hệ của một phụ nữ đối với chồng mình : mối quan hệ tình yêu chứ không phải là một nghĩa vụ có tính cách pháp lý hay tế tự. Thực vậy, Hô-sê đã cảm thức sâu xa rằng chẳng một tình cảm nào lôi cuốn con tim loài người cho bằng tình chồng vợ. Tình yêu này không đòi hỏi sự hỗ tương sao? Vì thế tại sao qua tiếng nói của các ngôn sứ, Thiên Chúa đòi hỏi dân bất trung phải đáp trả tình yêu phu quân của Người. Đây là một luận cứ còn mạnh hơn ý niệm “phụ tính phổ quát” của Người nữa.
Vả lại, đó cũng là lý do mà thánh Gio-an đã ám chỉ để thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa : “Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã mến yêu chúng ta… Chúng ta hãy mến yêu, vì Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta trước” (1Ga 4,10.19).
Nhưng ở đây, qua lời tuyên tín độc thần của Đnl được Mc lấy lại, ta còn thấy thêm một lý do nữa. Lời tuyên tín đó là một khẳng định sinh tử, nhắm truyền cho các kẻ tin một động lực thiêng liêng chi phối cuộc đời của họ. Đức Chúa là “Đức Chúa duy nhất”, nghĩa là “đơn độc” trong thần tính giữa hết mọi thần mà người ta có thể tưởng tượng (x. 1Cr 8,5; Tv 82,1). Người là vị thần vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất mà người ta có thể quan niệm (x. 2Sm 7,22). Nói cách khác, “Người là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đó là lý do mạnh nhất làm nẩy sinh trong phàm nhân cái tình yêu bộc phát thúc đẩy họ đi về với Thiên Chúa.
2. Yêu người thân cận như chính mình
Về việc yêu mến người thân cận, Đức Giê-su cũng lấy lại một công thức hoàn hảo của Cựu Ước : Lv 19,18.34. Tuy nhiên, từ đây không ai bị loại khỏi tình yêu phải thực thi như thế đối với người thân cận. Giới luật này bao gồm hết mọi giới răn Đức Ki-tô đã liệt kê ở Mc 10,19. Nhưng công thức của Mc 12,31 đã giản lược các điều khoản đa phức ấy thành một luật duy nhất, nhờ “tình yêu” là cái đơn giản hóa tất cả. Ngoài ra, công thức cũng nhắm truyền tinh thần và sự sống vào cho một bộ xương luật pháp chỉ chú ý đến việc hoàn thành các giới răn theo mặt chữ. “Mến yêu” chính là sức mạnh khiến chúng ta tận tâm làm điều thiện cho tha nhân và cho tha nhân được thỏa mãn. Chính đó là tinh hoa của các yêu sách Thiên Chúa đề ra. Tình yêu là sức mạnh của tâm hồn, sức mạnh “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, nhưng tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
Vẫn biết Tân Ước cũng đòi hỏi tình yêu phải được minh chứng qua những thực hiện cụ thể (x. Gc 2,15; 1Ga 3,17). Nhưng Tân Ước không chấp nhận rằng những thực hiện này là kết quả của một chủ nghĩa nhân bản, xã hội, kinh tế thuần túy, hay là phương tiện thỏa mãn lòng kiêu ngạo riêng tư. Ki-tô giáo mong muốn mọi hoạt động xã hội hay bác ái phải được thúc đẩy bởi sự hiến thân, hy sinh, từ bỏ và phải kèm theo thái độ khiêm tốn lẫn chú tâm tế nhị đối với những người túng thiếu. Như thế lòng tốt tự nhiên và chính sách kinh tế công bằng được đảm nhận trên bình diện cao hơn của đức ái đối thần. Người Sa-ma-ri nhân lành đã không bị một mối ưu tư xã hội hay pháp lý thúc đẩy khi thấy kẻ xấu số, nhưng là “chạnh lòng thương” (Lc 10,33). Hành vi bác ái không đáng gọi là “hành vi bác ái” nếu chẳng phát sinh từ cảm thức thâm sâu, tích cực mà ta gọi là “tình yêu”.
Tuy nhiên, cũng có mối nguy là tự mãn với những công thức tao nhã, bặt thiệp : “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18). Đây là kết luận của một lối lý luận rất đơn sơ nhưng rất sắc bén của thánh Gio-an : “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1Ga 3,17; x. Gc 2,14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải ra mà phục vụ kẻ khác.
Dẫu thế, tình yêu mà Đức Ki-tô đòi hỏi chúng ta phải có đối với người thân cận còn đi xa hơn nữa : “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì : đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Đối với chúng ta, đó là một bổn phận, một bắt buộc, một món nợ mắc với Đức Ki-tô vì người anh em. Chính trong khung cảnh này mà giới răn của Đức Ki-tô nằm vào và được nổi bật : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Chỗ khác, Người còn thêm : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13. Bản dịch Đại kết tiếng Pháp : hy sinh tính mạng cho những kẻ mình thương). Tựu trung, tình yêu ấy làm cho chúng ta nên giống Đức Ki-tô là Đấng “yêu thương các kẻ thuộc về mình đến cùng” (Ga 13,1). Yêu thương đến độ chết cho tha nhân (gương thánh Maximilien Kolbe).
Kết luận, có hai giới luật tình yêu và hai đối tượng khác nhau của tình yêu ấy : Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng thực tế, đó luôn là vấn đề yêu. Yêu là sinh hoạt duy nhất đòi buộc con người : ở nơi con người chỉ có một tình yêu duy nhất, phát sinh từ cùng một khả năng. Sự tóm gọn này xuất hiện rõ rệt nơi thánh Gio-an, người chuyên môn nói về “yêu” mà chẳng luôn luôn phân biệt đâu là yêu Thiên Chúa và đâu là yêu đồng loại.
Viên kinh sư đi tìm kiếm giới răn thứ nhất, và “Thầy tốt lành” đã chỉ cho ông một giới răn duy nhất : “yêu”. Ông đã hiểu được rằng thế là Thầy đã đặt nền tảng cho một tôn giáo mới “vượt quá mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (c.33; x. Ga 4,20-23). Về phía Đức Giê-su, Người nhận thấy kẻ đối thoại “không còn xa Nước Thiên Chúa”. Tuy nhiên ông ta vẫn chưa vào, vì hiểu giáo thuyết là một chuyện, đem ra thực hành giáo thuyết lại là một chuyện khác. (Viết theo M. Miguéns, Assemblées du Seigneur 62)
Cha Piô Pietrelcina (1887-1968), vị linh mục mang năm dấu thánh được phong hiển thánh tháng 6-2002, là một trong những mẫu gương tiêu biểu trong việc thực hành bài Tin Mừng hôm nay. Luôn được thiêu đốt bởi lửa yêu mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân, Cha đã sống đầy đủ ơn gọi linh mục mỗi ngày mỗi trọn vẹn, để góp phần vào việc cứu rỗi loài người. Người thi hành sứ mệnh đó bằng ba phương thế : linh hướng để giúp các linh hồn nên thánh; ban bí tích hòa giải để đưa kẻ tội lỗi trở về; cử hành thánh lễ để sống kết hợp với Chúa Giê-su trên thánh giá. Về phương diện xã hội, cha Piô dấn thân rất nhiều để làm giảm bớt những đau khổ, cùng cực của nhiều gia đình. Đặc biệt người đã quyết định thành lập “Nhà nâng đỡ sự đau khổ” tức bệnh viện San Giovanni Rotondo hiện nay. Đây là một trong những bệnh viện lớn nhất và nổi tiếng nhất tại Ý, do Tòa Thánh quản trị. Về phương diện thiêng liêng, Cha đã thành lập các nhóm cầu nguyện liên lỉ mang tên “Vườn gieo đức tin và tổ ấm tình yêu”. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI đã gọi các nhóm này là “Phong trào lớn lao của những người cầu nguyện”. Vào năm 2013, có khoảng 3.300 nhóm đã đăng ký ở 60 quốc gia (theo Wikipedia).
28b Khi ấy, có một người trong các kinh sư đến gần Đức Giê-su và hỏi : “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” 29 Đức Giê-su trả lời : “Điều răn đứng hàng đầu là : Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. 31 Điều răn thứ hai là : Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó”. 32 Ông kinh sư nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. 34 Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo : “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu !” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
TÌNH YÊU : ALPHA VÀ OMÊGA CỦA CUỘC SỐNG
Trong bối cảnh của một cuộc tranh luận, Đức Giê-su được một kinh sư phái Pha-ri-sêu hỏi ý kiến : “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu”. Người đáp lại : tình yêu là quy tắc hàng đầu của mọi cuộc sống tôn giáo.
Trong hai thế kỷ đầu, các rabbi, lấy lại cách phân loại của tiền nhân, đã tính ra có tới 613 giới răn trong Lề luật Do-thái : 365 giới cấm và 248 răn buộc. Trong các giới răn này, một số được gọi là “trọng” hay “lớn”, số khác thì “nhẹ” hay “nhỏ”. Và pháp học Do-thái đã cố gắng xác định xem điều khoản trọng nhất trong Lề luật là gì. Đó là lệnh cấm thờ ngẫu tượng (sách Talmud), là lệnh cấm xúc phạm danh Thiên Chúa, cấm đổ máu, cấm loạn luân, cấm lỗi hưu nhật, cấm giết người (văn chương Do-thái) v.v… Do-thái giáo đã không thể thấy sự ưu đẳng của giới luật tình yêu, vì tất cả nền tu đức lẫn cuộc sống của nó bị một quan niệm duy luật tỉ mỉ thái quá ám ảnh. Mà giả như có chăng nữa, ví dụ qua câu nói “Điều gì không làm hài lòng anh, thì chớ làm cho đồng loại anh điều ấy. Đó là tất cả lề luật, mọi cái khác chỉ là giải nghĩa” (rabbi Hillel, 20 năm trước ĐKT), nền tu đức Do-thái vẫn in vết não trạng tiêu cực và bài ngoại : “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Đức Giê-su thành thử là người đầu tiên đã cho nổ tung những nền móng cũ, để lao mình vào một công trình xây dựng hoàn toàn mới.
1. Yêu mến Thiên Chúa vì Người là “Đức Chúa duy nhất”
Biết những lời nói của mình sẽ có uy lực hơn trước mắt vị kinh sư nếu chúng dựa vào Kinh Thánh là cái quen thuộc với ông, Đức Giê-su đã trích dẫn Đnl 6,4-5 và Lv 19,18.
Đnl 6,4-5 có hai điểm nổi bật : tuyên xưng mạnh mẽ đức tin độc thần (bởi thế nó được dân Ít-ra-en lấy làm kinh nhật tụng, kinh “Shema Israel=Nghe đây, hỡi Ít-ra-en”) và đề cao đặc biệt lòng yêu mến Thiên Chúa (yêu Người không hạn chế, đang khi Cựu Ước thường đề cập đến vấn đề “sợ hãi”, “làm tôi” Người). Tác giả sách Đnl hình như đã lợi dụng công trình tinh luyện thần học của các ngôn sứ; các ông này (đặc biệt Hô-sê) đã so sánh mối quan hệ giữa Ít-ra-en và Đức Chúa với mối quan hệ của một phụ nữ đối với chồng mình : mối quan hệ tình yêu chứ không phải là một nghĩa vụ có tính cách pháp lý hay tế tự. Thực vậy, Hô-sê đã cảm thức sâu xa rằng chẳng một tình cảm nào lôi cuốn con tim loài người cho bằng tình chồng vợ. Tình yêu này không đòi hỏi sự hỗ tương sao? Vì thế tại sao qua tiếng nói của các ngôn sứ, Thiên Chúa đòi hỏi dân bất trung phải đáp trả tình yêu phu quân của Người. Đây là một luận cứ còn mạnh hơn ý niệm “phụ tính phổ quát” của Người nữa.
Vả lại, đó cũng là lý do mà thánh Gio-an đã ám chỉ để thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa : “Tình yêu cốt ở điều này : không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã mến yêu chúng ta… Chúng ta hãy mến yêu, vì Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta trước” (1Ga 4,10.19).
Nhưng ở đây, qua lời tuyên tín độc thần của Đnl được Mc lấy lại, ta còn thấy thêm một lý do nữa. Lời tuyên tín đó là một khẳng định sinh tử, nhắm truyền cho các kẻ tin một động lực thiêng liêng chi phối cuộc đời của họ. Đức Chúa là “Đức Chúa duy nhất”, nghĩa là “đơn độc” trong thần tính giữa hết mọi thần mà người ta có thể tưởng tượng (x. 1Cr 8,5; Tv 82,1). Người là vị thần vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất mà người ta có thể quan niệm (x. 2Sm 7,22). Nói cách khác, “Người là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đó là lý do mạnh nhất làm nẩy sinh trong phàm nhân cái tình yêu bộc phát thúc đẩy họ đi về với Thiên Chúa.
2. Yêu người thân cận như chính mình
Về việc yêu mến người thân cận, Đức Giê-su cũng lấy lại một công thức hoàn hảo của Cựu Ước : Lv 19,18.34. Tuy nhiên, từ đây không ai bị loại khỏi tình yêu phải thực thi như thế đối với người thân cận. Giới luật này bao gồm hết mọi giới răn Đức Ki-tô đã liệt kê ở Mc 10,19. Nhưng công thức của Mc 12,31 đã giản lược các điều khoản đa phức ấy thành một luật duy nhất, nhờ “tình yêu” là cái đơn giản hóa tất cả. Ngoài ra, công thức cũng nhắm truyền tinh thần và sự sống vào cho một bộ xương luật pháp chỉ chú ý đến việc hoàn thành các giới răn theo mặt chữ. “Mến yêu” chính là sức mạnh khiến chúng ta tận tâm làm điều thiện cho tha nhân và cho tha nhân được thỏa mãn. Chính đó là tinh hoa của các yêu sách Thiên Chúa đề ra. Tình yêu là sức mạnh của tâm hồn, sức mạnh “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, nhưng tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
Vẫn biết Tân Ước cũng đòi hỏi tình yêu phải được minh chứng qua những thực hiện cụ thể (x. Gc 2,15; 1Ga 3,17). Nhưng Tân Ước không chấp nhận rằng những thực hiện này là kết quả của một chủ nghĩa nhân bản, xã hội, kinh tế thuần túy, hay là phương tiện thỏa mãn lòng kiêu ngạo riêng tư. Ki-tô giáo mong muốn mọi hoạt động xã hội hay bác ái phải được thúc đẩy bởi sự hiến thân, hy sinh, từ bỏ và phải kèm theo thái độ khiêm tốn lẫn chú tâm tế nhị đối với những người túng thiếu. Như thế lòng tốt tự nhiên và chính sách kinh tế công bằng được đảm nhận trên bình diện cao hơn của đức ái đối thần. Người Sa-ma-ri nhân lành đã không bị một mối ưu tư xã hội hay pháp lý thúc đẩy khi thấy kẻ xấu số, nhưng là “chạnh lòng thương” (Lc 10,33). Hành vi bác ái không đáng gọi là “hành vi bác ái” nếu chẳng phát sinh từ cảm thức thâm sâu, tích cực mà ta gọi là “tình yêu”.
Tuy nhiên, cũng có mối nguy là tự mãn với những công thức tao nhã, bặt thiệp : “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18). Đây là kết luận của một lối lý luận rất đơn sơ nhưng rất sắc bén của thánh Gio-an : “Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1Ga 3,17; x. Gc 2,14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải ra mà phục vụ kẻ khác.
Dẫu thế, tình yêu mà Đức Ki-tô đòi hỏi chúng ta phải có đối với người thân cận còn đi xa hơn nữa : “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì : đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Đối với chúng ta, đó là một bổn phận, một bắt buộc, một món nợ mắc với Đức Ki-tô vì người anh em. Chính trong khung cảnh này mà giới răn của Đức Ki-tô nằm vào và được nổi bật : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Chỗ khác, Người còn thêm : “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13. Bản dịch Đại kết tiếng Pháp : hy sinh tính mạng cho những kẻ mình thương). Tựu trung, tình yêu ấy làm cho chúng ta nên giống Đức Ki-tô là Đấng “yêu thương các kẻ thuộc về mình đến cùng” (Ga 13,1). Yêu thương đến độ chết cho tha nhân (gương thánh Maximilien Kolbe).
Kết luận, có hai giới luật tình yêu và hai đối tượng khác nhau của tình yêu ấy : Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng thực tế, đó luôn là vấn đề yêu. Yêu là sinh hoạt duy nhất đòi buộc con người : ở nơi con người chỉ có một tình yêu duy nhất, phát sinh từ cùng một khả năng. Sự tóm gọn này xuất hiện rõ rệt nơi thánh Gio-an, người chuyên môn nói về “yêu” mà chẳng luôn luôn phân biệt đâu là yêu Thiên Chúa và đâu là yêu đồng loại.
Viên kinh sư đi tìm kiếm giới răn thứ nhất, và “Thầy tốt lành” đã chỉ cho ông một giới răn duy nhất : “yêu”. Ông đã hiểu được rằng thế là Thầy đã đặt nền tảng cho một tôn giáo mới “vượt quá mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (c.33; x. Ga 4,20-23). Về phía Đức Giê-su, Người nhận thấy kẻ đối thoại “không còn xa Nước Thiên Chúa”. Tuy nhiên ông ta vẫn chưa vào, vì hiểu giáo thuyết là một chuyện, đem ra thực hành giáo thuyết lại là một chuyện khác. (Viết theo M. Miguéns, Assemblées du Seigneur 62)
Cha Piô Pietrelcina (1887-1968), vị linh mục mang năm dấu thánh được phong hiển thánh tháng 6-2002, là một trong những mẫu gương tiêu biểu trong việc thực hành bài Tin Mừng hôm nay. Luôn được thiêu đốt bởi lửa yêu mến đối với Thiên Chúa và với tha nhân, Cha đã sống đầy đủ ơn gọi linh mục mỗi ngày mỗi trọn vẹn, để góp phần vào việc cứu rỗi loài người. Người thi hành sứ mệnh đó bằng ba phương thế : linh hướng để giúp các linh hồn nên thánh; ban bí tích hòa giải để đưa kẻ tội lỗi trở về; cử hành thánh lễ để sống kết hợp với Chúa Giê-su trên thánh giá. Về phương diện xã hội, cha Piô dấn thân rất nhiều để làm giảm bớt những đau khổ, cùng cực của nhiều gia đình. Đặc biệt người đã quyết định thành lập “Nhà nâng đỡ sự đau khổ” tức bệnh viện San Giovanni Rotondo hiện nay. Đây là một trong những bệnh viện lớn nhất và nổi tiếng nhất tại Ý, do Tòa Thánh quản trị. Về phương diện thiêng liêng, Cha đã thành lập các nhóm cầu nguyện liên lỉ mang tên “Vườn gieo đức tin và tổ ấm tình yêu”. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI đã gọi các nhóm này là “Phong trào lớn lao của những người cầu nguyện”. Vào năm 2013, có khoảng 3.300 nhóm đã đăng ký ở 60 quốc gia (theo Wikipedia).
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng gồm 155 đoạn: Các đề xuất và chủ đề chính
Vũ Văn An
13:59 28/10/2024
Tạp chí ALETEIA, ngày 28 tháng 10, 2024, đăng tải các điểm chính của Tài liệu Sau cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, một tài liệu, lần đầu tiên trong lịch sử, được Đức Phanxicô chính thức chấp nhận đưa vào huấn quyền thông thường của ngài.
Phụ nữ và giáo dân, phân quyền, minh bạch: Đây là những chủ đề chính của tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị được công bố vào ngày 26 tháng 10 năm 2024.
Sau ba năm suy gẫm, Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã kết thúc vào tối ngày 26 tháng 10 năm 2024, khi 356 thành viên của nó tập trung để bỏ phiếu cho một tài liệu sau cùng.
Trong một hành động bất ngờ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngay lập tức chấp thuận tài liệu này, nói rằng ngài sẽ không công bố tông huấn hậu thượng hội đồng, đây là loại tài liệu giáo hoàng thường được công bố sau một thượng hội đồng. Do đó, văn bản này ngay lập tức nằm trong huấn quyền của Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, ngài đã nêu rõ rằng nó không phải là chuẩn mực.
Văn kiện gồm 155 đoạn văn, chứa đựng nhiều gợi ý và đề xuất. Vấn đề về vị trí và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, được tranh luận nhiều trong những năm làm việc vừa qua, hiện đang rất cấp thiết.
Vấn đề cụ thể liên quan đến các nữ phó tế, mà Đức Giáo Hoàng đã bỏ qua trong phiên họp cuối cùng này, lại xuất hiện trong một đoạn văn, cho thấy quyết tâm của một số thành viên nhằm bảo đảm việc suy nghĩ này không bị mất đi.
Ngoài các đề xuất riêng lẻ - chẳng hạn như tổ chức một Thượng hội đồng cho Trung Đông, xem xét liệu giáo dân có thể là nhân chứng cho hôn nhân hay không, hoặc suy tư về thừa tác vụ lắng nghe - Thượng hội đồng này đặt nền tảng cho việc nhấn mạnh hơn nữa vào vai trò của giáo dân.
Văn kiện khẳng định mong muốn thấy giáo dân đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn trong việc quản lý các giáo xứ và giáo phận. Văn kiện cũng đưa ra nhiều lời kêu gọi thiết lập một nền văn hóa minh bạch trong Giáo hội, nhằm chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị và mọi loại lạm dụng.
Aleteia xem xét kỹ hơn các xu hướng và hướng đi chính mà tài liệu đề xuất.
1.Những người nam và nữ giáo dân nên tham gia nhiều hơn vào đời sống của Giáo hội
Suy tư về các phó tế nữ đã trở lại
Một chủ đề cực kỳ nhạy cảm kể từ khi bắt đầu Thượng hội đồng về tính đồng nghị, vấn đề cho phép phụ nữ được thụ phong phó tế đã không nhận được sự chấp thuận nhất trí tại hội nghị. Đoạn 60 của tài liệu cuối cùng đã gây ra nhiều sự phản đối nhất: 97 người đã bày tỏ sự phản đối của họ trong cuộc bỏ phiếu.
Đoạn văn quả quyết rằng "vấn đề về quyền tiếp cận chức phó tế của phụ nữ vẫn còn bỏ ngỏ". Theo các nguồn tin của Aleteia, tài liệu tham khảo này không có trong bản dự thảo tài liệu và do đó đã được thêm vào các sửa đổi được các thành viên Thượng hội đồng đệ trình trong tuần này. Tài liệu nêu rõ "cần phải tiếp tục phân định" về vấn đề này.
Câu hỏi này đã bị loại khỏi các cuộc tranh luận của Phiên Họp; Đức Giáo Hoàng đã giao phó các chủ đề nhạy cảm nhất của Thượng hội đồng cho 10 nhóm làm việc, những nhóm này sẽ đưa ra kết luận vào tháng 6 năm 2025, và chức phó tế nữ nằm trong số đó.
"Không có lý do hay trở ngại nào có thể ngăn cản phụ nữ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội", văn bản nêu rõ. "Phụ nữ tiếp tục gặp phải những trở ngại trong việc đạt được sự công nhận đầy đủ hơn về các đặc sủng, ơn gọi và vai trò của họ trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội".
Liên quan đến các phó tế vĩnh viễn, một chức vụ dành riêng cho nam giới, văn bản kêu gọi vai trò này được đào sâu và thúc đẩy ở những khu vực mà nó vẫn chưa được biết đến nhiều.
Các hội đồng giáo xứ bắt buộc có thành viên là giáo dân
Để khuyến khích "tăng cường sự tham gia của giáo dân nam và nữ vào các quá trình phân định của Giáo hội và tất cả các giai đoạn của quá trình ra quyết định (soạn thảo, đưa ra và xác nhận quyết định)", Thượng hội đồng kêu gọi "các cơ quan tham gia" trong Giáo hội phải có tính "bắt buộc" (điểm 104).
Những điều này được quy định trong Giáo luật và bao gồm các cơ quan như Hội đồng Mục vụ Giáo phận, Hội đồng Mục vụ Giáo xứ hoặc Hội đồng Kinh tế. Bản chất bắt buộc của biện pháp này có thể thay đổi cách quản lý của nhiều Giáo hội địa phương, mặc dù nhiều giáo hội, đặc biệt là ở phương Tây, đã có những cấu trúc như vậy.
Nhiều thừa tác vụ giáo dân hơn?
"Một Giáo hội truyền giáo theo tinh thần đồng nghị sẽ khuyến khích nhiều hình thức thừa tác vụ giáo dân hơn, tức là các thừa tác vụ không đòi hỏi bí tích Truyền chức thánh", tài liệu thúc giục trong đoạn 66.
Các thừa tác vụ này có thể bao gồm thừa tác vụ đọc sách và thừa tác vụ giúp lễ (lần lượt là người đọc sách và người giúp linh mục trong thánh lễ), gần đây cũng mở cho phụ nữ, và thừa tác vụ giáo lý viên, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chính thức thành lập vào năm 2021.
Các mục tử được thúc giục "đáp ứng bằng sự sáng tạo và lòng dũng cảm đối với các nhu cầu của sứ mệnh" và "không chỉ trong phạm vi phụng vụ".
Một thừa tác vụ lắng nghe?
Trong số các thừa tác vụ mới mà thượng hội đồng nghiên cứu trong tháng thảo luận này có thừa tác vụ "lắng nghe và đồng hành". Trong văn kiện cuối cùng, đề xuất này không được nhất trí thông qua. Một số người phản đối, ví dụ, nói rằng đây là “nhiệm vụ của tất cả những người đã chịu phép rửa tội”. Những người khác đề xuất rằng thừa tác vụ này “nên được đặc biệt nhằm chào đón những người ở bên lề cộng đồng Giáo hội, những người trở về sau khi đã trôi dạt và những người đang tìm kiếm sự thật và mong muốn được giúp đỡ để gặp Chúa.” Các thành viên giải thích rằng cần phải có sự phân định rõ ràng hơn về vấn đề này (đoạn 78).
Giáo dân cử hành hôn nhân?
Vẫn phù hợp với cuộc thảo luận này liên quan đến các thừa tác vụ khác nhau, hội đồng đã viết rằng “cần cân nhắc việc mở rộng và ổn định” khả năng cho phép giáo dân cử hành lễ rửa tội và hôn nhân (đoạn 76). Hiện tại, điều này được phép như một ngoại lệ trong một số điều kiện chuyên biệt. (Ở phương Tây, bí tích hôn nhân được hiểu là do chính cặp đôi trao ban, với sự chứng kiến của linh mục.)
Nhiều giáo dân tham gia hơn trong phụng vụ
Các thành viên Thượng hội đồng kêu gọi thành lập một nhóm nghiên cứu mới để đánh giá mối liên hệ giữa “phụng vụ và tính đồng nghị” nhằm “áp dụng các phong cách cử hành làm nổi bật khuôn mặt của một Giáo hội đồng nghị.” Nhóm này “cũng có thể xem xét chủ đề thuyết giảng trong các nghi lễ phụng vụ”, văn bản nêu trong đoạn 27. Đoạn văn này là một trong những đoạn ít nhất trí nhất trong cuộc bỏ phiếu.
Vấn đề cho phép giáo dân thuyết giảng trong Thánh lễ nằm trong chương trình nghị sự cho các cuộc thảo luận trong tháng này tại Rome. Mặc dù không có sự đồng thuận, nhưng khi đưa ra yêu cầu này, các thành viên của Thượng hội đồng dường như muốn theo đuổi sự suy nghĩ của họ. Hiện nay, giáo luật dành quyền thuyết giảng cho các thành viên hàng giáo sĩ (giám mục, linh mục hoặc phó tế).
Phụ nữ trong các chủng viện
Văn bản kêu gọi xem xét kỹ lưỡng việc đào tạo tại chủng viện, để chuẩn bị cho các ứng viên chức linh mục theo “cách thức đồng nghị” (đoạn 148). “Cần phải có sự hiện diện đáng kể của phụ nữ”, đoạn văn nêu rõ, thu hút 40 phiếu chống.
Tài liệu đề cập đến tầm quan trọng của “việc đào tạo để có thể cộng tác với mọi người trong Giáo hội”, và cũng mời gọi thực hiện một hình thức giáo dục chung và trách nhiệm (giữa nam và nữ, và giữa các trạng thái sống khác nhau) trong các nghiên cứu thần học, bao gồm cả những người đang học để trở thành linh mục. “Do đó, việc đào tạo phải bao gồm tất cả các chiều kích của con người (trí tuệ, tình cảm, quan hệ và tâm linh)”, tài liệu nhấn mạnh.
2. Tản quyền Giáo hội
Hiểu rõ hơn về phạm vi của Giám mục Rôma
Văn bản nhấn mạnh vào vị trí đặc biệt của Giáo hoàng, nhắc lại rằng trong các sách Tin Mừng, Phêrô đã đóng “một vai trò đặc biệt” với Chúa Giêsu, đáng chú ý là trong câu chuyện về mẻ cá kỳ diệu (đoạn 109).
“Quá trình đồng nghị cũng đã xem xét lại câu hỏi về cách thức mà Giám mục Rôma thực hiện thừa tác vụ của mình”, tài liệu viết. “Là Người kế vị Thánh Phêrô, ngài có vai trò độc nhất trong việc bảo vệ kho tàng đức tin và luân lý, đảm bảo rằng các tiến trình đồng nghị hướng đến sự hiệp nhất và chứng tá (đoạn 131).”
Vấn đề bổ trợ cũng được giải quyết: “người ta có thể khởi xướng một nghiên cứu thần học và giáo luật có nhiệm vụ xác định những vấn đề cần trình lên Đức Giáo Hoàng (reservatio papalis) và những vấn đề có thể trình lên các giám mục trong Giáo hội hoặc nhóm Giáo hội của họ.”
Hiểu rõ hơn về thẩm quyền của các hội đồng giám mục
Những người tham gia thượng hội đồng cũng kêu gọi suy gẫm thêm về “quy chế thần học và pháp lý”, và làm rõ về “thẩm quyền về tín lý và kỷ luật” của các hội đồng giám mục (đoạn 125).
Tài liệu này cũng khuyến khích “một quá trình đánh giá” mối quan hệ “cụ thể” giữa Giáo triều Rôma và các giám mục địa phương để đánh giá xem có cần thực hiện cải cách hay không. Các thành viên của Thượng hội đồng đề xuất đưa những chủ đề này vào chương trình nghị sự của các chuyến viếng thăm ad limina sắp tới, tức là các chuyến viếng thăm mà tất cả các giám mục trên thế giới được cho là sẽ thực hiện tại Rome năm năm một lần.
Văn kiện này cũng kêu gọi làm rõ hơn về "tình trạng thần học và giáo luật" của các hội đồng lục địa và các hội đồng giáo hội lục địa, bao gồm cả giáo dân. Những người tham gia yêu cầu các cơ quan này được tăng cường theo "di sản" mà họ để lại với những trải nghiệm tích cực của tiến trình đồng nghị.
Những người tham gia cũng kêu gọi khôi phục lại "các hội đồng đặc thù" mà họ coi là một công cụ để "phân quyền lành mạnh" (đoạn 129). Giáo Hội Công Giáo tại Úc đã tiến hành một thử nghiệm như vậy từ năm 2018 đến năm 2022, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng lạm dụng.
Các cơ quan "nghị bàn" cùng với các giám mục?
Các thành viên của Thượng hội đồng rất muốn nhấn mạnh giá trị của các hội đồng tham vấn. Trong đoạn 92, một trong những đoạn gây tranh cãi nhất trong quá trình bỏ phiếu cho văn kiện sau cùng, có nêu rằng khi các hội đồng như vậy đưa ra sự phân định đúng đắn, thì chúng không nên bị thẩm quyền giám mục bỏ qua.
Trong khi thừa nhận rằng giám mục vẫn giữ quyền ra quyết định, họ kêu gọi sửa đổi giáo luật để đề cao hơn khía cạnh "nghị bàn" [deliberative] chứ không chỉ là khía cạnh tham vấn của các cơ quan như vậy.
Các giám mục nên ủy quyền nhiều hơn
“Điều quan trọng là giúp các tín hữu tránh những kỳ vọng quá mức và không thực tế vào giám mục, hãy nhớ rằng ngài cũng là một người anh em yếu đuối, dễ bị cám dỗ, cần được giúp đỡ như mọi người khác”, tài liệu của Thượng hội đồng nhấn mạnh trong đoạn 71. “Một hình ảnh lý tưởng về thừa tác vụ của giám mục có thể cản trở bản chất đôi khi yếu đuối của thừa tác vụ của ngài. Mặt khác, thừa tác vụ của ngài được nâng cao rất nhiều khi, trong một Giáo hội thực sự theo tinh thần đồng nghị, thừa tác vụ được hỗ trợ bởi sự tham gia tích cực của toàn thể dân Chúa”.
Rộng hơn, Thượng hội đồng kêu gọi “một sự phân định can đảm hơn về những gì thực sự thuộc về thừa tác vụ và những gì có thể và phải được ủy quyền cho người khác” (đoạn 74). Sự phân chia nhiệm vụ và trách nhiệm này sẽ giúp chống lại tình trạng lạm dụng dưới mọi hình thức như “tình dục hoặc kinh tế” hoặc “lương tâm và quyền lực, bởi các mục tử của Giáo hội”.
Sự liên đới có cấu trúc tốt hơn giữa các giáo hội
Tài liệu này liên tục sử dụng cụm từ “trao đổi hồng ân” để khuyến khích các giáo hội địa phương hỗ trợ lẫn nhau theo điểm mạnh và điểm yếu của họ. Đặc biệt, văn bản hoan nghênh các hình thức hợp tác mới của giáo hội đang nổi lên “trong các khu vực địa lý xuyên quốc gia và liên văn hóa rộng lớn như Amazon, lưu vực sông Congo và Biển Địa Trung Hải”.
Tuy nhiên, các hình thức hỗ trợ khác nhau cần được định hình tốt hơn, đặc biệt là liên quan đến phong trào linh mục. “Các linh mục giúp đỡ các Giáo hội đang thiếu hụt giáo sĩ không chỉ là biện pháp khắc phục chức năng mà còn là nguồn lực cho sự phát triển của Giáo hội gửi họ và nơi tiếp nhận họ”, văn bản nhấn mạnh. “Tương tự như vậy, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng viện trợ kinh tế không thoái hóa thành chủ nghĩa phúc lợi, mà thúc đẩy tình liên đới truyền giáo và được quản lý theo cách minh bạch và đáng tin cậy” (đoạn 121).
3. Một nền văn hóa minh bạch và đánh giá để chống lạm dụng
Tiếp tục cuộc chiến chống lạm dụng trong Giáo hội
Trong một số trường hợp, văn bản cuối cùng đề cập đến “vụ tai tiếng” về các vụ lạm dụng xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo. Để đáp lại, các thành viên của Thượng hội đồng nhấn mạnh vào nền văn hóa bảo vệ, để Giáo hội luôn là nơi an toàn cho trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương (đoạn 150).
Ghi nhận những nỗ lực đã thực hiện trong cuộc chiến chống lạm dụng, những người tham gia Thượng hội đồng kêu gọi Giáo hội tiếp tục con đường này, và đặc biệt là đào tạo bắt buộc cho tất cả những người làm việc với trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương trong Giáo hội. Ở cấp địa phương, tài liệu cũng kêu gọi lập báo cáo thường niên về các sáng kiến bảo vệ.
Minh bạch chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị
Quản trị minh bạch sẽ giúp chống lại nền văn hóa giáo sĩ trị, các thành viên Thượng hội đồng giải thích trong văn bản. “Minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ nên được áp dụng khi nói đến lạm dụng tình dục, tài chính và các hình thức lạm dụng khác. Những thực hành này cũng liên quan đến lối sống của các mục tử, kế hoạch mục vụ, phương pháp truyền giáo và cách Giáo hội tôn trọng phẩm giá con người, ví dụ, liên quan đến điều kiện làm việc trong các tổ chức của mình”, đoạn 98 của tài liệu sau cùng nêu rõ.
Tiếp theo, văn bản nhấn mạnh đến sự tham gia của “các thành viên có năng lực” vào việc lập kế hoạch mục vụ và kinh tế của các Giáo hội địa phương. Về việc tạo ra một nền văn hóa có trách nhiệm, Phiên họp Thượng hội đồng nhấn mạnh đến việc lập các báo cáo thường niên, đặc biệt là về các vấn đề tài chính.
Đánh giá các nỗ lực theo hướng đồng nghị
Các thành viên Thượng hội đồng có kế hoạch đánh giá “tiến trình đạt được theo hướng đồng nghị và sự tham gia của tất cả những người đã chịu phép rửa tội vào đời sống của Giáo hội”. Tài liệu sau cùng khuyên các Hội đồng Giám mục xác định những người có khả năng đồng hành với phong trào này, liên lạc với Văn phòng Tổnt thư ký Thượng hội đồng tại Rome. Nói rộng hơn, họ khuyến nghị rằng các thủ tục được đưa ra để “đánh giá định kỳ tất cả các thừa tác vụ và vai trò trong Giáo hội”.
4. Tập chú vào người khuyết tật và các Giáo hội Đông phương
Một Thượng hội đồng về các Giáo hội Đông phương?
“Phiên họp [Thượng hội đồng] đề xuất Đức Thánh Cha triệu tập một Thượng hội đồng đặc biệt để thúc đẩy việc củng cố và tái phát triển các Giáo Hội Công Giáo Đông phương”, tài liệu nêu trong đoạn 133. Năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã triệu tập một Thượng hội đồng cho Trung Đông, nhưng tình hình của các Giáo hội này đã thay đổi đáng kể sau hơn một thập niên khủng hoảng lớn trong khu vực.
Tài liệu sau cùng cũng đề xuất thành lập một “Hội đồng các Thượng phụ, Tổng giám mục và Giám mục Đô thị của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương do Đức Giáo Hoàng chủ trì”.
Cuối cùng, tài liệu kêu gọi tạo ra các công cụ để hỗ trợ sự hợp tác giữa các Giáo Hội Công Giáo Latinh và Đông phương, đặc biệt liên quan đến những người Công Giáo Đông phương lưu vong ở các quốc gia có truyền thống Latinh. Điều này sẽ giúp bảo vệ truyền thống của họ và thúc đẩy “trao đổi hồng ân”.
Một trung tâm nghiên cứu về khuyết tật
Văn bản cũng kêu gọi thành lập một “trung tâm nghiên cứu về khuyết tật dựa trên Giáo hội” trong đoạn 63. Các thành viên của Thượng hội đồng mạnh mẽy lên án mọi sự phân biệt đối xử với người khuyết tật và kêu gọi coi trọng họ như “những tác nhân tích cực của công cuộc truyền giáo”.
“Chúng tôi thừa nhận những trải nghiệm đau khổ, bị gạt ra ngoài lề và bị phân biệt đối xử của [những người khuyết tật], đôi khi ngay cả trong cộng đồng Kitô giáo cũng phải chịu đựng do những nỗ lực thể hiện lòng trắc ẩn có thể mang tính cha chú”, văn bản giải thích.
Đức Thánh Cha chia sẻ với các tu sĩ Scalabrinian: ‘Những người di dân dạy chúng ta đức hy vọng’
Thanh Quảng sdb
16:54 28/10/2024
Đức Thánh Cha chia sẻ với các tu sĩ Scalabrinian: ‘Những người di dân dạy chúng ta đức hy vọng’
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến các tu sĩ truyền giáo Scalabrinian và nhấn mạnh rằng những người di cư chạy trốn khỏi đói nghèo, bất công và chiến tranh phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập, đồng thời ghi nhớ rằng xã hội đang lão hóa của chúng ta cần tới họ.
(Tin Vatican - Lisa Zengarini)
Đức Thánh Cha Phanxicô một lần nữa lên án “sự thờ ơ” lan rộng trước số phận của những người tị nạn và người di cư trên thế giới ngày nay “trầm trọng hơn do việc đóng cửa biên giới”, và sự thù địch ngày càng tăng đối với họ, đồng thời nhắc lại lời kêu gọi của ngài về một phản ứng đầy lòng trắc ẩn trước những thách thức về di cư. “Chúng ta đừng quên rằng những người di cư phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập”, ngài nói khi gặp gỡ các tu sĩ truyền giáo của Thánh Charles Borromeo, thường được gọi là Scalabrinian, vào thứ Hai nhân dịp Dòng có Tổng hội lần thứ 16.
Thánh bộ đã chọn chủ đề Năm Thánh 2025 "Những người hành hương của hy vọng" làm chủ đề.
Di dân có thể là một trường học quý giá về đức tin và nhân loại.
Lấy cảm hứng từ chủ đề này, Đức Thánh Cha đã suy ngẫm về đức hy vọng liên quan đến ba khía cạnh trong sứ vụ của họ: người di cư, chăm sóc mục vụ và bác ái.
Đầu tiên, ngài nhấn mạnh cách người di cư dạy đức hy vọng. Người di cư rời bỏ nhà cửa với hy vọng tìm được một cuộc sống tốt đẹp hơn, thường phải đối mặt với sự từ chối và những cánh cửa đóng kín nhưng không đầu hàng trước sự tuyệt vọng. Đức Thánh Cha nói "Quyết tâm của họ, thường được truyền cảm hứng từ tình yêu của họ dành cho gia đình mà họ đã bỏ lại phía sau, có thể dạy cho chúng ta rất nhiều điều".
Do đó, ĐTC đã khuyến khích các tu sĩ Scalabrinians, Vị sáng lập là Thánh John Baptist Scalabrini, muốn họ trở thành "những người di cư giữa những người di cư", học hỏi từ những người di cư mà họ phục vụ, chia sẻ hành trình của họ và phát triển trong tình đoàn kết.
“Theo cách này, thông qua tương tác và đối thoại, và bằng cách chào đón Chúa Kitô hiện diện trong họ, anh chị em sẽ phát triển trong tình đoàn kết với nhau, đặt niềm tin của mình ‘vào Thiên Chúa và chỉ vào Thiên Chúa mà thôi’”, ĐTC nói.
“Đừng quên Cựu Ước: góa phụ, trẻ mồ côi và người lạ. Họ là những người được Thiên Chúa ưu ái”.
Lưu ý rằng mong muốn di cư thường phản ánh một khát vọng sâu sắc hơn về sự cứu rỗi, Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét rằng, bất chấp những thách thức của nó, di cư có thể là một “trường học quý giá về đức tin và nhân loại”.
Gần gũi mục vụ với người di cư
Đức Thánh Cha tiếp tục nhấn mạnh đến nhu cầu cấp bách của dịch vụ chăm sóc mục vụ đầy đủ cho người di cư vì, ngài nói, “di cư chỉ có thể là một khoảnh khắc phát triển nếu được hỗ trợ thích hợp”.
“Nếu những người di cư muốn duy trì sức mạnh và khả năng phục hồi cần thiết để họ tiếp tục cuộc hành trình của mình - ngài nói - thì họ cần một người nào đó chăm sóc vết thương cho họ và chăm sóc cái tình trạng dễ bị tổn thương về thể chất, tinh thần và tâm lý khủng khoảng của họ.”
Do đó, ĐTC kêu gọi “các biện pháp can thiệp mục vụ hiệu quả thể hiện sự gần gũi về vật chất, tôn giáo và con người, để giữ cho hy vọng của họ luôn sống động và giúp họ tiến lên trên hành trình cá nhân hướng đến Chúa, người bạn đồng hành trung thành của họ trên con đường này.”
Xã hội phát triển đang già đi cần những người di cư
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý rằng nhiều quốc gia tiếp nhận, bao gồm cả Ý, cần những người di cư vì họ phải đối mặt với tỷ lệ sinh sản giảm xút và dân số già cỗi.
Từ chối các khuôn mẫu độc quyền
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi lòng bác ái đối với những người di cư, những người buộc phải rời bỏ nhà cửa vì bất công, chiến tranh và thiếu cơ hội ở quốc gia bản địa của họ và những người đau khổ trở nên trầm trọng hơn do biên giới đóng cửa.
Ngài một lần nữa lên án sự thờ ơ lan rộng đối với sự mất mát của nhiều sinh mạng và sự bóc lột những người di cư khi họ đấu tranh để sinh tồn khi chạy trốn khỏi nạn đói và sự đàn áp.
Nhắc lại luật Năm Thánh trong Kinh thánh về việc khôi phục đất đai, ngài kêu gọi thực hiện hành động công lý đó trong bối cảnh hiện tại “thông qua các công việc từ thiện khẳng định phẩm giá và quyền của mỗi cá nhân”.
Theo cách này, ngài nói, “những khuôn mẫu độc quyền sẽ bị bác bỏ và những người khác, bất kể họ là ai hay đến từ đâu, đều được coi là món quà của Chúa, độc nhất, thiêng liêng, bất khả xâm phạm, một nguồn tài nguyên quý giá vì lợi ích của tất cả mọi người”.
Kết luận, Đức Thánh Cha thừa nhận sức sống của đặc sủng Scalabrinian trong Giáo hội và khuyến khích họ đào sâu sứ mệnh đã được Thánh John Baptist Scalabrini giao phó cho họ cách đây hơn một thế kỷ.
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp kiến các tu sĩ truyền giáo Scalabrinian và nhấn mạnh rằng những người di cư chạy trốn khỏi đói nghèo, bất công và chiến tranh phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập, đồng thời ghi nhớ rằng xã hội đang lão hóa của chúng ta cần tới họ.
(Tin Vatican - Lisa Zengarini)
Đức Thánh Cha Phanxicô một lần nữa lên án “sự thờ ơ” lan rộng trước số phận của những người tị nạn và người di cư trên thế giới ngày nay “trầm trọng hơn do việc đóng cửa biên giới”, và sự thù địch ngày càng tăng đối với họ, đồng thời nhắc lại lời kêu gọi của ngài về một phản ứng đầy lòng trắc ẩn trước những thách thức về di cư. “Chúng ta đừng quên rằng những người di cư phải được chào đón, đồng hành, thúc đẩy và hòa nhập”, ngài nói khi gặp gỡ các tu sĩ truyền giáo của Thánh Charles Borromeo, thường được gọi là Scalabrinian, vào thứ Hai nhân dịp Dòng có Tổng hội lần thứ 16.
Thánh bộ đã chọn chủ đề Năm Thánh 2025 "Những người hành hương của hy vọng" làm chủ đề.
Di dân có thể là một trường học quý giá về đức tin và nhân loại.
Lấy cảm hứng từ chủ đề này, Đức Thánh Cha đã suy ngẫm về đức hy vọng liên quan đến ba khía cạnh trong sứ vụ của họ: người di cư, chăm sóc mục vụ và bác ái.
Đầu tiên, ngài nhấn mạnh cách người di cư dạy đức hy vọng. Người di cư rời bỏ nhà cửa với hy vọng tìm được một cuộc sống tốt đẹp hơn, thường phải đối mặt với sự từ chối và những cánh cửa đóng kín nhưng không đầu hàng trước sự tuyệt vọng. Đức Thánh Cha nói "Quyết tâm của họ, thường được truyền cảm hứng từ tình yêu của họ dành cho gia đình mà họ đã bỏ lại phía sau, có thể dạy cho chúng ta rất nhiều điều".
Do đó, ĐTC đã khuyến khích các tu sĩ Scalabrinians, Vị sáng lập là Thánh John Baptist Scalabrini, muốn họ trở thành "những người di cư giữa những người di cư", học hỏi từ những người di cư mà họ phục vụ, chia sẻ hành trình của họ và phát triển trong tình đoàn kết.
“Theo cách này, thông qua tương tác và đối thoại, và bằng cách chào đón Chúa Kitô hiện diện trong họ, anh chị em sẽ phát triển trong tình đoàn kết với nhau, đặt niềm tin của mình ‘vào Thiên Chúa và chỉ vào Thiên Chúa mà thôi’”, ĐTC nói.
“Đừng quên Cựu Ước: góa phụ, trẻ mồ côi và người lạ. Họ là những người được Thiên Chúa ưu ái”.
Lưu ý rằng mong muốn di cư thường phản ánh một khát vọng sâu sắc hơn về sự cứu rỗi, Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét rằng, bất chấp những thách thức của nó, di cư có thể là một “trường học quý giá về đức tin và nhân loại”.
Gần gũi mục vụ với người di cư
Đức Thánh Cha tiếp tục nhấn mạnh đến nhu cầu cấp bách của dịch vụ chăm sóc mục vụ đầy đủ cho người di cư vì, ngài nói, “di cư chỉ có thể là một khoảnh khắc phát triển nếu được hỗ trợ thích hợp”.
“Nếu những người di cư muốn duy trì sức mạnh và khả năng phục hồi cần thiết để họ tiếp tục cuộc hành trình của mình - ngài nói - thì họ cần một người nào đó chăm sóc vết thương cho họ và chăm sóc cái tình trạng dễ bị tổn thương về thể chất, tinh thần và tâm lý khủng khoảng của họ.”
Do đó, ĐTC kêu gọi “các biện pháp can thiệp mục vụ hiệu quả thể hiện sự gần gũi về vật chất, tôn giáo và con người, để giữ cho hy vọng của họ luôn sống động và giúp họ tiến lên trên hành trình cá nhân hướng đến Chúa, người bạn đồng hành trung thành của họ trên con đường này.”
Xã hội phát triển đang già đi cần những người di cư
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý rằng nhiều quốc gia tiếp nhận, bao gồm cả Ý, cần những người di cư vì họ phải đối mặt với tỷ lệ sinh sản giảm xút và dân số già cỗi.
Từ chối các khuôn mẫu độc quyền
Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi lòng bác ái đối với những người di cư, những người buộc phải rời bỏ nhà cửa vì bất công, chiến tranh và thiếu cơ hội ở quốc gia bản địa của họ và những người đau khổ trở nên trầm trọng hơn do biên giới đóng cửa.
Ngài một lần nữa lên án sự thờ ơ lan rộng đối với sự mất mát của nhiều sinh mạng và sự bóc lột những người di cư khi họ đấu tranh để sinh tồn khi chạy trốn khỏi nạn đói và sự đàn áp.
Nhắc lại luật Năm Thánh trong Kinh thánh về việc khôi phục đất đai, ngài kêu gọi thực hiện hành động công lý đó trong bối cảnh hiện tại “thông qua các công việc từ thiện khẳng định phẩm giá và quyền của mỗi cá nhân”.
Theo cách này, ngài nói, “những khuôn mẫu độc quyền sẽ bị bác bỏ và những người khác, bất kể họ là ai hay đến từ đâu, đều được coi là món quà của Chúa, độc nhất, thiêng liêng, bất khả xâm phạm, một nguồn tài nguyên quý giá vì lợi ích của tất cả mọi người”.
Kết luận, Đức Thánh Cha thừa nhận sức sống của đặc sủng Scalabrinian trong Giáo hội và khuyến khích họ đào sâu sứ mệnh đã được Thánh John Baptist Scalabrini giao phó cho họ cách đây hơn một thế kỷ.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Rước kiệu Đức Mẹ đa sắc dân GX ST Maria Goretti SanJose
thaikpham
03:14 28/10/2024
Nhà thờ Chính Toà Orange: chương trình Emmanuel 2 - Đêm Thánh Ca Giáng Sinh - vào cửa miễn phí
Lm. Thái Quốc Bảo
03:19 28/10/2024
Các bài giảng của các Đức Giám Mục dịp Đại Hội linh mục VN toàn quốc Hoa Kỳ
Lm. Thái Quốc Bảo
03:24 28/10/2024
Bài Giảng của Đức Cha Phương
Bài Giảng của Đức Cha Hiếu
Bài Giảng của Đức Cha Nhàn
Bài Giảng của Đức Cha Hiếu
Bài Giảng của Đức Cha Nhàn
Tài Liệu - Sưu Khảo
Có phải Hoa Thịnh Đốn đã đưa Ông Diệm về làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam
Lm Trần Văn Kiệm
02:38 28/10/2024
CÓ PHẢI HOA THỊNH ĐỐN ĐÃ ĐƯA ÔNG DIỆM VỀ LÀM TỔNG THỐNG ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA VIỆT NAM?
Không chuyên khoa sử, không giữ bất cứ một chức vụ nào suốt thời đại Việt Nam cộng hoà đệ nhất và đệ nhị, tôi không có tham vọng viết tài liệu để ghi vào Việt Nam quốc sử. Nhưng tôi phải cầm bút, vì tôi từng có dịp sống thân mật bên cạnh Tổng thống Ngô đình Diệm từ năm 1951 cho đến khi ông chết thảm vào năm 1963. Ông Ngô là một nhà ái quốc, tận tuỵ vì dân nước, mà bình sinh gặp rất nhiều hạng người thuộc hắc đạo đã không biết nhận xét chân tướng của ông, và công trình xây dựng của ông, lại còn vu khống cho ông đủ mọi thứ tội ác, sau cùng đã giết ông một cách dã man, sau khi ông vô tội mà đành giơ tay đầu hàng để tránh cho dân Việt nhất là quân đội dưới quyền ông khỏi cảnh chém giết lẫn nhau. Chết rồi người ta vẫn không để ông an nghỉ. Tại Việt Nam họ đào mồ ông lên đem hài cốt từ Nghĩa địa Mạc đĩnh Chi lên tận Lái thiêu. Tại hải ngoại cũng như ở quốc nội, các nhà văn ít người phán đoán công bình, kết cục là thư viện khắp nơi trên thế giới chứa đầy ắp những tài liệu hoàn toàn bất lợi cho ông.
Từ trước tới nay, tôi im hơi lặng tiếng vì biết mình tài mọn, đành phải chờ đợi một ngày trời xanh mây tạnh, những người cao kiến hơn tôi, nhiều kinh nghiệm hơn tôi, vị trí trong xã hội và trong làng văn cao cả hơn tôi…, sẽ ra tay bênh vực ông Ngô đình Diệm…Nhưng tiếc thay cho tới bây giờ chỉ thấy mấy tờ báo chí ở hải ngoại (trong số có tờ Văn nghệ tiền phong), và một nhóm khá nhỏ nhà chính trị, nhà văn, nhà giáo (trong đó có các ông Lâm lễ Trinh, Nguyễn văn Chức, Hoàng hải Thuỷ và Tôn thất Thiện) dám hiên ngang đứng lên mà nói thẳng ra sự thực: ông Ngô đình Diệm, tổng thống đệ nhất Việt Nam cộng hoà là một con người thành tâm yêu nước, tội ít mà công nhiều.
Núp sau trào lưu này, tôi bụng bảo dạ: Hay là chính mình cũng sẽ viết một cuốn hồi kí ghi lại những giai thoại mình biết về ông Ngô đình Diệm trải qua 12 năm kể từ năm 1951 cho tới năm 1963? Sách có thể đề là: “Tôi thương nhớ một ông bạn vong niên: Tổng thống Ngô đình Diệm”. Ở phần thứ hai hồi kí, tôi dự tính sẽ ghi lại những lưu niệm của một quan sát viên ở hậu trường, với tư cách là bằng hữu vong niên, khách quan theo rõi các hoạt động của Tổng thống Diệm sau năm 1954. Trong phần này tôi có thể đưa ra nhiều chi tiết về sự thành công của chương trình dinh điền (Hố nai, Cái Sắn, Dốc Mơ); chương trình ấp chiến lược; các mối giao liên Cộng hoà Việt Nam với quốc tế; những cạm bẫy Cộng sản mượn diện tôn giáo mà buông kín xuống đầu ông Diệm qua Thượng toạ Thích trí Quang…Đặc biệt là cuộc hội kiến ngày 15 tháng 8 1963, có mặt Đúc Cha Ngô đình Thục và một chức sắc cao cấp Hoà Hảo mà tôi không nhớ tên (thiếu ông Nhu). Hôm đó chúng tôi thảo luận về chính sách Hoa Kỳ và Vatican, lại nói về những âm mưu đen tối của Đại sứ Cabot Lodge…Nhưng thiết tưởng mấy chuyện đó hoặc là dễ nhận xét, ai ai cũng thấy được; hoặc là đượm nặng mùi chính trị đảng phái, một linh mục như tôi cần tránh xa. Kết cục tôi quyết định chỉ viết ra phần thứ nhất: kể sơ qua mấy hoạt động của Chí sĩ Ngô đình Diệm vào giai đoạn hơn hai năm ông lưu vong ở Hoa Kỳ với hi vọng sẽ không chạm nọc ai, mà trái lại có thể trả lời câu hỏi: Có phải Mỹ đã đem Ông Ngô đình Diệm về Việt Nam thiết lập đệ nhất Cộng hoà hay không?
1 – Hai quỹ đạo (một ngôi sao sáng và một cục thiên thạch) gặp nhau
Danh tính ông Ngô đình Diệm vang lừng khắp sơn hà năm 1937, khi ông giũ bỏ áo mũ, từ chức Thượng thư Lại bộ vì bất mãn với chính phủ Bảo hộ nặng tay áp chế Nam triều. Tuy còn nhỏ tuổi (T.t. Diệm ra đời năm 1901, tôi năm 1920; niên canh hơn kém nhau gần hai con giáp theo tiểu chu Kỳ – xem Giáp ở cuốn Từ điển Văn học Việt Nam TvKiệm sắp xuất bản) tôi cũng tò mò tìm hiểu thêm. Câu phong dao bình dân trên cửa miệng trẻ con xứ Huế lúc ấy đã vang xa tới tận Ninh bình, Thanh hoá nơi tôi sống lúc bấy giờ: “Phế vua không Khả, đào mả không Bài”; Ông Khả là ai vậy? Ông Bài là ai vậy? Dần dần tôi mới hay: lưỡng vị là hai bậc lương đống của Nam triều dưới triều vua Thành thái, cả hai theo Thiên Chúa giáo, và ông Nguyễn hữu Bài đã cực lực phản kháng mấy người Pháp manh tâm xúc phạm tới lăng mộ các vua Nguyễn để tìm vàng; và Ngô đình Khả đã dám lên tiếng bênh vực mấy vua nhà Nguyễn muốn đòi tự do. Té ra người theo Thiên Chúa giáo cũng giàu lòng yêu nước như ai, và cụ Khả là phụ thân ông Diệm!
Lớn lên, vào các năm 1945-1946, lúc đó tôi đang là sinh viện đã học hết các lớp thần học tại Thượng Kiệm, gần Phát Diệm, và sắp sửa làm linh mục, thì bất ngờ tôi có dịp giáp mặt Ông Bà Trần văn Chương và Ông Bà Ngô đình Nhu (bà Nhu là lệnh ái ông bà Chương). Cả hai gia đình từ đâu được Đức Giám Mục Lê hữu Từ mời về “khu an toàn Phát Diệm”, tức là một phần huyện Kim Sơn với Phát diệm là trung tâm. (Vào giai đoạn này Đức Cha Từ tuyên bố trung lập, không theo Pháp, không cần Việt Minh). Hai bà Chương và Nhu tá túc tại nhà dòng Mến Thánh giá ở Lưu phương, còn hai ông Chương và Nhu thì sống với chúng tôi ở trường Thần học Thượng kiệm. Cho tới nay trí nhớ của tôi còn ghi rõ hình ảnh ông Nhu, ăn vận như tất cả các sinh viên khác trong trường, một mình đứng trầm ngâm dưới bóng một cây nhãn, mắt coi cá bơi lượn dưới mương: cá lặng lẽ, người lặng lẽ…
Năm 1950, tôi là linh mục hiệu trưởng sáng lập trường Trung học Trần Lục tại Phát diệm. Qua trung gian một linh mục Bỉ (cố Jacques Houssa), tôi được Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, tổng Giám mục giáo phận Nữu ước, đồng thời là Tổng Tuyên uý toàn thể quân đội Hoa Kỳ, cấp cho một học bổng tại trường Iona College, New Rochelle, N.Y. Tôi vội vã học tiếng Anh, căn cứ vào cuốn Anglais sans peine, Vì đã biết sẵn La-tinh và Pháp ngữ, chỉ trong vòng mấy tháng tôi đã đọc trơn tru sách báo Anh Mỹ. Nhưng than ôi, không có radio, không có máy ghi âm, thì làm thế nào nói và nghe nổi một ngoại ngữ?
Tìm hộ chiếu còn khó khăn hơn. Vào giai đoạn này, bốn năm trước Điện biên phủ, người Pháp đã bắt đầu muốn trao thêm quyền hành chính cho công chức người Việt. Khi tôi cần hộ chiếu lại đúng là lúc giao thời: các văn phòng ở Hà nội vắng hoe. Sốt ruột, tôi bay vào Sài gòn lại thấy một tình trạng tượng tự. May sao bay trở ra Hà nội, thì vào đúng lúc người Pháp trao quyền cấp chiếu khán cho ông Nguyễn văn Hướng, phụ thân tướng Hiếu sau này sẽ thay tướng Phú để liền sau đó ngộ nạn một cách bí mật (có lẽ vì ông tướng trẻ rắp tâm tiếp tục chiến đấu với Bắc Việt cả sau khi Sài gòn sẽ đầu hàng chăng?). Qua trung gian ông Nguyễn phẩm Phúc, tôi quen thân với ông Hiếu, do đó chưa mất một giờ, tôi đã có đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho một sinh viên xuất ngoại. Ra khỏi văn phòng, tôi gặp ngay Cha Trần ngọc Thụ, từ văn phòng toà Khâm sứ Toà thánh Vatican ở Sài gòn, bước tới và đương lớ ngớ ôm một chồng chiếu khán chưa đóng dấu của một số khá đông linh mục, chủng sinh và tu nữ được học bổng đi Âu châu và Mỹ châu. Tôi liền tiến dẫn và ông Hướng vui vẻ đóng dấu liền. (Sau này linh nục Trần ngọc Thụ sẽ làm bí thơ riêng cho Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao đệ nhị nhiều năm). Xét ra, hôm đó tôi được chứng kiến một biến cố lịch sử: đây là lần đầu tiên người Việt có thể vượt biên giới đàng hoàng, mà không cần “xin phép” người Pháp.
Tháng sáu 1950, tôi lên máy bay Air France (một chiếc Dakota 4 cánh quạt) bay nhiều chặng vắn, qua Bombay, Karachi (bấy giờ còn là đất Ấn), Bahrein, Cairo, Roma, để ngừng hẳn tại Paris. Cuộc hành trình kéo dài hai ngày ba đêm! Tới kinh thành ánh sáng, chân tay tôi rã rời, tưởng chừng như tứ chi đã long ra khỏi khớp, và đầu thì cứ ù ù: rời bỏ phi trường cả giờ, mà vẫn như nghe cánh quạt kêu phành phạch bên tai. Air France chiều khách, cho tôi một buồng khách sạn sạch sẽ nghỉ chơi hai ngày, rồi mới lên đường đi tiếp sang Mỹ.
Ngày nay các hãng máy bay giàu tự tín, không hãng nào rỉ tai cho khách du lịch biết trước hành trình. Nhưng bấy giờ thì khác. Air France cho tôi hay: phi công dự trù vượt Đai tây dương, dọc đường đáp xuống đảo Azores, rồi bay thẳng tới phi trường Idlewild (nay là Kennedy) của Nữu ước. Nhưng vào phút chót, họ đổi ý, và quyết định bay từng chặng vắn hơn: qua Shanon (Ireland ), Gander (New Foundland), Boston, rồi Nữu ước. Như vậy có lẽ tôi là sinh viên Việt Nam đầu tiên làm thủ tục nhập cảnh Hoa Kỳ với chiếu khán Việt Nam tại phi trường Logan tại Boston. Trong lúc đó, chẳng hạn anh Đỗ trọng Chu, một sinh viên Việt tới Mỹ sau tôi không lâu, đã theo lộ trình thông thường hơn là đường thuỷ qua ngả Ellis Island, dưới bóng thần Tư do tại cảng Nữu ước.
Tới Nữu ước, tôi vội vàng xin yết kiến Đức Hồng Y Francis Spellman tại toà Tổng giám mục đường Fifth Avenue, cách văn phòng Air France giăm ba block. Vì nói tiếng Anh mà không ai hiểu, tôi phải dùng một cuốn sổ để ghi bằng chữ viết bất cứ nhu cầu nào, rồi giơ lên cho người ta đọc… Không may cho tôi, gặp ngay một anh tài xế lưu manh biết ngay chàng sinh viên này lần đầu tiên tới Hoa Kỳ: gã bèn nói li lô một hồi như đã hiểu biết, rồi lái xe vòng vòng qua không biết là bao nhiêu đường phố mới tới toà tổng giám mục. Ôi chao, văn phòng giáo phận Nữu ước sao mà rộng lớn làm vậy! Cô thư kí hẹn tôi hôm sau trở lại sẽ được diện kiến vị ân nhân của tôi. Ngài rất ân cần và nói nhiều câu mà tôi chẳng hiểu gì. Đáp lại, tôi nói gì ngài cũng chẳng hiểu nốt, nhưng vẫn thấy ngài gật gật cái đầu, lặp đi lặp lại: một câu nào đó, cố nhiên là không viết ra chữ. Mãi sau này tôi mới biết là ngài yên ủi tôi bằng một câu cửa miệng: “That is right! That is right!”
Tới giáo xứ Đức Hồng Y gửi gắm, tôi làm “phó ba” tức là sau Msgr Francis Shea, trên tôi còn Cha James Wash và John Sullivan. Tất cả là công dân Mỹ gốc Ái nhĩ lan. Các vị hỏi tôi từ đâu mà lại, Tôi đáp: “Từ Shanon, Ireland ”.
Mấy năm đầu tôi phục vụ như một linh mục vào ngày chủ nhật, và một ngày trong tuần; thời giờ còn lại, tôi đi học ráo riết, cả mùa hè cũng không nghỉ. Tối đến chúng tôi xem Tivi, một máy điện thị có ngân mạc (screen, monitor) bề cao chừng hai gang tay, bề ngang chừng hai gang rưỡi, như vậy máy thuộc loại khá lớn. Tôi phàn nàn hình đen trắng không có màu, thì để chiều ý tôi, mấy ông cha lắp một kính lúp khá lớn chụp kín ngân mạc, phần trên bôi màu thiên thanh, khúc giữa màu lục, và phần dưới là mầu nâu.
Tôi vào trường Iona nhận học món Hoá. Khuyết tật chỉ đọc và viết được nhưng không nghe không nói được Anh ngữ đã chẳng gây chướng ngại gì cho tôi theo kịp các bài học, vì khi dạy môn Hoá ông thày thường viết công thức Toán Hoá rõ ràng trên bảng xanh, cho nên dù lớn tuổi hơn đồng liêu cả một con giáp, dù đã chấm dứt đời sinh viên cũng cả chục năm, tôi vẫn theo kịp mọi người. Chỉ cần học thêm vài lớp tiếng Anh, mấy tháng sau tôi tôi đã chấm dứt được giai đoạn vừa câm vừa điếc.
Sang năm 1951, tôi nhận được điện tín từ Âu châu báo tin có Đức Cha Ngô đình Thục với bào đệ là Ông Ngô đình Diệm đến sân bay Idlewild, cần tôi ra đón. Tôi vội vàng tune up chiếc xe Plymouth, đã cũ mà còn sạch sẽ của tôi, rồi vận bộ đẹp nhất vào người… Bộ này tôi đã mua trước đó ít lâu để thay thế cho bộ complet may tại Hà nội, mặc vào mà thấy mình chẳng giống ai ở Hoa Kỳ. Bữa đó, tôi vẫn chưa trút bỏ được dáng dấp anh chàng nhà quê lên tỉnh, mặc dầu trên đầu đội mũ dạ đen, trước ngực mang cổ cồn trắng, và nếp quần cứng như dao cạo. Nên nhớ rằng: hồi đó kĩ nghệ dệt chưa sản xuất các thứ sợi nhân tạo, có thể ủi bằng bàn là nóng làm ra những nếp rất bền. Áo vét tông không kể, quần chúng tôi bấy giờ thường may bằng vải len màu đen, cứ một hoặc hai tuần phải đem tới Chinese laundry giặt khan rồi ép bằng máy hấp. Mặc dầu sức ép của máy khá lớn, nhưng nếp quần thường chỉ cầm cự được một hai tuần là cùng, rồi phải mang đi ép nếp lại…Tại sao cầu Kỳ đến thế? Vì giáo sĩ thời đó ra đường không được hút thuốc, không được uống rượu, áo quần phải tề chỉnh hết sức: mũ “phớt” đen đội vào mùa đông, loại Panama trắng đội vào mùa hè. Noblesse oblige mà! Vào thập niên 1950, được đặc biệt kính trọng là “1/ Công chức, trên hết là Tổng thống Henry Truman, 2/ Giáo sĩ; 3/ Cảnh sát và thợ chữa lửa. Trẻ con đứa nào cũng mơ lớn lên sẽ làm cảnh sát hoặc thợ chữa lửa!…Ôi thời bốn phương thanh bình, dân tình đôn hậu nay còn đâu.
Trở lại chuyện mua bộ complet mới. Bữa đó tôi gạt ra một bên hãng Bond (bình dân quá!), mà lượn đi lượn lại dọc Fifth Avenus, Manhattan mấy vòng, rồi đầu thẳng ngực ưỡn, trịnh trọng bước vào hãng Roger Pitts. Cho là khách xộp (thử hỏi: khách bước vào Roger Pitts ai mà không phải là khách xộp?). nhân viên hãng xúm xít ra đón; mời thử hết bộ này sang bộ khác. Kết cục họ giới thiệu một bộ hai hàng cúc, vải len mịn, với giá cắt cổ. Gã thanh niên Việt Nam nào có biết gì, nghe họ nói hàng bán theo giá đặc biệt dành cho giáo sĩ, nhất là người ngoại quốc (?), bèn vui vẻ móc tiền ra trả. Về nhà mấy ông linh mục bạn nghe kể ai cũng lăn ra cười ra nước mắt, thương thay kẻ ngây thơ bị cá mập làm thịt. Ở lâu hơn, tôi mới nhận ra áo hai hàng cúc chỉ thích hợp với người to con, và hàng may sẵn không bao là toàn Mỹ, nhất là loại may theo kích thước người da trắng da đen thì làm sao làm nổi bật được các nét đầy dương tính trên thân thể một hán tử da vàng?
Phải, bữa đó tôi phập phòng ra đón ông Diệm, với ý thức: Đức Cha Thục từng là bạn đồng song với Đức Hồng Y Mỹ tại Roma ngày nào, thì chắc chắn ông Diệm sẽ được Đức Hồng Y ân cần đón tiếp. Mà quả như thế. Hơn nữa vì tôi và ông Diệm cùng chung một người bảo trợ là Đức Hồng Y, cho nên hai chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội sống bên nhau. Một lần nữa, tôi đoán trúng: Tuy nơi ông Diệm lưu trú là nhà dòng các linh mục Maryknoll gồm hai cơ sở: một ở Ossining N.Y. (thuộc tiểu bang Nữu ước), một ở Lakewood N.J. (thuộc tiểu bang New Jersey), nhưng mỗi lần ông tới Manhattan tiếp chính khách tại khách sạn, thì ông thường cậy tôi đưa đón. Có khi tôi còn tình nguyện bỏ tiền riêng thuê khách sạn, vì biết ông cụ rất thanh bạch. Dần dần không có vườn đào để đọc lời thề kết nghĩa, mà hai “Việt kiều” niên canh cách nhau hai con giáp, đã trở nên bằng hữu vong niên chí thiết. Bỏ Hoa trung vượt Trường thành mà chợt gặp được người đồng hương thì bất diệc lạc hồ? Tới đây tôi hồi tưởng tới anh Nguyễn xuân Điền, con ông Nguyễn phẩm Phúc. Tôi quen biết gia đình này từ 1948; năm mà họ kéo nhau từ khu tư (Thanh hoá) ra Phát diệm (Ninh bình: khu ba), nhằm lúc tôi mới thành lập trường trung học Trần Lục. Do đó tôi tìm dịp tiến cử Anh Điền. Bữa đó, tôi thuê cho ông cụ một phòng cao ráo tại khách sạn Tudor, lại thuê cho Điền một phòng bên cạnh. Một nhân vật lịch sử giáp mặt một thanh niên mới lớn. Hai bên đàm đạo một hồi. Sau đó tôi hỏi Điền nghĩ sao về ông Cụ thì Điền trả lời ngay: không ngờ một nhân vật lẫy lừng từ lâu, mà còn trẻ như vậy, nhưng dáng đi chữ bát, lại đoản tướng thì làm sao có thể hấp dẫn anh, làm sao có thể làm lãnh đạo nhân dân cả nước? Cảm giác đầu tiên là như thế nhưng về sau Điền đã nhiều năm làm việc ở toà đại sứ Việt nam tại Washington, dưới quyền đại sứ Trần văn Chương.
2- Nhiều người muốn biết: hơn hai năm sống chung với các linh mục Maryknoll, ông Diệm đã làm những gì? Không đi học, không đi tu thì ông làm gì?
Mục tiêu số một ông nhằm là tìm nhân tài trong số các sinh viên du học tại Mỹ và Canada: Huỳnh văn Lang, Đỗ vạng Lí, Bùi công Văn nhân viên Voice of America, Bùi kiến Thành, Nguyễn Thái, Nguyễn ngọc Linh, bác sĩ Thơ với chị Minh, và Nguyễn đình Hoà vân vân….Riêng Nguyễn đình Hoà có phụ thân quen biết ông Diệm. Khi Nguyễn đinh Hoà làm đám cưới, ông Cụ đòi tôi đưa đi mua quà tặng đôi tân hôn.
Mục tiêu số hai là ông nghiên cứu tại chỗ chính thể và chính trường Hoa Kỳ. Trong số các chính khách Mỹ ông gặp gỡ nhiều lần, có các ông Senator Manfield, Justice Douglas, và…J.F. Kennedy lúc ấy mới bước chân vào thượng nghị viện. Có lần ông Cụ dặn tôi phải thuê phòng khá sang, để cụ gặp gỡ Thủ tướng Pháp.
Về phía chính khách Việt Nam, ông Diệm nhiều lần tiếp hai giáo sư Bửu Hội, và Nguyễn văn Thoại. Nhà hoá học lừng danh Bửu Hội thì tôi quen tên rồi, vì nhiều lần đã đọc các bài ông nghiên cứu về Hoá, nhưng Nguyễn văn Thoại? Được hỏi thì Cụ trả lời: “Ông Thoại là một giáo sư ở Collège de France”. Tôi ngạc nhiên: “Chà! chắc ổng phải xuất sắc lắm, thế mà tại sao tôi chưa từng nghe đến tên.”
Một bữa nọ có Cha Cao văn Luận tới ra mắt. Trong cuốn hồi kí: “Bên giòng lịch sử” linh mục viết về sau này, Cha tường thuật khá dài những lần mình gặp vua Bảo đại, Chủ tịch Hồ chí Minh, và ông Ngô đình Diệm. …Viết về cuộc hội kiến giữa ngài và ông Ngô lần ấy, Cha có biên vài dòng về Linh mục Trần văn Kiệm người địa phương đã dẫn cha tham quan Nữu ước. Thú thật tôi cũng có dịp gặp vua Bảo đại về thăm Đức Cha Lê hữ Từ, và dự lễ Mi-sa tại nhà thờ Phát diệm. Nhưng hối ấy tôi chỉ là thành viện ca đoàn trường thần học Thượng kiệm, nhìn lên chỉ thấy nhà vua ngự xa xa trong khuôn viên đặc biệt gần bàn thờ. Khi cử hành thánh lễ, chúng tôi đã hát những bài plain chant du dương, và nhạc đa âm (4 dòng nhạc đuổi nhau) của Palestrina, Victoria… Không phải là tự kiêu, nhưng dám khoe rằng chúng tôi hát rất hay, và lễ tất đã được chính hoàng thượng ban khen. Tôi cũng có dịp gặp Chủ tịch Hồ chí Minh khi ông về Phát diệm, tôn vinh giám mục Lê hữu Từ làm cố vấn chính phủ. Cả tại công đường Đức Giám Mục (nhà chung Phát diệm), cả tại nhà hội quán Đức Cha Tòng, tôi đứng cách ông Hồ không quá bốn năm bước; tôi được nghe ổng tươi cười nói với dân Phát Diệm: “Khi nhà xây còn dang dở, người ta thường bỏ mặc gạch vữa nằm ngổn ngang, nhưng nhà xây xong rồi người ta sẽ dọn dẹp đâu vào đấy!!!” Nghe câu sau cùng, tôi nổi gai ốc khắp mình, từ đỉnh đầu xuống tới gan bàn chân.
Lúc này (năm 1947) tôi là một linh mục trẻ phụ trách xứ Hướng đạo. Trên đường tìm về Phát diệm, ông Hồ đi qua Hướng đạo trong một chiếc xe Peugeot. Xe đương chạy chầm chập ngang nhà thờ Hướng đạo, chợt có một em bé trai băng qua đường bị xe đụng nhẹ. Ông Hồ vội truyền cho tài xế dừng lại, bước ra đỡ thằng bé đứng lên. Ông lấy tay phủi áo nạn nhân, miệng hỏi: “Em có đau không?” Trời ơi, nhân vật vô thần này mà quét dọn giang sơn, thì đạo Thiên Chúa cùng với các tôn giáo khác sẽ khốn đốn to, tôi thầm nghĩ như vậy. Sau này tại Nữu ước khi đã hiểu biết ông cụ nhiều rồi, có lần tôi dám đem ông Ngô đình Diệm, so sánh với ông Hồ chí Minh. Tôi than thở: “Ước chi Cụ có tài biểu lộ lòng thương dân (hay là mị dân?) như ông Hồ khi ổng đi qua nhà thờ Hướng đạo của tôi! Ước chi Cụ biết tươi cười như ông Hồ khi ổng diễn thuyết ở nhà Hội quán Đức Cha Tòng tại Phát diệm!” Tương lai đã chứng minh: tôi khiếp sợ ông Hồ và đảng Cộng sản, lại lo ngại cho ông Diệm là rất đúng. Nhưng khi giáp kiến với giám mục Lê hữu Từ năm ấy, ông Hồ đã thân mật tuyên bố, “Sau này nếu tôi muốn cải đạo, tôi sẽ xin Đức Giám Mục Cố vấn rửa tội cho tôi.” Tài giả hình tới mức này, thì nhất định tôi không mong ông Ngô theo kịp ông Hồ!
Xem đó, càng ngày tôi càng bạo dạn, cả những tư tưởng giấu kín trong đầu tôi cũng đem ra ra thảo luận với ông Diệm. Phần ông, ông cũng làm như thế đối với người bạn vong niên là tôi. Thuộc giáo xứ Blessed Sacrament ở New Rochelle, nơi tôi trụ trì, có một tín đồ Thiên Chúa giáo người Trung hoa. Tôi đem người này giới thiệu với ông Diệm. Biết thân thế ông Diệm rồi, sau đó không lâu, người bạn Trung hoa của tôi đã gửi thư mời hai chúng tôi tới ăn cơm Tầu tại nhà. Thư viết bằng Hán tự, hẹn chủ sẽ đón khách vào cuối tuần, trúng “đệ lục nhật”. Mức hiểu biết Hán tự của tôi lúc đó còn hạn hẹp. Đọc thư, tôi ngạc nhiên: “Ủa, sao người Công Giáo lại mời khách Công Giáo tới nhà ăn trúng vào ngày thứ sáu phải kiêng thịt?” Ông Diệm không ngại nói cho tôi hay: “Đệ lục nhật của Trung hoa là ngày thứ bảy của ta”.
Ông còn thân mật hơn đối với tôi trong giai thoại sau. Cả khi có ông Cụ hiện diện, mỗi lần nghe người ta hỏi nguyên quán, tôi thường trả lời mình là người Phát diệm. Bữa đó, ông Cụ nhè nhẹ thích khuỷu tay vào hông tôi mà trả lời thay: “Cha Kiệm là người Phát diễm đó”. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ: ông Cụ dặn tôi tránh tên húy vì theo phép giao tế Việt Nam nên tránh gọi tên cúng cơm người có mặt. Không may cho tôi, vì quá Tây phương hoá, tôi sửa luôn “Diễm” thành Diệm” trước mặt mọi người, mà không nhớ rằng Hán tự một chữ có cả hai âm là Diệm và Diễm.
Ngày xưa một nhóm thợ nề xây nhà thờ cho một họ đạo, có linh mục nhiệm sở mang quý danh là Hồ. Suốt thời gian xây cất, người ta đã tránh tên “Hồ” mà khi cần bắt mạch gạch đá, ai ai cũng gọi :”Cháo đây”.
Vì muốn ông Diệm thay đổi bầu khí cuối tuần, một hôm tôi mời ông lại thăm tôi. Vốn sống chung một nhà với các linh mục Mỹ, thiếu tiện nghi tiếp khách, tôi chợt nảy ra ý kiến. “Hay là mình mượn các tu nữ ở College of New Rochelle giúp?” Số là không xa nhà các linh mục, có một trường cao học chuyên dạy các cô chiêu con gái nhà giầu, phòng ốc rất đẹp, do các tu nữ dòng Ursuline điều khiển. Nhóm nữ lưu này có học lực rất cao, lại giàu lòng từ bi bác ái: mong họ sẽ giúp tôi, một linh mục sở tại. Đồng thời, tôi lại e dè không muốn cho họ biết ông Diệm là ai, vì sợ mang tiếng linh mục mà làm chính trị. Như vậy chưa chắc họ sẽ chấp nhận lời tôi yêu cầu mà thay tôi tiếp khách? Ai ngờ: chỉ vì nể lời một linh mục bản sở, họ đã không ngần ngại dành riêng cho khách một căn phòng rộng rãi trong khuôn viên ngôi trường của họ, mời khách ăn ngủ suốt hai ngày thứ bảy và chủ nhật. Bữa cơm chỉ có hai chúng tôi ngồi ăn, trước mắt ân cần một vị giáo sư đại học vô danh, người da trắng, hồng hào trong bộ trang phục tu nữ. Nàng tận tình bưng cơm rót nước phục thị hai người Việt chúng tôi suốt hai ngày. Hỏi về đêm ngủ có ngon không, ông Diệm trả lời,: “Bầu khí rất thanh tĩnh, giường ngủ rất êm ái thơm tho, nhưng họ cần gì mà phải thay chăn đệm mỗi tối, và khăn lau trong buồng tắm một ngày ba lần?” Ôi! Tinh thần tu nữ dòng Ursula vào thập niên 1950 sao mà cao vời vợi làm vậy!
Trở về cuộc cụ Hồ tới thăm Đức Giám Mục Lê hữu Từ. Cũng hôm đó, ông Hồ sau khi tham quan khuôn viên thánh đường đã tản bộ ra tận bờ hồ. Đi ngang qua nhà ông giáo Huệ (trước kia là nhà ông phó Bá phụ thân ông giáo Huệ, và trong một thời gian từ 1885 đến 1890, cũng là nơi Cụ đồ Giản, theo lời mời của Cha Trần Lục, đã mở trường dạy Hán tự). (Xem tiến sĩ Nguyễn tư Giản trong cuốn Tự điển văn học L.m. Trần văn Kiệm sắp phát hành), ông Hồ buông ra một câu cho tới nay tôi vẫn cho là khó hiểu: “Cảnh vật y như xưa không có gì là khác” (???)
Có lần chính khách Mỹ phàn nàn với tôi: linh mục đề cao tư cách lãnh đạo của ông Diệm, và cả Đức Cha Thục cũng làm như thế, nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì Đức Cha Thục là anh đề cao em thì có chi là lạ. Ông Diệm bèn mời Đức Cha Nguyễn ngọc Chi quá bộ sang Hoa Kỳ, thấy Đức Cha Chi gặp khó khăn khi phát biểu ý kiến bằng Anh ngữ, ổng mời thêm Đức Cha Hoàng văn Đoàn sang Hoa Kỳ. Đức Cha họ Hoàng to con, lại có một bộ râu quai nón vĩ đại. Hơn nữa ngài lại là một học giả bằng cấp cùng mình. Ngài nói thông thạo Anh ngữ, lại biết đọc Thánh Kinh bằng tiếng Hi bá lai, cổ ngữ Do thái. Một hôm, ngài cùng chúng tôi đi xe điện ngầm tại Manhattan Nữu ước…Rất ít linh mục, phương chi là giám mục đi xe điện ngầm, cho nên vừa thấy đoàn chúng tôi ba người (gồm cả Cụ Ngô) bước lên xe, ai cũng ngạc nhiên. Làm thế nào mà một ông có bộ râu Quan Công, mặc áo overcoat khi trời chưa lạnh lắm, dáng dấp y hệt một đạo sư (Rabbi) Do thái, lại đi bên hai người Á đông, một người mang y phục linh mục La mã? Nữu ước có rất đông công dân Mỹ gốc Do thái, và cố nhiện họ ngồi đầy toa xe điện: ai ai cũng ngạc nhiên vô cùng. Tới khi ông “rabbi” rút sách Hi bá lai ra đọc, thì thiên hạ không còn hồ nghi gì nữa. Họ ùa nhau tới hỏi ngài bằng tiếng yiddish xem có đúng ngài là một ông rabbi không? Lúc này Đức Cha Đoàn mới mở áo ngoài cho họ xem cây thập giá đeo trước ngực mà xác định mình là Giám mục Thiên Chúa giáo, thông thạo cổ ngữ Hi bá lai mà không biết tiếng yiddish. Ai ai cũng bò cười, đàn ông đàn bà xúm lại ôm hôn ông Quan công có bộ râu như các tín đồ Do thái chính thống.
Trước khi trở về nước, Đức Cha Đoàn, vốn thuộc hội dòng Đa minh (Dominicans) có nhờ cha Fahey trụ trì tại một tu viện Đa minh ở Nữu ước thu lượm “tiền xin lễ” từ giáo dân Hoa Kỳ, rồi gửi vể Bắc ninh cho ngài. Cha Fahey gọi tôi tham gia, và công việc đương tiến triển tốt đẹp được ít lâu thì một buổi tối khuya, đồng đồ đã điểm 11 giờ, Cha Fahey gọi điện báo tin động trời: Toà thánh Vatican được toà Khâm mạng tại Việt Nam báo tin: Đức Cha Đoàn nghiêng theo Cộng sản!! Phải lập tức chấm dứt cuộc lạc quyên bảo trợ Giám mục Đoàn ngay”. Hai chúng tôi tin rằng Đức Cha bị vu oan, nhưng chỉ biết ôm đầu khóc thầm. Về sau chúng tôi biết thêm: Đức Cha Đoàn bị biếm sang nhà dòng Đa minh tại Hương cảng. Nhưng mối oan khuất của ngài từ từ hiện ra càng ngày càng rõ, vì chính ngài trước khi rời Việt Nam, đã bị Cộng sản đả thương, và như vậy tất cả nội vụ đều do đảng Cộng sản dàn dựng.
Thời gian trôi qua lặng lẽ. Vì tiếp tục học tập luôn cả mùa hè, và bỏ ra khá nhiều giờ hì hục tại phòng Lab lại được trường tặng luôn cho một số credit vì mảnh bằng Baccalauréat Pháp do đại học Hà nội cấp hai năm 1940 và1941, tôi lãnh bằng BS Hoá rất sớm, để sau đó theo học khoa Lí tại trường Fordham, thụ nghiệp với Dr Hess, vị giáo sư gốc Đức từng dựt giải Nobel vì đã có công khán phá ra tia vũ trụ (cosmic ray). Đồng thời cuối tuần tôi vẫn liên lạc với ông Diệm. Thấy ông có phần sốt ruột trước tình trạng chính trị trì trệ, tôi mách cho cụ nên có một hobby. Tôi vốn say mê chụp hình ngay từ khi mới sang Hoa Kỳ, nào là Rolleyflex, nào là Leica, lại cả một chiếc Graphic lớn cỡ. Chụp đen trắng rồi lại chụp mầu, và để rửa ảnh ra giấy, tôi được tự do sử dụng buồng tối ở nhà trường tư thục của giáo xứ. Ảnh màu Kodak tôi phải đưa ra tiệm, nhưng ảnh màu Ansco thì tôi rửa ngay tại nhà. Tới hồi tôi theo học trường Forham, tôi càng mê máy ảnh hơn, vì tại đây trong phòng thí nghiệm khi muốn phân tích thành phần các thể chất, các giáo sư dạy tôi phương pháp dùng điện thế rất cao mà chụp quang phổ (spectrum). Cuối cùng hai chúng tôi ghé vào tiệm Peerless gần nhà ga trung ương ở phố 42, và tôi đã giúp ông cụ lựa chọn một chiếc máy ảnh, lại mua thêm cuốn dạy chụp và rửa hình. Tôi không ngờ khi đem ông Cụ vào nghề chơi thanh lịch này tôi sẽ giúp kẻ xấu bụng bôi lọ thanh danh của Tổng thống Ngô đình Diệm: Sau khi hạ sát ông xong, bọn chúng vào buồng ông lục lọi kiếm tiền. Tiền không nhiều, nhưng họ lượm về một đệp tạp chí dạy cách chụp và chơi hình. Cố nhiên đối tượng máy chụp là phong cảnh và người mẫu. Chúng bèn phao lên là Tổng thống Diệm chơi hình khoả thân. Báo Photography đâu có thuộc loại Playboy?
Vào giai đoạn này, thấy ông Diệm có thì giờ đàm đạo vu vơ với tôi, nhiều lần tôi hỏi cụ có ý kiến gì về Chủ tịch Hố chí Minh? Cái ngày Ông Bà Chương và ông bà Nhu tìm về Phát diệm, tôi thắc mắc không biết ông Ngô đình Diệm không về theo gia đình, thì lưu lạc đi phương nào? Nhiều người xì xào: nể lời Đức Cha Lê hữu Từ cố vấn chính phủ, ông Hồ đã mở cửa cho các ông bà Chương Nhu tìm về Phát diệm, nhưng vẫn giữ ông Diệm ở lại Hà nội. Tôi muốn biết mối giao tế giữa hai người tốt xấu như ra sao? Nhưng không môt lần nào, ông Diệm bình luận với tôi hay bất cứ ai về ông Hồ.
Về sau khá lâu, tôi nghe một nguồn tin nói rằng: Khi bị Hoa Kỳ dồn ép tới đường cùng, ông Diệm có nhờ giáo sư Bửu Hội làm trung gian mở một vài cuộc hoà đàm bí mật với đại diện ông Hồ tại Tánh Linh, khiến cho một số chính khách Mỹ đã dựa vào đó mà gỡ tội cho ông Cabot Lodge, đại sứ Tổng Thống J.F.Kennedy…Nói tới Tánh Linh, tôi liên tưởng tới Đức Bà Tapao, pho tượng Đức Ma-ri-a chắp tay cầu nguyện cho nước Việt Nam, một công trình tôi đã nghe lệnh ông Diệm mà đặt nghệ sĩ Hải tại Phú nhuận đắp tượng bằng xi măng, lại chỉ huy công trình lập tượng đài trên ngọn đồi giữa rừng xanh, chỉ cách Tánh linh có dăm bảy cây số. Tượng đã hiển linh, và đã trở thành một địa điểm hành hương.
3- Vua Bảo đại mời ông Diệm về nước chấp chính lần thứ nhất
Mùa hè năm 1953, trung tuần tháng 6, ông Diệm gọi tôi mà nói: “ Hoàng đế Bảo đại mời tôi trở về nước chấp chính”. Tôi dựt mình. Theo tôi nhận xét thực trạng, thì các chính khách Mỹ rất lơ là; không ai chú ý gì tới Việt Nam cả. Nhiều người vẫn chưa biết ông Hồ chí Minh là ai. Thậm chí có người (đã học qua trung học) tò mò hỏi tôi: “Thưa Cha, tọc mạch thế này là không phải, nhưng con không nhớ Việt Nam đứng chỗ nào trên bản đồ, và không biết phụ nữ Việt Nam còn đi lại khoả thân, hay là họ đã biết mặc quần áo?!”
Mãi tới gần một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ lớn ngày 13 tháng 3 năm 1954 (sẽ thất thủ ngày 26 tháng 6) và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng Y Francis Spellman kêu gọi, ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống Eisenhower mới lên tiếng cảnh giác, khi ông xướng lên thuyết Domino: “Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công Cộng sản quốc tế với Liên Xô và Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông Nam Á sẽ khó mà đứng vững được”. Đó là tình hình cả một năm sau mới xảy ra. Thật vậy, vào giữa năm 1953, khắp lãnh thổ Hoa Kỳ và nhất là trong Bạch Cung, gồm cả Tổng thống Eisenhower mới lên cầm quyền đầu năm 1953, không ai lưu ý tới Việt Nam cả. Tại sao hoàng đế Bảo đại kêu gọi chí sĩ Diệm sớm sủa như thế này? Được hỏi Cụ trả lời rất dứt khoát: “ Được Mỹ bật đèn xanh, không phản đối việc tôi quy cố hương là đủ. Chắc rằng về nước nhà rồi, tôi sẽ còn cần họ tiếp sức mới hãn ngữ được đường tiến của Mạc tư khoa, Bắc kinh và Hà nội. Như vậy là bõ công tôi sống hơn hai năm ở Hoa Kỳ. Việc tôi trở về sẽ không do Hoa thịnh đốn quyết định, nhưng sẽ tuỳ thuộc công cuộc Hoàng đế Bảo đại dàn xếp với Champ Élizée có hanh thông hay chăng.” Tôi mù tịt không biết Cụ muốn nói gì. Với giọng thương hại, cụ yên ủi: “Sang Âu châu, gặp nhà vua rồi, nhìn thấy tiền đồ sáng tỏ hơn, tôi sẽ từ bên đó đánh điện tín cho Cha theo rõi, để cha thông báo cho các anh em chị em bên này yên lòng”.
Kế đó, ông Diệm rời bỏ nhà dòng Maryknoll. Lakewood, New Jersey về thẳng nhà anh chị Bùi công Văn toạ lạc không xa góc Đông bắc công viên Central Park, ở Manhattan. Một phái đoàn rất nhỏ gồm 5 người là anh chị Bùi công Văn, các anh Đỗ vạng Lí, Bùi kiến Thành và tôi lên hai chiếc xe tháp tùng ông Cụ ra phi trường Idlewild. Đương khi đợi máy bay, Chị Bùi công Vân la lên: “Kỳa! Cụ về nước mà cổ trần không có cà vạt!” Nghe nói anh Bùi kiến Thành (con ông Bùi kiến Tín, một trong số rất ít người hiểu biết ông Diệm không làm ra tiền, cho nên thỉnh thoảng có góp lí tài giúp ông – tôi biết chi tiết này vì chính ông có lần nói nhỏ cho tôi nghe), đã tình nguyện bỏ tiền mua cà vạt cho ông Diệm.
Ngày kế tiếp, tôi được điện tín từ Paris : “Tout va bien” rồi từ đó mất liên lạc…
Khá lâu sau ông cụ mới gửi cho tôi một bức thư kể vắn tắt rằng: công cuộc Hoàng đế Bảo đại điều đình với Pháp không xuôi xẻ, và trước tình thế mới, ông phải rời nhà ông Ngô đình Luyện – chỉ là nơi tạm trú – mà bỏ nước Pháp, tìm sống trong nhà dòng Saint André ở Bruges, nước Bỉ, mà nhẫn nại chờ đợi thêm. Tôi vội tìm tự điển khảo cứu ít nhiều về thành phố Bruges …
Đó là tất cả diễn tiến của đại cuộc “Mỹ đưa ông Diệm về làm Tống thống và thiết lập Công hoà Việt Nam với cờ vàng ba sọc đỏ.” Sự thực Bạch cung không trao cho ông Diệm một công văn gì, không uỷ cho ông Diệm một nhiệm vụ gì, không bố thí cho ông Diệm một đồng Mỹ kim nào. Nhờ có bà Bùi công Văn và anh Bùi kiến Thành ông cụ mới nhận ra bộ cánh của mình còn thiếu cà vạt, rồi thụ động để có người khác đem một chiếc cà vạt mua vội ở phi trường, gắn lên trước ngực cho ông….
Đây mới là lần thứ nhất năm 1953, Hoàng đế Bảo đại vời ông Diệm trở về. Mùa hè năm 1954 nhà vua sẽ kêu gọi ông Diệm trở về lần thứ hai như sẽ thấy sau này.
4- Cuối năm 1954, tôi bỏ Hoa Kỳ trở về Việt Nam phục vụ Tổng thống Diệm với tư cách quan sát viên miễn phí
Năm 1953 dựt được mảnh bằng BS Physics, tôi chuyển sang trường New York University uptown không xa đại học Fordham cũ của tôi là bao, để chiều chiều theo học môn Quantum Physics. Tôi chọn các môn học Kỳ cục này chỉ vì tính tôi thích tìm hiểu. Chứ như tôi đã lớn quá tuổi sinh viên rồi, đã quyết tâm trọn đời phục vụ giáo hội rồi thì cần chi phải khổ công chạy theo thế hệ hậu bối hăm hở tìm mảnh bằng làm phương tiện tiến thân trong xã hội làm gì? Chính vì thế, học qua các lớp dạy ở uptown, và đương khi học tiếp môn Quantum Physics năm thứ hai ở campus downtown, gần vị trí hai ngôi nhà chọc trời Trung tâm mậu dịch, sẽ là mục tiêu cho nhóm Hồi giáo quá khích phá hoại sau này, khi vừa nghe tin ông Ngô đình Diệm được hoàng đế Bảo đại mời về chấp chình lần thứ hai vào giữa năm 1954, tôi quyết định bỏ học theo ông cụ trở về Việt Nam.
Sách nói “đoạn trường thay lúc phân kí”, nhưng cuộc tôi chia tay với Đức Hồng Y Francis Spellman lại khác hẳn. Bữa cơm li biệt được thiết tại tư dinh Đức Hồng Y gần nhà thờ St Patrick, Fifth Ave. Quanh bàn Đức Hồng Y có đại sứ Việt Nam ông Trần văn Chương, và hai đứa con cưng của ngài người Việt là anh Nguyễn đức Quý và tôi, cả hai có may mắn được ngài bảo trợ cũng như ngài đã bảo trợ ông Diệm hồi nào. Cơm nước xong, ngài cho chiếu phim ghi lại cảnh dân Bắc Việt trốn Cộng sản chạy vào Nam theo ông Diệm. Tới khung hình một phụ nữ Việt Nam vận áo tứ thân thắt khăn mỏ quạ, hớt hải một tay bế con thơ, một tay bưng hình Đức Mẹ hằng cứu giúp, ngài đã không cầm được giọt lệ. Chính như tôi lúc này, tức là 40 năm sau ngày từ giã Đức Hồng Y Spellman, lần nào nhớ tới bà mẹ đau khổ, và tấm khăn Đức Hồng Y lấy lau nước mắt, tôi cũng không cầm được giọt lệ.
Hiện nay anh Quý đã hồi tục. Sau khi đỗ bằng Ph D về môn Sinh học anh đương là một nhân viên Kỳ cựu trong Hội chống Ung thư ở New Jersey. Khi ông Diệm đặt chân lên Hoa Kỳ lần đầu, Quý cũng mới tới Nữu ước trước đó không lâu. Tôi đưa hai người gặp nhau ở nhà anh Đức Thanh. Vừa thấy ông Diệm, Quý chạy lại vỗ vai mà hỏi: “Anh mới sang đây hả? Anh theo học trường nào?”
Trước khi ông Diệm đặt chân trở lại Việt Nam, tôi có tiếp được một bức thư ông Nhu gọi tôi về giúp chính phủ. Lá thư này khơi cho kí ức tôi nhớ lại một câu chuyện vui vui xảy ra khi tôi mới nắm được mảnh bằng MS Physics trong tay. Hồi đó, thế chiến thứ hai chấm dứt chưa lâu, cả thế giới nhất là các nước Âu châu, hăng say tái thiết xứ sở. Vì vậy sinh viên tốt nghiệp đại học với bằng Bachelor degree bất luận là môn gì, đều không thiếu cơ hội tìm cho mình một việc làm ngon lành. Cả mấy tuần lễ trước ngày phát bằng, các hãng lớn đều mở văn phòng ngay tại khuôn viên nhà trường để kêu gọi nhân tài. Tôi tốt nghiệp MS tại Forham với ngoại ngữ là tiếng Đức, tên tôi lại mang vần K rất thông dụng tại Đức. Cả ba nguyên tố: khoa học, Đức ngữ và vần K tác hợp với nhau, làm thành một lá thơ của bộ ngoại giao Đức, mời tôi trở về phục vụ cho Vaterland! Cố nhiên tôi phải từ chối cả hai lời mời từ người Đức cũng như từ ông Nhu. Với bào đệ ông Diệm, tôi xác định mình đã làm linh mục thì trọn đời sẽ một lòng giảng đạo không làm chính trị, nhưng cố nhiên tôi sẽ làm thần dân tận tuỵ phục vụ tổ quốc.
Tôi về tới Việt nam, thì ông Diệm đã bình định xong xứ sở và thực hiện xong việc trưng cầu dân ý cho phép ông từ Thủ tướng bước lên làm Tổng thống thay thế vua Bảo đại. Nhìn vào hiện tình Iraq đòi hỏi Hoa Kỳ hi sinh không biết bao nhiêu mạng người, và chi phí không biết bao nhiêu tỉ Mỹ kim, mà việc lớn vẫn chưa hoàn thành, người ta mới nhận ra được tài kinh bang tế thế của ông Diệm siêu việt tới chừng nào. Đúng như câu ngạn ngữ bình dân “Trói voi bỏ rọ” và một câu bình dân hơn nữa: “Tay không bắt chó cái.” Ông đã đơn thương độc mã tái tạo giang sơn miền Nam trong một thời gian Kỷ lục.
Được tin người bạn vong niên trở về, ông nhờ Bác sĩ Tuyến tới trường chủng viện Phát diệm ở Phú nhuận mời tôi vào dinh độc lập. Bác sĩ nói: “Cha sẽ vào lối cửa tiền”. Tôi hỏi “Sao phải vào lối cửa tiền?” Bác sĩ đáp: “Vì ý tổng thống muốn như vậy. Nhân tiện xin hỏi: Cha có xe hơi không.?” Tôi trả lời: “Mình sẽ đi tắc xi”. Bác sĩ nói : “Như thế cũng được”.
Thế là đúng giờ và đúng vị trí đã hẹn, tôi xuống khỏi chiếc tắc xi tí hon – mới ở Mỹ về tôi thấy chiếc tắc xi ở Sài gòn nhỏ bé quá chừng – thì thấy cửa mở cả hai cánh, một số người mặc đồng phục Việt Nam (không phải quân nhân) xếp hàng đứng chào, rồi họ dẫn tôi lên lầu tới một phòng ở đầu cánh trái dinh Độc lập, có Tổng thống Ngô đình Diệm trong bộ quốc phục ngồi đợi. Sau nghi lễ thông thường, hai người uống trà do đám gia thuộc cũng vận khăn áo Việt nam phục thị…Thấy Tổng thống vẫn nhận tôi là bằng hữu vong niên, tôi đánh bạo hỏi Người hai câu đương vương vấn trong đầu:
“Tại sao Tổng thống phải truất phế Hoàng đế Bảo đại?”
Đáp: “ Vì chính nhà vua muốn truất phế tôi, sau khi tôi dẹp yên bọn theo Pháp phá hoại quốc gia, và thành lập xong một chính phủ có đầy đủ sức hoạt động. Té ra nhà vua đã lợi dụng tôi như một con cờ thí nhận việc dọn đường phục bích mà thôi. Trước sau Hoàng thượng vẫn nuôi mộng một ngày sẽ trở lại Huế ngồi lên ngai cũ các vua Nguyễn. Tôi đã hứa khi được hoàng đế mời về chấp chính thì mình sẽ vâng nghe các thánh chỉ sáng suốt của ngài. Nhưng thánh chỉ đòi tôi rút lui vào lúc quốc sự còn ngổn ngang, thì nhất định là thiếu sáng suốt, làm sao tôi có thể phụng mệnh thánh chỉ được?.” Câu hỏi thứ hai: “Tại sao Tổng thống giận Đức Giám Mục Lê hữu Từ?” Đáp: “Tôi đâu dám giận Đức Cha? Chỉ có Đức Cha giận tôi mà thôi. Khi tôi mời ngài tránh nạn vào Nam, ngài đã không chịu. Cha còn nhớ chăng? Cuối năm 1952, tôi có nhờ Cha biên thư cho Ngài mà căn dặn chấm dứt chương trình xây trường Louis Pasteur ở Hà nội, để dùng tiền mua đất xây nhà ở Sài gòn phòng biến. Ngài đã không nghe khiến cho địa phận Phát diệm bây giờ lâm vào cảnh cơ cực ở vũng lầy Phú nhuận. Tới giai đoạn hiệp định Genève, tôi hết sức hô hào dân lành bỏ Bắc vào Nam, thì Ngài lại đòi tôi làm một việc mộng tưỏng đầy máu xương, là giúp Ngài cố thủ tại Phát diệm! Cha ơi! Tôi rất đau khổ vì mất một ông bạn cố tri, từng là ân nhân của tôi và cùng tôi xuất thân từ Quảng tri!” Thú thực, tôi rất mừng thầm khi thấy Đức Cha Từ vào Nam đã né tránh các hoạt động chính trị và quân sự.
Xin lần nữa viết về ông Nhu. Tôi tự hỏi: tại sao có lễ nghi rườm rà tiếp đón tôi vào dinh độc lập như kể trên? Tôi tin rằng đó là sáng kiền riêng của Tổng thống Ngô đình Diệm, và hình như không được ông Nhu tán thành cho lắm, khiến cho từ đó về sau trong nhiều dịp gặp gỡ, ông Nhu nếu không nguội lạnh, thì cũng không bao giờ tỏ ý thịnh tình với tôi. Hồi ông Diệm còn ở Nữu ước, một hôm chúng tôi tản bộ ở gần nhà anh Chị Bùi công Văn – thì anh Bùi công Văn xin chụp hình ông Cụ và tôi, vai sánh vai chung trong một tấm hình. Ông Ngô đình Diệm cho phép ngay, và cách đây chừng 20 năm, tìm đến Virginia thăm ông bà họ Bùi lần sau cùng, tôi còn thấy Album gia đình vẫn giữ tấm hình này, nhưng tấm thứ hai tôi đưa về Sài gòn đầu năm 1955 đã bị ông Nhu sai người tới tận nhà thu hồi để huỷ đi (vì sợ tôi không xứng đánh đứng sánh vai với Tổng thống?) Sự cố xảy ra vào quãng năm 1961.
Có lần tôi hỏi: làm thế nào mà Tổng thống thực hiện công cuộc bình định xuôi xẻ như vậy? Đáp: “ Ngưới Pháp dùng các tay chân còn trung thành với họ, nhất nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn và tướng Hinh, đã tìm hết cách phá hoại quốc gia. Đồng thời Hoa thịnh đốn cứ êm re. Đương lúc bối rối vì quân đội thiếu võ khí thì may thay, Vòng a Sáng phụ trách một kho đạn lớn của Pháp thiết lập ở miền Trung (Cụ nói rõ tên vị trí mà tôi quên mất) tự ý chở tiếp liệu về Sài gòn. Tôi ao ước hiểu biết: Vòng A Sáng là ai? Và lòng trung thành hữu hiệu của nhân vật ấy đã được báo đáp như thế nào? Nhưng thấy Thổng thống muốn chấm dứt cuộc hội đàm, tôi đã không dám hỏi.
Qua ngày 11 tháng 10, Pháp quân rời Việt Nam, và ông Hồ chí Minh lên ngồi ghế Chủ tịch Dân chủ Việt Nam Cộng hoà. Nhưng phải đợi cho tới ngày 24 tháng 10, tổng thống Eisenhower mới gửi một công văn cho Tổng thống Diệm hứa Mỹ sẽ giúp miền Nam, và để chứng minh ông sai tướng J. Lawton Collins làm đại sứ Mỹ ở Sài gòn. Bình phẩm về vụ này, Tổng thống Johnson về sau có lần nhìn nhận rằng: đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ bắt tay với chính phủ Ngô đình Diệm.
Vì thành tâm phục tài ông Diệm, tổng thống Mỹ đã mời Tổng thống đệ nhất Cộng hoà Việt Nam sang Mỹ ngày mùng 8 tháng 5 năm 1957. Nhân dịp này, ông tôn xưng Tổng thống Diệm là Kỳ nhân của Á châu (the Miracle Man of Asia). Và T.t. Eisenhower đã ra tận phi trường Dulles đón ông Diệm, lại tổ chức một cuộc vinh danh quý khách (VIP) tại Manhattan. Ngày vinh danh đó, Tổng thống Việt Nam đứng trên một chiếc xe hơi mui trần, vẫy tay chào công chúng hai bên đường…Đoàn xe từ từ dạo qua các phố chính, đặc biệt là ở công trường Time Square (một khúc của Broadway), thì giấy confetti muôn màu bay xuống không dứt như một trận mưa hoa đào…
Dù vậy mặc lòng, Hoa Kỳ chỉ phái nhân viên chuyên môn sang Việt Nam làm cố vấn, và chi tiêu rất ít cho ông Diệm. Sánh với gần 3 tỉ bạc người Việt từ Mỹ hiện nay gửi về Việt Nam hằng năm thì số tiền Hoa Kỳ phải bỏ ra giúp đệ nhất VN Cộng hoà thực là không đáng kể. Tôi không nắm chắc được con số, nhưng dám quả quyết số tiền Ông Diệm nhận được từ Hoa Kỳ không bao giờ lớn hơn 500 triệu mỗi năm. Thế mà Quốc trưởng đệ nhất Việt Nam cộng hoà được quốc tế kính nể, người dân trong nước được hạnh phúc an ninh, Cái Sắn, Hố nai từ hoang địa đã trở thành làng xóm trù mật. Chùa chiền và nhà thờ mọc lên như nấm…
Tiếc thay sang thời Kỳ đảng Dân Chủ cầm quyền, không ai hiểu được vì lí do gì, Tổng Thống J. F. Kennedy muốn đưa đại quân Mỹ đổ sang Việt Nam.
Tổng thống Ngô đình Diệm can ngăn. Có lần ông nói với tôi: “Hiện nay Việt Nam chỉ cần Hoa Kỳ viện trợ một số phi cơ oanh tạc và đầy đủ máy điện thoại lưu động có tầm gọi xa. Với ngần ấy, các ấp chiến lược sẽ liên lạc được với nhau mà bảo vệ hữu hiệu nền an ninh cho cả nước. Cần gì đại quân Mỹ phải kéo sang đây mà thêm đổ máu cho cả quân Mỹ cả nhân dân Việt từ Bắc vào Nam làm gì? “ Thế rồi vì quý trọng sinh mạng, vì yêu nước, ông quyết liệt từ chối đề nghị của Bạch cung. Ngày mùng 4 tháng chạp dương lịch năm 1960, Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow, đánh điện về Hoa thịnh đốn: “It may be necessary to consider alternatives to Diem”.
Tin lọt tới Hà nội, Bắc kinh và Mạc tư khoa!!! Hoa Kỳ thua trận Việt Nam từ ngày hôm ấy; ông Diệm nhận án tử hình cũng ngày hôm ấy: mùng 4 tháng chạp năm 1960!!!. Tuy nhiên ông còn cố gắng cầm cự thêm ba năm nữa, trong tình trạng càng ngày càng loạn lạc: vụ Phật giáo xuống đường; vụ xô xát giữa đám côn đồ mạo xưng là Phật tử với đám thanh niên Thiên Chúa giáo, vụ treo cờ ở Huế, vụ hoà thượng tự thiêu…Ngày 5 October đại sứ Cabot Lodge (thuộc đảng Cộng hoà, trình uỷ nhiệm thư ngày 21 tháng 8 năm 1963) báo cáo lên Tổng thống J.F. Kennedy (thuộc đảng Dân chủ): “The coup against Diem is imminent”. Tới ngày mùng 2 tháng một (November) 1963, “Kỳ nhân Á châu” đã bị Nguyễn văn Nhung bắn chết thầm lén trong một chiếc thiết giáp xa, sau khi ông đã tự ý đầu hàng. Than ôi! Nghĩ tới Saddam Hussein nhà độc tài Iraq ăn gian tiền Liên hiệp quốc bán dầu cứu đói, lại giết hại biết bao nhiêu công dân của ông, nhưng được tha mạng khi ông đầu hàng, mà ngậm ngùi thay cho Tổng thống Ngô đình Diệm Kỳ nhân bạc mệnh.
Tôi mạn phép dừng bút nơi đây.
Nguồn: www.anviettoancau.net
Tác giả: Lm Trần Văn Kiệm
Không chuyên khoa sử, không giữ bất cứ một chức vụ nào suốt thời đại Việt Nam cộng hoà đệ nhất và đệ nhị, tôi không có tham vọng viết tài liệu để ghi vào Việt Nam quốc sử. Nhưng tôi phải cầm bút, vì tôi từng có dịp sống thân mật bên cạnh Tổng thống Ngô đình Diệm từ năm 1951 cho đến khi ông chết thảm vào năm 1963. Ông Ngô là một nhà ái quốc, tận tuỵ vì dân nước, mà bình sinh gặp rất nhiều hạng người thuộc hắc đạo đã không biết nhận xét chân tướng của ông, và công trình xây dựng của ông, lại còn vu khống cho ông đủ mọi thứ tội ác, sau cùng đã giết ông một cách dã man, sau khi ông vô tội mà đành giơ tay đầu hàng để tránh cho dân Việt nhất là quân đội dưới quyền ông khỏi cảnh chém giết lẫn nhau. Chết rồi người ta vẫn không để ông an nghỉ. Tại Việt Nam họ đào mồ ông lên đem hài cốt từ Nghĩa địa Mạc đĩnh Chi lên tận Lái thiêu. Tại hải ngoại cũng như ở quốc nội, các nhà văn ít người phán đoán công bình, kết cục là thư viện khắp nơi trên thế giới chứa đầy ắp những tài liệu hoàn toàn bất lợi cho ông.
Từ trước tới nay, tôi im hơi lặng tiếng vì biết mình tài mọn, đành phải chờ đợi một ngày trời xanh mây tạnh, những người cao kiến hơn tôi, nhiều kinh nghiệm hơn tôi, vị trí trong xã hội và trong làng văn cao cả hơn tôi…, sẽ ra tay bênh vực ông Ngô đình Diệm…Nhưng tiếc thay cho tới bây giờ chỉ thấy mấy tờ báo chí ở hải ngoại (trong số có tờ Văn nghệ tiền phong), và một nhóm khá nhỏ nhà chính trị, nhà văn, nhà giáo (trong đó có các ông Lâm lễ Trinh, Nguyễn văn Chức, Hoàng hải Thuỷ và Tôn thất Thiện) dám hiên ngang đứng lên mà nói thẳng ra sự thực: ông Ngô đình Diệm, tổng thống đệ nhất Việt Nam cộng hoà là một con người thành tâm yêu nước, tội ít mà công nhiều.
Núp sau trào lưu này, tôi bụng bảo dạ: Hay là chính mình cũng sẽ viết một cuốn hồi kí ghi lại những giai thoại mình biết về ông Ngô đình Diệm trải qua 12 năm kể từ năm 1951 cho tới năm 1963? Sách có thể đề là: “Tôi thương nhớ một ông bạn vong niên: Tổng thống Ngô đình Diệm”. Ở phần thứ hai hồi kí, tôi dự tính sẽ ghi lại những lưu niệm của một quan sát viên ở hậu trường, với tư cách là bằng hữu vong niên, khách quan theo rõi các hoạt động của Tổng thống Diệm sau năm 1954. Trong phần này tôi có thể đưa ra nhiều chi tiết về sự thành công của chương trình dinh điền (Hố nai, Cái Sắn, Dốc Mơ); chương trình ấp chiến lược; các mối giao liên Cộng hoà Việt Nam với quốc tế; những cạm bẫy Cộng sản mượn diện tôn giáo mà buông kín xuống đầu ông Diệm qua Thượng toạ Thích trí Quang…Đặc biệt là cuộc hội kiến ngày 15 tháng 8 1963, có mặt Đúc Cha Ngô đình Thục và một chức sắc cao cấp Hoà Hảo mà tôi không nhớ tên (thiếu ông Nhu). Hôm đó chúng tôi thảo luận về chính sách Hoa Kỳ và Vatican, lại nói về những âm mưu đen tối của Đại sứ Cabot Lodge…Nhưng thiết tưởng mấy chuyện đó hoặc là dễ nhận xét, ai ai cũng thấy được; hoặc là đượm nặng mùi chính trị đảng phái, một linh mục như tôi cần tránh xa. Kết cục tôi quyết định chỉ viết ra phần thứ nhất: kể sơ qua mấy hoạt động của Chí sĩ Ngô đình Diệm vào giai đoạn hơn hai năm ông lưu vong ở Hoa Kỳ với hi vọng sẽ không chạm nọc ai, mà trái lại có thể trả lời câu hỏi: Có phải Mỹ đã đem Ông Ngô đình Diệm về Việt Nam thiết lập đệ nhất Cộng hoà hay không?
1 – Hai quỹ đạo (một ngôi sao sáng và một cục thiên thạch) gặp nhau
Danh tính ông Ngô đình Diệm vang lừng khắp sơn hà năm 1937, khi ông giũ bỏ áo mũ, từ chức Thượng thư Lại bộ vì bất mãn với chính phủ Bảo hộ nặng tay áp chế Nam triều. Tuy còn nhỏ tuổi (T.t. Diệm ra đời năm 1901, tôi năm 1920; niên canh hơn kém nhau gần hai con giáp theo tiểu chu Kỳ – xem Giáp ở cuốn Từ điển Văn học Việt Nam TvKiệm sắp xuất bản) tôi cũng tò mò tìm hiểu thêm. Câu phong dao bình dân trên cửa miệng trẻ con xứ Huế lúc ấy đã vang xa tới tận Ninh bình, Thanh hoá nơi tôi sống lúc bấy giờ: “Phế vua không Khả, đào mả không Bài”; Ông Khả là ai vậy? Ông Bài là ai vậy? Dần dần tôi mới hay: lưỡng vị là hai bậc lương đống của Nam triều dưới triều vua Thành thái, cả hai theo Thiên Chúa giáo, và ông Nguyễn hữu Bài đã cực lực phản kháng mấy người Pháp manh tâm xúc phạm tới lăng mộ các vua Nguyễn để tìm vàng; và Ngô đình Khả đã dám lên tiếng bênh vực mấy vua nhà Nguyễn muốn đòi tự do. Té ra người theo Thiên Chúa giáo cũng giàu lòng yêu nước như ai, và cụ Khả là phụ thân ông Diệm!
Lớn lên, vào các năm 1945-1946, lúc đó tôi đang là sinh viện đã học hết các lớp thần học tại Thượng Kiệm, gần Phát Diệm, và sắp sửa làm linh mục, thì bất ngờ tôi có dịp giáp mặt Ông Bà Trần văn Chương và Ông Bà Ngô đình Nhu (bà Nhu là lệnh ái ông bà Chương). Cả hai gia đình từ đâu được Đức Giám Mục Lê hữu Từ mời về “khu an toàn Phát Diệm”, tức là một phần huyện Kim Sơn với Phát diệm là trung tâm. (Vào giai đoạn này Đức Cha Từ tuyên bố trung lập, không theo Pháp, không cần Việt Minh). Hai bà Chương và Nhu tá túc tại nhà dòng Mến Thánh giá ở Lưu phương, còn hai ông Chương và Nhu thì sống với chúng tôi ở trường Thần học Thượng kiệm. Cho tới nay trí nhớ của tôi còn ghi rõ hình ảnh ông Nhu, ăn vận như tất cả các sinh viên khác trong trường, một mình đứng trầm ngâm dưới bóng một cây nhãn, mắt coi cá bơi lượn dưới mương: cá lặng lẽ, người lặng lẽ…
Năm 1950, tôi là linh mục hiệu trưởng sáng lập trường Trung học Trần Lục tại Phát diệm. Qua trung gian một linh mục Bỉ (cố Jacques Houssa), tôi được Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, tổng Giám mục giáo phận Nữu ước, đồng thời là Tổng Tuyên uý toàn thể quân đội Hoa Kỳ, cấp cho một học bổng tại trường Iona College, New Rochelle, N.Y. Tôi vội vã học tiếng Anh, căn cứ vào cuốn Anglais sans peine, Vì đã biết sẵn La-tinh và Pháp ngữ, chỉ trong vòng mấy tháng tôi đã đọc trơn tru sách báo Anh Mỹ. Nhưng than ôi, không có radio, không có máy ghi âm, thì làm thế nào nói và nghe nổi một ngoại ngữ?
Tìm hộ chiếu còn khó khăn hơn. Vào giai đoạn này, bốn năm trước Điện biên phủ, người Pháp đã bắt đầu muốn trao thêm quyền hành chính cho công chức người Việt. Khi tôi cần hộ chiếu lại đúng là lúc giao thời: các văn phòng ở Hà nội vắng hoe. Sốt ruột, tôi bay vào Sài gòn lại thấy một tình trạng tượng tự. May sao bay trở ra Hà nội, thì vào đúng lúc người Pháp trao quyền cấp chiếu khán cho ông Nguyễn văn Hướng, phụ thân tướng Hiếu sau này sẽ thay tướng Phú để liền sau đó ngộ nạn một cách bí mật (có lẽ vì ông tướng trẻ rắp tâm tiếp tục chiến đấu với Bắc Việt cả sau khi Sài gòn sẽ đầu hàng chăng?). Qua trung gian ông Nguyễn phẩm Phúc, tôi quen thân với ông Hiếu, do đó chưa mất một giờ, tôi đã có đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho một sinh viên xuất ngoại. Ra khỏi văn phòng, tôi gặp ngay Cha Trần ngọc Thụ, từ văn phòng toà Khâm sứ Toà thánh Vatican ở Sài gòn, bước tới và đương lớ ngớ ôm một chồng chiếu khán chưa đóng dấu của một số khá đông linh mục, chủng sinh và tu nữ được học bổng đi Âu châu và Mỹ châu. Tôi liền tiến dẫn và ông Hướng vui vẻ đóng dấu liền. (Sau này linh nục Trần ngọc Thụ sẽ làm bí thơ riêng cho Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao đệ nhị nhiều năm). Xét ra, hôm đó tôi được chứng kiến một biến cố lịch sử: đây là lần đầu tiên người Việt có thể vượt biên giới đàng hoàng, mà không cần “xin phép” người Pháp.
Tháng sáu 1950, tôi lên máy bay Air France (một chiếc Dakota 4 cánh quạt) bay nhiều chặng vắn, qua Bombay, Karachi (bấy giờ còn là đất Ấn), Bahrein, Cairo, Roma, để ngừng hẳn tại Paris. Cuộc hành trình kéo dài hai ngày ba đêm! Tới kinh thành ánh sáng, chân tay tôi rã rời, tưởng chừng như tứ chi đã long ra khỏi khớp, và đầu thì cứ ù ù: rời bỏ phi trường cả giờ, mà vẫn như nghe cánh quạt kêu phành phạch bên tai. Air France chiều khách, cho tôi một buồng khách sạn sạch sẽ nghỉ chơi hai ngày, rồi mới lên đường đi tiếp sang Mỹ.
Ngày nay các hãng máy bay giàu tự tín, không hãng nào rỉ tai cho khách du lịch biết trước hành trình. Nhưng bấy giờ thì khác. Air France cho tôi hay: phi công dự trù vượt Đai tây dương, dọc đường đáp xuống đảo Azores, rồi bay thẳng tới phi trường Idlewild (nay là Kennedy) của Nữu ước. Nhưng vào phút chót, họ đổi ý, và quyết định bay từng chặng vắn hơn: qua Shanon (Ireland ), Gander (New Foundland), Boston, rồi Nữu ước. Như vậy có lẽ tôi là sinh viên Việt Nam đầu tiên làm thủ tục nhập cảnh Hoa Kỳ với chiếu khán Việt Nam tại phi trường Logan tại Boston. Trong lúc đó, chẳng hạn anh Đỗ trọng Chu, một sinh viên Việt tới Mỹ sau tôi không lâu, đã theo lộ trình thông thường hơn là đường thuỷ qua ngả Ellis Island, dưới bóng thần Tư do tại cảng Nữu ước.
Tới Nữu ước, tôi vội vàng xin yết kiến Đức Hồng Y Francis Spellman tại toà Tổng giám mục đường Fifth Avenue, cách văn phòng Air France giăm ba block. Vì nói tiếng Anh mà không ai hiểu, tôi phải dùng một cuốn sổ để ghi bằng chữ viết bất cứ nhu cầu nào, rồi giơ lên cho người ta đọc… Không may cho tôi, gặp ngay một anh tài xế lưu manh biết ngay chàng sinh viên này lần đầu tiên tới Hoa Kỳ: gã bèn nói li lô một hồi như đã hiểu biết, rồi lái xe vòng vòng qua không biết là bao nhiêu đường phố mới tới toà tổng giám mục. Ôi chao, văn phòng giáo phận Nữu ước sao mà rộng lớn làm vậy! Cô thư kí hẹn tôi hôm sau trở lại sẽ được diện kiến vị ân nhân của tôi. Ngài rất ân cần và nói nhiều câu mà tôi chẳng hiểu gì. Đáp lại, tôi nói gì ngài cũng chẳng hiểu nốt, nhưng vẫn thấy ngài gật gật cái đầu, lặp đi lặp lại: một câu nào đó, cố nhiên là không viết ra chữ. Mãi sau này tôi mới biết là ngài yên ủi tôi bằng một câu cửa miệng: “That is right! That is right!”
Tới giáo xứ Đức Hồng Y gửi gắm, tôi làm “phó ba” tức là sau Msgr Francis Shea, trên tôi còn Cha James Wash và John Sullivan. Tất cả là công dân Mỹ gốc Ái nhĩ lan. Các vị hỏi tôi từ đâu mà lại, Tôi đáp: “Từ Shanon, Ireland ”.
Mấy năm đầu tôi phục vụ như một linh mục vào ngày chủ nhật, và một ngày trong tuần; thời giờ còn lại, tôi đi học ráo riết, cả mùa hè cũng không nghỉ. Tối đến chúng tôi xem Tivi, một máy điện thị có ngân mạc (screen, monitor) bề cao chừng hai gang tay, bề ngang chừng hai gang rưỡi, như vậy máy thuộc loại khá lớn. Tôi phàn nàn hình đen trắng không có màu, thì để chiều ý tôi, mấy ông cha lắp một kính lúp khá lớn chụp kín ngân mạc, phần trên bôi màu thiên thanh, khúc giữa màu lục, và phần dưới là mầu nâu.
Tôi vào trường Iona nhận học món Hoá. Khuyết tật chỉ đọc và viết được nhưng không nghe không nói được Anh ngữ đã chẳng gây chướng ngại gì cho tôi theo kịp các bài học, vì khi dạy môn Hoá ông thày thường viết công thức Toán Hoá rõ ràng trên bảng xanh, cho nên dù lớn tuổi hơn đồng liêu cả một con giáp, dù đã chấm dứt đời sinh viên cũng cả chục năm, tôi vẫn theo kịp mọi người. Chỉ cần học thêm vài lớp tiếng Anh, mấy tháng sau tôi tôi đã chấm dứt được giai đoạn vừa câm vừa điếc.
Sang năm 1951, tôi nhận được điện tín từ Âu châu báo tin có Đức Cha Ngô đình Thục với bào đệ là Ông Ngô đình Diệm đến sân bay Idlewild, cần tôi ra đón. Tôi vội vàng tune up chiếc xe Plymouth, đã cũ mà còn sạch sẽ của tôi, rồi vận bộ đẹp nhất vào người… Bộ này tôi đã mua trước đó ít lâu để thay thế cho bộ complet may tại Hà nội, mặc vào mà thấy mình chẳng giống ai ở Hoa Kỳ. Bữa đó, tôi vẫn chưa trút bỏ được dáng dấp anh chàng nhà quê lên tỉnh, mặc dầu trên đầu đội mũ dạ đen, trước ngực mang cổ cồn trắng, và nếp quần cứng như dao cạo. Nên nhớ rằng: hồi đó kĩ nghệ dệt chưa sản xuất các thứ sợi nhân tạo, có thể ủi bằng bàn là nóng làm ra những nếp rất bền. Áo vét tông không kể, quần chúng tôi bấy giờ thường may bằng vải len màu đen, cứ một hoặc hai tuần phải đem tới Chinese laundry giặt khan rồi ép bằng máy hấp. Mặc dầu sức ép của máy khá lớn, nhưng nếp quần thường chỉ cầm cự được một hai tuần là cùng, rồi phải mang đi ép nếp lại…Tại sao cầu Kỳ đến thế? Vì giáo sĩ thời đó ra đường không được hút thuốc, không được uống rượu, áo quần phải tề chỉnh hết sức: mũ “phớt” đen đội vào mùa đông, loại Panama trắng đội vào mùa hè. Noblesse oblige mà! Vào thập niên 1950, được đặc biệt kính trọng là “1/ Công chức, trên hết là Tổng thống Henry Truman, 2/ Giáo sĩ; 3/ Cảnh sát và thợ chữa lửa. Trẻ con đứa nào cũng mơ lớn lên sẽ làm cảnh sát hoặc thợ chữa lửa!…Ôi thời bốn phương thanh bình, dân tình đôn hậu nay còn đâu.
Trở lại chuyện mua bộ complet mới. Bữa đó tôi gạt ra một bên hãng Bond (bình dân quá!), mà lượn đi lượn lại dọc Fifth Avenus, Manhattan mấy vòng, rồi đầu thẳng ngực ưỡn, trịnh trọng bước vào hãng Roger Pitts. Cho là khách xộp (thử hỏi: khách bước vào Roger Pitts ai mà không phải là khách xộp?). nhân viên hãng xúm xít ra đón; mời thử hết bộ này sang bộ khác. Kết cục họ giới thiệu một bộ hai hàng cúc, vải len mịn, với giá cắt cổ. Gã thanh niên Việt Nam nào có biết gì, nghe họ nói hàng bán theo giá đặc biệt dành cho giáo sĩ, nhất là người ngoại quốc (?), bèn vui vẻ móc tiền ra trả. Về nhà mấy ông linh mục bạn nghe kể ai cũng lăn ra cười ra nước mắt, thương thay kẻ ngây thơ bị cá mập làm thịt. Ở lâu hơn, tôi mới nhận ra áo hai hàng cúc chỉ thích hợp với người to con, và hàng may sẵn không bao là toàn Mỹ, nhất là loại may theo kích thước người da trắng da đen thì làm sao làm nổi bật được các nét đầy dương tính trên thân thể một hán tử da vàng?
Phải, bữa đó tôi phập phòng ra đón ông Diệm, với ý thức: Đức Cha Thục từng là bạn đồng song với Đức Hồng Y Mỹ tại Roma ngày nào, thì chắc chắn ông Diệm sẽ được Đức Hồng Y ân cần đón tiếp. Mà quả như thế. Hơn nữa vì tôi và ông Diệm cùng chung một người bảo trợ là Đức Hồng Y, cho nên hai chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội sống bên nhau. Một lần nữa, tôi đoán trúng: Tuy nơi ông Diệm lưu trú là nhà dòng các linh mục Maryknoll gồm hai cơ sở: một ở Ossining N.Y. (thuộc tiểu bang Nữu ước), một ở Lakewood N.J. (thuộc tiểu bang New Jersey), nhưng mỗi lần ông tới Manhattan tiếp chính khách tại khách sạn, thì ông thường cậy tôi đưa đón. Có khi tôi còn tình nguyện bỏ tiền riêng thuê khách sạn, vì biết ông cụ rất thanh bạch. Dần dần không có vườn đào để đọc lời thề kết nghĩa, mà hai “Việt kiều” niên canh cách nhau hai con giáp, đã trở nên bằng hữu vong niên chí thiết. Bỏ Hoa trung vượt Trường thành mà chợt gặp được người đồng hương thì bất diệc lạc hồ? Tới đây tôi hồi tưởng tới anh Nguyễn xuân Điền, con ông Nguyễn phẩm Phúc. Tôi quen biết gia đình này từ 1948; năm mà họ kéo nhau từ khu tư (Thanh hoá) ra Phát diệm (Ninh bình: khu ba), nhằm lúc tôi mới thành lập trường trung học Trần Lục. Do đó tôi tìm dịp tiến cử Anh Điền. Bữa đó, tôi thuê cho ông cụ một phòng cao ráo tại khách sạn Tudor, lại thuê cho Điền một phòng bên cạnh. Một nhân vật lịch sử giáp mặt một thanh niên mới lớn. Hai bên đàm đạo một hồi. Sau đó tôi hỏi Điền nghĩ sao về ông Cụ thì Điền trả lời ngay: không ngờ một nhân vật lẫy lừng từ lâu, mà còn trẻ như vậy, nhưng dáng đi chữ bát, lại đoản tướng thì làm sao có thể hấp dẫn anh, làm sao có thể làm lãnh đạo nhân dân cả nước? Cảm giác đầu tiên là như thế nhưng về sau Điền đã nhiều năm làm việc ở toà đại sứ Việt nam tại Washington, dưới quyền đại sứ Trần văn Chương.
2- Nhiều người muốn biết: hơn hai năm sống chung với các linh mục Maryknoll, ông Diệm đã làm những gì? Không đi học, không đi tu thì ông làm gì?
Mục tiêu số một ông nhằm là tìm nhân tài trong số các sinh viên du học tại Mỹ và Canada: Huỳnh văn Lang, Đỗ vạng Lí, Bùi công Văn nhân viên Voice of America, Bùi kiến Thành, Nguyễn Thái, Nguyễn ngọc Linh, bác sĩ Thơ với chị Minh, và Nguyễn đình Hoà vân vân….Riêng Nguyễn đình Hoà có phụ thân quen biết ông Diệm. Khi Nguyễn đinh Hoà làm đám cưới, ông Cụ đòi tôi đưa đi mua quà tặng đôi tân hôn.
Mục tiêu số hai là ông nghiên cứu tại chỗ chính thể và chính trường Hoa Kỳ. Trong số các chính khách Mỹ ông gặp gỡ nhiều lần, có các ông Senator Manfield, Justice Douglas, và…J.F. Kennedy lúc ấy mới bước chân vào thượng nghị viện. Có lần ông Cụ dặn tôi phải thuê phòng khá sang, để cụ gặp gỡ Thủ tướng Pháp.
Về phía chính khách Việt Nam, ông Diệm nhiều lần tiếp hai giáo sư Bửu Hội, và Nguyễn văn Thoại. Nhà hoá học lừng danh Bửu Hội thì tôi quen tên rồi, vì nhiều lần đã đọc các bài ông nghiên cứu về Hoá, nhưng Nguyễn văn Thoại? Được hỏi thì Cụ trả lời: “Ông Thoại là một giáo sư ở Collège de France”. Tôi ngạc nhiên: “Chà! chắc ổng phải xuất sắc lắm, thế mà tại sao tôi chưa từng nghe đến tên.”
Một bữa nọ có Cha Cao văn Luận tới ra mắt. Trong cuốn hồi kí: “Bên giòng lịch sử” linh mục viết về sau này, Cha tường thuật khá dài những lần mình gặp vua Bảo đại, Chủ tịch Hồ chí Minh, và ông Ngô đình Diệm. …Viết về cuộc hội kiến giữa ngài và ông Ngô lần ấy, Cha có biên vài dòng về Linh mục Trần văn Kiệm người địa phương đã dẫn cha tham quan Nữu ước. Thú thật tôi cũng có dịp gặp vua Bảo đại về thăm Đức Cha Lê hữ Từ, và dự lễ Mi-sa tại nhà thờ Phát diệm. Nhưng hối ấy tôi chỉ là thành viện ca đoàn trường thần học Thượng kiệm, nhìn lên chỉ thấy nhà vua ngự xa xa trong khuôn viên đặc biệt gần bàn thờ. Khi cử hành thánh lễ, chúng tôi đã hát những bài plain chant du dương, và nhạc đa âm (4 dòng nhạc đuổi nhau) của Palestrina, Victoria… Không phải là tự kiêu, nhưng dám khoe rằng chúng tôi hát rất hay, và lễ tất đã được chính hoàng thượng ban khen. Tôi cũng có dịp gặp Chủ tịch Hồ chí Minh khi ông về Phát diệm, tôn vinh giám mục Lê hữu Từ làm cố vấn chính phủ. Cả tại công đường Đức Giám Mục (nhà chung Phát diệm), cả tại nhà hội quán Đức Cha Tòng, tôi đứng cách ông Hồ không quá bốn năm bước; tôi được nghe ổng tươi cười nói với dân Phát Diệm: “Khi nhà xây còn dang dở, người ta thường bỏ mặc gạch vữa nằm ngổn ngang, nhưng nhà xây xong rồi người ta sẽ dọn dẹp đâu vào đấy!!!” Nghe câu sau cùng, tôi nổi gai ốc khắp mình, từ đỉnh đầu xuống tới gan bàn chân.
Lúc này (năm 1947) tôi là một linh mục trẻ phụ trách xứ Hướng đạo. Trên đường tìm về Phát diệm, ông Hồ đi qua Hướng đạo trong một chiếc xe Peugeot. Xe đương chạy chầm chập ngang nhà thờ Hướng đạo, chợt có một em bé trai băng qua đường bị xe đụng nhẹ. Ông Hồ vội truyền cho tài xế dừng lại, bước ra đỡ thằng bé đứng lên. Ông lấy tay phủi áo nạn nhân, miệng hỏi: “Em có đau không?” Trời ơi, nhân vật vô thần này mà quét dọn giang sơn, thì đạo Thiên Chúa cùng với các tôn giáo khác sẽ khốn đốn to, tôi thầm nghĩ như vậy. Sau này tại Nữu ước khi đã hiểu biết ông cụ nhiều rồi, có lần tôi dám đem ông Ngô đình Diệm, so sánh với ông Hồ chí Minh. Tôi than thở: “Ước chi Cụ có tài biểu lộ lòng thương dân (hay là mị dân?) như ông Hồ khi ổng đi qua nhà thờ Hướng đạo của tôi! Ước chi Cụ biết tươi cười như ông Hồ khi ổng diễn thuyết ở nhà Hội quán Đức Cha Tòng tại Phát diệm!” Tương lai đã chứng minh: tôi khiếp sợ ông Hồ và đảng Cộng sản, lại lo ngại cho ông Diệm là rất đúng. Nhưng khi giáp kiến với giám mục Lê hữu Từ năm ấy, ông Hồ đã thân mật tuyên bố, “Sau này nếu tôi muốn cải đạo, tôi sẽ xin Đức Giám Mục Cố vấn rửa tội cho tôi.” Tài giả hình tới mức này, thì nhất định tôi không mong ông Ngô theo kịp ông Hồ!
Xem đó, càng ngày tôi càng bạo dạn, cả những tư tưởng giấu kín trong đầu tôi cũng đem ra ra thảo luận với ông Diệm. Phần ông, ông cũng làm như thế đối với người bạn vong niên là tôi. Thuộc giáo xứ Blessed Sacrament ở New Rochelle, nơi tôi trụ trì, có một tín đồ Thiên Chúa giáo người Trung hoa. Tôi đem người này giới thiệu với ông Diệm. Biết thân thế ông Diệm rồi, sau đó không lâu, người bạn Trung hoa của tôi đã gửi thư mời hai chúng tôi tới ăn cơm Tầu tại nhà. Thư viết bằng Hán tự, hẹn chủ sẽ đón khách vào cuối tuần, trúng “đệ lục nhật”. Mức hiểu biết Hán tự của tôi lúc đó còn hạn hẹp. Đọc thư, tôi ngạc nhiên: “Ủa, sao người Công Giáo lại mời khách Công Giáo tới nhà ăn trúng vào ngày thứ sáu phải kiêng thịt?” Ông Diệm không ngại nói cho tôi hay: “Đệ lục nhật của Trung hoa là ngày thứ bảy của ta”.
Ông còn thân mật hơn đối với tôi trong giai thoại sau. Cả khi có ông Cụ hiện diện, mỗi lần nghe người ta hỏi nguyên quán, tôi thường trả lời mình là người Phát diệm. Bữa đó, ông Cụ nhè nhẹ thích khuỷu tay vào hông tôi mà trả lời thay: “Cha Kiệm là người Phát diễm đó”. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ: ông Cụ dặn tôi tránh tên húy vì theo phép giao tế Việt Nam nên tránh gọi tên cúng cơm người có mặt. Không may cho tôi, vì quá Tây phương hoá, tôi sửa luôn “Diễm” thành Diệm” trước mặt mọi người, mà không nhớ rằng Hán tự một chữ có cả hai âm là Diệm và Diễm.
Ngày xưa một nhóm thợ nề xây nhà thờ cho một họ đạo, có linh mục nhiệm sở mang quý danh là Hồ. Suốt thời gian xây cất, người ta đã tránh tên “Hồ” mà khi cần bắt mạch gạch đá, ai ai cũng gọi :”Cháo đây”.
Vì muốn ông Diệm thay đổi bầu khí cuối tuần, một hôm tôi mời ông lại thăm tôi. Vốn sống chung một nhà với các linh mục Mỹ, thiếu tiện nghi tiếp khách, tôi chợt nảy ra ý kiến. “Hay là mình mượn các tu nữ ở College of New Rochelle giúp?” Số là không xa nhà các linh mục, có một trường cao học chuyên dạy các cô chiêu con gái nhà giầu, phòng ốc rất đẹp, do các tu nữ dòng Ursuline điều khiển. Nhóm nữ lưu này có học lực rất cao, lại giàu lòng từ bi bác ái: mong họ sẽ giúp tôi, một linh mục sở tại. Đồng thời, tôi lại e dè không muốn cho họ biết ông Diệm là ai, vì sợ mang tiếng linh mục mà làm chính trị. Như vậy chưa chắc họ sẽ chấp nhận lời tôi yêu cầu mà thay tôi tiếp khách? Ai ngờ: chỉ vì nể lời một linh mục bản sở, họ đã không ngần ngại dành riêng cho khách một căn phòng rộng rãi trong khuôn viên ngôi trường của họ, mời khách ăn ngủ suốt hai ngày thứ bảy và chủ nhật. Bữa cơm chỉ có hai chúng tôi ngồi ăn, trước mắt ân cần một vị giáo sư đại học vô danh, người da trắng, hồng hào trong bộ trang phục tu nữ. Nàng tận tình bưng cơm rót nước phục thị hai người Việt chúng tôi suốt hai ngày. Hỏi về đêm ngủ có ngon không, ông Diệm trả lời,: “Bầu khí rất thanh tĩnh, giường ngủ rất êm ái thơm tho, nhưng họ cần gì mà phải thay chăn đệm mỗi tối, và khăn lau trong buồng tắm một ngày ba lần?” Ôi! Tinh thần tu nữ dòng Ursula vào thập niên 1950 sao mà cao vời vợi làm vậy!
Trở về cuộc cụ Hồ tới thăm Đức Giám Mục Lê hữu Từ. Cũng hôm đó, ông Hồ sau khi tham quan khuôn viên thánh đường đã tản bộ ra tận bờ hồ. Đi ngang qua nhà ông giáo Huệ (trước kia là nhà ông phó Bá phụ thân ông giáo Huệ, và trong một thời gian từ 1885 đến 1890, cũng là nơi Cụ đồ Giản, theo lời mời của Cha Trần Lục, đã mở trường dạy Hán tự). (Xem tiến sĩ Nguyễn tư Giản trong cuốn Tự điển văn học L.m. Trần văn Kiệm sắp phát hành), ông Hồ buông ra một câu cho tới nay tôi vẫn cho là khó hiểu: “Cảnh vật y như xưa không có gì là khác” (???)
Có lần chính khách Mỹ phàn nàn với tôi: linh mục đề cao tư cách lãnh đạo của ông Diệm, và cả Đức Cha Thục cũng làm như thế, nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì Đức Cha Thục là anh đề cao em thì có chi là lạ. Ông Diệm bèn mời Đức Cha Nguyễn ngọc Chi quá bộ sang Hoa Kỳ, thấy Đức Cha Chi gặp khó khăn khi phát biểu ý kiến bằng Anh ngữ, ổng mời thêm Đức Cha Hoàng văn Đoàn sang Hoa Kỳ. Đức Cha họ Hoàng to con, lại có một bộ râu quai nón vĩ đại. Hơn nữa ngài lại là một học giả bằng cấp cùng mình. Ngài nói thông thạo Anh ngữ, lại biết đọc Thánh Kinh bằng tiếng Hi bá lai, cổ ngữ Do thái. Một hôm, ngài cùng chúng tôi đi xe điện ngầm tại Manhattan Nữu ước…Rất ít linh mục, phương chi là giám mục đi xe điện ngầm, cho nên vừa thấy đoàn chúng tôi ba người (gồm cả Cụ Ngô) bước lên xe, ai cũng ngạc nhiên. Làm thế nào mà một ông có bộ râu Quan Công, mặc áo overcoat khi trời chưa lạnh lắm, dáng dấp y hệt một đạo sư (Rabbi) Do thái, lại đi bên hai người Á đông, một người mang y phục linh mục La mã? Nữu ước có rất đông công dân Mỹ gốc Do thái, và cố nhiện họ ngồi đầy toa xe điện: ai ai cũng ngạc nhiên vô cùng. Tới khi ông “rabbi” rút sách Hi bá lai ra đọc, thì thiên hạ không còn hồ nghi gì nữa. Họ ùa nhau tới hỏi ngài bằng tiếng yiddish xem có đúng ngài là một ông rabbi không? Lúc này Đức Cha Đoàn mới mở áo ngoài cho họ xem cây thập giá đeo trước ngực mà xác định mình là Giám mục Thiên Chúa giáo, thông thạo cổ ngữ Hi bá lai mà không biết tiếng yiddish. Ai ai cũng bò cười, đàn ông đàn bà xúm lại ôm hôn ông Quan công có bộ râu như các tín đồ Do thái chính thống.
Trước khi trở về nước, Đức Cha Đoàn, vốn thuộc hội dòng Đa minh (Dominicans) có nhờ cha Fahey trụ trì tại một tu viện Đa minh ở Nữu ước thu lượm “tiền xin lễ” từ giáo dân Hoa Kỳ, rồi gửi vể Bắc ninh cho ngài. Cha Fahey gọi tôi tham gia, và công việc đương tiến triển tốt đẹp được ít lâu thì một buổi tối khuya, đồng đồ đã điểm 11 giờ, Cha Fahey gọi điện báo tin động trời: Toà thánh Vatican được toà Khâm mạng tại Việt Nam báo tin: Đức Cha Đoàn nghiêng theo Cộng sản!! Phải lập tức chấm dứt cuộc lạc quyên bảo trợ Giám mục Đoàn ngay”. Hai chúng tôi tin rằng Đức Cha bị vu oan, nhưng chỉ biết ôm đầu khóc thầm. Về sau chúng tôi biết thêm: Đức Cha Đoàn bị biếm sang nhà dòng Đa minh tại Hương cảng. Nhưng mối oan khuất của ngài từ từ hiện ra càng ngày càng rõ, vì chính ngài trước khi rời Việt Nam, đã bị Cộng sản đả thương, và như vậy tất cả nội vụ đều do đảng Cộng sản dàn dựng.
Thời gian trôi qua lặng lẽ. Vì tiếp tục học tập luôn cả mùa hè, và bỏ ra khá nhiều giờ hì hục tại phòng Lab lại được trường tặng luôn cho một số credit vì mảnh bằng Baccalauréat Pháp do đại học Hà nội cấp hai năm 1940 và1941, tôi lãnh bằng BS Hoá rất sớm, để sau đó theo học khoa Lí tại trường Fordham, thụ nghiệp với Dr Hess, vị giáo sư gốc Đức từng dựt giải Nobel vì đã có công khán phá ra tia vũ trụ (cosmic ray). Đồng thời cuối tuần tôi vẫn liên lạc với ông Diệm. Thấy ông có phần sốt ruột trước tình trạng chính trị trì trệ, tôi mách cho cụ nên có một hobby. Tôi vốn say mê chụp hình ngay từ khi mới sang Hoa Kỳ, nào là Rolleyflex, nào là Leica, lại cả một chiếc Graphic lớn cỡ. Chụp đen trắng rồi lại chụp mầu, và để rửa ảnh ra giấy, tôi được tự do sử dụng buồng tối ở nhà trường tư thục của giáo xứ. Ảnh màu Kodak tôi phải đưa ra tiệm, nhưng ảnh màu Ansco thì tôi rửa ngay tại nhà. Tới hồi tôi theo học trường Forham, tôi càng mê máy ảnh hơn, vì tại đây trong phòng thí nghiệm khi muốn phân tích thành phần các thể chất, các giáo sư dạy tôi phương pháp dùng điện thế rất cao mà chụp quang phổ (spectrum). Cuối cùng hai chúng tôi ghé vào tiệm Peerless gần nhà ga trung ương ở phố 42, và tôi đã giúp ông cụ lựa chọn một chiếc máy ảnh, lại mua thêm cuốn dạy chụp và rửa hình. Tôi không ngờ khi đem ông Cụ vào nghề chơi thanh lịch này tôi sẽ giúp kẻ xấu bụng bôi lọ thanh danh của Tổng thống Ngô đình Diệm: Sau khi hạ sát ông xong, bọn chúng vào buồng ông lục lọi kiếm tiền. Tiền không nhiều, nhưng họ lượm về một đệp tạp chí dạy cách chụp và chơi hình. Cố nhiên đối tượng máy chụp là phong cảnh và người mẫu. Chúng bèn phao lên là Tổng thống Diệm chơi hình khoả thân. Báo Photography đâu có thuộc loại Playboy?
Vào giai đoạn này, thấy ông Diệm có thì giờ đàm đạo vu vơ với tôi, nhiều lần tôi hỏi cụ có ý kiến gì về Chủ tịch Hố chí Minh? Cái ngày Ông Bà Chương và ông bà Nhu tìm về Phát diệm, tôi thắc mắc không biết ông Ngô đình Diệm không về theo gia đình, thì lưu lạc đi phương nào? Nhiều người xì xào: nể lời Đức Cha Lê hữu Từ cố vấn chính phủ, ông Hồ đã mở cửa cho các ông bà Chương Nhu tìm về Phát diệm, nhưng vẫn giữ ông Diệm ở lại Hà nội. Tôi muốn biết mối giao tế giữa hai người tốt xấu như ra sao? Nhưng không môt lần nào, ông Diệm bình luận với tôi hay bất cứ ai về ông Hồ.
Về sau khá lâu, tôi nghe một nguồn tin nói rằng: Khi bị Hoa Kỳ dồn ép tới đường cùng, ông Diệm có nhờ giáo sư Bửu Hội làm trung gian mở một vài cuộc hoà đàm bí mật với đại diện ông Hồ tại Tánh Linh, khiến cho một số chính khách Mỹ đã dựa vào đó mà gỡ tội cho ông Cabot Lodge, đại sứ Tổng Thống J.F.Kennedy…Nói tới Tánh Linh, tôi liên tưởng tới Đức Bà Tapao, pho tượng Đức Ma-ri-a chắp tay cầu nguyện cho nước Việt Nam, một công trình tôi đã nghe lệnh ông Diệm mà đặt nghệ sĩ Hải tại Phú nhuận đắp tượng bằng xi măng, lại chỉ huy công trình lập tượng đài trên ngọn đồi giữa rừng xanh, chỉ cách Tánh linh có dăm bảy cây số. Tượng đã hiển linh, và đã trở thành một địa điểm hành hương.
3- Vua Bảo đại mời ông Diệm về nước chấp chính lần thứ nhất
Mùa hè năm 1953, trung tuần tháng 6, ông Diệm gọi tôi mà nói: “ Hoàng đế Bảo đại mời tôi trở về nước chấp chính”. Tôi dựt mình. Theo tôi nhận xét thực trạng, thì các chính khách Mỹ rất lơ là; không ai chú ý gì tới Việt Nam cả. Nhiều người vẫn chưa biết ông Hồ chí Minh là ai. Thậm chí có người (đã học qua trung học) tò mò hỏi tôi: “Thưa Cha, tọc mạch thế này là không phải, nhưng con không nhớ Việt Nam đứng chỗ nào trên bản đồ, và không biết phụ nữ Việt Nam còn đi lại khoả thân, hay là họ đã biết mặc quần áo?!”
Mãi tới gần một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ lớn ngày 13 tháng 3 năm 1954 (sẽ thất thủ ngày 26 tháng 6) và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng Y Francis Spellman kêu gọi, ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống Eisenhower mới lên tiếng cảnh giác, khi ông xướng lên thuyết Domino: “Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công Cộng sản quốc tế với Liên Xô và Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông Nam Á sẽ khó mà đứng vững được”. Đó là tình hình cả một năm sau mới xảy ra. Thật vậy, vào giữa năm 1953, khắp lãnh thổ Hoa Kỳ và nhất là trong Bạch Cung, gồm cả Tổng thống Eisenhower mới lên cầm quyền đầu năm 1953, không ai lưu ý tới Việt Nam cả. Tại sao hoàng đế Bảo đại kêu gọi chí sĩ Diệm sớm sủa như thế này? Được hỏi Cụ trả lời rất dứt khoát: “ Được Mỹ bật đèn xanh, không phản đối việc tôi quy cố hương là đủ. Chắc rằng về nước nhà rồi, tôi sẽ còn cần họ tiếp sức mới hãn ngữ được đường tiến của Mạc tư khoa, Bắc kinh và Hà nội. Như vậy là bõ công tôi sống hơn hai năm ở Hoa Kỳ. Việc tôi trở về sẽ không do Hoa thịnh đốn quyết định, nhưng sẽ tuỳ thuộc công cuộc Hoàng đế Bảo đại dàn xếp với Champ Élizée có hanh thông hay chăng.” Tôi mù tịt không biết Cụ muốn nói gì. Với giọng thương hại, cụ yên ủi: “Sang Âu châu, gặp nhà vua rồi, nhìn thấy tiền đồ sáng tỏ hơn, tôi sẽ từ bên đó đánh điện tín cho Cha theo rõi, để cha thông báo cho các anh em chị em bên này yên lòng”.
Kế đó, ông Diệm rời bỏ nhà dòng Maryknoll. Lakewood, New Jersey về thẳng nhà anh chị Bùi công Văn toạ lạc không xa góc Đông bắc công viên Central Park, ở Manhattan. Một phái đoàn rất nhỏ gồm 5 người là anh chị Bùi công Văn, các anh Đỗ vạng Lí, Bùi kiến Thành và tôi lên hai chiếc xe tháp tùng ông Cụ ra phi trường Idlewild. Đương khi đợi máy bay, Chị Bùi công Vân la lên: “Kỳa! Cụ về nước mà cổ trần không có cà vạt!” Nghe nói anh Bùi kiến Thành (con ông Bùi kiến Tín, một trong số rất ít người hiểu biết ông Diệm không làm ra tiền, cho nên thỉnh thoảng có góp lí tài giúp ông – tôi biết chi tiết này vì chính ông có lần nói nhỏ cho tôi nghe), đã tình nguyện bỏ tiền mua cà vạt cho ông Diệm.
Ngày kế tiếp, tôi được điện tín từ Paris : “Tout va bien” rồi từ đó mất liên lạc…
Khá lâu sau ông cụ mới gửi cho tôi một bức thư kể vắn tắt rằng: công cuộc Hoàng đế Bảo đại điều đình với Pháp không xuôi xẻ, và trước tình thế mới, ông phải rời nhà ông Ngô đình Luyện – chỉ là nơi tạm trú – mà bỏ nước Pháp, tìm sống trong nhà dòng Saint André ở Bruges, nước Bỉ, mà nhẫn nại chờ đợi thêm. Tôi vội tìm tự điển khảo cứu ít nhiều về thành phố Bruges …
Đó là tất cả diễn tiến của đại cuộc “Mỹ đưa ông Diệm về làm Tống thống và thiết lập Công hoà Việt Nam với cờ vàng ba sọc đỏ.” Sự thực Bạch cung không trao cho ông Diệm một công văn gì, không uỷ cho ông Diệm một nhiệm vụ gì, không bố thí cho ông Diệm một đồng Mỹ kim nào. Nhờ có bà Bùi công Văn và anh Bùi kiến Thành ông cụ mới nhận ra bộ cánh của mình còn thiếu cà vạt, rồi thụ động để có người khác đem một chiếc cà vạt mua vội ở phi trường, gắn lên trước ngực cho ông….
Đây mới là lần thứ nhất năm 1953, Hoàng đế Bảo đại vời ông Diệm trở về. Mùa hè năm 1954 nhà vua sẽ kêu gọi ông Diệm trở về lần thứ hai như sẽ thấy sau này.
4- Cuối năm 1954, tôi bỏ Hoa Kỳ trở về Việt Nam phục vụ Tổng thống Diệm với tư cách quan sát viên miễn phí
Năm 1953 dựt được mảnh bằng BS Physics, tôi chuyển sang trường New York University uptown không xa đại học Fordham cũ của tôi là bao, để chiều chiều theo học môn Quantum Physics. Tôi chọn các môn học Kỳ cục này chỉ vì tính tôi thích tìm hiểu. Chứ như tôi đã lớn quá tuổi sinh viên rồi, đã quyết tâm trọn đời phục vụ giáo hội rồi thì cần chi phải khổ công chạy theo thế hệ hậu bối hăm hở tìm mảnh bằng làm phương tiện tiến thân trong xã hội làm gì? Chính vì thế, học qua các lớp dạy ở uptown, và đương khi học tiếp môn Quantum Physics năm thứ hai ở campus downtown, gần vị trí hai ngôi nhà chọc trời Trung tâm mậu dịch, sẽ là mục tiêu cho nhóm Hồi giáo quá khích phá hoại sau này, khi vừa nghe tin ông Ngô đình Diệm được hoàng đế Bảo đại mời về chấp chình lần thứ hai vào giữa năm 1954, tôi quyết định bỏ học theo ông cụ trở về Việt Nam.
Sách nói “đoạn trường thay lúc phân kí”, nhưng cuộc tôi chia tay với Đức Hồng Y Francis Spellman lại khác hẳn. Bữa cơm li biệt được thiết tại tư dinh Đức Hồng Y gần nhà thờ St Patrick, Fifth Ave. Quanh bàn Đức Hồng Y có đại sứ Việt Nam ông Trần văn Chương, và hai đứa con cưng của ngài người Việt là anh Nguyễn đức Quý và tôi, cả hai có may mắn được ngài bảo trợ cũng như ngài đã bảo trợ ông Diệm hồi nào. Cơm nước xong, ngài cho chiếu phim ghi lại cảnh dân Bắc Việt trốn Cộng sản chạy vào Nam theo ông Diệm. Tới khung hình một phụ nữ Việt Nam vận áo tứ thân thắt khăn mỏ quạ, hớt hải một tay bế con thơ, một tay bưng hình Đức Mẹ hằng cứu giúp, ngài đã không cầm được giọt lệ. Chính như tôi lúc này, tức là 40 năm sau ngày từ giã Đức Hồng Y Spellman, lần nào nhớ tới bà mẹ đau khổ, và tấm khăn Đức Hồng Y lấy lau nước mắt, tôi cũng không cầm được giọt lệ.
Hiện nay anh Quý đã hồi tục. Sau khi đỗ bằng Ph D về môn Sinh học anh đương là một nhân viên Kỳ cựu trong Hội chống Ung thư ở New Jersey. Khi ông Diệm đặt chân lên Hoa Kỳ lần đầu, Quý cũng mới tới Nữu ước trước đó không lâu. Tôi đưa hai người gặp nhau ở nhà anh Đức Thanh. Vừa thấy ông Diệm, Quý chạy lại vỗ vai mà hỏi: “Anh mới sang đây hả? Anh theo học trường nào?”
Trước khi ông Diệm đặt chân trở lại Việt Nam, tôi có tiếp được một bức thư ông Nhu gọi tôi về giúp chính phủ. Lá thư này khơi cho kí ức tôi nhớ lại một câu chuyện vui vui xảy ra khi tôi mới nắm được mảnh bằng MS Physics trong tay. Hồi đó, thế chiến thứ hai chấm dứt chưa lâu, cả thế giới nhất là các nước Âu châu, hăng say tái thiết xứ sở. Vì vậy sinh viên tốt nghiệp đại học với bằng Bachelor degree bất luận là môn gì, đều không thiếu cơ hội tìm cho mình một việc làm ngon lành. Cả mấy tuần lễ trước ngày phát bằng, các hãng lớn đều mở văn phòng ngay tại khuôn viên nhà trường để kêu gọi nhân tài. Tôi tốt nghiệp MS tại Forham với ngoại ngữ là tiếng Đức, tên tôi lại mang vần K rất thông dụng tại Đức. Cả ba nguyên tố: khoa học, Đức ngữ và vần K tác hợp với nhau, làm thành một lá thơ của bộ ngoại giao Đức, mời tôi trở về phục vụ cho Vaterland! Cố nhiên tôi phải từ chối cả hai lời mời từ người Đức cũng như từ ông Nhu. Với bào đệ ông Diệm, tôi xác định mình đã làm linh mục thì trọn đời sẽ một lòng giảng đạo không làm chính trị, nhưng cố nhiên tôi sẽ làm thần dân tận tuỵ phục vụ tổ quốc.
Tôi về tới Việt nam, thì ông Diệm đã bình định xong xứ sở và thực hiện xong việc trưng cầu dân ý cho phép ông từ Thủ tướng bước lên làm Tổng thống thay thế vua Bảo đại. Nhìn vào hiện tình Iraq đòi hỏi Hoa Kỳ hi sinh không biết bao nhiêu mạng người, và chi phí không biết bao nhiêu tỉ Mỹ kim, mà việc lớn vẫn chưa hoàn thành, người ta mới nhận ra được tài kinh bang tế thế của ông Diệm siêu việt tới chừng nào. Đúng như câu ngạn ngữ bình dân “Trói voi bỏ rọ” và một câu bình dân hơn nữa: “Tay không bắt chó cái.” Ông đã đơn thương độc mã tái tạo giang sơn miền Nam trong một thời gian Kỷ lục.
Được tin người bạn vong niên trở về, ông nhờ Bác sĩ Tuyến tới trường chủng viện Phát diệm ở Phú nhuận mời tôi vào dinh độc lập. Bác sĩ nói: “Cha sẽ vào lối cửa tiền”. Tôi hỏi “Sao phải vào lối cửa tiền?” Bác sĩ đáp: “Vì ý tổng thống muốn như vậy. Nhân tiện xin hỏi: Cha có xe hơi không.?” Tôi trả lời: “Mình sẽ đi tắc xi”. Bác sĩ nói : “Như thế cũng được”.
Thế là đúng giờ và đúng vị trí đã hẹn, tôi xuống khỏi chiếc tắc xi tí hon – mới ở Mỹ về tôi thấy chiếc tắc xi ở Sài gòn nhỏ bé quá chừng – thì thấy cửa mở cả hai cánh, một số người mặc đồng phục Việt Nam (không phải quân nhân) xếp hàng đứng chào, rồi họ dẫn tôi lên lầu tới một phòng ở đầu cánh trái dinh Độc lập, có Tổng thống Ngô đình Diệm trong bộ quốc phục ngồi đợi. Sau nghi lễ thông thường, hai người uống trà do đám gia thuộc cũng vận khăn áo Việt nam phục thị…Thấy Tổng thống vẫn nhận tôi là bằng hữu vong niên, tôi đánh bạo hỏi Người hai câu đương vương vấn trong đầu:
“Tại sao Tổng thống phải truất phế Hoàng đế Bảo đại?”
Đáp: “ Vì chính nhà vua muốn truất phế tôi, sau khi tôi dẹp yên bọn theo Pháp phá hoại quốc gia, và thành lập xong một chính phủ có đầy đủ sức hoạt động. Té ra nhà vua đã lợi dụng tôi như một con cờ thí nhận việc dọn đường phục bích mà thôi. Trước sau Hoàng thượng vẫn nuôi mộng một ngày sẽ trở lại Huế ngồi lên ngai cũ các vua Nguyễn. Tôi đã hứa khi được hoàng đế mời về chấp chính thì mình sẽ vâng nghe các thánh chỉ sáng suốt của ngài. Nhưng thánh chỉ đòi tôi rút lui vào lúc quốc sự còn ngổn ngang, thì nhất định là thiếu sáng suốt, làm sao tôi có thể phụng mệnh thánh chỉ được?.” Câu hỏi thứ hai: “Tại sao Tổng thống giận Đức Giám Mục Lê hữu Từ?” Đáp: “Tôi đâu dám giận Đức Cha? Chỉ có Đức Cha giận tôi mà thôi. Khi tôi mời ngài tránh nạn vào Nam, ngài đã không chịu. Cha còn nhớ chăng? Cuối năm 1952, tôi có nhờ Cha biên thư cho Ngài mà căn dặn chấm dứt chương trình xây trường Louis Pasteur ở Hà nội, để dùng tiền mua đất xây nhà ở Sài gòn phòng biến. Ngài đã không nghe khiến cho địa phận Phát diệm bây giờ lâm vào cảnh cơ cực ở vũng lầy Phú nhuận. Tới giai đoạn hiệp định Genève, tôi hết sức hô hào dân lành bỏ Bắc vào Nam, thì Ngài lại đòi tôi làm một việc mộng tưỏng đầy máu xương, là giúp Ngài cố thủ tại Phát diệm! Cha ơi! Tôi rất đau khổ vì mất một ông bạn cố tri, từng là ân nhân của tôi và cùng tôi xuất thân từ Quảng tri!” Thú thực, tôi rất mừng thầm khi thấy Đức Cha Từ vào Nam đã né tránh các hoạt động chính trị và quân sự.
Xin lần nữa viết về ông Nhu. Tôi tự hỏi: tại sao có lễ nghi rườm rà tiếp đón tôi vào dinh độc lập như kể trên? Tôi tin rằng đó là sáng kiền riêng của Tổng thống Ngô đình Diệm, và hình như không được ông Nhu tán thành cho lắm, khiến cho từ đó về sau trong nhiều dịp gặp gỡ, ông Nhu nếu không nguội lạnh, thì cũng không bao giờ tỏ ý thịnh tình với tôi. Hồi ông Diệm còn ở Nữu ước, một hôm chúng tôi tản bộ ở gần nhà anh Chị Bùi công Văn – thì anh Bùi công Văn xin chụp hình ông Cụ và tôi, vai sánh vai chung trong một tấm hình. Ông Ngô đình Diệm cho phép ngay, và cách đây chừng 20 năm, tìm đến Virginia thăm ông bà họ Bùi lần sau cùng, tôi còn thấy Album gia đình vẫn giữ tấm hình này, nhưng tấm thứ hai tôi đưa về Sài gòn đầu năm 1955 đã bị ông Nhu sai người tới tận nhà thu hồi để huỷ đi (vì sợ tôi không xứng đánh đứng sánh vai với Tổng thống?) Sự cố xảy ra vào quãng năm 1961.
Có lần tôi hỏi: làm thế nào mà Tổng thống thực hiện công cuộc bình định xuôi xẻ như vậy? Đáp: “ Ngưới Pháp dùng các tay chân còn trung thành với họ, nhất nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn và tướng Hinh, đã tìm hết cách phá hoại quốc gia. Đồng thời Hoa thịnh đốn cứ êm re. Đương lúc bối rối vì quân đội thiếu võ khí thì may thay, Vòng a Sáng phụ trách một kho đạn lớn của Pháp thiết lập ở miền Trung (Cụ nói rõ tên vị trí mà tôi quên mất) tự ý chở tiếp liệu về Sài gòn. Tôi ao ước hiểu biết: Vòng A Sáng là ai? Và lòng trung thành hữu hiệu của nhân vật ấy đã được báo đáp như thế nào? Nhưng thấy Thổng thống muốn chấm dứt cuộc hội đàm, tôi đã không dám hỏi.
Qua ngày 11 tháng 10, Pháp quân rời Việt Nam, và ông Hồ chí Minh lên ngồi ghế Chủ tịch Dân chủ Việt Nam Cộng hoà. Nhưng phải đợi cho tới ngày 24 tháng 10, tổng thống Eisenhower mới gửi một công văn cho Tổng thống Diệm hứa Mỹ sẽ giúp miền Nam, và để chứng minh ông sai tướng J. Lawton Collins làm đại sứ Mỹ ở Sài gòn. Bình phẩm về vụ này, Tổng thống Johnson về sau có lần nhìn nhận rằng: đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ bắt tay với chính phủ Ngô đình Diệm.
Vì thành tâm phục tài ông Diệm, tổng thống Mỹ đã mời Tổng thống đệ nhất Cộng hoà Việt Nam sang Mỹ ngày mùng 8 tháng 5 năm 1957. Nhân dịp này, ông tôn xưng Tổng thống Diệm là Kỳ nhân của Á châu (the Miracle Man of Asia). Và T.t. Eisenhower đã ra tận phi trường Dulles đón ông Diệm, lại tổ chức một cuộc vinh danh quý khách (VIP) tại Manhattan. Ngày vinh danh đó, Tổng thống Việt Nam đứng trên một chiếc xe hơi mui trần, vẫy tay chào công chúng hai bên đường…Đoàn xe từ từ dạo qua các phố chính, đặc biệt là ở công trường Time Square (một khúc của Broadway), thì giấy confetti muôn màu bay xuống không dứt như một trận mưa hoa đào…
Dù vậy mặc lòng, Hoa Kỳ chỉ phái nhân viên chuyên môn sang Việt Nam làm cố vấn, và chi tiêu rất ít cho ông Diệm. Sánh với gần 3 tỉ bạc người Việt từ Mỹ hiện nay gửi về Việt Nam hằng năm thì số tiền Hoa Kỳ phải bỏ ra giúp đệ nhất VN Cộng hoà thực là không đáng kể. Tôi không nắm chắc được con số, nhưng dám quả quyết số tiền Ông Diệm nhận được từ Hoa Kỳ không bao giờ lớn hơn 500 triệu mỗi năm. Thế mà Quốc trưởng đệ nhất Việt Nam cộng hoà được quốc tế kính nể, người dân trong nước được hạnh phúc an ninh, Cái Sắn, Hố nai từ hoang địa đã trở thành làng xóm trù mật. Chùa chiền và nhà thờ mọc lên như nấm…
Tiếc thay sang thời Kỳ đảng Dân Chủ cầm quyền, không ai hiểu được vì lí do gì, Tổng Thống J. F. Kennedy muốn đưa đại quân Mỹ đổ sang Việt Nam.
Tổng thống Ngô đình Diệm can ngăn. Có lần ông nói với tôi: “Hiện nay Việt Nam chỉ cần Hoa Kỳ viện trợ một số phi cơ oanh tạc và đầy đủ máy điện thoại lưu động có tầm gọi xa. Với ngần ấy, các ấp chiến lược sẽ liên lạc được với nhau mà bảo vệ hữu hiệu nền an ninh cho cả nước. Cần gì đại quân Mỹ phải kéo sang đây mà thêm đổ máu cho cả quân Mỹ cả nhân dân Việt từ Bắc vào Nam làm gì? “ Thế rồi vì quý trọng sinh mạng, vì yêu nước, ông quyết liệt từ chối đề nghị của Bạch cung. Ngày mùng 4 tháng chạp dương lịch năm 1960, Đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow, đánh điện về Hoa thịnh đốn: “It may be necessary to consider alternatives to Diem”.
Tin lọt tới Hà nội, Bắc kinh và Mạc tư khoa!!! Hoa Kỳ thua trận Việt Nam từ ngày hôm ấy; ông Diệm nhận án tử hình cũng ngày hôm ấy: mùng 4 tháng chạp năm 1960!!!. Tuy nhiên ông còn cố gắng cầm cự thêm ba năm nữa, trong tình trạng càng ngày càng loạn lạc: vụ Phật giáo xuống đường; vụ xô xát giữa đám côn đồ mạo xưng là Phật tử với đám thanh niên Thiên Chúa giáo, vụ treo cờ ở Huế, vụ hoà thượng tự thiêu…Ngày 5 October đại sứ Cabot Lodge (thuộc đảng Cộng hoà, trình uỷ nhiệm thư ngày 21 tháng 8 năm 1963) báo cáo lên Tổng thống J.F. Kennedy (thuộc đảng Dân chủ): “The coup against Diem is imminent”. Tới ngày mùng 2 tháng một (November) 1963, “Kỳ nhân Á châu” đã bị Nguyễn văn Nhung bắn chết thầm lén trong một chiếc thiết giáp xa, sau khi ông đã tự ý đầu hàng. Than ôi! Nghĩ tới Saddam Hussein nhà độc tài Iraq ăn gian tiền Liên hiệp quốc bán dầu cứu đói, lại giết hại biết bao nhiêu công dân của ông, nhưng được tha mạng khi ông đầu hàng, mà ngậm ngùi thay cho Tổng thống Ngô đình Diệm Kỳ nhân bạc mệnh.
Tôi mạn phép dừng bút nơi đây.
Nguồn: www.anviettoancau.net
Tác giả: Lm Trần Văn Kiệm
VietCatholic TV
Tái chiếm Kursk bất thành, Pu tung chiêu mới: Mê Tín Dị Đoan. Hai trực thăng Nga rơi trong một ngày
VietCatholic Media
03:08 28/10/2024
1. Trực thăng Mi-2 rơi ở Nga, bốn người thiệt mạng
Một chiếc trực thăng cứu thương Mi-2 đã bị rơi ở Tỉnh Kirov, Nga, khiến bốn người thiệt mạng.
Bộ Tình trạng Khẩn cấp Nga cho biết như trên hôm Chúa Nhật, 27 Tháng Mười,.
Bộ này báo cáo về một vụ “hạ cánh khẩn cấp” của một chiếc trực thăng Mi-2 trong khu rừng gần làng Beleenki ở tỉnh Kirov. Có bốn người trên máy bay, không ai sống sót sau vụ tai nạn.
Theo kênh Baza Telegram, trên máy bay có một phi công và ba nhân viên y tế.
TASS đưa tin, trích dẫn dữ liệu từ Cơ quan ghi danh máy bay dân dụng Nga, rằng chiếc trực thăng Mi-2 bị rơi đã hoạt động được gần 38 năm.
Cùng lúc đó, kênh Astra Telegram, trích dẫn kênh Fighterbomber, gần gũi với Lực lượng Không quân Vũ trụ Nga, cũng đưa tin rằng một trực thăng quân sự đã bị rơi ở eo biển Kerch. Thông tin này vẫn chưa được các nguồn khác xác nhận.
[Ukrainska Pravda: Mi-2 helicopter crashes in Russia, killing four people]
2. Nga sử dụng mê tín dị đoan khi cho rằng Baba Vanga và Nostradamus đã đưa ra cùng một dự đoán rùng rợn vào năm 2025
Theo các phương tiện truyền thông Nga, BABA Vanga và Nostradamus đã đưa ra cùng một dự đoán đáng sợ về năm 2025, khi nhân loại chứng kiến “sự tàn phá Âu Châu”.
RIA Novosti cho rằng các nhà ngoại cảm nổi tiếng đã ám chỉ đến một cuộc chiến tranh chết chóc có khả năng tàn phá Âu Châu ngay vào năm sau.
Nhà chiêm tinh người Pháp cổ đại Michel de Nostredame, thường được gọi là Nostradumus, nổi tiếng vì đưa ra những dự đoán chính xác về tương lai.
Bác sĩ thế kỷ 16 đã viết về việc “các vùng đất Âu Châu” sẽ tham gia vào “những cuộc chiến tranh tàn khốc” - có lẽ liên quan đến cuộc chiến tranh tàn khốc của Putin ở Ukraine.
Ông cũng nói thêm: “Căn bệnh dịch cổ xưa sẽ còn tồi tệ hơn chiến tranh”.
Trong khi đó, nhà huyền môn người Bulgaria Baba, tên khai sinh là Vangeliya Pandeva Gushterova, sinh năm 1911, cho biết dân số Âu Châu sẽ gặp nguy hiểm lớn.
Câu này có thể ám chỉ đến sự tàn bạo đang diễn ra ở Ukraine, nơi hàng ngàn thường dân vô tội đã bị thảm sát.
Theo RIA Novosti, người phụ nữ mù, người đã đưa ra những dự đoán nhiều năm trước về các sự kiện lịch sử của thế kỷ này, đã nói rõ ràng về chiến thắng của Putin.
Trong cuộc gặp với nhà văn Valentin Sidorov năm 1979, Vanga đã nói: “Tất cả sẽ tan chảy, như băng, chỉ có một thứ không bị ảnh hưởng – đó là vinh quang của Vladimir, vinh quang của nước Nga.”
Bà nói thêm: “Nước Nga sẽ loại bỏ mọi thứ trên đường đi, nước Nga không chỉ đứng vững mà còn trở thành chúa tể của thế giới.”
Ngay trước khi qua đời, người phụ nữ lớn tuổi này dường như đã nói về sự ra đời của Thế chiến thứ ba: “Nga không chỉ tồn tại mà còn thống trị thế giới”.
Những tuyên bố của bà có liên quan đến các sự kiện bi thảm như ngày 11 tháng 9 và Chiến tranh ở Ukraine.
Những dự đoán của Baba Vanga được cho là có tỷ lệ thành công lên tới 85%, bao gồm cả dự đoán Putin có thể giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2018.
RIA Novosti cho rằng những sự việc khác mà bà dự đoán chính xác là thảm họa tàu ngầm hạt nhân Kursk.
Năm 1980, Baba đã nói rằng Kursk sẽ “bị nước bao phủ và toàn thế giới sẽ than khóc vì nó” và khẳng định thảm họa sẽ xảy ra vào tháng 8 năm 1999.
Tàu ngầm Nga bị chìm vào tháng 8 năm 2000, khiến toàn bộ hành khách trên tàu thiệt mạng.
Người ta cũng cho rằng thầy lang người Bulgaria đã dự đoán được sự trỗi dậy của nhóm khủng bố ISIS.
Một tuyên bố rùng rợn khác đã được chứng minh là có thật là tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ sẽ là người da đen - và Obama là nhà lãnh đạo người Mỹ gốc Phi đầu tiên của đất nước.
Năm 1989, Baba tuyên bố rằng “những người anh em Mỹ sẽ ngã xuống sau khi bị những con chim thép tấn công... và máu vô tội sẽ đổ ra”.
Một số người tin rằng đây là ám chỉ đến vụ tấn công kinh hoàng ngày 11 tháng 9 ở Hoa Kỳ năm 2001.
Tuy nhiên, không phải mọi điều bà dự đoán đều đúng vì bà cũng nói rằng Hoa Kỳ sẽ không còn tổng thống nữa sau nhiệm kỳ thứ 44.
Trong bản đánh giá tình hình mới nhất Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh Hoa Kỳ, gọi tắt là ISW, cho biết trùm mafia Vladimir Putin đang dùng mọi phương sách để trấn an dân Nga trước các tổn thất kinh hoàng của quân đội Nga, và trước thực tế không thể chối cãi là quân Putin không thể đánh bật được quân Ukraine khỏi tỉnh Kursk.
Meduza, một cơ quan truyền thông Nga có trụ sở tại Latvia, đưa tin vào ngày 24 tháng 10 rằng họ đã xem xét một chỉ thị do Văn phòng Tổng thống Nga ban hành, hướng dẫn các phương tiện truyền thông nhà nước và các nhà tuyên truyền về nội dung ưu tiên đưa tin về hội nghị thượng đỉnh BRICS tại Kazan.
Theo như báo cáo, hướng dẫn này nhấn mạnh ba chủ đề: Thứ nhất, Putin là “nhà lãnh đạo không chính thức của đa số thế giới”; Thứ hai, giới tinh hoa phương Tây đang “hoảng loạn”; Thứ ba, nhìn chung, phương Tây đang “lo lắng”.
[The Sun: EERIE PROPHECY Baba Vanga and Nostradamus made the same chilling 2025 prediction that could ‘devastate Europe]
3. Putin lặp lại cảnh báo NATO về hỏa tiễn Ukraine tầm xa
Trùm mafia Vladimir Putin cho biết Mạc Tư Khoa đang xây dựng các biện pháp đáp trả nếu các nước phương Tây chấp thuận cho Ukraine tấn công sâu vào lãnh thổ Nga bằng vũ khí tầm xa do Hoa Kỳ tài trợ.
Lãnh đạo Điện Cẩm Linh nói với nhà báo truyền thông nhà nước Nga Pavel Zarubin rằng ông hy vọng các nước phương Tây đã lắng nghe tuyên bố của ông về việc bật đèn xanh cho vũ khí tầm xa chống lại Nga.
“Họ chưa nói với tôi bất cứ điều gì về điều đó, nhưng tôi hy vọng họ đã nghe”, Putin nói trong bài phát biểu được ghi âm đăng trên ứng dụng nhắn tin Telegram. “Bởi vì, tất nhiên, chúng ta cũng sẽ phải tự đưa ra một số quyết định”.
Bất chấp những yêu cầu liên tục từ Kyiv, Ukraine không được phép sử dụng vũ khí tầm xa của phương Tây để tấn công sâu vào lãnh thổ Nga. Họ được phép sử dụng vũ khí tầm ngắn để chống lại các mối đe dọa trực tiếp đối với biên giới của mình, và sử dụng máy bay điều khiển từ xa tầm xa để tấn công các căn cứ không quân, kho đạn dược và nhà máy lọc dầu của Mạc Tư Khoa cách đất Nga hàng trăm dặm.
Hoa Kỳ đã cung cấp Hệ thống hỏa tiễn chiến thuật của quân đội, hay ATACMS, cho Ukraine, có tầm bắn khoảng 190 dặm hay 306 km. Anh và Pháp đã gửi hỏa tiễn hành trình phóng từ trên không Storm Shadow, hay SCALP, của Anh-Pháp, có tầm bắn khoảng 155 dặm hay 250 km. Kyiv đã sử dụng những vũ khí này chống lại lãnh thổ do Nga kiểm soát được quốc tế công nhận là của Ukraine.
Đức, một trong những nước ủng hộ chính của Ukraine, đã từ chối cung cấp hỏa tiễn Taurus, loại hỏa tiễn này khá giống với hỏa tiễn Storm Shadow.
Các quan chức phương Tây đã ám chỉ vào tháng trước rằng lệnh cấm này có thể được dỡ bỏ, nhưng vẫn chưa được công bố chính thức.
Cuộc xâm lược toàn diện của Mạc Tư Khoa vào Ukraine và cuộc chiến hiện đã kéo dài hơn hai năm rưỡi, đã làm xấu đi mối quan hệ giữa Nga và nhiều nước phương Tây đến mức tồi tệ nhất kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Ukraine phụ thuộc rất nhiều vào phương Tây để được hỗ trợ trong các hoạt động của mình.
Putin cho biết “còn quá sớm” để nói về những lựa chọn nào sẽ được đưa ra thảo luận. “Nhưng tất nhiên, bộ chỉ huy quân sự của chúng tôi đang cân nhắc về điều này và sẽ đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau để ứng phó”.
Putin đã nói vào giữa tháng 9 rằng nếu các quốc gia phương Tây cho phép Ukraine sử dụng những vũ khí này để tấn công Nga, “điều đó sẽ không có nghĩa là gì ngoài việc tham gia trực tiếp” vào cuộc xung đột. Các nước NATO đã rất cảnh giác để tránh leo thang chiến tranh.
“Điều đó có nghĩa là các nước NATO, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu là các bên tham gia vào cuộc chiến ở Ukraine”, Putin nói, theo một bản tin của Điện Cẩm Linh. “Điều này có nghĩa là họ sẽ trực tiếp tham gia vào cuộc xung đột, và rõ ràng là nó sẽ thay đổi bản chất, bản chất của cuộc xung đột một cách đáng kể”.
“Điều này có nghĩa là các nước NATO—Hoa Kỳ và các nước Âu Châu—sẽ có chiến tranh với Nga.”
Putin khi đó đã nói rằng Mạc Tư Khoa sẽ “đưa ra những quyết định phù hợp để ứng phó với những mối đe dọa mà chúng ta phải đối mặt”.
NATO đã nhiều lần tuyên bố liên minh này không có chiến tranh với Mạc Tư Khoa, cũng không “tham gia vào cuộc chiến mà Nga đang tiến hành ở Ukraine”.
“Chúng tôi không muốn đối đầu với Nga,” liên minh này cho biết.
Lãnh đạo Điện Cẩm Linh cho biết Ukraine sẽ không thể vận hành các hệ thống tầm xa độc lập với những nước hậu thuẫn mình.
[Newsweek: Putin Renews Warning to NATO Over Ukraine Missiles]
4. Tình báo Nam Hàn tin rằng Bắc Hàn đang chuẩn bị thêm quân để giúp Nga
Tình báo Nam Hàn tin rằng Bắc Hàn đã sẵn sàng gửi một nhóm quân nhân mới tới vùng chiến sự ở Ukraine để hỗ trợ Nga.
Theo Bloomberg, 1.500 binh lính Bắc Hàn đã được huấn luyện tại Vladivostok, đã đến đây từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 10. Theo bài báo, quân đội Bắc Hàn được huấn luyện tại Vladivostok, Ussuriysk, Khabarovsk và Blagoveshchensk. Việc chuẩn bị sẽ mất khoảng một tháng, sau đó họ sẽ được đưa đến tiền tuyến. Theo các sĩ quan tình báo, Bắc Hàn sẽ điều động 12.000 quân nhân tham chiến tại Ukraine.
Bài viết cũng mô tả rằng Bắc Hàn đã cung cấp cho Nga 8 triệu quả đạn pháo cỡ nòng 122 và 152, 100 hỏa tiễn và hệ thống chống tăng. Chúng đã được phát hiện ở mặt trận, Bloomberg viết.
Cùng lúc đó, Bộ Ngoại giao Bắc Hàn tuyên bố rằng việc điều động quân đội Bắc Hàn đến Nga là phù hợp với luật pháp quốc tế.
[Ukrainska Pravda: South Korean intelligence believes DPRK is preparing more soldiers to help Russia]
5. ISW cho biết: Không thể tái chiếm Kursk, Putin phóng đại tổn thất của Ukraine ở Kursk để trấn an dân Nga
Các nhà phân tích tại Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW tin rằng nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin đang cố tình phóng đại số liệu thống kê về tổn thất của Ukraine tại Tỉnh Kursk của Nga để trấn an dân Nga trước thực tế là quân đội của ông ta không thể chiếm lại khu vực này.
Các nhà phân tích đã đề cập đến tuyên bố của Putin với phương tiện truyền thông Nga về 2.000 quân Ukraine được cho là bị bao vây trong khu vực. Tuy nhiên, như đã lưu ý trong báo cáo của ISW, Bộ Quốc phòng Nga đã không công khai báo cáo về “cuộc xâm nhập thành công của quân đội Nga vào một số vị trí cụ thể của Ukraine ở Kursk “.
Putin cũng không thừa nhận rằng tiền tuyến của Ukraine tại Tỉnh Kursk trải dài từ biên giới quốc tế Ukraine-Nga, và rằng quân đội Ukraine có thể tự do vượt qua các khu vực biên giới do Ukraine kiểm soát.
Theo ước tính của Oleksandr Syrskyi, Tổng tư lệnh Quân đội Ukraine, người đã bác bỏ tuyên bố của Putin rằng quân đội Ukraine đã bị bao vây, thì tổn thất quân đội Nga kể từ ngày 8 tháng 8 tại Tỉnh Kursk đã lên tới 17.819 binh sĩ.
ISW nhấn mạnh rằng “Những số liệu thống kê phóng đại của Putin về tổn thất của Ukraine có thể là một phần trong nỗ lực của ông ta để đối phó với thực tế là Nga không thể đẩy lùi cuộc tấn công của Ukraine vào Tỉnh Kursk sau gần ba tháng; và gần đây phải nhờ đến quân đội Bắc Hàn có khả năng sắp được điều động để chiến đấu ở khu vực này”.
ISW chỉ ra rằng việc phải nhờ đến quân đội Bắc Hàn cho thấy Putin tuyệt vọng đến mức nào. Trước hết, nó phơi bày một thực tế là quân Nga không có khả năng. Thứ hai, quân đội Bắc Hàn chủ yếu là những người làm việc trong các nông trại không có khả năng và kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh hiện đại, khả năng họ có thể xoay chuyển được tình hình tại tỉnh Kursk gần như bằng zero.
[Ukrainska Pravda: Putin exaggerates Ukrainian losses in Kursk Oblast to justify inability to recapture it – ISW]
6. Von der Leyen khen ngợi tổng thống Serbia vì không tham dự hội nghị thượng đỉnh của Putin
Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen khen ngợi Tổng thống Serbia Aleksandar Vučić vì đã không tham dự hội nghị thượng đỉnh BRICS ở Nga mà thay vào đó đã gặp bà và các nhà lãnh đạo Âu Châu khác.
Vučić đã cử một phái đoàn cao cấp tới hội nghị thượng đỉnh ở Nga, nhưng cho biết ông sẽ không thể tham dự vì ông có cuộc họp với von der Leyen, cũng như với các nhà lãnh đạo của Ba Lan và Hy Lạp.
“Những gì tôi thấy là tổng thống Cộng hòa Serbia đang tiếp đón tôi ở đây hôm nay và vừa tiếp đón thủ tướng Hy Lạp và thủ tướng Ba Lan. Tôi nghĩ điều đó tự nói lên tất cả,” von der Leyen nói.
Bà nói thêm rằng chuyến thăm Serbia của bà “là một dấu hiệu rất rõ ràng cho thấy tôi tin rằng tương lai của Serbia nằm ở Liên minh Âu Châu”.
Tuần này, von der Leyen đã có mặt tại Serbia trong chuyến đi tới các nước Tây Balkan đang mong muốn trở thành thành viên Liên Hiệp Âu Châu để trấn an họ rằng việc mở rộng Liên Hiệp Âu Châu vẫn là ưu tiên hàng đầu.
Trước đó truyền thông Serbia đưa tin rằng von der Leyen từ chối gặp Thủ tướng Serbia Miloš Vučević vì cuộc hội đàm của ông vào thứ sáu với phái đoàn kinh tế cao cấp của Nga đến Belgrade để thảo luận về việc tăng cường quan hệ với Serbia.
Vučić sẽ gặp các quan chức Nga vào thứ Bảy.
Chúa Nhật tuần trước, Vučić đã có cuộc điện đàm đầu tiên với nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin sau gần hai năm rưỡi.
[Politico: Von der Leyen praises Serbian president for not attending Putin's summit]
7. Văn phòng Tổng thống Ukraine khẳng định Nga phải rút quân về các vị trí kể từ ngày 24 tháng 2 năm 2022 để bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình
Văn phòng Tổng thống Ukraine khẳng định Nga phải rút quân về các vị trí kể từ ngày 24 tháng 2 năm 2022 để bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình
Andrii Yermak, Chánh Văn phòng Tổng thống Ukraine, cho biết để bắt đầu đàm phán với Nga, quân đội nước này phải rút về vị trí của mình kể từ ngày 24 tháng 2 năm 2022.
Yermak đưa ra lập trường trên trong một cuộc phỏng vấn với cơ quan truyền thông Corriere Della Sera của Ý
Ông nói: “Zelenskiy chưa bao giờ thảo luận về các thỏa hiệp lãnh thổ, chỉ đơn thuần là nhu cầu tôn trọng các biên giới được quốc tế công nhận. Tuy nhiên, xét đến hoàn cảnh xung quanh cuộc xâm lược của Nga, ông đã chuẩn bị để nói chuyện vào năm 2022. Crimea và Donbas vẫn là lãnh thổ của Ukraine, và điều đó không thể thương lượng. Chúng tôi phản đối việc đóng băng chiến tranh; chúng tôi muốn nó kết thúc. Chúng tôi rất vui mừng khi các quốc gia ở phía Nam toàn cầu lên án cuộc xâm lược và sáp nhập lãnh thổ bằng vũ lực của Nga.
Tuy nhiên, để bắt đầu đàm phán, chúng ta phải quay lại tình trạng trước khi tiếng súng đầu tiên của Nga nổ ra lúc 4:00 sáng ngày 24 Tháng Hai, 2022. Sau đó, chúng ta sẽ thảo luận về cách khôi phục chủ quyền của chúng ta cho đến biên giới năm 1991.
Yermak cũng cho biết ông không quan tâm đến những gì nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin nói về việc cần phải tính đến “thực tế trên thực địa”.
“ Tôi không quan tâm kẻ xâm lược nói gì! Chúng ta không thể xây dựng một đề xuất hòa bình dưới sự chi phối của những người mong muốn chiến tranh. Chúng ta sẽ chuẩn bị tổ chức một hội nghị quốc tế khi chúng ta cảm thấy mạnh mẽ, và chúng ta sẽ có sự ủng hộ của Nam Bán cầu trong việc đàm phán với Nga.”
Khi được hỏi liệu điều này có nghĩa là Hội nghị thượng đỉnh hòa bình lần thứ hai bị hoãn lại cho đến năm sau hay không, Yermak trả lời, “Chúng tôi không biết. Chúng tôi sẽ thực hiện khi các điều kiện phù hợp, và tốt nhất là càng nhanh càng tốt.”
[Ukrainska Pravda: Ukrainian President's Office asserts Russia must withdraw to positions as of 24 February 2022 to start peace talks]
8. Các cuộc không kích chết người của Nga đánh trúng Bệnh viện quân y chiến lược ở Dnipro
Một người phụ nữ và con gái bà nằm trong số những người thiệt mạng trong cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga vào một bệnh viện ở Ukraine, nơi điều trị cho những người lính bị thương, các nhà chức trách cho biết, khi Mạc Tư Khoa tiếp tục ném bom vào quốc gia này.
Nga đã tăng cường các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa vào các địa điểm của Ukraine, nhắm vào cả cơ sở hạ tầng dân sự và năng lượng, gây áp lực lên Kyiv khi chiến tranh một lần nữa bước vào những tháng mùa đông.
Trong vụ tấn công mới nhất, một cuộc không kích của Nga đã phá hủy các tòa nhà dân cư và Bệnh viện Mechnikov ở thành phố Dnipro miền trung-đông, thành phố lớn thứ tư của đất nước, khiến ít nhất bốn người thiệt mạng và 20 người bị thương, các báo cáo cho biết.
Quân đội Ukraine bị thương nghiêm trọng đã được đưa đến bệnh viện từ tiền tuyến, cách đó khoảng 120 dặm. Cuộc tấn công hôm thứ sáu cũng đã phá hủy 13 tòa nhà chung cư và hai ngôi nhà. Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Nga để xin bình luận.
Sau cuộc tấn công hôm thứ Sáu, một cảnh sát, vợ và hai con gái của họ đã bị mắc kẹt dưới đống đổ nát của một tòa nhà. Trong khi cô gái trẻ hơn được giải cứu, con gái 14 tuổi và vợ của cảnh sát đã thiệt mạng, theo Cảnh sát Quốc gia Ukraine.
Ở nơi khác, một bé gái 15 tuổi đã thiệt mạng sau khi một máy bay điều khiển từ xa của Nga đâm vào một tòa nhà dân cư cao 25 tầng ở quận Solomianskyi của Kyiv vào thứ sáu, thị trưởng thành phố Vitali Klitschko đưa tin. Năm người khác bị thương, một người trong số đó đã phải vào bệnh viện.
Cơ quan Cấp cứu Ukraine cho biết vụ tấn công đã làm hư hại tầng 17, 18 và 19, và 100 người đã được di tản khỏi tòa nhà.
Theo Oleh Syniehubov, nhà lãnh đạo chính quyền quân sự khu vực, sáng thứ Bảy, một phụ nữ 61 tuổi đã thiệt mạng tại khu vực Kharkiv trong cuộc pháo kích của Nga vào làng Borova thuộc quận Izium.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã đăng tải những hình ảnh trên kênh Telegram của mình cho thấy cảnh tượng các cuộc không kích mới nhất của Nga, bao gồm cả khu vực Sumy và Khmelnytskyi ở phía tây đất nước.
Ông cho biết sau hội nghị thượng đỉnh BRICS tại thành phố Kazan, “những kẻ giết người người Nga đã quay trở lại với công việc thường ngày của chúng”.
“Điều này một lần nữa chứng minh rằng hành động xâm lược không thể dừng lại bằng đàm phán, mà chỉ có thể bằng những hành động quyết đoán để bảo vệ nhà nước và người dân đang phải hứng chịu cuộc chiến tranh này”, Zelenskiy viết.
Ông tiếp tục: “Cuộc chiến này đã diễn ra trong ba năm nay, và chỉ có một thủ phạm duy nhất—Mạc Tư Khoa. Đó là lý do tại sao chúng ta cần áp lực lớn như vậy lên kẻ xâm lược để buộc hắn phải chấm dứt khủng bố và chiến tranh. Hòa bình và an ninh lâu dài chỉ đạt được thông qua sức mạnh và sự quyết tâm.”
[Newsweek: Deadly Russian Airstrikes Hit Strategic Military Hospital in Dnipro]
9. Văn phòng Tổng công tố cho biết có nhiều khả năng quân đội Nga đã tấn công xe dân sự và giết người ở Selydove thuộc tỉnh Donetsk
Hôm Chúa Nhật, 27 Tháng Mười, quân đội Nga có khả năng đã tấn công xe dân sự và giết người ở Selydove thuộc tỉnh Donetsk.
Lực lượng thực thi pháp luật Ukraine đang điều tra vụ việc quân đội Nga nghi ngờ nhắm vào một xe dân sự ở thị trấn Selydove thuộc tỉnh Donetsk và giết hại người dân địa phương.
Văn phòng công tố lưu ý rằng vào ngày 27 tháng 10, một số kênh Telegram đã công bố thông tin về vụ giết hại thường dân ở thị trấn Selydove do binh lính Nga thực hiện.
“Đoạn video được công bố cho thấy quân nhân của quân đội nhà nước xâm lược có khả năng tấn công một chiếc xe dân sự trong thị trấn, sử dụng vũ khí tự động. Vào thời điểm xảy ra vụ tấn công, có hai công dân trong xe và một trong số họ bị thương. Sau đó, quân đội Ukraine đã đến hiện trường và kéo người đàn ông ra khỏi làn đạn, tiến hành cấp cứu và di tản dân thường khỏi khu vực.
Các báo cáo của phương tiện truyền thông cho biết rằng đối phương cũng đã giết hai phụ nữ trong thành phố. Ngoài ra, các nguồn trực tuyến lưu ý rằng các thi thể của thường dân đã chết được phát hiện trong một khu dân cư vẫn hầu như không bị ảnh hưởng bởi các hoạt động thù địch đang diễn ra. Điều này cho thấy rằng các vụ giết người xảy ra sau khi đối phương đã thiết lập quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ này.
Các hoạt động điều tra và tìm kiếm khẩn cấp hiện đang được tiến hành để xác định mọi tình tiết xung quanh các sự kiện và xác định danh tính những cá nhân bị lực lượng Nga giết hại.
Một cuộc điều tra trước khi xét xử đang được tiến hành dưới sự giám sát thủ tục của Văn phòng Công tố Tỉnh Donetsk liên quan đến hành vi vi phạm luật pháp và phong tục chiến tranh, theo Điều 438.2 của Bộ luật Hình sự Ukraine.
[Ukrainska Pravda: Russian troops likely attack civilian car and kill people in Selydove in Donetsk Oblast – Prosecutor General's Office, photo]
10. Tranh chấp ngoại giao nổ ra giữa Hung Gia Lợi và Croatia về Ukraine
Đại sứ Croatia đã được triệu tập tới Bộ Ngoại giao Hung Gia Lợi vào thứ sáu, ngày 25 tháng 10, do tuyên bố của Bộ trưởng Croatia Ivan Anušić về lập trường của Budapest đối với Ukraine.
Nguyên nhân của tranh chấp ngoại giao là những phát biểu của Anušić tại cuộc họp của ủy ban quốc hội Croatia.
Ông chỉ trích lập trường của Tổng thống Croatia Zoran Milanović, người đã từ chối gửi quân lính Croatia tham gia Chương trình Hỗ trợ an ninh và Huấn luyện của NATO cho Ukraine, gọi tắt là NSATU.
Anušić cho biết nếu Croatia không tham gia vào các nhiệm vụ quân sự của NATO, nước này sẽ trở nên giống như Serbia và Hung Gia Lợi, những quốc gia công khai ủng hộ Nga.
Bộ trưởng hỏi liệu họ có muốn đứng về phía Serbia và Hung Gia Lợi, những nước hiện đang công khai ủng hộ Putin, hay họ muốn trở thành một phần của thế giới mà họ hiện đang thuộc về - thế giới phương Tây, với các giá trị, nền văn minh và nền dân chủ của họ.
Đáp lại, Bộ trưởng Ngoại giao Hung Gia Lợi Péter Szijjártó cho biết Hung Gia Lợi tìm kiếm mối quan hệ tốt nhất có thể với tất cả các nước láng giềng, bao gồm cả Croatia.
“Đây là lý do tại sao chúng tôi bất ngờ khi thấy Bộ trưởng Quốc phòng Croatia dường như đã chọn một môn thể thao mới, đó là xúc phạm người Hung Gia Lợi... Tôi trân trọng yêu cầu chính phủ Croatia không kéo chúng ta vào những tranh chấp chính sách trong nước đang căng thẳng với Tổng thống của họ”, ông nói.
Szijjártó nói thêm rằng Hung Gia Lợi không liên quan gì đến tranh chấp giữa chính phủ Croatia và nhà lãnh đạo nhà nước.
“Họ nên giải quyết vấn đề này giữa họ và không nên xúc phạm Hung Gia Lợi dưới chiêu bài này trong tương lai. Tôi tin rằng quan hệ song phương của chúng ta không biện minh cho việc họ kéo chúng ta vào cuộc tranh chấp này”, Bộ trưởng Ngoại giao Hung Gia Lợi nói thêm.
[Ukrainska Pravda: Diplomatic dispute breaks out between Hungary and Croatia over Ukraine]
11. Tổng thống Zelenskiy: Ukraine phải chiến đấu chống lại cùng một lúc hai nước
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy kêu gọi các đối tác gây thêm áp lực lên Nga và hỗ trợ nhiều hơn cho Ukraine trước khả năng quân đội Bắc Hàn sẽ tham gia vào một cuộc chiến tranh chống lại Ukraine trong những ngày tới.
Trong diễn từ gởi quốc dân đồng bào tối Thứ Bẩy, 26 Tháng Mười, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói: “Mỗi ngày chiến tranh chứng minh rằng Mạc Tư Khoa quyết tâm tiếp tục hành động xâm lược của mình. Quân xâm lược không muốn bất cứ điều gì khác. Và đó là lý do tại sao họ đang cố gắng tăng sản lượng vũ khí của mình, và đó là lý do tại sao họ đang bỏ qua các lệnh trừng phạt. Và đó là lý do tại sao họ ngày càng coi Bắc Hàn là đồng minh, và binh lính của họ có thể sẽ ở trên chiến trường chống lại Ukraine bất cứ ngày nào bây giờ. Ukraine sẽ thực sự buộc phải chiến đấu chống lại Bắc Hàn ở Âu Châu.”
“Đây là những điều kiện mà việc các đối tác không đưa ra quyết định mạnh mẽ hơn để hỗ trợ Ukraine chỉ khuyến khích Putin đầu tư nhiều hơn vào khủng bố.”
“Thế giới có thể ngăn chặn chiến tranh diễn ra. Những điều trừu tượng và lời nói suông là không đủ. Cần có những bước đi cụ thể. Chúng tôi đã đưa ra tất cả những bước đi như vậy trong Kế hoạch Chiến thắng. Những bước đi này sẽ ngăn chặn những kẻ gây ra chiến tranh trở nên hung hăng hơn nữa. Chúng tôi mong đợi áp lực lớn hơn đối với Nga. Chúng tôi mong đợi sự ủng hộ nhiều hơn cho Ukraine. Và điều đó sẽ công bằng.”
Zelenskiy tuyên bố rằng tuần tới sẽ là thời gian “làm việc rất tích cực với các đối tác để hỗ trợ binh lính của chúng ta ở tiền tuyến và vì lợi ích của chiến lược buộc Nga phải chấm dứt chiến tranh”.
“Chúng tôi đang chuẩn bị công bố những tín hiệu hỗ trợ quan trọng cho Ukraine,” tổng thống cho biết.
Vào ngày 8 tháng 10, Bộ Quốc phòng Nam Hàn cho biết Bắc Hàn có khả năng sẽ gửi một số quân đội chính quy của mình tới Ukraine để hỗ trợ Nga.
Vào ngày 13 tháng 10, Tổng thống Zelenskiy tuyên bố rằng Bắc Hàn không chỉ cung cấp vũ khí cho Nga mà còn cung cấp cả nhân sự quân sự, đồng thời kêu gọi các đối tác tăng cường viện trợ cho Ukraine.
Vào ngày 17 tháng 10, Zelenskiy nói rõ rằng Nga có ý định đưa khoảng 10.000 binh sĩ từ Bắc Hàn vào cuộc chiến chống lại Ukraine.
Vào ngày 18 tháng 10, Kyrylo Budanov, nhà lãnh đạo Tình báo Quốc phòng Ukraine, xác nhận rằng khoảng 11.000 lính bộ binh Bắc Hàn hiện đang được huấn luyện ở phía đông nước Nga. Họ sẽ sẵn sàng tham gia các hoạt động chiến đấu chống lại Ukraine sớm nhất là vào ngày 1 tháng 11.
Hôm thứ Tư, tình báo Nam Hàn đưa tin Bình Nhưỡng đã gửi 3.000 quân tới Nga để hỗ trợ lực lượng Nga trong cuộc chiến chống lại Ukraine và cũng đang cố gắng cô lập gia đình của những người lính được chọn ở một địa điểm nhất định để ngăn chặn thông tin lan truyền.
Các đơn vị quân đội Bắc Hàn đầu tiên đã trải qua khóa huấn luyện tại các bãi huấn luyện ở phía đông nước Nga đã đến vùng chiến sự. Họ được phát hiện tại Tỉnh Kursk của Nga vào ngày 23 tháng 10.
[Ukrainska Pravda: Ukraine will be forced to fight against North Korea – Zelenskyy]
12. Hình ảnh vệ tinh cho thấy sự mở rộng tại phòng thí nghiệm vũ khí sinh học thời Liên Xô ở Nga
Hình ảnh vệ tinh cho thấy dấu hiệu của một cuộc cải tạo và mở rộng quy mô lớn tại một cơ sở quân sự được bảo vệ nghiêm ngặt gần Mạc Tư Khoa, nơi từng là nơi diễn ra chương trình vũ khí sinh học thời Chiến tranh Lạnh, tờ Washington Post, đưa tin vào ngày 25 tháng 10.
Sergiyev Posad-6, một căn cứ quân sự ở phía đông bắc Mạc Tư Khoa, là một trung tâm nghiên cứu vũ khí sinh học của Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh. Quân đội Liên Xô đã sử dụng phòng thí nghiệm này để thử nghiệm vũ khí hóa học, bao gồm các loại vi-rút gây ra bệnh đậu mùa và Ebola, cùng nhiều loại khác.
Ngay sau khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022, hình ảnh vệ tinh cho thấy hoạt động xây dựng và cải tạo lớn tại địa điểm Sergiyev Posad-6, tờ Washington Post đưa tin, trích dẫn hình ảnh từ các công ty hình ảnh Planet Labs và Maxar. Việc mở rộng lên tới hơn 250.000 feet vuông và 10 tòa nhà mới.
Theo các chuyên gia về phòng thủ sinh học và hình ảnh vệ tinh đã trao đổi với tờ Washington Post, các cơ sở này có một số đặc điểm riêng biệt của các phòng thí nghiệm sinh học an ninh cao chuyên giải quyết các mầm bệnh nguy hiểm.
Trong số các tính năng này có các đơn vị giải quyết không khí trên mái nhà rộng lớn, cơ sở hạ tầng ngầm, an ninh được tăng cường và một nhà máy điện. Bố cục này “phù hợp với thiết kế phòng thí nghiệm” và gợi ý các phòng thí nghiệm “có khả năng ngăn chặn tối đa” mọi khả năng lây lan ra bên ngoài, một chuyên gia cho biết.
Andrew Weber, cựu quan chức Ngũ Giác Đài và là thành viên cao cấp tại Hội đồng Rủi ro Chiến lược, cho biết: “Những nâng cấp này phù hợp với vai trò lịch sử của cơ sở sinh học quân sự an toàn, tuyệt mật trong việc phát triển vũ khí sinh học vi-rút”.
Các quan chức Nga cho biết mục đích của các phòng thí nghiệm này là nghiên cứu virus Ebola và các loại vi khuẩn gây chết người khác nhằm bảo vệ Nga khỏi nguy cơ khủng bố sinh học.
Việc mở rộng tại Sergiyev Posad-6 trùng hợp với chiến dịch thông tin sai lệch của Nga trong những tháng đầu của cuộc xâm lược toàn diện, khi Điện Cẩm Linh cáo buộc sai sự thật rằng Ukraine đang phát triển vũ khí sinh học.
Các quan chức nói với tờ Washington Post rằng không thể biết từ các bức ảnh vệ tinh liệu Nga có dự định sử dụng phòng thí nghiệm Sergiyev Posad-6 để nghiên cứu và phát triển vũ khí sinh học hay không.
Chiến tranh sinh học bị cấm theo luật pháp quốc tế. Mặc dù không có bằng chứng nào cho thấy Nga đã sử dụng những vũ khí như vậy trong cuộc chiến chống lại Ukraine, Kyiv đã cáo buộc Mạc Tư Khoa tiến hành hàng ngàn cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học trong cuộc xâm lược đang diễn ra của mình. Putin cũng đã nhiều lần dùng đến biện pháp tống tiền hạt nhân để ngăn chặn các đồng minh phương Tây của Ukraine có phản ứng hung hăng hơn.
[Kyiv Independent: Satellite images show expansion at Soviet-era bioweapons lab in Russia]
NewsUKEve28Oct2024
NATO họp khẩn vụ Bắc Hàn đưa quân giúp Nga. Iran thề trả thù cuộc không kích của Irael.
VietCatholic Media
15:53 28/10/2024
1. Tình báo Ukraine: Binh lính Bắc Hàn được đưa ra tiền tuyến bằng xe tải có biển số dân sự
Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Hai, 28 Tháng Mười, Phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, cho biết binh lính Bắc Hàn đang được đưa ra tiền tuyến bằng những chiếc xe tải có biển số dân sự.
Ông cho biết hôm Chúa Nhật, 27 Tháng Mười, cảnh sát Nga đã chặn một chiếc xe tải KamAZ mang biển số dân sự chở đầy lính Bắc Hàn trên xa lộ Kursk-Voronezh.
Theo báo cáo, tài xế chở quân tiếp viện của Bắc Hàn trên xe đã không có lệnh chiến đấu phù hợp. Xe tải KamAZ không phù hợp để chở hành khách. Nó được dùng để chở hàng hóa.
Trong một cuộc liên lạc vô tuyến bị tình báo Ukraine chặn lại, các sĩ quan của Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cận vệ 810 thuộc lực lượng xâm lược của Nga, đơn vị sẽ tiếp nhận quân tiếp viện từ Bắc Hàn, đã cố gắng xác định xem chiếc xe tải bị dừng lại có nằm trong kế hoạch hành quân của họ hay không và tại sao tài xế lại không có các giấy tờ cần thiết.
Vào ngày 8 tháng 10, Bộ Quốc phòng Nam Hàn cho biết Bắc Hàn có khả năng sẽ gửi một số quân đội chính quy của mình tới Ukraine để hỗ trợ Nga.
Vào ngày 13 tháng 10, Tổng thống Zelenskiy tuyên bố rằng Bắc Hàn không chỉ cung cấp vũ khí cho Nga mà còn cung cấp cả nhân sự quân sự, đồng thời kêu gọi các đối tác tăng cường viện trợ cho Ukraine.
Vào ngày 17 tháng 10, Zelenskiy nói rõ rằng Nga có ý định đưa khoảng 10.000 binh sĩ từ Bắc Hàn vào cuộc chiến chống lại Ukraine.
Vào ngày 18 tháng 10, Kyrylo Budanov, Trưởng phòng Tình báo Quốc phòng Ukraine, xác nhận rằng khoảng 11.000 lính bộ binh Bắc Hàn hiện đang được huấn luyện ở phía đông nước Nga. Họ sẽ sẵn sàng tham gia các hoạt động chiến đấu chống lại Ukraine sớm nhất là vào ngày 1 tháng 11.
Hôm thứ Tư, tình báo Nam Hàn đưa tin Bình Nhưỡng đã gửi 3.000 quân tới Nga để hỗ trợ lực lượng Nga trong cuộc chiến chống lại Ukraine và cũng đang cố gắng cô lập gia đình của những người lính được chọn ở một địa điểm nhất định để ngăn chặn thông tin lan truyền.
Các đơn vị quân đội Bắc Hàn đầu tiên đã trải qua khóa huấn luyện tại các bãi huấn luyện ở phía đông nước Nga đã đến vùng chiến sự. Họ được phát hiện tại Tỉnh Kursk của Nga vào ngày 23 tháng 10.
[Ukrainska Pravda: North Korean soldiers transported to front line in lorries with civilian plates – Ukrainian intelligence intercept]
2. Bloomberg: NATO cân nhắc hai cách ứng phó với việc Bắc Hàn gửi quân tới Nga
Phản ứng tiềm tàng của các nước NATO trước việc Bắc Hàn gửi quân tới Nga để tham gia vào cuộc chiến chống Ukraine là có hạn nhưng có thể bao gồm ít nhất hai phương án. Theo cơ quan truyền thông này, Nam Hàn sẽ trình bày một số thông tin tình báo về việc điều động quân đội Bắc Hàn tới Nga với các quan chức NATO tại cuộc họp của Hội đồng Bắc Đại Tây Dương vào thứ Hai 28 Tháng Mười, hai người quen thuộc với vấn đề này cho biết.
“Các phản ứng tiềm tàng của NATO là hạn chế nhưng có thể bao gồm việc tăng cường hỗ trợ cho Ukraine và xây dựng quan hệ đối tác ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, các nguồn tin cho biết.
Các tài liệu của Nam Hàn cho biết quân đội Bắc Hàn dự kiến sẽ được đưa ra mặt trận sau khi hoàn thành khoảng một tháng huấn luyện tại các cơ sở quân sự ở Vladivostok, Ussuriysk, Khabarovsk và Blagoveshchensk.
Theo một tài liệu tình báo của Nam Hàn, Điện Cẩm Linh có kế hoạch cung cấp cho người Bắc Hàn vũ khí và quân phục, cũng như giấy tờ tùy thân giả để họ trông giống như cư dân ở các khu vực phía đông nước Nga.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin cho biết hôm thứ Tư rằng quân đội Bắc Hàn đã có mặt tại Nga. Tòa Bạch Ốc cho biết khoảng 3.000 binh sĩ hiện đang được huấn luyện tại Nga. Ruben Brekelmans, Bộ trưởng Quốc phòng Hòa Lan, thừa nhận rằng phương Tây sẽ gặp thách thức khi đưa ra các biện pháp chống lại Bắc Hàn vì đã gửi quân tới hỗ trợ Nga trong cuộc chiến chống lại Ukraine, vì hầu hết các lệnh trừng phạt có thể áp dụng đối với quốc gia này đều đã được áp dụng. Liên Hiệp Âu Châu gần đây tuyên bố sẽ phối hợp phản ứng với các đối tác quốc tế liên quan đến hành động của Bắc Hàn.
[Ukrainska Pravda: NATO considers two ways to respond to North Korea sending soldiers to Russia – Bloomberg]
3. Nga đã phóng 1.100 quả bom dẫn đường và 560 máy bay điều khiển từ xa tấn công vào Ukraine trong tuần qua
Trong diễn từ gởi quốc dân đồng bào tối Chúa Nhật, 27 Tháng Mười, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cho biết Nga đã phóng 1.100 quả bom dẫn đường và 560 máy bay điều khiển từ xa tấn công vào Ukraine trong tuần qua.
Ông nói: “Nga không ngừng khủng bố Ukraine. Hàng ngày, họ phát động cuộc xâm lược chống lại người dân, thành phố và làng mạc của chúng ta, sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau.
Chỉ riêng tuần này, quân xâm lược đã sử dụng hơn 1.100 quả bom dẫn đường, hơn 560 máy bay điều khiển từ xa tấn công và khoảng 20 hỏa tiễn các loại chống lại đất nước chúng tôi.”
Zelenskiy lưu ý rằng Ukraine đang nỗ lực hợp tác với các đối tác để ngăn chặn Nga, tăng cường khả năng phục hồi của quốc gia và bảo vệ tối đa cho công dân của mình.
[Ukrainska Pravda: Russia has launched 1,100 guided bombs and 560 attack drones on Ukraine over past week: Zelenskyy's video shows aftermath of strikes]
4. Đại diện thường trực của Ukraine cho rằng cuộc gặp của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc với Putin trái ngược với lập trường của Liên Hiệp Quốc về việc hỗ trợ ICC
Serhii Kyslytsia, Đại diện thường trực của Ukraine tại Liên Hiệp Quốc, cho biết chuyến thăm Nga của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres và cuộc gặp của ông với nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin trái ngược với chính sách của Liên Hiệp Quốc về hỗ trợ hoạt động của Tòa án Hình sự Quốc tế, gọi tắt là ICC.
Đại Sứ Kyslytsia đã đề cập đến một phần trong hướng dẫn về các cuộc họp giữa đại diện Ban thư ký Liên Hiệp Quốc và những cá nhân phải chịu lệnh bắt giữ do Tòa án Hình sự Quốc tế ban hành, chẳng hạn như Putin. Những hướng dẫn này đã được người tiền nhiệm của Guterres, Ban Ki-moon, chấp thuận.
Đoạn trích được Kyslytsia trích dẫn lưu ý rằng những cá nhân chịu lệnh của ICC có thể cố tình tìm cách gặp gỡ các quan chức Liên Hiệp Quốc để chứng tỏ sự khinh thường của họ đối với ICC và cố gắng làm suy yếu thẩm quyền của tòa án này.
Đoạn văn nêu rằng: “Thỏa thuận quan hệ giữa Liên Hiệp Quốc và Tòa án Hình sự Quốc tế yêu cầu Liên Hiệp Quốc phải kiềm chế mọi hành động có thể cản trở hoạt động của Tòa án và các cơ quan khác nhau của Tòa án, bao gồm cả Viện công tố, hoặc làm suy yếu thẩm quyền của các quyết định của họ”.
Tuần này, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres đã tới thành phố Kazan của Nga để tham dự hội nghị thượng đỉnh BRICS và gặp nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin.
Bộ Ngoại giao Ukraine chỉ trích Guterres vì đã thực hiện bước đi này, lưu ý rằng ông đã từ chối tham dự Hội nghị thượng đỉnh hòa bình đầu tiên tại Thụy Sĩ.
Sau chuyến đi, Guterres tuyên bố rằng ông đã ủng hộ một nền hòa bình công bằng ở Ukraine theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Trong cuộc gặp với Putin, ông nhấn mạnh rằng cuộc xâm lược Ukraine của Nga là vi phạm luật pháp quốc tế và kêu gọi bảo đảm an toàn cho hoạt động vận chuyển ở Hắc Hải để bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.
Các phương tiện truyền thông đưa tin Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã từ chối cho phép Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đến thăm Kyiv vì chuyến đi của ông tới Nga.
[Ukrainska Pravda: UN Secretary-General's meeting with Putin contradicts UN line on support for ICC – Ukraine's Permanent Representative]
5. Nga có thể tài trợ cho cuộc chiến chống lại Ukraine trong nhiều năm nữa mặc dù nền kinh tế đang quá nóng
Tờ Washington Post, đưa tin rằng việc Điện Cẩm Linh chi tiêu quá nhiều vào cuộc chiến chống Ukraine đang đẩy nền kinh tế Nga vào tình trạng quá tải, nhưng nước này vẫn duy trì đủ nguồn lực để duy trì cuộc chiến thêm vài năm nữa.
Tờ báo lưu ý rằng chi tiêu quân sự lớn, bao gồm cả khoản thanh toán cao cho quân đội xâm lược, đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế, cũng như mức lương cao và lạm phát, vì các công ty buộc phải trả lương ngang bằng với quân nhân để thu hút lao động.
Tờ báo cho biết thêm: “Theo các nhà kinh tế, Nga có đủ khả năng tài trợ cho cuộc chiến tranh với Ukraine trong nhiều năm nữa vì nguồn thu từ dầu mỏ khổng lồ và các lệnh trừng phạt của phương Tây thất bại, đặc biệt là mức giá trần do Nhóm bảy quốc gia phát triển đưa ra, vốn không làm giảm thu nhập từ dầu mỏ của Nga”.
Nền kinh tế của đất nước đang quá nóng một phần vì Vladimir Putin tìm cách thay thế khoảng 20.000 binh lính đã hy sinh hàng tháng trong cuộc chiến đang diễn ra, dựa trên dữ liệu từ Viện Nghiên cứu Chiến tranh vào tháng 6. Các thống đốc khu vực đã đưa ra các khoản tiền thưởng tuyển dụng chưa từng có để thu hút nhân sự, với Tỉnh Belgorod gần đây đã lập kỷ lục mới, trả 31.200 đô la Mỹ, hay 3 triệu Rúp.
Lương quân sự tăng đang thúc đẩy tăng trưởng tiền lương nhanh chóng ở Nga, gây áp lực đáng kể lên các công ty tư nhân đang phải vật lộn để theo kịp. Một cuộc khảo sát gần đây của Liên minh các nhà công nghiệp và doanh nhân Nga cho thấy 82,8% các công ty đang phải đối mặt với thách thức trong việc tuyển dụng nhân viên. Trong khi đó, Cục Thống kê Nhà nước Liên bang Nga (Rosstat) báo cáo tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống còn 2,4% tính đến tháng 6.
Tờ báo trích dẫn ví dụ về quảng cáo việc làm cho công nhân đóng gói thanh sô cô la Snickers với mức lương là 4.100 đô la Mỹ mỗi tháng – cao hơn đáng kể so với mức trung bình toàn quốc là 763 đô la Mỹ vào năm 2023.
Rosstat báo cáo rằng tiền lương thực tế ở Nga đã tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm 2024, mặc dù các nhà phân tích độc lập đã nêu nghi ngờ về những con số này. Đáng chú ý, những người lao động được trả lương thấp nhất đã trải qua mức tăng đáng kể nhất, với mức tăng 67%, theo báo cáo của tờ báo độc lập The Bell của Nga vào tháng 3.
Đồng minh của Putin và là một trong những ông trùm nông nghiệp lớn nhất nước Nga, Alexander Tkachev, gần đây đã than thở về mức lương cao của những người nông dân chăn nuôi bò sữa, những người từng nhận được mức lương ít ỏi và hiện yêu cầu mức lương hàng tháng là 1.550 đô la Mỹ.
Tờ báo đưa tin rằng Siberia đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt tài xế xe buýt nam, dẫn đến các tuyến đường đóng cửa và hàng đợi dài, vì tài xế trong quân đội có thể kiếm được mức lương cao hơn đáng kể - lên đến gấp đôi. Để ứng phó với cuộc khủng hoảng nhân sự này, Sergei Kuznetsov, nhà lãnh đạo thành phố nhỏ Novokuznetsk của Siberia, đã đề xuất thành lập một “tiểu đoàn phụ nữ” tài xế xe buýt để giải quyết tình trạng thiếu hụt.
Trước đây, Nga dựa vào những người di cư Trung Á để lấp đầy các công việc thu nhập thấp; tuy nhiên, sau một cuộc tấn công khủng bố tại trung tâm mua sắm Crocus City Hall, nước này đã trục xuất hàng chục ngàn công nhân này và áp đặt lệnh cấm nhập cảnh đối với nhiều người khác. Các báo cáo từ phương tiện truyền thông độc lập của Nga chỉ ra rằng một số lượng lớn công nhân di cư cũng đã bị bắt đi chiến đấu trong chiến tranh.
[Ukrainska Pravda: Russia can finance war against Ukraine for several more years despite overheating economy – WP]
6. Iran thề sẽ trả thù sau làn sóng tấn công trả đũa của Israel
Iran tuyên bố họ có quyền tự vệ sau các cuộc không kích của Israel nhằm trả đũa cho các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của nước cộng hòa Hồi giáo này hồi đầu tháng, nhưng một chuyên gia Iran đã nói với Newsweek rằng Tehran có thể không muốn leo thang thù địch ngay lập tức.
Nhiều vụ nổ đã được nghe thấy ở Tehran và tỉnh Ilam ở phía tây và khu Khuzestan ở phía tây nam vào sáng thứ Bảy trong những gì Israel mô tả là “các cuộc tấn công chính xác và có mục tiêu” vào các địa điểm quân sự.
Các cuộc không kích diễn ra sau nhiều tuần dự đoán về cách Israel sẽ đáp trả cuộc tấn công của Iran vào ngày 1 tháng 10, mà Tehran cho biết là để trả thù cho vụ giết hại thủ lĩnh Hamas Ismail Haniyeh, thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah và chỉ huy Iran Abbas Nilforoushan.
Tasnim, một hãng thông tấn bán chính thức của Iran, đưa tin sẽ có “phản ứng tương xứng” đối với các cuộc không kích của Israel.
Bộ Ngoại giao Iran cho biết hôm thứ Bảy rằng “thiệt hại hạn chế” và rằng đất nước “có quyền và nghĩa vụ phải tự vệ”, một lựa chọn từ ngữ mà Hamidreza Azizi, nghiên cứu viên tại Viện nghiên cứu Đức về các vấn đề quốc tế và an ninh tại Berlin, cho biết là rất quan trọng.
“Quan điểm ngoại giao đó không nhất thiết có nghĩa là Iran sẽ phản ứng theo cách trực tiếp hoặc mạnh mẽ”, ông nói với Newsweek. “Truyền thông Iran đang hạ thấp tầm quan trọng của cuộc tấn công, vì vậy đó có thể là dấu hiệu cho thấy Iran không muốn leo thang vào lúc này, nhưng chúng tôi vẫn chưa nghe bất kỳ quan chức cao cấp nào của Iran nói”.
Tuy nhiên, việc Iran nói rằng có thiệt hại đối với các địa điểm quân sự của mình “có thể là một cách để giữ cánh cửa mở cho một phản ứng tiềm tàng”, Azizi nói. “Vì vậy, nếu trong các đánh giá tiếp theo hoặc trong các cuộc thảo luận chính trị trong giới lãnh đạo, họ quyết định rằng cần phải có một phản ứng, thì đó có thể là một cách để biện minh cho điều đó”.
“Chúng ta không nên quên rằng hai sĩ quan quân đội Iran đã thiệt mạng, và các quan chức Iran trước đây đã nói rằng đây sẽ là một ranh giới đỏ,” ông nói tiếp.
Azizi cho biết các yếu tố khác mà Tehran sẽ cân nhắc bao gồm sự hiện diện ngày càng tăng của Mỹ trong khu vực, thể hiện qua việc điều động một phi đội F-16; những cảnh báo của Washington đối với Iran về sự leo thang; và tình hình trên các mặt trận khác trong khu vực sẽ diễn biến như thế nào trong vài tuần tới.
Cuộc tấn công có nguy cơ đẩy các quốc gia đối địch đến gần hơn với cuộc chiến tranh toàn diện trong bối cảnh bạo lực gia tăng, khi các nhóm chiến binh được Iran hậu thuẫn - như Hamas ở Gaza và Hezbollah ở Li Băng - hiện đang trong tình trạng chiến tranh với Israel.
Vào chiều thứ Bảy, giờ địa phương, Hezbollah đã đáp trả Israel bằng hàng loạt hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa, bắn khoảng 125 đến 150 hỏa tiễn trong hơn hai giờ và cố gắng tấn công căn cứ không quân Tel Nof ở phía nam Tel Aviv bằng một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa.
Phát ngôn nhân Lực Lượng Phòng Vệ Israel, gọi tắt là IDF, Đề Đốc Daniel Hagari, báo cáo không có thương vong nào từ vụ bắn rocket, với hầu hết các hỏa tiễn đã bị chặn hoặc bắn trúng các khu vực trống. Một số đám cháy bắt đầu ở một số địa điểm ở phía bắc, nơi chính quyền địa phương đã tiến hành dập tắt, theo The Times of Israel.
Azizi cho biết các quan chức Israel đã ám chỉ rằng hoạt động ở Li Băng có thể sớm kết thúc, và “nếu điều đó xảy ra, và nếu có một lệnh ngừng bắn nào đó ở Gaza, chúng ta có thể mong đợi, ít nhất là trong một thời gian, tình hình sẽ lắng xuống”.
Ông nói tiếp: “Tôi đoán rằng nếu Israel dừng lại ở thời điểm này, thì hiện tại, Iran sẽ không phản ứng—ít nhất là cho đến sau cuộc bầu cử Hoa Kỳ. Và sau đó, dựa trên đánh giá mối đe dọa mới—bởi vì nếu Ông Trump lên nắm quyền, tôi mong đợi nhận thức về mối đe dọa của Iran sẽ tăng trở lại và điều này có thể tác động đến các tính toán.”
[Newsweek: Iran Vows Revenge After Wave of Israeli Retaliatory Strikes]
7. Ukraine sẽ tổ chức bầu cử ‘ngay sau chiến tranh’, chánh văn phòng của Zelensky cho biết
Ukraine sẽ tổ chức bầu cử “ngay lập tức” sau khi chiến tranh kết thúc để cho phép tất cả binh lính và người tị nạn được bỏ phiếu, Chánh Văn phòng Tổng thống Andriy Yermak cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Corriere della Sera được công bố vào ngày 27 tháng 10.
“Tổng thống Volodymyr Zelensky rất rõ ràng; ông ấy muốn tất cả binh lính và người tị nạn ở nước ngoài có thể bỏ phiếu”, Yermak nói với tờ báo Ý.
“Nhưng hiện tại, các nguồn lực phải dành cho chiến tranh”.
Ukraine dự kiến sẽ tổ chức bầu cử tổng thống vào tháng 3 hoặc tháng 4 năm 2024, kết thúc nhiệm kỳ năm năm đầu tiên của Zelensky.
Cuộc bỏ phiếu đã bị hoãn lại vì hiến pháp của đất nước không cho phép bầu cử theo luật thiết quân luật, được ban bố vào ngày 24 tháng 2 năm 2022, khi cuộc xâm lược toàn diện của Nga bắt đầu.
Tổng thống Zelensky đã giữ chức vụ này từ tháng 5 năm 2019. Ông đã tuyên bố vào tháng 12 năm 2023 rằng ông đã sẵn sàng tổ chức bầu cử tổng thống, nhưng hầu hết người dân Ukraine cho rằng một cuộc bỏ phiếu như vậy sẽ “nguy hiểm và vô nghĩa” trong thời chiến.
Tuyên bố của ông đã được ủng hộ bởi một số cuộc khảo sát trên toàn quốc, với 70% người dân Ukraine cho rằng Zelensky nên tiếp tục tại vị cho đến khi thiết quân luật kết thúc.
Nga và nhiều tiếng nói chống Ukraine đã tìm cách lợi dụng việc hoãn bầu cử để gây nghi ngờ về cam kết của đất nước đối với nền dân chủ và làm suy yếu tính hợp pháp của tổng thống.
Ukraine cũng dự kiến sẽ tổ chức cuộc bầu cử quốc hội tiếp theo sau chiến tranh. Cuộc bỏ phiếu gần đây nhất cho cơ quan lập pháp được tổ chức vào tháng 7 năm 2019.
Đảng Nô Bộc Nhân Dân của Zelensky nắm giữ đa số trong quốc hội, nhưng ngày càng có nhiều ghế trống vì một số nhà lập pháp đã từ chức và họ không thể được thay thế nếu không có cuộc bầu cử tiếp theo.
[Kyiv Independent: Ukraine to hold elections 'immediately after war,' Zelensky's chief of staff says]
8. Zelenskiy mong đợi nhiều gói hỗ trợ hơn cho Ukraine trong tuần tới
Trong diễn từ gởi quốc dân đồng bào tối Chúa Nhật, 27 Tháng Mười, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã công bố các bước chuẩn bị cho sự tham gia của các đối tác của Ukraine, bao gồm các đồng minh Âu Châu, trong tuần tới. Ông dự đoán sẽ có sự gia tăng các gói hỗ trợ cho Ukraine.
Ông nói: “Hôm nay, chúng tôi đang chuẩn bị làm việc với các đối tác của mình trong suốt tuần. Đặc biệt là với các đối tác Âu Châu của chúng tôi – những người ủng hộ chúng tôi theo cách rất có nguyên tắc và hiệu quả”, ông nói.
Zelenskiy cho biết một định dạng hợp tác mới đã được tạo ra – Ukraine cộng với các nước Bắc Âu. Ông cũng tuyên bố rằng trong định dạng này, tương tác liên tục được tăng cường trong các lĩnh vực khác nhau – phòng thủ, chính trị và kinh tế.
Ông nhấn mạnh rằng: “Cốt lõi của tất cả là sự tương tác dựa trên giá trị, tầm nhìn của chúng ta về cuộc sống ở Âu Châu và loại Âu Châu mà chúng ta muốn truyền lại cho các thế hệ tương lai: chắc chắn an toàn, chắc chắn dân chủ và chắc chắn có khả năng bảo vệ lợi ích của người Âu Châu”.
Zeleskyy cho biết ông biết ơn từng quốc gia trong định dạng này: Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Iceland và cũng chia sẻ kỳ vọng của mình về sự hỗ trợ của họ đối với Kế hoạch Chiến thắng.
Ông nói tiếp rằng “Họ nhận ra nhu cầu tạo ra vấn đề cho kẻ xâm lược, để Nga mất đi khả năng khiến cuộc sống của thế giới trở nên tồi tệ hơn. Chúng tôi sẽ thảo luận các bước đi quyết định mới với các nước Bắc Âu có thể tăng áp lực lên Nga trong cuộc chiến này và nhân danh ngoại giao công bằng. Vì vậy, chúng tôi mong đợi nhiều diễn biến ngoại giao hơn và các gói hỗ trợ mới cho Ukraine trong tuần tới”
[Ukrainska Pravda: Zelenskyy expects more support packages for Ukraine in coming week]
9. Các cuộc không kích chết người của Nga đánh trúng Bệnh viện quân y chiến lược ở Dnipro
Một người phụ nữ và con gái bà nằm trong số những người thiệt mạng trong cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga vào một bệnh viện ở Ukraine, nơi điều trị cho những người lính bị thương, các nhà chức trách cho biết, khi Mạc Tư Khoa tiếp tục ném bom vào quốc gia này.
Nga đã tăng cường các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay điều khiển từ xa vào các địa điểm của Ukraine, nhắm vào cả cơ sở hạ tầng dân sự và năng lượng, gây áp lực lên Kyiv khi chiến tranh một lần nữa bước vào những tháng mùa đông.
Trong vụ tấn công mới nhất, một cuộc không kích của Nga đã phá hủy các tòa nhà dân cư và Bệnh viện Mechnikov ở thành phố Dnipro miền trung-đông, thành phố lớn thứ tư của đất nước, khiến ít nhất bốn người thiệt mạng và 20 người bị thương, các báo cáo cho biết.
Quân đội Ukraine bị thương nghiêm trọng đã được đưa đến bệnh viện từ tiền tuyến, cách đó khoảng 120 dặm. Cuộc tấn công hôm thứ sáu cũng đã phá hủy 13 tòa nhà chung cư và hai ngôi nhà. Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng Nga để xin bình luận.
Sau cuộc tấn công hôm thứ Sáu, một cảnh sát, vợ và hai con gái của họ đã bị mắc kẹt dưới đống đổ nát của một tòa nhà. Trong khi cô gái trẻ hơn được giải cứu, con gái 14 tuổi và vợ của cảnh sát đã thiệt mạng, theo Cảnh sát Quốc gia Ukraine.
Ở nơi khác, một bé gái 15 tuổi đã thiệt mạng sau khi một máy bay điều khiển từ xa của Nga đâm vào một tòa nhà dân cư cao 25 tầng ở quận Solomianskyi của Kyiv vào thứ sáu, thị trưởng thành phố Vitali Klitschko đưa tin. Năm người khác bị thương, một người trong số đó đã phải vào bệnh viện.
Cơ quan Cấp cứu Ukraine cho biết vụ tấn công đã làm hư hại tầng 17, 18 và 19, và 100 người đã được di tản khỏi tòa nhà.
Theo Oleh Syniehubov, nhà lãnh đạo chính quyền quân sự khu vực, sáng thứ Bảy, một phụ nữ 61 tuổi đã thiệt mạng tại khu vực Kharkiv trong cuộc pháo kích của Nga vào làng Borova thuộc quận Izium.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã đăng tải những hình ảnh trên kênh Telegram của mình cho thấy cảnh tượng các cuộc không kích mới nhất của Nga, bao gồm cả khu vực Sumy và Khmelnytskyi ở phía tây đất nước.
Ông cho biết sau hội nghị thượng đỉnh BRICS tại thành phố Kazan, “những kẻ giết người người Nga đã quay trở lại với công việc thường ngày của chúng”.
“Điều này một lần nữa chứng minh rằng hành động xâm lược không thể dừng lại bằng đàm phán, mà chỉ có thể bằng những hành động quyết đoán để bảo vệ nhà nước và người dân đang phải hứng chịu cuộc chiến tranh này”, Zelenskiy viết.
Ông tiếp tục: “Cuộc chiến này đã diễn ra trong ba năm nay, và chỉ có một thủ phạm duy nhất—Mạc Tư Khoa. Đó là lý do tại sao chúng ta cần áp lực lớn như vậy lên kẻ xâm lược để buộc hắn phải chấm dứt khủng bố và chiến tranh. Hòa bình và an ninh lâu dài chỉ đạt được thông qua sức mạnh và sự quyết tâm.”
[Newsweek: Deadly Russian Airstrikes Hit Strategic Military Hospital in Dnipro]
10. Hoa Kỳ nhận định quân đội Bắc Hàn được điều động đến Kursk trong cuộc phản công đang leo thang
Hoa Kỳ cho biết quân đội Bắc Hàn có thể đã được điều động tới một mặt trận quan trọng trong cuộc chiến của Nga với Ukraine, trong bối cảnh có nhiều đồn đoán về cách cộng đồng quốc tế có thể phản ứng khi có bên thứ ba tham chiến.
Hoa Kỳ xác nhận vào ngày 23 tháng 10 rằng Bình Nhưỡng đang tham gia cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine, một tuyên bố được đưa ra vài ngày trước bởi Ukraine và Nam Hàn. Tuy nhiên, vẫn còn sự không chắc chắn về vai trò mà quân đội từ quốc gia bất hảo này có thể đóng.
Hôm Thứ Sáu, 25 Tháng Mười, Tướng John Kirby, phát ngôn nhân của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, cho biết: “Hoàn toàn có thể, và tôi chỉ muốn nói rằng có khả năng là ít nhất một số quân lính Bắc Hàn có thể được điều động đến khu vực Kursk”.
Vào ngày 6 tháng 8, Ukraine đã tiến hành một cuộc tấn công xuyên biên giới chống lại Nga ở Kursk.
Vào ngày Kirby đưa ra phát biểu của mình, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã cảnh báo rằng quân đội Bắc Hàn có thể được điều động đến các khu vực chiến đấu sớm nhất là vào Chúa Nhật.
“Đây là một bước leo thang rõ ràng của Nga”, Zelenskiy cho biết. Ông nói thêm, “Đó là lý do tại sao cần có một phản ứng có nguyên tắc và mạnh mẽ từ các nhà lãnh đạo thế giới”.
Tetiana Hranchak, phó giáo sư thỉnh giảng tại Viện Quan hệ Toàn cầu Moynihan thuộc Trường Công dân và Quan hệ Công chúng Maxwell thuộc Đại học Syracuse, cho biết: “Quân đội Bắc Hàn ở Ukraine sẽ là một sự xác nhận nữa cho thấy cuộc chiến của Nga ở Ukraine không phải là một cuộc xung đột cục bộ hay khu vực”.
“Cùng với việc tăng cường các hoạt động quân sự ở Trung Đông sử dụng nhóm khủng bố Hamas, đây là sự xác nhận thêm về trục chống phương Tây do Nga thành lập, bao gồm cả Trung Quốc, Iran ngoài ra còn có Bắc Hàn”, bà nói với Newsweek.
Binh lính Bắc Hàn đang huấn luyện tại Vladivostok và 10.000 người sẽ bị điều động đến Ukraine sau một tháng huấn luyện, Bloomberg đưa tin, trích dẫn nguồn tin tình báo Nam Hàn.
Trong khi Hoa Kỳ chưa xác nhận báo cáo của Nam Hàn rằng binh lính Bắc Hàn sẽ chiến đấu trên chiến trường, các quan chức giấu tên nói với tờ The Wall Street Journal rằng hàng ngàn người có thể được gửi đi và tham gia vào vai trò chiến đấu.
Bộ trưởng Quốc phòng Hòa Lan Ruben Brekelmans viết trên X, rằng tình báo nước ông tin rằng ít nhất 1.500 quân Bắc Hàn đã được điều động tới Kursk.
Cơ quan Tình báo Quốc phòng Ukraine trước đó đã đưa tin rằng các đơn vị quân đội Bắc Hàn đầu tiên được huấn luyện ở miền Đông nước Nga đã được nhìn thấy ở vùng chiến sự vào ngày 23 tháng 10.
Tuy nhiên, cho đến sáng Chúa Nhật, 27 Tháng Mười, một lữ đoàn Dù của Ukraine hoạt động trong khu vực cho biết chưa phát hiện lực lượng Bắc Hàn nào. Lữ Đoàn Dù 95 của Ukraine cũng nhận định rằng lính Bắc Hàn không có kinh nghiệm chiến đấu trong các cuộc chiến tranh công nghệ quy mô lớn.
Bản thân Putin không phủ nhận các báo cáo rằng hình ảnh vệ tinh ủng hộ các tuyên bố, nói rằng, “Nếu có hình ảnh, chúng phản ánh điều gì đó.” Bộ Ngoại giao Bắc Hàn cho biết bất kỳ quyết định nào gửi quân đội của mình để hỗ trợ Nga đều tuân thủ luật pháp quốc tế.
[Newsweek: North Korean Troops Deployed to Kursk in Escalating Counteroffensive: US]
11. Đảng cầm quyền của Georgia đang trên đường giành chiến thắng trong bối cảnh bị cáo buộc gian lận phiếu bầu
Đảng Giấc mơ Georgia cầm quyền có vẻ sẽ tiếp tục nắm quyền kiểm soát Georgia trong cuộc bỏ phiếu toàn quốc vào hôm Thứ Bẩy, 26 Tháng Mười, trong bối cảnh ngày càng có nhiều cáo buộc về bạo lực chính trị và đe dọa lan rộng.
Kết quả tạm thời từ Ủy ban Bầu cử Trung ương cho thấy đảng Giấc mơ Georgia giành được 53 phần trăm số phiếu bầu, trong khi liên minh đối lập thống nhất vượt qua ngưỡng 5 phần trăm thu hút được 38 phần trăm.
Tina Bokuchava, nhà lãnh đạo đảng đối lập Phong trào Quốc gia Thống nhất, cho biết liên minh đối lập của bà sẽ không chấp nhận kết quả của “cuộc bầu cử bị đánh cắp”.
“Nhà tài phiệt Ivanishvili đã đánh cắp chiến thắng của người dân Georgia và cướp đi tương lai Âu Châu của họ,” Bokuchava nói. “Tôi hy vọng các đảng đối lập khác sẽ chia sẻ lập trường này.”
Phát biểu với POLITICO tại một cuộc mít tinh ở trụ sở đảng vào tối thứ bảy, Bidzina Ivanishvili, chủ tịch của Georgian Dream, cho biết ông đang mong đợi một “chiến thắng lớn”.
Trước khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, Thủ tướng Irakli Kobakhidze của đảng Georgian Dream đã tuyên bố kết quả là “chiến thắng vang dội” cho đảng cầm quyền.
Mamuka Mdinaradze, lãnh đạo đảng này tại quốc hội, cho biết trước khi cuộc bỏ phiếu kết thúc: “Chúng tôi đang thấy dữ liệu rất khả quan từ các khu vực và thành phố, đặc biệt là Tbilisi, cho Georgian Dream”.
Sau các cuộc thăm dò ý kiến trái chiều do các kênh ủng hộ chính phủ và phe đối lập tiến hành, dự đoán chiến thắng cho cả hai bên, các cuộc ăn mừng đã bắt đầu diễn ra tại trụ sở của mỗi bên.
Trong bình luận với POLITICO, Tina Bokuchava cho biết bà mong đợi Ivanishvili “sẽ đưa ra tuyên bố trong vài giờ tới về việc chuyển giao quyền lực một cách hòa bình”.
Bà cho biết: “Tôi nghĩ ông ấy sẽ bị cám dỗ bám víu vào quyền lực, nhưng phe đối lập đang dẫn trước rất nhiều nên ông ấy sẽ phải chấp nhận thất bại”, bà tự tin rằng đảng cầm quyền đã thua như dự đoán của cuộc thăm dò ý kiến cử tri do Edison Research thực hiện.
Trong khi đó, tổng thống thân phương Tây của nước này, Salome Zurabichvili, tuyên bố rằng các đảng ủng hộ việc gia nhập Liên Hiệp Âu Châu đã giành chiến thắng, “bất chấp những nỗ lực gian lận bầu cử và không có phiếu bầu từ cộng đồng người di cư”. Các điểm bỏ phiếu ở nước ngoài vẫn tiếp tục chấp nhận phiếu bầu.
Theo Ketevan Chachava, một thành viên của Trung tâm Phân tích Chính sách Âu Châu, “kết quả bỏ phiếu mà chúng ta đang thấy hiện nay dựa trên các máy bỏ phiếu điện tử — khoảng hai phần ba tổng số, nhưng điều đó vẫn có thể thay đổi. Tuy nhiên, kỳ vọng là số phiếu bầu của Georgian Dream sẽ thấp hơn các cuộc bầu cử trước và con số này thực sự cao hơn dự đoán và họ rõ ràng đang ở vị thế mạnh mẽ.”
Các đảng đối lập đã lên án những gì họ cho là nỗ lực có hệ thống nhằm tác động đến kết quả của chính phủ ngày càng độc đoán, vốn đã tuyên bố sẽ cấm những người đối lập giành được ghế và coi các phe phái đối địch là bất hợp pháp nếu được bầu lại với đa số phiếu đủ lớn.
“Họ đang nhét đầy thùng phiếu, bắt nạt cử tri và đánh đập người quan sát,” Bokuchava, lãnh đạo đảng đối lập lớn nhất trong liên minh, cho biết. “Đây không phải là hành động của một chính phủ tin tưởng vào các cuộc bầu cử tự do và công bằng.”
Các bức ảnh và video được đăng trực tuyến trong suốt cả ngày cho thấy sự gián đoạn tại các điểm bỏ phiếu trên khắp cả nước, với các tuyên bố rằng một thùng phiếu đã bị đổ ra đường và một đoạn clip ghi lại cảnh một chính trị gia của Georgian Dream được cho là đang nhét một chồng phiếu bầu vào một thùng phiếu khác. Một quan sát viên đối lập đã bị đánh ở thành phố Marneuli, gần thủ đô Tbilisi, trong khi các nhà báo địa phương bị tấn công bởi những cá nhân không rõ danh tính.
Một quan sát viên bầu cử nước ngoài, được giấu tên để nói chuyện thẳng thắn với POLITICO, cho biết đã xảy ra một cuộc ẩu đả tại một điểm bỏ phiếu khác, gần biên giới của đất nước này với nước láng giềng Azerbaijan. “Chúng tôi đã chứng kiến những nỗ lực nhồi phiếu, trong đó thủ phạm bị phát hiện, bỏ chạy, và sau đó chỉ chờ các quan sát viên rời đi trước khi thử lại”, quan sát viên này cho biết. “Với số lượng cáo buộc tương tự từ các điểm bỏ phiếu khác, tôi e rằng các quan sát viên quốc tế sẽ rất khó để thừa nhận cuộc bầu cử này là công bằng”.
Hiệp hội Quốc tế vì Bầu cử Công bằng và Dân chủ, gọi tắt là ISFED, một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Tbilisi, cho biết trong một tuyên bố rằng “các sự việc và vi phạm đã được ghi nhận trên khắp cả nước trong quá trình bỏ phiếu”. Một trong mười quan sát viên bầu cử của tổ chức này đã báo cáo các vấn đề, bao gồm cáo buộc cử tri được các điều phối viên của Georgian Dream đưa vào bằng xe buýt.
Cùng lúc đó, Georgian Dream cáo buộc các đảng đối lập “vi phạm” và cho biết cảnh sát đang điều tra cáo buộc một chính trị gia đối lập đã “tát” một trong những điều phối viên của đảng cầm quyền bên ngoài một trạm bỏ phiếu.
Những giấc mơ của Liên Hiệp Âu Châu
Georgia đã được Liên Hiệp Âu Châu cấp tư cách ứng cử viên vào tháng 12, nhưng đơn xin gia nhập khối của nước này đã bị đóng băng sau khi thông qua một loạt luật theo kiểu Nga nhằm siết chặt các quyền chính trị và xã hội dân sự. Vào tháng 5, Georgian Dream đã thông qua một dự luật coi các tổ chức phi chính phủ, cơ quan truyền thông và các nhóm nhân quyền do phương Tây hậu thuẫn là “các tác nhân nước ngoài”.
Chính quyền đã sử dụng hơi cay và dùi cui để giải tán các cuộc biểu tình phản đối động thái này, mà những người chỉ trích cho rằng giống với chiến thuật mà Điện Cẩm Linh sử dụng để kìm hãm sự bất đồng chính kiến ở Nga, và những người tổ chức đã bị bắt giữ và đánh đập trong khi bị giam giữ. Hoa Kỳ đã áp đặt lệnh trừng phạt đối với các chính trị gia và cảnh sát của Georgia Dream vì cuộc đàn áp.
Kobakhidze cho biết vào tháng 8 rằng chính phủ của ông sẽ có động thái cấm tất cả các đảng đối lập trong quốc hội, bao gồm cả UNM, nếu đảng này vẫn nắm quyền trong cuộc bầu cử quan trọng. “Tôi tin rằng việc bãi bỏ các nhiệm vụ [của quốc hội] sẽ là sự tiếp nối hợp lý của việc cấm các đảng này. Các thành viên tội phạm của các lực lượng chính trị tội phạm không nên thực hiện địa vị như một thành viên của quốc hội Georgia”, ông nói.
Trả lời câu hỏi của POLITICO trước cuộc bỏ phiếu, Bokuchava của UNM cho biết bà “sẽ không xem xét khả năng” UNM phải giải thể vì bà không tin rằng Georgian Dream “sẽ không bao giờ được trao quyền” để điều hành đất nước.
Phe đối lập và các chuyên gia đổ lỗi cho Ivanishvili, người giàu nhất nước này và là người sáng lập ra Georgian Dream, người nắm quyền kiểm soát cá nhân đáng kể đối với đảng, ngành tư pháp và nhà nước, về việc Georgia nhanh chóng chuyển hướng khỏi Liên Hiệp Âu Châu và hướng tới Nga.
[Politico: Georgia’s ruling party on course for victory amid charges of vote-rigging]
Chống chúc lành cho tội lỗi, các GM Phi Châu bị vu khống. 10 Giám Mục Trung Quốc bị bách hại tàn tệ
VietCatholic Media
18:34 28/10/2024
1. Hồng Y Ambongo cho biết: Cha Radcliffe phủ nhận việc đưa ra những phát biểu về các giám mục Phi Châu và vấn đề đồng tính luyến ái.
Trong một diễn biến gây kinh ngạc, tờ Quan Sát Viên Rôma đã đăng một bài được cho là của Cha Timothy Radcliffe, dòng Đa Minh, một nhân vật gây tranh cãi vì ủng hộ những người đồng tính và hô hào những thay đổi cấp tiến trong Giáo Hội, nhân dịp ngài vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô vinh thăng Hồng Y trong công nghị ngày 7 Tháng Mười Hai, sắp tới.
Bài báo chỉ trích mạnh mẽ tuyên bố chống lại Tuyên ngôn Fiducia Supplicans của các Giám Mục Phi Châu và cho rằng các Giám Mục Phi Châu hành động vì tiền, vì áp lực của Nga và từ những người Tin lành.
Đức Hồng Y Fridolin Ambongo Besungu, OFM Cap, chủ tịch Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục Phi Châu và Madagascar, gọi tắt là SECAM, cho biết ngài đã đích thân chạm trán Cha Radcliffe tại Thượng Hội Đồng Về Tính Đồng Nghị để hỏi tại sao ngài viết như thế. Tuy nhiên, thật là ngỡ ngàng khi vị linh mục sắp được làm Hồng Y tuyên bố rằng ngài không hề viết bài báo đó. Bài báo đó không chỉ được đăng một lần trên tờ Quan Sát Viên Rôma của Tòa Thánh mà đăng tổng cộng 3 lần trên các tạp chí có uy tín khác.
Hãng tin Catholic World News ngày 23 tháng 10 năm 2024, có bài tường trình nhan đề “Cardinal-designate Radcliffe denies making published remarks about African bishops and homosexuality, Cardinal Ambongo says”, nghĩa là “Đức Hồng Y Ambongo nói rằng Hồng Y được chỉ định Radcliffe phủ nhận đã công bố các nhận xét về các Giám Mục Phi Châu và đồng tính luyến ái”.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thảo Ly.
Hồng Y được chỉ định Timothy Radcliffe, OP, đã phủ nhận việc đưa ra một tuyên bố, được công bố ba lần dưới tên của ngài, trong đó cho rằng những lo ngại của các giám mục Phi Châu về vấn đề đồng tính luyến ái xuất phát từ áp lực của những người theo đạo Tin lành, Mạc Tư Khoa và người Hồi giáo, vị giám mục hàng đầu của Phi Châu cho biết tại một cuộc họp báo của Vatican.
Thực vậy, Hồng Y Fridolin Ambongo Besungu, OFM Cap, chủ tịch Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục Phi Châu và Madagascar, gọi tắt là SECAM, đã kể lại lời phủ nhận đáng ngạc nhiên của Hồng Y được chỉ định Radcliffe tại cuộc họp báo của thượng hội đồng vào ngày 22 tháng 10.
Trong một bài báo được công bố vào ngày 12 tháng 10 trên trên tờ Quan Sát Viên Rôma, Cha Radcliffe đã nhiều lần phản đối những tuyên bố của Đức Hồng Y Ambongo và liên kết những lo lắng của các giám mục Phi Châu về vấn đề đồng tính luyến ái với áp lực tài chính “mạnh mẽ” từ những người theo đạo Tin lành Mỹ, từ Mạc Tư Khoa và từ người Hồi giáo.
Trên trang 10 của ấn bản hàng ngày của tờ báo, bài báo xuất hiện dưới tiêu đề màu đỏ “Thượng hội đồng giám mục”. Trong một cột bên cạnh, các biên tập viên của tờ báo đã giải thích về lịch sử xuất bản trước đây của bài báo, giới thiệu bài báo bằng những từ sau:
Cởi mở với những tình bạn mới và bất ngờ, rời bỏ chủ nghĩa giáo sĩ trị và vùng an toàn của bản thân và mở lòng với tất cả các nền văn hóa nhân danh chủ nghĩa phổ quát của Kitô giáo. Đây là những cách mà Chúa Thánh Thần hoạt động trong Thượng hội đồng, “và mỗi cách này đều mời gọi chúng ta đến với một kiểu chết nào đó để chúng ta có thể sống”. Đây là những suy nghĩ của học giả Kinh thánh và nhà thần học Dòng Đa Minh Timothy Peter Joseph Radcliffe—người mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ tấn phong Hồng Y trong công nghị sắp tới—về tiến trình ba năm của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, được phát biểu trong một hội nghị được tổ chức vào Thứ Sáu Tuần Thánh vừa qua tại Cao đẳng Stonyhurst, Vương quốc Anh...
Bản văn đã được chuyển thể, xuất hiện trên tạp chí tiếng Anh The Tablet vào tháng 4 năm 2024 và được Vita e Pensiero, một tạp chí hai tháng một lần của Đại học Công Giáo Thánh Tâm, tái bản trong số 4 của tháng 7/tháng 8 bằng bản dịch tiếng Ý—do Simona Plessi biên tập—mà chúng tôi sẽ công bố trên các trang của mình.
Tại cuộc họp báo ngày 22 tháng 10, nhà báo Michael Haynes đã hỏi Đức Hồng Y Ambongo về bài báo—khiến phó giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh chỉ trích nhẹ, người tuyên bố rằng bài báo không liên quan gì đến Thượng hội đồng, mặc dù tờ báo Vatican, trong tiêu đề và phần phụ, đã liên kết rõ ràng bài báo của Hồng Y được chỉ định Radcliffe với Thượng hội đồng.
“Đây không phải là chủ đề của buổi họp báo hôm nay, vì chúng ta đang nói về Thượng hội đồng,” Cristiane Murray nói, trước khi cho phép Hồng Y Ambongo trả lời câu hỏi của Haynes.
Hồng Y Ambongo trả lời:
Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là phải làm rõ mọi sự; nếu không, mọi người có thể nghĩ rằng chúng tôi đang che giấu điều gì đó. Chúng tôi cũng đã đọc bài báo này trong đó chúng tôi bị cáo buộc đã nhận tiền từ Nga, từ các nước vùng Vịnh và từ Hoa Kỳ, thông qua các nhà thờ Ngũ Tuần. Vì vậy, chúng tôi tự đọc bài báo đó.
Nhưng chúng tôi đang ở Thượng hội đồng, và chúng tôi tuân theo lời dạy của Cha Radcliffe, và tôi hoàn toàn không nhận ra những gì Cha Radcliffe đã nói trong bài báo mà bạn đang đề cập, và tôi có thể nói với bạn rằng hôm nay Cha Radcliffe đã đến gặp tôi trước khi chúng tôi bắt đầu vì ngài cũng chỉ mới đọc bài báo đó vào ngày hôm qua, và ngài rất sốc khi những điều như vậy có thể được viết ra để quy những điều này cho ngài. Và tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của các bạn là làm rõ mọi điều với tư cách là nhà báo.
Cha Radcliffe chưa bao giờ nói những điều này, và điều này hoàn toàn không phù hợp với tính cách của ngài, như ngài đã nói như vậy. Ngài đã ở đó với chúng tôi, và không ai cảm thấy bị buộc tội, và tôi có thể bảo đảm với bạn rằng đây là điều hoàn toàn không đúng sự thật. Điều này không liên quan gì đến những gì Cha Radcliffe đã nói, tôi không biết ai đã viết bài báo này, nhưng tôi nghĩ rằng mục đích của bài báo này là tạo ra một sự việc, nhưng may mắn thay, điều này đã không xảy ra.
Trong bài báo tiếp theo về cuộc họp báo ngày 22 tháng 10, tờ Quan Sát Viên Rôma đã tóm tắt ngắn gọn những phát biểu của Đức Hồng Y Ambongo và nhắc lại lịch sử xuất bản của bài báo được xuất bản ba lần dưới tên của Hồng Y được chỉ định Radcliffe. Lorena Leonardi và Edoardo Giribaldi đã tường thuật:
Một câu hỏi khác sau đó liên quan đến suy nghĩ của nhà thần học Timothy Radcliffe, được xuất bản trên The Tablet vào tháng 4, được dịch sang tiếng Ý trong ấn bản tháng 7 của tạp chí Vita e pensiero và được tái bản trên tờ báo của chúng tôi vào ngày 12 tháng 10 năm ngoái, trong đó ngài đã trích dẫn một “áp lực mạnh mẽ từ những người theo đạo Tin lành, với tiền của Mỹ; từ Chính thống giáo Nga, với tiền của Nga; và người Hồi giáo, với tiền từ các nước vùng Vịnh giàu có” mà “các giám mục Phi Châu” sẽ phải chịu. “Tôi không nhận ra Cha Radcliffe chút nào trong những gì đã viết”, Đức Hồng Y nói Ambongo Besungu, tường thuật về một cuộc họp mà nhà thần học này cho biết ngài “bị sốc” trước việc công bố “những thứ kiểu này được cho là của ngài. Cha Radcliffe không bao giờ nói như vậy”, vị Hồng Y người Phi Châu này nhắc lại.
Vatican News, hãng thông tấn của Bộ Truyền thông, đã đăng lại bằng tiếng Anh hầu hết bài báo của trên tờ Quan Sát Viên Rôma về cuộc họp báo, nhưng đã bỏ qua đoạn dành riêng cho những nhận xét của Hồng Y Ambongo về Hồng Y được chỉ định Radcliffe—gợi ý một nỗ lực có thể nhằm kiểm soát thiệt hại. Vatican News cũng đã xóa đoạn văn trong phạm vi đưa tin bằng tiếng Đức và tiếng Bồ Đào Nha về cuộc họp báo, nhưng vẫn giữ nguyên trong phạm vi đưa tin bằng tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha.
2. Năm thứ ba liên tiếp Tòa Ân Giải tổ chức buổi huấn luyện “Cử hành Bí tích Giải tội hôm nay”, dành cho tất cả các tín hữu, đặc biệt là giáo dân.
Sáng kiến này nhằm mục đích là một cơ hội để giải quyết một số khó khăn mà người ta có thể gặp phải khi đến tòa giải tội và tái khám phá vẻ đẹp giải phóng của cuộc gặp gỡ bí tích với Chúa Cha nhân từ, cũng như qua chứng từ của những người đã trực tiếp trải nghiệm niềm vui được tha thứ.
Hội thảo đã diễn ra vào Thứ Năm ngày 24 và Thứ Sáu ngày 25 tháng 10 năm 2024 tại Palazzo della Cancelleria. Việc tham gia, miễn phí, có thể diễn ra trực tiếp hoặc từ xa (thông qua liên kết tới kênh YouTube của Bộ Truyền thông). Trong cả hai trường hợp, những người có ý định tham gia phải ghi danh bằng cách điền vào mẫu ghi danh trên trang web của Tòa Ân Giải Tối Cao.
3. Khi Thượng Hội đồng có sự tham gia của các thành viên Trung Quốc, David Alton của Anh đã thu hút sự chú ý đến cuộc đàn áp tôn giáo tại Hoa Lục
Một thành viên Công Giáo hàng đầu của Thượng viện Anh đang thu hút sự chú ý đến cuộc đàn áp Giáo hội ở Trung Quốc.
Ngài David Alton cho biết trong một tuyên bố rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh đang tấn công vào mười giám mục sau khi họ phản đối Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, là tổ chức do Đảng Cộng sản Trung Quốc dựng nên nhằm ép buộc các thành viên phải cam kết độc lập khỏi Tòa thánh và “uốn nắn giáo lý Kitô giáo cho phù hợp với học thuyết của cộng sản Trung Quốc”.
Tuần trước, Alton đã đăng một bài viết của Nina Shea trên Viện Hudson với tựa đề “Mười giám mục Công Giáo bị đàn áp ở Trung Quốc”.
Alton cho biết bảy giám mục trong số này đã bị giam giữ mà không được xét xử hợp pháp, một số đã bị giam giữ liên tục trong nhiều năm hoặc nhiều thập niên, trong khi những người khác đã bị giam giữ nhiều lần, tới sáu lần kể từ khi thỏa thuận được ký kết.
Alton gọi họ là “mười giám mục phiền phức mà Vatican muốn chúng ta quên đi”.
“Tại sao? Bởi vì các ngài không chấp nhận quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc bảo họ phải tin, phải nghĩ hay phải nói gì”, ông viết.
Thành viên của Thượng viện Vương Quốc Anh đã đưa ra tuyên bố này khi Vatican chào mừng sự tham dự của các giám mục từ Trung Quốc đang tham dự Thượng hội đồng về tính đồng nghị. Giám mục Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang, 杨永强) và Giám mục Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu, 詹思祿) của Giáo phận Phúc Ninh/Mân Đông là đoàn đại biểu thứ ba tham dự Thượng hội đồng, sau Thượng hội đồng Giám mục về Thanh niên năm 2018 và phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng về tính công đồng vào năm ngoái.
Tòa thánh và Trung Quốc đã có một thỏa thuận tạm thời vào năm 2018 về việc bổ nhiệm giám mục, đã được gia hạn hai lần và dự kiến sẽ sớm được gia hạn thêm một lần nữa.
Trước thỏa thuận năm 2018, các giám mục từ Trung Quốc đại lục không thể đến Rôma để tham dự các sự kiện do Vatican tổ chức.
Tuy nhiên, một số nhà quan sát đã chỉ trích Vatican vì không nêu bật cuộc đàn áp đang diễn ra đối với người Công Giáo và những tín hữu tôn giáo khác ở quốc gia chính thức theo chủ nghĩa vô thần này.
Trích dẫn bài viết của Shea, Alton cho biết Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bắt mười giám mục “bị giam giữ vô thời hạn mà không qua xét xử hợp pháp, mất tích, bị cảnh sát an ninh điều tra không giới hạn, bị trục xuất khỏi giáo phận của các ngài hoặc chịu những trở ngại khác đối với chức vụ giám mục của các vị bao gồm đe dọa, giám sát, thẩm vấn và cái gọi là cải tạo”.
Những vị này là Giám mục Vinh Sơn Quách Hy Cẩm (Guo Xijin - 郭希錦), Giám mục Augustinô Thôi Thái (Cui Tai - 崔泰), Giám mục Giả Chí Quốc (Julius Jia Zhiguo, 賈志國) Giám mục Tađêô Mã Đại Thanh (Ma Daqin, 马达钦), Giám mục Phêrô Thiệu Chúc Mẫn (Shao Zhumin, 邵竹民), Giám mục Mêchiô Thạch Hồng Trinh (Shi Hongzhen,
石鴻禎), Giám mục Giacôbê Tô Chí Dân (Su Zhimin 蘇志民), Giám mục Giuse Hình Văn Chi (Xing Wenzhi, 邢文之), Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân (Zen Ze-kiun, 陈日君) và Giám mục Giuse Trương Vĩ Trụ (Zhang Weizhu, 张伟柱).
Trong bài viết của mình, Shea cho biết kể từ chính sách Hán hóa năm 2015, “Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc đã chứng kiến sự đàn áp lớn nhất kể từ thời Mao Trạch Đông”.
“Thỏa thuận Trung Quốc-Vatican không có sự dàn xếp nào cho những người phản đối vì lý do lương tâm đối với Hội Công Giáo Yêu Nước, gọi tắt là CPCA, những người thường được gọi là giáo hội ngầm. Thỏa thuận cũng không đề cập đến việc đàn áp tôn giáo. Vatican tuyên bố rằng hiệp ước, nội dung của nó là bí mật, chỉ tập trung hẹp vào một thỏa thuận chia sẻ quyền lực cho các cuộc bổ nhiệm giám mục. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã sử dụng nó để gây áp lực buộc các giám mục Công Giáo tham gia CPCA,” Shea viết.
Bà chỉ ra rằng Bắc Kinh đã đơn phương công bố một số cuộc bổ nhiệm, rõ ràng là vi phạm thỏa thuận Trung Quốc-Vatican.
“ Vì lợi ích của 'sự thống nhất' của Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận các cuộc bổ nhiệm này sau đó. Nhưng cuộc đàn áp của Bắc Kinh đối với 10 giám mục trong báo cáo này là mối đe dọa thực sự đối với sự thống nhất của Giáo Hội Công Giáo”, Shea nói thêm.
Alton cũng gửi cho những người theo dõi mình một bản sao bài viết của George Weigel ngày 17 tháng 10 trên tờ Wall Street Journal về đại diện của Trung Quốc tại Thượng hội đồng.
Weigel cho biết có “một nỗ lực tàn bạo” nhằm áp đặt “Hán hóa” các cộng đồng tôn giáo, đưa họ vào sự phù hợp với “Tư tưởng Tập Cận Bình” - ám chỉ chủ tịch Trung Quốc.
“Chế độ Trung Quốc đã bổ nhiệm Giám mục Chiêm Tư Lộc vào giáo phận Mân Đông vào năm 2000. Giám mục này đã bị vạ tuyệt thông vì chấp nhận việc tấn phong giám mục mà không có sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng, là một tội nghiêm trọng trong Giáo Hội. Sau đó, ông đã được hòa giải với Giáo Hội vào năm 2018. Tuy nhiên, một năm sau đó đã công khai tuyên thệ “sẽ quyết tâm thực hiện việc Hán hóa tôn giáo” và “tiếp tục theo đuổi con đường phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa”, Weigel viết về một trong những người tham dự Thượng hội đồng.
Ông cũng chỉ ra rằng đại diện khác từ Trung Quốc là phó chủ tịch Hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc.
Weigel viết: “Giám mục Dương Vĩnh Cường là phó chủ tịch của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, một công cụ của Ban Công tác Mặt trận Thống nhất của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản, được thành lập năm 1957 để chia rẽ Giáo Hội Công Giáo. Vatican chưa bao giờ công nhận nhóm này là một cơ quan Công Giáo hợp pháp. Trong một lá thư gửi cho người Công Giáo Trung Quốc năm 2007, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 cho biết mục đích của nhóm này ‘không phù hợp với giáo lý Công Giáo’. Vị trí của Giám mục Dương trong Hiệp hội Công Giáo Yêu nước càng làm sâu sắc thêm hố sâu ngăn cách giữa Giáo Hội do chế độ kiểm soát ở Trung Quốc và Giáo Hội thầm lặng đang bị bao vây, vốn vẫn trung thành với Rôma ngay cả khi các giáo sĩ và giáo dân của họ bị bỏ tù hoặc bị tử đạo”.
Tác giả người Mỹ – người viết tiểu sử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – cho biết sự tương tác giữa Vatican với Trung Quốc là “một thất bại hoàn toàn”.
Weigel cho biết Đức Thánh Cha Phanxicô dường như đã đồng ý với thỏa thuận mới “vì các nhà ngoại giao của ngài đã thuyết phục ngài rằng việc ký kết thỏa thuận đó—và sau đó chào đón những người như Giám mục Chiêm và Dương vào nhóm Thượng hội đồng—là một bước tiến tới quan hệ ngoại giao toàn diện” giữa Vatican, nơi hiện đang có quan hệ với Đài Loan.
“Trong khi đó, việc theo đuổi ảo tưởng ngoại giao này đã làm im tiếng nói của Vatican thay mặt cho tất cả các tín hữu bị đàn áp ở Trung Quốc,” ông viết.
“Đức Giáo Hoàng nói rằng ngài 'hài lòng với cuộc đối thoại', kết quả của cuộc đối thoại là 'tốt'. Trên thực tế, đó là một sự ô nhục”, Weigel nói.
Source:Crux
Thánh Ca
TV 23
Lm Thái Nguyên
04:33 28/10/2024
Đâu chỉ là
Lm Thái Nguyên
04:34 28/10/2024
TV 24
Lm Thái Nguyên
04:35 28/10/2024
Dâng thân phận
Lm Thái Nguyên
04:36 28/10/2024
Trước Nhan Ngài
Lm Thái Nguyên
04:37 28/10/2024
TV 17
Lm Thái Nguyên
04:38 28/10/2024
Điều Răn Trọng Nhất
Lm Thái Nguyên
04:39 28/10/2024
Trường Ca Mẹ Ơi
Phạm Trung
13:58 28/10/2024
Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị
Phạm Trung
13:59 28/10/2024