Phụng Vụ - Mục Vụ
Yêu thương
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
08:57 19/10/2011
Chúa nhật 30 thường niên A
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi… và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22.37-38).
Tình yêu giống như khí thở. Khí thở cần thiết cho sự sống thế nào, thì tình yêu cũng thiết yếu cho đời sống con người như thế. Muôn loài thụ tạo giống nhau, cả thực vật, động vật và con người, hết thở là chết. Con người sống không tình yêu thì đời sẽ đơn côi, lẻ loi và giá lạnh. Tình yêu như tia nắng mặt trời sưởi ấm tâm hồn. Sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8).Tình yêu bao la cao vời và bao trùm cả vạn vật. Tình yêu không có giới hạn. Khí trời lồng lộng ban phát sự sống cho mọi loài. Mọi loài thụ tạo được hít thở sự sống tràn đầy trong bầu khí của không gian và thời gian. Tình yêu của con người và các loài thụ tạo cũng được lan trải qua cuộc sống. Con người được tạo dựng vì tình yêu và cho tình yêu. Yêu Chúa, yêu người và yêu vạn vật. Mạng lưới tình yêu của Thiên Chúa bao phủ trên hết mọi loài. Thiên Chúa muốn chia sẻ tình yêu của Ngài qua muôn muôn, triệu triệu các loài thụ tạo khác nhau. Tình yêu tiếp tục ban phát tình yêu. Như thế mọi loài đều được ngụp lặn trong tình yêu của Tạo Hóa.
Tất cả mọi sự hiện hữu trên trần gian đều bắt nguồn từ tình yêu. Tình yêu là cốt lõi và là trục xoay của mọi vận chuyển. Không có tình yêu, vũ trụ muôn loài và muôn vật trở thành vô nghĩa. Tình yêu là nam châm thu hút mọi sự quy hướng về một mối và về chính nguồn tình yêu là Thiên Chúa. Tình yêu cao vời nhất là tình yêu Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu hiến thân tuyệt vời nhất là tình yêu của Con Thiên Chúa chịu chết treo trên thập giá: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3,16). Tình yêu sâu thẳm nhất là tình mẫu tử và phụ tử. Tình yêu say đắm nhất là tình yêu lứa đôi. Còn có rất nhiều đối tượng và lý tưởng của tình yêu. Trong mọi liên hệ của con người đều có tình yêu chi phối. Tình yêu là một mầu nhiệm. Chỉ khi sống trong tình yêu, chúng ta mới cảm nhận được tình yêu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đây là giới răn trọng nhất. Ai yêu mến Thiên Chúa, thì được Người biết đến (1Cor 8,3). Do bởi tình yêu, chúng ta được hiện hữu trên trần gian. Mọi thụ tạo trong vũ trụ đều có sự liên đới và hài hòa. Từ những hạt nhân nguyên tử nhỏ bé li ti tới những tinh tú khổng lồ đều di chuyển trong một trật tự quan phòng. Tất cả vạn vật trong vũ trụ lúc nào cũng chuyển động. Thiên Chúa là chủ tể của tất cả các loài thụ tạo trên trời dưới đất. Chính Thiên Chúa muốn thông ban tình yêu của Ngài qua các thụ tạo hữu hình và vô hình. Càng thám hiểm đi vào vũ trụ, chúng ta càng cảm nhận mầu nhiệm của tình yêu.
Trong tất cả các loài thụ tạo đều có tình yêu để sinh tồn. Tình yêu nối kết và quy hướng mọi loài thụ tạo về với Đấng Tạo Hóa. Dù con người có tin Thiên Chúa hay không tin, có từ chối hay chấp nhận, tình yêu của Thiên Chúa luôn bao bọc chở che. Chúa cho mưa, cho nắng trên cả người lành kẻ dữ. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt 5,45). Mọi loài đều được thừa hưởng cùng một nguồn tình yêu quan phòng. Tình yêu đó được trải dài qua từng phút giây trong cuộc sống. Tình yêu đi qua từng hơi thở, từng hạt âm thanh, từng cảnh đẹp và từng những cảm nhận cuộc đời. Qua từng giây, từng phút, chúng ta đang được ngụp lặn trong biển tình yêu của Tạo Hóa.
Chúa yêu thương chúng ta trước và Chúa gọi ta vào đời. Yêu Chúa trên hết mọi sự sẽ làm cho tình yêu của chúng ta thêm rộng mở. Yêu Chúa, chúng ta không bị mất mát hay thiệt thòi chi cả. Vì tình yêu đáp trả tình yêu. Chúng ta yêu một Thiên Chúa có ngôi vị nhưng vô hình. Chúng ta nhận biết Chúa qua các thụ tạo của Ngài. Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta (Eph 2,4). Trong cuộc sống, chúng ta đã đón nhận biết bao nghĩa cử của tình yêu. Nếu một ai đó cho chúng ta món qùa nho nhỏ như bông hoa, trái ngọt hái từ đồng nội hoặc trao tặng một món qùa, một chiếc nhẫn, một hạt kim cương hay bất cứ vật gì, chúng ta sẽ không ngừng cám ơn và mang ơn họ. Bông hoa đó, trái ngọt đó, nhẫn vàng đó, hạt xoàn hay kim quý chỉ là sản phẩm từ nguồn cội do Chúa tặng ban. Tâm tình biết ơn của chúng ta là những chức năng mà Tạo Hóa đã đặt để trong con người. Như thế, mọi sự đều là của Tạo Hóa và phải qui hướng về chính nguồn là Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban tất cả vì tình yêu.
Yêu Chúa và yêu người. Con người là loài thụ tạo cao quý, có hồn và xác. Con người được đặt lên để coi sóc vạn vật và làm trổ sinh hoa trái. Chúa Giêsu đã trao ban một điều răn mới như một chiếc chìa khóa mở cửa cõi lòng cho tất cả mọi người. Yêu thương nhau như Chúa yêu. Có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Làm sao con người có thể yêu thương nhau khi con người trên thế giới có quá nhiều khác biệt, khác biệt từ mầu da, dòng giống, dân tộc, ngôn ngữ, văn hóa, tín ngưỡng, sở thích, tư tưởng, ý hướng, lý tưởng và nhiều nữa…làm sao con người có thể yêu thương nhau? Yêu người trong gia đình, dòng tộc và dân tộc đã khó, nói chi đến yêu thương đồng loại. Chúa nhắn nhủ: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34).
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu thương đồng loại như chính mình: Ngươi phải thờ cha kính mẹ" và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình."(Mt 19,19). Thờ cha kính mẹ thì là điều hiển nhiên nhưng cũng không luôn dễ dàng đâu. Chúng ta cần một trái tim rộng mở hơn để yêu đồng loại. Trước hết, đồng loại là cùng một dòng, một giống và cùng mang hình ảnh của Đấng Tạo Thành. Con người dù có khác biệt mọi thứ nhưng đều được tạo dựng để chia sẻ cùng một tình yêu. Tình yêu này có thể vượt mọi biên giới để cùng đến với nhau. Hình ảnh sống động mà hằng ngày tôi được chứng kiến về cuộc sống chung rất đẹp. Gần Nhà Thờ Công Giáo nơi tôi phục vụ, đường phía sau có Chùa Phật Giáo, không xa có Đền Thờ Hồi Giáo, đi một khoảng lại có Hội Đuờng Do-thái Giáo, bên kia đường có Nhà Nguyện Anh Giáo… Mỗi ngày, mở cửa bước ra khỏi nhà, tôi đã gặp đủ mọi hạng người, đủ mọi mầu da, ngôn ngữ, tôn giáo… tôi cảm nhận được tình người gần gũi qua lời chào, qua ánh mắt và qua sự hỗ tương. Gặp nhau qua đường như những hình ảnh thoáng qua mà không cần phải giữ lại. Nên tôi cảm thấy sự liên đới cuộc đời cứ êm ả đẹp đẽ vì chẳng ai đụng đến ai. Tôi nghĩ đây mới chỉ là tình người nói chung.
Tình yêu cần bước tới và hướng thiện. Yêu kẻ thù. Điều này đòi hỏi một trái tim yêu thương tha thứ cao độ: Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em (Lc 6,27). Chúa Giêsu đã thực hành lời giảng để làm mẫu gương trước. Khi có nhiều người đã hùa nhau cáo gian, xỉ vả, bắt bớ, đánh đập, xô đẩy, chửi rủa, phản bội và giết Chúa, Chúa đã tha thứ và còn bênh đỡ cho sự lầm lỡ của họ. Phải nói rằng đây là một tình yêu dâng hiến cao vời vượt trên mọi ràng buộc. Tình yêu trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa đã yêu thương con người trong tình yêu vô vị lợi. Tình cho không, biếu không. Tình yêu không đòi đáp trả và không bị ràng buộc. Tình yêu của Thiên Chúa đối với Dân của Ngài không bao giờ thay đổi.
Hình như Chúa đòi hỏi tình yêu đáp trả hơi nhiều: "Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37). Tình yêu Chúa phải là ưu tiên hằng đầu. Không phải Chúa ghen tị trong tình yêu nhưng qua đó tình yêu gia đình được thăng hoa. Tình yêu được qui hướng về Thiên Chúa là nguồn cội của tình yêu. Yêu Chúa trước, chúng ta vẫn còn có thể yêu mến cha mẹ, anh chị em và đồng loại. Nhưng nếu chúng ta đi ngược lại dòng tình yêu thì nguồn tình yêu sẽ cạn. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã tìm ra con đường nên thánh qua tình yêu: Ơn gọi của tôi là tình yêu. Chị thánh đã ngụp lặn trong tình Chúa trước mọi tình yêu khác. Chị đã tìm về được chính nguồn tình yêu. Chị đã xứng danh là môn đệ của Chúa Giêsu.
Nơi đâu có yêu thương, nơi đó có Thiên Chúa hiện diện. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo (1Ga 4,12). Chúa không chỉ cư ngụ nơi các nhà thờ Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo, Do-thái Giáo, Hồi Giáo… mà là hiện diện khắp mọi nơi, đặc biệt nơi những tâm hồn biết yêu thương. Có yêu thương là có sự chia sẻ, có tha thứ và có hy sinh. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua đức ái của con người. Đức tin và đức cậy sẽ qua đi nhưng đức ái sẽ tồn tại muôn đời. Hạnh phúc quê trời là hưởng lạc tình yêu vô biên. Trong Nước Trời, mọi tâm hồn sẽ yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình vậy. Amen
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi… và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22.37-38).
Tình yêu giống như khí thở. Khí thở cần thiết cho sự sống thế nào, thì tình yêu cũng thiết yếu cho đời sống con người như thế. Muôn loài thụ tạo giống nhau, cả thực vật, động vật và con người, hết thở là chết. Con người sống không tình yêu thì đời sẽ đơn côi, lẻ loi và giá lạnh. Tình yêu như tia nắng mặt trời sưởi ấm tâm hồn. Sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa: Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8).Tình yêu bao la cao vời và bao trùm cả vạn vật. Tình yêu không có giới hạn. Khí trời lồng lộng ban phát sự sống cho mọi loài. Mọi loài thụ tạo được hít thở sự sống tràn đầy trong bầu khí của không gian và thời gian. Tình yêu của con người và các loài thụ tạo cũng được lan trải qua cuộc sống. Con người được tạo dựng vì tình yêu và cho tình yêu. Yêu Chúa, yêu người và yêu vạn vật. Mạng lưới tình yêu của Thiên Chúa bao phủ trên hết mọi loài. Thiên Chúa muốn chia sẻ tình yêu của Ngài qua muôn muôn, triệu triệu các loài thụ tạo khác nhau. Tình yêu tiếp tục ban phát tình yêu. Như thế mọi loài đều được ngụp lặn trong tình yêu của Tạo Hóa.
Tất cả mọi sự hiện hữu trên trần gian đều bắt nguồn từ tình yêu. Tình yêu là cốt lõi và là trục xoay của mọi vận chuyển. Không có tình yêu, vũ trụ muôn loài và muôn vật trở thành vô nghĩa. Tình yêu là nam châm thu hút mọi sự quy hướng về một mối và về chính nguồn tình yêu là Thiên Chúa. Tình yêu cao vời nhất là tình yêu Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu hiến thân tuyệt vời nhất là tình yêu của Con Thiên Chúa chịu chết treo trên thập giá: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3,16). Tình yêu sâu thẳm nhất là tình mẫu tử và phụ tử. Tình yêu say đắm nhất là tình yêu lứa đôi. Còn có rất nhiều đối tượng và lý tưởng của tình yêu. Trong mọi liên hệ của con người đều có tình yêu chi phối. Tình yêu là một mầu nhiệm. Chỉ khi sống trong tình yêu, chúng ta mới cảm nhận được tình yêu.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đây là giới răn trọng nhất. Ai yêu mến Thiên Chúa, thì được Người biết đến (1Cor 8,3). Do bởi tình yêu, chúng ta được hiện hữu trên trần gian. Mọi thụ tạo trong vũ trụ đều có sự liên đới và hài hòa. Từ những hạt nhân nguyên tử nhỏ bé li ti tới những tinh tú khổng lồ đều di chuyển trong một trật tự quan phòng. Tất cả vạn vật trong vũ trụ lúc nào cũng chuyển động. Thiên Chúa là chủ tể của tất cả các loài thụ tạo trên trời dưới đất. Chính Thiên Chúa muốn thông ban tình yêu của Ngài qua các thụ tạo hữu hình và vô hình. Càng thám hiểm đi vào vũ trụ, chúng ta càng cảm nhận mầu nhiệm của tình yêu.
Trong tất cả các loài thụ tạo đều có tình yêu để sinh tồn. Tình yêu nối kết và quy hướng mọi loài thụ tạo về với Đấng Tạo Hóa. Dù con người có tin Thiên Chúa hay không tin, có từ chối hay chấp nhận, tình yêu của Thiên Chúa luôn bao bọc chở che. Chúa cho mưa, cho nắng trên cả người lành kẻ dữ. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (Mt 5,45). Mọi loài đều được thừa hưởng cùng một nguồn tình yêu quan phòng. Tình yêu đó được trải dài qua từng phút giây trong cuộc sống. Tình yêu đi qua từng hơi thở, từng hạt âm thanh, từng cảnh đẹp và từng những cảm nhận cuộc đời. Qua từng giây, từng phút, chúng ta đang được ngụp lặn trong biển tình yêu của Tạo Hóa.
Chúa yêu thương chúng ta trước và Chúa gọi ta vào đời. Yêu Chúa trên hết mọi sự sẽ làm cho tình yêu của chúng ta thêm rộng mở. Yêu Chúa, chúng ta không bị mất mát hay thiệt thòi chi cả. Vì tình yêu đáp trả tình yêu. Chúng ta yêu một Thiên Chúa có ngôi vị nhưng vô hình. Chúng ta nhận biết Chúa qua các thụ tạo của Ngài. Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta (Eph 2,4). Trong cuộc sống, chúng ta đã đón nhận biết bao nghĩa cử của tình yêu. Nếu một ai đó cho chúng ta món qùa nho nhỏ như bông hoa, trái ngọt hái từ đồng nội hoặc trao tặng một món qùa, một chiếc nhẫn, một hạt kim cương hay bất cứ vật gì, chúng ta sẽ không ngừng cám ơn và mang ơn họ. Bông hoa đó, trái ngọt đó, nhẫn vàng đó, hạt xoàn hay kim quý chỉ là sản phẩm từ nguồn cội do Chúa tặng ban. Tâm tình biết ơn của chúng ta là những chức năng mà Tạo Hóa đã đặt để trong con người. Như thế, mọi sự đều là của Tạo Hóa và phải qui hướng về chính nguồn là Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban tất cả vì tình yêu.
Yêu Chúa và yêu người. Con người là loài thụ tạo cao quý, có hồn và xác. Con người được đặt lên để coi sóc vạn vật và làm trổ sinh hoa trái. Chúa Giêsu đã trao ban một điều răn mới như một chiếc chìa khóa mở cửa cõi lòng cho tất cả mọi người. Yêu thương nhau như Chúa yêu. Có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Làm sao con người có thể yêu thương nhau khi con người trên thế giới có quá nhiều khác biệt, khác biệt từ mầu da, dòng giống, dân tộc, ngôn ngữ, văn hóa, tín ngưỡng, sở thích, tư tưởng, ý hướng, lý tưởng và nhiều nữa…làm sao con người có thể yêu thương nhau? Yêu người trong gia đình, dòng tộc và dân tộc đã khó, nói chi đến yêu thương đồng loại. Chúa nhắn nhủ: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34).
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta yêu thương đồng loại như chính mình: Ngươi phải thờ cha kính mẹ" và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình."(Mt 19,19). Thờ cha kính mẹ thì là điều hiển nhiên nhưng cũng không luôn dễ dàng đâu. Chúng ta cần một trái tim rộng mở hơn để yêu đồng loại. Trước hết, đồng loại là cùng một dòng, một giống và cùng mang hình ảnh của Đấng Tạo Thành. Con người dù có khác biệt mọi thứ nhưng đều được tạo dựng để chia sẻ cùng một tình yêu. Tình yêu này có thể vượt mọi biên giới để cùng đến với nhau. Hình ảnh sống động mà hằng ngày tôi được chứng kiến về cuộc sống chung rất đẹp. Gần Nhà Thờ Công Giáo nơi tôi phục vụ, đường phía sau có Chùa Phật Giáo, không xa có Đền Thờ Hồi Giáo, đi một khoảng lại có Hội Đuờng Do-thái Giáo, bên kia đường có Nhà Nguyện Anh Giáo… Mỗi ngày, mở cửa bước ra khỏi nhà, tôi đã gặp đủ mọi hạng người, đủ mọi mầu da, ngôn ngữ, tôn giáo… tôi cảm nhận được tình người gần gũi qua lời chào, qua ánh mắt và qua sự hỗ tương. Gặp nhau qua đường như những hình ảnh thoáng qua mà không cần phải giữ lại. Nên tôi cảm thấy sự liên đới cuộc đời cứ êm ả đẹp đẽ vì chẳng ai đụng đến ai. Tôi nghĩ đây mới chỉ là tình người nói chung.
Tình yêu cần bước tới và hướng thiện. Yêu kẻ thù. Điều này đòi hỏi một trái tim yêu thương tha thứ cao độ: Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em (Lc 6,27). Chúa Giêsu đã thực hành lời giảng để làm mẫu gương trước. Khi có nhiều người đã hùa nhau cáo gian, xỉ vả, bắt bớ, đánh đập, xô đẩy, chửi rủa, phản bội và giết Chúa, Chúa đã tha thứ và còn bênh đỡ cho sự lầm lỡ của họ. Phải nói rằng đây là một tình yêu dâng hiến cao vời vượt trên mọi ràng buộc. Tình yêu trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa đã yêu thương con người trong tình yêu vô vị lợi. Tình cho không, biếu không. Tình yêu không đòi đáp trả và không bị ràng buộc. Tình yêu của Thiên Chúa đối với Dân của Ngài không bao giờ thay đổi.
Hình như Chúa đòi hỏi tình yêu đáp trả hơi nhiều: "Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37). Tình yêu Chúa phải là ưu tiên hằng đầu. Không phải Chúa ghen tị trong tình yêu nhưng qua đó tình yêu gia đình được thăng hoa. Tình yêu được qui hướng về Thiên Chúa là nguồn cội của tình yêu. Yêu Chúa trước, chúng ta vẫn còn có thể yêu mến cha mẹ, anh chị em và đồng loại. Nhưng nếu chúng ta đi ngược lại dòng tình yêu thì nguồn tình yêu sẽ cạn. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã tìm ra con đường nên thánh qua tình yêu: Ơn gọi của tôi là tình yêu. Chị thánh đã ngụp lặn trong tình Chúa trước mọi tình yêu khác. Chị đã tìm về được chính nguồn tình yêu. Chị đã xứng danh là môn đệ của Chúa Giêsu.
Nơi đâu có yêu thương, nơi đó có Thiên Chúa hiện diện. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo (1Ga 4,12). Chúa không chỉ cư ngụ nơi các nhà thờ Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo, Do-thái Giáo, Hồi Giáo… mà là hiện diện khắp mọi nơi, đặc biệt nơi những tâm hồn biết yêu thương. Có yêu thương là có sự chia sẻ, có tha thứ và có hy sinh. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua đức ái của con người. Đức tin và đức cậy sẽ qua đi nhưng đức ái sẽ tồn tại muôn đời. Hạnh phúc quê trời là hưởng lạc tình yêu vô biên. Trong Nước Trời, mọi tâm hồn sẽ yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình vậy. Amen
Yêu Chúa, yêu người
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
08:58 19/10/2011
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.
Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em? Họ cũng thất bại.
Chưa chịu thua. Lần này như bài Phúc Âm thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất? Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả.Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời rất xuất sắc: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hềt lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.
Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
- Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
-Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.
-Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
-Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
-Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quãng đại.
Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu, yêu Chúa và yêu người. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ.Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39).
Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Chúa.
Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là …giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịên diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.
Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.
Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:52 19/10/2011
QUA THUYỀN
Một chiếc đò ngang chở đầy người qua sông, khi chèo đến giữa dòng sông thì đột nhiên dưới mạn thuyền thủng một lỗ, nước tuôn ào ạt vào thuyền, tất cả khách đi thuyền đều rất lao nhao lo sợ.
Trong lúc hổn độn ấy, thì duy chỉ có một người khách là vẫn cứ an nhiên tự tại ngồi bên thuyền, không những coi như không có việc gì xảy ra, mà lại còn trách những người khách khác:
- “Lo lắng đến nó làm gì, dù sao đi nữa thì chiếc thuyền này cũng không phải của chúng ta mà !”
Suy tư:
Chiếc đò ngang chở khách qua sông là Giáo Hội Công Giáo chở người tín hữu đến bến thiên đàng hạnh phúc vĩnh cửu, không một người Ki-tô hữu nào có thể điềm nhiên tự tại khi Giáo Hội bị ma quỷ và thế gian tấn công tứ bề, và không một người Ki-tô hữu nào lại nói: Giáo Hội thì có liên quan gì đến tôi !
Chiếc đò ngang chở người dân đến bến phồn vinh, văn minh hiện đại chính là tổ quốc, không một người dân nào có thể ngồi bàng quan nhâm nhi nước trà khi tổ quốc lâm nguy, và không một người dân nào có thể nói: tổ quốc thì có can hệ gì đến tôi !
Chiếc đò chìm giữa dòng sông thì khách trên đò đều chết, tổ quốc mất thì người dân bị mất tất cả, Giáo Hội bị ma quỷ và thế gian công đánh (mặc dù Giáo Hội vẫn tồn tại cho đến tận thế như lời hứa của Chúa Giê-su), thì việc thực hành đức tin và giữ đạo của người Ki-tô hữu càng khó khăn và nguy hiểm…
Ai hiểu thì hiểu !
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
![]() |
| N2T |
Một chiếc đò ngang chở đầy người qua sông, khi chèo đến giữa dòng sông thì đột nhiên dưới mạn thuyền thủng một lỗ, nước tuôn ào ạt vào thuyền, tất cả khách đi thuyền đều rất lao nhao lo sợ.
Trong lúc hổn độn ấy, thì duy chỉ có một người khách là vẫn cứ an nhiên tự tại ngồi bên thuyền, không những coi như không có việc gì xảy ra, mà lại còn trách những người khách khác:
- “Lo lắng đến nó làm gì, dù sao đi nữa thì chiếc thuyền này cũng không phải của chúng ta mà !”
Suy tư:
Chiếc đò ngang chở khách qua sông là Giáo Hội Công Giáo chở người tín hữu đến bến thiên đàng hạnh phúc vĩnh cửu, không một người Ki-tô hữu nào có thể điềm nhiên tự tại khi Giáo Hội bị ma quỷ và thế gian tấn công tứ bề, và không một người Ki-tô hữu nào lại nói: Giáo Hội thì có liên quan gì đến tôi !
Chiếc đò ngang chở người dân đến bến phồn vinh, văn minh hiện đại chính là tổ quốc, không một người dân nào có thể ngồi bàng quan nhâm nhi nước trà khi tổ quốc lâm nguy, và không một người dân nào có thể nói: tổ quốc thì có can hệ gì đến tôi !
Chiếc đò chìm giữa dòng sông thì khách trên đò đều chết, tổ quốc mất thì người dân bị mất tất cả, Giáo Hội bị ma quỷ và thế gian công đánh (mặc dù Giáo Hội vẫn tồn tại cho đến tận thế như lời hứa của Chúa Giê-su), thì việc thực hành đức tin và giữ đạo của người Ki-tô hữu càng khó khăn và nguy hiểm…
Ai hiểu thì hiểu !
------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:53 19/10/2011
![]() |
| N2T |
44. Linh hồn ơi, nếu ngươi có thể nhìn thấy các thiên thần rất vui mừng cùng cầu nguyện với chúng ta, vui vẻ biết bao ở bên chúng ta khi chúng ta suy niệm, rất thận trọng tìm cách giúp chúng ta kiên trì làm việc thiện, và hoàn toàn mong muốn chúng ta mãi mãi được cứu độ.
(Thánh Bernard)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Assisi, tâm điểm của phong trào hòa bình
Nguyễn Trọng Đa
08:39 19/10/2011
Assisi, tâm điểm của phong trào hòa bình
ROMA – Ngày 27-10 tới, đền thánh thánh Phanxicô thành Átxidi (Assisi, Ý) sẽ trở thành tâm điểm của phong trào hòa bình theo dấu chân của ĐTC Gioan Phaolô II, 25 năm sau: cuộc gặp được trình bày sáng 18-10 tại Vatican bởi Đức Hồng Y Peter Kodwo Appiah Turkson, Chủ tịch Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, trong một buổi họp báo.
Đây sẽ là một "Ngày của suy tư, đối thoại, và cầu nguyện cho hòa bình và công lý trên thế giới".
ĐTC Biển Đức XVI đã mời các Giáo hội Kitô giáo, đại diện các tôn giáo trên thế giới và các nhân vật không theo tín ngưỡng nào, chẳng hạn bà Julia Kristeva trong phái đoàn Pháp.
ĐTC Biển Đức XVI sẽ khởi hành lúc 8 giờ sáng từ Vatican, bằng xe lửa, nhờ một đoàn xe lửa của Ý, và Ngài sẽ trở về lúc 20g30.
Ngày trước đó sẽ được chuẩn bị với một buổi cử hành Lời Chúa, lúc 10g30, tại Quảng trường Thánh Phêrô, thay cho cuộc triều yết chung như thường lệ. Cùng tham dự với ĐTC Biển Đức XVI sẽ có các cộng đồng thuộc giáo phận Roma của Ngài.
Đại diện của các Giáo Hội Đông phương sẽ chia thành 17 phái đoàn. Thượng Phụ Bartholomew I sẽ hướng dẫn phái đoàn của Phanar. Và Đức Tổng Giám mụcAleksandr sẽ đại diện Thượng Phụ Cyril I của Toà thượng phụ Mátxcơva. Các phái đoàn khác đến từ Tòa Thượng phụ Chính Thống Syria, Giáo Hội Tông đồ Armenia, Giáo Hội Chính Thống Syro-Malankara và Giáo Hội Asssyria Đông phương.
Đại diện của các Giáo Hội Tây phương sẽ chia thành 19 phái đoàn, trong đó có Cộng đồng Anh giáo và dẫn đầu phái đoàn là Giáo chủ Tổng Giám Mục Canterbury, Rowan Williams, Liên đoàn Luthêrô thế giới, Liên Hiệp Thế giới các Giáo Hội Cải cách, Hội đồng Thế giới Methodist.
Trong số các đại biểu của các tôn giáo khác, người ta loan báo một phái đoàn đại diện cho thế giới Do Thái quốc tế, trong đó có một phái đoàn của Đại giáo trưởng của Israel.
Đại diện các tôn giáo khác sẽ là 176 vị, trong đó có 48 đại diện Hồi giáo, bao gồm một đại diện của Saudi Arabia, và Chủ tịch người Hồi giáo vùng Caucasus, và trong phái đoàn Pháp có Chủ tịch Hội đồng Phụng tự Hồi giáo ở Pháp, Ngài Mohammed Moussaoui. 11 đại biểu Hồi giáo đã hiện diện ở Átxidi vào năm 1986, và 32 vị vào năm 2002, để tham dự ngày cầu nguyện và ăn chay theo sau các cuộc tấn công khủng bố ngày 11-9-2001: và lần này có 50 đại biểu Hồi giáo cho ngày 27-11 tới.
Trong đoàn đại biểu Ấn Độ giáo, người ta biết có sự hiện diện một cháu trai của Ngài Mahatma Gandhi, và cháu trai này cũng đã tham dự cuộc gặp hồi năm 1986. Cũng sẽ có mặt các đại diện của người Sikh, người theo Bái hoả giáo (Zoroastrianism), Phật tử, môn đồ của Khổng giáo, người theo Thần đạo, và đại diện các tôn giáo truyền thống của châu Phi và châu Mỹ.
Nhưng việc gì qui tụ các vị lại một nơi như thế? Đó là sự mong muốn "suy tư chung với nhau", và đồng ý với nhau về một "lời hứa", nhằm huy động mọi người một lần nữa vì hòa bình trên thế giới.
Các người không theo tôn giáo nào cũng sẽ có chỗ đứng của họ trong cuộc gặp gỡ này, theo ý muốn của ĐTC Biển Đức XVI, phù hợp với sự kiện "Sân của các dân ngoại", được thúc đẩy bởi Hội đồng Toà thánh về Văn hóa. Họ đại diện cho tính "phổ quát" của các giá trị lớn lao của nhân loại.
Cùng tham dự cuộc họp báo với Đức Hồng Y Turkson, có Đức Cha Mario Toso, Dòng Don Bosco (SDB), Tổng thư ký Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, Đức Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, Tổng thư ký Hội đồng Tòa thánh về Đối Thoại Liên Tôn, Linh mục Andrea Palmieri, Trưởng phòng Đông phương của Hội đồng Tòa thánh về Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Đức Giám Mục Melchor José Sanchez de Toca y Alameda, Thư ký Hội đồng Tòa thánh về Văn hóa, và linh mục Jean-Marie Laurent Mazas, giám đốc văn phòng "Sân của các dân ngoại" thuộc Hội đồng Tòa thánh về Văn hoá. (ZENIT.org 18-10-2011)
Nguyễn Trọng Đa
ROMA – Ngày 27-10 tới, đền thánh thánh Phanxicô thành Átxidi (Assisi, Ý) sẽ trở thành tâm điểm của phong trào hòa bình theo dấu chân của ĐTC Gioan Phaolô II, 25 năm sau: cuộc gặp được trình bày sáng 18-10 tại Vatican bởi Đức Hồng Y Peter Kodwo Appiah Turkson, Chủ tịch Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, trong một buổi họp báo.
Đây sẽ là một "Ngày của suy tư, đối thoại, và cầu nguyện cho hòa bình và công lý trên thế giới".
ĐTC Biển Đức XVI đã mời các Giáo hội Kitô giáo, đại diện các tôn giáo trên thế giới và các nhân vật không theo tín ngưỡng nào, chẳng hạn bà Julia Kristeva trong phái đoàn Pháp.
ĐTC Biển Đức XVI sẽ khởi hành lúc 8 giờ sáng từ Vatican, bằng xe lửa, nhờ một đoàn xe lửa của Ý, và Ngài sẽ trở về lúc 20g30.
Ngày trước đó sẽ được chuẩn bị với một buổi cử hành Lời Chúa, lúc 10g30, tại Quảng trường Thánh Phêrô, thay cho cuộc triều yết chung như thường lệ. Cùng tham dự với ĐTC Biển Đức XVI sẽ có các cộng đồng thuộc giáo phận Roma của Ngài.
Đại diện của các Giáo Hội Đông phương sẽ chia thành 17 phái đoàn. Thượng Phụ Bartholomew I sẽ hướng dẫn phái đoàn của Phanar. Và Đức Tổng Giám mụcAleksandr sẽ đại diện Thượng Phụ Cyril I của Toà thượng phụ Mátxcơva. Các phái đoàn khác đến từ Tòa Thượng phụ Chính Thống Syria, Giáo Hội Tông đồ Armenia, Giáo Hội Chính Thống Syro-Malankara và Giáo Hội Asssyria Đông phương.
Đại diện của các Giáo Hội Tây phương sẽ chia thành 19 phái đoàn, trong đó có Cộng đồng Anh giáo và dẫn đầu phái đoàn là Giáo chủ Tổng Giám Mục Canterbury, Rowan Williams, Liên đoàn Luthêrô thế giới, Liên Hiệp Thế giới các Giáo Hội Cải cách, Hội đồng Thế giới Methodist.
Trong số các đại biểu của các tôn giáo khác, người ta loan báo một phái đoàn đại diện cho thế giới Do Thái quốc tế, trong đó có một phái đoàn của Đại giáo trưởng của Israel.
Đại diện các tôn giáo khác sẽ là 176 vị, trong đó có 48 đại diện Hồi giáo, bao gồm một đại diện của Saudi Arabia, và Chủ tịch người Hồi giáo vùng Caucasus, và trong phái đoàn Pháp có Chủ tịch Hội đồng Phụng tự Hồi giáo ở Pháp, Ngài Mohammed Moussaoui. 11 đại biểu Hồi giáo đã hiện diện ở Átxidi vào năm 1986, và 32 vị vào năm 2002, để tham dự ngày cầu nguyện và ăn chay theo sau các cuộc tấn công khủng bố ngày 11-9-2001: và lần này có 50 đại biểu Hồi giáo cho ngày 27-11 tới.
Trong đoàn đại biểu Ấn Độ giáo, người ta biết có sự hiện diện một cháu trai của Ngài Mahatma Gandhi, và cháu trai này cũng đã tham dự cuộc gặp hồi năm 1986. Cũng sẽ có mặt các đại diện của người Sikh, người theo Bái hoả giáo (Zoroastrianism), Phật tử, môn đồ của Khổng giáo, người theo Thần đạo, và đại diện các tôn giáo truyền thống của châu Phi và châu Mỹ.
Nhưng việc gì qui tụ các vị lại một nơi như thế? Đó là sự mong muốn "suy tư chung với nhau", và đồng ý với nhau về một "lời hứa", nhằm huy động mọi người một lần nữa vì hòa bình trên thế giới.
Các người không theo tôn giáo nào cũng sẽ có chỗ đứng của họ trong cuộc gặp gỡ này, theo ý muốn của ĐTC Biển Đức XVI, phù hợp với sự kiện "Sân của các dân ngoại", được thúc đẩy bởi Hội đồng Toà thánh về Văn hóa. Họ đại diện cho tính "phổ quát" của các giá trị lớn lao của nhân loại.
Cùng tham dự cuộc họp báo với Đức Hồng Y Turkson, có Đức Cha Mario Toso, Dòng Don Bosco (SDB), Tổng thư ký Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, Đức Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, Tổng thư ký Hội đồng Tòa thánh về Đối Thoại Liên Tôn, Linh mục Andrea Palmieri, Trưởng phòng Đông phương của Hội đồng Tòa thánh về Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Đức Giám Mục Melchor José Sanchez de Toca y Alameda, Thư ký Hội đồng Tòa thánh về Văn hóa, và linh mục Jean-Marie Laurent Mazas, giám đốc văn phòng "Sân của các dân ngoại" thuộc Hội đồng Tòa thánh về Văn hoá. (ZENIT.org 18-10-2011)
Nguyễn Trọng Đa
ĐTC Biển Đức XVI, một người hành hương hòa bình tại Assisi
Nguyễn Trọng Đa
08:40 19/10/2011
ĐTC Biển Đức XVI, một người hành hương hòa bình tại Assisi
Theo bước chân của ĐTC Gioan Phaolô II
ROMA – Tại Átxidi (Assisi, Ý), ĐTC Biển Đức XVI sẽ là một người hành hương hòa bình giữa những người hành hương, và kêu gọi mọi người thiện chí hãy tự huy động cho hòa bình, - Đức Hồng Y Turkson đã giải thích cô đọng như thế, khi Ngài giới thiệu một "Ngày của suy tư, đối thoại, và cầu nguyện cho hòa bình và công lý trên thế giới" vào ngày 27-10 tới.
Đức Hồng Y Peter Kodwo Appiah Turkson, Chủ tịch Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, trình bày sáng kiến này với báo chí sáng 18-10 tại Vatican.
Đức Hồng Y Turkson nhận xét rằng ĐTC Biển Đức XVI muốn đặt ngày Átxidi không chỉ theo dấu hiệu của cầu nguyện và ăn chay, mà còn theo dấu hiệu của cuộc hành hương: ĐTC Biển Đức XVI sẽ đi 'hành hương đến Átxidi", giữa những người "hành hương hòa bình".
Đức Hồng Y cũng nói rõ rằng ĐTC Biển Đức XVI cũng nhấn mạnh khái niệm sự thật, "để chiến thắng mọi hình thức định kiến", nhưng cũng nhấn mạnh "chủ nghĩa hỗn tạp" vốn có thể đặt vào bóng tối "căn tính" của mỗi người. Các việc cầu nguyện sẽ diễn ra riêng biệt, như cách đây 25 năm.
Hồng y nhấn mạnh: “Sự thật là một điều kiện cần thiết để vượt qua sự cuồng tín và cực đoan, mà nhờ đó hòa bình đạt được, bằng cách áp đặt niềm tin riêng của mình cho người khác".
Trong thực tế ngày gặp gỡ, sẽ qui tụ các đại biều của hơn 50 quốc gia, có một chiều kích "huynh đệ", bởi vì "đó là một giấc mơ ngày càng trở nên thực tế: mỗi người, cùng với người khác, chứ không người này chống người khác, mọi người bước đi, từ mọi miền khác nhau của thế giới, để qui tụ lại thành một gia đình duy nhất".
Đức Hồng Y Turkson tiếp tục nói rằng việc “xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn" cần sự cam kết của "tất cả" những người thiện chí, chứ không chỉ những người có đức tin, nhất là khi đối diện với các thách thức mới do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đặt ra, khủng hoảng các thể chế dân chủ, và khủng bố quốc tế. Do đó, những người “không theo tín ngưỡng nào” cũng được ĐTC Biển Đức XVI mời dự ngày gặp gỡ.
Đức Hồng Y người Ghana nói tiếp: “Một lần nữa, - người ta nghĩ đến các sự kiện mới đây tại Ai Cập hay ở các khu vực khác của thế giới - chúng ta phải nói" không" với bất kỳ sự lèo lái tôn giáo nào vì lợi ích của mình. Bạo lực giữa các tôn giáo là một sự vấp phạm, vốn làm sai lệch bản sắc đích thực của tôn giáo, che khuất dung nhan của Chúa và lánh xa đức tin".
Cùng tham dự cuộc họp báo với Đức Hồng Y Turkson, có Đức Cha Mario Toso, Dòng Don Bosco (SDB), Tổng thư ký Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, Đức Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, Tổng thư ký Hội đồng Tòa thánh về Đối Thoại Liên Tôn, Linh mục Andrea Palmieri, Trưởng phòng Đông phương của Hội đồng Tòa thánh về Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Đức Giám Mục Melchor José Sanchez de Toca y Alameda, Thư ký Hội đồng Tòa thánh về Văn hóa, và linh mục Jean-Marie Laurent Mazas, giám đốc văn phòng "Sân của các dân ngoại" thuộc Hội đồng Tòa thánh về Văn hoá. Số các vị tham dự cuộc họp báo như thế cho thấy đây là công tác tổ chức liên hội đồng Tòa thánh cho ngày gặp gỡ. (ZENIT.org 18-10-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Theo bước chân của ĐTC Gioan Phaolô II
ROMA – Tại Átxidi (Assisi, Ý), ĐTC Biển Đức XVI sẽ là một người hành hương hòa bình giữa những người hành hương, và kêu gọi mọi người thiện chí hãy tự huy động cho hòa bình, - Đức Hồng Y Turkson đã giải thích cô đọng như thế, khi Ngài giới thiệu một "Ngày của suy tư, đối thoại, và cầu nguyện cho hòa bình và công lý trên thế giới" vào ngày 27-10 tới.
Đức Hồng Y Peter Kodwo Appiah Turkson, Chủ tịch Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, trình bày sáng kiến này với báo chí sáng 18-10 tại Vatican.
Đức Hồng Y Turkson nhận xét rằng ĐTC Biển Đức XVI muốn đặt ngày Átxidi không chỉ theo dấu hiệu của cầu nguyện và ăn chay, mà còn theo dấu hiệu của cuộc hành hương: ĐTC Biển Đức XVI sẽ đi 'hành hương đến Átxidi", giữa những người "hành hương hòa bình".
Đức Hồng Y cũng nói rõ rằng ĐTC Biển Đức XVI cũng nhấn mạnh khái niệm sự thật, "để chiến thắng mọi hình thức định kiến", nhưng cũng nhấn mạnh "chủ nghĩa hỗn tạp" vốn có thể đặt vào bóng tối "căn tính" của mỗi người. Các việc cầu nguyện sẽ diễn ra riêng biệt, như cách đây 25 năm.
Hồng y nhấn mạnh: “Sự thật là một điều kiện cần thiết để vượt qua sự cuồng tín và cực đoan, mà nhờ đó hòa bình đạt được, bằng cách áp đặt niềm tin riêng của mình cho người khác".
Trong thực tế ngày gặp gỡ, sẽ qui tụ các đại biều của hơn 50 quốc gia, có một chiều kích "huynh đệ", bởi vì "đó là một giấc mơ ngày càng trở nên thực tế: mỗi người, cùng với người khác, chứ không người này chống người khác, mọi người bước đi, từ mọi miền khác nhau của thế giới, để qui tụ lại thành một gia đình duy nhất".
Đức Hồng Y Turkson tiếp tục nói rằng việc “xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn" cần sự cam kết của "tất cả" những người thiện chí, chứ không chỉ những người có đức tin, nhất là khi đối diện với các thách thức mới do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đặt ra, khủng hoảng các thể chế dân chủ, và khủng bố quốc tế. Do đó, những người “không theo tín ngưỡng nào” cũng được ĐTC Biển Đức XVI mời dự ngày gặp gỡ.
Đức Hồng Y người Ghana nói tiếp: “Một lần nữa, - người ta nghĩ đến các sự kiện mới đây tại Ai Cập hay ở các khu vực khác của thế giới - chúng ta phải nói" không" với bất kỳ sự lèo lái tôn giáo nào vì lợi ích của mình. Bạo lực giữa các tôn giáo là một sự vấp phạm, vốn làm sai lệch bản sắc đích thực của tôn giáo, che khuất dung nhan của Chúa và lánh xa đức tin".
Cùng tham dự cuộc họp báo với Đức Hồng Y Turkson, có Đức Cha Mario Toso, Dòng Don Bosco (SDB), Tổng thư ký Hội đồng Toà thánh về Công lý và Hòa bình, Đức Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, Tổng thư ký Hội đồng Tòa thánh về Đối Thoại Liên Tôn, Linh mục Andrea Palmieri, Trưởng phòng Đông phương của Hội đồng Tòa thánh về Cổ vũ sự Hiệp nhất Kitô hữu, Đức Giám Mục Melchor José Sanchez de Toca y Alameda, Thư ký Hội đồng Tòa thánh về Văn hóa, và linh mục Jean-Marie Laurent Mazas, giám đốc văn phòng "Sân của các dân ngoại" thuộc Hội đồng Tòa thánh về Văn hoá. Số các vị tham dự cuộc họp báo như thế cho thấy đây là công tác tổ chức liên hội đồng Tòa thánh cho ngày gặp gỡ. (ZENIT.org 18-10-2011)
Nguyễn Trọng Đa
Pháp: Phái đoàn tham dự ngày gặp gỡ liên tôn tại Assisi
Phạm Kim An
08:41 19/10/2011
Pháp: Phái đoàn tham dự ngày gặp gỡ liên tôn tại Assisi
ROMA - ĐTC Biển Đức XVI sẽ đến Átxidi (Assisi, Ý) vào ngày 27-10 tới, để kỷ niệm 25 năm ngày diễn ra cuộc gặp liên tôn vì hòa bình, do ĐTC Chân Phước Gioan Phaolô II thực hiện năm 1986, theo Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) trong một thông cáo.
Đại diện các tôn giáo khác và đại diện các xác tín triết học khác được Tòa Thánh mời tham gia ngày gặp năm 2011: về phần nước Pháp, ông Mohammed Moussaoui, Chủ tịch Hội đồng Phụng tự Hồi giáo ở Pháp (CFCM) do Hội đồng Tòa thánh về đối thoại liên tôn mời, và bà Julia Kristeva, triết gia và nhà văn, do Hội đồng Toà thánh về văn hóa mời.
Đức Giám Mục Michel Santier, giáo phận Créteil, Chủ tịch Hội đồng Quan hệ liên tôn của Hội đồng Giám mục Pháp sẽ đại diện cho các giám mục Pháp tại Átxidi. Ngài cùng đi với linh mục Christopher Roucou, Giám đốc Phòng quan hệ với Hồi giáo (SRI) của Hội đồng Giám mục Pháp.
Nhiều cuộc họp cầu nguyện cho hòa bình đã được tổ chức tại Pháp trong tháng Mười, để cầu cho ngày gặp gỡ ở Átxidi.
Theo thông cáo, đối với Đức Giám mục Santier, "hòa bình là một khát vọng cơ bản của con người, và nó rất hữu ích, với tín hữu các tôn giáo khác, để phục vụ hòa bình và sự hiệp nhất của cả nhân loại. Mục đích của việc qui tụ bên nhau là để làm chứng kiến cho tầm quan trọng của sự sống thiêng liêng. Cuộc gặp gỡ ở Átxidi và các cuộc gặp đang diễn ra ở Pháp đặt ra câu hỏi về cảm nghiệm của đức tin, và chính nó cho phép con người triển khai tất cả nhân cách của mình”. (ZENIT.org 18-10-2011)
Phạm Kim An
ROMA - ĐTC Biển Đức XVI sẽ đến Átxidi (Assisi, Ý) vào ngày 27-10 tới, để kỷ niệm 25 năm ngày diễn ra cuộc gặp liên tôn vì hòa bình, do ĐTC Chân Phước Gioan Phaolô II thực hiện năm 1986, theo Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) trong một thông cáo.
Đại diện các tôn giáo khác và đại diện các xác tín triết học khác được Tòa Thánh mời tham gia ngày gặp năm 2011: về phần nước Pháp, ông Mohammed Moussaoui, Chủ tịch Hội đồng Phụng tự Hồi giáo ở Pháp (CFCM) do Hội đồng Tòa thánh về đối thoại liên tôn mời, và bà Julia Kristeva, triết gia và nhà văn, do Hội đồng Toà thánh về văn hóa mời.
Đức Giám Mục Michel Santier, giáo phận Créteil, Chủ tịch Hội đồng Quan hệ liên tôn của Hội đồng Giám mục Pháp sẽ đại diện cho các giám mục Pháp tại Átxidi. Ngài cùng đi với linh mục Christopher Roucou, Giám đốc Phòng quan hệ với Hồi giáo (SRI) của Hội đồng Giám mục Pháp.
Nhiều cuộc họp cầu nguyện cho hòa bình đã được tổ chức tại Pháp trong tháng Mười, để cầu cho ngày gặp gỡ ở Átxidi.
Theo thông cáo, đối với Đức Giám mục Santier, "hòa bình là một khát vọng cơ bản của con người, và nó rất hữu ích, với tín hữu các tôn giáo khác, để phục vụ hòa bình và sự hiệp nhất của cả nhân loại. Mục đích của việc qui tụ bên nhau là để làm chứng kiến cho tầm quan trọng của sự sống thiêng liêng. Cuộc gặp gỡ ở Átxidi và các cuộc gặp đang diễn ra ở Pháp đặt ra câu hỏi về cảm nghiệm của đức tin, và chính nó cho phép con người triển khai tất cả nhân cách của mình”. (ZENIT.org 18-10-2011)
Phạm Kim An
Tổng thống Mông Cổ gặp ĐGH Bênêđictô XVI
Trầm Thiên Thu
09:42 19/10/2011
VATICAN - (UCANews, 18-10-2011) – Khi ĐGH Bênêđictô XVI và tổng thống Mông Cổ Tsakhiagiin Elbegdorj gặp gỡ tại Vatican ngày 17-10-2011, họ cùng thảo luận về mối quan hệ tốt đẹp giữa Mông Cổ với Tòa thánh và tình hình chính trị tại Á châu, đặc biệt chú ý tầm quan trọng của việc đối thoại giữa tôn giáo và văn hóa để thúc đẩy hòa bình và công lý.
Hai vị nguyên thủ cũng đối thoại về việc hiểu biết và hợp tác tích cực giữa Giáo hội Công giáo và nhà nước trong lĩnh vực giáo dục và xã hội ở Mông Cổ, một nước lớn gấp ba nước Pháp, nằm giữa Nga và Trung quốc, với dân số 3 triệu người.
ĐGH tươi cười và nói: “Xin chào ngài tổng thống”, rồi dẫn ngài tổng thống vào thư viện riêng. Vị tổng thống 48 tuổi, học ĐH Harvard, nói: “Cảm ơn ngài đã tiếp đón tôi. Đây là nơi tuyệt vời!”.
Mông Cổ đã thiết lập ngoại giao với Tòa thánh năm 1992, 2 năm sau ngày giành độc lập khỏi Liên bang Soviet. Lúc đó là tháng 7-1992, chính phủ đồng ý cho phép các nhà truyền giáo Công giáo trở lại đất nước họ sau một thời gian dài vắng bóng, và năm 2010, theo Niên giám Vatican (Annuario Pontificio), đã có 535 người Công giáo trên thảo nguyên rộng lớn Mông Cổ, với 19 linh mục dòng, 27 tu sĩ nam và 44 nữ tu.
Dù số người Công giáo ít ỏi ở đất nước đa số là Phật giáo này (hơn 53% dân Mông Cổ theo Phật giáo Tây tạng, 5% Hồi giáo, và chỉ 2% Kitô giáo), nhưng vẫn hoàn toàn tự do tôn giáo, một quyền có trong hiến pháp Mông Cổ. Dưới sự lãnh đạo của ĐGM Wenceslao Padilla, Khâm sứ Tòa thánh người Philippine ở Ulaanbaatar, Giáo hội tích cực trong việc giáo dục và y tế ở 4 giáo phận.
![]() |
ĐGH tươi cười và nói: “Xin chào ngài tổng thống”, rồi dẫn ngài tổng thống vào thư viện riêng. Vị tổng thống 48 tuổi, học ĐH Harvard, nói: “Cảm ơn ngài đã tiếp đón tôi. Đây là nơi tuyệt vời!”.
Mông Cổ đã thiết lập ngoại giao với Tòa thánh năm 1992, 2 năm sau ngày giành độc lập khỏi Liên bang Soviet. Lúc đó là tháng 7-1992, chính phủ đồng ý cho phép các nhà truyền giáo Công giáo trở lại đất nước họ sau một thời gian dài vắng bóng, và năm 2010, theo Niên giám Vatican (Annuario Pontificio), đã có 535 người Công giáo trên thảo nguyên rộng lớn Mông Cổ, với 19 linh mục dòng, 27 tu sĩ nam và 44 nữ tu.
Dù số người Công giáo ít ỏi ở đất nước đa số là Phật giáo này (hơn 53% dân Mông Cổ theo Phật giáo Tây tạng, 5% Hồi giáo, và chỉ 2% Kitô giáo), nhưng vẫn hoàn toàn tự do tôn giáo, một quyền có trong hiến pháp Mông Cổ. Dưới sự lãnh đạo của ĐGM Wenceslao Padilla, Khâm sứ Tòa thánh người Philippine ở Ulaanbaatar, Giáo hội tích cực trong việc giáo dục và y tế ở 4 giáo phận.
Vatican phổ biến tài liệu cải tổ hệ thống tài chánh quốc tế
Bùi Hữu Thư
09:53 19/10/2011
![]() |
| Biểu Tình Phản Đối tại Wall Street Nữu Ước |
VATICAN (CNS) -- Vatican đã soạn thảo một tài liệu về cải tổ hệ thống tài chánh quốc tế và vai trò của cơ quan điều hành công cộng.
Tài liệu được Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình soạn thảo bằng 4 sinh ngữ, sẽ được phổ biến ngày 24 tháng 10, và được Đức Hồng Y Peter Turkson, chủ tịch hội đồng trình bầy cùng ngày trong môt buổi họp báo tại Vatican.
Vatican nói tài liệu sẽ đề cập đến "việc cải tổ hệ thống tài chánh quốc tế với viễn ảnh về một cơ quan công cộng bao quát."
Bản văn trích dẫn Thông Điệp "Bình An Dưới Thế" ("Pacem in Terris") năm 1963 như sau:
"Ngày nay, tiện ích chung cho hoàn vũ gây ra cho chúng ta những vấn đề có chiều kích quốc tế; do đó, các vấn đề này không thể giải quyết được, ngoại trừ phải có một cơ quan công cộng có quyền hành, tổ chức, phương tiện, và một lãnh vực hoạt động trên toàn cầu."
Vào các tháng gần đây, hội đồng công lý và hòa bình của Vatican đã triệu tập các chuyên gia để thảo luận về các chiều kích đaọ đức của cuộc khủng hoảng tài chánh hoàn vũ. Trong một đại hội được hội đồng bảo trợ tháng Năm vừa qua, các tham dự viên nói người Công Giáo đang tìm kiếm những hướng dẫn của Vatican về các nguyên tắc đạo lý cho thế giới tài chánh và môi sinh.
Trong thông điệp năm 2009 "Bác Ái trong Sự Thật" ("Caritas in Veritate"), Đức Thánh Cha Benedict XVI đề cập đến những ảnh hưởng ngày càng trầm trọng của cuộc khủng hoảng quốc tế và nói là có "một nhu cầu khẩn cấp về một cơ quan chính trị quốc tế" có thể giúp cho các quốc gia nghèo khó có tiếng nói mạnh hơn trong việc lấy các quyết định về tài chánh, và giúp điều hành nền kinh tế thế giới, bảo đảm an ninh thực phẩm, bảo vệ môi sinh tốt hơn và điều hòa việc di dân.
Đức Thánh Cha nói: "Một cơ quan như vậy phải được điều hành theo luật pháp, phải kiên trì áp dụng các nguyên tắc về phụ cấp và tương trợ, để thiết lập tiện ích chung, và cam kết đảm bảo được sự phát triển con người toàn vẹn, như được gợi hứng bởi các giá trị về bác ái trong sự thật."
Vatican lên án bạo lực của nhóm Occupy Wall Street tại Rome
Trần Mạnh Trác
17:21 19/10/2011
(theo CNA / EWTN) .- Linh mục Federico Lombardi, Giám đốc văn phòng báo chí Vatican, vừa lên án cuộc gây rối của những người biểu tình tại Rome. Đây là cuộc biểu tình rập khuôn theo phong trào Occupy Wall Street đang xảy ra tại Hoa Kỳ. Trong khi các cuộc biểu tình ở các nơi khác trên thế giời diễn ra một cách ôn hòa, tại Rome, bạo loạn đã xảy ra, một cây thánh giá lớn và một bức tượng Đức Mẹ Lộ Đức đã bị phá hủy.
"Những bạo lực xảy ra ngày hôm qua tại Rome là không thể chấp nhận được và phi lý," Cha Lombardi tuyên bố. "Chúng tôi lên án tất cả các hình thức bạo lực, kể cả bạo lực đối với những biểu tượng tôn giáo."
Chương trình diễu hành là từ quảng trường gần nhà ga xe lửa ở trung tâm của thành phố, đi qua Coliseum và Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô. Tuy nhiên, ngay khi vừa mới bắt đầu cuộc biểu tình, nhiều nhóm thanh niên đã cướp bóc các cửa hàng, đốt xe và đụng độ với cảnh sát.
Cuộc biểu tình dự định diễn ra trùng hợp với các cuộc biểu tình khác ở Barcelona, New York và Sydney để tỏ tình đoàn kết với phong trào "Indignado" ở Tây Ban Nha và phong trào Occupy Wall Street ở Mỹ
Các người biểu tình tại Rome đã đập phá một tượng Đức Mẹ Lộ Đức và một thánh giá lớn tại các giáo xứ St. Marcelino và Peter.
Tờ báo L'Osservatore Romano số ra ngày 18 tháng 10 đã công bố một tuyên bố của chủ tịch Hội đồng các Giám mục Ý, Đức Hồng Y Angelo Bagnasco: "Chúng tôi không thể không bày tỏ sự bất mãn của chúng tôi trước những bạo lực gây ra bởi những tổ chức tội phạm, đã làm xáo trộn những cố gắng của nhiều người muốn bày tỏ quan điểm của mình một cách hòa bình."
Đại diện cho Giáo phận Rôma của Đức Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Agostino Vallini cũng tuyên bố thêm, "những hành vi côn đồ xúc phạm đến những hình ảnh thiêng liêng, những bạo động chống lại con người và phá hủy tài sản thì không thể biện minh được bằng bất cứ cách nào".
"Rome, một thành phố hiếu khách mỗi ngày đón chào hàng ngàn người hành hương và khách du lịch, đã bị thương tổn."
Trong bài giảng tại nhà thờ chính tòa Milan vào chủ nhật, Đức Hồng Y Angelo Scola cũng cho biết, "việc phá hủy bức tượng của Đức Maria và sự làm ô uế cây thánh giá đã xúc phạm chúng tôi một cách sâu sắc. Tuy nhiên, bên cạnh việc bị xúc phạm, biến cố đã... tràn ngập chúng tôi bằng một nỗi buồn sâu thẳm bởi vì đây là biểu hiện của bạo lực nghiêm trọng ngoại thường."
Ngài kêu gọi mọi người La Mã đáp trả bạo lực bằng hòa bình và công lý.
"Những bạo lực xảy ra ngày hôm qua tại Rome là không thể chấp nhận được và phi lý," Cha Lombardi tuyên bố. "Chúng tôi lên án tất cả các hình thức bạo lực, kể cả bạo lực đối với những biểu tượng tôn giáo."
Chương trình diễu hành là từ quảng trường gần nhà ga xe lửa ở trung tâm của thành phố, đi qua Coliseum và Vương Cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô. Tuy nhiên, ngay khi vừa mới bắt đầu cuộc biểu tình, nhiều nhóm thanh niên đã cướp bóc các cửa hàng, đốt xe và đụng độ với cảnh sát.
Cuộc biểu tình dự định diễn ra trùng hợp với các cuộc biểu tình khác ở Barcelona, New York và Sydney để tỏ tình đoàn kết với phong trào "Indignado" ở Tây Ban Nha và phong trào Occupy Wall Street ở Mỹ
Các người biểu tình tại Rome đã đập phá một tượng Đức Mẹ Lộ Đức và một thánh giá lớn tại các giáo xứ St. Marcelino và Peter.
Tờ báo L'Osservatore Romano số ra ngày 18 tháng 10 đã công bố một tuyên bố của chủ tịch Hội đồng các Giám mục Ý, Đức Hồng Y Angelo Bagnasco: "Chúng tôi không thể không bày tỏ sự bất mãn của chúng tôi trước những bạo lực gây ra bởi những tổ chức tội phạm, đã làm xáo trộn những cố gắng của nhiều người muốn bày tỏ quan điểm của mình một cách hòa bình."
Đại diện cho Giáo phận Rôma của Đức Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Agostino Vallini cũng tuyên bố thêm, "những hành vi côn đồ xúc phạm đến những hình ảnh thiêng liêng, những bạo động chống lại con người và phá hủy tài sản thì không thể biện minh được bằng bất cứ cách nào".
"Rome, một thành phố hiếu khách mỗi ngày đón chào hàng ngàn người hành hương và khách du lịch, đã bị thương tổn."
Trong bài giảng tại nhà thờ chính tòa Milan vào chủ nhật, Đức Hồng Y Angelo Scola cũng cho biết, "việc phá hủy bức tượng của Đức Maria và sự làm ô uế cây thánh giá đã xúc phạm chúng tôi một cách sâu sắc. Tuy nhiên, bên cạnh việc bị xúc phạm, biến cố đã... tràn ngập chúng tôi bằng một nỗi buồn sâu thẳm bởi vì đây là biểu hiện của bạo lực nghiêm trọng ngoại thường."
Ngài kêu gọi mọi người La Mã đáp trả bạo lực bằng hòa bình và công lý.
Đối thoại đại kết: Nhóm nghiên cứu tại Dombes
Vũ Văn An
21:39 19/10/2011
Suốt 70 năm qua, tức từ năm 1937, cứ vào mỗi cuối hè, 40 nhà thần học Công Giáo và Thệ Phản lại gặp nhau để cầu nguyện và suy tư về những vấn đề thần học quan trọng.
Câu truyện bắt đầu vào năm 1936, khi linh mục Paul Couturier, người 3 năm trước đó, từng phát động Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Sự Hợp Nhất Kitô Giáo, muốn tìm ra một bức tranh cho Tuần Lễ Cầu Nguyện sắp tới. Biết rằng tại một nhà thờ Thệ Phản nói tiếng Đức tại Thụy Sĩ có bức tranh đó, nên ngài yêu cầu bạn mình là Cha Laurent Rémillieux, biết nói tiếng Đức, qua đó xin một bản sao. Thế là Cha Rémillieux lên đường qua Herzogenbuchsee, phía bắc Thành Phố Berne của Thụy Sĩ, và ở đó, vừa bước vào ngôi nhà thờ, ngài gặp một mục sự Thệ Phản đang cầu nguyện cho sự hợp nhất Kitô Giáo…
Vị mục sư đó chính là Mục Sư Richard Baumlin, người từng sáng lập ra Hội Hiệp Thông Thánh Gioan nhằm học hỏi “mọi hình thức đức tin Kitô Giáo, trong khi vẫn tiếp tục yêu mến và phục vụ giáo hội của mình như bao giờ” và cầu nguyện cho việc hợp nhất trong cầu nguyện. Rồi năm 1937, Cha Rémillieux được Hội Hiệp Thông mời qua dự cuộc tĩnh tâm Mùa Phục Sinh, được tổ chức tại Erlenbach và khi trở về, ngài đã thuật lại mọi biến cố đầy hứng khởi ấy cho linh mục Couturier.
Mùa hè năm sau, một buổi tĩnh tâm chung cho các mục sư Thệ Phản Thụy Sĩ và các linh mục Công Giáo Pháp đã được tổ chức. Vì các khó khăn do hai ngôn ngữ tạo ra, các mục tử Pháp và Thụy Sĩ này bèn nghĩ tới việc thành lập một nhóm đối thoại nói tiếng Pháp. Chẳng may vì chiến tranh xẩy ra sau đó không lâu, nên nhóm đành phải tổ chức các cuộc họp riêng rẽ tại Thụy Sĩ và Pháp. Điều may là tới lúc đó, các cuộc tĩnh tâm đã cung cấp cho họ đủ cơ sở để có hướng làm việc: “Thần học của ta phải suôi chẩy với cầu nguyện”, theo kiểu nói của linh mục Couturier.
Năm 1952, linh mục Couturier đau nặng nên không tham dự cuộc gặp gỡ tại Đan Viện Dombes. Ngài qua đời Tháng Ba năm sau. Cha Maurice Vilain kế nghiệp ngài làm Đồng Chủ Tịch Công Giáo của Nhóm. Sau khi Cha Couturier qua đời, Nhóm bắt đầu soạn thảo các “luận đề” ngắn để phản ảnh các cuộc thảo luận thần học của mình.
Trong khoảng thời gian từ 1956 tới năm 1970, các luận đề sau đây đã được thảo luận
1956 Trạng thái tội nguyên tổ
1957 Sự trung gian của Chúa Kitô và thừa tác vụ của Giáo Hội
1958 Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô
1959 Thẩm quyền mục vụ trong Giáo Hội
1960 Tính tông truyền của Giáo Hội
1961 Chức linh mục và thừa tác vụ của Giáo Hội
1962 Hành vi tư tế của Chúa Kitô trong hoạt động tư tế của Giáo Hội
1963 Không có luận đề
1964 Không có luận đề
1965 Tín lý về Chúa Thánh Thần
1966 Không có luận đề
1967 “Liên hiệp thông”
1968 Kế thừa tông đồ
1969 Giáo Hội và Chúa Thánh Thần
1970 Giáo Hội, hiệp thông các thánh
Từ năm 1960 tới năm 1971, Nhóm thay đổi địa điểm gặp gỡ giữa Taizé và Đan Viện Dombes. Thời ấy, rất nhiều người trẻ lui tới Taizé và điều này tác động nhiều đối với Nhóm Dombes: đứng trước vấn đề “liên hiệp thông”, giới trẻ này yêu cầu Nhóm giải thích cho họ rõ đâu là vấn đề và “cho” hệ ở điều gì. Lời yêu cầu này đã phát sinh ra tài liệu đầu tiên của nhóm, tựa là “Hướng Tới Một Đức Tin Chung Về Thánh Thể?” (1972).
Từ 1971 tới 1997, Nhóm gặp nhau mỗi năm tại Đan Viện Đức Bà ở Dombes. Từ nay, Nhóm đã như diều gặp gió, thấy mình cần khai triển các vấn đề do tài liệu đầu tiên đặt ra. Năm 1973, tài liệu thứ hai ra đời tựa là “Hướng Tới Việc Hòa Giải Các Thừa Tác Vụ”. Trong tài liệu này, các điểm sau đây đã được nhấn mạnh: mọi thừa tác vụ đều có chiều kích hợp đoàn (điều 21), chiều kích bản thân (điều 22) và chiều kích cộng đoàn (điều 42). Tầm quan trọng của việc nhấn mạnh này không những sẽ được xác nhận qua các suy tư sau này của Nhóm mà còn qua các hiệu quả trông thấy tại những nơi xẩy ra đối thoại.
Nhóm tiếp tục khai triển và hoàn tất các suy tư của mình trong tài liệu thứ ba vào 3 năm sau: “Thừa Tác Vụ Giám Mục” (1976). Qua các ấn phẩm này, phương pháp làm việc của Nhóm đã thành hình: 1) các đề nghị dựa vào suy tư thần học phải được tiếp nối bằng các đề nghị mục vụ; 2) suy tư tín lý mỗi lúc phải dựa vào khảo cứu lịch sử nhiều hơn
Không ngại khó khăn, Nhóm Dombes đã phát động một chủ đề khác. Chủ đề này đã đem lại tài liệu thứ tư tựa là “Chúa Thánh Thần, Giáo Hội và Các Bí Tích” (1979). Năm 1981, các cuộc thảo luận của Nhóm tập chú vào một chủ đề khá tế nhị khiến họ phải khôn khéo lắm mới lèo lái qua sóng gío để hoàn thành tài liệu “Thừa Tác Vụ Hiệp Thông trong Giáo Hội Hoàn Vũ” (1986). Ấn phẩm này được công bố chỉ ít tháng trước khi Đức Gioan Phaolô II viếng vùng Lyon.
Năm 1987, năm đặc biệt đối với Nhóm, vì là năm kỷ niệm Nhóm được 50 tuổi. Nhiều nhân vật quan trọng thuộc các giáo hội và phong trào đại kết tới cử hành và đánh giá biến cố với Nhóm “tư riêng” (không chính thức) này, được coi là nhóm nói tiếng Pháp lâu đời nhất lúc đó chịu dấn thân vào cuộc đối thoại đại kết. Từ cuộc kỷ niệm này, Nhóm có hai công trình cụ thể:
a) một ấn phẩm gom góp tất cả các trước tác xưa nay (luận đề và tài liệu) của Nhóm thành bộ “Hướng Tới Hiệp Thông Giữa Các Giáo Hội” (1988);
b) một ấn phẩm trong đó Nhóm trình bày phương pháp làm việc của mình và hiện trạng tư duy của mình đã đi tới đâu, dưới tựa đề “Hướng Tới Việc Hồi Tâm Của Các Giáo Hội” (1991). Năm 2005, Đức Hồng Y Walter Kasper đã lên tiếng cho rằng: “Không thể có đại kết nếu không có hồi tâm, và không thể có tương lai chi hết nếu không có việc hồi tâm ấy. Suy tư hay nhất tôi biết về chủ đề này tìm thấy trong tài liệu của Nhóm Dombes tựa là ‘Hướng Tới Việc Hồi Tâm Của Các Giáo Hội’”. Tài liệu này là bước tiến có ý nghĩa của Nhóm về cả chất lượng lẫn phương pháp làm việc: i) về chất lượng, vì nó đã đưa ra sự phân biệt giữa “việc hồi tâm của Kitô Giáo”, “việc hồi tâm của giáo hội” và “việc hồi tâm của các hệ phái”; ii) về phương pháp, vì nó đã xác định ra 4 giai đoạn: 1/ đặt vấn đề, 2/ tìm tòi lịch sử, 3/ chứng cớ Thánh Kinh, 4/ các đề nghị hồi tâm.
Vấn đề cho năm 1991 là “Ta nên đề cập tới chủ đề nào để có thể sử dụng được các thành quả của kinh nghiệm đối thoại?”. Câu hỏi này là kết quả của nhiều suy tư lâu dài về một chủ đề đến lúc đó vẫn chưa được đề cập tới trong các cuộc đối thoại đại kết của nhóm và là một chủ đề rất tế nhị đối với tín hữu bình thường của các giáo hội: Đức Maria. Nó đã mang lại thành quả qua ấn phẩm “Đức Maria trong Kế Hoạch Thiên Chúa và Hiệp Thông Các Thánh”. Cuốn đầu tiên được phát hành năm 1997, cuốn thứ hai năm 1998, rồi cả hai cuốn này được in thành một cuốn duy nhất năm 1999. Trong tác phẩm này, 4 điểm đã được nhấn mạnh: 1/ việc ‘hợp tác’ của Đức Maria vào việc cứu rỗi, 2/ việc trọn đời đồng trinh của Đức Maria, 3/ hai tín điều được Giáo Hội Công Giáo tuyên bố: Vô Nhiễm Thai và Mông Triệu, 4/ việc khẩn cầu Đức Maria.
Năm 1997, Nhóm gặp nhau ở Đan Viện Dombes lần cuối cùng. Trong 60 năm, Nhóm được các đan sĩ Trappist tiếp đón. Nhưng cộng đoàn này đã trở thành già nua, con số đan sĩ càng ngày càng ít, nên họ không còn khả năng tiếp đón Nhóm nữa. Tuy năm 1987, Nhóm cho rằng mình “sẽ vĩnh viễn trú ngụ tại Đan Viện Xitô Dombes”, nhưng nay buộc phải tìm sự nâng đỡ của một cộng đoàn chiêm niệm khác. Rất may, Nhóm đã tìm được Đan Viện Pradines của các nữ đan sĩ Biển Đức, gần Roanne và được các nữ đan sĩ hoan nghinh. Do đó, từ năm 1998, dù vẫn mang tên là Nhóm Dombes, Nhóm đã chuyển về sinh hoạt hàng năm tại Pradines và cũng là năm đầu tiên, Nhóm nhận phụ nữ vào số 40 thành viên của mình.
Trong khung cảnh mới này, suốt trong 7 năm, Nhóm đã suy tư sâu sắc một chủ đề khá phức tạp về thẩm quyền tín lý trong Giáo Hội và nhờ thế đã xuất bản tài liệu dài nhất của mình, tựa là “ ‘Một Thầy’. Thẩm Quyền Tín Lý Trong Giáo Hội” (2005). Năm 2010, nhóm cho xuất bản tác phẩm "Kinh Lạy Cha".
Từ đó, Nhóm luôn theo đuổi con đường cầu nguyện, suy tư và hồi tâm để phục vụ các giáo hội. Nhóm luôn duy trì các liên hệ không chính thức và thân thiện với các giáo hội này trong khi hoàn toàn gắn bó với giáo hội riêng của mình. Hàng năm, vào cuối tháng Tám qua đầu tháng Chín, Nhóm đều gặp nhau trong 4 ngày để cùng tham dự thánh lễ với các nữ đan sĩ, đọc các giờ kinh phụng vụ với họ, làm việc, thảo luận nhóm, cử hành nghi thức phụng vụ chung, chia sẻ các thông tin đại kết… cùng giúp nhau lớn lên trong tình hiệp thông và đặt cơ sở trên lời cầu nguyện. Nhờ thế, các khía cạnh linh đạo, tín lý và mục vụ của đại kết quện lại với nhau trong hòa hợp để phục vụ Phong Trào Đại Kết, hướng tới Một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô.
Theo nhận định ngày 9 tháng 9 năm 2010 của tờ La Croix (www.la-croix.cm), đây là một nhóm có tiếng kín đáo, có khi còn bất khả xâm nhập nữa, nhưng ảnh hưởng của nó có tính hoàn cầu. Có người cho rằng công việc của họ đã linh hứng cho cả Công Đồng Vatican II lẫn Hội Đồng Đại Kết Các Giáo Hội. Tài liệu về hồi tâm của họ vào năm 1991 đã gây ấn tượng lớn nơi Đức Gioan Phaolô II. Ngài từng cho hay trên máy bay tới Ba Tây, trong chuyến tông du lần thứ 53, ngài từng đọc tác phẩm ấy, dù các tác giả của nó không chính thức đại diện cho các giáo hội liên hệ.
Dựa vào lịch sử để tháo gỡ cơ chế chia rẽ
Mục sư Gottfried Hamman, 73 tuổi, một mục sư thuộc phái Luthêrô, người từng là thành viên của nhóm 25 năm qua, cho hay: dù Nhóm lắng tai nghe nhau trong tinh thần cởi mở, nhưng căng thẳng vẫn là điều không thể tránh được. Vì “chúng tôi không hiện diện ở đó để chơi trò ngôn ngữ hỏa mù (langue de bois) cũng không để vun sới một hình thức ngoại giao đại kết”.
Ông nói tiếp: “Điều làm tôi say mê ở đó là không khí tranh luận thường xuyên khiến chúng tôi không thể chỉ ừ hử trong các trao đổi của mình. Chúng tôi có cảm tưởng đang phải kéo theo mình một ông già hay cãi lý đã 400 tuổi, có khi cả 500 tuổi nữa, do đó không thể qua quít (chat sur braise) đối với các vấn đề gai góc. Phải biết cách nắm vấn đề, nghĩa là duyệt lại lịch sử các giáo hội của chúng ta để tháo rời các cơ chế hay then máy của chia rẽ, ngõ hầu ráp chúng lại một cách tốt đẹp hơn theo hướng hợp nhất” không hơn không kém.
Không phải một nhóm kỹ thuật viên!
Thực vậy, suốt hơn 70 năm qua, Nhóm Dombes đã đề cập tới rất nhiều điểm từng gây chia rẽ giữa người Thệ Phản và người Công Giáo. Trước nhất, trên bình diện giáo hội học, người ta hiểu ra sao khi nghe hạn từ “Giáo Hội”?, và nhất là các chủ đề gây tranh cãi về thẩm quyền, về việc kế thừa các tông đồ hay về hiệp thông các thánh. Rồi trong thập niên 1970, nhiều tài liệu đã đem ra ánh sáng các điểm thỏa thuận giữa các giáo hội về các khía cạnh chủ yếu của đức tin: Phép Thánh Thể, Chúa Thánh Thần, các thừa tác vụ… Thập niên 1990 được đánh dấu bằng các công trình nói về việc hồi tâm của các giáo hội, tiếp theo là tài liệu sáng giá về Đức Maria. Vốn chủ yếu nhằm đánh giá lại khuôn mặt thánh mẫu trong phong trào Thệ Phản của 10 năm trước đó, tác phẩm này đã được Phân Khoa Thần Học Marianum ở Rôma trao giải thưởng vào năm 2001.
Người ta tự hỏi làm thế nào Nhóm đã đạt được kết qủa tích cực như trên, khi họ thường gặp nhau trên căn bản hoàn toàn đồng đều: mỗi bên 20 thành viên bằng nhau?
Linh Mục Michel Mallèvre, cựu giám đốc Văn Phòng Hợp Nhất Kitô Giáo của Hội Đồng Giám Mục Pháp, cho hay: “Điều chúng tôi sống, trước hết, là cảm nghiệm huynh đệ, tôn trọng lẫn nhau. Khi bất đồng ý kiến trong một cuộc đối thoại nào đó, chúng tôi không bận tâm đi qui tụ những nhà thần học nổi bật lúc đó, mà là qui tụ những người có cùng một hoài mong thăng tiến phong trào đại kết. Chúng tôi không phải là một nhóm kỹ thuật viên!”
Nói lại điều gì đó chung về đức tin trong ngôn ngữ ngày nay
Đối với Éric Boone, 38 tuổi, một giáo dân và hiện là giám đốc trung tâm thần học tại Poitiers, chính nét đa dạng của Nhóm đã lôi cuốn ông. Ông nói: “Giữa chúng tôi, có cả những nhà thần học cao thế (de haut vol) lẫn những mục tử ở dưới đất, điều này giúp chúng tôi tháo gỡ được nhiều vấn đề cụ thể, chúng tôi có được sự cọ sát lý thú giữa một nền thần học khó tính và nỗi lắng lo của các tín hữu”. Mặt khác, theo ông, “Sinh hoạt thần học, linh đạo và huynh đệ luôn nối kết chặt chẽ với nhau trong các tranh luận của chúng tôi”. Cầu nguyện chung, tranh luận, mà còn ăn chung và làm các bổn phận hàng ngày chung với nhau nữa. Hay nói theo một thành viên khác: “Khi đã rửa chén với nhau rồi, thì đâu còn đối thoại với nhau như trước nữa!”.
Theo Matthias Wirz, thành viên của cộng đoàn đan sĩ đại kết ở Bose, Ý, thì nét “chân thực” được sống chung kia giúp người ta đề cập không dè dặt “các vấn đề gây bối rối”, ngay cả khi “chúng tôi bị thương tổn chỉ vì các bất đồng mạnh mẽ”. Bất chấp là công việc gì, thì thủ tục sau vẫn được áp dụng: một khi đã chọn chủ đề nào rồi, thì hai nhà thần học, thường là một Công Giáo, một Thệ Phản, sẽ được mời để trình bày đóng góp của mình cho mọi người trong Nhóm. Tài liệu thảo luận sau đó sẽ được cả Nhóm duyệt lại và tu sửa, ngõ hầu mỗi người có thể ký nhận bản văn cuối cùng trong linh hồn và lương tâm mình. Cuốn “Kinh Lạy Cha”, xuất bản năm 2010, chẳng hạn, đã được duyệt đi duyệt lại 4 lần và cần tới 25 năm thai nghén mới cho ra đời được. Cha Mallèvre giải thích: “Cái thách đố là với những mẫn cảm và kinh nghiệm rất khác nhau của chúng tôi, mà chúng tôi vẫn đạt tới việc nói lại được một điều gì đó chung về đức tin trong ngôn ngữ ngày nay”.
Phong trào đại kết ngày mai sẽ không còn nhất thiết bước theo các biên giới tuyên tín nữa
Élisabeth Parmentier, nữ thần học gia Thệ Phản, một trong các phụ nữ đầu tiên tham gia Nhóm từ năm 1998, cho rằng: “Từ Công Đồng Vatican II, việc đối thoại giữa các giáo hội đã có những bước tiến lớn, cả trên bình diện phụng vụ, lẫn mục vụ và thừa tác vụ… Ngày nay, các giáo hội cần phải can đảm vượt thêm một bước nữa để ký kết các tuyên bố chung, hiện nay, họ vẫn còn sợ sệt”. Theo bà, “điều quan trọng là các giáo hội phải cho thấy một dấu chỉ hữu hình của hợp nhất, việc hòa giải phải là một điều gì đó cụ thể đối với người ta. Việc ấy vẫn còn là một con đường mênh mông, theo nghĩa phong trào đại kết của ngày mai sẽ không bó buộc phải bước theo các biên giới tuyên tín nữa”.
Theo bà, thực ra, một người cải cách vẫn có thể cảm thấy mình gần gũi với người Công Giáo có tinh thần hòa giải hơn là với một người thệ phản cực đoan, và ngược lại. Theo mục sư Marc Chambron, ở tận đáy, các bất đồng lớn giữa người Thệ Phản và người Công Giáo không còn hệ ở việc đưa ra một “đức tin chung” cho bằng “ở cách sống trong tư cách Giáo Hội và ở các lựa chọn luân lý hay đạo đức”.
Về Đức Maria
Giữa người Thệ Phản và người Công Giáo, các quan điểm đang bắt đầu chuyển động. Tài liệu mới đây về Đức Mẹ của Nhóm Dombes là một dấu hiệu khích lệ, không hẳn vì nó đã xóa đi hết các bất đồng, cho bằng, như lời một trong các tác giả phát biểu, người ta vẫn có thể hiệp thông mà không cần phải chia sẻ cùng một niềm tin độc dạng. “Chúng ta tin không phải theo lối hòa giải mà là theo lối chào đón nhau”. Việc chào đón nhau này phải trở thành khả hữu khi nói tới địa vị mà mỗi bên vốn nhìn nhận đối với Đức Maria trong ý định của Thiên Chúa, bất chấp các khác biệt.
Đó chính là mục tiêu của tài liệu vừa nhắc. Tuy không vượt qua được tất cả các vấn đề tranh cãi: việc cộng tác của Đức Maria vào ơn cứu rỗi, việc ngài trọn đời đồng trinh, việc ngài Vô Nhiễm Thai và Mông Triệu, hay việc tôn kính ngài, nhưng các tác giả đã đạt được kết luận này: không vấn đề nào trong các vấn đề ấy biện minh được các chia rẽ giữa các giáo hội.
Để làm cho cuộc tranh luận có thể tiến triển, Nhóm Dombes đã sử dụng hai nguyên tắc được mọi người công nhận: công chính hóa nhờ ơn thánh do đức tin ban cho, một nguyên tắc bất khả xâm phạm của Thệ Phản, và phẩm trật các chân lý, một nguyên tắc do Vatican II đề ra. Nguyên tắc đầu tiên giúp đạt được thỏa thuận chủ yếu về việc cộng tác của Đức Maria vào công trình cứu rỗi: Đức Maria tham dự vào công trình ấy không phải từ phía Đấng Cứu Thế, mà từ phía người được cứu. Nguyên tắc thứ hai, một nguyên tắc không đặt mọi tuyên phán về đức tin trên cùng một bình diện, đã loại bỏ việc coi đức tin và lòng sùng kính Thánh Mẫu như những tiêu chuẩn dứt khóat để được nhận vào đức tin Kitô Giáo.
Trở ngại cho hợp nhất
Hãy lấy hai tín điều gây tranh cãi: tín điều Vô Nhiễm Thai và tín điều Mông Triệu, hai tín điều chưa bao giờ nhận được sự ủng hộ của Thệ Phản. Nhưng thử hỏi người ta có nên đi quá xa biến chúng thành trở ngại cho hợp nhất? Nhóm Dombes trả lời một cách rõ ràng rằng không. Cho dù giáo hội Rôma có coi chúng như thành phần cấu tạo ra đức tin của mình, thì các tín điều này vẫn không phải là lò lửa (foyer incandescent) của đức tin ấy, tuy không xa lạ với nó. Chứng cớ: đức tin vẫn được phát biểu trong nhiều thế kỷ trong đó hai tín điều kia chưa được xác định và buộc phải tin. Chúng mới chỉ được tuyên bố sau cuộc phân ly. Chính vì thế, đâu có ai buộc người Thệ Phản phải tin theo một cách chính thức.
Nhóm Dombes nhận định như sau: “Trên bình diện tín lý, việc công bố hai tín điều Vô Nhiễm Thai và Mông Triệu chỉ liên quan tới giáo hội Rôma là người đã lên công thức cho chúng. Vì giáo hội này tự ý dấn thân vào các lời tuyên bố riêng dựa vào nguyên tắc “phẩm trật các chân lý”, nên nó hẳn phải nhìn nhận rằng hai tín điều này, vì không thuộc biểu thức chung của đức tin lúc phân ly, nên không thể buộc các Kitô hữu khác được”. Và Nhóm này nói thêm: “Không nên coi điều chưa phải là vấn đề đức tin mà chỉ là ý kiến thần học trong Giáo Hội suốt 19 thế kỷ qua như là điểm phân ly trong thế kỷ 20”.
Ngược lại, người Thệ Phản “không nên phán đoán rằng chúng trái ngược với tin mừng hay đức tin, mà chỉ nên coi chúng như hậu quả tự do và chính đáng của lương tâm Công Giáo đối với sự gắn bó của đức tin”. Họ cũng nên “chấp nhận rằng các anh em Công Giáo của họ coi chúng như các tín điều của đức tin”, và việc giải thích của họ “không có điều gì mâu thuẫn với việc loan báo Tin Mừng… Theo chiều hướng này, các tín điều kia không phát sinh ra dị biệt phân cách”. Người Thệ Phản cũng được mời gọi “bước ra khỏi sự dè dặt khôn ngoan của họ và trả lại cho Đức Maria địa vị chân chính của ngài trong cái hiểu của đức tin và trong lời cầu nguyện của Giáo Hội”.
Nói lên các xác tín của mình
Nhóm Dombes đóng vai trò người tiên phong. Nhưng đối với mỗi vấn đề còn tranh cãi, Nhóm dành cho các thành viên thì giờ để họ nói lên các xác tín của riêng mình. Chính nhờ thế, nhiều thiên kiến đã được loại trừ. Nhưng Nhóm không hoàn toàn tập chú vào suy tư thần học. Trở ngại còn có tính “xúc cảm” nữa. Nên mỗi người đều được mời gọi thay đổi thái độ, trở lại không phải với quan điểm của người khác mà là với việc lắng nghe một cách trung thành hơn Lời của Thiên Chúa, trong sự tôn trọng những gì Chúa Thánh Thần nói cho người khác hay nhờ người khác nói với ta. Về Đức Maria, một xác tín chung đã phát sinh trong Nhóm, đó là “Mọi công trình của chúng tôi đã chứng minh rằng nơi Đức Maria, không có điều gì cho phép chúng tôi biến ngài thành biểu tượng cho điều đang phân rẽ chúng tôi”.
Câu truyện bắt đầu vào năm 1936, khi linh mục Paul Couturier, người 3 năm trước đó, từng phát động Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Sự Hợp Nhất Kitô Giáo, muốn tìm ra một bức tranh cho Tuần Lễ Cầu Nguyện sắp tới. Biết rằng tại một nhà thờ Thệ Phản nói tiếng Đức tại Thụy Sĩ có bức tranh đó, nên ngài yêu cầu bạn mình là Cha Laurent Rémillieux, biết nói tiếng Đức, qua đó xin một bản sao. Thế là Cha Rémillieux lên đường qua Herzogenbuchsee, phía bắc Thành Phố Berne của Thụy Sĩ, và ở đó, vừa bước vào ngôi nhà thờ, ngài gặp một mục sự Thệ Phản đang cầu nguyện cho sự hợp nhất Kitô Giáo…
Vị mục sư đó chính là Mục Sư Richard Baumlin, người từng sáng lập ra Hội Hiệp Thông Thánh Gioan nhằm học hỏi “mọi hình thức đức tin Kitô Giáo, trong khi vẫn tiếp tục yêu mến và phục vụ giáo hội của mình như bao giờ” và cầu nguyện cho việc hợp nhất trong cầu nguyện. Rồi năm 1937, Cha Rémillieux được Hội Hiệp Thông mời qua dự cuộc tĩnh tâm Mùa Phục Sinh, được tổ chức tại Erlenbach và khi trở về, ngài đã thuật lại mọi biến cố đầy hứng khởi ấy cho linh mục Couturier.
Mùa hè năm sau, một buổi tĩnh tâm chung cho các mục sư Thệ Phản Thụy Sĩ và các linh mục Công Giáo Pháp đã được tổ chức. Vì các khó khăn do hai ngôn ngữ tạo ra, các mục tử Pháp và Thụy Sĩ này bèn nghĩ tới việc thành lập một nhóm đối thoại nói tiếng Pháp. Chẳng may vì chiến tranh xẩy ra sau đó không lâu, nên nhóm đành phải tổ chức các cuộc họp riêng rẽ tại Thụy Sĩ và Pháp. Điều may là tới lúc đó, các cuộc tĩnh tâm đã cung cấp cho họ đủ cơ sở để có hướng làm việc: “Thần học của ta phải suôi chẩy với cầu nguyện”, theo kiểu nói của linh mục Couturier.
Năm 1952, linh mục Couturier đau nặng nên không tham dự cuộc gặp gỡ tại Đan Viện Dombes. Ngài qua đời Tháng Ba năm sau. Cha Maurice Vilain kế nghiệp ngài làm Đồng Chủ Tịch Công Giáo của Nhóm. Sau khi Cha Couturier qua đời, Nhóm bắt đầu soạn thảo các “luận đề” ngắn để phản ảnh các cuộc thảo luận thần học của mình.
Trong khoảng thời gian từ 1956 tới năm 1970, các luận đề sau đây đã được thảo luận
1956 Trạng thái tội nguyên tổ
1957 Sự trung gian của Chúa Kitô và thừa tác vụ của Giáo Hội
1958 Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô
1959 Thẩm quyền mục vụ trong Giáo Hội
1960 Tính tông truyền của Giáo Hội
1961 Chức linh mục và thừa tác vụ của Giáo Hội
1962 Hành vi tư tế của Chúa Kitô trong hoạt động tư tế của Giáo Hội
1963 Không có luận đề
1964 Không có luận đề
1965 Tín lý về Chúa Thánh Thần
1966 Không có luận đề
1967 “Liên hiệp thông”
1968 Kế thừa tông đồ
1969 Giáo Hội và Chúa Thánh Thần
1970 Giáo Hội, hiệp thông các thánh
Từ năm 1960 tới năm 1971, Nhóm thay đổi địa điểm gặp gỡ giữa Taizé và Đan Viện Dombes. Thời ấy, rất nhiều người trẻ lui tới Taizé và điều này tác động nhiều đối với Nhóm Dombes: đứng trước vấn đề “liên hiệp thông”, giới trẻ này yêu cầu Nhóm giải thích cho họ rõ đâu là vấn đề và “cho” hệ ở điều gì. Lời yêu cầu này đã phát sinh ra tài liệu đầu tiên của nhóm, tựa là “Hướng Tới Một Đức Tin Chung Về Thánh Thể?” (1972).
Từ 1971 tới 1997, Nhóm gặp nhau mỗi năm tại Đan Viện Đức Bà ở Dombes. Từ nay, Nhóm đã như diều gặp gió, thấy mình cần khai triển các vấn đề do tài liệu đầu tiên đặt ra. Năm 1973, tài liệu thứ hai ra đời tựa là “Hướng Tới Việc Hòa Giải Các Thừa Tác Vụ”. Trong tài liệu này, các điểm sau đây đã được nhấn mạnh: mọi thừa tác vụ đều có chiều kích hợp đoàn (điều 21), chiều kích bản thân (điều 22) và chiều kích cộng đoàn (điều 42). Tầm quan trọng của việc nhấn mạnh này không những sẽ được xác nhận qua các suy tư sau này của Nhóm mà còn qua các hiệu quả trông thấy tại những nơi xẩy ra đối thoại.
Nhóm tiếp tục khai triển và hoàn tất các suy tư của mình trong tài liệu thứ ba vào 3 năm sau: “Thừa Tác Vụ Giám Mục” (1976). Qua các ấn phẩm này, phương pháp làm việc của Nhóm đã thành hình: 1) các đề nghị dựa vào suy tư thần học phải được tiếp nối bằng các đề nghị mục vụ; 2) suy tư tín lý mỗi lúc phải dựa vào khảo cứu lịch sử nhiều hơn
Không ngại khó khăn, Nhóm Dombes đã phát động một chủ đề khác. Chủ đề này đã đem lại tài liệu thứ tư tựa là “Chúa Thánh Thần, Giáo Hội và Các Bí Tích” (1979). Năm 1981, các cuộc thảo luận của Nhóm tập chú vào một chủ đề khá tế nhị khiến họ phải khôn khéo lắm mới lèo lái qua sóng gío để hoàn thành tài liệu “Thừa Tác Vụ Hiệp Thông trong Giáo Hội Hoàn Vũ” (1986). Ấn phẩm này được công bố chỉ ít tháng trước khi Đức Gioan Phaolô II viếng vùng Lyon.
Năm 1987, năm đặc biệt đối với Nhóm, vì là năm kỷ niệm Nhóm được 50 tuổi. Nhiều nhân vật quan trọng thuộc các giáo hội và phong trào đại kết tới cử hành và đánh giá biến cố với Nhóm “tư riêng” (không chính thức) này, được coi là nhóm nói tiếng Pháp lâu đời nhất lúc đó chịu dấn thân vào cuộc đối thoại đại kết. Từ cuộc kỷ niệm này, Nhóm có hai công trình cụ thể:
a) một ấn phẩm gom góp tất cả các trước tác xưa nay (luận đề và tài liệu) của Nhóm thành bộ “Hướng Tới Hiệp Thông Giữa Các Giáo Hội” (1988);
b) một ấn phẩm trong đó Nhóm trình bày phương pháp làm việc của mình và hiện trạng tư duy của mình đã đi tới đâu, dưới tựa đề “Hướng Tới Việc Hồi Tâm Của Các Giáo Hội” (1991). Năm 2005, Đức Hồng Y Walter Kasper đã lên tiếng cho rằng: “Không thể có đại kết nếu không có hồi tâm, và không thể có tương lai chi hết nếu không có việc hồi tâm ấy. Suy tư hay nhất tôi biết về chủ đề này tìm thấy trong tài liệu của Nhóm Dombes tựa là ‘Hướng Tới Việc Hồi Tâm Của Các Giáo Hội’”. Tài liệu này là bước tiến có ý nghĩa của Nhóm về cả chất lượng lẫn phương pháp làm việc: i) về chất lượng, vì nó đã đưa ra sự phân biệt giữa “việc hồi tâm của Kitô Giáo”, “việc hồi tâm của giáo hội” và “việc hồi tâm của các hệ phái”; ii) về phương pháp, vì nó đã xác định ra 4 giai đoạn: 1/ đặt vấn đề, 2/ tìm tòi lịch sử, 3/ chứng cớ Thánh Kinh, 4/ các đề nghị hồi tâm.
Vấn đề cho năm 1991 là “Ta nên đề cập tới chủ đề nào để có thể sử dụng được các thành quả của kinh nghiệm đối thoại?”. Câu hỏi này là kết quả của nhiều suy tư lâu dài về một chủ đề đến lúc đó vẫn chưa được đề cập tới trong các cuộc đối thoại đại kết của nhóm và là một chủ đề rất tế nhị đối với tín hữu bình thường của các giáo hội: Đức Maria. Nó đã mang lại thành quả qua ấn phẩm “Đức Maria trong Kế Hoạch Thiên Chúa và Hiệp Thông Các Thánh”. Cuốn đầu tiên được phát hành năm 1997, cuốn thứ hai năm 1998, rồi cả hai cuốn này được in thành một cuốn duy nhất năm 1999. Trong tác phẩm này, 4 điểm đã được nhấn mạnh: 1/ việc ‘hợp tác’ của Đức Maria vào việc cứu rỗi, 2/ việc trọn đời đồng trinh của Đức Maria, 3/ hai tín điều được Giáo Hội Công Giáo tuyên bố: Vô Nhiễm Thai và Mông Triệu, 4/ việc khẩn cầu Đức Maria.
Năm 1997, Nhóm gặp nhau ở Đan Viện Dombes lần cuối cùng. Trong 60 năm, Nhóm được các đan sĩ Trappist tiếp đón. Nhưng cộng đoàn này đã trở thành già nua, con số đan sĩ càng ngày càng ít, nên họ không còn khả năng tiếp đón Nhóm nữa. Tuy năm 1987, Nhóm cho rằng mình “sẽ vĩnh viễn trú ngụ tại Đan Viện Xitô Dombes”, nhưng nay buộc phải tìm sự nâng đỡ của một cộng đoàn chiêm niệm khác. Rất may, Nhóm đã tìm được Đan Viện Pradines của các nữ đan sĩ Biển Đức, gần Roanne và được các nữ đan sĩ hoan nghinh. Do đó, từ năm 1998, dù vẫn mang tên là Nhóm Dombes, Nhóm đã chuyển về sinh hoạt hàng năm tại Pradines và cũng là năm đầu tiên, Nhóm nhận phụ nữ vào số 40 thành viên của mình.
Trong khung cảnh mới này, suốt trong 7 năm, Nhóm đã suy tư sâu sắc một chủ đề khá phức tạp về thẩm quyền tín lý trong Giáo Hội và nhờ thế đã xuất bản tài liệu dài nhất của mình, tựa là “ ‘Một Thầy’. Thẩm Quyền Tín Lý Trong Giáo Hội” (2005). Năm 2010, nhóm cho xuất bản tác phẩm "Kinh Lạy Cha".
Từ đó, Nhóm luôn theo đuổi con đường cầu nguyện, suy tư và hồi tâm để phục vụ các giáo hội. Nhóm luôn duy trì các liên hệ không chính thức và thân thiện với các giáo hội này trong khi hoàn toàn gắn bó với giáo hội riêng của mình. Hàng năm, vào cuối tháng Tám qua đầu tháng Chín, Nhóm đều gặp nhau trong 4 ngày để cùng tham dự thánh lễ với các nữ đan sĩ, đọc các giờ kinh phụng vụ với họ, làm việc, thảo luận nhóm, cử hành nghi thức phụng vụ chung, chia sẻ các thông tin đại kết… cùng giúp nhau lớn lên trong tình hiệp thông và đặt cơ sở trên lời cầu nguyện. Nhờ thế, các khía cạnh linh đạo, tín lý và mục vụ của đại kết quện lại với nhau trong hòa hợp để phục vụ Phong Trào Đại Kết, hướng tới Một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô.
Theo nhận định ngày 9 tháng 9 năm 2010 của tờ La Croix (www.la-croix.cm), đây là một nhóm có tiếng kín đáo, có khi còn bất khả xâm nhập nữa, nhưng ảnh hưởng của nó có tính hoàn cầu. Có người cho rằng công việc của họ đã linh hứng cho cả Công Đồng Vatican II lẫn Hội Đồng Đại Kết Các Giáo Hội. Tài liệu về hồi tâm của họ vào năm 1991 đã gây ấn tượng lớn nơi Đức Gioan Phaolô II. Ngài từng cho hay trên máy bay tới Ba Tây, trong chuyến tông du lần thứ 53, ngài từng đọc tác phẩm ấy, dù các tác giả của nó không chính thức đại diện cho các giáo hội liên hệ.
Dựa vào lịch sử để tháo gỡ cơ chế chia rẽ
Mục sư Gottfried Hamman, 73 tuổi, một mục sư thuộc phái Luthêrô, người từng là thành viên của nhóm 25 năm qua, cho hay: dù Nhóm lắng tai nghe nhau trong tinh thần cởi mở, nhưng căng thẳng vẫn là điều không thể tránh được. Vì “chúng tôi không hiện diện ở đó để chơi trò ngôn ngữ hỏa mù (langue de bois) cũng không để vun sới một hình thức ngoại giao đại kết”.
Ông nói tiếp: “Điều làm tôi say mê ở đó là không khí tranh luận thường xuyên khiến chúng tôi không thể chỉ ừ hử trong các trao đổi của mình. Chúng tôi có cảm tưởng đang phải kéo theo mình một ông già hay cãi lý đã 400 tuổi, có khi cả 500 tuổi nữa, do đó không thể qua quít (chat sur braise) đối với các vấn đề gai góc. Phải biết cách nắm vấn đề, nghĩa là duyệt lại lịch sử các giáo hội của chúng ta để tháo rời các cơ chế hay then máy của chia rẽ, ngõ hầu ráp chúng lại một cách tốt đẹp hơn theo hướng hợp nhất” không hơn không kém.
Không phải một nhóm kỹ thuật viên!
Thực vậy, suốt hơn 70 năm qua, Nhóm Dombes đã đề cập tới rất nhiều điểm từng gây chia rẽ giữa người Thệ Phản và người Công Giáo. Trước nhất, trên bình diện giáo hội học, người ta hiểu ra sao khi nghe hạn từ “Giáo Hội”?, và nhất là các chủ đề gây tranh cãi về thẩm quyền, về việc kế thừa các tông đồ hay về hiệp thông các thánh. Rồi trong thập niên 1970, nhiều tài liệu đã đem ra ánh sáng các điểm thỏa thuận giữa các giáo hội về các khía cạnh chủ yếu của đức tin: Phép Thánh Thể, Chúa Thánh Thần, các thừa tác vụ… Thập niên 1990 được đánh dấu bằng các công trình nói về việc hồi tâm của các giáo hội, tiếp theo là tài liệu sáng giá về Đức Maria. Vốn chủ yếu nhằm đánh giá lại khuôn mặt thánh mẫu trong phong trào Thệ Phản của 10 năm trước đó, tác phẩm này đã được Phân Khoa Thần Học Marianum ở Rôma trao giải thưởng vào năm 2001.
Người ta tự hỏi làm thế nào Nhóm đã đạt được kết qủa tích cực như trên, khi họ thường gặp nhau trên căn bản hoàn toàn đồng đều: mỗi bên 20 thành viên bằng nhau?
Linh Mục Michel Mallèvre, cựu giám đốc Văn Phòng Hợp Nhất Kitô Giáo của Hội Đồng Giám Mục Pháp, cho hay: “Điều chúng tôi sống, trước hết, là cảm nghiệm huynh đệ, tôn trọng lẫn nhau. Khi bất đồng ý kiến trong một cuộc đối thoại nào đó, chúng tôi không bận tâm đi qui tụ những nhà thần học nổi bật lúc đó, mà là qui tụ những người có cùng một hoài mong thăng tiến phong trào đại kết. Chúng tôi không phải là một nhóm kỹ thuật viên!”
Nói lại điều gì đó chung về đức tin trong ngôn ngữ ngày nay
Đối với Éric Boone, 38 tuổi, một giáo dân và hiện là giám đốc trung tâm thần học tại Poitiers, chính nét đa dạng của Nhóm đã lôi cuốn ông. Ông nói: “Giữa chúng tôi, có cả những nhà thần học cao thế (de haut vol) lẫn những mục tử ở dưới đất, điều này giúp chúng tôi tháo gỡ được nhiều vấn đề cụ thể, chúng tôi có được sự cọ sát lý thú giữa một nền thần học khó tính và nỗi lắng lo của các tín hữu”. Mặt khác, theo ông, “Sinh hoạt thần học, linh đạo và huynh đệ luôn nối kết chặt chẽ với nhau trong các tranh luận của chúng tôi”. Cầu nguyện chung, tranh luận, mà còn ăn chung và làm các bổn phận hàng ngày chung với nhau nữa. Hay nói theo một thành viên khác: “Khi đã rửa chén với nhau rồi, thì đâu còn đối thoại với nhau như trước nữa!”.
Theo Matthias Wirz, thành viên của cộng đoàn đan sĩ đại kết ở Bose, Ý, thì nét “chân thực” được sống chung kia giúp người ta đề cập không dè dặt “các vấn đề gây bối rối”, ngay cả khi “chúng tôi bị thương tổn chỉ vì các bất đồng mạnh mẽ”. Bất chấp là công việc gì, thì thủ tục sau vẫn được áp dụng: một khi đã chọn chủ đề nào rồi, thì hai nhà thần học, thường là một Công Giáo, một Thệ Phản, sẽ được mời để trình bày đóng góp của mình cho mọi người trong Nhóm. Tài liệu thảo luận sau đó sẽ được cả Nhóm duyệt lại và tu sửa, ngõ hầu mỗi người có thể ký nhận bản văn cuối cùng trong linh hồn và lương tâm mình. Cuốn “Kinh Lạy Cha”, xuất bản năm 2010, chẳng hạn, đã được duyệt đi duyệt lại 4 lần và cần tới 25 năm thai nghén mới cho ra đời được. Cha Mallèvre giải thích: “Cái thách đố là với những mẫn cảm và kinh nghiệm rất khác nhau của chúng tôi, mà chúng tôi vẫn đạt tới việc nói lại được một điều gì đó chung về đức tin trong ngôn ngữ ngày nay”.
Phong trào đại kết ngày mai sẽ không còn nhất thiết bước theo các biên giới tuyên tín nữa
Élisabeth Parmentier, nữ thần học gia Thệ Phản, một trong các phụ nữ đầu tiên tham gia Nhóm từ năm 1998, cho rằng: “Từ Công Đồng Vatican II, việc đối thoại giữa các giáo hội đã có những bước tiến lớn, cả trên bình diện phụng vụ, lẫn mục vụ và thừa tác vụ… Ngày nay, các giáo hội cần phải can đảm vượt thêm một bước nữa để ký kết các tuyên bố chung, hiện nay, họ vẫn còn sợ sệt”. Theo bà, “điều quan trọng là các giáo hội phải cho thấy một dấu chỉ hữu hình của hợp nhất, việc hòa giải phải là một điều gì đó cụ thể đối với người ta. Việc ấy vẫn còn là một con đường mênh mông, theo nghĩa phong trào đại kết của ngày mai sẽ không bó buộc phải bước theo các biên giới tuyên tín nữa”.
Theo bà, thực ra, một người cải cách vẫn có thể cảm thấy mình gần gũi với người Công Giáo có tinh thần hòa giải hơn là với một người thệ phản cực đoan, và ngược lại. Theo mục sư Marc Chambron, ở tận đáy, các bất đồng lớn giữa người Thệ Phản và người Công Giáo không còn hệ ở việc đưa ra một “đức tin chung” cho bằng “ở cách sống trong tư cách Giáo Hội và ở các lựa chọn luân lý hay đạo đức”.
Về Đức Maria
Giữa người Thệ Phản và người Công Giáo, các quan điểm đang bắt đầu chuyển động. Tài liệu mới đây về Đức Mẹ của Nhóm Dombes là một dấu hiệu khích lệ, không hẳn vì nó đã xóa đi hết các bất đồng, cho bằng, như lời một trong các tác giả phát biểu, người ta vẫn có thể hiệp thông mà không cần phải chia sẻ cùng một niềm tin độc dạng. “Chúng ta tin không phải theo lối hòa giải mà là theo lối chào đón nhau”. Việc chào đón nhau này phải trở thành khả hữu khi nói tới địa vị mà mỗi bên vốn nhìn nhận đối với Đức Maria trong ý định của Thiên Chúa, bất chấp các khác biệt.
Đó chính là mục tiêu của tài liệu vừa nhắc. Tuy không vượt qua được tất cả các vấn đề tranh cãi: việc cộng tác của Đức Maria vào ơn cứu rỗi, việc ngài trọn đời đồng trinh, việc ngài Vô Nhiễm Thai và Mông Triệu, hay việc tôn kính ngài, nhưng các tác giả đã đạt được kết luận này: không vấn đề nào trong các vấn đề ấy biện minh được các chia rẽ giữa các giáo hội.
Để làm cho cuộc tranh luận có thể tiến triển, Nhóm Dombes đã sử dụng hai nguyên tắc được mọi người công nhận: công chính hóa nhờ ơn thánh do đức tin ban cho, một nguyên tắc bất khả xâm phạm của Thệ Phản, và phẩm trật các chân lý, một nguyên tắc do Vatican II đề ra. Nguyên tắc đầu tiên giúp đạt được thỏa thuận chủ yếu về việc cộng tác của Đức Maria vào công trình cứu rỗi: Đức Maria tham dự vào công trình ấy không phải từ phía Đấng Cứu Thế, mà từ phía người được cứu. Nguyên tắc thứ hai, một nguyên tắc không đặt mọi tuyên phán về đức tin trên cùng một bình diện, đã loại bỏ việc coi đức tin và lòng sùng kính Thánh Mẫu như những tiêu chuẩn dứt khóat để được nhận vào đức tin Kitô Giáo.
Trở ngại cho hợp nhất
Hãy lấy hai tín điều gây tranh cãi: tín điều Vô Nhiễm Thai và tín điều Mông Triệu, hai tín điều chưa bao giờ nhận được sự ủng hộ của Thệ Phản. Nhưng thử hỏi người ta có nên đi quá xa biến chúng thành trở ngại cho hợp nhất? Nhóm Dombes trả lời một cách rõ ràng rằng không. Cho dù giáo hội Rôma có coi chúng như thành phần cấu tạo ra đức tin của mình, thì các tín điều này vẫn không phải là lò lửa (foyer incandescent) của đức tin ấy, tuy không xa lạ với nó. Chứng cớ: đức tin vẫn được phát biểu trong nhiều thế kỷ trong đó hai tín điều kia chưa được xác định và buộc phải tin. Chúng mới chỉ được tuyên bố sau cuộc phân ly. Chính vì thế, đâu có ai buộc người Thệ Phản phải tin theo một cách chính thức.
Nhóm Dombes nhận định như sau: “Trên bình diện tín lý, việc công bố hai tín điều Vô Nhiễm Thai và Mông Triệu chỉ liên quan tới giáo hội Rôma là người đã lên công thức cho chúng. Vì giáo hội này tự ý dấn thân vào các lời tuyên bố riêng dựa vào nguyên tắc “phẩm trật các chân lý”, nên nó hẳn phải nhìn nhận rằng hai tín điều này, vì không thuộc biểu thức chung của đức tin lúc phân ly, nên không thể buộc các Kitô hữu khác được”. Và Nhóm này nói thêm: “Không nên coi điều chưa phải là vấn đề đức tin mà chỉ là ý kiến thần học trong Giáo Hội suốt 19 thế kỷ qua như là điểm phân ly trong thế kỷ 20”.
Ngược lại, người Thệ Phản “không nên phán đoán rằng chúng trái ngược với tin mừng hay đức tin, mà chỉ nên coi chúng như hậu quả tự do và chính đáng của lương tâm Công Giáo đối với sự gắn bó của đức tin”. Họ cũng nên “chấp nhận rằng các anh em Công Giáo của họ coi chúng như các tín điều của đức tin”, và việc giải thích của họ “không có điều gì mâu thuẫn với việc loan báo Tin Mừng… Theo chiều hướng này, các tín điều kia không phát sinh ra dị biệt phân cách”. Người Thệ Phản cũng được mời gọi “bước ra khỏi sự dè dặt khôn ngoan của họ và trả lại cho Đức Maria địa vị chân chính của ngài trong cái hiểu của đức tin và trong lời cầu nguyện của Giáo Hội”.
Nói lên các xác tín của mình
Nhóm Dombes đóng vai trò người tiên phong. Nhưng đối với mỗi vấn đề còn tranh cãi, Nhóm dành cho các thành viên thì giờ để họ nói lên các xác tín của riêng mình. Chính nhờ thế, nhiều thiên kiến đã được loại trừ. Nhưng Nhóm không hoàn toàn tập chú vào suy tư thần học. Trở ngại còn có tính “xúc cảm” nữa. Nên mỗi người đều được mời gọi thay đổi thái độ, trở lại không phải với quan điểm của người khác mà là với việc lắng nghe một cách trung thành hơn Lời của Thiên Chúa, trong sự tôn trọng những gì Chúa Thánh Thần nói cho người khác hay nhờ người khác nói với ta. Về Đức Maria, một xác tín chung đã phát sinh trong Nhóm, đó là “Mọi công trình của chúng tôi đã chứng minh rằng nơi Đức Maria, không có điều gì cho phép chúng tôi biến ngài thành biểu tượng cho điều đang phân rẽ chúng tôi”.
Top Stories
Pope names Archbishop Vigano new nuncio to the U.S.
Cindy Wooden
10:15 19/10/2011
VATICAN CITY — Pope Benedict XVI named Archbishop Carlo Maria Vigano, 70, to be the new nuncio to the United States.
In his most recent position, the Italian archbishop had served for two years as secretary-general of the commission governing Vatican City. He succeeds the late Archbishop Pietro Sambi in Washington.
Just minutes after his assignment was announced Oct. 19, Archbishop Vigano told Catholic News Service he hoped to get to the United States in time for the U.S. bishops' general assembly Nov. 14-16.
The archbishop said being nuncio in the United States is an "important, vast and delicate" task; he said he was grateful to Pope Benedict for entrusting him with the mission and he felt called to renew his "trust in the Lord, who asks me to set out again" to a new country.
Being a nuncio, he said, is "a call to know this people, this country and come to love them."
"For me to take the place of someone who was so loved, so committed, makes it an even greater challenge," he said.
Archbishop Vigano said he knew a U.S. presidential election is coming up, but before he can say anything "I need to hear from the bishops and learn from them. The election is important for the country and for the whole world."
New York Archbishop Timothy M. Dolan, president of the U.S. Conference of Catholic Bishops, sent a message of welcome to the new nuncio and said the bishops looked forward to meeting him at their November assembly in Baltimore.
Archbishop Dolan said that, as the pope's representative in the U.S., Archbishop Vigano would "serve as a continuing sign to us of that source of renewal and hope that Pope Benedict brought to our country" during his April 2008 visit. Archbishop Dolan said the new nuncio's variety of experiences would enable him "to see the intricacies involved in representing the Holy Father in both the church and diplomatic worlds, especially now as they are lived out in America's democratic society."
A nuncio is a Vatican diplomat with the rank of ambassador. He is responsible for diplomatic relations with the government, but also serves as the pope's representative to the church in a given country, which includes responsibility for coordinating the search for and vetting of candidates to become bishops.
While at the commission governing Vatican City, Archbishop Vigano earned a reputation as a careful administrator, skilled at cutting costs and improving the efficiency of an office that oversees the care of Vatican buildings, as well as the Vatican post office, police force and the Vatican Museums.
Born in Varese, in Italy's far north, he was ordained a priest in 1968 for the Diocese of Pavia. He entered the Vatican's diplomatic service in 1973 and served at Vatican embassies in Iraq and in Great Britain before working in the Vatican Secretariat of State in 1978-89.
He was the Vatican's permanent observer at the Council of Europe in Strasbourg, France, from 1989 to 1992, when Pope John Paul II named him an archbishop and nuncio to Nigeria. Pope John Paul personally ordained him a bishop.
Archbishop Vigano -- who speaks Italian, French, Spanish and English -- was still serving as nuncio to Nigeria in 1997 when Pope John Paul visited the country.
Returning to the Vatican Secretariat of State in 1998, Archbishop Vigano coordinated the appointments of nuncios and papal representatives around the world.
In 1999, he led a five-man Vatican delegation to Iraq to try -- unsuccessfully, it turned out -- to make arrangements for Pope John Paul to visit. The pope had wanted to go to Ur, the city thought to be the birthplace of Abraham, as part of a biblical pilgrimage for the year 2000. At the time, Iraq was under an economic embargo by the West and Ur was under a no-fly zone being enforced by U.S. and British military.
In November 2010 the archbishop was called upon to represent the Vatican at the general assembly of Interpol, the international cooperative organization for police agencies. In his speech to the assembly, he highlighted the ongoing violence against Christians in Iraq, but also spoke more generally about the Vatican's conviction that the promotion of human rights is the best strategy for combating inequalities that lead to crime and terrorism.
![]() |
Just minutes after his assignment was announced Oct. 19, Archbishop Vigano told Catholic News Service he hoped to get to the United States in time for the U.S. bishops' general assembly Nov. 14-16.
The archbishop said being nuncio in the United States is an "important, vast and delicate" task; he said he was grateful to Pope Benedict for entrusting him with the mission and he felt called to renew his "trust in the Lord, who asks me to set out again" to a new country.
Being a nuncio, he said, is "a call to know this people, this country and come to love them."
"For me to take the place of someone who was so loved, so committed, makes it an even greater challenge," he said.
Archbishop Vigano said he knew a U.S. presidential election is coming up, but before he can say anything "I need to hear from the bishops and learn from them. The election is important for the country and for the whole world."
New York Archbishop Timothy M. Dolan, president of the U.S. Conference of Catholic Bishops, sent a message of welcome to the new nuncio and said the bishops looked forward to meeting him at their November assembly in Baltimore.
Archbishop Dolan said that, as the pope's representative in the U.S., Archbishop Vigano would "serve as a continuing sign to us of that source of renewal and hope that Pope Benedict brought to our country" during his April 2008 visit. Archbishop Dolan said the new nuncio's variety of experiences would enable him "to see the intricacies involved in representing the Holy Father in both the church and diplomatic worlds, especially now as they are lived out in America's democratic society."
A nuncio is a Vatican diplomat with the rank of ambassador. He is responsible for diplomatic relations with the government, but also serves as the pope's representative to the church in a given country, which includes responsibility for coordinating the search for and vetting of candidates to become bishops.
While at the commission governing Vatican City, Archbishop Vigano earned a reputation as a careful administrator, skilled at cutting costs and improving the efficiency of an office that oversees the care of Vatican buildings, as well as the Vatican post office, police force and the Vatican Museums.
Born in Varese, in Italy's far north, he was ordained a priest in 1968 for the Diocese of Pavia. He entered the Vatican's diplomatic service in 1973 and served at Vatican embassies in Iraq and in Great Britain before working in the Vatican Secretariat of State in 1978-89.
He was the Vatican's permanent observer at the Council of Europe in Strasbourg, France, from 1989 to 1992, when Pope John Paul II named him an archbishop and nuncio to Nigeria. Pope John Paul personally ordained him a bishop.
Archbishop Vigano -- who speaks Italian, French, Spanish and English -- was still serving as nuncio to Nigeria in 1997 when Pope John Paul visited the country.
Returning to the Vatican Secretariat of State in 1998, Archbishop Vigano coordinated the appointments of nuncios and papal representatives around the world.
In 1999, he led a five-man Vatican delegation to Iraq to try -- unsuccessfully, it turned out -- to make arrangements for Pope John Paul to visit. The pope had wanted to go to Ur, the city thought to be the birthplace of Abraham, as part of a biblical pilgrimage for the year 2000. At the time, Iraq was under an economic embargo by the West and Ur was under a no-fly zone being enforced by U.S. and British military.
In November 2010 the archbishop was called upon to represent the Vatican at the general assembly of Interpol, the international cooperative organization for police agencies. In his speech to the assembly, he highlighted the ongoing violence against Christians in Iraq, but also spoke more generally about the Vatican's conviction that the promotion of human rights is the best strategy for combating inequalities that lead to crime and terrorism.
Holy See calls for new strategies in Refugee system
Zenit
10:32 19/10/2011
Children Should Be Allowed to Be Children
GENEVA, Switzerland, OCT. 18, 2011 (Zenit.org).- In a world where refugees are often treated like prisoners, the Holy See is calling for "new strategies" and "new policies."
Archbishop Silvano Tomasi, the Holy See permanent observer at the U.N. offices in Geneva, made this call Oct. 4 when he addressed the 62nd session of the Executive Committee of the United Nations Agency for Refugees (ACNUR).
The archbishop emphasized particularly the plight of child refugees, appealing that their childhood be protected.
The 1951 convention on refugees had a "civilizing effect," the archbishop said, but "in many regions of the world, millions of refugees are still unable to enjoy these rights."
He characterized many refugee camps as comparable to the penitentiary system.
"These people who seek protection or ways to try to survive are literally locked up and watched as if they were criminal prisoners and even children are subjected to the same conditions," the archbishop said. "The environment similar to prisons that exists in many of these centers, the isolation from the 'outside world,' (...) affect the mental and physical health of those asking for asylum and cause psychological stress, depression, insecurity, loss of appetite and insomnia in different degrees."
Creative compassion
Archbishop Tomasi said it is urgent to "develop and promote alternatives."
He offered proposals from the Holy See, including "community programs, introduction of control mechanisms and information, formation of support groups and the addition of visiting centers to open house projects so that at least families with children can reside in a safe environment."
The Vatican official also noted the problem of unaccompanied minors who precariously travel to Europe by the thousands.
"They must be treated like children and the main concern should be to defend their greatest interests regardless of the reason for their flight," he said.
The prelate noted studies that have shown religion is an important factor for these fleeing youth, and they desire the assistance of spiritual advisors.
Finally, the permanent observer expressed his hope that "new strategies and new policies" would be devised, which would make it possible "to understand the root causes" and "clarify border management and integration."
"Creative compassion becomes possible if it has a genuine sense of solidarity and responsibility toward the neediest members of our human family," Archbishop Tomasi affirmed. "Refugees aren't anonymous numbers but persons, men, women, children with their individual histories, with gifts to make available and aspirations to satisfy."
GENEVA, Switzerland, OCT. 18, 2011 (Zenit.org).- In a world where refugees are often treated like prisoners, the Holy See is calling for "new strategies" and "new policies."
Archbishop Silvano Tomasi, the Holy See permanent observer at the U.N. offices in Geneva, made this call Oct. 4 when he addressed the 62nd session of the Executive Committee of the United Nations Agency for Refugees (ACNUR).
The archbishop emphasized particularly the plight of child refugees, appealing that their childhood be protected.
The 1951 convention on refugees had a "civilizing effect," the archbishop said, but "in many regions of the world, millions of refugees are still unable to enjoy these rights."
He characterized many refugee camps as comparable to the penitentiary system.
"These people who seek protection or ways to try to survive are literally locked up and watched as if they were criminal prisoners and even children are subjected to the same conditions," the archbishop said. "The environment similar to prisons that exists in many of these centers, the isolation from the 'outside world,' (...) affect the mental and physical health of those asking for asylum and cause psychological stress, depression, insecurity, loss of appetite and insomnia in different degrees."
Creative compassion
Archbishop Tomasi said it is urgent to "develop and promote alternatives."
He offered proposals from the Holy See, including "community programs, introduction of control mechanisms and information, formation of support groups and the addition of visiting centers to open house projects so that at least families with children can reside in a safe environment."
The Vatican official also noted the problem of unaccompanied minors who precariously travel to Europe by the thousands.
"They must be treated like children and the main concern should be to defend their greatest interests regardless of the reason for their flight," he said.
The prelate noted studies that have shown religion is an important factor for these fleeing youth, and they desire the assistance of spiritual advisors.
Finally, the permanent observer expressed his hope that "new strategies and new policies" would be devised, which would make it possible "to understand the root causes" and "clarify border management and integration."
"Creative compassion becomes possible if it has a genuine sense of solidarity and responsibility toward the neediest members of our human family," Archbishop Tomasi affirmed. "Refugees aren't anonymous numbers but persons, men, women, children with their individual histories, with gifts to make available and aspirations to satisfy."
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tam Nhật kính Thánh Giêrađô tại Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp- Huế
Maria Thủy Tiên
10:04 19/10/2011
Tuần vừa qua, vào thánh Lễ ngày thường buổi chiều từ ngày 13-15/10/2011, lúc 17g15 phút tại giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, tôi đã được tham dự Tam Nhật thánh Kính Thánh Giêrađô, bổn mạng của các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế. Đây là một truyền thống từ xa xưa của quý Cha Dòng Chúa Cứu Thế và cách riêng tại Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế. Nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên tôi được tham dự trọn vẹn Tam Nhật Thánh kính Thánh Giêrađô này, vì thế những ngày Lễ đó đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng và những cảm nhận riêng trong tâm hồn mình.
Xem hình ảnh
Mở đầu trong Tam Nhật Thánh, ngày 13/10/2011, Thánh Lễ kính thánh Giêrađô được cử hành với chủ đề “cầu nguyện cho các bà mẹ mang thai và chúc lành cho các trẻ nhỏ”.
Tại Thánh Lễ chiều hôm ấy, hình ảnh các bà mẹ mang thai trong giáo xứ cũng như ngoài giáo xứ được ưu tiên ngồi ở các hàng ghế đầu, làm “nhân vật chính” để cộng đoàn cùng hiệp thông cầu xin cho được mẹ tròn con vuông và nhiều ơn lành khác. Ý nghĩa này gắn liền với gốc tích câu chuyện là một hôm, Thánh Giêrađô đi thăm gia đình Pirrolado, vô tình Ngài để quên chiếc khăn tay trong phòng khách. Lát sau, cô gái lớn vội đem lại nhà Dòng trả cho Ngài, nhưng Thánh nhân nói, “Con cứ giữ lại đi, một ngày kia nó sẽ giúp ích cho con”. Một năm sau, khi sắp sinh đứa con đầu lòng, cô gái ấy gặp khó khăn có thể nguy đến tính mạng. Nhớ lại chiếc khăn của Thánh Giêrađô, người nhà liền lấy đưa cho cô để lên bụng, và cô được qua cơn nguy kịch, sanh nở được mẹ tròn con vuông. Vì thế ngày nay, khi sắp sanh nở, rất nhiều bà mẹ để hình Thánh Giêrađô ở đầu giường và khăn thánh Giêrađô, để xin được sinh nở an toàn. Cho nên, sau thánh lễ quý Cha đã làm phép những chiếc khăn có in hình thánh Giêrađô, và được trao đến tận tay cho các bà mẹ mang thai. Bên cạnh nghi thức đó, hình ảnh các em nhỏ được quý Cha đặt tay trên đầu chúc lành khiến cho tôi liên tưởng đến hình ảnh ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu quý và chúc lành cho các em nhỏ “Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10, 16).
Ngày thứ hai trong Tam Nhật Thánh ( 14/10/2011) Thánh Lễ Kính thánh Giêrađô với chủ đề “ Cầu nguyện và xức dầu cho các bệnh nhân, người già yếu”.
Ngay từ rất sớm, khi tiếng chuông nhà thờ chưa ngân thì nhiều ông bà già đã sốt sắng đến nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Hòa Giải trước.
Trước khi bắt đầu Thánh Lễ, Cha Phaolô Ngô Văn Phi đã nhắc nhở cộng đoàn dân Chúa ý thức rằng “ anh chị em đừng nghĩ nghi thức xức dầu bệnh nhân là nghĩ đến giờ sắp chết, nghi thức xức dầu được cử hành với ý nghĩa cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh và chữa lành bệnh tật phần hồn cũng như phần xác”.Vì thế, sau bài giảng Lễ, phần nghi thức xức dầu bệnh nhân không chỉ dành cho những người già yếu, bệnh tật mà quý Cha còn mời gọi những người trẻ, những ai muốn xức dầu đều có thể đến lãnh nhận dầu thánh được ghi dấu trên trán và giữa hai lòng bàn tay. Chắc hẳn trong mỗi người chúng ta, không mắc bệnh phần xác nhưng cũng mắc bệnh phần hồn.
Cuối thánh lễ quý Cha đồng tế đã làm phép những chai dầu nhỏ và được trao tặng cho quý ông bà già lớn tuổi như một món quà của Thánh Nhân trao ban.
Ngày thứ ba trong Tam Nhật Thánh (15/10/2011) Thánh Lễ kính Thánh Giêrađô với chủ đề: “Bánh Thánh Giêrađô” được cử hành một cách trang trọng trong sự tham dự đông đảo, sốt sắng của cộng đoàn giáo dân trong Giáo xứ. Trước Thánh Lễ, bàn kiệu Thánh Giêrađô cùng với đoàn Linh mục đồng tế được rước đi từ cuối tiền đường nhà thờ lên Cung Thánh.
Bên trên góc trái gian Cung Thánh, những giỏ nhựa chứa đầy tràn những chiếc bánh được đặt ngay ngắn trước mặt tượng thánh Giêrađô, đó là những chiếc bánh sẽ được làm phép và chia sẻ đến mọi người vào giờ cuối thánh Lễ. Từ những em nhỏ cho đến những cụ già, mỗi người đều vui mừng và hớn hở đến nhận trên tay mình những chiếc bánh thánh Giêrađô. Tôi thiết nghĩ, dù chỉ là một chiếc bánh mỳ đơn sơ nhưng dưới con mắt đức tin đó là bánh thánh, và được ví như một dấu chỉ ơn lành của Chúa ban qua Thánh Nhân. Bởi đời Ngài là một chuỗi ngày đầy phép lạ, nên Giáo Hội đã công nhận là vị thánh có đức tin có thể “dời đồi chuyển núi” như Chúa đã hứa (Mt 17, 20).
Thánh lễ hôm nay gắn liền với sự tích lúc bảy tuổi, Thánh Giêrađô đã được Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra chơi đùa và cho bánh Thánh. Vì thế ngày nay, nhiều nơi trong ngày lễ kính thánh Giêrađô, có tục lệ làm phép bánh phát cho dân chúng, gọi là bánh thánh Giêrađô. Khi chứng kiến cảnh những chiếc bánh được phân phát đến hết thảy mọi người tôi chợt nhớ đến cảnh ngày xưa Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông hơn năm ngàn người mà “Ai nấy đều ăn và được no nê” (Mt 14,20).
Nhìn lại những ngày tham dự Tam Nhật Thánh kính Thánh Giêrađô, mọi người đều được lắng nghe nhưng giai thoại những hạnh tích của Thánh Giêrađô qua bài giảng của quý Cha, nhưng có lẽ điều đánh động lòng tôi nhất chính câu nói của Thánh Nhân “Mẹ ở lại, con đi làm thánh”, được ghi lại trên mảnh giấy để lại cho mẹ. Năm đó, Ngài 23 tuổi, lúc Ngài bỏ nhà ra đi xin nhập Dòng Chúa Cứu Thế. Câu nói của Ngài xem ra thật ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn có bảy chữ nhưng lại rất sâu sắc, chứa đựng một sự quyết tâm cao độ, sự từ bỏ dứt khoát và điều đó đã được minh chứng bằng cuộc đời sống thánh của Ngài.
Nguyện cầu cùng Thánh Giêrađô thêm sức cho con được ơn can đảm, vững bước ra đi trên con đường Lữ Hành đầy chông gai bản thân con thì yếu đuối quá chừng!
Xem hình ảnh
Mở đầu trong Tam Nhật Thánh, ngày 13/10/2011, Thánh Lễ kính thánh Giêrađô được cử hành với chủ đề “cầu nguyện cho các bà mẹ mang thai và chúc lành cho các trẻ nhỏ”.
Tại Thánh Lễ chiều hôm ấy, hình ảnh các bà mẹ mang thai trong giáo xứ cũng như ngoài giáo xứ được ưu tiên ngồi ở các hàng ghế đầu, làm “nhân vật chính” để cộng đoàn cùng hiệp thông cầu xin cho được mẹ tròn con vuông và nhiều ơn lành khác. Ý nghĩa này gắn liền với gốc tích câu chuyện là một hôm, Thánh Giêrađô đi thăm gia đình Pirrolado, vô tình Ngài để quên chiếc khăn tay trong phòng khách. Lát sau, cô gái lớn vội đem lại nhà Dòng trả cho Ngài, nhưng Thánh nhân nói, “Con cứ giữ lại đi, một ngày kia nó sẽ giúp ích cho con”. Một năm sau, khi sắp sinh đứa con đầu lòng, cô gái ấy gặp khó khăn có thể nguy đến tính mạng. Nhớ lại chiếc khăn của Thánh Giêrađô, người nhà liền lấy đưa cho cô để lên bụng, và cô được qua cơn nguy kịch, sanh nở được mẹ tròn con vuông. Vì thế ngày nay, khi sắp sanh nở, rất nhiều bà mẹ để hình Thánh Giêrađô ở đầu giường và khăn thánh Giêrađô, để xin được sinh nở an toàn. Cho nên, sau thánh lễ quý Cha đã làm phép những chiếc khăn có in hình thánh Giêrađô, và được trao đến tận tay cho các bà mẹ mang thai. Bên cạnh nghi thức đó, hình ảnh các em nhỏ được quý Cha đặt tay trên đầu chúc lành khiến cho tôi liên tưởng đến hình ảnh ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu quý và chúc lành cho các em nhỏ “Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10, 16).
Ngày thứ hai trong Tam Nhật Thánh ( 14/10/2011) Thánh Lễ Kính thánh Giêrađô với chủ đề “ Cầu nguyện và xức dầu cho các bệnh nhân, người già yếu”.
Ngay từ rất sớm, khi tiếng chuông nhà thờ chưa ngân thì nhiều ông bà già đã sốt sắng đến nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Hòa Giải trước.
Trước khi bắt đầu Thánh Lễ, Cha Phaolô Ngô Văn Phi đã nhắc nhở cộng đoàn dân Chúa ý thức rằng “ anh chị em đừng nghĩ nghi thức xức dầu bệnh nhân là nghĩ đến giờ sắp chết, nghi thức xức dầu được cử hành với ý nghĩa cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh và chữa lành bệnh tật phần hồn cũng như phần xác”.Vì thế, sau bài giảng Lễ, phần nghi thức xức dầu bệnh nhân không chỉ dành cho những người già yếu, bệnh tật mà quý Cha còn mời gọi những người trẻ, những ai muốn xức dầu đều có thể đến lãnh nhận dầu thánh được ghi dấu trên trán và giữa hai lòng bàn tay. Chắc hẳn trong mỗi người chúng ta, không mắc bệnh phần xác nhưng cũng mắc bệnh phần hồn.
Cuối thánh lễ quý Cha đồng tế đã làm phép những chai dầu nhỏ và được trao tặng cho quý ông bà già lớn tuổi như một món quà của Thánh Nhân trao ban.
Ngày thứ ba trong Tam Nhật Thánh (15/10/2011) Thánh Lễ kính Thánh Giêrađô với chủ đề: “Bánh Thánh Giêrađô” được cử hành một cách trang trọng trong sự tham dự đông đảo, sốt sắng của cộng đoàn giáo dân trong Giáo xứ. Trước Thánh Lễ, bàn kiệu Thánh Giêrađô cùng với đoàn Linh mục đồng tế được rước đi từ cuối tiền đường nhà thờ lên Cung Thánh.
Bên trên góc trái gian Cung Thánh, những giỏ nhựa chứa đầy tràn những chiếc bánh được đặt ngay ngắn trước mặt tượng thánh Giêrađô, đó là những chiếc bánh sẽ được làm phép và chia sẻ đến mọi người vào giờ cuối thánh Lễ. Từ những em nhỏ cho đến những cụ già, mỗi người đều vui mừng và hớn hở đến nhận trên tay mình những chiếc bánh thánh Giêrađô. Tôi thiết nghĩ, dù chỉ là một chiếc bánh mỳ đơn sơ nhưng dưới con mắt đức tin đó là bánh thánh, và được ví như một dấu chỉ ơn lành của Chúa ban qua Thánh Nhân. Bởi đời Ngài là một chuỗi ngày đầy phép lạ, nên Giáo Hội đã công nhận là vị thánh có đức tin có thể “dời đồi chuyển núi” như Chúa đã hứa (Mt 17, 20).
Thánh lễ hôm nay gắn liền với sự tích lúc bảy tuổi, Thánh Giêrađô đã được Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra chơi đùa và cho bánh Thánh. Vì thế ngày nay, nhiều nơi trong ngày lễ kính thánh Giêrađô, có tục lệ làm phép bánh phát cho dân chúng, gọi là bánh thánh Giêrađô. Khi chứng kiến cảnh những chiếc bánh được phân phát đến hết thảy mọi người tôi chợt nhớ đến cảnh ngày xưa Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông hơn năm ngàn người mà “Ai nấy đều ăn và được no nê” (Mt 14,20).
Nhìn lại những ngày tham dự Tam Nhật Thánh kính Thánh Giêrađô, mọi người đều được lắng nghe nhưng giai thoại những hạnh tích của Thánh Giêrađô qua bài giảng của quý Cha, nhưng có lẽ điều đánh động lòng tôi nhất chính câu nói của Thánh Nhân “Mẹ ở lại, con đi làm thánh”, được ghi lại trên mảnh giấy để lại cho mẹ. Năm đó, Ngài 23 tuổi, lúc Ngài bỏ nhà ra đi xin nhập Dòng Chúa Cứu Thế. Câu nói của Ngài xem ra thật ngắn gọn, chỉ vỏn vẹn có bảy chữ nhưng lại rất sâu sắc, chứa đựng một sự quyết tâm cao độ, sự từ bỏ dứt khoát và điều đó đã được minh chứng bằng cuộc đời sống thánh của Ngài.
Nguyện cầu cùng Thánh Giêrađô thêm sức cho con được ơn can đảm, vững bước ra đi trên con đường Lữ Hành đầy chông gai bản thân con thì yếu đuối quá chừng!
Trường Khiếm Thị Ánh Sáng kỉ niệm 10 năm thành lập
Hồng Hương
09:38 19/10/2011
Xem hình ảnh
10 năm nhọc nhằn tìm con chữ
Trường Khuyết Tật - Khiếm thị Ánh Sáng, do các nữ tu Dòng MTG Nha Trang thành lập từ lý tưởng phục vụ của những người dấn thân theo Chúa Kitô với mong muốn xoa dịu nỗi bất hạnh, đau xót của nhiều em khuyết tật mà các chị đã tận mắt chứng kiến từ những chuyến đi phục vụ thực tế tại nhiều nơi của Bình Thuận.
Năm 2001, với sự tận tình giúp đỡ của Đức Cha Nicolas Huỳnh văn Nghi, nguyên Giám Mục Giáo phận Phan Thiết, soeur Đào và chị em trong cộng đoàn đã phải xuôi ngược vận động trợ giúp của quý ân nhân để có thể xây dựng một cơ sở nhỏ với diện tích khiêm tốn là 391 m2 tạm đủ để sinh hoạt. Tháng 05. 2002, Nhà khuyết tật được chính thức mở lớp "Tiểu Học Tư Thục " dạy trẻ mù (khiếm thị). Các chị vui mừng đón những em học sinh đầu tiên.
Nhưng niềm vui lại kèm theo âu lo nặng trĩu trên vai những phụ nữ chân yếu tay mềm này, bởi trong số 50 học sinh (khiếm thị và down) đến trường thì phần đông gia đình cháu nào cũng nghèo và chứa đầy bất hạnh, chỉ một số ít có khả năng đóng học phí tượng trưng cho trường, còn lại thì các chị phải xoay sở gõ cửa nhiều nhà hảo tâm để xin trợ giúp nuôi các cháu. Nhiều khi tài chánh cạn kiệt, các chị vẫn không nản chí mà tha thiết khẩn cầu với Chúa cứu giúp. Rồi thì hàng xóm tốt bụng biết chuyện, người này cho bao gạo, người kia thùng mì tôm .v.v. những bữa ăn dù đạm bạc nhưng đám học trò vẫn vui vẻ vì được sống trong tình yêu thương của mọi người.
Nữ tu Thúy Phượng, người gắn bó với trường khá lâu cho biết, trườngn ưu tiên việc học của các em là hàng đầu. Tùy khả năng lĩnh hội của từng em mà các nữ tu, các cô giáo kiên nhẫn hướng dẫn từng chút. Trẻ khiếm thị có khả năng tiếp thu khá hơn, các chị đã giúp các em làm quen với việc học bằng hệ thống chữ Braille. Kể sao hết những ngày đầu cô trò cùng vật lộn với những nốt chấm trên trang giấy để nhận biết được từng chữ cái. Tất cả mọi cố gắng rồi cũng được bù đắp. Ngày các em sung sướng đọc được dòng chữ đầu tiên cũng là ngày các nữ tu vui mừng đến rơi lệ khi biết mình vừa mở ra cho những đứa trẻ kém may mắn không nhìn thấy ánh sáng này một không gian mới của kiến thức.
10 năm trôi qua với bao phấn đấu không ngừng của cô và trò, Trường Khiếm thị Ánh Sáng đã từng bước đi lên. Các cháu mù được học hòa nhập. Có 7 em đang học trường Trung học Cơ Sở Tân An, 7 em học trường Tiểu học Tân An. Kết quả học tập được công nhận như một học sinh bình thường với điểm số của các môn (trừ môn thể dục) . Nhìn những tấm giấy khen được các nữ tu dán ở chỗ trang trọng trong lớp học với các danh hiệu học sinh tiên tiến, học sinh Giỏi mà chúng tôi cảm phục biết bao. Tỉ như cô bé Mỹ, quê ở Nghệ An, được các chị đưa về đây nuôi dạy từ bé, là học sinh giỏi đứng nhất nhì trong lớp từ lớp 1 đến nay là lớp 8. Với nụ cười hồn nhiên, Mỹ nói muốn theo kịp các bạn sáng mắt trong lớp, em phải cố gắng học gấp 3 – 4 lần. Nhiều lúc mệt mỏi quá muốn nghỉ học, nhưng nghĩ đến bao nhiêu hy sinh các soeurs dành cho mình nên lại có động lực để học tiếp.
Sự mặc cảm về số phận đã vơi phần nào. Cánh cửa trí thức đã được mở ra bằng hệ thống chữ Braille và các cuốn băng sách nói, các em đã phải vượt khó để đạt được kết quả tốt. Với Các cháu chậm phát triển cũng được dạy dỗ và tập luyện để hòa nhập vào cuộc sống, những đứa trẻ tưởng như không làm được gì, giờ đây cũng đã biết đọc và biết viết, cũng như biết tự phục vụ mình. Tất cả phép mầu này đều nhờ bàn tay và tấm lòng của các nữ tu làm nên.
Tương lai nào cho trẻ khiếm thị trưởng thành?
Hiện nay, trường đã có học sinh đến tuổi 15-16, dẫu gánh nặng lo cơm ăn áo mặc hàng ngày cho các em thật sự cần, nhưng làm cách nào tạo điều kiện cho các em có được tri thức và một nghề phù hợp này tự nuôi bản thân khi ra trường lại càng cần hơn. “Khi bọn trẻ còn nhỏ, chúng tôi có thể nuôi dạy, tạo điều kiện đến trường học hòa nhập cho chúng. Nhưng giờ đã đến tuổi trưởng thành, đòi hỏi hướng nghiệp để các em có thể tự tìm kế sinh nhai đang là khắc khoải nhất của chúng tôi”, soeur Đào tâm sự với chúng tôi như vậy.
Ý tưởng mở Trung Tâm Giáo Dục Đặc Biệt và Hướng Nghiệp cho các em khiếm thị tại địa phương được các nữ tu ấp ủ bao lâu nay. Tùy theo khả năng, các em có thể được hướng nghiệp về Tin học; Xoa bóp, bấm huyệt; Nghệ thuật, âm nhạc; Hay các nghề đơn giản như: Làm chổi, làm hoa .v.v. Biết được điều này, bà Trần Thị Ân, ở Tân Thiện, Thị xã Lagi đã có nhã ý tặng trường một mảnh đất vừa đủ để làm trung tâm hướng nghiệp như ý các soeurs. Đất có, nhưng kinh phí đâu để xây dựng và hoạt động lại là một thách đố lớn cho các nữ tu khi mà trường hiện nay chỉ có 15 trong tổng số 40 em có thể đóng tiền ăn 300.000đ/tháng. Bên cạnh đó, sách Giáo khoa cho người khiếm thị có giá khoảng 3,5 triệu đồng/bộ, mà mỗi năm các em lại học lớp cao hơn. Chi phí vận chuyển đưa các em đến trường học (chở bằng honda) cũng khoảng 2 triệu đồng/tháng. Và biết bao nhiêu những cho phí sinh hoạt khác nữa mà trường phải lo.
Nhận ra vẻ ái ngại của tôi, chị Phượng trấn an rằng các chị luôn tin tưởng rằng Chúa quan phòng sẽ lo liệu cho con cái mình. Có người các chị chưa từng gặp như ông Lê Hiếu, TP HCM, trong hai năm nay đã trợ giúp phần nào dụng cụ học tập cho các em, và rất nhiều những tấm lòng quảng đại khác giúp Trường trong những năm qua bằng nhiều cách. Biết rằng để thành lập Trung Tâm Giáo Dục Đặc Biệt và Hướng Nghiệp cho trẻ khuyết tật tại địa phương là điều không dễ dàng, nhưng quyết tâm tạo một tương lai ổn định cho những đứa trẻ khiếm thị vẫn thôi thúc các chị mạnh dạn tiến hành. Mở ra cho người khiếm thị một tương lai mới, có thể tự nuôi sống mình, giảm gánh nặng cho gia đình và đóng góp tích cực cho xã hội là một việc làm chính đáng mà mỗi chúng ta có thể cộng tác cùng với các nữ tu trường Khiếm Thị Ánh Sáng để ước nguyện này sớm thành hiện thực. Địa chỉ liên hệ:
Sr Anna Nguyễn Thị Thúy Đào.
Trường Khiếm Thị Ánh Sáng
Khu phố 7, Phường Tân An, Thị xã Lagi, Bình Thuận
0623 871794 / Email: truongkhiemthianhsang@gmail.com
Tân Linh mục Việt Nam thứ hai cho giáo phận Helsinki, Phần Lan
VietCatholic
10:52 19/10/2011
Đức Cha Teemu Sippo SCJ. Giám Mục Giáo Phận Helsinki nước Phần Lan đã đặt tay phong chức Linh mục cho Thầy phó tế Giuse Đặng Tiến Dũng ngày 10.8.2011. Đây là linh mục Việt nam thứ hai của giáo phận Helsinki.
Tân LM Đặng tiến Dũng sau khi thụ phong linh mục sẽ thay thế Cha Nguyễn toàn Tri (vừa được Giám mục cử đi du học để lấy bằng tiến sĩ Thần học tại Roma) làm tuyên uý cho công đoàn người Việt Nam trên toàn quốc Phần Lan.
Tân LM Dũng là con của ông bà Phêrô Đặng Kim Hùng cư ngụ tại thành phố Turku, Phần Lan, nơi có một số đông dân Việt nam cư ngụ.
Từ gần 6 năm nay giáo dân Việt Nam ở Phần Lan được Cha Nguyễn toàn Tri là linh mục Việt nam tiên khởi thụ phong linh mục cho giáo phận Helsinki phục vụ cho anh chị em giáo dân Việt Nam. Cả Phần Lan chỉ có 1 giáo phận tên là Hensinki và 7 giáo xứ và 23 linh mục. Tất cả các linh mục khác đều là linh mục dòng, và Cha Tri và nay có Cha Dũng là linhh mục duy nhất của giáo phận Helsinski. Hiện tại có chứng 10 ngàn giáo dân Công giáo trong cả nước Phần Lan. Riêng người Việt Nam có chừng 6 ngàn người trong số đó có chừng hơn 1 ngàn người Công giáo Việt Nam.
Vài nét giới thiệu về Phần Lan
Phần lan là quốc gia có tới 60.000 hồ lớn trong lãnh thổ của mình, nên đất nước luôn có mầu xanh tươi nhưng mùa đông quyết phủ một mầu trắng xoá trong mấy tháng trời. Phần Lan có thể nói là nơi Đông gặp Tây. Lịch sử Phần Lan phần lớn bị các quốc qia lân bang ảnh hưởng: bên phía Tây là nước Na-Uy và Thụy Điển, bên Đông là Nga sô. Phần Lan chỉ dành được độc lập từ năm 1917, như vậy qua cả từng trăm năm Phần Lan bị các đế quốc cai trị, trước tiên là người Thụy điển, tiếp đến là người Nga sô.
Người Phần Lan luôn luôn phải phấn đấu để danh tính và căn tính của mình được nhận, và sự phấn đấu này hình thành lên lịch sử và cá tính người người Fin.
Thủ đô của Phần Lan là Helsinski. Đây cũng là trung tâm văn hóa, kỹ nghệ, và nơi giầu nhất nhất. Dân số Helsinski có trên nửa triệu người và là thủ đô có các điểm đặc sắc khác hẳn với các thủ đô lân bang thuộc văn hóa Scandinavia. Từng được coi là nơi tiền đồn của Nga sô, tuy vậy Helsinski có một lối kiến trúc nhà cửa rất đặc biệt. Vì muốn có một sắc thái riêng nói lên sự độc lập của mình sau khi giành được nền độc lập, nhà kiến trúc gốc Đức là Carl Ludvig Engel đã vẽ lại thành phố từ sau trận cháy dữ dội phá hủy hầu như gần hết thành phố và đầu thế kỉ thứ 19.
Helsinski thời danh vì có nhiều công trình kiến trúc bảo tàng viện, trường đại học, nhà hát và các đại giáo đường.
![]() |
Tân LM Dũng là con của ông bà Phêrô Đặng Kim Hùng cư ngụ tại thành phố Turku, Phần Lan, nơi có một số đông dân Việt nam cư ngụ.
Từ gần 6 năm nay giáo dân Việt Nam ở Phần Lan được Cha Nguyễn toàn Tri là linh mục Việt nam tiên khởi thụ phong linh mục cho giáo phận Helsinki phục vụ cho anh chị em giáo dân Việt Nam. Cả Phần Lan chỉ có 1 giáo phận tên là Hensinki và 7 giáo xứ và 23 linh mục. Tất cả các linh mục khác đều là linh mục dòng, và Cha Tri và nay có Cha Dũng là linhh mục duy nhất của giáo phận Helsinski. Hiện tại có chứng 10 ngàn giáo dân Công giáo trong cả nước Phần Lan. Riêng người Việt Nam có chừng 6 ngàn người trong số đó có chừng hơn 1 ngàn người Công giáo Việt Nam.
Vài nét giới thiệu về Phần Lan
Phần lan là quốc gia có tới 60.000 hồ lớn trong lãnh thổ của mình, nên đất nước luôn có mầu xanh tươi nhưng mùa đông quyết phủ một mầu trắng xoá trong mấy tháng trời. Phần Lan có thể nói là nơi Đông gặp Tây. Lịch sử Phần Lan phần lớn bị các quốc qia lân bang ảnh hưởng: bên phía Tây là nước Na-Uy và Thụy Điển, bên Đông là Nga sô. Phần Lan chỉ dành được độc lập từ năm 1917, như vậy qua cả từng trăm năm Phần Lan bị các đế quốc cai trị, trước tiên là người Thụy điển, tiếp đến là người Nga sô.
Người Phần Lan luôn luôn phải phấn đấu để danh tính và căn tính của mình được nhận, và sự phấn đấu này hình thành lên lịch sử và cá tính người người Fin.
Thủ đô của Phần Lan là Helsinski. Đây cũng là trung tâm văn hóa, kỹ nghệ, và nơi giầu nhất nhất. Dân số Helsinski có trên nửa triệu người và là thủ đô có các điểm đặc sắc khác hẳn với các thủ đô lân bang thuộc văn hóa Scandinavia. Từng được coi là nơi tiền đồn của Nga sô, tuy vậy Helsinski có một lối kiến trúc nhà cửa rất đặc biệt. Vì muốn có một sắc thái riêng nói lên sự độc lập của mình sau khi giành được nền độc lập, nhà kiến trúc gốc Đức là Carl Ludvig Engel đã vẽ lại thành phố từ sau trận cháy dữ dội phá hủy hầu như gần hết thành phố và đầu thế kỉ thứ 19.
Helsinski thời danh vì có nhiều công trình kiến trúc bảo tàng viện, trường đại học, nhà hát và các đại giáo đường.
![]() |
![]() |
![]() |
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thư luân lưu của Bộ Giáo sĩ về căn tính Truyền giáo của Linh mục
Thông Tin GP Qui Nhơn
15:15 19/10/2011
CĂN TÍNH TRUYỀN GIÁO CỦA LINH MỤC TRONG GIÁO HỘI
NHƯ LÀ CHIỀU KÍCH NỘI TẠI CỦA VIỆC THI HÀNH BA CHỨC NĂNG (TRIA MUNERA)
Mở Đầu
Ecclesia peregrinans natura sua missionaria est
“Giáo hội lữ hành trên trần thế tự bản chất là truyền giáo, theo chương trình của Thiên Chúa Cha, và xuất phát từ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần” [1]
Cộng đồng chung Vaticanô II, trong Thánh Truyền không gián đọan của Giáo Hội, đã minh xác bản tính truyền giáo nội tại của Giáo Hội. Giáo Hội không hiện hữu tự mình hay cho mình: nó phát nguyên từ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tự bản tính, Giáo hội được kêu gọi đi ra khỏi chính mình, hướng về thế giới, trở nến dấu chứng của đấng Emmanuel, Ngôi Lời mặc xác phàm, Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta.
Bản tính truyền giáo, theo quan điểm thần học, được nhận thấy trong mọi đặc điểm của Giáo Hội, một cách đặc biệt trong cả hai đặc tính công giáo và tông truyền. Làm thế nào chu toàn cách trung thành bổn phận làm tông đồ, là những chứng nhân trung thành của Chúa, những người loan báo Lời Chúa, những thừa tác viên khiêm tốn và xác quyết của ân sủng, nếu không qua sứ vụ truyền giáo, hiểu được thế nào là yếu tố kiến tạo đích thực và riêng biệt của Giáo Hội?
Hơn nữa, sứ vụ truyền giáo của Giáo hội là sứ vụ được lãnh nhận từ Chúa Giêsu Kitô với ân huệ của Chúa Thánh Thần. Sứ vụ này là duy nhất, và được trao phó cho mọi thành phần Dân Chúa, được thông phần vào chức linh mục của Chúa Kitô nhờ các bí tích khai tâm, để dâng lên Chúa của lễ thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô cho nhân loại. Sứ vụ này mở rộng cho mọi người, mọi văn hoá, mọi nơi và mọi lúc. Sứ vụ duy nhất này tương ứng với chức linh mục duy nhất của Chúa Kitô, trong đó mọi thành phần Dân Chúa đều thông phần, trong cách thế khác nhau không chỉ do cấp bậc khác nhau.
Trong sứ vụ truyền giáo này, các linh mục là những cộng tác viên quý trọng nhất của các Giám mục, những người kế vị các Tông đồ, chắc chắn sẽ giữ nhiệm vụ trung tâm và tuyệt đối không thể thay thế được, mà sự quan phòng của Chúa ủy thác cho họ.
1. Giáo hội ý thức về nhu cầu cần có sự dấn thân được đổi mới cho công việc truyền giáo
Bản tính truyền giáo nội tại của Giáo Hội được thiết lập cách năng động từ chính sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo Hội được kêu gọi, tự bản tính, để loan truyền con người của Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, và nói với toàn thể nhân loại theo như lệnh truyền của Chúa: “Hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tao vật” (Mc 16, 15); “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Gn 20, 21). Trong chính ơn gọi của Phaolô cũng là một lời sai đi: “Hãy đi, vì Ta sai ngươi đi xa, đến với các dân ngoại” (Cv 22, 21).
Để thực hiện sứ vụ này, Giáo Hội đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, được Chúa Cha và Chúa Con gửi đến trong ngày lễ Ngũ Tuần. Thần Khí ngự xuống trên các tông đồ là Thần Khí của Chúa Giêsu: làm cho hành động của Chúa Giêsu được lập lại (xem Cv 4, 10), làm cho Lời Chúa được rao truyền (Cv 4, 30), làm cho lời nguyện của Chúa Giêsu được lập lại (xem Cv 7, 59 tt; 34, 6), làm cho tưởng nhớ muôn đời, qua việc bẻ bánh, việc tạ ơn và hy lễ của Chúa Giêsu và gìn giữ sự hiệp nhất giữa anh em (Cv 2, 42; 4, 32). Chúa Thánh Thần chứng thực và tỏ bày sự hiệp thông của các tông đồ như một cuộc tạo dựng mới, công đoàn của ơn cứu rỗi cánh chung, và ngài sai họ đi thi hành sứ vụ: “Các con sẽ là những chứng nhân của thầy…cho thế gian” (Cv 1, 8). Chúa Thánh Thần thôi thúc Giáo hội mới phát sinh dấn thân vào sứ vụ truyền giáo khắp giới thế giới, và như thế tỏ ra rằng Ngài lan toả trên “mọi xác phàm” (xem Cv 2, 17).
Hiện nay, trước những điều kiện toàn cầu mới của sự hiện diện và những hoạt động của Giáo Hội, đòi hỏi sự đổi mới sự cấp bách cho việc truyền giáo của Giáo Hội, không chỉ là việc truyền giáo cho dân ngoại (ad gentes), nhưng còn trong chính những đoàn chiên đã được thiết lập trong Giáo Hội.
Trong những thập niên gần đây, Huấn Quyền của toà thánh Phêrô đã luôn nói lên cách xác quyết và mạnh mẽ về nhu cầu cần có sự dấn thân mới cho công cuộc truyền giáo. Chúng ta cũng nên nhắc lại ở đây các tài liệu Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) của Đức Phao lô VI, Sứ vụ của Đấng Cứu Thế (Redemptoris Missio) và Thiên niên kỷ mới đang đến (Novo Millenio ineunte) của Đức Gioan Phaolô,[2] và rất nhiều phát biểu của Đức Bênêđíctô XVI [3].
Đức Bênêđictô cũng không ít quan tâm đến những hoạt động truyền giáo cho dân ngoại (ad gentes), được biểu lộ qua việc ngài luôn lo lắng về vấn đề này. Cần nhấn mạnh và khích lệ sự hiện diện và hoạt động của rất nhiều nhà thừa sai đã được sai đến với các dân tộc, cũng như hoạt động của họ hiện nay. Dĩ nhiên là con số của họ vẫn chưa đủ. Chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mới: các thừa sai Phi Châu và Á Châu đang giúp cho Giáo hội, ví dụ tại Âu Châu.
Cũng phải tạ ơn Chúa nữa vì nhiều phong trào hay các cộng đoàn Giáo Hội, cả của giáo dân, đã biểu lộ nhiệt tâm truyền giáo, - cả giữa những người Công Giáo vì nhiều lý do không còn sống động trong cộng đoàn Giáo Hội-, cũng như cho các dân (ad gentes).
2. Khía cạnh thần học và tu đức của tinh thần truyền giáo của chức linh mục
Chúng ta không thể quan tâm về khía cạnh truyền giáo của thần học và tu đức của chức linh mục mà không xác định mối liên kết của nó với mầu nhiệm của chính Chúa Kitô. Như đã nhắc đến trong số 1, Giáo hội đặt nền tảng trên sứ vụ của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần: do đó mọi ‘sứ vụ’, cũng như chiều kích truyền giáo của Giáo Hội, nội tại tự bản tính, đặt nền tảng trên việc thông chia với sứ vụ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu tự căn là đấng được Thiên Chúa Cha sai đến. Toàn bộ Tân Ước chứng minh điều này.
Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu đã giới thiệu về mình như Đấng được thánh hoá bởi Chúa Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó (x. Lc 4, 18; Is 61,b 1-2). Trong ba Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa xác định mình là con yêu dấu, người mà trong dụ ngôn những tá điền sát nhân của vườn nho, được chủ vườn sai đến sau khi đã sai một số đầy tớ đến trước (x. Mc 12, 1-2; Mt 21, 33-46; Lc 20, 9-19). Lúc khác Ngài nói về mình như là người được sai đến (x. Mt 15, 24). Ý tưởng Chúa Giêsu như là Đấng được Chúa Cha sai đến cũng được nói đến trong các thư của thánh Phaolô (x. Gal 4, 4; Rm 8, 3).
Nhưng “sứ vụ” của Chúa Giêsu được nói đến rõ ràng nhất là trong những trước tác của Gioan [4] . Người “được Chúa Cha sai đến” là một phần của căn tính Đấng Kitô, Ngài là Đấng được Chúa Cha thánh hiến và sai đến trần gian, sự việc này đã nói lên địa vị làm con thần thiêng duy nhất của Ngài (x. Ga 10; 36-38). Chúa Giêsu hoàn tất công trình cứu chuộc như người được Chúa Cha sai đến, khi Ngài thi hành công việc của Đấng sai Ngài đến, và vâng phục ý muốn của Cha. Qua việc thi hành ý muốn này Chúa Giêsu đã thi hành thừa tác vụ của Ngài là tư tế, là tiên tri và là vua. Cùng lúc Đấng được Chúa Cha sai đến đã sai các môn đệ đi. Sứ vụ truyền giáo, trong mọi khía cạnh của nó, đều có nền tảng trong sứ vụ của Chúa Con ở trần gian, và trong sứ vụ của Chúa Thánh Thần[5] .
Chúa Giêsu, Đấng được sai đến, đến lượt Ngài sai đi (x. Ga 17, 18). Sứ vụ thừa sai, trên hết và trước hết, là chiều kích của đời sống và thừa tác vụ của Chúa Giêsu, vì thế cũng là của Giáo hội và của mỗi tín hữu theo đòi hỏi của ơn gọi riêng mỗi người. Chúng ta thấy Ngài đã thực thi thừa tác vụ cứu rỗi, vì lợi ích con người, trong ba chiều kích được liên kết chặt chẽ với nhau: dạy dỗ, thánh hoá, và cai trị, hay nói bằng những hạn từ khác liên quan trực tiếp hơn đến Kinh Thánh: ngôn sứ hay người mạc khải về Thiên Chúa Cha, tư tế, và là Chúa, vua, mục tử.
Quả thực là trong lời loan báo về Nước Thiên chúa và trong vai trò người mạc khải về Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu nhận thức một cách đặc biệt mình là người được sai đến cho dân Israel (x. Mt 15, 24; 10, 5). Nhưng trong những thời điểm khác nhau trong cuộc sống, Ngài đã mở ra chân trời phổ quát của sứ điệp của Ngài: Chúa Giêsu không loại dân ngoại ra khỏi ơn cứu rỗi, Ngài ca ngợi lòng tin của một số người trong họ, ví dụ như viên quan Bách quản, và loan báo rằng dân ngoại đến từ khắp nơi trên thế giới để đồng bàn với các tổ phụ của dân Israel (x. Mt 8, 10-12; Lc 7, 9); Ngài cũng nói những điều tương tự với người phụ nữ xứ Canaan “Này bà, lòng tin của bà thật lớn lao, điều bà muốn sẽ được thực hiện” (Mt 15, 28; x. Mc 7, 29). Để tiếp tục chính sứ vụ của mình, Chúa Giêsu phục sinh đã sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng cho mọi dân tộc, một sứ vụ phổ quát (x. Ga 20, 21-22; Mt 28, 19-20; Mc 16, 15; Cv 1, 8). Mạc khải Kitô giáo được đến với mọi người, không phân biệt.
Mạc khải về Thiên Chúa Cha mà Chúa Giêsu tỏ bày dựa trên nền tảng của mối tiếp thông duy nhất của Ngài với Thiên Chúa Cha, với ý thức của người con; chỉ xuất phát từ điều này Ngài mới có thể thi hành chức năng là Đấng mạc khải (x. Mt 11, 12-27; Lc 10, 21-22; Ga 1, 18; 14, 6-9; 17, 3.4.6.). Mục tiêu tối thượng của toàn bộ lời giảng dạy của Chúa Giêsu là làm cho Chúa Cha được nhận biết, với tất cả những hiểu biết có thể được. Sứ vụ của Ngài như Đấng mạc khải về Thiên Chúa Cha bắt nguồn từ mầu nhiệm của chính ngôi vị Ngài và Ngài tiếp tục mạc khải Thiên Chúa Cha đến muôn đời: “Con tỏ cho họ biết danh Cha, Con tỏ cho họ biết để tình yêu Cha yêu con ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa” (Ga 17, 26; x. 17, 24). Cảm nghiệm này về tình phụ tử phải thúc bách các môn đệ yêu thương mọi người, và sự hoàn thiện của họ hệ tại ở điều này (x. Mt 5, 5-48; Lc 6, 35-36).
Không thể hiểu được thừa tác vụ tư tế của Chúa Giêsu nếu không ở trong cái nhìn của phổ quát tính. Các bản văn Tân Uớc đã chứng minh về việc Chúa Giêsu ý thức rõ ràng về sứ vụ của mình và sứ vụ đó đưa Ngài đến việc tự hiến chính mình cho mọi người (x. Mc 10, 45; Mt 20, 28). Chúa Giêsu, Đấng không có tội, đã đến giữa tội nhân và tự hiến mình cho Thiên Chúa Cha vì họ. Những lời thiết lập Bí Tích Thánh Thể phản ảnh cũng chính ý thức và thái độ đó: Chúa Giêsu dâng hiến chính mình trong hy tế của Giao Ước Mới vì lợi ích của chúng ta: “Đây là máu giao ước mới, đổ ra cho nhiều người” (Mc 14, 24; x. Mt 26, 28; Lc 22, 20; 1 Cr 11, 24-25).
Chức tư tế của Chúa Giêsu được khai triển rõ ràng hơn trong Thư gửi tín hữu Do Thái, trong đó nhấn mạnh Ngài là tư tế muôn đời, Đấng sở hữu chức tư tế không bao giờ qua đi (x. Dt 7, 24), là tư tế hoàn hảo (x. Dt 7, 28). Đối lại với số đông các tư tế và các hy tế xưa kia, Chúa Giêsu dâng hiến chính mình chỉ một lần cho tất cả với hy tế toàn hảo (Dt 7, 27; 9, 12.28; 10, 10; 1 Pr 3, 18). Tính duy nhất của con người và hy tế của Ngài tạo nên tính cách duy nhất và phổ quát của chức linh mục của Chúa Kitô; toàn bộ thực tại của con người và cụ thể là hy tế cứu chuộc mang một giá trị muôn đời, mang dấu ấn không bao giờ mất đi và không thể vượt qua. Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm và muôn đời của chúng ta, hiện vẫn tiếp tục, trong tình trạng vinh quang của Ngài, cầu bàu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha (x. Ga 14, 16; Rm 8, 32; Dt 7, 25; 9, 24; 10, 12; 1 Ga 2, 1).
Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến, cũng xuất hiện như là Chúa trong Tân Ước (x. Cv 2, 36). Biến cố Phục sinh làm cho các tín hữu nhận ra địa vị làm Chúa của Chúa Kitô. Trong những kinh tuyên tín đầu tiên luôn xuất hiện tước vị nền tảng này trong mối liên hệ với việc phục sinh (x. Rm 10, 9). Cũng có nhiều bản văn nói về Chúa Giêsu như là Đức Chúa và quy chiếu về Thiên Chúa Cha (x. Pl 2, 11). Mặt khác, Chúa Giêsu, Đấng loan báo về Nước Thiên Chúa, với mối liên kết đặc biệt với con người Ngài, là vua, như Ngài đã chỉ cho thấy trong Tin Mừng Gioan (x. Ga 18, 33-37). Và tận cùng thời gian “Ngài sẽ trao lại vương quốc cho Thiên Chúa Cha, sau khi đã triệt tiêu mọi Thế lực, Quyền năng và Sức mạnh” (1 Cr 15, 24).
Hiển nhiên là sự thống trị của Chúa Giêsu, không liên quan đến các thế lực trên thế gian này (x. Lc 22, 25-27; Mt 20, 25-27; Mc 10, 42-¬45) vì như Ngài đã nói nước của Ngài không ở trần gian (x. Ga 18, 36). Vì thế sự thống trị của Chúa Kitô là sự thống trị của người Mục Tử Nhân Lành, Đấng biết hết mọi con chiên, Đấng hiến mạng sống vì chúng và muốn hợp nhất chúng lại thành một đàn chiên duy nhất (x. Ga 10, 14-16). Dụ ngôn con chiên lạc cũng nói lên một cách gián tiếp về Đức Kitô như người mục tử nhân lành (x. Mt 18, 12-14; Lc 15, 4-7). Chúa Giêsu còn là “Mục tử tối cao” (1 Pr 5, 4).
Trong Chúa Giêsu chúng ta nhận ra cách rõ ràng Ngài đã thực hiện những gì truyền thống Cựu Ước đã nói về Chúa như mục tử của dân Israel “Ta nuôi chúng bằng cỏ tốt tươi, đồng cỏ của chúng trên những đỉnh núi của Israel […]. Chính ta là mục tử của đoàn chiên ta, ta cho chúng nằm nghỉ, lời Thiên Chúa phán. Ta sẽ tìm kiếm những con chiên lạc, sẽ mang về những con đi hoang, ta sẽ băng bó những con bị thương tật, và làm cho mạnh mẽ những con yếu đưối, còn những con béo tốt và khoẻ mạnh ta sẽ chăm sóc. Ta sẽ nuôi chúng bằng sự công chính’ (Ed 34, 14-16). “Và ta sẽ lập cho chúng một mục tử, là Đavid tôi tớ ta, người sẽ nuôi dưỡng chúng và là mục tử của chúng. Và ta, Đức Chúa, sẽ là Chúa của chúng (Ed 34, 23-24; x. Gr 23, 1-4; Dcr 11, 15-17; Tv 23, 1-6)[6] .
Chỉ phát khởi từ Chúa Kitô thì những suy tư truyền thống về ba chức năng (tria munera), định dạng thừa tác vụ thánh của các linh mục, mới có ý nghĩa. Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu nhắc nhớ Ngài hiện diện nơi những người Ngài sai đi: “Ai đón nhận người mà ta sai đến là đón nhận chính ta; ai đón nhận ta là đón nhận Đấng đã sai ta” (Ga 13, 20; x. Mt 10, 40; Lc 10, 16). Vì vậy, có một chuỗi “những sứ vụ”, có nguồn gốc từ mầu nhiệm từ Chúa Ba Ngôi, Đấng muốn tất cả con người được thông phần vào đời sống của Ngài. Nguồn gốc từ mầu nhiệm Ba Ngôi, Kitô học[7] , và Giáo hội học của thừa tác vụ linh mục là nền tảng của căn tính truyền giáo. Ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, tính độc nhất và thiết yếu của việc trung gian của Chúa Kitô (x. Tm 2, 4-7; 4, 10) không cho phép đưa ra những giới hạn cho công cuộc phúc âm hoá và thánh hoá Giáo Hội. Tất cả công trình cứu chuộc phát xuất từ chương trình của Thiên Chúa Cha để thâu họp vạn vật trong Chúa Kitô (x. Ep 1, 3-10) và trong việc thực hiện chương trình này, là chương trình sẽ được hoàn tất khi Chúa trở lại trong vinh quang.
Công đồng Vaticanô II phác hoạ cách rõ ràng việc thực thi ba chức năng của Chúa Kitô của các linh mục, như là các cộng tác viên của chức giám mục: “Những người thông phần vào nhiệm vụ của Chúa Kitô Đấng Trung Gian duy nhất (x. 1 Tm 2, 5) trong mức độ thừa tác của mình, họ loan báo lời Chúa cho mọi người. Họ thực hành chức vụ thánh, đặc biệt trong việc tôn thờ Thánh Thể hay cử hành Thánh Lễ qua đó, trong khi thi hành trong chính con người Chúa Kitô và loan báo mầu nhiệm của người, họ kết hiệp kinh nguyện của các tín hữu với hy tế của thủ lãnh của họ, và trong hy tế của Thánh lễ họ làm cho hiện thực và áp dụng cho tới khi Chúa đến (x. 1 Cr 11, 26) hy tế duy nhất của Tân Ước, chính là Chúa Kitô, Đấng một lần cho tất cả dâng mình cho Thiên Chúa Cha như tế vật không tì vết (x. Dt 9, 11-28). Trong khi thi hành trong thẩm quyền của mình chức vụ của Chúa Kitô mục tử và thủ lãnh, họ quy tụ gia đình của Chúa, trong đó quy tụ các anh em cùng đồng tâm hợp ý, nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần đưa họ đến cùng Chúa Cha. Giữa đoàn chiên họ thờ phượng Ngài trong tinh thần và trong chân lý (x. Gn 4, 24)[8] .
Nhờ bí tích truyền chức ban cho một ấn tích thiêng liêng không thể xoá nhoà[9] , các linh mục được thánh hiến, tức là cất “khỏi thế gian” để dâng cho “Thiên Chúa hằng sống”, “như là vật sở hữu của Ngài, để từ Ngài họ có thể thi hành thừa tác vụ tư tế cho thế gian”, để rao giảng Tin Mừng, để làm mục tử các tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa như những tư tế đích thực của Tân Ước (x. Dt 5, 1)[10] .
Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI, trong bài huấn dụ cho các tham dự viên Đại Hội của Bộ Giáo Sĩ, đã xác quyết rằng: “chiều kích truyền giáo của chức linh mục phát sinh do việc biến đổi của họ qua bí tích với Chúa Kitô là Thủ Lãnh: hệ quả là nó mang đến sự gắn bó tận tâm tận tình với điều mà truyền thống Giáo Hội xác định như lối sống của các tông đồ (apostolica vivendi forma). Điều này hệ tại ở việc tham dự vào một ‘cuộc sống mới’, nói một cách thiêng liêng, trong ‘cách sống mới’ đã được Chúa Kitô khai mở và đã được các tông đồ thực hiện. Qua việc đặt tay của Giám mục và lời nguyện thánh hiến của Giáo Hội, các ứng viên trở nên những con người mới, trở nên ‘tư tế’. Trong ánh sáng này xuất hiện cách rõ ràng rằng ba chức năng (tria munera) trước tiên là ân huệ và chức vụ chỉ là hệ quả; trước hết là việc thông phần vào một cuộc sống và do đó thông phần vào một quyền năng (potestas)[11] .
Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis về thừa tác vụ và đời sống linh mục đã minh họa sự thật này khi nói về các linh mục như những thừa tác viên của Lời Chúa, thừa tác viên của việc thánh hoá qua các bí tích và bí tích Thánh Thể, và là người hướng dẫn và người dạy dỗ cho dân Chúa. Căn tính truyền giáo của linh mục, dù không là chủ đề được khai triển trọn vẹn, nhưng cũng có mặt trong bản văn này. Bổn phận rao giảng Tin Mừng được nhấn mạnh, với quy chiếu rõ ràng về những người không tin, cũng như nhu cầu kêu mời đến đức tin và các bí tích qua việc rao giảng sứ điệp Tin Mừng. Linh mục là người được ‘sai đi’, là người chia sẻ sứ vụ của Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai, là người nhận ra mình phải dấn thân vào động lực truyền giáo, không có nó họ không thể sống căn tính chân thực của mình[12] .
Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores Dabo Vobis nói rằng các linh mục, khi được đặt ở Giáo hội địa phương, nhờ việc truyền chức đã lãnh nhận ơn huệ thiêng liêng chuẩn bị họ cho những sứ vụ phổ quát, ngay cả đến tận cùng trái đất, vì “mỗi thừa tác viên linh mục chia sẻ tính chất phổ quát của sứ vụ được Chúa Giêsu ủy thác cho các tông đồ”[13] . Vì lý do đó, đời sống thiêng liêng của linh mục phải được xác định bằng sự phấn khích và năng động cho việc truyền giáo, lấy lại giáo huấn của công đồng Vaticanô II, Tông huấn làm sáng tỏ rằng linh mục phải hình thành cộng đồng được ủy thác cho họ để biến nó thành cộng đoàn truyền giáo đích thực[14] . Chức vụ mục tử đòi hỏi nhiệt tâm truyền giáo này phải hiển nhiên và được tiếp thông cho người khác, vì toàn thể Giáo hội tự bản chất là truyền giáo. Từ chiều kích này của Giáo hội xuất phát căn tính truyền giáo của linh mục trong một cách thế mang tính quyết định.
Nói về sứ vụ truyền giáo, cần phải ghi nhớ rằng người được sai, trong trường hợp này là các linh mục, cần có mối liên hệ với người sai mình và với những người mình được sai đến. Nhìn về mối liên hệ của linh mục với Chúa Kitô, người đầu tiên được Chúa Cha sai đến, cần phải nhấn mạnh rằng, theo như các bản văn Tân Ước, chính Chúa Kitô Đấng sai đi và thiết lập các thừa tác viên cho Giáo Hội qua ân huệ của Chúa Thánh Thần tuôn đổ xuống qua việc truyền chức; không thể chỉ coi họ như người được chọn lựa hay ủy quyền của cộng đoàn hay của dân tư tế. Việc sai đi đến từ Chúa Kitô; các thừa tác viên của Giáo Hội là những dụng cụ sống động của Chúa Kitô Đấng Trung gian duy nhất[15] . “Linh mục tìm thấy sự thật viên mãn về căn tính của mình trong khi là một sự xuất phát (từ Chúa Kitô), một sự tham dự đặc thù trong (Chúa Kitô) và sự tiếp nối chính Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm và duy nhất của giao ước mới và muôn đời; họ là hình ảnh sống động và trong sáng của Chúa Kitô linh mục”[16] .
Chiều kích truyền giáo của thừa tác vụ linh mục nổi bật với điểm xuất phát có tính chất Kitô học này: Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh và sống lại cho mọi người, những người Ngài muốn quy tụ lại trong một đàn chiên; Ngài đã chết để tụ họp lại tất cả con cái tản mát (x. Ga 11, 52). Nếu mọi người đều phải chết trong Ađam, trong Chúa Kitô mọi người sẽ được trở lại sự sống (x. 1 Cr 15, 20-22); trong Chúa Kitô, Thiên Chúa đã giao hoà trần gian với Ngài (x. 2 Cr 5, 19); và đến lượt Ngài đã ra lệnh cho các tông đồ rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Toàn bộ Tân Ước tràn đầy ý niệm về hoạt động cứu rỗi phổ quát của Chúa Kitô và vai trò trung gian duy nhất của Ngài.
Linh mục, trở nên hình ảnh của Chúa Kitô như là tư tế, tiên tri và là vua, không thể không mở rộng tâm hồn cho mọi người, và cụ thể là trước hết cho những người chưa biết Chúa Kitô và chưa lãnh nhận ánh sáng của Tin Mừng.
Còn về những người mà Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng cho họ[17] và những người mà các linh mục được sai đến, cần phải nêu rõ rằng Công Đồng Vaticanô II lập đi lập lại về sự hợp nhất của gia đình nhân loại, dựa trên căn bản là mỗi người được tạo dựng trong hình ảnh và giống Thiên Chúa, và vận mệnh chung của chúng ta trong Chúa Kitô: “Cộng đồng các dân tộc là một, nguồn gốc của họ là một, vì Thiên Chúa tạo dựng cả nhân loại để sống trên khắp mặt đất. Mục tiêu tối hậu của họ cũng là một, là Thiên Chúa. Sự quan phòng, việc biểu lộ sự thiện hảo, và chương trình cứu độ của Ngài đến với mọi người nam cũng như nữ”[18] . Sự hiệp nhất này đạt tới sự viên mãn khi mọi sự được quy phục lại trong Đức Kitô (x. Ep 1, 10)[19]
Mọi hoạt động mục vụ của Giáo hội đều được quy hướng về việc quy phục chung cuộc mọi sự trong Đức Kitô, là chính sự cứu rỗi cho nhân loại. Khi mọi người được kêu gọi hiệp nhất với Đức Kitô, linh mục, người được đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, không được loại trừ bất cứ ai khỏi mối quan tâm của mình. Mọi người nam nữ đang chờ đợi, cho dù không ý thức (x. Cv 17, 23-29), ơn cứu độ đến từ chỉ mình Ngài mà thôi: ơn cứu độ này hệ tại ở việc chúng ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, và việc chúng ta chia sẻ địa vị làm con Thiên Chúa của Đức Kitô. Không có sự phân biệt giữa cá nhân hay các dân tộc, vì tất cả có cùng nguồn gốc và cùng chia sẻ một vận mệnh chung và một ơn gọi độc nhất trong Đức Kitô. Thiết lập những giới hạn cho “bác ái mục vụ” là hoàn toàn nghịch với ơn gọi của linh mục, được ghi dấu ấn bằng việc biến đổi đặc biệt theo Đức Kitô, là thủ lãnh và mục tử của Giáo Hội và của mọi người.
Ba chức năng (tria munera) được linh mục thực thi trong thừa tác vụ của mình không thể được hiểu tách rời khỏi mối liên hệ thiết yếu của họ với con người Đức Kitô và ân huệ của Thần Khí. Linh mục được trở nên như Đức Kitô nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần lãnh nhận trong khi được truyền chức. Vì vậy, ba chức năng được liên kết về bản tính với Đức Kitô, nó không thể bị phân chia. Căn tính con thảo của Chúa Giêsu, được Chúa Cha sai đến, toả chiếu ánh sáng trên cả ba, và việc thực hành ba chức năng này không thể bị tách rời trong người linh mục[20] .
Linh mục được định nghĩa qua mối liên hệ của họ với con người Đức Kitô chứ không chỉ qua việc thi hành chức năng linh mục, là điều phát xuất từ và có được ý nghĩa trọn vẹn trong cá nhân của Chúa. Điều này có nghĩa linh mục khám phá tính cách đặc biệt của đời sống và ơn gọi qua việc sống chính việc trở nên như Đức Kitô, họ luôn là một alter Christus (Chúa Kitô khác). Qua việc ý thức được Đức Kitô sai đi, cũng như Chúa Cha đã sai Đức Kitô, để lo cho việc cứu rỗi các linh hồn (salus animarum), linh mục sẽ cảm nghiệm chiều kích phổ quát, và do đó chiều kích truyền giáo, của căn tính sâu xa nhất của mình.
3. Canh tân việc thực hành truyền giáo của các linh mục
Nhu cầu cấp bách của sứ vụ tryền giáo hiện nay đòi hỏi sự canh tân trong mục vụ. Các hoàn cảnh văn hoá và tôn giáo đã thay đổi của thế giới chúng ta đang sống, trong sự khác biệt của chúng theo từng vùng hay môi trường xã hội văn hoá, đưa đến nhu cầu cần mở ra những đường hướng mới cho việc thực hành truyền giáo. Đức Thánh Cha Bênêđíctô, trong diễn từ nêu trên với các Giám Mục Đức, đã nói: “Tôi tin là chúng ta phải cùng nhau cố gắng tìm ra những đường hướng mới để mang Tin Mừng đến cho thế giới hiện đại”[21] .
Về vai trò của linh mục trong sứ vụ truyền giáo này, chứng ta nhớ lại yếu tính truyền giáo của chính căn tính linh mục, của tất cả và mỗi một linh mục, và lịch sử Giáo hội, cho chúng ta thấy vai trò thiết yếu không thể thay thế được của các linh mục trong hoạt động truyền giáo. Khi nói đến việc Tin Mừng hoá thừa sai trong lòng các Giáo Hội đã được thiết lập, hướng về những người đã được rửa tội nhưng “đã xa rời” và những người, trong các giáo xứ và các giáo phận, biết rất ít hay không biết gì cả về Chúa Giêsu Kitô, thì vai trò không thể thay thế được của linh mục càng được biểu lộ rõ ràng hơn.
Trong những cộng đoàn đặc biệt và cộng đơàn giáo xứ, thừa tác vụ của các linh mục tỏ cho thấy Giáo Hội như là biến cố biến đổi và cứu rỗi, được thực hiện trong cuộc sống hằng ngày của xã hội. Ở đó linh mục rao giảng Lời Chúa, truyền bá Tin Mừng và dạy giáo lý, giải thích cách trung thành và trọn vẹn giáo lý thánh. Họ giúp các tín hữu đọc và hiểu Kinh Thánh, quy tụ dân Chúa để cử hành Thánh Thể và các bí tích khác, khích lệ các hình thức đạo đức và cầu nguyện chung khác. Họ đón nhận những ai đến tìm sự nâng đỡ, an ủi, ánh sáng, đức tin, việc giao hoà và đến gần Chúa, và họ triệu tập và hướng dẫn những cuộc gặp gỡ của cộng đoàn nhằm học hỏi, phát triển và thực thi những kế hoạch mục vụ. Họ dẫn dắt và khích lệ cộng đoàn trong việc thực thi đức bác ái đối với những người thiếu thốn và nghèo khó trong tinh thần bằng việc cổ võ công bằng xã hội, nhân quyền, phẩm giá con người bằng nhau, tự do đích thực, sự hợp tác huynh đệ, và hoà bình, theo như những nguyên tắc của học thuyết xã hội của Giáo Hội. Như những người cộng tác với giám mục, chính họ có trách nhiệm mục vụ trực tiếp.
3.1. Nhà truyền giáo phải là môn đệ
Tin Mừng cho chúng ta thấy nhà truyền giáo trước hết phải là môn đệ. Tin Mừng theo thánh Luca thuật lại: “Và Ngài lên núi, gọi những người Ngài muốn đến; và họ đến với Ngài. Và Ngài chọn 12 người để ở với Ngài, và Ngài sai họ đi rao giảng và ban cho họ quyền trừ quỷ” (Mc 3,13-15). “Ngài gọi những người Ngài muốn đến” và “ở với Ngài”: đây chính là tính chất môn đệ! Những môn đệ này sẽ được sai đi rao giảng và khử trừ ma quỷ: họ là những nhà truyền giáo.
Trong Tin Mừng Gioan, lời kêu gọi những môn đệ đầu tiên “Hãy đến mà xem” (Gn 1, 39), họ gặp gỡ Chúa Giêsu, và công việc truyền giáo đầu tiên của họ là kêu gọi những người khác, nói cho họ về Đấng Thiên Sai mà họ đã gặp biết và đưa họ đến với Chúa Giêsu, Đấng hiện thời vẫn còn đang kêu gọi mọi người làm môn đệ Ngài (xem Gn 1, 35-51).
Toàn bộ hành trình của người môn đệ bắt đầu với việc Chúa gọi. Bước khởi đầu luôn xuất phát từ Ngài. Điều này có nghĩa ơn gọi là một ân sủng phải được đón nhận cách khiêm tốn và tự do và ấp ủ với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Đây là ưu vị của ân sủng. Và rồi ơn gọi tiếp tục bằng việc gặp gỡ với Chúa Giêsu, qua đó chúng ta nghe Lời Ngài và cảm nghiệm tình yêu của Ngài cho mỗi người và cho cả nhân loại. Ngài yêu thương chúng ta và mạc khải Thiên Chúa đích thực cho chúng ta: Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu. Trong Tin Mừng chúng ta có thể nhận thấy qua việc gặp gỡ này Thần Khí Chúa Giêsu đã biến đổi những ai có tâm hồn rộng mở như thế nào.
Vì vậy, tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu đều cảm nghiệm được sự dấn thân sâu xa vào con người và sứ vụ của Ngài trên trần gian: họ tin vào Ngài, cảm nghiệm tình yêu của Ngài, gắn bó với Ngài, và chọn đi theo Ngài vô điều kiện bất cứ nơi đâu mà Ngài đưa đến; họ tận hiến cả cuộc đời cho Ngài, và nếu cần, sẵn sàng chết cho Ngài. Do gặp gỡ với Chúa Giêsu họ có được tâm hồn vui tươi và nhiệt thành, bị quyến rũ bởi mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và lăn xả ra loan báo về Ngài cho mọi người. Vì thế các môn đệ trở nên như Thầy mình, được Ngài sai đi và được Chúa Thánh Thần phù trợ.
Con người hôm nay cũng đang hỏi chính là câu hỏi mà một số người Hi Lạp ở trong thành đã hỏi khi Chúa Giêsu vào thành như Đấng Thiên Sai: “Chúng tôi muốn gặp Giêsu” (Gn 12, 21). Ngày nay chúng ta cũng hỏi chính câu hỏi này. Làm thế nào và ở đâu chúng ta gặp được Chúa Giêsu ngày hôm nay, trong thời của Giáo Hội, khi Ngài đã trở về cùng Thiên Chúa Cha?
Đức Thánh Cha khả kính Gioan Phaolô đã khai triển sự cần thiết của việc gặp gỡ với Chúa Giêsu của mọi Kitô hữu, để họ có thể tái xuất phát từ Ngài để loan báo cho nhân loại hiện nay. Cùng lúc Ngài cũng đưa ra những nơi đặc biệt để có thể gặp gỡ Chúa Giêsu ngày nay. Nơi đầu tiên mà Đức Thánh Cha nói đến là “Thánh Kinh được đọc dưới ánh sáng của Thánh truyền, của Các Giáo Phụ và của Huấn Quyền của Giáo Hội, được đào sâu nhờ suy niệm và tâm nguyện”, tức là Lectio Divina, việc đọc Kinh Thánh trong cầu nguyện. Nơi thứ hai mà Đức Thánh Cha nói đến là Phụng vụ, là các Bí Tích, một cách rất đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Trong trình thuật việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta nhận ra sự liên kết mật thiết giữa Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể, là nơi gặp gỡ với Chúa Kitô. Nơi thứ ba được nói đến trong Tin Mừng Mátthêu về ngày phán xét chung, trong đó Chúa Giêsu đồng nhất hoá mình với người nghèo khó (xem Mt 25, 31-36)[22] .
Một phương cách căn bản và quý giá để gặp gỡ Chúa Giêsu là việc cầu nguyện cá nhân hay cộng đồng, đặc biệt là cầu nguyện trước Thánh thể và trung thành đọc PhụngVụ các Giờ Kinh. Ngay cả việc chiêm niệm các tạo vật cũng là một phương thế để gặp gỡ Chúa.
Mỗi Kitô hữu phải được đưa đến với Chúa Giêsu để trui rèn, đổi mới và làm cho sâu đậm hơn cuộc gặp gỡ cá nhân hay cộng đồng với Chúa Giêsu. Chính từ cuộc gặp gỡ này phát sinh và tái sinh người môn đệ; và từ các môn đệ mới có công cuộc truyền giáo. Nếu điều này đúng thật cho mỗi Kitô hữu, thì càng đúng biết bao cho các linh mục[23] .
Ngưòi môn đệ là nhà truyền giáo, họ phải là thành viên của cộng đoàn các môn đệ và các nhà truyền giáo là Giáo Hội. Chúa Giêsu đến trần gian và hiến mình trên Thánh Giá để “Để quy tụ thành một các con cái Chúa đang tản mát” (Gn 11, 52). Cộng đồng Chung Vatican II dạy rằng: “Tuy vậy, Thiên Chúa không làm cho con người nên thánh hay cứu rỗi họ như những cá nhân, mà không có mối dây liên kết nào với người khác. Nhưng đúng hơn là Ngài yêu thích đưa mọi người lại với nhau thành một dân duy nhất, một dân chân nhận Ngài trong chân lý và phục vụ Ngài trong sự thánh thiện”[24] . Chúa Giêsu cùng với các môn đệ, đặc biệt Nhóm Mười Hai, đã khai mở cộng đồng mới này là Giáo Hội để hiệp nhất các con cái Chúa tản mát. Sau khi Ngài về với Thiên Chúa Cha, các Kitô hữu đầu tiên sống thành cộng đoàn, dười sự lãnh đạo của các tông đồ, mỗi môn đệ tham dự vào đời sống cộng đoàn và các cuộc hội họp của các anh em, đặc biệt trong nghi thức bẻ bánh Thánh Thể. Chính trong Giáo Hội, và bắt đầu với việc hiệp thông hữu hiệu với chính Giáo Hội, mà chúng ta sống và trở thành các môn đệ và các nhà truyền giáo.
3.2. Sứ vụ truyền giáo cho muôn dân (ad gentes)
Tự bản tính của Giáo Hội là truyền giáo. Lời dạy này của Công Đồng Vaticanô II cũng nói về căn tính và đời sống của linh mục: “Ân huệ thiêng liêng mà các linh mục lãnh nhận trong khi chịu chức không phải chỉ để chuẩn bị cho họ một sứ vụ giới hạn và nhỏ hẹp nhưng là cho một sứ vụ cứu rỗi rộng lớn hết sức có thể và phổ quát ‘đến tận cùng trái đất’ (Cv 1, 8). Vì thế, các linh mục hãy nhớ rằng, việc lo lắng cho tất cả các Giáo Hội phải là mối quan tâm mật thiết của họ”[25]
Linh mục có thể tham gia việc truyền giáo cho muôn dân bằng nhiều cách khác nhau, ngay cả không cần phải đến đất nước được truyền giáo. Nhưng họ cũng là những người được ơn đặc biệt là được Chúa Kitô kêu gọi và được các Giám Mục hay Bề Trên sai đến các vùng trên thế giới chưa được loan báo và Giáo Hội chưa được thiết lập (ad gentes), hay đến những nơi thiếu các giáo sĩ. Ở đây chúng ta cần nhắc đến các linh mục triều của chương trình Ân Huệ Đức Tin (Donum Fidei).
Chân trời của sứ vụ truyền giáo cho muôn dân (ad gentes) luôn được nhân rộng ra và đòi hỏi một sự thúc đẩy được đổi mới. Các linh mục được mời gọi luôn lắng nghe hơi thở của Chúa Thánh thần, tác nhân chính của mọi sứ vụ truyền giáo, và chia sẻ mối quan tâm này của Giáo Hội hoàn vũ[26] .
3.3. Việc Tin Mừng Hoá thừa sai
Trong phần đầu của tài liệu này có nói đến nhu cầu thúc bách của một cuộc Tin Mừng hoá thừa sai trong đoàn chiên của Giáo Hội, là những người đã được rửa tội. Thực tế là một phần lớn những người công giáo đã được rửa tội không tham gia một cách thường xuyên hay thậm chí không tham gia gì cả trong đời sống cộng đoàn giáo hội. Điều này xảy ra không chỉ vì có những chọn lựa khác hấp dẫn hơn đối với họ, hay đơn giản là vì họ quyết định từ bỏ đức tin, nhưng thường là vì họ chưa bao giờ được Tin Mừng hóa cách tương xứng. Họ chưa bao giờ có thể gặp được một ai đó có khả năng làm chứng về vẻ đẹp của một đời sống Kitô hữu chân chính. Không ai đưa họ đến gặp gỡ Chúa cách mạnh mẽ, cá nhân và cộng đoàn. Cuộc gặp gỡ có thể tác động và biến đổi cuộc sống của họ. Cuộc gặp gỡ làm cho họ trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Ở đây chúng ta thấy sự cần thiết của sứ vụ truyền giáo: Chúng ta phải ra đi tìm kiếm người đã được rửa tội cũng chưa được rửa tội, loan báo, lần đầu hay lần nữa, lời loan báo Tin Mừng nguyên khởi (kerygma), tức là việc loan báo khai tâm về con người và về nước của Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại để cứu chuộc chúng ta, là lời loan báo đưa đến việc gặp gỡ cá nhân với Ngài.
Có người tự hỏi rằng con người, nam cũng như nữ, trong nền văn hoá của thời hậu-hiện đại (post-modern), và trong xã hội tân tiến, còn có thể mở lòng đó nhận lời loan báo Tin Mừng nguyên khởi (kerygma) của Kitô giáo hay không. Câu trả lời xác quyết là có thể được. Mọi người trong mọi thời đại và văn hoá có thể đón nhận Kerygma. Cả những môi trường trí thức nhất hay bình thường nhất đều có thể được Tin Mừng hoá. Chúng ta phải tin rằng dầu ngay cả những người được gọi là “hậu-Kitô hữu” cũng có thể được tiếp xúc một lần nữa với con người của Chúa Kitô.
Tương lai của Giáo Hội cũng tùy thuộc vào ý muốn của chúng ta để thi hành công cuộc truyền giáo ngay giữa các tín hữu đã được rửa tội[27] . Biến cố cứu rỗi của bí tích rửa tội là nền tảng của quyền lợi và nghĩa vụ của các mục tử để Tin Mừng hoá các tín hữu đã được rửa tội, như là một hành vi mà công lý đòi hỏi[28] .
Đương nhiên là mỗi Giáo hội địa phương trong mỗi lục địa và mỗi nước phải tìm phương cách riêng, nhờ sự dấn thân hiệu quả và xác quyết cho công cuộc Tin Mừng hoá thừa sai, để đến với chính người Công giáo của mình là những người vì nhiều lý do khác nhau không còn sống như là phần tử trong cộng đồng Giáo hội. Trong công cuộc Tin Mừng hóa này, các linh mục luôn có vai trò độc nhất và ưu tiên, đặc biệt đối với công việc truyền giáo cho các giáo dân trong giáo xứ được ủy thác cho các ngài chăm sóc. Trong giáo xứ, linh mục phải quy tụ các phần tử của cộng đoàn, cả những người sống đời thánh hiến và giáo dân, chuẩn bị thích đáng cho họ để được sai đi cho sứ vụ Tin Mừng hoá các cá nhân và gia đình, cũng như việc thăm viếng tại gia, và trong những môi trường xã hội khác tại đó. Cha sở phải trực tiếp tham gia trong sứ vụ truyền giáo của giáo xứ.
Theo giáo huấn của Công đồng và ý thức về lời cầu nguyện của Chúa: “Xin cho chúng nên một …để thế gian tin rằng cha đã sai con” (Gn 17, 21), nên điều quan trọng nhất để việc thực hành truyền giáo được đổi mới là linh mục canh tân lương tâm của cộng tác viên của giám mục. Họ được các giám mục của mình sai đi để phục vụ cộng đoàn Kitô hữu địa phương. Vì vậy sự hiệp nhất với giám mục, đấng sẽ hiệp nhất cách hữu hiệu và đầy thương mến đối với Đức Thánh Cha, là bảo chứng chính yếu cho mọi hoạt động truyền giáo.
Chúng ta cùng tìm những hướng dẫn cụ thể của việc thực hành truyền giáo được canh tân trong lãnh vực của ba chức năng (tria munera):
Trong lãnh vực của chức năng dạy dỗ (munus docendi)
1. Trước hết để trở thành nhà truyền giáo đích thực trong đoàn chiên của Giáo Hội, điều cần yếu và không thể thiếu được trong hoàn cảnh hiện tại đối với các linh mục là quyết định cách ý thức và với quyết tâm không chỉ đón nhận và Tin Mừng hoá những người tìm đến với các ngài, trong giáo xứ hoặc bất cứ đâu, nhưng là “chỗi dậy và ra đi”, trước hết để tìm kiếm những người đã lãnh nhận bí tích rửa tội, nhưng vì bất cứ lý do nào đã không còn sống là thành phần của Giáo Hội, cũng như tìm kiếm những người biết quá ít hay không biết gì cả về Chúa Giêsu Kitô.
Các linh mục thi hành thừa tác vụ của mình trong các giáo xứ cần phải tìm đến trước hết những người sống trong phạm vi giáo xứ của mình, áp dụng cách khôn ngoan các hình thức gặp gỡ truyền thống, ví dụ như làm phép nhà, là những phương thế mang lại hiệu quả trong quá khứ. Những linh mục được gọi thi hành sứ vụ truyền giáo cho muôn dân (ad gentes) nên nhận ra đây là hồng ân lớn lao của Thiên Chúa và ra đi cách hân hoan không sợ hãi. Thiên Chúa luôn ở bên họ.
2. Đối với sứ vụ Tin Mừng hóa trong chính đoàn chiên của Giáo Hội, trước hết là trong các giáo xứ, cũng cần phải tuyển mộ, huấn luyện và sai đi các giáo dân và tu sĩ. Linh mục của giáo xứ hiển nhiên là nhà truyền giáo chính và họ phải tìm những người trong giáo xứ họ hay trong mọi môi trường xã hội khác; người giáo dân và tu sĩ, nhờ bí tích rửa tội và thêm sức, cũng được gọi để chia sẻ sứ vụ truyền giáo này dưới sự hướng dẫn của mục tử tại địa phương.
Về văn hoá, cần phải nói rõ rằng việc thi hành “bác ái mục vụ”[29] cho các tín hữu đòi hỏi bổn phận không để cho họ không có khả năng tự vệ (nghĩa là không có khả năng phân tích phê bình) trước những truyền bá trong trường học, truyền hình, báo chí, mạng lưới vi tính, cũng như trong đại học và thế giới giải trí.
Về phần mình, các linh mục cần được sự khích lệ và nâng đỡ của các Giám mục của mình trong những công việc mục vụ nhạy cảm, và không bao giờ trao hoàn toàn việc dạy giáo lý cho người khác, để toàn thể Kitô hữu có thể được hướng dẫn bởi những nguyên tắc Kitô giáo đích thực trong môi trường đa văn hoá hiện nay. Cần biệt phân giữa giáo thuyết đích thực cũng như những gì gắn liền với Giáo Huấn trường tồn của Giáo Hội và những giải thích thần học.
3. Việc loan báo Tin Mừng cách đặc biệt trong truyền giáo đòi hỏi lời loan báo Tin Mừng nguyên khởi (Kerygma) phải được trọng vọng. Việc loan báo này (kerygmatic), sơ khởi hay đổi mới, về Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá, sống lại và về vương quốc của Ngài, luôn có một sức mạnh và được Chúa Thánh Thần xức dầu đặc biệt. Lời Loan báo này không thể bị đơn giản hoá hay bỏ qua trong công cuộc truyền giáo[30] .
Vì lý do đó lời loan báo nguyên khởi này phải được lập đi lập lại, khi thuận lợi cũng như khi không thuận lợi, với sự kiên trì lớn lao, sự xác quyết và niềm vui rao truyền Tin Mừng, trong các bài giảng hay trong Thánh lễ hay trong những dịp rao truyền Tin Mừng khác, trong việc dạy giáo lý, trong thăm viếng tư gia, trong những nơi công cộng hay các phương tiện truyền thông, và trong những gặp gỡ cá nhân với những người đã được rửa tội mà không còn trong cộng đồng Giáo Hội; nói tóm lại, đừng phí phạm bất cứ ở đâu mà Chuá Thánh Thần hướng dẫn và cho chúng ta cơ hội. Việc loan báo cách hân hoan và can đảm là dấu chỉ cho thấy việc rao giảng trong truyền giáo nhằm đưa người nghe đến việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô, điểm xuất phát của hành trình của người môn đệ đích thực.
4. Cũng cần phải nêu rõ rằng Giáo Hội sống bởi bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là con tim của Giáo Hội. Trong việc cử hành Thánh Thể Giáo Hội biểu lộ cách trọn vẹn căn tính của mình. Trong đời sống và hoạt động của Giáo Hội, mọi sự đều quy về Thánh Thể và mọi sự đều phát khởi từ Thánh Thể. Cũng vậy, việc Tin Mừng hóa thừa sai, việc loan báo Tin Mừng nguyên khởi (kerygma), và toàn bộ việc thực thi chức năng dạy dỗ (munus docendi), đều phải đưa về Thánh Thể và cuối cùng cũng đưa người nghe về bàn tiệc Thánh Thể. Sứ vụ truyền giáo tự nó phải được xuất phát từ bàn tiệc Thánh Thể để đi đến toàn thể thế giới. “Vì thế, Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh không những của đời sống Giáo Hội, nhưng của sứ vụ truyền giáo nữa: Giáo hội đích thực của bí tích Thánh Thể là một Giáo Hội truyền giáo”[31] .
5. Việc Tin Mừng hoá cho người nghèo phải được ưu tiên đặc biệt, như Chúa Giêsu đã nói: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi để đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo” (Lc 4, 18). Và Chúa muốn đồng hoá chính mình với người nghèo trong Tin Mừng Mátthêu về ngày chung thẩm (xem Mt 25, 31-46). Giáo Hội luôn tìm được cảm hứng nơi các bản văn này[32] .
6. Giáo hội không bao giờ áp đặt đức tin của mình cho ai, nhưng luôn đề nghị với tình yêu, xác quyết và can đảm, với sự kính trọng tự do tôn giáo đích thực – là điều chính Giáo Hội cũng đòi hỏi – và kính trọng tự do của lương tâm người nghe. Hơn nữa, các phương thức đối thoại càng ngày càng trở nên cấp thiết: sự đối thoại không loại trừ việc loan báo nhưng đề nghị và cuối cùng đó cũng là một phương thế Tin Mừng hoá[33] .
7. Để đáp ứng những nhu cầu của việc truyền giáo cần phải được chuẩn bị nhờ việc đào tạo thiêng liêng sâu xa và một đời sống cầu nguyện đích thực, đặc biệt nhờ việc chuyên cần nghe lời Chúa, cách riêng là việc đọc Tin Mừng. Phương thức Lectio Divina, hay đọc Kinh Thánh trong cầu nguyện, là một trợ giúp hữu hiệu. Nói chung, người rao giảng phải được làm bừng lên bằng ngọn lửa mới được khơi mào và bừng cháy bằng việc tiếp xúc cá nhân với Thiên Chúa, bằng việc sống trong ân sủng, như chúng ta có nhận ra do Tin Mừng. Cùng với việc lắng nghe Lời Chúa, cần phải chuyên cần học hỏi và đào sâu kiến thức về Giáo lý Công giáo đích thực, như chúng ta tìm thấy trước hết trong cuốn Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo và nền thần học sâu xa. Tình huynh đệ linh mục cũng là một phần không thể thiếu trong linh đạo truyền giáo và giúp để thể hiện linh đạo này.
Trong lãnh vực của chức năng thánh hoá (munus sanctificandi)
1. Việc thi hành chức năng thánh hoá (munus sanctificandi) cũng được gắn liền với khả năng thông truyền và đưa ra ý nghĩa sống động của siêu nhiên và thánh thiêng, là điều hấp dẫn và đưa tới cảm nghiệm thực sự và đầy ý nghĩa về Thiên Chúa.
Việc công bố Lời Chúa là một phần của việc cử hành các bí tích, và các bí tích đòi hỏi đức tin của những người lãnh nhận. Điều này nói lên dấu hiệu đầu tiên của việc thừa tác vụ linh mục trong việc cử hành các bí tích, cách đặc biệt bí tích Thánh Thể, hàm chứa một chiều kích truyền giáo nội tại, được khai triển như việc loan báo Lời Chúa và nước Ngài cho những người được rao giảng Tin Mừng quá ít hay chưa được nghe bao giờ.
2. Cần phải nhấn mạnh rằng Thánh Thể là mục tiêu của sứ vụ truyền giáo. Nhà truyền giáo đi tìm những con người hay các dân tộc để mang họ đến bữa tiệc của Chúa, lời công bố cánh chung về bữa tiệc của đời sống vĩnh cửu với Chúa trên thiên quốc, sẽ là sự thành toàn việc cứu rỗi theo chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Một sự đón tiếp nồng hậu và huynh đệ dành cho những người đến với bí tích Thánh Thể lần đầu, cũng như những người trở lại với Thánh Thể nhờ gặp các nhà truyền giáo.
Bí tích Thánh Thể còn mang chiều kích sai đi truyền giáo. Mỗi thánh lễ kết thúc bằng việc sai cộng đoàn ra đi sống như những nhà truyền giáo trong xã hội. Bí tích Thánh Thể, là việc tưởng niệm lễ Vượt Qua của Chúa, tái hiện lại cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng vì tình yêu Thiên Chúa Cha và chúng ta, đã tự hiến mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta đến cùng. Hy tế của Chúa Kitô là hành động yêu thương cao vời nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Cộng đoàn Kitô hữu khi cử hành bí tích Thánh Thể và lãnh nhận cách xứng hợp Mình và Máu thánh Chúa Giêsu thì được hiệp nhất sâu xa với Chúa và được tràn đầy tình yêu vô bờ bến của Ngài. Mỗi lần như thế là mỗi lần lãnh nhận lại giới luật của Chúa Giêsu:” Hãy yêu nhau như Thầy yêu chúng con”, và cảm thấy Thần Khí của Chúa Giêsu thúc dục ra đi rao giảng Tin Mừng của tình yêu và niềm hi vọng của Chúa cho mọi tạo vật, trong niềm xác tín về lòng thương xót cứu rỗi của Ngài. Trong sắc lệnh Presbyterorum Ordinis của công đồng Vaticanô II có nói: “Bí Tích Thánh Thể là nguồn và chóp đỉnh của toàn bộ công cuộc truyền giảng Tin Mừng” (số 5). Vì lý do đó, đối với các linh mục việc chăm lo việc cử hành bí tích Thánh Thể hằng ngày là chủ yếu, ngay cả khi không thể có cộng đoàn tham dự.
3. Các bí tích khác cũng lãnh nhận sức mạnh thánh hoá từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, vì thế cũng rao truyền lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa. Việc cử hành các bí tích cách đẹp đẽ, trang nghiêm, và sốt sắng theo các quy tắc phụng vụ trở nên một cách Tin Mừng hoá hữu hiệu cho các tín hữu tham dự . Thiên Chúa là cái Đẹp, và vẻ đẹp của việc cử hành phụng vụ là một phương tiện để đến với Thiên Chúa trong mầu nhiệm của Ngài.
4. Chúng ta cần cầu xin Chúa để thức tỉnh ơn gọi truyền giáo của cộng đồng giáo hội, những mục tử cũng như mọi thành phần. Chúa Giêsu phán; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; hãy cầu xin Chúa sai thợ gặt đến thu hoạch mùa màng” (Mt 9,37-38). Cầu nguyện có hiệu lực mạnh mẽ trước mặt Chúa. Chúa Giêsu nói về hiệu lực này: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7); “những gì các ngươi cầu xin thì sẽ được, nếu các ngươi có lòng tin” (Mt 21,22); “Bất cứ điều gì các ngươi xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ ban cho, để Cha được vinh hiển nơi Con; nếu các ngươi xin gì nhân danh thầy, thầy sẽ ban cho” ( Gn 14,13-14).
5. Cũng cần lưu ý là Bí tích Hoà Giải, qua hình thức xưng tội cá nhân, có một chiều kích truyền giáo nội tại và sâu xa. Vì để cho việc truyền giáo được ủy thác cho ngài được sinh nhiều hoa trái và vì chính sự thánh hoá bản thân, linh mục được mời gọi cử hành bí tích này thường xuyên và trung thành, trước hết là cho chính bản thân, cùng lúc là một thừa tác viên trung thành và quảng đại.
6. Thừa tác vụ mục vụ của linh mục là để phục vụ sự hiệp nhất của toàn thể cộng đồng Kitô hữu…. Vì lý do đó, việc tái sinh của người Kitô hữu và việc chăm lo chiều kích cộng đồng của cảm nghiệm Kitô giáo là nhiệm vụ truyền giáo chính yếu của linh mục.
7. Sau cùng, Linh mục cũng cần phải hiểu biết đầy đủ về bản chất của cơn khát đang hành hạ con người thời nay, cho dù đôi lúc họ không ý thức: cơn khát Thiên Chúa, cơn khát một kinh nghiệm và giáo huấn mang lại sự cứu rỗi thực sự , việc loan báo chân lý về số phận chung cuộc của con người và cộng đoàn, cơn khát một Kitô giáo có thể thấm nhập vào mọi khía cạnh của cuộc sống và biến đổi nó từng ngày[34] . Đó là cơn khát mà chỉ Chúa Giêsu mới thoả mãn đến tận cùng, vì vậy luôn nhớ rằng: “đức ái mục vụ là nguyên tắc nội tại và năng động có khả năng hiệp nhất những hoạt động mục vụ đa dạng và khác biệt của linh mục”[35] .
Trong lãnh vực của chức năng cai trị (munus regendi).
1. Việc chuẩn bị và tổ chức hoạt động truyền giáo trong cộng đồng Giáo Hội là điều thiết yếu. Việc chuẩn bị tốt và tổ chức qui củ sẽ làm cho hoạt động hữu hiệu hơn. Đương nhiên là không bỏ qua vai trò tối thượng của ân sủng, nhưng cần phải nêu rõ. Chúa Thánh Thần là tác nhân đầu tiên của sứ vụ truyền giáo, vì thế cần cầu xin liên lỷ với hết lòng tin tưởng. Chính Ngài khơi dậy ngọn lửa mới, là sự nhiệt tâm truyền giáo cần thiết trong tâm hồn của cộng đoàn. Tuy vậy, sự tự do của con người cũng có vai trò. Các mục tử phải tìm kiếm những phương thế hiệu quả và thích hợp nhất để tổ chức công việc truyền giáo.
2. Cũng cần phải theo một phương pháp truyền giáo tốt. Tuy Giáo Hội có kinh nghiệm 2 thiên niên kỷ trong lãnh vực này, nhưng mỗi thời đại đều có những hoàn cảnh mới cần phải quan tâm để xúc tiến các hoạt động truyền giáo. Một số phương pháp đã đưọc khai triển và được chứng minh là hiệu quả trong khi thực hiện tại một số Giáo Hội địa phương. Hội đồng giám mục và các giáo phận cần đưa ra đường hướng chỉ đạo về vấn đề này.
3. Những người đầu tiên cần được quan tâm là những người nghèo, những người thường sống ở ngoại ô thành phố hay các vùng quê, vì Tin Mừng được ưu tiên rao giảng cho họ. Điều này có nghĩa là việc loan báo Tin Mừng phải đi đôi với những hoạt động hiệu quả và yêu thương để thăng tiến con người toàn diện. Phải rao giảng về Chúa Giêsu Kitô là Tin Mừng cho người nghèo, là người phải cảm thấy hân hoan và tràn đầy hi vọng nhờ sứ điệp này[36] .
4. Sẽ thích hợp hơn nếu công việc truyền giáo của giáo xứ hay giáo phận không chỉ giảm thiểu trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi. Vì tự bản tính của Giáo Hội là truyền giáo nên sứ vụ truyền giáo phải là khía cạnh thường xuyên của đời sống và hoạt động của Giáo Hội. Dĩ nhiên là có những thời điểm gia tăng cường độ hoạt đông, nhưng sứ vụ truyền giáo không bao gìờ đưọc xem là đã hoàn thành. Hơn thế, nỗ lực truyền giáo phải hoàn nhận vững chắc và rộng rãi vào trong chính cấu trúc và đời sống của Giáo Hội địa phương và các cộng đoàn của nó. .
Điều này có thể đưa đến một sự đổi mới đích thực và trở nên một sức mạnh để mang lại sinh lực và sự trẻ trung tươi mới cho Giáo hội hiện nay. Tinh thần truyền giáo của các linh mục luôn tiến triển, dù với chức vụ nào hay thâm niên bao lâu trong phục vụ. Họ được mời gọi thi hành sứ vụ truyền giáo cho tới cuối đời, vì truyền giáo được nối kết bất khả phân ly với thánh chức họ đã lãnh nhận.
3.4. Việc đào tạo về truyền giáo cho các linh mục
Mọi linh mục cần được đào tạo chuyên biệt và kỹ lưỡng về truyền giáo, vì Giáo hội muốn dấn thân, với nhiệt huyết mới và với sự khẩn thiết, vào sứ vụ truyền giáo cho muôn dân (ad gentes) và Tin Mừng hoá thừa sai (missionary evangelization) cho chính những người đã được rữa tội, đặc biệt với những người đã lìa xa đời sống và hoạt động của cộng đồng Giáo Hội. Việc đào tạo này phải bắt đầu từ trong chủng viện, trước hết qua việc linh hướng và nghiên cứu kỹ lưỡng và đào sâu về bí tích Truyền Chức Thánh, điều đó mang lại sức năng động truyền giáo nội tại trong chính bí tích này. .
Đối với các linh mục đã chịu chức, việc được nhận những huấn luyện về truyền giáo như là một phần không thể thiếu trong chương trình thường huấn là điều hữu ích và cần thiết. Một mặt ý thức về nhu cầu thúc bách của tinh thần truyền giáo; mặt khác là việc đào tạo chưa tương xứng về truyền giáo hay tu đức của chức linh mục. khiến các Giám Mục và các bề trên thượng cấp chọn mức độ thích ứng bằng việc sắp xếp một chương trình huấn luyện mới về sứ vụ truyền giáo và một nền tu đức truyền giáo sâu xa và thôi thúc nơi các linh mục. .
Cần phải nhấn mạnh rằng một trong những khía cạnh chính yếu của sứ vụ truyền giáo là nhận thức rõ về tính cách khẩn thiết của nó, bao gồm việc cần phải có những quan tâm đặc biệt về truyền giáo trong việc đào tạo các ứng viên cho chức linh mục thừa tác
Cho dù con số ơn gọi gia tăng trên thế giới nhưng vẫn còn rất thiếu. và cho dù tình trạng ở Tây Phương khiến phải quan tâm, nhưng việc đào tạo linh mục như thế mang tính quyết định cho tương lai của Giáo Hội: một linh mục với cá tính trong sáng, sở hữu một sự đào tạo vững vàng về nhân bản, trí thức, thiêng liêng và mục vụ, dễ làm phát sinh những ơn gọi mới, vì họ sống sự tận hiến của mình như là một sứ vụ truyền giáo. Hân hoan và tín thác vào tình yêu Thiên Chúa cho đời sống linh mục của mình, họ sẽ toả “hương thơm Chúa Kitô” và sống mọi khoảnh khắc của đời sống như là một cơ hội truyền giáo.
Dường như càng ngày càng cần thiết phải tạo nên một “vòng xoắn tiến” (virtuous circle) đi từ giai đoạn đào tạo trong chủng viện đến những năm đầu thi hành thừa tác vụ rồi đến thường huấn[37] . Các giai đọan đào tạo này phải được liên kết lẫn nhau và rất hài hoà, vì như thế các giáo sĩ có thể trở nên chính mình trọn vẹn hơn: là những viên ngọc quý giá không thể thay thế được mà Chúa Kitô trao tặng cho Giáo Hội và cho toàn thể nhân loại.
Kết luận
Nếu tinh thần truyền giáo là yếu tố kiến tạo trong căn tính Giáo Hội, chúng ta phải tạ ơn Chúa Đấng đã đổi mới, qua những Huấn Giáo mới đây của các Đức Thánh Cha, qua việc thấu hiểu rõ ràng trong toàn Giáo Hội, và cách đặc biệt trong hàng ngũ linh mục.
Nhu cầu cấp bách của các hoạt động truyền giáo trên thế giới rất lớn và cần sự đổi mới trong công việc mục vụ, với ý nghĩa là cộng đoàn Kitô hữu phải nhận thức mình trong “sứ vụ truyền giáo liên lỉ”, là sứ vụ cho muôn dân (ad gentes), hay cho Giáo hội đã được thiết lập, tức là đi tìm những người đã được rửa tội và có quyền được chúng ta Tin Mừng hoá.
Năng lực tốt nhất của Giáo Hội và các linh mục trong Giáo Hội là luôn dấn thân với việc rao truyền lời rao giảng Tin Mừng nguyên khởi (kerygma), là bản chất của sứ vụ truyền giáo mà Thiên Chúa đã ủy thác cho chúng ta. “Sự khẩn trương của việc truyền giáo” đang tiếp diễn này càng làm rõ căn tính của linh mục là người tìm kiếm, qua việc thực thi ba chức năng (tria munera), con đường chính yếu để thánh hoá bản thân, và qua đó sự hoàn thiện con người của mình.
Một sự dấn thân đích thực và năng động của mọi thành phần trong thân thể Giáo Hội (giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân) sẽ góp phần vào kinh nghiệm của sự hiệp nhất hữu hình là điều cốt yếu cho chứng từ Kitô giáo hiệu quả.
Để được như thế, căn tính truyền giáo của linh mục phải luôn hướng nhìn về Đức Trinh Nữ Maria đầy ơn phước, đã mang Chúa cho thế giới và là Đấng luôn thăm viếng con người mọi thời còn đang lữ hành trên dương thế, để tỏ cho họ thấy diện mạo của Giêsu thành Nazareth, là Chúa và là Đấng Kitô, để đưa họ vào sự hiệp thông muôn đời với Thiên Chúa.
Vatican ngày 29/6/2010
Lễ trọng kính hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô
Cláudio Hummes
Tổng Giám Mục Sao Paolo
Tổng trưởng Thánh bộ Giáo sĩ
(Chuyển ngữ: Ban biên tập “Bản Thông tin” Giáo phận Qui Nhơn)
Chú thích:
[1] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc lênh Ad Gentes (Đến với Muôn Dân) số 2; xem số 5-6 và 9-10; Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 8; 13; 17; 23; Sắc lệnh Christus Dominus (Chúa Kitô), số 6.
[2] Xem PHAO LÔ VI, Tông thư Evangelii Nuntiandi (8/12/1975), số 2; 4-5; 14; GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Redemptoris Missio (7/12/1990), số 1; Tông thư Novo Millennio Ineunte (6/01/2001), số 1; 40; 58.
[3] Đức Bênêđictô XVI, trong bài phát biểu với Hội Đồng Giám mục Đức nhân dịp Đại Hội Giới Trẻ (2005), ngài nói: “Chúng ta biết rằng chủ nghĩa thế tục và loại trừ Kitô giáo đang lan tràn, chủ nghĩa tương đối đang lớn mạnh và ảnh hưởng của nền đạo đức và luân lý Công giáo đang tiếp tục bị suy giãm. Nhiều người đã bỏ Giáo hội, hay nếu còn ở lại họ chỉ chấp nhận một phần của giáo huấn Cộng Giáo, họ lựa ra và chỉ chọn một vài lãnh vực nào đó của Kitô giáo. Tình trạng tôn giáo ở Đông Âu cũng đáng lo ngại. Chúng ta biết là ở đây đa số dân chúng chưa được rửa tội, họ không có liên hệ với Giáo Hội, và thường là chưa từng được nghe về Chúa Kitô hay về Giáo Hội. Chúng ta có thể nhận ra thực trạng này đang là những thách thức. Anh em thân mến, như anh em nói […] “Chúng ta trở nên mảnh đất cho việc truyền giáo […] Chúng ta nên đưa ra những suy tư nghiêm túc để làm thế nào đạt tới một cuộc phúc âm hoá thực sự hiện nay và trong thời đại này, không chỉ là tân phúc âm hoá, nhưng thường chính xác và thực sự là phúc âm hoá lần đầu tiên. Người không biết Chúa thì không biết Đức Kitô. Có một hình thức dân ngoại mới, và chỉ lo tìm cách để giữ đoàn chiên hiện có không thôi là không đủ, cho đó là điều rất quan trọng; nhưng vấn nạn quan trọng được đặt ra là: cuộc sống thực sự là gì? Tôi tin là chúng ta phải cùng nhau cố gắng tìm ra những cách thế mới để mang Tin Mừng đến cho thế giới hiện nay, để loan báo Chúa Kitô một lần nữa và gieo trồng đức tin” (Diễn văn tại Piussaal của chủng viện Cologne, 21/8/2005). Đức Bênêđictô, trong lần nói chuyện với Giáo sĩ Roma khi bắt đầu triều đại giáo hoàng của ngài, ngài đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo trong thành phố đang diễn tiến (Xem Diễn văn cho Giáo sĩ Roma [13/5/2005]). Trong chuyến tông du Brazile tháng Năm năm 2007, để khai mạc đại hội lần thứ Năm của các Hội Đồng Giáo Mục Nam Mỹ và vùng Caraïbes, với chủ đề “Môn đệ và các Thừa sai của Chúa Giêsu Kitô, để các dân tộc chúng ta có được sự sống trong Ngài”, Đức Thánh Cha đã khích lệ các giám mục Brazile tiến hành một “sứ vụ truyền giáo” thực sự cho những người dầu đã được rửa tội, nhưng vì những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, họ chưa được phúc âm hoá đầy đủ (xem Diễn văn cho Các Giám Mục Brazile tại Nhà Thờ Chính Toà da Se ở Sao Paolo ngày 11/5/2007)
[4] Những bản văn nói đến sứ vụ của Chúa Giêsu: Ga 3, 14; 4, 34; 5, 23-24.30.37; 6, 39.44.57; 7, 16.18.28; 8, 18.26.29.42; 9, 4; 11, 42; 14, 24; 17,3.18; 1 Ga 4,9,14.
[5] Xem Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, số 690.
[6] Xem GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn hậu Thượng hội Đồng Giám Mục Pastores dabo vobis (25 tháng 3 1992), số 22.
[7] Như trên, số 12: “Quy chiếu về Chúa Kitô là chìa khoá tuyệt đối cần thiết cho việc hiểu những thực tại về linh mục”
[8] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín Lý “Lumen Gentium”, số 28.
[9] Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1582.
[10] Xem BENEDICTO XVI, Bài giảng thánh lễ Làm Phép Dầu (9 tháng 4, 2009); GIOAN PHAOLÔ II, Pastores dabo vobis, số 12; 16.
[11] BENEDICTÔ XVI, Diễn văn nói với các tham dự viện Đại Hội bộ Giáo Sĩ (16 tháng Ba 2009). Dĩ nhiên là bí tích thánh thể làm cho mọi tín hữu trở nên ‘con người mới’. Vì vậy, bí tích Truyền Chức Thánh, một mặt xác định và thể hiện các linh mục cũng mang tính cách chung như tất cả những người đã được rửa tội khác, mặc khác tỏ cho thấy đâu là bản chất riêng của linh mục thừa tác, là liên hệ hoàn toàn với Chúa Kitô, là thủ lãnh và mục tử của Giáo Hội, để phục vụ tạo vật mới đưọc dìm vào giếng rữa tội: Thánh Augustinô nói: Cho anh em tôi là Giám Mục, với anh em tôi là Kitô hữu (Vobis enim sum episcopus, vobiscum sum christianus).
[12] Xem Công Đồng Vaticanô II. Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, 4-6. Về ba chức năng (tria munera) Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đề cập đến nhiều trong Tông huấn Pastores dabo vobis số 26.
[13] Như trên, số 32.
[14] Xem như trên, số 26; GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Redemptoris missio (7 tháng 12, 1990), số 67.
[15] Xem A. VANHOYE, Prêtres anciens, prêtre nouveau selon le Nouveau Testament, Paris 1980, 346.
[16] Pastores Dabo Vobis, số 12.
[17] Xem Công Đồng Chung Vat. II, Sắc lệnh Ad gentes,
[18] Như trên, Tuyên ngôn Nostra aetate, số 1; xem Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes, số 24, 29.
[19] Xem Gaudium et Spes, số 45.
[20] Xem Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Giám Mục Pastores gregis (16 tháng Mười 2003), 9: “Ba chức năng này thực tế được liên kết sâu xa với nhau, chúng giải thích, ảnh hưởng và làm minh bạch lẫn nhau. Vì lý do đó, khi Giám mục giảng dạy, ngài cũng thánh hoá và cai trị Dân Thiên Chúa; khi thánh hoá ngài cũng dạy dỗ và cai trị; khi cai trị, ngài dạy dỗ và thánh hoá. Thánh Augustinô định nghĩa toàn bộ thừa tác vụ giám mục của ngài như là chức vụ yêu thương “amoris officium”. Những gì được nói ở đây cho các giám mục cũng được áp dụng tương tự đối các linh mục, vớí sự phân biệt cần thiết (do chức vụ).
[21] Diễn từ tại Piussaal, chủng viện Cologne, ngày 21 tháng 8 năm 2005.
[22] Xem GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Ecclesia in America (Giáo Hội ở Mỹ Châu) (ngày 22 tháng Giêng năm 1999), số 12.
[23] Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, trong diễn từ chúc mừng Giáng Sinh cho Giáo Triều Roma ngày 21 tháng 12 năm 2007, nói: “Không bao giờ một người chỉ biết Chúa Kitô về mặt lý thuyết. Với sự uyên bác sâu xa người ta có thể biết mọi điều về Thánh Kinh mà chưa từng gặp gỡ Ngài. Cùng đồng hành với Ngài là phần cốt yếu để biết về Ngài, để đi vào cảm xúc của Ngài, như thư gửi tín hữu Philíp (2, 5) có nói. […] Gặp gỡ với Chúa Giêsu đòi hỏi việc lắng nghe, đòi hỏi một lời đáp trả trong cầu nguyện và trong việc đem ra thực hành những gì Ngài bảo. Nhờ biết Chúa Giêsu chúng ta nhận biết Thiên Chúa, và chỉ phát xuất từ Thiên Chúa chúng ta hiểu được về con người và về thế giới, một thế giới khác với chỉ còn là một vấn nạn vô nghĩa. Vì thế, trở nên môn đệ của Chúa Kitô là một hành trình giáo dục hướng về một hiện hữu đích thực, về một con người đích thực”.
[24] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICANÔ II, Hiến chế Tín Lý Lumen Gentium, số 9.
[25] Như trên, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 10.
[26] Xem như trên, Hiến chế Lumen Gentium , số 28; Sắc lệnh Ad Gentes, số 39; ĐGH PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8/12/1975), số 68; ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Redemtoris Missio (7/12/1990), số 67.
[27] Đức Thánh Cha Bênêđíctô thúc dục các giám mục Brazil “dấn thân vào các công việc tông đồ như là sứ vụ truyền giáo đích thực giữa đoàn chiên được Giáo hội Công Giáo tại Brazil thiết lập”, và ngài nói tiếp, “phải dùng mọi nổ lực để tìm kiếm những người Công giáo đã xa lìa và những người biết quá ít hay không biết gì cả về Chúa Kitô … Tóm lại, điều đòi hỏi là một sứ vụ Tin Mừng hoá có khả năng nắm bắt mọi sức sống hiện diện trong đoàn chiên đông đúc này. Suy nghĩ của tôi hướng về các linh mục, các tu sĩ nam nữ, và các giáo dân là những người đang hoạt động cách quảng đại và thường phải đối phó với vô vàn khó khăn, để rao truyền chân lý của Tin Mừng… Trong công cuộc Tin Mừng hoá này cộng đồng Giáo hội được nhận ra cách rỏ ràng nhờ những sáng kiến mục vụ, đặc biệt với việc gửi các nhà truyền giáo, giáo dân hay tu sĩ, đến những gia đình ở ngoại ô hay trong thành phố… Những người nghèo sống ở ngoại ô của những thành phố hay miền quê cần cảm thấy là Giáo Hội gần với họ, đáp ứng cho họ những nhu cầu khẩn thiết nhất, bảo vệ quyền lợi và cùng làm việc với họ để xây dựng một xã hội được xây dựng trên nền tảng công lý và hoà bình, Tin mừng được rao truyền cách đặc biệt cho người nghèo, và các giám mục, theo kiểu mẩu của người Mục Tử tốt lành, phải đặc biệt lưu tâm đến việc trao tặng cho họ sự an ủi thần thiêng của đức tin, mà không phải bỏ qua nhu cầu ‘bánh vật chất’ của họ. Như tôi đã mong ước trong Tông thư Deus Caritas Est, ‘Giáo hội không thể xao lãng trong các dịch vụ bác ái cũng như không thể xao lãng trong việc cử hành các bí tích và Lời Chúa (trích diễn từ cho các Giám Mục Brazil tại ‘Catedral da Se’, Sao Paolo, 11/5/2007).
[28] Xem Bộ Giáo Luật, điều 229, §1 và 757.
[29] Xem CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 14.
[30] Xem ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Redemptoris Missio, 7/12/1990, số 44.
[31] ĐTC, Tông huấn Sacramentum caritatis, số 84.
[32] Xem ĐTC BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Diễn từ cho các giám mục Brazil tại ‘Catedral da Se’ ở Sao Paolo, 11/5/2007, số 3.
[33] Xem BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên ngôn Dominus Jesus, 6/8/2000, số 4.
[34] Xem Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 35.
[35] Bộ GIÁO SĨ, Những hướng dẫn thừa tác vụ và đời sống các linh mục Tota Ecclesia, 31/1/1994, số 43.
[36] Xem ĐTC BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Tông thư Deus Caritas est, 25/12/2005, số 22; Diển từ cho các Giám Mục Brazil tại ‘Catedral del Se’ Sao Paolo, số 3.
[37] Xem ĐTC Gioan Phaolô II, Tông thư Redemptions Missio , số 83.
Tìm hiểu Lễ hội Halloween
Trầm Thiên Thu
09:48 19/10/2011
Lễ hội gây tranh luận: Hàng năm, người Công giáo và người ngoài Kitô giáo tranh luận: Lễ hội Halloween là ngày lễ ma quỷ (satanic holiday) hay chỉ là lễ thế tục? Trẻ em Công giáo có nên mặc đồ như ma quỷ? Lễ này có tốt khi trẻ em sợ hãi? Vấn đề là lịch sử lễ hội Halloween, thực sự lễ này có nguồn gốc Kitô giáo khoảng 1.300 năm.
Nguồn gốc Kitô giáo của kễ hội Halloween: Halloween nghĩa là “không có gì tự nó”, viết tắt từ cụm từ “All Hallows Eve” (nghĩa đen là “vọng các thánh”, tiếng Việt gọi là “ma lộ hình”), và nó chỉ định ngày trước Lễ Các Thánh (vigil of All Hallows Day). “Hallow” là danh từ trong cổ ngữ Anh, nghĩa là “thánh”. Là thành ngữ, nó có nghĩa là làm cho cái gì đó trở nên thánh hoặc tôn kính cái đó là thánh. Lễ Các Thánh vào ngày 1-11, ngày đền ơn đáp nghĩa (Holy Day of Obligation), cả ngày lễ vọng và ngày chính lễ đều được cử hành từ đầu thế kỷ VIII, khi 2 lễ này được ĐGH Grêgôriô III thiết lập ở Rôma. Một thế kỷ sau, ĐGH Grêgôriô IV mở rộng cho cả Giáo hội.
Nguồn gốc ngoại giáo của lễ hội Halloween: Mặc dù những năm qua người Công giáo và người ngoài Kitô giáo quan ngại về “nguồn gốc ngoại giáo” của lễ hội Halloween, thực ra không có gì. Các nỗ lực đầu tiên cho thấy có mối liên hệ giữa ngày trước Lễ Các Thánh, và lễ hội thu hoạch của người Celtic là lễ hội Samhain có sau 1.000 năm so với Lễ Các Thánh trở nên phổ biến hoàn vũ, không có chứng cớ về việc ĐGH Grêgôriô III hoặc ĐGH Grêgôriô IV biết lễ hội Samhain.
Tuy nhiên, theo văn hóa nông dân Celtic, các yếu tố của lễ hội thu hoạch còn lại, ngay cả trong những người Kitô giáo, như Cây Giáng Sinh (Cây Noel) có nguồn gốc từ truyền thống người Đức tiền Kitô giáo chứ không là nghi thức ngoại giáo.
Kết hợp ngoại giáo và Kitô giáo: Các yếu tố Celtic gồm đêm đốt lửa mừng (như lửa trại), chạm trổ củ cải đỏ (ở Mỹ dùng trái bí), đi từ nhà này sang nhà khác, nhận sự thết đãi – như trong đêm vọng Giáng sinh, người ta đi từ nhà này sang nhà khác để hát những bài hát giáng sinh và nhận sự thết đãi. Nhưng phương diện “huyền bí” của lễ hội Halloween – ma quỷ và yêu tinh – thực sự có nguồn gốc từ đức tin Công giáo. Người Công giáo tin rằng, vào thời điểm nào đó trong năm (Lễ Giáng Sinh là dịp khác), tấm màn ngăn cách thế gian với luyện hình, thiên đàng, và cả hỏa ngục, trở nên mỏng hơn, các linh hồn nơi luyện hình và ma quỷ có thể được nhìn thấy. Như vậy, trang phục truyền thống Halloween thuộc về niềm tin Kitô giáo cũng như truyền thống Celtic.
Người chống Kitô giáo tấn công lễ hội Halloween (lần 1): Sự tấn công hiện nay vào lễ hội Halloween không là lần đầu. Thời hậu Cải cách ở Anh quốc, Lễ Các Thánh và lễ vọng đều bị áp chế, và tục lệ nông dân Celtic kết hợp với lễ hội Halloween bị đặt ngoài vòng pháp luật. Lễ Giáng Sinh và các truyền thống xoay quanh lễ này bị tấn công, Quốc hội Thanh giáo (Puritan Parliament) cấm Lễ Giáng Sinh từ năm 1647. Tại Mỹ, các tín đồ Thanh giáo (Puritans) không mừng Lễ Giáng Sinh và lễ hội Halloween. Dân nhập cư Công giáo Đức khôi phục lễ Giáng Sinh và dân nhập cư Công giáo Ai-len khôi phục lễ hội Halloween hồi thế kỷ XIX.
Thương mại hóa lễ hội Halloween: Tiếp tục sự phản đối lễ hội Halloween là cách thể hiện của chủ nghĩa chống Công giáo (kể cả định kiến chống Ai-len). Nhưng đầu thế kỷ XX, Halloween (cũng như Lễ Giáng Sinh) đã bị thương mại hóa. Các lễ phục và các đồ trang trí làm sẵn, kể cả kẹo đặc biệt, đều có sẵn nhiều, và nguồn gốc Kitô giáo của lễ hội này bị áp chế. Có nhiều phim kinh dị, nhất là phim ác liệt hồi thập niên 1970 và 1980, làm cho lễ hội Halloween mang tiếng xấu, như những người thờ cúng ma quỷ đã tạo ra truyện thần thoại mà lễ hội Halloween là lễ hội của họ, sau đó người Kitô giáo cũng hợp tác.
Người chống Kitô giáo tấn công lễ hội Halloween (lần 2): Mọt sự phản ứng mới đối với lễ hội Halloween từ phía những người ngoài Kitô giáo bắt đầu từ thập niên 1980, một phần vì cho rằng lễ hội Halloween là “đêm của ma quỷ”, một phần vì truyền thuyết về chất độc và lưỡi dao lam trong kẹo Halloween, và một phần vì sự minh nhiên chống Công giáo. Jack Chick, một người theo trào lưu chính thống chống Công giáo dữ dội đã góp phần là những cuốn sách nhỏ khôi hài về Kinh thánh, làm thay đổi nhãn quan người ta. Cuối thập niên 1990, nhiều cha mẹ Công giáo, do không biết về nguồn gốc chống Công giáo đối với lễ hội Halloween, đã nghi ngờ lễ hội Halloween và thay đổi cách vui lễ hội này.
Thay thế các hoạt động của lễ hội Halloween: Mỉa mai thay, một trong những cách phổ biến nhất của người Kitô giáo vui lễ hội Halloween là “Lễ hội Thu hoạch”, nó trở nên phổ biến trong lễ hội Samhain của người Celtic hơn là trong Lễ Các Thánh của Công giáo. Không có gì sai với việc mừng lễ hội thu hoạch, nhưng không cần bỏ cách mừng lễ hội liên quan lịch phụng vụ Công giáo.
Một cách khác phổ biến trong người Công giáo là “Bữa Tiệc Lễ Các Thánh”, thường tổ chức vào ngày lễ hội Halloween và lễ phục (giống các thánh hơn giống ma quỷ), và kẹo nữa. Đó là nỗ lực Công giáo hóa một lễ hội vốn dĩ mang tính Kitô giáo rồi.
An toàn và sợ hãi: Các bậc cha mẹ quyết định con cái họ có thể tham gia an toàn trong các hoạt động của lễ hội Halloween hay không, trong thế giới ngày nay, có thể hiểu rằng nhiều người chọn sai. Một mối quan ngại thường thái quá là hậu quả của sự sợ hãi có thể ảnh hưởng trẻ em. Dĩ nhiên, một số trẻ em rất nhạy cảm, nhưng đa số đều thích được sợ và làm người khác sợ (dĩ nhiên, trong giới hạn – ví dụ, sợ ma mà ai cũng thích nghe truyện ma!). Lễ hội Halloween cung cấp một môi trường có cấu trúc về nỗi sợ. Chính nỗi sợ cũng có phương diện tích cực.
Quyết định: Cuối cùng, nếu bạn chọn cách cho con cái tham gia lễ hội Halloween, hãy nhấn mạnh nhu cầu an toàn thể lý (kể cả việc kiểm tra kẹo khi chúng về nhà), và giải thích về nguồn gốc lễ hội Halloween cho con cái biết. Trước khi cho con cái đi dự lễ hội này, hãy cùng nhau cầu nguyện với Tổng lãnh Thiên thần Micae, và nói rằng người Công giáo chúng ta tin có ma quỷ. Hãy giải thích mối liên quan minh nhiên của chiều tối trước Lễ Các Thánh và giải thích cách mừng lễ này, để chúng biết Lễ Các Thánh KHÔNG là “ngày buồn chán khi chúng ta phải tới nhà thờ trước khi ăn kẹo”.
Hãy khôi phục lễ hội Halloween cho Kitô giáo bằng cách trả lại nguồn gốc cho Giáo hội Công giáo!
(Chuyển ngữ từ Catholicism.about.com)
![]() |
![]() |
Nguồn gốc ngoại giáo của lễ hội Halloween: Mặc dù những năm qua người Công giáo và người ngoài Kitô giáo quan ngại về “nguồn gốc ngoại giáo” của lễ hội Halloween, thực ra không có gì. Các nỗ lực đầu tiên cho thấy có mối liên hệ giữa ngày trước Lễ Các Thánh, và lễ hội thu hoạch của người Celtic là lễ hội Samhain có sau 1.000 năm so với Lễ Các Thánh trở nên phổ biến hoàn vũ, không có chứng cớ về việc ĐGH Grêgôriô III hoặc ĐGH Grêgôriô IV biết lễ hội Samhain.
Tuy nhiên, theo văn hóa nông dân Celtic, các yếu tố của lễ hội thu hoạch còn lại, ngay cả trong những người Kitô giáo, như Cây Giáng Sinh (Cây Noel) có nguồn gốc từ truyền thống người Đức tiền Kitô giáo chứ không là nghi thức ngoại giáo.
Kết hợp ngoại giáo và Kitô giáo: Các yếu tố Celtic gồm đêm đốt lửa mừng (như lửa trại), chạm trổ củ cải đỏ (ở Mỹ dùng trái bí), đi từ nhà này sang nhà khác, nhận sự thết đãi – như trong đêm vọng Giáng sinh, người ta đi từ nhà này sang nhà khác để hát những bài hát giáng sinh và nhận sự thết đãi. Nhưng phương diện “huyền bí” của lễ hội Halloween – ma quỷ và yêu tinh – thực sự có nguồn gốc từ đức tin Công giáo. Người Công giáo tin rằng, vào thời điểm nào đó trong năm (Lễ Giáng Sinh là dịp khác), tấm màn ngăn cách thế gian với luyện hình, thiên đàng, và cả hỏa ngục, trở nên mỏng hơn, các linh hồn nơi luyện hình và ma quỷ có thể được nhìn thấy. Như vậy, trang phục truyền thống Halloween thuộc về niềm tin Kitô giáo cũng như truyền thống Celtic.
Người chống Kitô giáo tấn công lễ hội Halloween (lần 1): Sự tấn công hiện nay vào lễ hội Halloween không là lần đầu. Thời hậu Cải cách ở Anh quốc, Lễ Các Thánh và lễ vọng đều bị áp chế, và tục lệ nông dân Celtic kết hợp với lễ hội Halloween bị đặt ngoài vòng pháp luật. Lễ Giáng Sinh và các truyền thống xoay quanh lễ này bị tấn công, Quốc hội Thanh giáo (Puritan Parliament) cấm Lễ Giáng Sinh từ năm 1647. Tại Mỹ, các tín đồ Thanh giáo (Puritans) không mừng Lễ Giáng Sinh và lễ hội Halloween. Dân nhập cư Công giáo Đức khôi phục lễ Giáng Sinh và dân nhập cư Công giáo Ai-len khôi phục lễ hội Halloween hồi thế kỷ XIX.
Thương mại hóa lễ hội Halloween: Tiếp tục sự phản đối lễ hội Halloween là cách thể hiện của chủ nghĩa chống Công giáo (kể cả định kiến chống Ai-len). Nhưng đầu thế kỷ XX, Halloween (cũng như Lễ Giáng Sinh) đã bị thương mại hóa. Các lễ phục và các đồ trang trí làm sẵn, kể cả kẹo đặc biệt, đều có sẵn nhiều, và nguồn gốc Kitô giáo của lễ hội này bị áp chế. Có nhiều phim kinh dị, nhất là phim ác liệt hồi thập niên 1970 và 1980, làm cho lễ hội Halloween mang tiếng xấu, như những người thờ cúng ma quỷ đã tạo ra truyện thần thoại mà lễ hội Halloween là lễ hội của họ, sau đó người Kitô giáo cũng hợp tác.
Người chống Kitô giáo tấn công lễ hội Halloween (lần 2): Mọt sự phản ứng mới đối với lễ hội Halloween từ phía những người ngoài Kitô giáo bắt đầu từ thập niên 1980, một phần vì cho rằng lễ hội Halloween là “đêm của ma quỷ”, một phần vì truyền thuyết về chất độc và lưỡi dao lam trong kẹo Halloween, và một phần vì sự minh nhiên chống Công giáo. Jack Chick, một người theo trào lưu chính thống chống Công giáo dữ dội đã góp phần là những cuốn sách nhỏ khôi hài về Kinh thánh, làm thay đổi nhãn quan người ta. Cuối thập niên 1990, nhiều cha mẹ Công giáo, do không biết về nguồn gốc chống Công giáo đối với lễ hội Halloween, đã nghi ngờ lễ hội Halloween và thay đổi cách vui lễ hội này.
Thay thế các hoạt động của lễ hội Halloween: Mỉa mai thay, một trong những cách phổ biến nhất của người Kitô giáo vui lễ hội Halloween là “Lễ hội Thu hoạch”, nó trở nên phổ biến trong lễ hội Samhain của người Celtic hơn là trong Lễ Các Thánh của Công giáo. Không có gì sai với việc mừng lễ hội thu hoạch, nhưng không cần bỏ cách mừng lễ hội liên quan lịch phụng vụ Công giáo.
Một cách khác phổ biến trong người Công giáo là “Bữa Tiệc Lễ Các Thánh”, thường tổ chức vào ngày lễ hội Halloween và lễ phục (giống các thánh hơn giống ma quỷ), và kẹo nữa. Đó là nỗ lực Công giáo hóa một lễ hội vốn dĩ mang tính Kitô giáo rồi.
An toàn và sợ hãi: Các bậc cha mẹ quyết định con cái họ có thể tham gia an toàn trong các hoạt động của lễ hội Halloween hay không, trong thế giới ngày nay, có thể hiểu rằng nhiều người chọn sai. Một mối quan ngại thường thái quá là hậu quả của sự sợ hãi có thể ảnh hưởng trẻ em. Dĩ nhiên, một số trẻ em rất nhạy cảm, nhưng đa số đều thích được sợ và làm người khác sợ (dĩ nhiên, trong giới hạn – ví dụ, sợ ma mà ai cũng thích nghe truyện ma!). Lễ hội Halloween cung cấp một môi trường có cấu trúc về nỗi sợ. Chính nỗi sợ cũng có phương diện tích cực.
Quyết định: Cuối cùng, nếu bạn chọn cách cho con cái tham gia lễ hội Halloween, hãy nhấn mạnh nhu cầu an toàn thể lý (kể cả việc kiểm tra kẹo khi chúng về nhà), và giải thích về nguồn gốc lễ hội Halloween cho con cái biết. Trước khi cho con cái đi dự lễ hội này, hãy cùng nhau cầu nguyện với Tổng lãnh Thiên thần Micae, và nói rằng người Công giáo chúng ta tin có ma quỷ. Hãy giải thích mối liên quan minh nhiên của chiều tối trước Lễ Các Thánh và giải thích cách mừng lễ này, để chúng biết Lễ Các Thánh KHÔNG là “ngày buồn chán khi chúng ta phải tới nhà thờ trước khi ăn kẹo”.
Hãy khôi phục lễ hội Halloween cho Kitô giáo bằng cách trả lại nguồn gốc cho Giáo hội Công giáo!
(Chuyển ngữ từ Catholicism.about.com)
Văn Hóa
Những đàn ông cần suy nghĩ
Anne Ca Hát
11:02 19/10/2011
Những Điều Đàn Ông Cần Suy Nghĩ
Nhân ngày 20/10 ngày Phụ Nữ VN, tôi viết lên một vài nhận xét về đàn ông, để cùng các phụ nữ được hắt ra một tiếng thở dài cho nhẹ nhõm cõi lòng trong vài giây đồng hồ.
Nếu quý ông nào không rơi vào những trường hợp sau, thì xin cho tôi ngả nón, nghiêng mình.
Tính theo tỷ lệ, nếu phần trăm các điều sau đây mà tăng cao thì theo tôi nghĩ: “Đúng là ngày tận thế thật sự đã gần kề”.
- Đàn ông khi mới yêu, thì yêu vội, yêu vàng, yêu bất chấp, chẳng màng nhìn về tương lai, rào cản và trách nhiệm .
- Đàn ông khi làm chủ gia đình rồi thì bắt đầu đổ tính lười biếng, “chuyện nhà thì nhát chuyện chú bác thì siêng”, giao hết cho vợ quán xuyến, về đến nhà vợ có cằn nhằn thì gỉa câm, gỉa điếc, miễn là có ăn no ngủ kỹ thì … xem như đâu cũng vào đó.
- Đàn ông làm thì không làm, nhưng thích cướp công của vợ . Con ngoan, vợ đẹp, đi đâu cũng tự hào với thiên hạ. Mà chẳng bao giờ tự vấn lương tâm “Mình đã làm nên chuyện ấy khi nào?”
- Đàn ông ra đường thấy đàn bà “là lạ” là như mèo thấy mỡ, chẳng giữ cho tâm được bình lặng mà yên vui với gia đình.
- Đàn ông khi đã “có tình ý khác” thì hay gỉa bộ săn sóc gia đình.
- Đàn ông khi bị vợ nói “trúng tim đen” thì hay hùng hổ , to tiếng, vũ phu, thậm chí đập phá đồ đạc trong nhà … là … “đúng y chang!”
- Đàn ông được vợ thương hay bỏ tiền đãi đằng, thì quen tật chẳng bao giờ nghĩ phải trả lại cho vợ cho có tình cảm, và hợp với lẽ công bằng, mà luôn nghĩ vợ giàu hơn mình, nên có dư đồng nào là đem cho gái ăn rất là hào sảng mà không một chút ưu tư.
- Đàn ông hay khinh xuất khi nghĩ mình cao tay ấn hơn vợ, nên thường rơi vào tình trạng “ăn vụng quên chùi mép”.
- Đàn ông không thích thua bất cứ ai, dù là so với anh hàng xóm mình thua xa cái tình yêu vợ, yêu con của anh ta.
- Đàn ông chẳng bao giờ phục tài vợ mình hơn mình, mà luôn tìm cách chê bai vợ để che đậy mặc cảm thua kém của mình.
- Đàn ông càng tự ty thì càng làm nhiều điều sai trái, bỏ bê nhà cửa con cái, lang chạ, ngoại tình… cuối cùng “Bậu gieo tiếng dữ đặng rồi Bậu đi”.
- Đàn ông khi chuyện ngoại tình bị lộ thì làm căng với vợ “Tại bà tôi mới ra như thế này” Tất cả đổ lỗi cho vợ chứ không phải tự mình gây ra.
- Đàn ông khi vợ đưa đơn ly hôn vì chồng ngoại tình, thì cũng tỉnh bơ đồng ý ngay, dù trong lòng chưa biết tính ra sao?
- Đàn ông khi đã làm tan nát gia đình vì lối sống buông thả của mình, vẫn không hề nhận ngay ra được sự sai trái của mình mà sửa đổi.
- Đàn ông không hề hối tiếc thời gian và cơ hội, để mọi cái qua đi mà ngồi đó nhìn như con người vô cảm . Để mãi về sau cho nỗi ân hận càng chất cao hơn.
- Đàn ông khi hết đường đi, hết ai chấp chứa lại quay về nhà, mà lì ra nhận sự khinh bỉ của vợ con .
Vì chỉ còn cánh cửa ấy là không bao giờ khép lại với đàn ông.
Đàn ông cuối cùng chỉ là đứa con nít không hề biết việc gì mình đã làm. Lại có tính nhỏ mọn , ích kỷ, vô trách nhiệm, vô cảm, … . Hình như họ lớn lên bằng nước mắt và sự đau khổ của đàn bà .
Tại sao đàn ông phải sống như thế?
Tại sao đàn ông lại sống tồi như thế?
Có lẽ vì thế mà các nước văn mình họ nhận biết được điều đó sớm, họ làm nên bộ luật mà chẳng có mục nào bảo vệ cho đàn ông . Như ông bạn ở bên kia đại dương vẫn than thở: “Đàn ông ở đây chẳng được bằng như những con thú nuôi trong nhà”.
Ngày 20 tháng 10 là ngày Phụ Nữ Việt Nam , tôi ước mong toàn thế giới, nước nào cũng có bộ luật bảo vệ Đàn bà như các nước Phương Tây đã làm, để giảm bớt khổ đau và nước mắt cho những người đã có công rất lớn trong việc duy trì nòi giống, chăm sóc và bảo vệ loài người.
Sài Gòn, áp ngày Phụ Nữ Việt Nam 2011
KH (annecahat)
Nhân ngày 20/10 ngày Phụ Nữ VN, tôi viết lên một vài nhận xét về đàn ông, để cùng các phụ nữ được hắt ra một tiếng thở dài cho nhẹ nhõm cõi lòng trong vài giây đồng hồ.
Nếu quý ông nào không rơi vào những trường hợp sau, thì xin cho tôi ngả nón, nghiêng mình.
Tính theo tỷ lệ, nếu phần trăm các điều sau đây mà tăng cao thì theo tôi nghĩ: “Đúng là ngày tận thế thật sự đã gần kề”.
- Đàn ông khi mới yêu, thì yêu vội, yêu vàng, yêu bất chấp, chẳng màng nhìn về tương lai, rào cản và trách nhiệm .
- Đàn ông khi làm chủ gia đình rồi thì bắt đầu đổ tính lười biếng, “chuyện nhà thì nhát chuyện chú bác thì siêng”, giao hết cho vợ quán xuyến, về đến nhà vợ có cằn nhằn thì gỉa câm, gỉa điếc, miễn là có ăn no ngủ kỹ thì … xem như đâu cũng vào đó.
- Đàn ông làm thì không làm, nhưng thích cướp công của vợ . Con ngoan, vợ đẹp, đi đâu cũng tự hào với thiên hạ. Mà chẳng bao giờ tự vấn lương tâm “Mình đã làm nên chuyện ấy khi nào?”
- Đàn ông ra đường thấy đàn bà “là lạ” là như mèo thấy mỡ, chẳng giữ cho tâm được bình lặng mà yên vui với gia đình.
- Đàn ông khi đã “có tình ý khác” thì hay gỉa bộ săn sóc gia đình.
- Đàn ông khi bị vợ nói “trúng tim đen” thì hay hùng hổ , to tiếng, vũ phu, thậm chí đập phá đồ đạc trong nhà … là … “đúng y chang!”
- Đàn ông được vợ thương hay bỏ tiền đãi đằng, thì quen tật chẳng bao giờ nghĩ phải trả lại cho vợ cho có tình cảm, và hợp với lẽ công bằng, mà luôn nghĩ vợ giàu hơn mình, nên có dư đồng nào là đem cho gái ăn rất là hào sảng mà không một chút ưu tư.
- Đàn ông hay khinh xuất khi nghĩ mình cao tay ấn hơn vợ, nên thường rơi vào tình trạng “ăn vụng quên chùi mép”.
- Đàn ông không thích thua bất cứ ai, dù là so với anh hàng xóm mình thua xa cái tình yêu vợ, yêu con của anh ta.
- Đàn ông chẳng bao giờ phục tài vợ mình hơn mình, mà luôn tìm cách chê bai vợ để che đậy mặc cảm thua kém của mình.
- Đàn ông càng tự ty thì càng làm nhiều điều sai trái, bỏ bê nhà cửa con cái, lang chạ, ngoại tình… cuối cùng “Bậu gieo tiếng dữ đặng rồi Bậu đi”.
- Đàn ông khi chuyện ngoại tình bị lộ thì làm căng với vợ “Tại bà tôi mới ra như thế này” Tất cả đổ lỗi cho vợ chứ không phải tự mình gây ra.
- Đàn ông khi vợ đưa đơn ly hôn vì chồng ngoại tình, thì cũng tỉnh bơ đồng ý ngay, dù trong lòng chưa biết tính ra sao?
- Đàn ông khi đã làm tan nát gia đình vì lối sống buông thả của mình, vẫn không hề nhận ngay ra được sự sai trái của mình mà sửa đổi.
- Đàn ông không hề hối tiếc thời gian và cơ hội, để mọi cái qua đi mà ngồi đó nhìn như con người vô cảm . Để mãi về sau cho nỗi ân hận càng chất cao hơn.
- Đàn ông khi hết đường đi, hết ai chấp chứa lại quay về nhà, mà lì ra nhận sự khinh bỉ của vợ con .
Vì chỉ còn cánh cửa ấy là không bao giờ khép lại với đàn ông.
Đàn ông cuối cùng chỉ là đứa con nít không hề biết việc gì mình đã làm. Lại có tính nhỏ mọn , ích kỷ, vô trách nhiệm, vô cảm, … . Hình như họ lớn lên bằng nước mắt và sự đau khổ của đàn bà .
Tại sao đàn ông phải sống như thế?
Tại sao đàn ông lại sống tồi như thế?
Có lẽ vì thế mà các nước văn mình họ nhận biết được điều đó sớm, họ làm nên bộ luật mà chẳng có mục nào bảo vệ cho đàn ông . Như ông bạn ở bên kia đại dương vẫn than thở: “Đàn ông ở đây chẳng được bằng như những con thú nuôi trong nhà”.
Ngày 20 tháng 10 là ngày Phụ Nữ Việt Nam , tôi ước mong toàn thế giới, nước nào cũng có bộ luật bảo vệ Đàn bà như các nước Phương Tây đã làm, để giảm bớt khổ đau và nước mắt cho những người đã có công rất lớn trong việc duy trì nòi giống, chăm sóc và bảo vệ loài người.
Sài Gòn, áp ngày Phụ Nữ Việt Nam 2011
KH (annecahat)
Lá Thư Canada: Anh Em Một Nhà
Trà Lũ
13:32 19/10/2011
Lễ Lao Động ở Canada là ngày Thứ Hai đầu tiên trong tháng Chín, khác hẳn với VN và nhiều quốc gia Âu Châu là ngày đầu tháng Năm. Dân Canada mừng lễ này vui vẻ vì được nghỉ thêm một ngày sau chủ nhật. Ai cũng nhớ ngày lễ này vì hôm sau bao giờ cũng là ngày tựu trường , ngày khai giảng một năm học mới. Từ em bé tí xíu theo cha mẹ đi vườn trẻ đến anh chị sinh viên to đùng vai đeo nặng một bị sách tới trường, tất cả đều nói nói cười cười, vui vẻ líu lo như một bầy chim. Tôi gốc nhà giáo nên xưa nay tôi thích ngày khai trường lắm. Nó đầy ắp những kỷ niệm thân thương. Nhìn các em học sinh đôi mắt ngây thơ trong trắng, bao giờ tôi cũng nghĩ đây là các thiên thần bé nhỏ. Ban chiều lúc tan học, nghe các em bàn cãi chuyện học bài và làm bài, tôi thấy các em đúng là đang chuẩn bị vào đời, các em chính là tương lai của đất nước thân yêu này.
Các em thật là có phước mà các em đâu có hay. Các em đang đuợc hấp thụ một nền giáo dục tối hảo so với toàn cầu. Theo thống kê quốc tế vừa được công bố, trong 300 trường đại học nổi tiếng trên thế giới, Canada có 14 trường trong danh sách vàng này, McGill University ở Quebec đứng thứ 17,và Toronto University ở Ontario đứng thứ 23… Và trong số hàng hàng lớp lớp các bạn trẻ đang đi học này có rất nhiều em Việt nam. Nhiều em đã và đang là những ngôi sao sáng chói trong trường. Xin tạ ơn Trời Phật, xin tạ ơn Tổ Tiên Việt Nam. Chẳng cần phải dẫn chứng đâu xa, báo chí tuần qua vừa cho biết ông Charles Nguyễn Chi, mới 45 tuổi, đã được mời làm viện trưởng danh dự của Đại học Carleton ngay tại thủ đô Ottawa. Ông Chi là thuyền nhân tỵ nạn, tới Canada năm xưa khi còn nhỏ xíu. Những viện trưởng trước Ông Chi là những nhân vật nổi tiếng quốc tế như cựu Thủ tướng Lester Pearson, như quan Toàn Quyền Ray Inatyshyn. Ông Chi sở dĩ học giỏi và đạt tới tuyệt đỉnh danh vọng như vậy, theo tôi nghĩ, là vì ông có hạt giống VN trong người. Các cụ nhớ bảo con cháu đang cắp sách đến trường như vậy nha.
Nhân nói tới việc xếp hạng, xin khoe luôn các cụ tin vui này, là theo Tạp chí uy tín quốc tế The Economist, Canada cũng vừa có 3 thành phố được xếp rất cao trong 140 thành phố đáng sống nhất trần gian. Theo danh sách này, 5 thành phố đứng đầu là :Melbourne của Úc, Vienna của Áo, rồi Vancouver của Canada, Toronto của Canada và Calgary của Canada. Ủy ban chấm điểm đã căn cứ vào các yếu tố môi sinh, xã hội, y tế, giáo dục, tự do dân chủ.
Các cụ phương xa đã du lịch Úc Đại lợi, và Vienna ở Âu Châu mà chưa đến viếng 3 thành phố trên đây của Canada là một thiếu sót lớn lắm đó. Xin kính mời. Tại ba thành phố nổi tiếng này có rất đông đồng bào VN. Cụ nhớ phở, nhớ bún chả Hà Nội, nhớ Bún bò Huê ư? Ba nơi này có nhiều nhà hàng phe ta lắm. Cụ cứ xuống phố là ngửi thấy mùi nước mắm, mùi rau giấp cá, mùi kinh giới tía tô liền à.
Đang nói tới ăn uống, xin trình các cụ tin này : Canada không những là quốc gia tôn trọng mạng sống con người, mà còn tôn trọng mạng sống con vật nữa. Tháng trước báo chí loan tin một ông VN họ Nguyễn đã bị 5 ngày tù vì dám đánh mấy con sóc phá vườn rau của ông. Hàng xóm thấy ông vác gậy đánh con sóc, họ liền kêu 911. Cảnh sát tới bắt ông liền. Đấy là chuyện tháng trước, còn tuần vừa qua, mấy ông nghị viên thành phố Mississauga đang trình bày dự luật cấm bán ‘vây/vi cá mập’. Họ nhắm vào mấy nhà hàng Tàu đây. Món xúp vây cá mập là một món ăn trân qúy, tiệc nào mà chẳng có. Mấy ông nghị lập luận rằng, cái vây ở trên lưng và bụng cá mập là bộ máy định hướng của con cá. Bây giờ cắt vây thì con cá sẽ chết. Xưa nay ngư phủ đánh bắt cá mập chỉ cốt cắt bộ vây mà thôi, cắt xong thì họ vất cá xuống biển. Con cá chết liền. Các quan nghị viên lập luận rằng cắt vây như vậy là một hành động dã mãn đối với con cá, và cũng là một hành động làm hại môi sinh. Xưa nay cá mập là loài thu dọn và làm sạch đáy biển. Nay giết cá mập thì ai sẽ thu dọn đáy biển ?
Chưa biết việc cấm nhập cảng vây cá mập sẽ đi đến đâu. Viết đến đây thì tôi nhớ tới chuyện con cá chép Á châu. Các cụ còn nhớ chuyện này chứ. Rằng ít lâu nay, ở khu vực Ngũ Đại Hồ xuất hiện những chú cá chép to tướng. Bên Á Châu con cá này nặng tới 2 kí lô là cùng, nhưng từ khi sang tới miền biển này, các chú cá chép hóa ra to lớn lạ thường, đang từ 2 kí nay bỗng nhảy vọt lên 20 kí, có con nặng tới 40 kí. Vì gặp môi trường qúa tốt, chúng lớn như thổi. Kẹt một cái là chúng phá hoại môi sinh và tàn sát các loài cá khác.
Đó là chuyện con cá chép Á Châu, Asian carp. Bây giờ Canada lại còn phải đương đầu với con bọ Á Châu, Asian longhorned beetle. Theo các nhà côn trùng học thì kề từ thập niên 1990, không biết từ đâu loại bọ sừng cứng này từ Á Châu xuất hiện ở Canada và đang bắt đầu tàn phá cây cối. Ban đầu thì chúng gậm nhấm cây cối trong thành phố, nay thì chúng bắt đầu lan vào rừng. Đặc biệt chúng thích gậm nhấm cây phong nhất. Các cụ phương xa chắc biết cây phong là biều tương Canada chứ, hình lá phong ở giữa quốc kỳ Canada mà. Cuối mùa thu, lá cây phong đang màu xanh biến sang màu vàng rồi mầu đỏ, đẹp hết sức vậy đó. Các cụ thử tưởng tượng một rừng phong, lá xanh lá vàng lá đỏ chen nhau, đẹp biết chừng nào. Hàng năm du khách phương xa thường đến đây ngắm rừng phong Canada. Sở dĩ lá phong biến ra các màu đẹp như vậy là vì nhựa cây phong ở Canada có vị ngọt. Dân Canada hứng nhựa phong rồi chế biến ra các loại đường và các loại syrup. Maple Syrup ở Canada ngon có tiếng, vừa thơm ngon vừa tinh khiết. Các cụ du lịch Canada muốn mua cái gì đặc biệt Canada để làm kỷ niệm hay làm qùa, xin mua Maple Syrup nha. Tôi lạc đề mất rồi. Tôi đang nói về loại con bọ Á Châu tàn phá rừng phong Canada cơ mà. Người ta giải thích sở dĩ loại bọ Á Châu này phá hoại rừng phong là vì nhựa cây phong thơm ngon qúa, bên Á Châu khô cằn không hề có loại chất bổ dưỡng như vậy. Rừng phong đẹp như thế mà đang bị con bọ Á Châu tàn phá, nghĩ có tức không ?
Cụ Chánh tiên chỉ làng nghe tôi bàn như vậy thì gật gù đồng ý ngay. Cụ bảo nói gì đâu xa, cụ có một đàn cháu nội ngoại, khi còn ở VN thì chúng gầy còm, thấp bé và học dốt, từ ngày sang tới Canada, ăn cơm Canada, hít thở không khí Canada, chúng lớn hẳn lên, béo tốt hẳn ra, và học hành giỏi xuất chúng. Mà chẳng riêng gì nhà lão, các gia đình bạn bè cũng y chang như vậy. Lão quen một ông khi xưa làm nghề đánh cá ở Phước Tỉnh, Vũng Tàu, từ ngày định cư ở Canada, gia đình ông phát lên bất ngờ. Ba con làm bác sĩ, một con làm kỹ sư, một con làm luật sư. Qủa thật đất Canada là đất thiên đàng. Ở xứ này mà không tăng trưởng khoẻ mạnh và học hành không tiến bộ là do lỗi mình lười biếng mà thôi.
Chúng tôi đang đứng ngoài vườn bàn chuyện hạt giống Việt Nam gặp đất tốt Canada đã nảy nở xum xuê như con cá chép, như con cá mập, như con cái ông đánh cá Phước Tỉnh, thì Chị ba Biên Hòa mời vào nhà ăn phở. Nhà đây là nhà cụ Chánh. Chị Ba là người say mê nấu ăn, nên cứ mỗi lần họp làng là chị tình nguyện đến sớm, vừa để giúp chủ nhân vừa để học thêm việc bếp lửa. Chị gốc người Nam nên chỉ rành món bánh canh giò heo, chứ không rành về phở. Bữa nay cụ Chanh nấu phở bò. Chị khoe chị đã học được bí quyết nấu phở ngon của Cụ Chánh. Cái khó nhất là hương và vị. Nay thì chị biết cách. Anh John chồng chị nói khích : Em có giỏi thì em nói cho cả làng nghe coi. Chị bảo khó gì chuyện này. Tôi xin trình ra đây hết với dân làng mà tôi hằng coi như anh em ruột thịt, tôi sẽ không giữ điều gì bí mật cho riêng mình. Xưa thì tôi không biết làm sao cho ra mùi vị phở, nay thì Cụ Chánh đã chỉ. Phở ngon là do nước dùng. Nấu nồi nước phở khá công phu. Bữa nay tôi giúp nấu phở bò. Phở bò mới là phở, phở gà là phở tầm bậy, đúng như Cụ Nguyễn Tuân đã dạy. Bước đầu tiên là phải rửa xương bò cho kỹ. Cho xương vào nồi đổ ngập nước, đun sôi 5 phút rồi đổ ra rửa xương cho sạch, rửa cả nồi nữa. Rồi mới chính thức nấu . Lấy một tờ giấy bạc gói một củ hành tây đã bổ ra làm tám, mấy miếng gừng, mấy cánh hồi, mấy hạt tiêu sọ, gói lại, để lên bếp lửa liu riu 5 phút, xong rồi cho tất cả vào một cái túi vải thưa, rồi để cái túi này xuống đáy nồi xương, rồi hầm chừng 3 giờ. Rồi tra thêm nước mắm và đường phèn. Cho lửa riu riu thêm 3 tiếng nữa là xong.
Bữa phở hôm nay ngon thật là ngon, phở rất Bắc Kỳ. Ông ODP, một người có uy tín về ăn uống đã đọc các lệnh truyền như sau : Phở phải ăn nóng và ăn ngay. Không được nói chuyện trong khi ăn phở. Không được nhìn ngang nhìn ngửa, mắt phải nhìn vào nước phở, bánh phở, miếng thịt, ngọn rau húng. Mũi phải hít hà cho trọn vẹn cái hương thơm ngào ngạt đang bay lên. Không được uống rượu uống bia hay nước ngọt khi ăn phở , các thứ này phải uống về sau. Không được cho tương đen tương đỏ vào tô phở vì như vậy là bạn làm hư hết bát phở. Ăn phở là phải húp chứ không dùng muỗng dùng thìa. Húp phở bạn sẽ thấy trọn vẹn mùi phở nóng bay thẳng vào mũi, từ mũi nó chạy thẳng lên đầu.
Chị Ba lên tiếng : Ui chao, ăn phở cũng phải có luật lệ như vậy sao? Ông ODP trả lời : Không phải là luật lệ mà là một nghệ thuật. Một tô phở được nấu nướng công phu như vậy, bát phở được trình bày đẹp mắt như vậy mà bây giờ bạn cho tương đen tương đỏ và vắt chanh vào rồi quấy ngậu lên, tô phở đẹp như bài thơ bây giờ đã hóa ra một tô tả pí lù nước đen ngầu. Mùi vị phở đã bay đi hết, bây giờ phở có mùi Tàu Chợ Lớn! Than ôi!
Vì muốn dân làng ăn đúng tô phở Bắc Kỳ truyền thống nên hôm nay trên bàn ăn cụ Chánh không bày giá sống, không có chai tương đen tương đỏ, không có chai bia, không có chai coca cola. Ăn phở xong dân làng được mời uống cà phê và uống trà. Tráng miệng là bánh đậu xanh kiểu Bảo Hiên Rồng Vàng ngày xưa bán ở đường Hiền Vương Saigon. Chịu và phục cụ Chánh qúa. Đúng là ăn phở Bắc Kỳ phải theo phép Bắc Kỳ.
Trong phần uống trà, chúng tôi đã bàn sang món Huế. Ai cũng nghĩ rằng hai cô Huế Tôn Nữ và Cao Xuân sẽ nói rõ về các món Huế, nhưng không phải. Diễn giả chính là ông ODP. Sợ cái ông này quá. Nghe ông nói đến đâu hai cô gật đầu đến đó, không cãi được chỗ nào. Anh H.O. nói nhỏ vào tai tôi : Ngày xưa ông ta đóng quân rất lâu ngoài Huế, xém lấy vợ Huế đấy. Ông kể : Thuở đó tôi trọ ở đường Gia Hội, con phố không lớn nhưng là nơi bán những món ngon nhất Huế, như bún bò Mụ Rớt, bánh bèo nậm lọc Mụ Đỏ, bánh khoái Mụ Tư Điện, cơm hến Mụ Sỏ, bánh canh Nam Phổ…Đó là những món bán ngoài phố. Trong nhà thì bà chủ ưa cho ăn mấy món cũng rất Huế như bún thịt nướng, chả giò mà người Huế gọi là ram Huế, bánh cuốn… Những món này ăn với nước mắm tỏi ớt và cà cuống. Chao ơi giọt cà cuống nó làm tăng độ ngon lên cực kỳ.
Chị Ba xin ngắt lời. Chị bảo cà cuống là món Bắc Kỳ, làm sao ở Huế lại có món cà cuống. Ông ODP bác ngay cái ý kiến đó. Ông bảo ngày xưa ông cũng nghĩ như vậy, nhưng đến khi sống ở Huế, mắt nhìn thấy người ta đi bắt cà cuống vào buổi tối sau cơn mưa thì ông mới tin là Huế có cà cuống. Chao ơi những con cà cuống từ dưới bờ sông tăm tối bay vọt lên tìm ánh sáng le lói trên cầu, chúng bám vào thành cầu, trụ cầu và cột đèn, nhiều vô số kể. Dân bắt chuyên nghiệp thì bỏ cà cuống vào bao bố, đem về nhà thì mới lọc ra lấy những con đực. Nói đến đây rồi ông cười hà hà, các bạn nhớ kỹ nha, chỉ có con cà cuống đực mới có tinh dầu, mới là giống quý mà thôi. Túi chứa tinh dầu của nó nằm ở giữa ức và bụng…
Nghe ông ODP tả món Huế xong thì dân làng đều biểu quyết tháng sau sẽ ăn món Huế. Hai mệ Huế liền chỉ tay vào ông ODP Bắc Kỳ: Đây là đầu bếp nấu món Huế. Nếu tháng tới mà làng tôi nhậu món Huế thì tôi sẽ trình các cụ sau nha.
Bây giờ nhân mùa khai trường, xin trình các cụ một tin liên quan tới nhà trường. Không phải tin giảng bài hay học bài mà là tin đọc kinh. Đây là một vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm đang gây xôn xao chấn động. Đó là nhà trường Valley Park Miđle School ở Toronto cho phép 400 học sinh Hồi Giáo đưọc xử dụng hội trường vào các chiều thứ Sáu để cầu nguyện. Khi nhóm này tụ họp quỳ xuống cầu kinh thì các nhóm khác phải đi chỗ khác. Hiện nay các học sinh thuộc tôn giáo Do Thái, Tin lành, Hindu và Công Giáo đang phản đối chuyện này. Cho nhóm này mà không cho nhóm kia, lôi thôi đây, các cụ ơi. Hình như sắp có biểu tình. Nghe nói bên Pháp cũng có nan đề này thì phải. Cô Cao Xuân lên tiếng : Xưa nay tôn giáo luôn đem lại hòa bình, bây giờ tôn giáo đem lại chiến tranh sao?
Thôi, không nói chuyện tôn giáo nữa kẻo các cụ nhức đầu. Xin được trở lại chuyện con cá. Thành phố Toronto của tôi đang có dự án xây một aquarium vĩ đại để lôi cuốn du khách. Tôi không biết phải dịch chữ aquarium này thế nào, aquarium mà Toronto muốn xây không phải là cái bể cá hay hồ cá, mà là một tòa nhà kính vĩ đại nhất Bắc Mỹ để nuôi và trưng bày các loại cá. Nhà thủy tinh này sẽ chứa 7 triệu lít nước, trưng bày ít nhất 13.000 con cá các loại, từ con cá mập khổng lồ tới con cá kiểng bé li ti. Kinh phí 130 triệu đồng. Sẽ hoàn tất năm 2013. Hiện nay Toronto nổi tiếng với tháp CN Tower cao nhất thế giới. Nay hồ cá này cũng sẽ to nhất thế giới. Theo dự phóng, nó sẽ thu hút ít nhất 2 triệu du khách hàng năm.
Anh John giữ phần tin thời sự xin kết thúc bằng hai tin này ; Thứ nhất là thành phố Halifax miền đông mới kỷ niệm 10 năm ngày kinh hoàng 11/9, rất trọng thể. Tại sao lại trọng thể? Thưa tại vì phi trường Stanfield ở tỉng bang Halifax cách đây 10 năm đã đón tiếp rất nhiều chuyến bay phải chuyển hướng từ Hoa Kỳ lên đây tránh nạn và hơn 7.000 du khách không nơi cư trú đã được dân chúng Halifax rước về nhà cho ăn ở. Các du khách vẫn nhớ mãi ơn này. Dịp này, Tổng lãnh sự Hoa Kỳ đã trao tặng ông thị trưởng Halifax một bảng Hoa Kỳ ghi ơn . Halifax nằm phía bên trên Boston của Hoa Kỳ. Tin thứ hai là tin tuy đã cũ nhưng vẫn còn rung chuyển và nhiều âm vang. Đó là cuối tháng Tám vừa qua một số phụ nữ đã cởi trần nhong nhong ngoài phố để phản đối nhà chức trách Toronto đã không cho họ tổ chức biểu tình đòi quyền cởi trần như đàn ông. Họ bảo tại sao đàn ông cởi trần dạo phố thì được mà đàn bà chúng tôi cởi trần dạo phố lại bị cấm ? Chính quyền kỳ thị nam nữ rõ ràng. Họ đã kêu gọi phụ nữ Toronto hãy chuẩn bị dự ngày cởi trần, National GoTopless Day, nhưng chính quyền không cho. Chính quyền bảo các chị muốn cởi trần thì xin ra bãi biển dành riêng, ở đó các chị tự do hoàn toàn, các chị có quyền cởi cả trên cả dưới.
Rồi anh H.O. thêm phần tin tức cộng đồng VN. Anh bảo tin biểu tình chống Trung Cộng mấy tuần qua thì ai cũng biết rồi. Phe ta ở Toronto, ở Montreal, ở Vancouver xuống phố với cờ vàng rợp đường. Anh chỉ muốn góp ý với các ban tổ chức biểu tình chống Trung Cộng. Mình đến chửi nó thì phải nói cho nó hiểu, nếu các biểu ngữ và các khẩu hiệu chỉ viết bằng tiếng Việt thì nó đâu có hiểu , vậy xin viết nhiều tiếng Anh và nhất là tiếng Tàu. Cậy người biết tiếng Tàu chửi bằng tiếng Tàu cho nó sợ nha. Nói đến đây rồi anh H.O. cười hề hề : Tuần qua, sau khi đi biểu tình, bọn này kéo nhau đi ăn phở. Trong khi ăn, một vị xồn xồn kể câu chuyện chửi Tàu hay không chịu được. Chuyện như sau : Có một anh chàng thấy khẩu súng của mình tự nhiên mỗi ngày mỗi xanh lè. Xưa nay nó có màu như thế bao giờ. Anh bèn đi bác sĩ. Bác sĩ khám xong liền bảo : Con chim của anh bị nhiễm trùng nặng, phải cắt bỏ. Nghe thấy việc phải cắt con chim thì anh sợ qúa, bèn hỏi liệu có cách nào khác không. Bác sĩ nghiêm mặt trả lời : Hoặc cắt hoặc anh chết, không còn giải pháp nào khác. Anh ta hỏi tiếp : nếu cắt thì tôi đi đái làm sao? Bác sĩ bảo sẽ đặt cho anh một ống nylon. Làm xong, tuần sau anh ta trở lại bác sĩ bá cáo : bác sĩ ơi, cái ống nylon bây giờ cũng nhiễm trùng cũng chuyển sang mầu xanh y như con chim lúc trước. Bác sĩ khám ống nylon xong bèn phán : tại cái quần ‘made in China’ của anh làm cho cái ống ra màu xanh. Nghe xong, anh ta hét lên : Tổ cha cái thằng Tàu! Chúng mày hại ông!
Phe liền ông chúng tôi nghe xong thì lăn ra cười, phe các bà thì chỉ cười khúc khích. Chị Ba Biên Hòa không muốn bàn chuyện cái quần made in China. Chị trở về chuyện mấy cô đòi cởi trần dạo phố. Chị phát biểu : Cho tự do hoàn toàn thì loạn to. Các bác cứ tưởng tượng mà coi, mùa hè, thành phố Toronto đẹp như vậy mà bỗng dưng liền bà con gái nhong nhong phơi ngực ngoài đường, ai chịu cho thấu. Tại nạn xe hơi sẽ tăng lên gấp bội. Anh đang lái xe mà thấy một chị cởi trần thì liệu anh còn cầm trí lái xe nữa không?
Anh John thấy cụ B.95 ngáp dài thì biết rằng cụ đã chán chuyện thời sự cởi trần, anh liền xin chuyển đề tài. Anh kể tuần qua anh đã đọc được một chuyện tiếu lâm hay lắm, chuyện này chỉ kể bằng tiếng VN mới hay chứ dịch ra tiếng ngoại quốc thì mất đi qúa nửa cái duyên của nó. Chuyện như thế này:
Có một cặp vợ chồng trẻ mới cưới nhau được một năm, và cô vợ vừa thấy mình tắt kinh được một tháng. Hai vợ chồng sung sướng lắm vì cả hai đều đang mong có con. Một buổi sáng kia, chồng đi làm, chỉ có cô vợ trẻ ở nhà. Có một anh nhân viên sở điện lực tới bấm chuông, cô vợ ra mở cửa. Cô hỏi :
- Có chuyện chi vậy anh?
- Tôi đến đây chỉ để báo cho chị biết là chị đã trễ một tháng rồi đó
Cô vợ trố mắt kinh ngạc :
- Há, sao anh biết?
- Chị đừng có kinh ngạc, chị trễ dù một ngày chúng tôi cũng biết chứ đừng nói chi tới một tháng như hiện nay.
Cô vợ tỏ vẻ vừa sợ hãi vừa mắc cở :
- Thôi, đợi chồng tôi về chồng tôi sẽ nói chuyện với các anh.
Nói xong cô đóng sập cửa lại. Ngay sáng hôm sau, anh chồng tới sở điện lực đòi gặp anh nhân viên đi hôm trước. Thấy mặt anh nhân viên, anh chồng đập bàn thét lớn:
- Này anh kia, anh muốn gì ở vợ chồng chúng tôi?
- Việc đơn giản thôi. Ông bà cứ đưa tiền đây là mọi việc sẽ ổn thỏa ngay.
Anh chồng nghĩ mình bị tống tiền liền đáp:
- Nếu tao không đưa tiền cho mày thì sao?
Anh điện lực đáp tỉnh bơ:
- Bắt buộc chúng tôi phải cắt của ông thôi!
Anh chồng há hốc miệng :
- Cắt rồi thì vợ tao xài cái gì?
- Thì ông bảo bà xã xài đỡ cây đèn cầy !
Cả làng nghe xong thì phá ra cười. Rõ ràng ông nói gà bà nói vịt nha.
Thấy dân làng còn thích nghe loại chuyện này, anh John kể thêm một chuyện nữa, chuyện này có gốc trong sách tiếng Anh. Rằng một cặp vợ chồng già kia sau bữa ăn tối đã ra ngoài lan can ngồi hưởng trăng thanh gió mát. Hai người cùng nhâm nhi cognac. Bỗng bà vợ lên tiếng :
-Nè, ta yêu ngươi lắm nha, sống mà không có ngươi thì ta sẽ ra sao.
Ông chồng nghe thấy như vậy liền hỏi :
- Này bà, xưa nay bà vẫn gọi tôi là cưng ơi, bữa nay bà gọi tôi là ngươi, sao vậy ?
Bà vợ trả lời tỉnh bơ :
- À, tôi đang nói với ly cognac mà !
Kể xong chuyện này, anh John tuyên bố chấm hết. Anh xin Ông ODP tiếp sức. Bồ chữ ODP nói ngay : Bà con đang nghe chuyện cười, bây giờ nếu tôi kể chuyện nghiêm trang, chuyện đạo đức, có được không? Cả làng gật đầu đồng ý. Ông ODP liền kể :
Tuần qua, tình cờ tôi mở kho sách cũ, tôi gặp bài Thương Ngườì trong tập Gia Huấn Ca của Cụ Nguyễn Trãi ( 1380-1442 ), bài này như sau :
Thương người tất tả ngược xuôi
Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ
Thương người ôm dắt trẻ thơ
Thương người tuổi tác già nua bần hàn
Thương người quan quả cô đơn
Thương người lỡ bước lầm than bên đường
Thấy ai đói rách thì thương
Rách thường cho mặc, đói thường cho ăn
Thương người như thể thương thân
…………………………………………………
Qua bài này Cụ muốn khuyên con cháu phải biết thương người, nhất là những người xấu số. Vì sao phải thương người ư ? Điều này rất hiển nhiên vì ai cũng từ bọc 100 trứng của mẹ Âu Cơ mà ra, cho nên chúng ta là anh em với nhau, xưa nay chúng ta vẫn gọi nhau là đồng bào mà. Trên thế giới này, người các nước khác họ không gọi nhau là đồng bào bao giờ. Xin các bạn chú ý tới nhóm chữ ‘anh em với nhau’. Nhóm chữ này làm tôi nhớ tới bài kinh người Công Giáo vẫn đọc trong nhà thờ mỗi sáng chủ nhật. Đó là kinh ‘Thương người có 14 mối’. Bài kinh chia ra làm 2 phần, bảy mối đầu là thương về phần xác, bảy mối sau là về phần hồn. Thương phần xác 7 mối như sau :
Thứ nhất cho kẻ đói ăn
Thứ hai cho kẻ khát uống
Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn mặc
Thứ bốn viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc
Thứ năm cho khách đỗ nhà
Thứ sáu chuộc kẻ làm tôi
Thứ bảy chôn xác kẻ chết
…………………………….
Tôi thấy nội dung bài khuyên con cháu của cụ Nguyễn Trãi rất gần với bài kinh trong nhà thờ. Bài nào có trước? Tôi nghĩ bài của Cụ Nguyễn Trãi có trước vì cụ sống vào thế kỷ 15, còn bài kinh trong nhà thờ này do các vị truyền giáo Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha đặt ra, sớm lắm là vào thế kỷ 16. Điều này chứng tỏ rằng tổ tiên VN chúng ta vĩ đại vô cùng. Tổ tiên Việt nam đã biết đến Ông Trời ngay từ hồi lập quốc và đã biết cách sống thế nào cho phải đạo là đồng bào, là anh em với nhau, trước cả khi đạo Chúa Trời sang Á Châu.
Xin Ơn Trên cho chúng con biết coi nhau là anh em một nhà.
TRÀ LŨ
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Tát Nước Bên Đồng
Nguyễn Ngọc Liên
21:25 19/10/2011
TÁT NƯỚC BÊN ĐỒNG
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Ruộng khô nước cạn ai ơi
Rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu.
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Nguyễn Ngọc Liên
Ruộng khô nước cạn ai ơiRủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu.
(Ca dao)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền










