Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:14 02/09/2015
13. HỐI THÚC MẸ CHẾT CHO NHANH.
Bà mẹ của người nhà căn hộ bên phía đông chết, con trai của bà ta không khóc bi ai não nùng, nên bị người hàng xóm chỉ trích là bất hiếu.
Đứa con trai của người nhà căn hộ bên phía tây thấy như vậy, liền nói với mẹ nó:
- “Mẹ à, tại sao mẹ không mau chết cho rồi ? Nếu mẹ chết đi, con nhất định phải đau đớn, rất buồn phiền mà khóc mẹ”.
(Chuẩn Nam tử)
Suy tư 13:
Cha mẹ chết mà không khóc chưa chắc là đã bất hiếu, và khóc cha mẹ chết chưa chắc là đã có hiếu. Bởi vì có rất nhiều đứa con khi cha mẹ còn sống thì không lo phụng dưỡng để báo hiếu, đến khi cha mẹ chết thì khóc bù lu bù loa, khóc thảm thiết, thì có ích gì chứ ?
Hối thúc mẹ mau chết thì trên đời này hiếm thấy, dù là đứa con bất hiếu chăng nữa. Nhưng khi cha mẹ bệnh hoạn lâu ngày không khỏi, mà con muốn cha mẹ chết cho mau bèn giết đi thì là chuyện có thật đã xảy ra ở Đài Loan, một đảo quốc rất tự do và giàu có.
Khi bạn mong cho cha mẹ chết sớm để khỏi gánh nặng, để khỏi ảnh hưởng đến công ăn việc làm, và để trút đi được “cục nợ”, thì bạn nên nghĩ lại ai đã sinh ra bạn, ai đã nuôi bạn sống đến ngày hôm nay, ai đã vì bạn mà thức khuya dậy sớm.v.v... Nếu bạn trả lời được thì nên cầu xin Chúa ban cho cha mẹ được sống lâu thêm nữa để bạn trả hiếu cho cha mẹ. Nếu bạn đã tìm ra câu trả lời, thì chính con cái của bạn sẽ đối xử rất có hiếu với bạn, như bạn ngày hôm nay đã đối xử rất có hiếu với cha mẹ bạn vậy.
Muốn cho cha mẹ mau chết để khóc thì chẳng khác nào đức con bất hiếu vậy, khóc lóc để làm gì khi mong cho cha mẹ chết sơm !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
N2T |
Bà mẹ của người nhà căn hộ bên phía đông chết, con trai của bà ta không khóc bi ai não nùng, nên bị người hàng xóm chỉ trích là bất hiếu.
Đứa con trai của người nhà căn hộ bên phía tây thấy như vậy, liền nói với mẹ nó:
- “Mẹ à, tại sao mẹ không mau chết cho rồi ? Nếu mẹ chết đi, con nhất định phải đau đớn, rất buồn phiền mà khóc mẹ”.
(Chuẩn Nam tử)
Suy tư 13:
Cha mẹ chết mà không khóc chưa chắc là đã bất hiếu, và khóc cha mẹ chết chưa chắc là đã có hiếu. Bởi vì có rất nhiều đứa con khi cha mẹ còn sống thì không lo phụng dưỡng để báo hiếu, đến khi cha mẹ chết thì khóc bù lu bù loa, khóc thảm thiết, thì có ích gì chứ ?
Hối thúc mẹ mau chết thì trên đời này hiếm thấy, dù là đứa con bất hiếu chăng nữa. Nhưng khi cha mẹ bệnh hoạn lâu ngày không khỏi, mà con muốn cha mẹ chết cho mau bèn giết đi thì là chuyện có thật đã xảy ra ở Đài Loan, một đảo quốc rất tự do và giàu có.
Khi bạn mong cho cha mẹ chết sớm để khỏi gánh nặng, để khỏi ảnh hưởng đến công ăn việc làm, và để trút đi được “cục nợ”, thì bạn nên nghĩ lại ai đã sinh ra bạn, ai đã nuôi bạn sống đến ngày hôm nay, ai đã vì bạn mà thức khuya dậy sớm.v.v... Nếu bạn trả lời được thì nên cầu xin Chúa ban cho cha mẹ được sống lâu thêm nữa để bạn trả hiếu cho cha mẹ. Nếu bạn đã tìm ra câu trả lời, thì chính con cái của bạn sẽ đối xử rất có hiếu với bạn, như bạn ngày hôm nay đã đối xử rất có hiếu với cha mẹ bạn vậy.
Muốn cho cha mẹ mau chết để khóc thì chẳng khác nào đức con bất hiếu vậy, khóc lóc để làm gì khi mong cho cha mẹ chết sơm !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:22 02/09/2015
67. Để hiểu rõ ràng Đức Mẹ Ma-ri-a chịu tất cả đau khổ khi Đức Chúa Giê-su chịu chết trên thánh giá, thì cần phải suy xét tình yêu của người mẹ này đối với người Con của Mẹ.
(Thánh Bernardinus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
--------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC: Một gia đình yêu mến Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thành phố
Linh Tiến Khải
11:28 02/09/2015
Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm con tim của cả một thánh phố
Trong cuộc sống kitô, các tương quan gia đình được biến đổi và nới rộng, như là cha mẹ thiêng liêng và anh chị em với nhau, và đặc biệt đối với những người cần trợ giúp, chúng ta đem tình yêu của Thiên Chúa Cha tới cho thế giới. Như thế chúng ta trở thành một phước lành, một dấu chỉ của hy vọng cho việc canh tân mọi tương quan xã hội. Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm cả một thành phố. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp của các gia đình.
Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20.000 tín hữu hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư mùng 2 tháng 9 hôm qua.
Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài đia đình và việc rao giảng Tin Mừng. Ngài nói: trong đoạn cuối của lộ trình giáo lý chúng ta duyệt xét kiểu gia đình sống trách nhiệm thông truyền đức tin bên trong và bên ngoài như thế nào. Trước tiên là vài kiểu diễn tả của Tin Mừng xem ra chống lại các dây liên lạc của gia đình và việc theo Chúa Giêsu. Chẳng hạn các lời mạnh mẽ mà tất cả chúng ta đều biết và đã nghe: “ Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”. (Mt 10,37-38). ĐTC giải thích lời Chúa nói như sau:
Dĩ nhiên với điều này Chúa Giêsu không muốn xóa bỏ điều răn thứ tư, là điều răn lớn nhất đối với con người. Ba điều răn đầu là trong tương quan với Thiên Chúa, điều răn thứ tư này liên quan tới con người. Và chúng ta cũng không thể nghĩ rằng, sau khi đã làm phép lạ đầu tiên cho đôi tân hôn làng Cana, sau khi đã thánh hiến mối dây hôn nhân giữa một nguời nam và một ngưòi nữ, sau khi đã trả lại cho cuộc sống gia đình các con trai con gái, Chúa lại đòi hỏi chúng ta phải vô cảm đối với các mối dây liên lạc ấy! Đây không phải là lời giải thích. Trái lại, khi Chúa Giêsu khẳng định quyền tối thượng của niềm tin vào Thiên Chúa, Ngài không tìm ra so sánh nào khác ý nghĩa hơn các trìu mến gia đình. Và đàng khác, bên trong kinh nghiệm lòng tin và tình yêu của Thiên Chúa chính các liên hệ gia đình ấy được biến đổi, được tràn đầy một ý nghĩa lớn hơn và có khả năng vượt qua chính mình, để tạo dựng một chức làm cha làm mẹ rộng rãi hơn và tiếp nhận như anh chị em những người sống ngoài lề mọi thứ tương quan. Một ngày kia khi có người nói có mẹ và anh em Thầy tìm Thầy Chúa Giêsu chỉ các môn đệ Người và nói: “Đây là mẹ và là anh em tôi! Bởi vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh em, là chị em và là mẹ của tôi” (Mc 3,34.35),
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Sư khôn ngoan của các trìu mến không mua được, cũng không bán được, chúng là của hồi môn tốt nhất của thiên tài gia đình. Chính trong gia đình chúng ta học lớn lên trong bầu khí khôn ngoan của các trìu mến. Văn phạm của chúng người ta học được ở đó, nếu không sẽ khó mà học được nó. Đó chính là ngôn ngữ qua đó Thiên Chúa làm cho tất cả mọi người hiểu mình.
Lời mời gọi đặt để các tưong quan gia đình trong lãnh vực vâng phục của đức tin và giao ước với Chúa không hạ nhục chúng, trái lại, che chở chúng và cởi trói chúng khỏi sự ích kỷ, giữ gìn chúng khỏi suy đồi, cứu chúng an toàn cho cuộc sống không chết. Việc luân lưu của một kiểu gia đình trong các tương quan nhân bản là một phước lành đối với các dân tộc: nó đem lại niềm hy vọng trên trái đất. Khi các yêu thương gia đình để cho mình trở về với chứng tá của Tin Mừng, chúng sẽ có khả năng làm những điều không thể tưởng tuợng nổi, khiến cho chúng ta sờ mó được với đôi bàn tay các công trình Thiên Chúa, các công trình mà Thiên Chúa hoàn thành trong lịch sử, như các công trình Chúa Giêsu đã làm cho các người nam nữ, trẻ em mà Ngài đã gặp. Chỉ một nụ cười giật được một cách lạ lùng từ sự thất vọng của một trẻ em bị bỏ rơi, làm cho nó bắt đầu sống trở lại, giải thích hành động của Thiên Chúa trong thế giói hơn là hàng ngàn khảo luận thần học. Chỉ một người nam và một người nữ, có khả năng liều mình và hy sinh cho một đứa con của người khác, và không phải chỉ là cho con riêng mình, giải thích cho chúng ta biết các điều của tình yêu hơn nhiều nhà khoa học không hiểu chúng nữa. Và ở đâu có các yêu thương gia đình này, ở đó nảy sinh ra các cử chỉ này từ con tim, và chúng hùng hồn hơn các lời nói. Cử chỉ của tình yêu… Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Gia đình đáp trả lại lời kêu mời của Thiên Chúa trả lại việc cai quản thế giới cho giao ước của người nam và người nữ với Thiên Chúa. Anh chị em hãy nghĩ tới sự phát triển này của chứng tá ngày nay. ĐTC giải thích tư tưởng của ngài như sau:
Chúng ta hãy tưởng tượng rằng bánh lái của lịch sử, của xã hội, của kinh tế, của chính trị, sau cùng được trao cho giao ước của người nam và người nữ, để họ cai quản nó với cái nhìn hướng tới thế hệ tưong lai. Các đề tài trái đất và nhà ở, kinh tế và công ăn việc làm sẽ chơi một điệu nhạc rất khác!
Nếu bắt đầu từ Giáo Hội chúng ta trao ban trở lại sự chủ động cho gia đình lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa, chúng tra sẽ trở thành rượu ngon của tiệc cưới Cana, chúng ta sẽ làm dậy men của Thiên Chúa!
Thật vậy, giao ưóc của gia đình với Thiên Chúa ngày nay được mời gọi chống lại sự sa mạc hóa của thành thị tân tiến. Nhưng các thành phố của chúng ta đã trở thành sa mạc vì thiếu tình yêu, vì thiếu nụ cuời. Biết bao nhiêu giải trí, biết bao nhiêu điều làm mất thì giờ, để làm cho cười, nhưng thiếu tình yêu. Nụ cười của một gia đình có khả năng chiến thắng sự sa mạc hóa các thành thị của chúng ta. Và đây là chiến thắng của tình yêu gia đình. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp này của các gia đình. Dự án cái tháp Babel xây dựng các nhà chọc trời không có sự sống. Thần Khí của Thiên Chúa trái lại, làm nở hoa sa mạc (x, Is 32,15) Chúng ta phải ra khỏi các tháp ngà và các căn phòng bọc sắt của những người ưu tú, để giao du với các căn nhà và các khoảng trống rộng mở cho các đám đông, rộng mở cho tình yêu của gia đình.
Sự hiệp thông của các đặc sủng – các đặc sủng được ban cho Bí tích hôn nhân và các đặc sủng được ban cho sự thánh hiến vì Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến tới trên con đường này, chúng ta đừng mất hy vọng. Nơi đâu có một gia đình sống tình yêu thương, gia đình đó có khả năng sưởi ấm con tim của tất cả một thành phố với chứng tá tình yêu của nó.
Xin anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để có khả năng nhận biết và chịu đựng được các viếng thăm của Thiên Chúa. Thần Khí sẽ đem tới các xáo trộn tươi vui trong các gia đình kitô và thành phố của con người sẽ ra khỏi sự trầm cảm của nó!
ĐTC đã chào các đoàn hành hương , đặc biệt đoàn hành hương đến từ Senegal có ĐC Paul Mamba GM Ziguinchor tháp tùng, cũng như đoàn hành hương của Tổng Giáo Phận Libreville. Ngài cũng chào các nhóm hành hương đến từ các nước Nigeria, Nhật Bản, Malaysia, cũng như đoàn hành hương giáo phận Innsbruck do ĐC Manfred Scheuer hướng dẫn hành hương Roma nhân kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận.
Trong các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các đại chủng sinh tham dự trại hè về nâng đỡ kinh tế cho Giáo Hội, các trẻ em mới lãnh phép Thêm Sức giáo phận Lucca do ĐC Castellani hướng dẫn.
Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Gregorio Cả. Ngài cầu mong sự cao cả luân lý của thánh nhân giúp các bạn trẻ can đảm lựa chọn sự thiện; sự mạnh mẽ của thánh nhân nâng đỡ các người đau yếu vác thánh giá kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Kitô; và sự gắn bó với Giáo Hội của thánh nhân trợ giúp các đôi tân hôn hiệp nhất trong tình yêu gia đình.
Buổi gặp gỡ đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
Trong cuộc sống kitô, các tương quan gia đình được biến đổi và nới rộng, như là cha mẹ thiêng liêng và anh chị em với nhau, và đặc biệt đối với những người cần trợ giúp, chúng ta đem tình yêu của Thiên Chúa Cha tới cho thế giới. Như thế chúng ta trở thành một phước lành, một dấu chỉ của hy vọng cho việc canh tân mọi tương quan xã hội. Một gia đình yêu thương Thiên Chúa sưởi ấm cả một thành phố. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp của các gia đình.
Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hơn 20.000 tín hữu hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư mùng 2 tháng 9 hôm qua.
Trong bài huấn dụ ĐTC đã khai triển đề tài đia đình và việc rao giảng Tin Mừng. Ngài nói: trong đoạn cuối của lộ trình giáo lý chúng ta duyệt xét kiểu gia đình sống trách nhiệm thông truyền đức tin bên trong và bên ngoài như thế nào. Trước tiên là vài kiểu diễn tả của Tin Mừng xem ra chống lại các dây liên lạc của gia đình và việc theo Chúa Giêsu. Chẳng hạn các lời mạnh mẽ mà tất cả chúng ta đều biết và đã nghe: “ Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”. (Mt 10,37-38). ĐTC giải thích lời Chúa nói như sau:
Dĩ nhiên với điều này Chúa Giêsu không muốn xóa bỏ điều răn thứ tư, là điều răn lớn nhất đối với con người. Ba điều răn đầu là trong tương quan với Thiên Chúa, điều răn thứ tư này liên quan tới con người. Và chúng ta cũng không thể nghĩ rằng, sau khi đã làm phép lạ đầu tiên cho đôi tân hôn làng Cana, sau khi đã thánh hiến mối dây hôn nhân giữa một nguời nam và một ngưòi nữ, sau khi đã trả lại cho cuộc sống gia đình các con trai con gái, Chúa lại đòi hỏi chúng ta phải vô cảm đối với các mối dây liên lạc ấy! Đây không phải là lời giải thích. Trái lại, khi Chúa Giêsu khẳng định quyền tối thượng của niềm tin vào Thiên Chúa, Ngài không tìm ra so sánh nào khác ý nghĩa hơn các trìu mến gia đình. Và đàng khác, bên trong kinh nghiệm lòng tin và tình yêu của Thiên Chúa chính các liên hệ gia đình ấy được biến đổi, được tràn đầy một ý nghĩa lớn hơn và có khả năng vượt qua chính mình, để tạo dựng một chức làm cha làm mẹ rộng rãi hơn và tiếp nhận như anh chị em những người sống ngoài lề mọi thứ tương quan. Một ngày kia khi có người nói có mẹ và anh em Thầy tìm Thầy Chúa Giêsu chỉ các môn đệ Người và nói: “Đây là mẹ và là anh em tôi! Bởi vì ai làm theo ý Thiên Chúa, người đó là anh em, là chị em và là mẹ của tôi” (Mc 3,34.35),
Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Sư khôn ngoan của các trìu mến không mua được, cũng không bán được, chúng là của hồi môn tốt nhất của thiên tài gia đình. Chính trong gia đình chúng ta học lớn lên trong bầu khí khôn ngoan của các trìu mến. Văn phạm của chúng người ta học được ở đó, nếu không sẽ khó mà học được nó. Đó chính là ngôn ngữ qua đó Thiên Chúa làm cho tất cả mọi người hiểu mình.
Lời mời gọi đặt để các tưong quan gia đình trong lãnh vực vâng phục của đức tin và giao ước với Chúa không hạ nhục chúng, trái lại, che chở chúng và cởi trói chúng khỏi sự ích kỷ, giữ gìn chúng khỏi suy đồi, cứu chúng an toàn cho cuộc sống không chết. Việc luân lưu của một kiểu gia đình trong các tương quan nhân bản là một phước lành đối với các dân tộc: nó đem lại niềm hy vọng trên trái đất. Khi các yêu thương gia đình để cho mình trở về với chứng tá của Tin Mừng, chúng sẽ có khả năng làm những điều không thể tưởng tuợng nổi, khiến cho chúng ta sờ mó được với đôi bàn tay các công trình Thiên Chúa, các công trình mà Thiên Chúa hoàn thành trong lịch sử, như các công trình Chúa Giêsu đã làm cho các người nam nữ, trẻ em mà Ngài đã gặp. Chỉ một nụ cười giật được một cách lạ lùng từ sự thất vọng của một trẻ em bị bỏ rơi, làm cho nó bắt đầu sống trở lại, giải thích hành động của Thiên Chúa trong thế giói hơn là hàng ngàn khảo luận thần học. Chỉ một người nam và một người nữ, có khả năng liều mình và hy sinh cho một đứa con của người khác, và không phải chỉ là cho con riêng mình, giải thích cho chúng ta biết các điều của tình yêu hơn nhiều nhà khoa học không hiểu chúng nữa. Và ở đâu có các yêu thương gia đình này, ở đó nảy sinh ra các cử chỉ này từ con tim, và chúng hùng hồn hơn các lời nói. Cử chỉ của tình yêu… Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Gia đình đáp trả lại lời kêu mời của Thiên Chúa trả lại việc cai quản thế giới cho giao ước của người nam và người nữ với Thiên Chúa. Anh chị em hãy nghĩ tới sự phát triển này của chứng tá ngày nay. ĐTC giải thích tư tưởng của ngài như sau:
Chúng ta hãy tưởng tượng rằng bánh lái của lịch sử, của xã hội, của kinh tế, của chính trị, sau cùng được trao cho giao ước của người nam và người nữ, để họ cai quản nó với cái nhìn hướng tới thế hệ tưong lai. Các đề tài trái đất và nhà ở, kinh tế và công ăn việc làm sẽ chơi một điệu nhạc rất khác!
Nếu bắt đầu từ Giáo Hội chúng ta trao ban trở lại sự chủ động cho gia đình lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa, chúng tra sẽ trở thành rượu ngon của tiệc cưới Cana, chúng ta sẽ làm dậy men của Thiên Chúa!
Thật vậy, giao ưóc của gia đình với Thiên Chúa ngày nay được mời gọi chống lại sự sa mạc hóa của thành thị tân tiến. Nhưng các thành phố của chúng ta đã trở thành sa mạc vì thiếu tình yêu, vì thiếu nụ cuời. Biết bao nhiêu giải trí, biết bao nhiêu điều làm mất thì giờ, để làm cho cười, nhưng thiếu tình yêu. Nụ cười của một gia đình có khả năng chiến thắng sự sa mạc hóa các thành thị của chúng ta. Và đây là chiến thắng của tình yêu gia đình. Không có ngành kỹ sư kinh tế và chính trị nào có thể thay thế được sự đóng góp này của các gia đình. Dự án cái tháp Babel xây dựng các nhà chọc trời không có sự sống. Thần Khí của Thiên Chúa trái lại, làm nở hoa sa mạc (x, Is 32,15) Chúng ta phải ra khỏi các tháp ngà và các căn phòng bọc sắt của những người ưu tú, để giao du với các căn nhà và các khoảng trống rộng mở cho các đám đông, rộng mở cho tình yêu của gia đình.
Sự hiệp thông của các đặc sủng – các đặc sủng được ban cho Bí tích hôn nhân và các đặc sủng được ban cho sự thánh hiến vì Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy tiến tới trên con đường này, chúng ta đừng mất hy vọng. Nơi đâu có một gia đình sống tình yêu thương, gia đình đó có khả năng sưởi ấm con tim của tất cả một thành phố với chứng tá tình yêu của nó.
Xin anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để có khả năng nhận biết và chịu đựng được các viếng thăm của Thiên Chúa. Thần Khí sẽ đem tới các xáo trộn tươi vui trong các gia đình kitô và thành phố của con người sẽ ra khỏi sự trầm cảm của nó!
ĐTC đã chào các đoàn hành hương , đặc biệt đoàn hành hương đến từ Senegal có ĐC Paul Mamba GM Ziguinchor tháp tùng, cũng như đoàn hành hương của Tổng Giáo Phận Libreville. Ngài cũng chào các nhóm hành hương đến từ các nước Nigeria, Nhật Bản, Malaysia, cũng như đoàn hành hương giáo phận Innsbruck do ĐC Manfred Scheuer hướng dẫn hành hương Roma nhân kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận.
Trong các nhóm nói tiếng Ý ngài chào các đại chủng sinh tham dự trại hè về nâng đỡ kinh tế cho Giáo Hội, các trẻ em mới lãnh phép Thêm Sức giáo phận Lucca do ĐC Castellani hướng dẫn.
Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC nói hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Gregorio Cả. Ngài cầu mong sự cao cả luân lý của thánh nhân giúp các bạn trẻ can đảm lựa chọn sự thiện; sự mạnh mẽ của thánh nhân nâng đỡ các người đau yếu vác thánh giá kết hiệp với Thánh Tâm Chúa Kitô; và sự gắn bó với Giáo Hội của thánh nhân trợ giúp các đôi tân hôn hiệp nhất trong tình yêu gia đình.
Buổi gặp gỡ đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gần 1400 đoàn sinh TNTT Thuận Nghĩa trong ngày lễ tạ ơn
Hằng Nga
07:30 02/09/2015
Gần 1400 đoàn sinh TNTT Thuận Nghĩa trong ngày lễ tạ ơn
Thiếu Nhi Thánh Thể đã trở thành một Phong Trào dường như không thể thiếu trong Giáo Hội, Giáo Phận hay bất cứ một Giáo Xứ nào. Đến với Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể (TNTT), các bạn thanh thiếu niên được đào luyện để trở thành những con người kiện toàn và những Kitô hữu hoàn hảo, được đoàn ngũ hóa và hướng dẫn để loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô và góp phần xây dựng xã hội. Ý thức được tầm quan trọng đó, Phong trào đã nhanh chóng được nảy mầm phát triển tại Giáo xứ Thuận Nghĩa.
Xem Hình
Ngược lại dòng lịch sử, Phong trào TNTT đã được khai sinh và đặt nền móng nơi mảnh đất Thuận Nghĩa từ những năm 2007dưới thời Cha Phêrô Trần Phúc Chính còn Quản nhiệm, do Thầy Phêrô Nguyễn Đình Khiêm hướng dẫn và huấn luyện. Sau gần một năm đào luyện, vào ngày 25/04/2008 Phong trào đã cho “ra mắt” 100 huynh trưởng, 500 đoàn sinh thuộc hai ngành Ấu nhi và Thiếu nhi làm tiền đề và là nền tảng cho sự phát triển lớn mạnh của đoàn. Và cũng từ đó, Phong trào đã có những năm tháng phát triển và hoạt động mạnh mẽ, thu hút đông đảo các em Thiếu nhi tham gia, đưa các em đến gần hơn với Chúa Giêsu Thánh Thể và chọn Chúa Giêsu là lý tưởng sống của đời mình. Thế nhưng, có những khoảng thời gian từ năm 2012, Phong trào gần như “dậm chân tại chỗ”, hoạt động riêng lẻ, tách rời nhau. Cho đến năm 2014, nhận thấy rõ tình trạng và vai trò quan trọng của người trẻ trong xã hội hôm nay, là chủ chốt và là tương lai của Giáo Hội, là tác nhân loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô cách hữu hiệu giữa trần thế đầy xáo trộn, nhiễu nhương; Cha Quản xứ Antôn Nguyễn Văn Đính đã quyết định khôi phục lại Phong trào TNTT và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Ngày 28/10/2014, sau hơn một tháng đào tạo và rèn luyện kỹ năng, 54 em đã quyết định kết nạp huynh trưởng và dấn thân sống theo tôn chỉ của TNTT. Từ đây, xứ đoàn TNTT Thuận Nghĩa mang tên Phêrô Vũ Đăng Khoa được thành hình, đây có lẽ cũng chính là “mốc son” trong suốt chặng đường phát triển Phong trào TNTT của Xứ đoàn. Tháng 01/2015 Cha Antôn lại cho kết nạp thêm 200 em ngành Ấu, Thiếu, Nghĩa vào đoàn. Rồi cũng từ điểm khởi đầu này, các khóa huấn luyện liên tiếp được mở ra: Khóa Sa mạc huấn luyện dự trưởng, huynh trưởng cấp I từ ngày 14-16/7 do Cha Giuse Nguyễn Hồng Phước làm Sa mạc trưởng. Khóa huấn luyện cho các em Ấu nhi, Thiếu nhi, Nghĩa sĩ từ ngày 20/7-25/8 do các Thầy trong ban Trợ úy và các huynh trưởng giúp đỡ. Khóa huấn luyện kỹ năng do các Thầy trong ban Trợ úy đào tạo từ ngày 01-15/8. Các khóa huấn luyện đã trang bị cho các bạn những kỹ năng cần thiết của người huynh trưởng, của từng đoàn sinh để rồi Xứ đoàn TNTT Phêrô Vũ Đăng Khoa lại cho “ra mắt” thêm 71 huynh trưởng, 16 dự trưởng vào Chúa Nhật XXI TN (ngày 23/8) và kết nạp 126 nghĩa sĩ, 400 thiếu nhi, 245 ấu nhi, 200 chiên con vào đoàn ngày 30/8 (Chúa Nhật XXII TN). Đây quả thực là con số ấn tượng để làm “giàu” thêm cho Phong trào TNTT Giáo xứ Thuận Nghĩa. Thời gian tìm hiểu và huấn luyện ban đầu kết thúc, nhưng không phải là quãng thời gian để làm nên một huynh trưởng theo đúng nghĩa là huynh trưởng, cũng chẳng phải là khoảng thời gian lý tưởng để đào luyện nên một đoàn sinh tốt nhưng chừng đó thời gian cũng khá đủ để mỗi thành viên trong đoàn nắm vững được mục đích, bản chất, lý tưởng, tôn chỉ, đức tính và các kỹ năng cần thiết của Phong trào TNTT. Và rồi từ đây, để Xứ đoàn có thể phát huy hết khả năng, phát triển hết tố chất, lớn mạnh về đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên thì cần lắm một môi trường để hòa nhập, để học hỏi và rèn giũa. Cũng chính vì thế, ngày 02/9 đã trở thành ngày đầy ý nghĩa đối với Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa, bởi đó chính là thời khắc Xứ đoàn gia nhập vào Liên đoàn Gioan Phaolô II của Giáo phận.
Đúng 8h00’ ngày 02/9, Thánh lễ ra mắt Liên Đoàn Gioan Phaolô II được khai mạc. Trong lời khai lễ, Cha Tuyên úy Xứ đoàn Antôn Nguyễn Văn Đính đã bày tỏ niềm vui mừng và hy vọng sâu xa cho sự phát triển mà Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa đang hướng tới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong bài Giảng lễ, Cha Tuyên úy Liên đoàn Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh tới chiều kích thiêng liêng, tới giá trị thiêng thánh của Thánh Thể. Ngài cũng tha thiết gọi mời mọi người sẽ trở nên những tấm bánh cuộc đời được bẻ ra trao ban cho tha nhân noi gương Thầy Chí Thánh Giêsu mà đặc biệt là các bạn TNTT, thể hiện sự quyết tâm đó bằng việc sống trọn vẹn các châm ngôn: Cầu nguyện, rước lễ, hy sinh và làm việc tông đồ. Theo đó, nghi thức ra mắt và gia nhập Liên đoàn Gioan Phaolô II được tiếp diễn. Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa đã cho trình diện 125 huynh trưởng, 16 dự trưởng và 1245 đoàn sinh, ra mắt tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2105-2018. Từ đây, Xứ đoàn TNTT Phêrô Vũ Đăng Khoa chính thức được liên kết vào Liên đoàn TNTT Gioan Phaolô II của Giáo phận, đây là cột mốc ghi đậm dấu ấn không thể nào quên. Cuối Thánh lễ, đại diện Xứ đoàn có lời tri ân sâu sắc tới Cha Tuyên úy, quý Cha, quý Thầy trong ban Trợ úy cùng tất cả mọi người đã giúp đỡ đoàn trong suốt thời gian qua, đồng thời thể hiện lời hứa quyết tâm mạnh mẽ sẽ sống như những gì đã học, đưa lý thuyết ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày.
Hơn 8 năm hình thành và phát triển trong lòng mẹ Phong trào TNTT của Giáo Hội với biết bao thăng trầm, Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa đã từng ngày lớn lên để rồi giờ đây được chính thức gia nhập vào Liên đoàn Gioan Phaolô II. Đây là biến cố mở ra một chặng đường mới, chặng đường thăng tiến để càng làm tăng thêm lòng hăng say yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, chọn Chúa Giêsu làm trung tâm điểm đời sống mình, tô đậm thêm bầu nhiệt huyết phục vụ và hướng dẫn các em thiếu nhi để rồi nơi bản thân mỗi thành viên của TNTT sẽ là những chứng nhân trả lời cho câu hỏi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên?”
Hằng Nga
Thiếu Nhi Thánh Thể đã trở thành một Phong Trào dường như không thể thiếu trong Giáo Hội, Giáo Phận hay bất cứ một Giáo Xứ nào. Đến với Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể (TNTT), các bạn thanh thiếu niên được đào luyện để trở thành những con người kiện toàn và những Kitô hữu hoàn hảo, được đoàn ngũ hóa và hướng dẫn để loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô và góp phần xây dựng xã hội. Ý thức được tầm quan trọng đó, Phong trào đã nhanh chóng được nảy mầm phát triển tại Giáo xứ Thuận Nghĩa.
Xem Hình
Ngược lại dòng lịch sử, Phong trào TNTT đã được khai sinh và đặt nền móng nơi mảnh đất Thuận Nghĩa từ những năm 2007dưới thời Cha Phêrô Trần Phúc Chính còn Quản nhiệm, do Thầy Phêrô Nguyễn Đình Khiêm hướng dẫn và huấn luyện. Sau gần một năm đào luyện, vào ngày 25/04/2008 Phong trào đã cho “ra mắt” 100 huynh trưởng, 500 đoàn sinh thuộc hai ngành Ấu nhi và Thiếu nhi làm tiền đề và là nền tảng cho sự phát triển lớn mạnh của đoàn. Và cũng từ đó, Phong trào đã có những năm tháng phát triển và hoạt động mạnh mẽ, thu hút đông đảo các em Thiếu nhi tham gia, đưa các em đến gần hơn với Chúa Giêsu Thánh Thể và chọn Chúa Giêsu là lý tưởng sống của đời mình. Thế nhưng, có những khoảng thời gian từ năm 2012, Phong trào gần như “dậm chân tại chỗ”, hoạt động riêng lẻ, tách rời nhau. Cho đến năm 2014, nhận thấy rõ tình trạng và vai trò quan trọng của người trẻ trong xã hội hôm nay, là chủ chốt và là tương lai của Giáo Hội, là tác nhân loan truyền Tin Mừng Chúa Kitô cách hữu hiệu giữa trần thế đầy xáo trộn, nhiễu nhương; Cha Quản xứ Antôn Nguyễn Văn Đính đã quyết định khôi phục lại Phong trào TNTT và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Ngày 28/10/2014, sau hơn một tháng đào tạo và rèn luyện kỹ năng, 54 em đã quyết định kết nạp huynh trưởng và dấn thân sống theo tôn chỉ của TNTT. Từ đây, xứ đoàn TNTT Thuận Nghĩa mang tên Phêrô Vũ Đăng Khoa được thành hình, đây có lẽ cũng chính là “mốc son” trong suốt chặng đường phát triển Phong trào TNTT của Xứ đoàn. Tháng 01/2015 Cha Antôn lại cho kết nạp thêm 200 em ngành Ấu, Thiếu, Nghĩa vào đoàn. Rồi cũng từ điểm khởi đầu này, các khóa huấn luyện liên tiếp được mở ra: Khóa Sa mạc huấn luyện dự trưởng, huynh trưởng cấp I từ ngày 14-16/7 do Cha Giuse Nguyễn Hồng Phước làm Sa mạc trưởng. Khóa huấn luyện cho các em Ấu nhi, Thiếu nhi, Nghĩa sĩ từ ngày 20/7-25/8 do các Thầy trong ban Trợ úy và các huynh trưởng giúp đỡ. Khóa huấn luyện kỹ năng do các Thầy trong ban Trợ úy đào tạo từ ngày 01-15/8. Các khóa huấn luyện đã trang bị cho các bạn những kỹ năng cần thiết của người huynh trưởng, của từng đoàn sinh để rồi Xứ đoàn TNTT Phêrô Vũ Đăng Khoa lại cho “ra mắt” thêm 71 huynh trưởng, 16 dự trưởng vào Chúa Nhật XXI TN (ngày 23/8) và kết nạp 126 nghĩa sĩ, 400 thiếu nhi, 245 ấu nhi, 200 chiên con vào đoàn ngày 30/8 (Chúa Nhật XXII TN). Đây quả thực là con số ấn tượng để làm “giàu” thêm cho Phong trào TNTT Giáo xứ Thuận Nghĩa. Thời gian tìm hiểu và huấn luyện ban đầu kết thúc, nhưng không phải là quãng thời gian để làm nên một huynh trưởng theo đúng nghĩa là huynh trưởng, cũng chẳng phải là khoảng thời gian lý tưởng để đào luyện nên một đoàn sinh tốt nhưng chừng đó thời gian cũng khá đủ để mỗi thành viên trong đoàn nắm vững được mục đích, bản chất, lý tưởng, tôn chỉ, đức tính và các kỹ năng cần thiết của Phong trào TNTT. Và rồi từ đây, để Xứ đoàn có thể phát huy hết khả năng, phát triển hết tố chất, lớn mạnh về đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên thì cần lắm một môi trường để hòa nhập, để học hỏi và rèn giũa. Cũng chính vì thế, ngày 02/9 đã trở thành ngày đầy ý nghĩa đối với Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa, bởi đó chính là thời khắc Xứ đoàn gia nhập vào Liên đoàn Gioan Phaolô II của Giáo phận.
Đúng 8h00’ ngày 02/9, Thánh lễ ra mắt Liên Đoàn Gioan Phaolô II được khai mạc. Trong lời khai lễ, Cha Tuyên úy Xứ đoàn Antôn Nguyễn Văn Đính đã bày tỏ niềm vui mừng và hy vọng sâu xa cho sự phát triển mà Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa đang hướng tới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong bài Giảng lễ, Cha Tuyên úy Liên đoàn Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh tới chiều kích thiêng liêng, tới giá trị thiêng thánh của Thánh Thể. Ngài cũng tha thiết gọi mời mọi người sẽ trở nên những tấm bánh cuộc đời được bẻ ra trao ban cho tha nhân noi gương Thầy Chí Thánh Giêsu mà đặc biệt là các bạn TNTT, thể hiện sự quyết tâm đó bằng việc sống trọn vẹn các châm ngôn: Cầu nguyện, rước lễ, hy sinh và làm việc tông đồ. Theo đó, nghi thức ra mắt và gia nhập Liên đoàn Gioan Phaolô II được tiếp diễn. Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa đã cho trình diện 125 huynh trưởng, 16 dự trưởng và 1245 đoàn sinh, ra mắt tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2105-2018. Từ đây, Xứ đoàn TNTT Phêrô Vũ Đăng Khoa chính thức được liên kết vào Liên đoàn TNTT Gioan Phaolô II của Giáo phận, đây là cột mốc ghi đậm dấu ấn không thể nào quên. Cuối Thánh lễ, đại diện Xứ đoàn có lời tri ân sâu sắc tới Cha Tuyên úy, quý Cha, quý Thầy trong ban Trợ úy cùng tất cả mọi người đã giúp đỡ đoàn trong suốt thời gian qua, đồng thời thể hiện lời hứa quyết tâm mạnh mẽ sẽ sống như những gì đã học, đưa lý thuyết ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày.
Hơn 8 năm hình thành và phát triển trong lòng mẹ Phong trào TNTT của Giáo Hội với biết bao thăng trầm, Xứ đoàn Phêrô Vũ Đăng Khoa đã từng ngày lớn lên để rồi giờ đây được chính thức gia nhập vào Liên đoàn Gioan Phaolô II. Đây là biến cố mở ra một chặng đường mới, chặng đường thăng tiến để càng làm tăng thêm lòng hăng say yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, chọn Chúa Giêsu làm trung tâm điểm đời sống mình, tô đậm thêm bầu nhiệt huyết phục vụ và hướng dẫn các em thiếu nhi để rồi nơi bản thân mỗi thành viên của TNTT sẽ là những chứng nhân trả lời cho câu hỏi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: “Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên?”
Hằng Nga
Gp. Thái Bình: Đức Giám Mục gặp 115 chủng sinh trước ngày tựu trường
BTT Thái Bình
07:59 02/09/2015
Gp. Thái Bình: Đức Giám Mục gặp 115 chủng sinh trước ngày tựu trường
Sáng thứ Tư (02.9.2015), tại Tòa Giám mục, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình - đã có buổi gặp gỡ chung với 115 thầy chủng sinh của Giáo phận. Nhân ngày này, Đức Cha đã khích lệ, động viên và nhắn nhủ quý thầy trước ngày tựu trường.
Xem Hình
8g00, quý thầy ổn định tại Nhà nguyện tầng IV Nhà chung Giáo phận. Trước giờ gặp gỡ Đức Cha, cha Giuse Trịnh Tiến Thành - Giám đốc Tòa Giám mục, đã có lời thăm hỏi và chào mừng quý thầy. Ngài nhắc nhớ các thầy hãy hoàn tất các giấy nhận xét trong dịp tập vụ hè 2015 và có sự chuẩn bị sẵn sàng để bước vào năm học mới.
Hồi 8g30, cả Nhà nguyện vang lên những tràng pháo tay khi Đức Cha tiến vào với nụ cười tươi. Ngài tỏ bày niềm vui khi nhìn xuống thấy đông đảo các thầy là những người cộng tác làm trong vườn nho của Chúa tại Giáo phận Thái Bình.
Ngỏ lời với các chủng sinh, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ nhấn mạnh đến tinh thần gia đình trong việc cộng tác và chia sẻ trách nhiệm với Giáo Hội nói chung và cách riêng là với Giáo phận Thái Bình. Bởi vì, các chủng sinh được mời gọi và đào tạo để trở thành các cộng tác viên, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, trở nên Chúa Kitô thứ hai.
Đồng thời, Đức Cha nhắn nhủ các thầy, bước vào năm học mới hãy cố gắng tu luyện bản thân và học tập cho tốt. Ngài cho thấy, nhờ việc thường xuyên ý thức rèn luyện bản thân sẽ làm cho ơn gọi mình ngày càng thăng tiến. Bởi vì, phải là những hạt giống tốt và phải chịu cắt tỉa, uốn nắn bởi những người chăm sóc vườn cây thì mới có thể phát triển để mang lại hoa những trái tốt lành.
Đỉnh cao của buổi gặp mặt hôm nay là thánh lễ tạ ơn vào hồi 10g00, do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ sự. Đồng tế với ngài, có cha Giám đốc Gioan B. Nguyễn Sơn Hải, quý cha gia đình Tòa Giám mục và Đại Chủng Viện Thánh Tâm Mỹ Đức, cùng với sự hiệp thông của quý thầy phó tế.
Mở đầu thánh lễ, Đức Cha ngỏ lời chào cộng đoàn phụng phụ. Đồng thời, ngài mời gọi mọi thành phần cùng hiệp ý cầu nguyện cho công việc đào tạo và vun trồng ơn gọi của Giáo phận ngày càng mang lại hoa trái thiêng liêng và đạt được kết quả tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
Trong bài giảng, Đức Cha đề cập đến sự hi sinh cần có của mọi người nói chung và những người theo đuổi ơn gọi dâng mình cho Chúa nói riêng. Ngài mời gọi các chủng sinh nhìn lên Chúa Kitô - Linh mục - trên Thánh giá để hướng tới và noi theo Ngài.
Kết thúc Thánh lễ, quý thầy cùng chụp chung với Đức Cha và quý cha những tấm hình lưu niệm. Sau đó mọi người cùng nhau quây quần trong bữa cơm tình gia đình.
Ban Truyền thông Giáo phận Thái Bình
Sáng thứ Tư (02.9.2015), tại Tòa Giám mục, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình - đã có buổi gặp gỡ chung với 115 thầy chủng sinh của Giáo phận. Nhân ngày này, Đức Cha đã khích lệ, động viên và nhắn nhủ quý thầy trước ngày tựu trường.
Xem Hình
8g00, quý thầy ổn định tại Nhà nguyện tầng IV Nhà chung Giáo phận. Trước giờ gặp gỡ Đức Cha, cha Giuse Trịnh Tiến Thành - Giám đốc Tòa Giám mục, đã có lời thăm hỏi và chào mừng quý thầy. Ngài nhắc nhớ các thầy hãy hoàn tất các giấy nhận xét trong dịp tập vụ hè 2015 và có sự chuẩn bị sẵn sàng để bước vào năm học mới.
Hồi 8g30, cả Nhà nguyện vang lên những tràng pháo tay khi Đức Cha tiến vào với nụ cười tươi. Ngài tỏ bày niềm vui khi nhìn xuống thấy đông đảo các thầy là những người cộng tác làm trong vườn nho của Chúa tại Giáo phận Thái Bình.
Ngỏ lời với các chủng sinh, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ nhấn mạnh đến tinh thần gia đình trong việc cộng tác và chia sẻ trách nhiệm với Giáo Hội nói chung và cách riêng là với Giáo phận Thái Bình. Bởi vì, các chủng sinh được mời gọi và đào tạo để trở thành các cộng tác viên, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, trở nên Chúa Kitô thứ hai.
Đồng thời, Đức Cha nhắn nhủ các thầy, bước vào năm học mới hãy cố gắng tu luyện bản thân và học tập cho tốt. Ngài cho thấy, nhờ việc thường xuyên ý thức rèn luyện bản thân sẽ làm cho ơn gọi mình ngày càng thăng tiến. Bởi vì, phải là những hạt giống tốt và phải chịu cắt tỉa, uốn nắn bởi những người chăm sóc vườn cây thì mới có thể phát triển để mang lại hoa những trái tốt lành.
Đỉnh cao của buổi gặp mặt hôm nay là thánh lễ tạ ơn vào hồi 10g00, do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ sự. Đồng tế với ngài, có cha Giám đốc Gioan B. Nguyễn Sơn Hải, quý cha gia đình Tòa Giám mục và Đại Chủng Viện Thánh Tâm Mỹ Đức, cùng với sự hiệp thông của quý thầy phó tế.
Mở đầu thánh lễ, Đức Cha ngỏ lời chào cộng đoàn phụng phụ. Đồng thời, ngài mời gọi mọi thành phần cùng hiệp ý cầu nguyện cho công việc đào tạo và vun trồng ơn gọi của Giáo phận ngày càng mang lại hoa trái thiêng liêng và đạt được kết quả tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
Trong bài giảng, Đức Cha đề cập đến sự hi sinh cần có của mọi người nói chung và những người theo đuổi ơn gọi dâng mình cho Chúa nói riêng. Ngài mời gọi các chủng sinh nhìn lên Chúa Kitô - Linh mục - trên Thánh giá để hướng tới và noi theo Ngài.
Kết thúc Thánh lễ, quý thầy cùng chụp chung với Đức Cha và quý cha những tấm hình lưu niệm. Sau đó mọi người cùng nhau quây quần trong bữa cơm tình gia đình.
Ban Truyền thông Giáo phận Thái Bình
Giáo xứ Gia Định : Thánh Lễ Khai Giảng Năm Học Giáo Lý 2015-2016
Vũ Văn Vượng
08:00 02/09/2015
Giáo xứ Gia Định: Thánh Lễ Khai Giảng Năm Học Giáo Lý Mới 2015-2016
Vào lúc 8g30 ngày 30 tháng 8 năm 2015 nhằm Chúa Nhật thứ 22 quanh năm, Cha Tổng Đại diện TGP Sài Gòn, Cha Sở Họ Đạo Gia Định - Ignatiô Hồ Văn Xuân, đã dâng Thánh lễ Khai giảng Năm học Giáo lý 2015-2016 cho xứ đoàn Thánh Tâm Gia Định. Cùng đồng tế với Cha Sở, có Cha Tuyên Úy Gioan Baotixita Lê Quốc Kiệt, và cha khách Giuse Trần Hoàng Quân.
Xem Hình
Đến hiệp dâng Thánh lễ Khai giảng còn có sự hiện diện của quý Thầy Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Về Trời, quý Thầy Dòng Thánh Tâm Huế; quý Sơ Dòng Phaolô thành Chartres, quý Sơ Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang, quý Sơ Dòng Mến Thánh Giá Vinh, quý Sơ Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Về Trời; cùng quý chức Hội đồng Mục vụ, quý Huynh trưởng, Giáo lý viên, quý bậc phụ huynh, cộng đoàn giáo dân và gần 1000 em thiếu nhi.
Trước khi Thánh lễ bắt đầu, Cha Tuyên úy xứ đoàn– Cha Gioan Baotixita Lê Quốc Kiệt đã trao khăn Trợ úy cho quý Thầy, quý Sơ mới đến làm mục vụ tại xứ đoàn. Cùng lúc, Cha Tuyên úy cũng đón nhận thêm trong gần 20 tân Dự trưởng và Huynh Trưởng Cấp I.
Mở đầu Thánh lễ, Cha Sở Ignatiô mời gọi quý Phụ huynh hãy cầu nguyện và cùng cộng tác với quý Cha, quý Thầy, quý Sơ, quý Anh Chị Huynh trưởng - Giáo lý viên trong việc giáo dục đức tin cho con em của mình.
Ngay sau những lời mời gọi của Cha chủ tế, một em thiếu nhi đại diện cho gần 1000 bạn học viên, dâng lời cám ơn Cha Sở, Cha Tuyên úy, quý Thầy, quý Sơ, quý chức Hội đồng Mục vụ, quý Anh Chị Huynh trưởng và Giáo lý viên, quý Phụ huynh và Ân nhân đã yêu thương, dạy dỗ đức tin. Trong tâm tình đó, các em cũng nói lên quyết tâm trong năm học này bằng những việc làm cụ thể như siêng năng tham dự Thánh lễ, viếng Thánh Thể Chúa, chuyên cần học hỏi Giáo lý và rèn luyện các nhân đức mỗi ngày một giống Chúa Giêsu Thánh Thể hơn.
Trong bài giảng của mình, khởi đi từ câu Lời Chúa trong thư của thánh Giacôbê: “Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (x. Gc 1, 17 - 27). Cha Sở giúp cộng đoàn hiểu thêm về giá trị của việc lắng nghe Lời Chúa. Theo ngài, việc lắng nghe Lời Chúa chỉ thực sự sinh ích nếu kẻ nghe Lời Chúa biết đem ra thực hành, còn nếu chỉ nghe mà không đem ra thực hành thì chỉ vô ích. Bởi vì, Lời Chúa là đèn soi, là ánh sáng chỉ đường, là kim chỉ nam hướng dẫn cho mỗi người Kitô hữu khỏi lầm đường lạc lối trong cuộc lữ thứ trần gian này.
Một lần nữa, Cha Sở cũng mời gọi các bậc phụ huynh cộng tác vào chương trình giáo dục đức tin bằng việc tạo điều kiện thuận tiện cho con em mình đến tham dự thánh lễ đúng giờ. Bởi theo ngài, người Kitô hữu được giáo dục đức tin bằng Lời Chúa, và được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa. Do đó, người Kitô hữu cần phải đi tham dự thánh lễ cách mau mắn, đầy đủ, để có thể kín múc những ơn thánh của Chúa cách trọn vẹn được.
Trong chuỗi ưu tư ấy, ngài cũng không ngần ngại cảnh báo các bậc phụ huynh về những hậu quả khó lường khi lơ là trong việc giáo dục đức tin cho con cái mình. Ngài cho biết rằng, một số bậc phụ huynh quá chú trọng đến việc học văn hóa đời mà quyên việc giáo dục đức tin. Một sự đầu tư bất quân bình như thế, có nguy cơ dẫn đến mất đức tin là rất cao. Trước những ưu tư của vị mục tử với hơn 40 năm mục vụ tại Giáo xứ sở tại, Cha Sở Ingatiô mời gọi các bậc phụ huynh cần có một kế hoạch giáo dục cách quân bình giữa đức tin và khoa học đời. Theo ngài, cách tốt nhất trong việc giáo dục đức tin cho con cái chính là bằng đời sống, gương sáng của các bậc cha mẹ. Tất cả những điều đó sẽ đi theo các em suốt thời thơ ấu kéo dài đến tuổi trưởng thành.
Về phía các em thiếu nhi, Cha sở khuyến khích các em Thiếu nhi hăng say học hỏi Kinh văn Giáo lý, siêng năng tham dự Thánh lễ, biết vâng lời cha mẹ, và những người hướng dẫn dạy dỗ các em.
Sau phần tuyên xưng đức tin, là nghi thức lặp lại lời tuyên thệ, tự do phục vụ của gần 80 anh chị em Dự Trưởng, Huynh Trưởng và Giáo Lý viên trước sự chứng kiến của Cha sở, Cha Tuyên úy và toàn thể cộng đoàn. Trước sự quảng đại dấn thân ấy, Cha sở đã tin tưởng trao các em thiếu nhi cho các Anh Chị Em Huynh Trưởng, Giáo Lý viên.
Trước khi Thánh lễ kết thức, cha Sở Ignatiô Hồ Văn Xuân nổi một hồi trống thật dài, chính thức Khai giảng Năm học Giáo lý mới 2015-2016, trong những tràng vỗ tay nhịp nhàng của gần 1000 em thiếu nhi và cộng đoàn.
Vào lúc 8g30 ngày 30 tháng 8 năm 2015 nhằm Chúa Nhật thứ 22 quanh năm, Cha Tổng Đại diện TGP Sài Gòn, Cha Sở Họ Đạo Gia Định - Ignatiô Hồ Văn Xuân, đã dâng Thánh lễ Khai giảng Năm học Giáo lý 2015-2016 cho xứ đoàn Thánh Tâm Gia Định. Cùng đồng tế với Cha Sở, có Cha Tuyên Úy Gioan Baotixita Lê Quốc Kiệt, và cha khách Giuse Trần Hoàng Quân.
Xem Hình
Đến hiệp dâng Thánh lễ Khai giảng còn có sự hiện diện của quý Thầy Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Về Trời, quý Thầy Dòng Thánh Tâm Huế; quý Sơ Dòng Phaolô thành Chartres, quý Sơ Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang, quý Sơ Dòng Mến Thánh Giá Vinh, quý Sơ Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Về Trời; cùng quý chức Hội đồng Mục vụ, quý Huynh trưởng, Giáo lý viên, quý bậc phụ huynh, cộng đoàn giáo dân và gần 1000 em thiếu nhi.
Trước khi Thánh lễ bắt đầu, Cha Tuyên úy xứ đoàn– Cha Gioan Baotixita Lê Quốc Kiệt đã trao khăn Trợ úy cho quý Thầy, quý Sơ mới đến làm mục vụ tại xứ đoàn. Cùng lúc, Cha Tuyên úy cũng đón nhận thêm trong gần 20 tân Dự trưởng và Huynh Trưởng Cấp I.
Mở đầu Thánh lễ, Cha Sở Ignatiô mời gọi quý Phụ huynh hãy cầu nguyện và cùng cộng tác với quý Cha, quý Thầy, quý Sơ, quý Anh Chị Huynh trưởng - Giáo lý viên trong việc giáo dục đức tin cho con em của mình.
Ngay sau những lời mời gọi của Cha chủ tế, một em thiếu nhi đại diện cho gần 1000 bạn học viên, dâng lời cám ơn Cha Sở, Cha Tuyên úy, quý Thầy, quý Sơ, quý chức Hội đồng Mục vụ, quý Anh Chị Huynh trưởng và Giáo lý viên, quý Phụ huynh và Ân nhân đã yêu thương, dạy dỗ đức tin. Trong tâm tình đó, các em cũng nói lên quyết tâm trong năm học này bằng những việc làm cụ thể như siêng năng tham dự Thánh lễ, viếng Thánh Thể Chúa, chuyên cần học hỏi Giáo lý và rèn luyện các nhân đức mỗi ngày một giống Chúa Giêsu Thánh Thể hơn.
Trong bài giảng của mình, khởi đi từ câu Lời Chúa trong thư của thánh Giacôbê: “Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (x. Gc 1, 17 - 27). Cha Sở giúp cộng đoàn hiểu thêm về giá trị của việc lắng nghe Lời Chúa. Theo ngài, việc lắng nghe Lời Chúa chỉ thực sự sinh ích nếu kẻ nghe Lời Chúa biết đem ra thực hành, còn nếu chỉ nghe mà không đem ra thực hành thì chỉ vô ích. Bởi vì, Lời Chúa là đèn soi, là ánh sáng chỉ đường, là kim chỉ nam hướng dẫn cho mỗi người Kitô hữu khỏi lầm đường lạc lối trong cuộc lữ thứ trần gian này.
Một lần nữa, Cha Sở cũng mời gọi các bậc phụ huynh cộng tác vào chương trình giáo dục đức tin bằng việc tạo điều kiện thuận tiện cho con em mình đến tham dự thánh lễ đúng giờ. Bởi theo ngài, người Kitô hữu được giáo dục đức tin bằng Lời Chúa, và được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa. Do đó, người Kitô hữu cần phải đi tham dự thánh lễ cách mau mắn, đầy đủ, để có thể kín múc những ơn thánh của Chúa cách trọn vẹn được.
Trong chuỗi ưu tư ấy, ngài cũng không ngần ngại cảnh báo các bậc phụ huynh về những hậu quả khó lường khi lơ là trong việc giáo dục đức tin cho con cái mình. Ngài cho biết rằng, một số bậc phụ huynh quá chú trọng đến việc học văn hóa đời mà quyên việc giáo dục đức tin. Một sự đầu tư bất quân bình như thế, có nguy cơ dẫn đến mất đức tin là rất cao. Trước những ưu tư của vị mục tử với hơn 40 năm mục vụ tại Giáo xứ sở tại, Cha Sở Ingatiô mời gọi các bậc phụ huynh cần có một kế hoạch giáo dục cách quân bình giữa đức tin và khoa học đời. Theo ngài, cách tốt nhất trong việc giáo dục đức tin cho con cái chính là bằng đời sống, gương sáng của các bậc cha mẹ. Tất cả những điều đó sẽ đi theo các em suốt thời thơ ấu kéo dài đến tuổi trưởng thành.
Về phía các em thiếu nhi, Cha sở khuyến khích các em Thiếu nhi hăng say học hỏi Kinh văn Giáo lý, siêng năng tham dự Thánh lễ, biết vâng lời cha mẹ, và những người hướng dẫn dạy dỗ các em.
Sau phần tuyên xưng đức tin, là nghi thức lặp lại lời tuyên thệ, tự do phục vụ của gần 80 anh chị em Dự Trưởng, Huynh Trưởng và Giáo Lý viên trước sự chứng kiến của Cha sở, Cha Tuyên úy và toàn thể cộng đoàn. Trước sự quảng đại dấn thân ấy, Cha sở đã tin tưởng trao các em thiếu nhi cho các Anh Chị Em Huynh Trưởng, Giáo Lý viên.
Trước khi Thánh lễ kết thức, cha Sở Ignatiô Hồ Văn Xuân nổi một hồi trống thật dài, chính thức Khai giảng Năm học Giáo lý mới 2015-2016, trong những tràng vỗ tay nhịp nhàng của gần 1000 em thiếu nhi và cộng đoàn.
Hội các bà mẹ Công Giáo xứ Thăng Long, Phú Thọ mừng lễ bổn mạng
Văn Minh
08:13 02/09/2015
GX. Thăng Long: Hội CBMCG mừng bổn mạng
“Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”. Câu nói trên đã được Thánh nữ Mônica thốt lên, vui mừng khi thấy người con Augustinô trở về với Chúa, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Xem Hình
Vào lúc 17g30 thứ Năm ngày 27.08.2015, tại giáo xứ Thăng Long, giáo hạt Phú Thọ, cha chánh xứ Banaba Trần Cương Quyết đã long trọng dâng Thánh lễ mừng kính Thánh nữ Mônica – bổn mạng Hội Các Bà Mẹ Công Giáo (CBMCG) giáo xứ Thăng Long (kỷ niệm 30 năm thành lập).
Đến tham dự Thánh lễ ngoài quý Hội CBMCG còn có quý vị đại diện Ban Tôn giáo quận 11, quý vị khách mời và cộng đoàn giáo xứ.
Trước Thánh lễ, Hội CBMCG cùng với cờ đoàn rước cha chủ tế từ ngoài tiền sảnh vào trong ngôi thánh đường hòa trong bài hát ca nhập lễ “Về đây hỡi người” từ ca đoàn Thánh Mẫu.
Đầu lễ, cha Banaba mời gọi cộng đoàn, cách riêng đối với Hội CBMCG cùng nhau cầu nguyện cho quý cha linh hướng cùng các hội viên đã qua đời. Đồng thời, mỗi người cũng cầu nguyện cho chính bản thân mình luôn vững lòng tin, tinh thần hăng say phục và chu toàn sứ vụ của mình.
Trong bài giảng lễ, cha Banaba dựa bài Tin Mừng chia sẻ: Thánh nữ Mônica sinh ra trong một gia đình bình dân, có truyền thống đạo hạnh và nhân hậu, nhờ đó mà Thánh nữ hấp thụ được một nền giáo dục về tính nhân từ, lòng hiền hậu, và biết yêu thương mọi người. Sau khi lấy chồng, về làm dâu trong một gia đình giàu sang, phú quý, tưởng rằng sẽ hạnh phúc. Trái lại, Thánh nữ Mônica gặp phải người chồng ngang tàng, hách dịch, rượu chè say sưa, tính tình nóng nảy và không chung thủy. Bên cạnh đó, Mônica lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho Mônica buồn nhất là bà mẹ chồng lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng tự do của chồng, vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ. Tuy vậy, Mônica vẫn không oán trách mà chỉ với một lòng tin cậy vào Thiên Chúa, gia tăng làm việc lành và hy sinh hãm mình để cầu nguyện cho chồng con. Chính nhờ lời cầu nguyện liên lỉ cùng với những dòng nước mắt của Thánh nữ nên Thiên Chúa đã nhận lời: người chồng và người con đã xin trở lại đạo Chúa và lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, về sau, người con là vị Thánh của Giáo Hội.
Cha xứ giảng tiếp: Nhìn tấm gương của Thánh nữ Mônica một đời hy sinh sống âm thầm vì chồng con, xây dựng gia đình hạnh phúc, ước mong các hội viên trong giáo xứ hãy bắt chước tấm gương nhân đức của Thánh nhân, luôn biết chia sẻ bác ái và giúp đỡ cho những người nghèo, người bất hạnh xung quanh mình, chuyên cần suy niệm Lời Chúa trong gia đình và môi trường ngoài xã hội. Bên cạnh đó, các chị em trong Hội cũng biết quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau bằng vật chất cũng như tinh thần. Có như vậy, chúng ta mới tìm thấy hạnh phúc ngay ở đời nầy và vĩnh cửu ở đời sau.
Tiếp nối Thánh lễ, vị đại diện Hội CBMCG đọc lời nguyện tín hữu và dâng của lễ hèn mọn cùng cha chủ tế dâng lên Thiên Chúa với cả tấm lòng thành kính.
Sau bài hát hiệp lễ, quý Hội cùng cộng đoàn đọc kinh “Tân Phúc Âm hóa gia đình và các cộng đoàn sống đời thánh hiến”
Trước khi Cha ban phép lành cuối lễ, bà Hội trưởng Maria Mai Kim Dung, thay mặt lên cảm ơn cha xứ Banaba, quý chức trong HĐMV, quý vị đại diện các hội đoàn trong giáo xứ, quý vị khách mời đã đến hiệp dâng Thánh lễ được sốt sắng. Để tỏ lòng tri ân, vị đại diện dâng lên cha xứ bó hoa tươi thắm trong tiếng pháo tay giòn giã của cộng đoàn. Đáp từ, ngài ngỏ lời chúc mừng quý Hội nhân dịp mừng 30 năm, đồng thời, ngài ước mong tình chị em trong Hội luôn biết yêu thương quan tâm giúp đỡ lẫn nhau để ngày một phát triển.
Thánh lễ được khép lại lúc 19g00, sau đó, cha xứ cùng quý Hội chụp chung tấm hình kỷ niệm. Sau cùng là tiệc mừng liên hoan tại hội trường giáo xứ.
Đôi nét về Hội CBMCG giáo xứ Thăng Long:
Hội được thành lập năm 1985 do cha Antôn Mai Đức Huy làm linh hướng. Lúc đầu có 70 hội viên; đến nay, đã qua 10 nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ 03 năm) với các Hội trưởng: bà Maria Dương Thị Ngọc, bà Anna Trần Thị Ngọc Khanh, bà Maria Mai Kim Dung từ 2002 cho đến nay. Cùng với số hội viên là 90, hằng năm, Hội mừng bổn mạng vào ngày 27.08. Ngoài ra, những năm gần đây, Hội còn mừng lễ Thánh nữ Annê Lê Thị Thành ngày 12.07- bổn mạng CBMCG Việt Nam.
Mục đích: Nhằm thánh hóa bản thân, và vào mỗi thứ Bảy đầu tháng, hiệp cùng cha linh hướng cầu nguyện cho những hội viên còn sống cũng như đã qua đời, có các giờ kinh chung và tham dự giờ chầu Thánh Thể.
Trong gia đình, về phần xác, làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Bên cạnh đó, phải lo phần rỗi cho chồng con, luôn tận tụy, hy sinh và cầu nguyện, đọc kinh tối chung cùng gia đình.
Trong giáo xứ, luôn vâng nghe và cộng tác với cha sở, vệ sinh trong và ngoài thánh đường. Ngoài ra, tham gia đi phúng viếng người qua đời, giúp đỡ người gặp khó khăn, người khô khan nguội lạnh xa bỏ lễ, và đóng góp tiền của xây dựng nhà Chúa.
Đối với giáo hạt, Giáo phận, Hội luôn tích cực hưởng ứng khi giáo hạt, Giáo phận đề xướng như: hỗ trợ ơn gọi, thăm quý cha nhà hưu dưỡng, đóng góp xây dựng các giáo xứ nghèo vùng sâu, vùng xa, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm và các chương trình thường huấn khác. Nhân đây, BCH mời gọi và cũng là điều ước mong trong tương lai sẽ có nhiều các chị em trẻ tham gia vào Hội để cùng nhau xây dựng phát triển Hội ngày một phát triển hơn.
“Con ơi, không gì trên thế gian này làm mẹ vui. Mẹ không biết có gì còn lại cho mẹ làm hoặc tại sao mẹ lại vẫn ở đây, mọi hy vọng trên thế gian này mẹ đã được mãn nguyện”. Câu nói trên đã được Thánh nữ Mônica thốt lên, vui mừng khi thấy người con Augustinô trở về với Chúa, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Xem Hình
Vào lúc 17g30 thứ Năm ngày 27.08.2015, tại giáo xứ Thăng Long, giáo hạt Phú Thọ, cha chánh xứ Banaba Trần Cương Quyết đã long trọng dâng Thánh lễ mừng kính Thánh nữ Mônica – bổn mạng Hội Các Bà Mẹ Công Giáo (CBMCG) giáo xứ Thăng Long (kỷ niệm 30 năm thành lập).
Đến tham dự Thánh lễ ngoài quý Hội CBMCG còn có quý vị đại diện Ban Tôn giáo quận 11, quý vị khách mời và cộng đoàn giáo xứ.
Trước Thánh lễ, Hội CBMCG cùng với cờ đoàn rước cha chủ tế từ ngoài tiền sảnh vào trong ngôi thánh đường hòa trong bài hát ca nhập lễ “Về đây hỡi người” từ ca đoàn Thánh Mẫu.
Đầu lễ, cha Banaba mời gọi cộng đoàn, cách riêng đối với Hội CBMCG cùng nhau cầu nguyện cho quý cha linh hướng cùng các hội viên đã qua đời. Đồng thời, mỗi người cũng cầu nguyện cho chính bản thân mình luôn vững lòng tin, tinh thần hăng say phục và chu toàn sứ vụ của mình.
Trong bài giảng lễ, cha Banaba dựa bài Tin Mừng chia sẻ: Thánh nữ Mônica sinh ra trong một gia đình bình dân, có truyền thống đạo hạnh và nhân hậu, nhờ đó mà Thánh nữ hấp thụ được một nền giáo dục về tính nhân từ, lòng hiền hậu, và biết yêu thương mọi người. Sau khi lấy chồng, về làm dâu trong một gia đình giàu sang, phú quý, tưởng rằng sẽ hạnh phúc. Trái lại, Thánh nữ Mônica gặp phải người chồng ngang tàng, hách dịch, rượu chè say sưa, tính tình nóng nảy và không chung thủy. Bên cạnh đó, Mônica lại còn phải chịu cảnh hất hủi của mẹ chồng. Điều làm cho Mônica buồn nhất là bà mẹ chồng lại hùa theo con trai để bênh vực chủ trương không tôn giáo và đời sống phóng khoáng tự do của chồng, vì những lý do đó, cuộc sống gia đình của Mônica gặp rất nhiều khó khăn và đau khổ. Tuy vậy, Mônica vẫn không oán trách mà chỉ với một lòng tin cậy vào Thiên Chúa, gia tăng làm việc lành và hy sinh hãm mình để cầu nguyện cho chồng con. Chính nhờ lời cầu nguyện liên lỉ cùng với những dòng nước mắt của Thánh nữ nên Thiên Chúa đã nhận lời: người chồng và người con đã xin trở lại đạo Chúa và lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, về sau, người con là vị Thánh của Giáo Hội.
Cha xứ giảng tiếp: Nhìn tấm gương của Thánh nữ Mônica một đời hy sinh sống âm thầm vì chồng con, xây dựng gia đình hạnh phúc, ước mong các hội viên trong giáo xứ hãy bắt chước tấm gương nhân đức của Thánh nhân, luôn biết chia sẻ bác ái và giúp đỡ cho những người nghèo, người bất hạnh xung quanh mình, chuyên cần suy niệm Lời Chúa trong gia đình và môi trường ngoài xã hội. Bên cạnh đó, các chị em trong Hội cũng biết quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau bằng vật chất cũng như tinh thần. Có như vậy, chúng ta mới tìm thấy hạnh phúc ngay ở đời nầy và vĩnh cửu ở đời sau.
Tiếp nối Thánh lễ, vị đại diện Hội CBMCG đọc lời nguyện tín hữu và dâng của lễ hèn mọn cùng cha chủ tế dâng lên Thiên Chúa với cả tấm lòng thành kính.
Sau bài hát hiệp lễ, quý Hội cùng cộng đoàn đọc kinh “Tân Phúc Âm hóa gia đình và các cộng đoàn sống đời thánh hiến”
Trước khi Cha ban phép lành cuối lễ, bà Hội trưởng Maria Mai Kim Dung, thay mặt lên cảm ơn cha xứ Banaba, quý chức trong HĐMV, quý vị đại diện các hội đoàn trong giáo xứ, quý vị khách mời đã đến hiệp dâng Thánh lễ được sốt sắng. Để tỏ lòng tri ân, vị đại diện dâng lên cha xứ bó hoa tươi thắm trong tiếng pháo tay giòn giã của cộng đoàn. Đáp từ, ngài ngỏ lời chúc mừng quý Hội nhân dịp mừng 30 năm, đồng thời, ngài ước mong tình chị em trong Hội luôn biết yêu thương quan tâm giúp đỡ lẫn nhau để ngày một phát triển.
Thánh lễ được khép lại lúc 19g00, sau đó, cha xứ cùng quý Hội chụp chung tấm hình kỷ niệm. Sau cùng là tiệc mừng liên hoan tại hội trường giáo xứ.
Đôi nét về Hội CBMCG giáo xứ Thăng Long:
Hội được thành lập năm 1985 do cha Antôn Mai Đức Huy làm linh hướng. Lúc đầu có 70 hội viên; đến nay, đã qua 10 nhiệm kỳ (mỗi nhiệm kỳ 03 năm) với các Hội trưởng: bà Maria Dương Thị Ngọc, bà Anna Trần Thị Ngọc Khanh, bà Maria Mai Kim Dung từ 2002 cho đến nay. Cùng với số hội viên là 90, hằng năm, Hội mừng bổn mạng vào ngày 27.08. Ngoài ra, những năm gần đây, Hội còn mừng lễ Thánh nữ Annê Lê Thị Thành ngày 12.07- bổn mạng CBMCG Việt Nam.
Mục đích: Nhằm thánh hóa bản thân, và vào mỗi thứ Bảy đầu tháng, hiệp cùng cha linh hướng cầu nguyện cho những hội viên còn sống cũng như đã qua đời, có các giờ kinh chung và tham dự giờ chầu Thánh Thể.
Trong gia đình, về phần xác, làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ. Bên cạnh đó, phải lo phần rỗi cho chồng con, luôn tận tụy, hy sinh và cầu nguyện, đọc kinh tối chung cùng gia đình.
Trong giáo xứ, luôn vâng nghe và cộng tác với cha sở, vệ sinh trong và ngoài thánh đường. Ngoài ra, tham gia đi phúng viếng người qua đời, giúp đỡ người gặp khó khăn, người khô khan nguội lạnh xa bỏ lễ, và đóng góp tiền của xây dựng nhà Chúa.
Đối với giáo hạt, Giáo phận, Hội luôn tích cực hưởng ứng khi giáo hạt, Giáo phận đề xướng như: hỗ trợ ơn gọi, thăm quý cha nhà hưu dưỡng, đóng góp xây dựng các giáo xứ nghèo vùng sâu, vùng xa, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm và các chương trình thường huấn khác. Nhân đây, BCH mời gọi và cũng là điều ước mong trong tương lai sẽ có nhiều các chị em trẻ tham gia vào Hội để cùng nhau xây dựng phát triển Hội ngày một phát triển hơn.
Gp. Thái Bình: Kỷ niệm 130 năm thành lập Giáo họ Tăng Bổng
Ban Truyền thông Giáo phận
18:43 02/09/2015
Gp. Thái Bình: Kỷ niệm 130 năm thành lập Giáo họ Tăng Bổng
Chiều thứ Tư (02.9.2015), cộng đoàn Giáo họ Tăng Bổng hân hoan chào đón Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình - và quý cha về hiệp dâng thánh lễ nhân dịp mừng kỷ niệm 130 năm thành lập Giáo họ và mừng kính Sinh nhật Đức Maria - Quan thầy.
Xem Hình
Ngôi Nhà thờ Giáo họ Tăng Bổng tọa lạc tại xã Tân Lập, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; ngay bên tả ngạn Sông Hồng; cách Tòa Giám mục khoảng 14 km về hướng Tây Nam; phía Bắc giáp tỉnh Nam Định.
Được biết, hạt giống Tin Mừng đã được gieo vào mảnh đất Tăng Bổng khoảng giữa thế kỷ XIX. Năm 1885, Giáo họ Tăng Bổng chính thức được thành lập, thuộc xứ Sa Cát; nhận hai thánh bổn mạng: Sinh Nhật Đức Mẹ (8/9) và Thánh Cả Giuse (19/3).
Năm 1908, Tăng Bổng thuộc Giáo xứ Thái Bình. Năm 1942, Tăng Bổng thuộc Giáo xứ Nghĩa Chính.
Ngày 01.8.1999, Giáo họ xây nhà thờ mới dài 31,5m, rộng 11m, tum cao 24m, tháp cao 32m; hoàn thành ngày 10.01.2004.
Ngày 02.12.2006, Đức Cha Phanxicôxavie Nguyễn Văn Sang ban Sắc nâng Giáo họ Thuận Nghiệp lên hàng giáo xứ. Từ đó đến nay, Giáo họ Tăng Bổng thuộc Giáo xứ Thuận Nghiệp. Số Giáo dân của Giáo họ hiện tại là 170 nhân danh, được đặt dưới sự coi sóc của cha Giuse Phan Xuân Hào – Quản nhiệm xứ Thuận Nghiệp.
Nhân dịp mừng kỷ niệm 130 năm thành lập và mừng lễ Quan thầy, tối hôm trước (01.9.2015), sau thánh lễ vào hồi 18g00, Giáo họ tổ chức cuộc cung nghinh Thánh Thể qua các tạm chung quanh Nhà thờ.
Chiều nay, trước giờ lễ, các đoàn hội cũng luần phiên chầu Thánh Thể Chúa từ hồi 14g00 đến 15g30. Sau đó là cuộc rước kiệu Đức Maria vòng ra hai bên đường ngoài khuôn viên Nhà thờ.
Thánh lễ mừng kính Sinh nhật Đức Maria được long trọng cử hành hồi 16g15, do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ tế. Đồng tế với ngài, ngoài cha Quản nhiệm Giuse Phan Xuân Hào, còn có cha Tổng Đại diện F.Ass. Nguyễn Tiến Tám và quý cha, cùng với sự hiệp thông của quý thầy phó tế, quý tu sĩ, 8 Bam kèn và đông đảo cộng đoàn Dân Chúa vùng lân cận.
Mở đầu thánh lễ, Đức Cha ngỏ lời chào chúc cộng đoàn, ngài bày tỏ niềm vui mừng khi được chứng kiến tinh thần sống đạo sốt sắng của cộng đoàn nơi đây. Đồng thời, ngài mời gọi cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện và chúc mừng Giáo họ nhân dịp trọng đại này.
Chia sẻ trong thánh lễ, Đức Cha đã mời gọi cộng đoàn cùng nhìn lại lịch sử 130 năm thành lập Giáo họ để thấy đây là cơ hội chính đáng cho cộng đoàn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, và phải có trách nhiệm gìn giữ và đầu tư cho tương lai, cụ thể là đầu tư chăm sóc cho con em mình. Bởi vì, nếu con em mình được đầu tư để phát triển về mọi mặt, thì đó là cách chúng ta làm rạng danh các Bậc tổ tiên; ngược lại, nếu không được như vậy thì chúng cộng đoàn lại vô tình làm cho Bậc tổ tiên đau buồn.
Hơn nữa, Đức Cha cho thấy, mừng kỷ niệm 130 năm thành lập Giáo họ chính là cơ hội thôi thúc cộng đoàn giới thiệu Chúa Kitô cho những người chung quanh. Do đó, tôn thờ và tạ ơn Thiên Chúa trong ngôi Nhà thờ này chưa đủ, mà cộng đoàn còn phải làm chứng và loan báo Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người, trở nên muối và ánh sáng cho trần gian.
Cuối thánh lễ, vị đại diện Giáo họ bày tỏ tâm tình cám ơn Đức Cha và quý cha, cùng cộng đoàn hiện diện đã hiệp thông trong thánh lễ để cầu nguyện cho Giáo họ.
Thánh lễ được khép lai với tâm tình của bài ca “Magnificat”. Sau đó tất cả các em thiếu nhi nơi đây tiến lên nhận những phần quà của Đức Cha ban tặng.
Ban Truyền thông Giáo phận
Chiều thứ Tư (02.9.2015), cộng đoàn Giáo họ Tăng Bổng hân hoan chào đón Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình - và quý cha về hiệp dâng thánh lễ nhân dịp mừng kỷ niệm 130 năm thành lập Giáo họ và mừng kính Sinh nhật Đức Maria - Quan thầy.
Xem Hình
Ngôi Nhà thờ Giáo họ Tăng Bổng tọa lạc tại xã Tân Lập, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; ngay bên tả ngạn Sông Hồng; cách Tòa Giám mục khoảng 14 km về hướng Tây Nam; phía Bắc giáp tỉnh Nam Định.
Được biết, hạt giống Tin Mừng đã được gieo vào mảnh đất Tăng Bổng khoảng giữa thế kỷ XIX. Năm 1885, Giáo họ Tăng Bổng chính thức được thành lập, thuộc xứ Sa Cát; nhận hai thánh bổn mạng: Sinh Nhật Đức Mẹ (8/9) và Thánh Cả Giuse (19/3).
Năm 1908, Tăng Bổng thuộc Giáo xứ Thái Bình. Năm 1942, Tăng Bổng thuộc Giáo xứ Nghĩa Chính.
Ngày 01.8.1999, Giáo họ xây nhà thờ mới dài 31,5m, rộng 11m, tum cao 24m, tháp cao 32m; hoàn thành ngày 10.01.2004.
Ngày 02.12.2006, Đức Cha Phanxicôxavie Nguyễn Văn Sang ban Sắc nâng Giáo họ Thuận Nghiệp lên hàng giáo xứ. Từ đó đến nay, Giáo họ Tăng Bổng thuộc Giáo xứ Thuận Nghiệp. Số Giáo dân của Giáo họ hiện tại là 170 nhân danh, được đặt dưới sự coi sóc của cha Giuse Phan Xuân Hào – Quản nhiệm xứ Thuận Nghiệp.
Nhân dịp mừng kỷ niệm 130 năm thành lập và mừng lễ Quan thầy, tối hôm trước (01.9.2015), sau thánh lễ vào hồi 18g00, Giáo họ tổ chức cuộc cung nghinh Thánh Thể qua các tạm chung quanh Nhà thờ.
Chiều nay, trước giờ lễ, các đoàn hội cũng luần phiên chầu Thánh Thể Chúa từ hồi 14g00 đến 15g30. Sau đó là cuộc rước kiệu Đức Maria vòng ra hai bên đường ngoài khuôn viên Nhà thờ.
Thánh lễ mừng kính Sinh nhật Đức Maria được long trọng cử hành hồi 16g15, do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ tế. Đồng tế với ngài, ngoài cha Quản nhiệm Giuse Phan Xuân Hào, còn có cha Tổng Đại diện F.Ass. Nguyễn Tiến Tám và quý cha, cùng với sự hiệp thông của quý thầy phó tế, quý tu sĩ, 8 Bam kèn và đông đảo cộng đoàn Dân Chúa vùng lân cận.
Mở đầu thánh lễ, Đức Cha ngỏ lời chào chúc cộng đoàn, ngài bày tỏ niềm vui mừng khi được chứng kiến tinh thần sống đạo sốt sắng của cộng đoàn nơi đây. Đồng thời, ngài mời gọi cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện và chúc mừng Giáo họ nhân dịp trọng đại này.
Chia sẻ trong thánh lễ, Đức Cha đã mời gọi cộng đoàn cùng nhìn lại lịch sử 130 năm thành lập Giáo họ để thấy đây là cơ hội chính đáng cho cộng đoàn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, và phải có trách nhiệm gìn giữ và đầu tư cho tương lai, cụ thể là đầu tư chăm sóc cho con em mình. Bởi vì, nếu con em mình được đầu tư để phát triển về mọi mặt, thì đó là cách chúng ta làm rạng danh các Bậc tổ tiên; ngược lại, nếu không được như vậy thì chúng cộng đoàn lại vô tình làm cho Bậc tổ tiên đau buồn.
Hơn nữa, Đức Cha cho thấy, mừng kỷ niệm 130 năm thành lập Giáo họ chính là cơ hội thôi thúc cộng đoàn giới thiệu Chúa Kitô cho những người chung quanh. Do đó, tôn thờ và tạ ơn Thiên Chúa trong ngôi Nhà thờ này chưa đủ, mà cộng đoàn còn phải làm chứng và loan báo Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người, trở nên muối và ánh sáng cho trần gian.
Cuối thánh lễ, vị đại diện Giáo họ bày tỏ tâm tình cám ơn Đức Cha và quý cha, cùng cộng đoàn hiện diện đã hiệp thông trong thánh lễ để cầu nguyện cho Giáo họ.
Thánh lễ được khép lai với tâm tình của bài ca “Magnificat”. Sau đó tất cả các em thiếu nhi nơi đây tiến lên nhận những phần quà của Đức Cha ban tặng.
Ban Truyền thông Giáo phận
Thánh lễ tạ ơn – Cắt băng khánh thành Nhà thờ Giáo xứ An Vỹ, Thái Bình
BTT Thái Bình
08:00 02/09/2015
Gp. Thái Bình: Thánh lễ tạ ơn – Cắt băng khánh thành Nhà thờ Giáo xứ An Vỹ
Sáng Chúa Nhật (30.8.2015), cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ hân hoan chào đón Đức Cha Phêrô – Chủ chăn Giáo phận, cha Giám tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin và quý cha về dâng thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa nhân dịp cắt băng khánh thành và làm phép ngôi Nhà thờ mới của Giáo xứ.
Xem Hình
Ngôi Nhà thờ của Giáo xứ tọa lạc tại xã An Vỹ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; cách Tòa giám mục Thái Bình khoảng 80 km về hướng Tây Bắc.
Người dân An Vỹ được đón nhận Tin Mừng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ đó, giáo họ An Vỹ chính thức được thành lập, trở thành một họ lẻ của Giáo xứ Lực Điền. Tuy đón nhận đức tin hơi muộn so với nhiều giáo xứ, giáo họ khác, nhưng năm 1930, Đức Cha Phêrô Munagorri Trung đã ban Sắc nâng An Vỹ lên hàng giáo xứ.
Đời sống đức tin của giáo dân An Vỹ mạnh mẽ, mọi sinh hoạt tôn giáo sôi nổi. Tuy nhiên, biến cố 1954 đã đưa An Vỹ sang trang sử khác; nhà thờ bị trưng dụng làm kho trong khoảng thời gian khá dài; các giáo họ cũng bị mai một (trước kia, An Vỹ có tới 17 họ giáo nhưng thời gian sau này chỉ còn lại 4 họ giáo).
Năm 2005, cha xứ và cộng đoàn đã khởi công xây dựng Nhà thờ mới. Sau 10 năm xây dựng, ngôi Nhà thờ với chiều dài 40m, rộng 12m và tháp chuông cao 35m đã hoàn thành. Nay cộng đoàn An Vỹ cất cao lời tạ ơn Thiên Chúa.
Vào lúc 9g15 ngày 30.8.2015, giây phút linh thiêng nhất mà cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ mong đợi cũng đã đến. Khi đoàn rước từ nhà xứ tiến đến sân cuối nhà thờ, Đức Cha Phêrô, cha Giám tỉnh Micae Hoàng Đô Đốc, cha Hạt trưởng Tây Hưng Yên Giuse Phạm Văn Thiện, cha Giuse Nguyễn Văn Ban, Hier Nguyễn Ngọc Hinh và cha Micae Nguyễn Duy Hùng – chánh xứ An Vỹ - đã cắt băng khánh thành ngôi Nhà thờ thờ mới của Giáo xứ, trước sự chứng kiến của quý cha và đông đảo cộng đoàn hiện diện. Nghi thức này đã đánh dấu một mốc son mới trong lịch sử thăng tiến của Giáo xứ. Ngay sau nghi thức cắt băng, Đức Cha Phêrô mở cửa Nhà thờ và dẫn đoàn chiên tiến vào Nhà Chúa.
Trong ngày vui hôm nay, cha xứ đã đại diện cho cộng đoàn dâng lên Đức Cha lãng hoa tươi thắm, thể hiện lòng yêu mến của đoàn chiên nơi đây đối với vị Chủ chăn Giáo phận. Bên cạnh đó, các đoàn đại diện Chính quyền và tôn giáo bạn cũng có những lẵng hoa chúc mừng Giáo xứ An Vỹ.
Thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa được Đức Cha Phêrô cử hành lúc 9g30. Mở đầu thánh lễ, Đức Cha ngỏ lời chào chúc cộng đoàn. Đồng thời, ngài mời gọi cộng đoàn hãy luôn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không có niềm tin và lòng mến thì việc xây ngôi Nhà thờ này trong suốt 10 năm trở thành vô nghĩa. Nhưng, vì niềm tin, lòng mến với lòng hiếu kính, nên dù ngôi Nhà thờ này có đơn sơ cũng sẽ trở thành công trình đức tin vĩ đại và có ý nghĩa mà cộng đoàn đã biểu lộ để dâng cho Đấng mà chúng ta tôn thờ. Sau khi ngỏ lời với cộng đoàn, Đức Cha cử hành nghi thức làm phép ngôi Nhà thờ.
Trong bài giảng, Đức Cha đã đề cập đến nguồn gốc, ý nghĩa và mục đích của các Đấng sáng lập các tôn giáo. Từ đó, ngài giúp cho cộng đoàn có thể suy gẫm, duyệt xét và củng cố niềm tin của mình để không bị sai lầm.
Sau bài giảng, Đức Cha đã long trọng dâng lời cầu nguyện và cử hành nghi thức làm phép bàn thờ mới.
Cuối thánh lễ, ông Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ, đại diện cho cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ bày tỏ tâm tình cám ơn Đức Cha Phêrô, quý cha, quý ân nhân, quý khách và cộng đoàn đã tới hiệp thông với Giáo xứ trong ngày vui trọng đại này.
Trong niềm vui tạ ơn của cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ hôm nay, Đức Cha cũng không quên mang những phần quà bánh kẹo cho tất cả các em thiếu nhi nơi đây.
Giáo phậnBan Truyền thông
Sáng Chúa Nhật (30.8.2015), cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ hân hoan chào đón Đức Cha Phêrô – Chủ chăn Giáo phận, cha Giám tỉnh Dòng Thừa Sai Đức Tin và quý cha về dâng thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa nhân dịp cắt băng khánh thành và làm phép ngôi Nhà thờ mới của Giáo xứ.
Xem Hình
Ngôi Nhà thờ của Giáo xứ tọa lạc tại xã An Vỹ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên; cách Tòa giám mục Thái Bình khoảng 80 km về hướng Tây Bắc.
Người dân An Vỹ được đón nhận Tin Mừng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Từ đó, giáo họ An Vỹ chính thức được thành lập, trở thành một họ lẻ của Giáo xứ Lực Điền. Tuy đón nhận đức tin hơi muộn so với nhiều giáo xứ, giáo họ khác, nhưng năm 1930, Đức Cha Phêrô Munagorri Trung đã ban Sắc nâng An Vỹ lên hàng giáo xứ.
Đời sống đức tin của giáo dân An Vỹ mạnh mẽ, mọi sinh hoạt tôn giáo sôi nổi. Tuy nhiên, biến cố 1954 đã đưa An Vỹ sang trang sử khác; nhà thờ bị trưng dụng làm kho trong khoảng thời gian khá dài; các giáo họ cũng bị mai một (trước kia, An Vỹ có tới 17 họ giáo nhưng thời gian sau này chỉ còn lại 4 họ giáo).
Năm 2005, cha xứ và cộng đoàn đã khởi công xây dựng Nhà thờ mới. Sau 10 năm xây dựng, ngôi Nhà thờ với chiều dài 40m, rộng 12m và tháp chuông cao 35m đã hoàn thành. Nay cộng đoàn An Vỹ cất cao lời tạ ơn Thiên Chúa.
Vào lúc 9g15 ngày 30.8.2015, giây phút linh thiêng nhất mà cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ mong đợi cũng đã đến. Khi đoàn rước từ nhà xứ tiến đến sân cuối nhà thờ, Đức Cha Phêrô, cha Giám tỉnh Micae Hoàng Đô Đốc, cha Hạt trưởng Tây Hưng Yên Giuse Phạm Văn Thiện, cha Giuse Nguyễn Văn Ban, Hier Nguyễn Ngọc Hinh và cha Micae Nguyễn Duy Hùng – chánh xứ An Vỹ - đã cắt băng khánh thành ngôi Nhà thờ thờ mới của Giáo xứ, trước sự chứng kiến của quý cha và đông đảo cộng đoàn hiện diện. Nghi thức này đã đánh dấu một mốc son mới trong lịch sử thăng tiến của Giáo xứ. Ngay sau nghi thức cắt băng, Đức Cha Phêrô mở cửa Nhà thờ và dẫn đoàn chiên tiến vào Nhà Chúa.
Trong ngày vui hôm nay, cha xứ đã đại diện cho cộng đoàn dâng lên Đức Cha lãng hoa tươi thắm, thể hiện lòng yêu mến của đoàn chiên nơi đây đối với vị Chủ chăn Giáo phận. Bên cạnh đó, các đoàn đại diện Chính quyền và tôn giáo bạn cũng có những lẵng hoa chúc mừng Giáo xứ An Vỹ.
Thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa được Đức Cha Phêrô cử hành lúc 9g30. Mở đầu thánh lễ, Đức Cha ngỏ lời chào chúc cộng đoàn. Đồng thời, ngài mời gọi cộng đoàn hãy luôn tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không có niềm tin và lòng mến thì việc xây ngôi Nhà thờ này trong suốt 10 năm trở thành vô nghĩa. Nhưng, vì niềm tin, lòng mến với lòng hiếu kính, nên dù ngôi Nhà thờ này có đơn sơ cũng sẽ trở thành công trình đức tin vĩ đại và có ý nghĩa mà cộng đoàn đã biểu lộ để dâng cho Đấng mà chúng ta tôn thờ. Sau khi ngỏ lời với cộng đoàn, Đức Cha cử hành nghi thức làm phép ngôi Nhà thờ.
Trong bài giảng, Đức Cha đã đề cập đến nguồn gốc, ý nghĩa và mục đích của các Đấng sáng lập các tôn giáo. Từ đó, ngài giúp cho cộng đoàn có thể suy gẫm, duyệt xét và củng cố niềm tin của mình để không bị sai lầm.
Sau bài giảng, Đức Cha đã long trọng dâng lời cầu nguyện và cử hành nghi thức làm phép bàn thờ mới.
Cuối thánh lễ, ông Chủ tịch Hội đồng Giáo xứ, đại diện cho cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ bày tỏ tâm tình cám ơn Đức Cha Phêrô, quý cha, quý ân nhân, quý khách và cộng đoàn đã tới hiệp thông với Giáo xứ trong ngày vui trọng đại này.
Trong niềm vui tạ ơn của cộng đoàn Giáo xứ An Vỹ hôm nay, Đức Cha cũng không quên mang những phần quà bánh kẹo cho tất cả các em thiếu nhi nơi đây.
Giáo phậnBan Truyền thông
Khánh thành nhà thờ giáo họ Na Rì, Bắc Kạn
Đặng Hằng
18:53 02/09/2015
Khánh thành nhà thờ giáo họ Na Rì, Bắc Kạn
Giáo xứ Bắc Kạn: Niềm vui cho cộng đoàn Dân Chúa nơi vùng sơn cước Bắc Kạn là Khánh thành nhà thờ giáo họ Na Rì và thánh lễ tạ ơn Đức Mẹ Nà Phặc.
Xem Hình
Ngày 30/8 là một ngày thật đặc biệt đối với giáo xứ Bắc Kạn khi được đón cha Tổng đại diện giáo phận Bắc Ninh Giuse Nguyễn Đức Hiểu tới dâng thánh lễ khánh thành nhà thờ giáo họ Na Rì và ban bí tích khai tâm cho một gia đình có 5 thành viên là người H’Mông tại giáo họ Nà Phặc.
Thánh lễ sáng tại giáo họ Na Rì.
Đúng 10 giờ, cha Tổng đại diện Giuse Nguyễn Đức Hiểu và cha chính xứ Bắc kạn Giuse Nguyễn Văn Tĩnh đã tiến ra phía trước nhà thờ cùng với đại diện dân họ Nà Rì và đại diện Chính quyền huyện Na Rì cắt băng khánh thành và làm phép ngôi nhà thờ. Bà con giáo dân vô cùng vui mừng trong tiếng vỗ tay vì từ nay đã có một ngôi nhà thờ tuy nhỏ nhưng ấm cúng để mọi người cùng tụ họp dâng lời cầu nguyện và tạ ơn hồng ân Thiên Chúa.
Tại Nà Phặc:
Chung vui với niềm vui của bà con giáo họ Na Rì, giáo họ Nà Phặc vui mừng hơn nữa khi đón cha Tổng đại diện trong thánh lễ chiều cùng ngày để tạ ơn Đức Mẹ và rửa tội cho một gia đình người H’Mông đón nhận ánh sáng Tin Mừng của Chúa. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2008, Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ giám mục giáo phận Bắc Ninh đã dâng kính Đức Mẹ một bó hoa đặc biệt và cầu nguyện với Đức Mẹ cho giáo họ Nà Phặc có một ngôi nhà nguyện để kính thờ Thiên Chúa thì nay nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, lời xin tha thiết ấy đã thành hiện thực. Hơn thế nữa, Nà Phặc còn vui mừng khi có cả một gia đình người H’Mông có 5 thành viên xin được lãnh nhận các Bí tích khai tâm Kitô giáo. Đó là một hồng ân lớn lao mà Chúa đã ban cho Nà Phặc cách riêng và Giáo Hội nói chung, để từ những hạt giống Tin mừng được gieo trên đất này sẽ nảy nở và sinh nhiều hoa trái.
Nhấn mạnh về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người cha Tổng đại diện đã diễn giải cho cộng đoàn hiểu rằng, những hồng ân lớn lao Thiên Chúa ban không phải do công trạng của chúng ta mà chỉ bởi chúng ta có may mắn được là con Thiên Chúa, được sống trong tình yêu quan phòng của Ngài. Nguyện xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria Nà Phặc, xin cho mỗi người chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng là con cái của Người, để mai này được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban.
Đặng Hằng, BK
Giáo xứ Bắc Kạn: Niềm vui cho cộng đoàn Dân Chúa nơi vùng sơn cước Bắc Kạn là Khánh thành nhà thờ giáo họ Na Rì và thánh lễ tạ ơn Đức Mẹ Nà Phặc.
Xem Hình
Ngày 30/8 là một ngày thật đặc biệt đối với giáo xứ Bắc Kạn khi được đón cha Tổng đại diện giáo phận Bắc Ninh Giuse Nguyễn Đức Hiểu tới dâng thánh lễ khánh thành nhà thờ giáo họ Na Rì và ban bí tích khai tâm cho một gia đình có 5 thành viên là người H’Mông tại giáo họ Nà Phặc.
Thánh lễ sáng tại giáo họ Na Rì.
Đúng 10 giờ, cha Tổng đại diện Giuse Nguyễn Đức Hiểu và cha chính xứ Bắc kạn Giuse Nguyễn Văn Tĩnh đã tiến ra phía trước nhà thờ cùng với đại diện dân họ Nà Rì và đại diện Chính quyền huyện Na Rì cắt băng khánh thành và làm phép ngôi nhà thờ. Bà con giáo dân vô cùng vui mừng trong tiếng vỗ tay vì từ nay đã có một ngôi nhà thờ tuy nhỏ nhưng ấm cúng để mọi người cùng tụ họp dâng lời cầu nguyện và tạ ơn hồng ân Thiên Chúa.
Tại Nà Phặc:
Chung vui với niềm vui của bà con giáo họ Na Rì, giáo họ Nà Phặc vui mừng hơn nữa khi đón cha Tổng đại diện trong thánh lễ chiều cùng ngày để tạ ơn Đức Mẹ và rửa tội cho một gia đình người H’Mông đón nhận ánh sáng Tin Mừng của Chúa. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2008, Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ giám mục giáo phận Bắc Ninh đã dâng kính Đức Mẹ một bó hoa đặc biệt và cầu nguyện với Đức Mẹ cho giáo họ Nà Phặc có một ngôi nhà nguyện để kính thờ Thiên Chúa thì nay nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, lời xin tha thiết ấy đã thành hiện thực. Hơn thế nữa, Nà Phặc còn vui mừng khi có cả một gia đình người H’Mông có 5 thành viên xin được lãnh nhận các Bí tích khai tâm Kitô giáo. Đó là một hồng ân lớn lao mà Chúa đã ban cho Nà Phặc cách riêng và Giáo Hội nói chung, để từ những hạt giống Tin mừng được gieo trên đất này sẽ nảy nở và sinh nhiều hoa trái.
Nhấn mạnh về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người cha Tổng đại diện đã diễn giải cho cộng đoàn hiểu rằng, những hồng ân lớn lao Thiên Chúa ban không phải do công trạng của chúng ta mà chỉ bởi chúng ta có may mắn được là con Thiên Chúa, được sống trong tình yêu quan phòng của Ngài. Nguyện xin Chúa nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria Nà Phặc, xin cho mỗi người chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng là con cái của Người, để mai này được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban.
Đặng Hằng, BK
Nà Phặc, Bắc Kạn mùa hồng ân
Mai Ân
19:04 02/09/2015
Nà Phặc mùa hồng ân
Những con mưa còn xót lại của mùa Vu Lan như tấm lòng tri ân đến các đấng bậc tiền nhân, ngày 1-9 là một biến cố mà Đức Mẹ thực thi sứ mệnh “lên đường đi đến miền núi”: mảnh đất Nà Phặc, cách đây bẩy năm về trước Nà Phặc là một giáo điểm hoang vu, tưởng như không còn sức sống. Biến cố ngày 1/9/2008 đã trở thành mốc lịch sử quan trọng khi đó Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bắc Ninh, ngày đã đến thăm giáo xứ Bắc Kạn và chào thăm UBND tỉnh Bắc Kạn, ngài Chủ tịch đã tặng bó hoa, Đức Cha dùng bó hoa dâng lên Mẹ và khẩn nguyện nơi đây có một ngôi thánh đường thờ phượng Chúa, lời khẩn nguyện ấy hôm nay đã trở thành hiện thực.
Xem Hình
Những ngày này mưa rừng lại kéo đến, khi lâm thâm, khi dào dạt, tiếng lách tách từ mái tranh nhỏ xuống, những đôi mắt nhìn lên bầu trời mây đen vần vũ, mưa vẫn rơi, lòng người vẫn ngóng đợi, Mẹ ơi! hay ngừng mưa cho chúng con một ngày ghi nhớ, mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất cho thánh lễ tạ ơn biến cố mà Mẹ đã thực thi trên mảnh đất Nà Phặc. Cuối thánh lễ ngày thứ bảy cha xứ thông báo vì lý do sức khỏe, Đức Cha không có mặt trong thánh lễ tạ ơn, một không gian im lặng, một nỗi buồn bao chùm lên không gian ảm đạm, cha xứ vẫn động viên Chúa luôn có cách dẫn chúng ta đến bờ Hy Vọng, dù Đức Cha không hiện diện nhưng qua sự hiện diện của Cha Tổng Đại Diện Giuse Nguyễn Đức Hiểu cũng nói lên tấm lòng của Đức Cha dành cho giáo xứ Bắc Kạn.
Quả thực những dự đoán chỉ là dự đoán, chiều nay giáo họ Nà Phặc lại bừng lên niềm vui khôn tả, tiếng kèn lại vang lên thánh ca “Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời” dưới chân Mẹ đoàn con cái Mẹ đã về, các giáo xứ, giáo họ, Cao Bằng, Thái Nguyên... Đặc biệt tại Nà Phặc, bà con lương dân đến đông đủ, những người mà trước đây rất e dè, lạ lẫm, sợ sệt chưa biết đến Chúa, thì hôm nay tiếng chuông và lời kinh như một phần trong cuộc sống của họ, bà con cũng cảm nhận được chung phần trong thánh lễ. Thánh lễ đồng tế diễn ra dưới chân Mẹ, bài thuyết giảng của cha tổng đại diện rất đơn sơ đi vào lòng người, lối dẫn giảng là một câu chuyện xuyên qua các bài đọc, những ý đồ xấu phát xuất từ bên trong, tuy bên ngoài được che đạy lớp hào quang. Người Công Giáo được thâu tóm về hai điều “mến Chúa và yêu người”. Hôm nay thánh lễ có một nghi thức rất quan trọng, đánh dấu mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái, nghi thức thanh tẩy cho một gia đình người H’Mông gồm 5 thành viên là dấu chứng rõ ràng họ đã can đảm bước theo Chúa, làm chứng cho những người dân tộc thiểu số và những người dân tộc anh em như Tày, Nùng, Dao đang hiện diện tại đây một điều quan trọng “Chúa là gia nghiệp đời con”. Thánh lễ là sự hiệp nhất của các dân tộc anh em trong một ngôi nhà, phần hiệp lễ, tạo thành một góc hướng tâm, giáo dân hiệp lễ chính bàn thờ, bà con dân tộc chưa cùng tôn giáo đón nhận ơn bình an từ cha Tổng đại diện, từ em nhỏ, đến cụ ông, cụ bà, thanh niên... họ thinh lặng cúi đầu để đón nhận phúc lành của Chúa.
Thánh lễ kết thúc cộng đồng chung phần đồng bàn với nhau, cùng quý cấp chính quyền thị trấn Nà Phặc, một bầu không khí của những tiếng cười trên những khuôn mặt dịu hiền, ánh trăng thượng tuần đổ tràn khắp núi rừng, hắt lên màu bàng bạc xen lẫn mây khói, gió mùa thu thoảng nhẹ mang hương lúa hoà lẫn hoa sữa êm dịu như tình Mẹ miên man, lòng mỗi người tràn ngập ơn bình an.
Mai Ân
Những con mưa còn xót lại của mùa Vu Lan như tấm lòng tri ân đến các đấng bậc tiền nhân, ngày 1-9 là một biến cố mà Đức Mẹ thực thi sứ mệnh “lên đường đi đến miền núi”: mảnh đất Nà Phặc, cách đây bẩy năm về trước Nà Phặc là một giáo điểm hoang vu, tưởng như không còn sức sống. Biến cố ngày 1/9/2008 đã trở thành mốc lịch sử quan trọng khi đó Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bắc Ninh, ngày đã đến thăm giáo xứ Bắc Kạn và chào thăm UBND tỉnh Bắc Kạn, ngài Chủ tịch đã tặng bó hoa, Đức Cha dùng bó hoa dâng lên Mẹ và khẩn nguyện nơi đây có một ngôi thánh đường thờ phượng Chúa, lời khẩn nguyện ấy hôm nay đã trở thành hiện thực.
Xem Hình
Những ngày này mưa rừng lại kéo đến, khi lâm thâm, khi dào dạt, tiếng lách tách từ mái tranh nhỏ xuống, những đôi mắt nhìn lên bầu trời mây đen vần vũ, mưa vẫn rơi, lòng người vẫn ngóng đợi, Mẹ ơi! hay ngừng mưa cho chúng con một ngày ghi nhớ, mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất cho thánh lễ tạ ơn biến cố mà Mẹ đã thực thi trên mảnh đất Nà Phặc. Cuối thánh lễ ngày thứ bảy cha xứ thông báo vì lý do sức khỏe, Đức Cha không có mặt trong thánh lễ tạ ơn, một không gian im lặng, một nỗi buồn bao chùm lên không gian ảm đạm, cha xứ vẫn động viên Chúa luôn có cách dẫn chúng ta đến bờ Hy Vọng, dù Đức Cha không hiện diện nhưng qua sự hiện diện của Cha Tổng Đại Diện Giuse Nguyễn Đức Hiểu cũng nói lên tấm lòng của Đức Cha dành cho giáo xứ Bắc Kạn.
Quả thực những dự đoán chỉ là dự đoán, chiều nay giáo họ Nà Phặc lại bừng lên niềm vui khôn tả, tiếng kèn lại vang lên thánh ca “Lạy Chúa chúng con về từ bốn phương trời” dưới chân Mẹ đoàn con cái Mẹ đã về, các giáo xứ, giáo họ, Cao Bằng, Thái Nguyên... Đặc biệt tại Nà Phặc, bà con lương dân đến đông đủ, những người mà trước đây rất e dè, lạ lẫm, sợ sệt chưa biết đến Chúa, thì hôm nay tiếng chuông và lời kinh như một phần trong cuộc sống của họ, bà con cũng cảm nhận được chung phần trong thánh lễ. Thánh lễ đồng tế diễn ra dưới chân Mẹ, bài thuyết giảng của cha tổng đại diện rất đơn sơ đi vào lòng người, lối dẫn giảng là một câu chuyện xuyên qua các bài đọc, những ý đồ xấu phát xuất từ bên trong, tuy bên ngoài được che đạy lớp hào quang. Người Công Giáo được thâu tóm về hai điều “mến Chúa và yêu người”. Hôm nay thánh lễ có một nghi thức rất quan trọng, đánh dấu mảnh đất này đã trổ sinh hoa trái, nghi thức thanh tẩy cho một gia đình người H’Mông gồm 5 thành viên là dấu chứng rõ ràng họ đã can đảm bước theo Chúa, làm chứng cho những người dân tộc thiểu số và những người dân tộc anh em như Tày, Nùng, Dao đang hiện diện tại đây một điều quan trọng “Chúa là gia nghiệp đời con”. Thánh lễ là sự hiệp nhất của các dân tộc anh em trong một ngôi nhà, phần hiệp lễ, tạo thành một góc hướng tâm, giáo dân hiệp lễ chính bàn thờ, bà con dân tộc chưa cùng tôn giáo đón nhận ơn bình an từ cha Tổng đại diện, từ em nhỏ, đến cụ ông, cụ bà, thanh niên... họ thinh lặng cúi đầu để đón nhận phúc lành của Chúa.
Thánh lễ kết thúc cộng đồng chung phần đồng bàn với nhau, cùng quý cấp chính quyền thị trấn Nà Phặc, một bầu không khí của những tiếng cười trên những khuôn mặt dịu hiền, ánh trăng thượng tuần đổ tràn khắp núi rừng, hắt lên màu bàng bạc xen lẫn mây khói, gió mùa thu thoảng nhẹ mang hương lúa hoà lẫn hoa sữa êm dịu như tình Mẹ miên man, lòng mỗi người tràn ngập ơn bình an.
Mai Ân
Hành hương đền Đức Mẹ La Mã Bến Tre trong ngày 2 tháng 9
Người Giồng Trôm
19:19 02/09/2015
ĐỀN ĐỨC MẸ LA MÃ BẾN TRE HÀNH HƯƠNG 2 - 9
2 - 9 là ngày nghỉ, con cái của Mẹ từ nhiều nơi, cách riêng giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng đã dắt dìu nhau về hành hương bên Mẹ La Mã Bến Tre. Từ sáng sớm, con cái của Mẹ đã túa về trung tâm hành hương nhỏ bé của giáo phận Vĩnh Long.
Để chuẩn bị tâm hồn rước Chúa cũng như lãnh ơn toàn xá, quý cha đã hiện diện xung quanh nhà thờ để trao ban bí tích Hòa Giải cho cộng đoàn dân Chúa.
Xem Hình
9 g 30, giờ hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp do Cha Anphongsô Trần Ngọc Hướng hướng dẫn cộng đoàn.
10 g 00, thánh lễ đồng tế. Chủ tế Thánh Lễ hôm nay là Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích - Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Cùng đồng tế với Cha Giám Tỉnh có cha Đaminh Nguyễn Hữu Trung (phụ trách trung tâm hành hương La Mã), cha Tôma Trần Quốc Hùng (vị phụ trách tiền nhiệm trung tâm La Mã trước cha Đaminh Trung), cha Phêrô Nguyễn Thành Tâm (nguyên đặc trách thiếu nhi Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng - cũng là người có lòng sùng kính và yêu mến Đức Mẹ La Mã Bến Tre cách đặc biệt) và một số cha khác thuộc Dòng Chúa Cứu Thế.
Chia sẻ Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay cũng do cha Giám Tỉnh Giuse Nguyễn Ngọc Bích. (kính mời xem video giảng của Cha Giuse: https://youtu.be/lVH0qkRVb3o).
Trước khi nhận phép lành lãnh ơn toàn xá, cha Đaminh Nguyễn Hữu Trung có đôi lời cảm ơn Cha Giám Tỉnh, quý cha, quý tu sĩ nam nữ cùng cộng đoàn dân Chúa. Cách riêng, trong bài cám ơn, cha Đaminh cảm ơn các em thiếu nhi (còn gọi là thiếu nhi cha Thành Tâm) từ Sài Gòn về phục vụ buổi hành hương này.
Sau khi nhận phép lành lãnh ơn toàn xá, con cái Mẹ lại quây quần bên Mẹ, người xin ơn, người tạ ơn Đức Mẹ. Cũng có người nán lại với Đức Mẹ thật lâu như chưa muốn rời bước.
Mọi người lại ra về sau cuộc hành hương này và hò hẹn nhau gặp lại nhau nơi mảnh đất thiêng thánh La Mã Bến Tre vào ngày 7 tháng 10 sắp tới đây.
Được biết, ngày 7 tháng 10 tới đây, tại trung tâm hành hương La Mã Bến Tre sẽ có cuộc hành hương kính Mẹ nhân dịp kỷ niệm Mẹ lộ hình. Thánh Lễ được cha Phêrô Dương Văn Thạnh Giám Quản giáo phận Vĩnh Long chủ tế, đồng tế có đức ông Barnabê Nguyễn Văn Phương cùng quý cha trong giáo phận Vĩnh Long, quý cha Dòng Chúa Cứu Thế và quý cha khách.
Người Giồng Trôm
2 - 9 là ngày nghỉ, con cái của Mẹ từ nhiều nơi, cách riêng giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng đã dắt dìu nhau về hành hương bên Mẹ La Mã Bến Tre. Từ sáng sớm, con cái của Mẹ đã túa về trung tâm hành hương nhỏ bé của giáo phận Vĩnh Long.
Để chuẩn bị tâm hồn rước Chúa cũng như lãnh ơn toàn xá, quý cha đã hiện diện xung quanh nhà thờ để trao ban bí tích Hòa Giải cho cộng đoàn dân Chúa.
Xem Hình
9 g 30, giờ hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp do Cha Anphongsô Trần Ngọc Hướng hướng dẫn cộng đoàn.
10 g 00, thánh lễ đồng tế. Chủ tế Thánh Lễ hôm nay là Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích - Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam. Cùng đồng tế với Cha Giám Tỉnh có cha Đaminh Nguyễn Hữu Trung (phụ trách trung tâm hành hương La Mã), cha Tôma Trần Quốc Hùng (vị phụ trách tiền nhiệm trung tâm La Mã trước cha Đaminh Trung), cha Phêrô Nguyễn Thành Tâm (nguyên đặc trách thiếu nhi Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Kỳ Đồng - cũng là người có lòng sùng kính và yêu mến Đức Mẹ La Mã Bến Tre cách đặc biệt) và một số cha khác thuộc Dòng Chúa Cứu Thế.
Chia sẻ Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay cũng do cha Giám Tỉnh Giuse Nguyễn Ngọc Bích. (kính mời xem video giảng của Cha Giuse: https://youtu.be/lVH0qkRVb3o).
Trước khi nhận phép lành lãnh ơn toàn xá, cha Đaminh Nguyễn Hữu Trung có đôi lời cảm ơn Cha Giám Tỉnh, quý cha, quý tu sĩ nam nữ cùng cộng đoàn dân Chúa. Cách riêng, trong bài cám ơn, cha Đaminh cảm ơn các em thiếu nhi (còn gọi là thiếu nhi cha Thành Tâm) từ Sài Gòn về phục vụ buổi hành hương này.
Sau khi nhận phép lành lãnh ơn toàn xá, con cái Mẹ lại quây quần bên Mẹ, người xin ơn, người tạ ơn Đức Mẹ. Cũng có người nán lại với Đức Mẹ thật lâu như chưa muốn rời bước.
Mọi người lại ra về sau cuộc hành hương này và hò hẹn nhau gặp lại nhau nơi mảnh đất thiêng thánh La Mã Bến Tre vào ngày 7 tháng 10 sắp tới đây.
Được biết, ngày 7 tháng 10 tới đây, tại trung tâm hành hương La Mã Bến Tre sẽ có cuộc hành hương kính Mẹ nhân dịp kỷ niệm Mẹ lộ hình. Thánh Lễ được cha Phêrô Dương Văn Thạnh Giám Quản giáo phận Vĩnh Long chủ tế, đồng tế có đức ông Barnabê Nguyễn Văn Phương cùng quý cha trong giáo phận Vĩnh Long, quý cha Dòng Chúa Cứu Thế và quý cha khách.
Người Giồng Trôm
Khai mạc Đại hội loan báo Tin Mừng toàn quốc lần III
Chỉnh Trần, SJ
21:07 02/09/2015
Khai mạc Đại hội loan báo Tin Mừng toàn quốc lần III
Đúng 14 giờ ngày 01 tháng 09 năm 2015, Đại hội loan báo Tin Mừng toàn quốc lần III do Ủy ban Loan báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam tổ chức đã khai mạc tại trung tâm mục vụ Tổng Giáo phận Huế với chủ đề: “Canh tân hoạt động loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay.” Ngoài sự hiện diện của Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục phụ tá Hưng Hóa, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – HĐGM Việt Nam, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục giáo phận Phát Diệm, Chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức tin và cha Đaminh Ngô Quang Tuyên, Tổng Thư ký cùng các thành viên trong Ủy ban, Đại hội còn quy tụ 78 linh mục trong đó có quý cha đặc trách Ban Loan báo Tin Mừng của 26 giáo phận, 73 tu sĩ nam nữ đại diện các dòng tu và 70 anh chị em giáo dân đang hoạt động trong sứ mạng loan báo Tin Mừng khắp cả nước.
Xem Hình
Mục đích của Đại hội là nhằm xác định phương hướng hợp tác và đối thoại trong việc loan báo Tin Mừng; đồng thời nhằm đổi mới phương pháp làm việc của Ủy ban LBTM qua việc tăng cường sự liên kết giữa các ban LBTM giáo phận với UBLBTM; thúc đẩy sự dấn thân của giáo sĩ, tu sĩ đang làm mục vụ với việc truyền giáo và huấn luyện tác viên Tin Mừng cho công cuộc truyền giáo.
Trong lời phát biểu khai mạc Đại hội, sau khi ngỏ lời chào thân ái đến toàn thể tham dự viên đến từ khắp nơi trong cả nước, Đức Cha Chủ tịch đã đặc biệt chào mừng các tham dự viên giáo dân và nhấn mạnh rằng “sứ mạng loan báo Tin Mừng không phải chỉ dành riêng cho các linh mục, tu sĩ nhưng cách đặc biệt cho mọi tín hữu.” Vị giám mục đến từ giáo phận truyền giáo Hưng Hóa cũng đặc biệt mời gọi các tham dự viên cùng sống tinh thần đồng tâm nhất trí trong tình yêu thương và rộng mở khối óc và con tim cho việc suy tư, thảo luận và đề ra những đường hướng mới cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Để làm được điều này, Đức Cha mời gọi cộng đoàn cùng hướng về Chúa Thánh Thần để xin Ngài đến soi sáng, hướng dẫn và thúc đẩy mọi người làm việc trong tinh thần nghiêm túc và nhiệt thành hơn cho việc phục vụ Chúa và Giáo Hội. Sau hết, Đức Cha xin mọi người cùng hướng về Mẹ Maria vốn đã được Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “ngôi sao của cuộc Tân Phúc Âm Hóa” và các Thánh Tử đạo Việt Nam để xin các ngài bầu cử cho Đại Hội được diễn ra thành công và tốt đẹp.
Sau phần giới thiệu các tài liệu làm việc của Đại hội của cha Tổng Thư ký, các đại biểu đã cùng lắng nghe tham luận của Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ, Giám mục giáo phận Bắc Ninh, Tổng Thư ký Hội Đồng Giám mục Việt Nam về đề tài: “Những bước chuyển mình của Hội Thánh trên đường loan báo Tin Mừng từ Ad Gentes đến Evangelii Gaudium”. Vì lý do sức khỏe nên bài phát biểu của Đức Cha đã được Ban Truyền thông Giáo phận Bắc Ninh ghi hình và gửi đến Đại hội.
Trong bài tham luận, Đức Cha Cosma đã trình bày về những bước chuyển mình của Hội thánh từ ngôn ngữ đến nội dung và phương pháp truyền giáo; từ các đời giáo hoàng như: ĐTC Phaolô VI, ĐTC Gioan Phaolô II đến ĐTC Phanxicô. Tất cả những bước chuyển mình này đều nhấn mạnh đến việc Hội Thánh phải lên đường, ra khỏi chính mình – để “Ad Gentes” đến với muôn dân. Đồng thời, dựa vào tông huấn Niềm vui Tin Mừng của ĐTC Phanxicô, Đức Cha Cosma cũng nhấn mạnh về việc cần phải lên đường loan báo Tin Mừng với niềm hân hoan rạng rỡ trên khuôn mặt chứ không phải một bộ mặt đưa đám. Đó là niềm vui đích thực của những người có Chúa trong lòng, những người cảm nghiệm cách sâu xa lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngoài ra, Đức Giám Mục Bắc Ninh cũng thẳng thắn chia sẻ về bối cảnh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam hôm nay khi đưa ra những nhận định rằng dường như việc truyền giáo ngày nay còn thua cả cả các thừa sai ngày xưa. Thế nên, mỗi người, gia đình, tập thể... phải can đảm xét lại bản thân vì chưa quan tâm đến truyền giáo mà chỉ quan tâm đến nội bộ, đến cộng đoàn của mình hay nói khác đi là một kiểu “túm tụm” cục bộ... Thế nên, ngài kêu gọi mỗi người, mỗi tập thể cần phải có trái tim của Chúa – nên giống trái tim của Chúa để thấy Chúa trong mọi người và mọi sự. Trước khi kết thúc bài tham luận của mình, Đức Cha đã đưa ra vài đề nghị để Đại hội trao đổi như:
- Tập trung vào Tin Mừng, con người và xã hội
- Tôn kính tổ tiên
- Hoạt động bác ái
- Sân chư dân (ĐGH Bêneđictô XVI): Tết trung thu (trẻ em lương – giáo); dâng hoa, Giáng sinh...
- Gặp gỡ và đối thoại
- Hướng về trời mới đất mới
Dựa vào những chia sẻ của Đức Cha Cosma, các tham dự viên đã chia thành 4 nhóm gồm: Giáo tỉnh Hà Nội, giáo tỉnh Huế, giáo tỉnh Sài Gòn và nhóm các dòng tu để thảo luận và trình bày về tình hình và phương hướng cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay. Phiên làm việc chính thức của Đại hội khép lại với phần trình bày thảo luận của đại diện các nhóm và đúc kết của cha Tổng Thư ký Ủy ban.
Sau cơm tối, toàn thể đại biểu cùng hiệp dâng Thánh lễ do Đức Cha Anphong cử hành cùng với Đức Cha Phát Diệm và cha Tổng Đại diện TGP Huế. Trong bài giảng Lễ, Đức Cha đã chia sẻ về vai trò của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng thể hiện qua 4 dấu chỉ: 1 – Người loan báo Tin Mừng phải dũng cảm vượt ra chính mình để mở ra cho sự hướng dẫn và điều khiển của Chúa Thánh Thần; 2- Mỗi người cần phải để cho Chúa Thánh Thần biến đổi chính mình; 3 – Cần năng đến với Chúa Thánh Thần qua cầu nguyện vì nếu không có cầu nguyện mọi hoạt động sẽ trở nên vô nghĩa và mọi sứ điệp sẽ trở nên trống rỗng; và 4 – Mọi tín hữu phải sống tình hiệp thông vốn là hoa trái của Chúa Thánh Thần mới có thể làm chúng cho Chúa Kitô.
Trước khi kết thúc ngày làm việc đầu tiên, toàn thể tham dự viên đã được lắng nghe một số linh mục, tu sĩ và giáo dân kể lại những chuyện vui –buồn trên bước đường dấn thân loan báo Tin Mừng. Buổi giao lưu đã diễn ra trong bầu khí hết sức thân tình, chan hòa niềm vui nhưng cũng không kém phần sâu sắc.
Ghi nhanh từ Đại hội
Chỉnh Trần, SJ
Đúng 14 giờ ngày 01 tháng 09 năm 2015, Đại hội loan báo Tin Mừng toàn quốc lần III do Ủy ban Loan báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam tổ chức đã khai mạc tại trung tâm mục vụ Tổng Giáo phận Huế với chủ đề: “Canh tân hoạt động loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay.” Ngoài sự hiện diện của Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục phụ tá Hưng Hóa, Chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – HĐGM Việt Nam, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục giáo phận Phát Diệm, Chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức tin và cha Đaminh Ngô Quang Tuyên, Tổng Thư ký cùng các thành viên trong Ủy ban, Đại hội còn quy tụ 78 linh mục trong đó có quý cha đặc trách Ban Loan báo Tin Mừng của 26 giáo phận, 73 tu sĩ nam nữ đại diện các dòng tu và 70 anh chị em giáo dân đang hoạt động trong sứ mạng loan báo Tin Mừng khắp cả nước.
Xem Hình
Mục đích của Đại hội là nhằm xác định phương hướng hợp tác và đối thoại trong việc loan báo Tin Mừng; đồng thời nhằm đổi mới phương pháp làm việc của Ủy ban LBTM qua việc tăng cường sự liên kết giữa các ban LBTM giáo phận với UBLBTM; thúc đẩy sự dấn thân của giáo sĩ, tu sĩ đang làm mục vụ với việc truyền giáo và huấn luyện tác viên Tin Mừng cho công cuộc truyền giáo.
Trong lời phát biểu khai mạc Đại hội, sau khi ngỏ lời chào thân ái đến toàn thể tham dự viên đến từ khắp nơi trong cả nước, Đức Cha Chủ tịch đã đặc biệt chào mừng các tham dự viên giáo dân và nhấn mạnh rằng “sứ mạng loan báo Tin Mừng không phải chỉ dành riêng cho các linh mục, tu sĩ nhưng cách đặc biệt cho mọi tín hữu.” Vị giám mục đến từ giáo phận truyền giáo Hưng Hóa cũng đặc biệt mời gọi các tham dự viên cùng sống tinh thần đồng tâm nhất trí trong tình yêu thương và rộng mở khối óc và con tim cho việc suy tư, thảo luận và đề ra những đường hướng mới cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Để làm được điều này, Đức Cha mời gọi cộng đoàn cùng hướng về Chúa Thánh Thần để xin Ngài đến soi sáng, hướng dẫn và thúc đẩy mọi người làm việc trong tinh thần nghiêm túc và nhiệt thành hơn cho việc phục vụ Chúa và Giáo Hội. Sau hết, Đức Cha xin mọi người cùng hướng về Mẹ Maria vốn đã được Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “ngôi sao của cuộc Tân Phúc Âm Hóa” và các Thánh Tử đạo Việt Nam để xin các ngài bầu cử cho Đại Hội được diễn ra thành công và tốt đẹp.
Sau phần giới thiệu các tài liệu làm việc của Đại hội của cha Tổng Thư ký, các đại biểu đã cùng lắng nghe tham luận của Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ, Giám mục giáo phận Bắc Ninh, Tổng Thư ký Hội Đồng Giám mục Việt Nam về đề tài: “Những bước chuyển mình của Hội Thánh trên đường loan báo Tin Mừng từ Ad Gentes đến Evangelii Gaudium”. Vì lý do sức khỏe nên bài phát biểu của Đức Cha đã được Ban Truyền thông Giáo phận Bắc Ninh ghi hình và gửi đến Đại hội.
Trong bài tham luận, Đức Cha Cosma đã trình bày về những bước chuyển mình của Hội thánh từ ngôn ngữ đến nội dung và phương pháp truyền giáo; từ các đời giáo hoàng như: ĐTC Phaolô VI, ĐTC Gioan Phaolô II đến ĐTC Phanxicô. Tất cả những bước chuyển mình này đều nhấn mạnh đến việc Hội Thánh phải lên đường, ra khỏi chính mình – để “Ad Gentes” đến với muôn dân. Đồng thời, dựa vào tông huấn Niềm vui Tin Mừng của ĐTC Phanxicô, Đức Cha Cosma cũng nhấn mạnh về việc cần phải lên đường loan báo Tin Mừng với niềm hân hoan rạng rỡ trên khuôn mặt chứ không phải một bộ mặt đưa đám. Đó là niềm vui đích thực của những người có Chúa trong lòng, những người cảm nghiệm cách sâu xa lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngoài ra, Đức Giám Mục Bắc Ninh cũng thẳng thắn chia sẻ về bối cảnh truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam hôm nay khi đưa ra những nhận định rằng dường như việc truyền giáo ngày nay còn thua cả cả các thừa sai ngày xưa. Thế nên, mỗi người, gia đình, tập thể... phải can đảm xét lại bản thân vì chưa quan tâm đến truyền giáo mà chỉ quan tâm đến nội bộ, đến cộng đoàn của mình hay nói khác đi là một kiểu “túm tụm” cục bộ... Thế nên, ngài kêu gọi mỗi người, mỗi tập thể cần phải có trái tim của Chúa – nên giống trái tim của Chúa để thấy Chúa trong mọi người và mọi sự. Trước khi kết thúc bài tham luận của mình, Đức Cha đã đưa ra vài đề nghị để Đại hội trao đổi như:
- Tập trung vào Tin Mừng, con người và xã hội
- Tôn kính tổ tiên
- Hoạt động bác ái
- Sân chư dân (ĐGH Bêneđictô XVI): Tết trung thu (trẻ em lương – giáo); dâng hoa, Giáng sinh...
- Gặp gỡ và đối thoại
- Hướng về trời mới đất mới
Dựa vào những chia sẻ của Đức Cha Cosma, các tham dự viên đã chia thành 4 nhóm gồm: Giáo tỉnh Hà Nội, giáo tỉnh Huế, giáo tỉnh Sài Gòn và nhóm các dòng tu để thảo luận và trình bày về tình hình và phương hướng cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay. Phiên làm việc chính thức của Đại hội khép lại với phần trình bày thảo luận của đại diện các nhóm và đúc kết của cha Tổng Thư ký Ủy ban.
Sau cơm tối, toàn thể đại biểu cùng hiệp dâng Thánh lễ do Đức Cha Anphong cử hành cùng với Đức Cha Phát Diệm và cha Tổng Đại diện TGP Huế. Trong bài giảng Lễ, Đức Cha đã chia sẻ về vai trò của Chúa Thánh Thần trong sứ vụ loan báo Tin Mừng thể hiện qua 4 dấu chỉ: 1 – Người loan báo Tin Mừng phải dũng cảm vượt ra chính mình để mở ra cho sự hướng dẫn và điều khiển của Chúa Thánh Thần; 2- Mỗi người cần phải để cho Chúa Thánh Thần biến đổi chính mình; 3 – Cần năng đến với Chúa Thánh Thần qua cầu nguyện vì nếu không có cầu nguyện mọi hoạt động sẽ trở nên vô nghĩa và mọi sứ điệp sẽ trở nên trống rỗng; và 4 – Mọi tín hữu phải sống tình hiệp thông vốn là hoa trái của Chúa Thánh Thần mới có thể làm chúng cho Chúa Kitô.
Trước khi kết thúc ngày làm việc đầu tiên, toàn thể tham dự viên đã được lắng nghe một số linh mục, tu sĩ và giáo dân kể lại những chuyện vui –buồn trên bước đường dấn thân loan báo Tin Mừng. Buổi giao lưu đã diễn ra trong bầu khí hết sức thân tình, chan hòa niềm vui nhưng cũng không kém phần sâu sắc.
Ghi nhanh từ Đại hội
Chỉnh Trần, SJ
Đức Cha Joseph M. Siegel chủ sự lễ khánh thành Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn tại GX Trinh Vương, GP Joliet, vùng Chicago ngày 30/08/2015
Giuse Trung Nguyễn
21:22 02/09/2015
Đức Cha Joseph M. Siegel chủ sự lễ khánh thành Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn tại GX Trinh Vương, GP Joliet, vùng Chicago ngày 30/08/2015
Đức Cha Joseph M. Siegel đã đến chủ sự lễ khánh thành Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn tại Giáo xứ Trinh Vương, Giáo phận Joliet, vùng Chicago vào Chúa Nhật ngày 30/08/2015. Đồng tế thánh lễ với Đức Cha có Cha Quản xứ Giuse Bùi Văn Đồng, Cha nguyên Quản xứ Anphongxô Nguyễn Huy Quyền cùng quý Cha khách từ Tổng Giáo phận Chicago, Giáo phận Hải Phòng và Giáo phận Vinh.
Dự án Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn đã được Cộng đoàn Công Giáo Trinh Vương khởi xướng, thảo luận, hoạch định, đồng thuận và lên chương trình thực hiện với sự chấp thuận của giáo phận và giấy phép xây dựng của chính quyền. Cha Quản xứ, Hội đồng Mục vụ và các ban ngành trong giáo xứ cùng cộng đồng giáo dân đã tích cực đóng góp thời giờ, công sức và tài chánh để thực hiện Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn tại Giáo xứ Trinh Vương.
Trải qua bao nhiêu khó nhọc, vất vả, liệu lo công việc ngược xuôi, công trình xây dựng tượng đài đã hoàn thành tốt đẹp như lòng mong ước nhờ lời Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mọi người trong cộng đoàn Trinh Vương được yêu thương và đồng lao cộng tác trong mọi sinh hoạt và công tác chung.
Được biết, Hội đồng Mục vụ đương nhiệm gồm có Anh Trần Văn Tiến, Chủ tịch; Anh Nguyễn Thái Hùng, Phó Chủ tịch; Chị Trần Bạch Yến, Thư ký và các Ủy viên Mục vụ, Phụng vụ, Văn hóa, Xã hội, Trùng tu, Bảo trì, Phát triển, và Ủy viên Đoàn thể cùng với Ban Cố Vấn đã cộng tác làm việc với Cha Quản xứ Giuse Bùi Văn Đồng.
Nguyện xin Đức Mẹ Ban Ơn tiếp tục chúc lành cho Cha Quản xứ, Hội đồng Mục vụ và toàn thể giáo dân Giáo xứ Trinh Vương được hồn an, xác mạnh và nhất là được đón nhận muôn ơn lành của Thiên Chúa.
- Giuse Trung Nguyên
Dự án Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn đã được Cộng đoàn Công Giáo Trinh Vương khởi xướng, thảo luận, hoạch định, đồng thuận và lên chương trình thực hiện với sự chấp thuận của giáo phận và giấy phép xây dựng của chính quyền. Cha Quản xứ, Hội đồng Mục vụ và các ban ngành trong giáo xứ cùng cộng đồng giáo dân đã tích cực đóng góp thời giờ, công sức và tài chánh để thực hiện Tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn tại Giáo xứ Trinh Vương.
Trải qua bao nhiêu khó nhọc, vất vả, liệu lo công việc ngược xuôi, công trình xây dựng tượng đài đã hoàn thành tốt đẹp như lòng mong ước nhờ lời Đức Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mọi người trong cộng đoàn Trinh Vương được yêu thương và đồng lao cộng tác trong mọi sinh hoạt và công tác chung.
Được biết, Hội đồng Mục vụ đương nhiệm gồm có Anh Trần Văn Tiến, Chủ tịch; Anh Nguyễn Thái Hùng, Phó Chủ tịch; Chị Trần Bạch Yến, Thư ký và các Ủy viên Mục vụ, Phụng vụ, Văn hóa, Xã hội, Trùng tu, Bảo trì, Phát triển, và Ủy viên Đoàn thể cùng với Ban Cố Vấn đã cộng tác làm việc với Cha Quản xứ Giuse Bùi Văn Đồng.
Nguyện xin Đức Mẹ Ban Ơn tiếp tục chúc lành cho Cha Quản xứ, Hội đồng Mục vụ và toàn thể giáo dân Giáo xứ Trinh Vương được hồn an, xác mạnh và nhất là được đón nhận muôn ơn lành của Thiên Chúa.
- Giuse Trung Nguyên
Đại hội Loan báo Tin Mừng toàn quốc lần III: Ngày thứ hai
Chỉnh Trần, S.J.
22:00 02/09/2015
Đại hội Loan báo Tin Mừng toàn quốc lần III: Ngày thứ hai
Ngày 02/09/2015, sau khi hát kinh sáng, các đại biểu đã cùng hiệp dâng Thánh lễ do Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục giáo phận Phát Diệm, Chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức tin chủ sự. Trong bài giảng, Đức Cha Giuse một lần nữa khẳng định thực trạng loan báo Tin Mừng còn chậm chạp tại Việt Nam; đồng thời, kêu gọi mọi người theo gương Đức Thánh Cha Phanxicô thực hiện một cuộc “đi ra” – ra khỏi chính mình, ra khỏi những cơ cấu an toàn và co cụm hoặc ra khỏi lối mục vụ chỉ biết chăm sóc cho người có đạo... để “ra đi” đến với những “vùng ngoại biên” là những anh chị em lương dân, những tâm hồn đang khao khát chân lý và tình thương.
Xem Hình
Ngày làm việc thứ hai của Đại hội được mở đầu bằng bài tham luận của Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục phụ tá Hưng Hóa, chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – Hội Đồng Giám mục Việt Nam về đề tài: “Canh tân hoạt động loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay”.
Với lối trình bày nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc, Đức Cha Chủ tịch Ủy ban LBTM đã điểm qua một số dấu mốc lịch sử quan trọng như: 50 năm sắc lệnh Ad Gentes, Tông huấn niềm vui TM, kế hoạch 3 năm Phúc Âm hóa của Giáo Hội Việt Nam, 400 Dòng Tên đến truyền giáo tại Việt Nam để nêu bật lên nhu cầu cần phải thực hiện một cuộc “update cách thức loan báo Tin Mừng” như lời mời gọi canh tân của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Dựa vào một câu nói của ĐGH Gioan Phaolô II: “Trong thời điểm mới này, trong những điều kiện sống mới ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, một cuộc Tân Phúc Âm hóa đã bắt đầu,” Đức Cha kêu gọi thực hiện một cuộc Tân Phúc Âm hóa tại Việt Nam để làm mới lại lòng nhiệt thành truyền giáo và làm mới lại phương pháp truyền giáo.
Để làm được điều này, qua đề tài trình bày của mình, Đức Cha mời gọi các tham dự viên “nhìn lại quá khứ và xem xét hiện tại của công cuộc loan báo Tin Mừng dựa trên Ad Gentes (Đến với muôn dân) và hướng về tương lai với câu hỏi “Phải làm gì?” dựa trên Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin Mừng).”
Trong phần thứ nhất, Đức Cha Anphong điểm lại một vài thống kê về tình hình truyền giáo 50 năm qua; nêu lên những nguyên nhân lý giải vì sao việc truyền giáo diễn ra khá chậm chạp; đồng thời không quên nhắc nhở các tham dự viên về nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng ngày nay tại Việt Nam. Trong cái nhìn về tương lai, dựa vào những giáo huấn quý giá của Đức đương kim Giáo hoàng Phanxicô trong tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Cha đã rút tỉa ra những bài học và đường hướng cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng về phương diện cá nhân lẫn các lãnh vực trong đời sống xã hội, văn hóa, kinh tế và tôn giáo. Cách đặc biệt, Đức Cha nhấn mạnh về mối tương quan mật thiết với Chúa Kitô mà sứ giả loan báo Tin Mừng phải đó vì đây chính là động lực sẽ thúc đẩy người ấy mạnh dạn loan báo về ĐKT: “những gì tai nghe mắt thấy chúng tôi không thể không nói ra.” Đức Cha cũng không quên kêu gọi bắt tay ngay vào một chương trình huấn luyện giáo dân truyền giáo, cách riêng trong việc đào sâu sự hiểu biết về Đức Kitô nơi giáo lý và giáo huấn Giáo Hội, cũng như vận dụng những phương tiện mới (khoa học kỹ thuật, truyền thông xã hội...) để loan báo Tin Mừng.
Khi được lắng nghe chia sẻ của vị đứng đầu Ủy ban Loan báo Tin Mừng, các đại biểu ai ai cũng cảm nhận được sự thao thức và trăn trở của ngài trong việc thực thi lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Giáo Hội phải ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG 20) mà dường như Giáo Hội Việt Nam chỉ mới trên đường dò dẫm.
Sau phần trình bày của Đức Cha Chủ tịch, các tham dự viên được chia thành 3 nhóm: linh mục, tu sĩ và giáo dân để cùng thảo luận và góp ý cho vấn đề truyền giáo tại Việt Nam cũng như đường hướng hoạt động của Ủy ban. Đa phần các ý kiến xoay quanh việc cần phải gây ý thức hơn nữa tinh thần truyền giáo nơi các thành phần Dân Chúa tại Việc Nam; phải đẩy mạnh việc đào tạo những môn đệ truyền giáo và tăng cường sự hợp tác giữa các linh mục, dòng tu, đoàn thể với nhau...
Buổi chiều, đại hội được lắng nghe trình bày của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục Phát Diệm về đề tài: “Ad Gentes trong việc dạy giáo lý và phổ biến Kinh thánh.”
- Chúng ta có khả năng dạy giáo lý như cách hướng dẫn người khác làm quen và ăn 1 món ăn lạ không?
- Sau khi học GL dự tòng xong các học viên có cảm nhận thế nào? Có vui thích học GL không? Sau khi các em học sinh GL ra khỏi lớp các em có cảm thấy phấn khởi khi vừa được học GL không hay là cảm thấy nặng nề?
- Làm sao truyền giáo khi việc dạy GL không truyền được hứng khởi cho người học?
Đây là những câu hỏi mà trong phần dẫn nhập của bài thuyết trình Đức Cha Giuse đã đặt ra với toàn đại hội. Từ đó, Đức Cha nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cần phải canh tân việc dạy và học giáo lý như lời mời gọi thực hiện “một cuộc hoán cải mục vụ” toàn diện của ĐTC Phanxicô. Nghĩa là thay đổi toàn diện cách thức làm mục vụ từ một Giáo Hội mang tính cách bảo tồn sang 1 Giáo Hội loan báo TM và chọn loan báo TM là định hướng chính.
Để thực hiện được điều này, Đức Cha đề xuất dạy giáo lý bằng phương pháp kể chuyện: kể câu chuyện về Đức Giêsu Kitô. Phương pháp này cần phải lưu tâm đến 4 yếu tố: 1 – Câu chuyện phải hài hòa và hấp dẫn; 2 – Chuyện của cộng đoàn; 3 – Ngôn ngữ kể chuyện phải dễ hiểu, đánh động lòng người và 4 – Người nghe kể chuyện.
Đức Cha cũng không quên lưu ý rằng kết quả của việc kể chuyện là tùy thuộc vào tự do của người nghe và tác động của Chúa Thánh Thần. Vì thế, người kể cứ làm hết sức của mình và kiên nhẫn đợi chờ kết quả. Bên cạnh đó, khi kể chuyện Chúa Giêsu cho người khác người kể cần cố gắng khơi dậy những tâm tình nơi người nghe để họ cảm nhận và kể lại câu chuyện cuộc đời của họ. Sau hết, khi nhắc lại câu chuyện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Cha lưu ý mọi người cần dạy giáo lý thế nào để học sinh giáo lý và người dự tòng sau khi đón nhận Chúa Giêsu thì chính họ là người sẽ ra đi loan báo Tin Mừng cho người khác.
Cũng trong buổi chiều của ngày làm việc thứ 2, Đại hội đã nghe cha Đaminh Trần Xuân Thảo thuộc giáo phận Xuân Lộc chia sẻ về kinh nghiệm dạy giáo lý cho dự tòng và việc huấn luyện tác viên Tin Mừng. Trước hết, cha nhắc lại đôi chút lịch sử hình thành nhóm tác viên Tin Mừng, vốn là một nhóm anh chị em giáo dân và tu sĩ được quy tụ và huấn luyện để yêu mến, thấm nhuần và sống Lời Chúa theo sự hướng dẫn của cha Phêrô Phạm Hữu Lai, SJ. Khóa tác viên TM thường kéo dài từ 1-2 tuần trong đó có 3 ngày tĩnh tâm. Có 2 loại tác viên: “Tác viên ba lô” - là những tác viên TM hăng say được chọn để làm việc 5h/ngày để đến các gia đình rao giảng TM và “Tác viên nhảy dù” - là những người sẵn sàng để được gửi đi bất cứ nơi nào. Cha Thảo cho biết, sau 10 năm, chương trình đã đào tạo được 9000 tác viên TM với gần 100 khóa (từ 2010- nay đào tạo được 2122 người).
Sau cơm tối, các đại biểu tiếp tục lắng nghe báo cáo đúc kết của đại diện 3 nhóm linh mục, tu sĩ và giáo dân. Ba vị đại biểu này đã trình bày những đề nghị rất thẳng thắn của các vị đại biểu về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
Ngày làm việc thứ hai của đại hội khép lại sau giờ chầu Thánh Thể do Đức Cha Anphong chủ sự.
Chỉnh Trần, SJ
Ngày 02/09/2015, sau khi hát kinh sáng, các đại biểu đã cùng hiệp dâng Thánh lễ do Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục giáo phận Phát Diệm, Chủ tịch Ủy ban Giáo lý Đức tin chủ sự. Trong bài giảng, Đức Cha Giuse một lần nữa khẳng định thực trạng loan báo Tin Mừng còn chậm chạp tại Việt Nam; đồng thời, kêu gọi mọi người theo gương Đức Thánh Cha Phanxicô thực hiện một cuộc “đi ra” – ra khỏi chính mình, ra khỏi những cơ cấu an toàn và co cụm hoặc ra khỏi lối mục vụ chỉ biết chăm sóc cho người có đạo... để “ra đi” đến với những “vùng ngoại biên” là những anh chị em lương dân, những tâm hồn đang khao khát chân lý và tình thương.
Xem Hình
Ngày làm việc thứ hai của Đại hội được mở đầu bằng bài tham luận của Đức Cha Anphong Nguyễn Hữu Long, Giám mục phụ tá Hưng Hóa, chủ tịch Ủy ban Loan báo Tin Mừng – Hội Đồng Giám mục Việt Nam về đề tài: “Canh tân hoạt động loan báo Tin Mừng tại Việt Nam ngày nay”.
Với lối trình bày nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc, Đức Cha Chủ tịch Ủy ban LBTM đã điểm qua một số dấu mốc lịch sử quan trọng như: 50 năm sắc lệnh Ad Gentes, Tông huấn niềm vui TM, kế hoạch 3 năm Phúc Âm hóa của Giáo Hội Việt Nam, 400 Dòng Tên đến truyền giáo tại Việt Nam để nêu bật lên nhu cầu cần phải thực hiện một cuộc “update cách thức loan báo Tin Mừng” như lời mời gọi canh tân của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Dựa vào một câu nói của ĐGH Gioan Phaolô II: “Trong thời điểm mới này, trong những điều kiện sống mới ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, một cuộc Tân Phúc Âm hóa đã bắt đầu,” Đức Cha kêu gọi thực hiện một cuộc Tân Phúc Âm hóa tại Việt Nam để làm mới lại lòng nhiệt thành truyền giáo và làm mới lại phương pháp truyền giáo.
Để làm được điều này, qua đề tài trình bày của mình, Đức Cha mời gọi các tham dự viên “nhìn lại quá khứ và xem xét hiện tại của công cuộc loan báo Tin Mừng dựa trên Ad Gentes (Đến với muôn dân) và hướng về tương lai với câu hỏi “Phải làm gì?” dựa trên Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin Mừng).”
Trong phần thứ nhất, Đức Cha Anphong điểm lại một vài thống kê về tình hình truyền giáo 50 năm qua; nêu lên những nguyên nhân lý giải vì sao việc truyền giáo diễn ra khá chậm chạp; đồng thời không quên nhắc nhở các tham dự viên về nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng ngày nay tại Việt Nam. Trong cái nhìn về tương lai, dựa vào những giáo huấn quý giá của Đức đương kim Giáo hoàng Phanxicô trong tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Cha đã rút tỉa ra những bài học và đường hướng cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng về phương diện cá nhân lẫn các lãnh vực trong đời sống xã hội, văn hóa, kinh tế và tôn giáo. Cách đặc biệt, Đức Cha nhấn mạnh về mối tương quan mật thiết với Chúa Kitô mà sứ giả loan báo Tin Mừng phải đó vì đây chính là động lực sẽ thúc đẩy người ấy mạnh dạn loan báo về ĐKT: “những gì tai nghe mắt thấy chúng tôi không thể không nói ra.” Đức Cha cũng không quên kêu gọi bắt tay ngay vào một chương trình huấn luyện giáo dân truyền giáo, cách riêng trong việc đào sâu sự hiểu biết về Đức Kitô nơi giáo lý và giáo huấn Giáo Hội, cũng như vận dụng những phương tiện mới (khoa học kỹ thuật, truyền thông xã hội...) để loan báo Tin Mừng.
Khi được lắng nghe chia sẻ của vị đứng đầu Ủy ban Loan báo Tin Mừng, các đại biểu ai ai cũng cảm nhận được sự thao thức và trăn trở của ngài trong việc thực thi lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Giáo Hội phải ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG 20) mà dường như Giáo Hội Việt Nam chỉ mới trên đường dò dẫm.
Sau phần trình bày của Đức Cha Chủ tịch, các tham dự viên được chia thành 3 nhóm: linh mục, tu sĩ và giáo dân để cùng thảo luận và góp ý cho vấn đề truyền giáo tại Việt Nam cũng như đường hướng hoạt động của Ủy ban. Đa phần các ý kiến xoay quanh việc cần phải gây ý thức hơn nữa tinh thần truyền giáo nơi các thành phần Dân Chúa tại Việc Nam; phải đẩy mạnh việc đào tạo những môn đệ truyền giáo và tăng cường sự hợp tác giữa các linh mục, dòng tu, đoàn thể với nhau...
Buổi chiều, đại hội được lắng nghe trình bày của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục Phát Diệm về đề tài: “Ad Gentes trong việc dạy giáo lý và phổ biến Kinh thánh.”
- Chúng ta có khả năng dạy giáo lý như cách hướng dẫn người khác làm quen và ăn 1 món ăn lạ không?
- Sau khi học GL dự tòng xong các học viên có cảm nhận thế nào? Có vui thích học GL không? Sau khi các em học sinh GL ra khỏi lớp các em có cảm thấy phấn khởi khi vừa được học GL không hay là cảm thấy nặng nề?
- Làm sao truyền giáo khi việc dạy GL không truyền được hứng khởi cho người học?
Đây là những câu hỏi mà trong phần dẫn nhập của bài thuyết trình Đức Cha Giuse đã đặt ra với toàn đại hội. Từ đó, Đức Cha nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cần phải canh tân việc dạy và học giáo lý như lời mời gọi thực hiện “một cuộc hoán cải mục vụ” toàn diện của ĐTC Phanxicô. Nghĩa là thay đổi toàn diện cách thức làm mục vụ từ một Giáo Hội mang tính cách bảo tồn sang 1 Giáo Hội loan báo TM và chọn loan báo TM là định hướng chính.
Để thực hiện được điều này, Đức Cha đề xuất dạy giáo lý bằng phương pháp kể chuyện: kể câu chuyện về Đức Giêsu Kitô. Phương pháp này cần phải lưu tâm đến 4 yếu tố: 1 – Câu chuyện phải hài hòa và hấp dẫn; 2 – Chuyện của cộng đoàn; 3 – Ngôn ngữ kể chuyện phải dễ hiểu, đánh động lòng người và 4 – Người nghe kể chuyện.
Đức Cha cũng không quên lưu ý rằng kết quả của việc kể chuyện là tùy thuộc vào tự do của người nghe và tác động của Chúa Thánh Thần. Vì thế, người kể cứ làm hết sức của mình và kiên nhẫn đợi chờ kết quả. Bên cạnh đó, khi kể chuyện Chúa Giêsu cho người khác người kể cần cố gắng khơi dậy những tâm tình nơi người nghe để họ cảm nhận và kể lại câu chuyện cuộc đời của họ. Sau hết, khi nhắc lại câu chuyện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Cha lưu ý mọi người cần dạy giáo lý thế nào để học sinh giáo lý và người dự tòng sau khi đón nhận Chúa Giêsu thì chính họ là người sẽ ra đi loan báo Tin Mừng cho người khác.
Cũng trong buổi chiều của ngày làm việc thứ 2, Đại hội đã nghe cha Đaminh Trần Xuân Thảo thuộc giáo phận Xuân Lộc chia sẻ về kinh nghiệm dạy giáo lý cho dự tòng và việc huấn luyện tác viên Tin Mừng. Trước hết, cha nhắc lại đôi chút lịch sử hình thành nhóm tác viên Tin Mừng, vốn là một nhóm anh chị em giáo dân và tu sĩ được quy tụ và huấn luyện để yêu mến, thấm nhuần và sống Lời Chúa theo sự hướng dẫn của cha Phêrô Phạm Hữu Lai, SJ. Khóa tác viên TM thường kéo dài từ 1-2 tuần trong đó có 3 ngày tĩnh tâm. Có 2 loại tác viên: “Tác viên ba lô” - là những tác viên TM hăng say được chọn để làm việc 5h/ngày để đến các gia đình rao giảng TM và “Tác viên nhảy dù” - là những người sẵn sàng để được gửi đi bất cứ nơi nào. Cha Thảo cho biết, sau 10 năm, chương trình đã đào tạo được 9000 tác viên TM với gần 100 khóa (từ 2010- nay đào tạo được 2122 người).
Sau cơm tối, các đại biểu tiếp tục lắng nghe báo cáo đúc kết của đại diện 3 nhóm linh mục, tu sĩ và giáo dân. Ba vị đại biểu này đã trình bày những đề nghị rất thẳng thắn của các vị đại biểu về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
Ngày làm việc thứ hai của đại hội khép lại sau giờ chầu Thánh Thể do Đức Cha Anphong chủ sự.
Chỉnh Trần, SJ
Bênh vực công lý và Giáo Hội
70 năm vẫn lơ tơ mơ
Phạm Trần
21:02 02/09/2015
70 NĂM VẪN LƠ TƠ MƠ
Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam đã bị ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang lột mặt nạ trong diễn văn kỷ niệm 70 năm Độc lập diễn ra ở Hà Nội ngày 02/09/2015.
Ông nói: “Ngày 2/9, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập” , khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Nếu hiểu theo nghĩa “dân làm chủ một nhà nước có đầy đủ các quyền tự do và dân chủ ” thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước lý tưởng theo định nghĩa của Bách khoa Tòan thư (mở) đó là: “Hình thức mà nhà nước có quyền lực tập trung vào quốc hội hay nghị viện và hoạt động theo nguyên tắc tập quyền thông qua bầu cử toàn dân.”
Tuy nhiên ông Hồ Chí Minh và lực lượng Việt Minh sau khi cướp được chính quyền từ Chính phủ non yếu Trần Trọng Kim đã không bảo vệ và xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một nhà nước của dân, do dân và vì dân như đã hứa.
Thứ nhà nước dân chủ nhân dân theo cách nói của ông Trương Tấn Sang cũng không có. Ngược lại ông Hồ và những người đi theo Chủ nghĩa Cộng sản độc tài Nga Sô và Chủ nghĩa Cộng sản bạo quyền Mao Trạch Đông đã lái Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang con đường lầm lạc độc quyền lãnh đạo, tước bỏ mọi quyền của dân và phản bội lại xương máu của các thế hệ đã đấu tranh cho nền độc lập quốc gia rồi đẩy đất nước vào 30 năm chiến tranh phiêu lưu đẫm máu.
Vì vậy mà một hình thức giai cấp gỉa hiệu đã được khoác cho nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á” , thay mặt cho hai giới công nhân lao động và nông dân.
Thực tế chưa bao giờ có một nhà nước của tuyệt đại đa số nhân dân như thế ở Việt Nam dưới thời Cộng sản. Các chính quyền lập ra từ sau ngày gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945” đều là nhà nước tự biên tự diễn của đảng , do đảng và vì đảng và chưa hề biết qúan triệt ý nghĩa câu nói lịch sử của ông Hồ rằng:“Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”.
Nay ngày độc lập 2/9 đã lùi vào dĩ vãng để nhường bước cho năm thứ 71 từ hôm 03/09/2015 mà nhân dân Việt Nam vẫn chưa có tự do và hạnh phúc , hay không phải ai trong số trên 90 triệu dân “cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” như “ ham muốn tột bậc” của ông Hồ đưa ra từ năm 1946 !
Mọi quyền của dân quy định trong 5 Hiến pháp, từ Hiến pháp dân chủ đầu tiên 1946 đến Hiến pháp độc tài sửa đổi 2013 đã coi dân như của nợ cần phải rút hết xương tủy để phục vụ thiểu số cầm quyền. Chiếc bánh vẽ “công nông” đã được đảng tô đi vẽ lại trong 70 năm chỉ cốt làm cho phình to ra để che đậy chiêu bài ái quốc “chống Pháp giành độc lập” và gỉa danh “chống Mỹ cứu nước” để xâm lăng Việt Nam Cộng hòa.
Các Nhà sử học Cộng sản biết rõ như thế mà vẫn cam tâm đổi trắng thay đen, vẽ hươi vẽ vượn ca tụng cuộc Cách mạng mang danh “thời đại Hồ Chí Minh” để đầu đọc học sinh từ tiểu học lên đại học.
Ban Tuyên giáo còn gỉa dối mị dân khi viết rằng: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít”
Nhưng tại sao ông Trương Tấn Sang đã muốn sửa sai lịch sử để gọi nhà nước đầu tiên do ông Hồ đứng đầu là “nhà nước dân chủ nhân dân” thay vì “nhà nước công nông” ?
Nguyên do vì ông Sang là người của Nam Bộ, sinh ra ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên biết rất rõ hai giới công nông đã chỉ được đảng cho mang danh hão để hưởng quyền ảo. Họ là thành phần đã hy sinh xương máu và tài sản nhiều nhất cho đảng theo đuổi 30 năm nội chiến mạo danh chống xâm lược, nhưng lại chịu thiệt thòi và bị những kẻ có chức có quyền phản bội nhiều nhất.
Vì vậy khi nghe ông Sang hô hoán các mục tiêu cao cả của Cách mạng Tháng Tám là “độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân” và để lập nên nhà nước dân chủ nhân dân thì cũng như vịt nghe sấm, chả ai hiểu ông muốn nói gì, vì chúng toàn là những sáo ngữ viển vông.
Khi nói “dân chủ nhân dân” thì nhà nước phải do dân bầu lên, thay vì “đảng cử dân bầu” như bấy lâu nay. Nếu chủ trương “dân chủ nhân dân” mà vẫn phải do đảng lãnh đạo như bây giờ thì đó là thứ dân chủ trá hình, bánh vẽ, mị dân.
Cũng như ông Sang, bộ máy tuyên truyền của đảng không dừng ở đây. Ngôn ngữ mộng du thêu dệt của Ban Tuyên giáo còn bịa chuyện nói Cách mạng Tháng Tám là:” Thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.”
(Trích “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam”/Ban Tuyên Giáo,12/06/2015)
CHUYỆN CỦA 4 NGUY CƠ
Với những cái đầu đất sét cho đến 70 năm sau ngày Độc lập 2/9, vẫn còn mơ hồ giáo điều tuyệt đối tin rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã có công với “cách mạng tháng Tám” thì chuyện đảng còn phải đối phó với “bốn nguy cơ” de dọa sự sống còn của đảng là điều không ai ngạc nhiên.
Ông Sang nói trước mặt Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và đông đảo lãnh đạo cũ, mới ngày 02/09/(2015): “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt biểu hiện ngày càng nghiêm trọng hơn, diễn biến phức tạp hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc trong xã hội, bất bình trong nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”
Những nguy cơ này đã được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20-25/1/1994), thời Tổng Bí thư Đỗ Mười. 21 năm sau chúng chẳng những vẫn tồn tại mà còn khỏe mạnh hơn nên ông Sang phải kêu gọi tòan đảng: “Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Có như vậy, mới củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”
Như vậy là đảng CSVN, trước thềm Đại hội tòan quốc khóa XII dự trù tháng 01/2016, đang tơ mối trăm vò trước câu hỏi “thành công hay thất bại sau 30 đổi mới” ?
Những tệ nạn của cán bộ, đảng viên nêu ra trong diễn văn của ông Sang không mới mà chúng là những việc đã diễn ra từ các khoá đảng trước năm 2011 khi khóa đảng XI và Tổng Bi thư Nguyễn Phú Trọng lên cầm quyền.
Như vậy là đảng đã thất bại. Nếu bảo thành công thì tại sao từ “4 nguy cơ” lại đẻ thêm ra 2 nguy cơ cực kỳ nguy hiểm được gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Quân đội và Công an ?
Vì vậy giấc mơ xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” từ khi có Đổi mới thời đảng trưởng Nguyễn Văn Linh năm 1986 cũng đã tan ra mây khói.
Do đó khi nghe Chủ tịch Trương Tấn Sang nhắc lại điệp khúc sẽ “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; mọi cơ quan nhà nước, mọi cán bộ công chức phải chịu sự giám sát của nhân dân. Đổi mới quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ, đồng thời đề cao kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ” thì cũng chỉ là chuyện “biết rồi khổ lắm nói mãi”
Bởi lẽ đảng đã nói những điều này nhiều lần lắm rồi mà chưa hề thấy nhà nước nào là “của dân, do dân, vì dân” vì “tất cả quyền lực nhà nước” vẫn tiếp tục nằm gọn trong tay đảng để cho cán bộ, nhất là những kẻ có chức có quyền, lạm dụng để vợ vét tiền bạc qua các cửa tham nhũng, lãng phí, dành bổng lộc cho cá nhân, gia đình và phe phái, hay còn được gọi là “lợi ích nhóm”.
Không chỉ có cấp lãnh đạo mới thấy như thế mà tòan dân đã nhìn rõ những việc đảng làm so với những lời đảng nói từ 40 năm qua khi đất nước đã do đảng nắm trọn để độc quyền.
Bây giờ ông Trương Tấn Sang lại thay mặt đảng và nhà nước để hứa về một nhà nước pháp quyền chưa hề có từ sau 1975 trên cả nước, hay 60 năm ở miền Bắc để dành lại quyền làm chủ cho dân thì có phải là chuyện “nói cho qua cầu” vào dịp kỷ niệm 70 năm ngày 2/9 ? -/-
Phạm Trần
(09/015)
Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam đã bị ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang lột mặt nạ trong diễn văn kỷ niệm 70 năm Độc lập diễn ra ở Hà Nội ngày 02/09/2015.
Ông nói: “Ngày 2/9, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập” , khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Nếu hiểu theo nghĩa “dân làm chủ một nhà nước có đầy đủ các quyền tự do và dân chủ ” thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước lý tưởng theo định nghĩa của Bách khoa Tòan thư (mở) đó là: “Hình thức mà nhà nước có quyền lực tập trung vào quốc hội hay nghị viện và hoạt động theo nguyên tắc tập quyền thông qua bầu cử toàn dân.”
Tuy nhiên ông Hồ Chí Minh và lực lượng Việt Minh sau khi cướp được chính quyền từ Chính phủ non yếu Trần Trọng Kim đã không bảo vệ và xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một nhà nước của dân, do dân và vì dân như đã hứa.
Thứ nhà nước dân chủ nhân dân theo cách nói của ông Trương Tấn Sang cũng không có. Ngược lại ông Hồ và những người đi theo Chủ nghĩa Cộng sản độc tài Nga Sô và Chủ nghĩa Cộng sản bạo quyền Mao Trạch Đông đã lái Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang con đường lầm lạc độc quyền lãnh đạo, tước bỏ mọi quyền của dân và phản bội lại xương máu của các thế hệ đã đấu tranh cho nền độc lập quốc gia rồi đẩy đất nước vào 30 năm chiến tranh phiêu lưu đẫm máu.
Vì vậy mà một hình thức giai cấp gỉa hiệu đã được khoác cho nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á” , thay mặt cho hai giới công nhân lao động và nông dân.
Thực tế chưa bao giờ có một nhà nước của tuyệt đại đa số nhân dân như thế ở Việt Nam dưới thời Cộng sản. Các chính quyền lập ra từ sau ngày gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945” đều là nhà nước tự biên tự diễn của đảng , do đảng và vì đảng và chưa hề biết qúan triệt ý nghĩa câu nói lịch sử của ông Hồ rằng:“Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”.
Nay ngày độc lập 2/9 đã lùi vào dĩ vãng để nhường bước cho năm thứ 71 từ hôm 03/09/2015 mà nhân dân Việt Nam vẫn chưa có tự do và hạnh phúc , hay không phải ai trong số trên 90 triệu dân “cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” như “ ham muốn tột bậc” của ông Hồ đưa ra từ năm 1946 !
Mọi quyền của dân quy định trong 5 Hiến pháp, từ Hiến pháp dân chủ đầu tiên 1946 đến Hiến pháp độc tài sửa đổi 2013 đã coi dân như của nợ cần phải rút hết xương tủy để phục vụ thiểu số cầm quyền. Chiếc bánh vẽ “công nông” đã được đảng tô đi vẽ lại trong 70 năm chỉ cốt làm cho phình to ra để che đậy chiêu bài ái quốc “chống Pháp giành độc lập” và gỉa danh “chống Mỹ cứu nước” để xâm lăng Việt Nam Cộng hòa.
Các Nhà sử học Cộng sản biết rõ như thế mà vẫn cam tâm đổi trắng thay đen, vẽ hươi vẽ vượn ca tụng cuộc Cách mạng mang danh “thời đại Hồ Chí Minh” để đầu đọc học sinh từ tiểu học lên đại học.
Ban Tuyên giáo còn gỉa dối mị dân khi viết rằng: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít”
Nhưng tại sao ông Trương Tấn Sang đã muốn sửa sai lịch sử để gọi nhà nước đầu tiên do ông Hồ đứng đầu là “nhà nước dân chủ nhân dân” thay vì “nhà nước công nông” ?
Nguyên do vì ông Sang là người của Nam Bộ, sinh ra ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên biết rất rõ hai giới công nông đã chỉ được đảng cho mang danh hão để hưởng quyền ảo. Họ là thành phần đã hy sinh xương máu và tài sản nhiều nhất cho đảng theo đuổi 30 năm nội chiến mạo danh chống xâm lược, nhưng lại chịu thiệt thòi và bị những kẻ có chức có quyền phản bội nhiều nhất.
Vì vậy khi nghe ông Sang hô hoán các mục tiêu cao cả của Cách mạng Tháng Tám là “độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân” và để lập nên nhà nước dân chủ nhân dân thì cũng như vịt nghe sấm, chả ai hiểu ông muốn nói gì, vì chúng toàn là những sáo ngữ viển vông.
Khi nói “dân chủ nhân dân” thì nhà nước phải do dân bầu lên, thay vì “đảng cử dân bầu” như bấy lâu nay. Nếu chủ trương “dân chủ nhân dân” mà vẫn phải do đảng lãnh đạo như bây giờ thì đó là thứ dân chủ trá hình, bánh vẽ, mị dân.
Cũng như ông Sang, bộ máy tuyên truyền của đảng không dừng ở đây. Ngôn ngữ mộng du thêu dệt của Ban Tuyên giáo còn bịa chuyện nói Cách mạng Tháng Tám là:” Thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.”
(Trích “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam”/Ban Tuyên Giáo,12/06/2015)
CHUYỆN CỦA 4 NGUY CƠ
Với những cái đầu đất sét cho đến 70 năm sau ngày Độc lập 2/9, vẫn còn mơ hồ giáo điều tuyệt đối tin rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã có công với “cách mạng tháng Tám” thì chuyện đảng còn phải đối phó với “bốn nguy cơ” de dọa sự sống còn của đảng là điều không ai ngạc nhiên.
Ông Sang nói trước mặt Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và đông đảo lãnh đạo cũ, mới ngày 02/09/(2015): “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt biểu hiện ngày càng nghiêm trọng hơn, diễn biến phức tạp hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc trong xã hội, bất bình trong nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”
Những nguy cơ này đã được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20-25/1/1994), thời Tổng Bí thư Đỗ Mười. 21 năm sau chúng chẳng những vẫn tồn tại mà còn khỏe mạnh hơn nên ông Sang phải kêu gọi tòan đảng: “Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Có như vậy, mới củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”
Như vậy là đảng CSVN, trước thềm Đại hội tòan quốc khóa XII dự trù tháng 01/2016, đang tơ mối trăm vò trước câu hỏi “thành công hay thất bại sau 30 đổi mới” ?
Những tệ nạn của cán bộ, đảng viên nêu ra trong diễn văn của ông Sang không mới mà chúng là những việc đã diễn ra từ các khoá đảng trước năm 2011 khi khóa đảng XI và Tổng Bi thư Nguyễn Phú Trọng lên cầm quyền.
Như vậy là đảng đã thất bại. Nếu bảo thành công thì tại sao từ “4 nguy cơ” lại đẻ thêm ra 2 nguy cơ cực kỳ nguy hiểm được gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Quân đội và Công an ?
Vì vậy giấc mơ xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” từ khi có Đổi mới thời đảng trưởng Nguyễn Văn Linh năm 1986 cũng đã tan ra mây khói.
Do đó khi nghe Chủ tịch Trương Tấn Sang nhắc lại điệp khúc sẽ “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; mọi cơ quan nhà nước, mọi cán bộ công chức phải chịu sự giám sát của nhân dân. Đổi mới quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ, đồng thời đề cao kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ” thì cũng chỉ là chuyện “biết rồi khổ lắm nói mãi”
Bởi lẽ đảng đã nói những điều này nhiều lần lắm rồi mà chưa hề thấy nhà nước nào là “của dân, do dân, vì dân” vì “tất cả quyền lực nhà nước” vẫn tiếp tục nằm gọn trong tay đảng để cho cán bộ, nhất là những kẻ có chức có quyền, lạm dụng để vợ vét tiền bạc qua các cửa tham nhũng, lãng phí, dành bổng lộc cho cá nhân, gia đình và phe phái, hay còn được gọi là “lợi ích nhóm”.
Không chỉ có cấp lãnh đạo mới thấy như thế mà tòan dân đã nhìn rõ những việc đảng làm so với những lời đảng nói từ 40 năm qua khi đất nước đã do đảng nắm trọn để độc quyền.
Bây giờ ông Trương Tấn Sang lại thay mặt đảng và nhà nước để hứa về một nhà nước pháp quyền chưa hề có từ sau 1975 trên cả nước, hay 60 năm ở miền Bắc để dành lại quyền làm chủ cho dân thì có phải là chuyện “nói cho qua cầu” vào dịp kỷ niệm 70 năm ngày 2/9 ? -/-
Phạm Trần
(09/015)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Đặt tên các Tổng lãnh Thiên thần
Nguyễn Trọng Đa
07:19 02/09/2015
Giải đáp phụng vụ: Đặt tên các Tổng lãnh Thiên thần
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma. Hỏi: Tại Philippines, có một lòng sùng mộ ngày càng gia tăng cho bảy Tổng lãnh Thiên thần với các hình ảnh và tên tương ứng cho bốn vị còn lại, ngoài các Tổng lãnh Thiên thần Michael (Mi-ca-e), Gabriel (Gáp-ri-en) và Raphael (Ra-pha-en). Tài liệu Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ (2001) của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, số 217, mục 2, nói rõ: "Việc thực hành đặt tên cho các Thiên Thần không được khuyến khích, ngoại trừ trong trường hợp của các Tổng lãnh Thiên thần Gabriel, Raphael và Michael đã có tên trong Thánh Kinh". Tuy nhiên, điều này dường như bị vi phạm rõ ràng khi trong nhiều cửa hàng tranh tượng Công Giáo, các hình ảnh, sách kinh dành kính riêng cho các vị Uriel, Barachiel, Sealtiel và Judiel đang được bán, và các linh mục được xin làm phép các ảnh tượng ấy. Hơn nữa, có các nhà tĩnh tâm Công Giáo, trung tâm tâm linh và các nghĩa trang Công Giáo được đặt tên theo các vị thiên thần ấy, hoặc danh tánh và hình ảnh của các vị ấy là một phần của nơi trong nhà thờ dành cho sự sùng mộ của tín hữu. Chúng con tự hỏi liệu sự sùng mộ ấy với bảy Tổng lãnh Thiên thần cùng với tên và hình ảnh của các vị là hợp pháp về giáo lý không, và đã được phê duyệt ở cấp huấn quyền Giáo Hội chính thức không, bởi vì có nhiều linh mục cổ vũ việc này trong bài giảng của các ngài và trong sự sùng mộ ở giáo xứ. - W. F. C., Manila, Philippines.
Đáp: Bản văn chính xác được bạn đọc trên nhắc tới là:
"Tuy nhiên, sự sùng mộ bình dân đối với các Thiên thần, vốn là hợp pháp và tốt lành, có thể làm phát sinh các lệch lạc có thể có:
"khi, như đôi khi đã xảy ra, các tín hữu thuận theo ý tưởng rằng thế giới là đối tượng cho các đấu tranh của bán thần, hoặc một cuộc chiến không ngừng giữa thần tốt và thần dữ, hay Thiên thần và ác quỷ, mà trong đó con người ở lại với lòng thương xót của lực lượng mạnh hơn và bất lực với lực lượng ấy; vũ trụ luận đó ít có tương quan với tầm nhìn đích thực của Tin Mừng về chiến thắng Ma quỷ, vốn đòi hỏi sự cam kết đạo đức, một tùy chọn cơ bản cho Tin Mừng, sự khiêm nhường và cầu nguyện;
"khi các sự kiện hàng ngày của cuộc sống, vốn không có hoặc ít có tương quan với sự tiến bộ dần dà của chúng ta trên hành trình tiến về Chúa Kitô, được đọc cách sơ sài hoặc cách đơn giản, thậm chí như trẻ con, để gán mọi thất bại cho Ma quỷ và mọi thành công cho các Thiên thần hộ thủ. Việc thực hành đặt tên cho các Thiên Thần không được khuyến khích, ngoại trừ trong trường hợp của các Tổng lãnh Thiên thần Gabriel, Raphael và Michael đã có tên trong Thánh Kinh”.
Truyền thống Công Giáo Rôma thường không đề cập đến tên của bảy Tổng lãnh Thiên thần hay thậm chí nhấn mạnh nhiều đến con số bảy này. Đúng là Tobia 12,15 đề cập đến bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, và Khải Huyền 8,2 đề cập đến bảy thiên thần đứng chầu trước nhan Thiên Chúa, nhưng các văn bản này đã không ảnh hưởng đến đạo Công Giáo Latinh nhiều. Mặt khác, đã có sự sùng mộ liên tục và tuyệt vời đối với ba Tổng lãnh Thiên thần được nêu tên trong Thánh Kinh, đó là Michael, Gabriel và Raphael, cũng như các thiên thần hộ thủ.
Tuy nhiên, một số nhánh của Chính thống giáo Đông phương sùng mộ bảy Tổng lãnh Thiên thần, mặc dù nhiều chỉ nhánh chỉ nêu thêm tên Uriel như một Tổng lãnh Thiên thần có tên. Truyền thống Anh giáo cũng có lời nguyện với Uriel như một Tổng lãnh Thiên thần thứ tư.
Các nguồn của các tên khác là tác phẩm Do Thái ngụy thư, vốn không tạo nên một phần của Kinh Thánh. Các tên này được tìm thấy trong Sách 1 Enoch và một danh sách khác trong cái gọi là Sách 2 (hoặc Sách 4) Esdras. Các danh sách này không luôn đồng ý với nhau, mặc dù tên Uriel là tương đối ổn định. Các tên khác gồm có Raguel, Sariel, Jeremiel, Jehudiel, Barachiel, Gabuthelon, Beburos, Zebuleon, Aker và Arphugitonos. Một số các tên này có thể là biến thái trong cách đọc cùng một tên, nhưng các tên khác là như nhau cho một số sách. Các sách trên và các sách tương tự được viết bởi nhà văn Do Thái trong giai đoạn giữa Cựu Ước và Tân Ước, hoặc thậm chí sau nhiều phần của Tân Ước đã được viết, sau cuộc tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70.
Các tên tương tự được đề cập bởi Pseudo-Dionysius (cuối thế kỷ thứ năm đến đầu thế kỷ thứ sáu) và Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô I (540-604).
Đối với việc đặt tên các thiên thần, Giáo Hội Latinh đã luôn cảnh giác phần nào. Trong một nghị hội hoặc công đồng tổ chức tại Rôma năm 745, Thánh Giáo Hoàng Zachary đã tìm cách kiềm chế một xu hướng tôn sùng các Thiên thần, và cấm sử dụng các tên không được tìm thấy trong Kinh Thánh.
Một bản văn miêu tả nghị hội (hoặc công đồng) này được ghi lại trong Tập XII của bộ "Annali Ecclesiastici" của Đức Hồng Y Cesare Baronio (xuất bản năm 1607). Bản văn đáng chú ý và có phần khắc nghiệt này của nghị hội xử lý các lời dạy lạc giáo của một linh mục sống ở Đức, tên là Adalbert. Một lời kinh do linh mục này sáng tác có câu như sau:
"Con cầu nguyện và van xin các Ngài, và khẩn cầu các Ngài, là thiên thần Uriel, thiên thần Raguel, thiên thần Tubuel, thiên thần Michael, thiên thần Adimis, thiên thần Tubuas, thiên thần Sabaoth, thiên thần Simuel".
Bản văn của Baronio nói: "Và khi nghe đọc xong lời kinh phạm thượng này, Thánh Giáo hoàng Zachary nói: “Làm thế nào, anh em thân mến, anh em trả lời với kinh này?”. Các Giám mục thánh và linh mục đáng kính trả lời: “Điều gì khác có thể làm thêm, nhưng tất cả những điều đã được đọc trước sự hiện diện của chúng con, cần được đốt cháy trong ngọn lửa; và tác giả của chúng cần bị vạ tuyệt thông. Bởi vì tám tên của thiên thần, mà Adalbert đã nêu ra trong lời kinh của mình, không phải là, ngoại trừ Michael, tên của các Thiên thần, nhưng là tên của ma quỷ, mà Adalbert đã cầu xin để giúp đỡ cho mình. Nhưng chúng ta (như được dạy bởi quyền Tông đồ của Giáo hoàng), và như quyền Chúa đã thông truyền, chỉ thừa nhận không hơn ba tên thiên thần mà thôi, đó là Michael, Gabriel, và Raphael. Các Giáo phụ đã nói như thế. Bởi quyền Chúa, anh em đã nhận biết rằng cuốn sách được gọi là Sách 4 Esdras, trong đó thường nhắc đến thiên thần Uriel, bị loại trừ và bị cấm bởi Giáo Hội Rôma".
Trong bản văn này, học thuyết cơ bản là rõ ràng về việc giới hạn cho ba tên Thiên thần trong Kinh Thánh mà thôi. Ngôn từ mạnh mẽ về bản chất ma quỷ khả dĩ của các tên khác nên được nhìn trong bối cảnh sự kết án cụ thể đối với thuyết của Adalbert, chứ không phải như một tuyên bố tuyệt đối. Điều chưa rõ là không biết tài liệu được viết khi nào, và rất có thể nó được viết ra nhiều năm sau khi nghị hội diễn ra. Bốn mươi bốn năm sau, năm 789, tại Công đồng Aix-la-Chapelle, các nghị phụ cũng lên án việc đặt tên cho các Thiên thần.
Có rất ít giáo huấn chính thức liên quan đến điểm này. Năm 1992, một sắc lệnh của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin đã cấm bàn thảo hoặc sử dụng tên của các Thiên thần, nhưng sắc lệnh này chủ yếu liên quan với việc được cho là mặc khải tư cho một người, chứ không liên quan trực tiếp đến trường hợp của chúng ta. Tuy nhiên, nó có thể góp phần vào việc Tài liệu Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ không đồng ý việc đặt tên cho các Thiên thần nói chung.
Mặt khác, mặc dù có sự miễn cưỡng tổng thể về phía Giáo Hội, thỉnh thoảng có bức tranh với hình ảnh của bảy Thiên thần, như một bức bích họa ở nhà thờ Đức Bà của các Thiên thần tại Rôma vẽ Đức Mẹ đứng giữa bảy Thiên thần. Sự cho phép cũng đã được ban năm 1720 để cung hiến một nhà thờ ở Đức, mà trong đó mỗi vị trong bảy Thiên thần có một bàn thờ riêng.
Về giáo lý, không có gì nhiều được đọc trong các sự chấp thuận như vậy. Theo các nguyên tắc được chấp nhận chung về giải thích thần học, sự chấp thuận của Giáo Hội cho một phụng vụ hay một lễ, dựa vào truyền thống ngoài Kinh Thánh hay giai thoại, không thể được sử dụng như bằng chứng cho tính xác thực lịch sử của chúng. Giáo Hội chỉ thừa nhận một truyền thống tôn giáo đặc biệt, vốn có thể có một số lợi ích thiêng liêng cho các tín hữu.
Trong ý nghĩa này, việc sử dụng tên từ các nguồn ngụy thư không bị cấm tự chính nó. Chẳng hạn Giáo Hội đã lấy tên của ba vị đạo sĩ, tên của cha mẹ Đức Maria, và lễ Đức Bà dâng mình vào đền thánh từ các nguồn ngụy thư. Sự thực hành này không có nghĩa rằng Giáo Hội ban sự khả tín lịch sử cho các sách ấy, nhưng chỉ khẳng định rằng chúng phản ánh một truyền thống lâu đời.
Vì vậy, thí dụ, vô số hình ảnh và các nhà thờ được cung hiến cho việc Đức Maria dâng mình vào đền thờ không chứng thực sự thật lịch sử của truyền thuyết đạo đức, liên quan đến việc Đức Mẹ thực sự sống nhiều năm ở đền thờ, hoặc có một nhóm trinh nữ sống trong đền thờ Giêrusalem. Ngày lễ khẳng định sự thật cơ bản của việc Đức Maria tận hiến cho Chúa ngay từ thuở đầu đời sống của Ngài, vốn được phản ánh trong các Tin Mừng ngụy thư được viết nhiều thế kỷ sau thời của Chúa Kitô.
Tương tự như vậy, sự việc rằng trong một số dịp hiếm hoi, các bức tranh và một nhà thờ đã được cung hiến cho bảy Tổng lãnh Thiên thần, là không gì khác hơn công nhận một sự sùng mộ và truyền thống địa phương. Việc thực hành thiêng liêng áp đảo của Giáo Hội Latinh cho thấy sự sùng mộ lớn lao đối với ba Tổng lãnh Thiên thần, trong khi bỏ qua bốn thiên thần khác được đề cập trong sách Tôbia và Khải Huyền. Không có điều gì chắc chắn được nói về các đặc điểm, biểu tượng, hoặc sự bảo trợ đặc biệt của các Tổng lãnh Thiên thần khác được nêu tên.
Vì vậy, tôi sẽ nói rằng, bởi vì Giáo Hội đã chính thức làm nản lòng việc cổ vũ một linh đạo dựa vào việc đặt tên các thiên thần khác ngoài ba Tổng lãnh Thiên thần đã có tên và thiên thần hộ thủ, mọi người Công Giáo Latinh nên kiềm chế không làm như vậy, ngay cả khi không bị cấm, nếu nói chặt chẽ như thế. Rõ ràng là Giáo Hội Latinh không tin rằng nhiều lợi ích thiêng liêng có thể đạt được từ việc đi theo con đường này, và cho rằng nó không miễn một số nguy hiểm nào đó.
Việc thiết lập một biểu tượng cho sự tôn kính chung hoặc việc cung hiến một nhà thờ hoặc nhà nguyện cho một thiên thần khác với các Tổng lãnh Thiên thần Michael, Gabriel và Raphael hoặc thiên thần hộ thủ như một tập thể, đòi hỏi sự cho phép đặc biệt, và một Giám mục không nên cho phép một cung hiến như vậy, hoặc làm phép cho một nhân vật không được công nhận phổ quát là là một thiên thần hay vị thánh trong lịch phụng vụ phổ quát hiện tại.
Điều này áp dụng cho toàn bộ Kitô giáo La tinh. Còn các tập tục của Chính thống giáo và Anh giáo là hợp pháp trong bối cảnh của các truyền thống thiêng liêng của họ mà thôi. (Zenit.org 1-9-2015)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma. Hỏi: Tại Philippines, có một lòng sùng mộ ngày càng gia tăng cho bảy Tổng lãnh Thiên thần với các hình ảnh và tên tương ứng cho bốn vị còn lại, ngoài các Tổng lãnh Thiên thần Michael (Mi-ca-e), Gabriel (Gáp-ri-en) và Raphael (Ra-pha-en). Tài liệu Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ (2001) của Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, số 217, mục 2, nói rõ: "Việc thực hành đặt tên cho các Thiên Thần không được khuyến khích, ngoại trừ trong trường hợp của các Tổng lãnh Thiên thần Gabriel, Raphael và Michael đã có tên trong Thánh Kinh". Tuy nhiên, điều này dường như bị vi phạm rõ ràng khi trong nhiều cửa hàng tranh tượng Công Giáo, các hình ảnh, sách kinh dành kính riêng cho các vị Uriel, Barachiel, Sealtiel và Judiel đang được bán, và các linh mục được xin làm phép các ảnh tượng ấy. Hơn nữa, có các nhà tĩnh tâm Công Giáo, trung tâm tâm linh và các nghĩa trang Công Giáo được đặt tên theo các vị thiên thần ấy, hoặc danh tánh và hình ảnh của các vị ấy là một phần của nơi trong nhà thờ dành cho sự sùng mộ của tín hữu. Chúng con tự hỏi liệu sự sùng mộ ấy với bảy Tổng lãnh Thiên thần cùng với tên và hình ảnh của các vị là hợp pháp về giáo lý không, và đã được phê duyệt ở cấp huấn quyền Giáo Hội chính thức không, bởi vì có nhiều linh mục cổ vũ việc này trong bài giảng của các ngài và trong sự sùng mộ ở giáo xứ. - W. F. C., Manila, Philippines.
Đáp: Bản văn chính xác được bạn đọc trên nhắc tới là:
"Tuy nhiên, sự sùng mộ bình dân đối với các Thiên thần, vốn là hợp pháp và tốt lành, có thể làm phát sinh các lệch lạc có thể có:
"khi, như đôi khi đã xảy ra, các tín hữu thuận theo ý tưởng rằng thế giới là đối tượng cho các đấu tranh của bán thần, hoặc một cuộc chiến không ngừng giữa thần tốt và thần dữ, hay Thiên thần và ác quỷ, mà trong đó con người ở lại với lòng thương xót của lực lượng mạnh hơn và bất lực với lực lượng ấy; vũ trụ luận đó ít có tương quan với tầm nhìn đích thực của Tin Mừng về chiến thắng Ma quỷ, vốn đòi hỏi sự cam kết đạo đức, một tùy chọn cơ bản cho Tin Mừng, sự khiêm nhường và cầu nguyện;
"khi các sự kiện hàng ngày của cuộc sống, vốn không có hoặc ít có tương quan với sự tiến bộ dần dà của chúng ta trên hành trình tiến về Chúa Kitô, được đọc cách sơ sài hoặc cách đơn giản, thậm chí như trẻ con, để gán mọi thất bại cho Ma quỷ và mọi thành công cho các Thiên thần hộ thủ. Việc thực hành đặt tên cho các Thiên Thần không được khuyến khích, ngoại trừ trong trường hợp của các Tổng lãnh Thiên thần Gabriel, Raphael và Michael đã có tên trong Thánh Kinh”.
Truyền thống Công Giáo Rôma thường không đề cập đến tên của bảy Tổng lãnh Thiên thần hay thậm chí nhấn mạnh nhiều đến con số bảy này. Đúng là Tobia 12,15 đề cập đến bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, và Khải Huyền 8,2 đề cập đến bảy thiên thần đứng chầu trước nhan Thiên Chúa, nhưng các văn bản này đã không ảnh hưởng đến đạo Công Giáo Latinh nhiều. Mặt khác, đã có sự sùng mộ liên tục và tuyệt vời đối với ba Tổng lãnh Thiên thần được nêu tên trong Thánh Kinh, đó là Michael, Gabriel và Raphael, cũng như các thiên thần hộ thủ.
Tuy nhiên, một số nhánh của Chính thống giáo Đông phương sùng mộ bảy Tổng lãnh Thiên thần, mặc dù nhiều chỉ nhánh chỉ nêu thêm tên Uriel như một Tổng lãnh Thiên thần có tên. Truyền thống Anh giáo cũng có lời nguyện với Uriel như một Tổng lãnh Thiên thần thứ tư.
Các nguồn của các tên khác là tác phẩm Do Thái ngụy thư, vốn không tạo nên một phần của Kinh Thánh. Các tên này được tìm thấy trong Sách 1 Enoch và một danh sách khác trong cái gọi là Sách 2 (hoặc Sách 4) Esdras. Các danh sách này không luôn đồng ý với nhau, mặc dù tên Uriel là tương đối ổn định. Các tên khác gồm có Raguel, Sariel, Jeremiel, Jehudiel, Barachiel, Gabuthelon, Beburos, Zebuleon, Aker và Arphugitonos. Một số các tên này có thể là biến thái trong cách đọc cùng một tên, nhưng các tên khác là như nhau cho một số sách. Các sách trên và các sách tương tự được viết bởi nhà văn Do Thái trong giai đoạn giữa Cựu Ước và Tân Ước, hoặc thậm chí sau nhiều phần của Tân Ước đã được viết, sau cuộc tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70.
Các tên tương tự được đề cập bởi Pseudo-Dionysius (cuối thế kỷ thứ năm đến đầu thế kỷ thứ sáu) và Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô I (540-604).
Đối với việc đặt tên các thiên thần, Giáo Hội Latinh đã luôn cảnh giác phần nào. Trong một nghị hội hoặc công đồng tổ chức tại Rôma năm 745, Thánh Giáo Hoàng Zachary đã tìm cách kiềm chế một xu hướng tôn sùng các Thiên thần, và cấm sử dụng các tên không được tìm thấy trong Kinh Thánh.
Một bản văn miêu tả nghị hội (hoặc công đồng) này được ghi lại trong Tập XII của bộ "Annali Ecclesiastici" của Đức Hồng Y Cesare Baronio (xuất bản năm 1607). Bản văn đáng chú ý và có phần khắc nghiệt này của nghị hội xử lý các lời dạy lạc giáo của một linh mục sống ở Đức, tên là Adalbert. Một lời kinh do linh mục này sáng tác có câu như sau:
"Con cầu nguyện và van xin các Ngài, và khẩn cầu các Ngài, là thiên thần Uriel, thiên thần Raguel, thiên thần Tubuel, thiên thần Michael, thiên thần Adimis, thiên thần Tubuas, thiên thần Sabaoth, thiên thần Simuel".
Bản văn của Baronio nói: "Và khi nghe đọc xong lời kinh phạm thượng này, Thánh Giáo hoàng Zachary nói: “Làm thế nào, anh em thân mến, anh em trả lời với kinh này?”. Các Giám mục thánh và linh mục đáng kính trả lời: “Điều gì khác có thể làm thêm, nhưng tất cả những điều đã được đọc trước sự hiện diện của chúng con, cần được đốt cháy trong ngọn lửa; và tác giả của chúng cần bị vạ tuyệt thông. Bởi vì tám tên của thiên thần, mà Adalbert đã nêu ra trong lời kinh của mình, không phải là, ngoại trừ Michael, tên của các Thiên thần, nhưng là tên của ma quỷ, mà Adalbert đã cầu xin để giúp đỡ cho mình. Nhưng chúng ta (như được dạy bởi quyền Tông đồ của Giáo hoàng), và như quyền Chúa đã thông truyền, chỉ thừa nhận không hơn ba tên thiên thần mà thôi, đó là Michael, Gabriel, và Raphael. Các Giáo phụ đã nói như thế. Bởi quyền Chúa, anh em đã nhận biết rằng cuốn sách được gọi là Sách 4 Esdras, trong đó thường nhắc đến thiên thần Uriel, bị loại trừ và bị cấm bởi Giáo Hội Rôma".
Trong bản văn này, học thuyết cơ bản là rõ ràng về việc giới hạn cho ba tên Thiên thần trong Kinh Thánh mà thôi. Ngôn từ mạnh mẽ về bản chất ma quỷ khả dĩ của các tên khác nên được nhìn trong bối cảnh sự kết án cụ thể đối với thuyết của Adalbert, chứ không phải như một tuyên bố tuyệt đối. Điều chưa rõ là không biết tài liệu được viết khi nào, và rất có thể nó được viết ra nhiều năm sau khi nghị hội diễn ra. Bốn mươi bốn năm sau, năm 789, tại Công đồng Aix-la-Chapelle, các nghị phụ cũng lên án việc đặt tên cho các Thiên thần.
Có rất ít giáo huấn chính thức liên quan đến điểm này. Năm 1992, một sắc lệnh của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin đã cấm bàn thảo hoặc sử dụng tên của các Thiên thần, nhưng sắc lệnh này chủ yếu liên quan với việc được cho là mặc khải tư cho một người, chứ không liên quan trực tiếp đến trường hợp của chúng ta. Tuy nhiên, nó có thể góp phần vào việc Tài liệu Hướng dẫn về lòng đạo đức bình dân và phụng vụ không đồng ý việc đặt tên cho các Thiên thần nói chung.
Mặt khác, mặc dù có sự miễn cưỡng tổng thể về phía Giáo Hội, thỉnh thoảng có bức tranh với hình ảnh của bảy Thiên thần, như một bức bích họa ở nhà thờ Đức Bà của các Thiên thần tại Rôma vẽ Đức Mẹ đứng giữa bảy Thiên thần. Sự cho phép cũng đã được ban năm 1720 để cung hiến một nhà thờ ở Đức, mà trong đó mỗi vị trong bảy Thiên thần có một bàn thờ riêng.
Về giáo lý, không có gì nhiều được đọc trong các sự chấp thuận như vậy. Theo các nguyên tắc được chấp nhận chung về giải thích thần học, sự chấp thuận của Giáo Hội cho một phụng vụ hay một lễ, dựa vào truyền thống ngoài Kinh Thánh hay giai thoại, không thể được sử dụng như bằng chứng cho tính xác thực lịch sử của chúng. Giáo Hội chỉ thừa nhận một truyền thống tôn giáo đặc biệt, vốn có thể có một số lợi ích thiêng liêng cho các tín hữu.
Trong ý nghĩa này, việc sử dụng tên từ các nguồn ngụy thư không bị cấm tự chính nó. Chẳng hạn Giáo Hội đã lấy tên của ba vị đạo sĩ, tên của cha mẹ Đức Maria, và lễ Đức Bà dâng mình vào đền thánh từ các nguồn ngụy thư. Sự thực hành này không có nghĩa rằng Giáo Hội ban sự khả tín lịch sử cho các sách ấy, nhưng chỉ khẳng định rằng chúng phản ánh một truyền thống lâu đời.
Vì vậy, thí dụ, vô số hình ảnh và các nhà thờ được cung hiến cho việc Đức Maria dâng mình vào đền thờ không chứng thực sự thật lịch sử của truyền thuyết đạo đức, liên quan đến việc Đức Mẹ thực sự sống nhiều năm ở đền thờ, hoặc có một nhóm trinh nữ sống trong đền thờ Giêrusalem. Ngày lễ khẳng định sự thật cơ bản của việc Đức Maria tận hiến cho Chúa ngay từ thuở đầu đời sống của Ngài, vốn được phản ánh trong các Tin Mừng ngụy thư được viết nhiều thế kỷ sau thời của Chúa Kitô.
Tương tự như vậy, sự việc rằng trong một số dịp hiếm hoi, các bức tranh và một nhà thờ đã được cung hiến cho bảy Tổng lãnh Thiên thần, là không gì khác hơn công nhận một sự sùng mộ và truyền thống địa phương. Việc thực hành thiêng liêng áp đảo của Giáo Hội Latinh cho thấy sự sùng mộ lớn lao đối với ba Tổng lãnh Thiên thần, trong khi bỏ qua bốn thiên thần khác được đề cập trong sách Tôbia và Khải Huyền. Không có điều gì chắc chắn được nói về các đặc điểm, biểu tượng, hoặc sự bảo trợ đặc biệt của các Tổng lãnh Thiên thần khác được nêu tên.
Vì vậy, tôi sẽ nói rằng, bởi vì Giáo Hội đã chính thức làm nản lòng việc cổ vũ một linh đạo dựa vào việc đặt tên các thiên thần khác ngoài ba Tổng lãnh Thiên thần đã có tên và thiên thần hộ thủ, mọi người Công Giáo Latinh nên kiềm chế không làm như vậy, ngay cả khi không bị cấm, nếu nói chặt chẽ như thế. Rõ ràng là Giáo Hội Latinh không tin rằng nhiều lợi ích thiêng liêng có thể đạt được từ việc đi theo con đường này, và cho rằng nó không miễn một số nguy hiểm nào đó.
Việc thiết lập một biểu tượng cho sự tôn kính chung hoặc việc cung hiến một nhà thờ hoặc nhà nguyện cho một thiên thần khác với các Tổng lãnh Thiên thần Michael, Gabriel và Raphael hoặc thiên thần hộ thủ như một tập thể, đòi hỏi sự cho phép đặc biệt, và một Giám mục không nên cho phép một cung hiến như vậy, hoặc làm phép cho một nhân vật không được công nhận phổ quát là là một thiên thần hay vị thánh trong lịch phụng vụ phổ quát hiện tại.
Điều này áp dụng cho toàn bộ Kitô giáo La tinh. Còn các tập tục của Chính thống giáo và Anh giáo là hợp pháp trong bối cảnh của các truyền thống thiêng liêng của họ mà thôi. (Zenit.org 1-9-2015)
Nguyễn Trọng Đa
Văn Hóa
Tức giận
Lm Vũđình Tường
06:29 02/09/2015
Tặng những người đi câu cùng chuyến nhân dịp thăm bà con bên USA-2015.
Không thể nào giận mà không tức bởi giận đến sau tức và giận là kết quả của tức. Có khi tức giận sống độc thân, đi riêng rẽ một mình. Như thế tức và giận không bắt buộc phải đi chung với nhau. Tức mà không giận là tức tịt, tức đui bởi không có hậu quả giận kèm theo. Có những lúc tức mà không giận. Có những lúc vừa tức vừa giận. Tức mà không giận là trường hợp tôi chứng kiến trong dịp đi chơi vừa qua.
Sau chuyến đi Mỹ người thân quen hỏi sang Mỹ đi những đâu. Tôi đáp đi câu. Thực ra đây chỉ là một nửa sự thật. Sự thật tôi đi theo xem người khác câu, còn chính mình thì không câu mà chung thuyền nhìn người khác câu. Lí do đơn giản là tôi không có kinh nghiệm và cũng không có phép câu cá ở xứ tư bản. Nói thế để quí vị biết cá xứ tư bản cũng có nhiều đặc quyền, đặc lợi. Luật lệ câu chính phủ đưa ra bảo vệ cá, chẳng hạn như người câu cần có giấy phép câu trong ngày. Thứ đến phải học biết mùa nào câu cá loại gì. Câu trái mùa nếu câu được cũng phải thả xuống sông trở lại vì bắt cá trái mùa là một trọng tội. Cá nào được phép câu và được câu mỗi ngày mấy con. Như thế mới biết con cá ở xứ tư bản cũng có nhiều luật lệ bảo vệ nó. Nó được luật pháp bảo vệ, tôn trọng còn hơn cả con người sống trong một xã hội mà chỉ lừa dối cho dân chúng ăn bánh vẽ, tô mầu son phấn, đánh nước sơn bóng loè bịp dư luận, quần chúng. Khi lọt vào vòng rồi mới thấu rõ đằng sau cái nước sơn kia có một lớp độc tố.
Phải học biết kích thước phân lượng con cá được phép câu. Nếu nhỏ dưới kích thước sẽ bị phạt và nếu tham câu nhiều hơn số lượng cho phép câu một ngày cũng bị phạt. Dân chuyên nghiệp rành về luật lệ và kĩ thuật câu cá. Tôi là tay mơ nên coi đó như là đặc quyền của cá xứ tư bản. Ngoài việc đón con nước, con gió còn phải đến đúng chỗ câu, cá mới chịu ăn. Cùng con sông nhưng không phải chỗ nào cá cũng ăn mồi mà phải đến đúng chỗ chúng họp chợ chúng mới chịu ăn mồi. Đúng chỗ câu đã vậy còn phải đúng mồi và mồi phải vừa khuôn khổ, không to quá, cũng chẳng nhỏ quá. Mắc mồi không đúng kiểu, câu không được cá. Mồi câu không đúng, cá làm ngơ bơi qua. Giây câu không đúng kích thước, lớn quá cá cho qua, nhỏ quá nếu giật sẽ bị đứt giây toi con mồi. Cục chì không đúng khổ cũng làm cho mồi câu nằm chờ hàng giờ. Tất cả những nguyên nhân trên dẫn đến việc anh bạn chở chúng tôi đi câu than luôn miệng:
Tức quá, câu hoài chẳng được gì.
Dường như để chữa thẹn cho việc câu cá mà tay sạch, mồi dư anh than tiếp:
Mọi khi đi đâu có xui vậy.
Tôi nghĩ bụng nhưng không nói ra bởi số tôi kị cá, nơi đâu có bóng dáng tôi cá lảng ra xa. Nơi đâu có mồ hôi tôi cá ngửi thấy đều muốn ói, lấy chi dám ăn con mồi. Có lẽ bạn chưa thấy cá ói. Tôi thấy rồi, nó vãy đuôi thật mạnh, ở tại chỗ, miệng há lớn thế là nó ói thức ăn ra. Nước nơi đó hơi vẩn đục. Trông cá ói cũng lịch sự lắm. Không khạc nhổ tùm lum như con người.
Tôi có nghe đến tên con sông đang câu nhưng không nhớ vì không rành địa dư nhưng nghe chủ tầu nói con sông này chảy ra cây cầu nổi tiếng ở San Francisco. Vài năm trước đó tôi đứng trên cầu nhìn xuống chân cầu tít mù xa tưởng tượng đến giòng sông bên dưới với sức nước cuốn trôi. Hôm đó không may mắn, giòng sông thở khói nhiều nên không nhìn thấy chân cầu. Hôm nay man mắn hơn, hãnh diện không những đã được đi trên cây cầu mà còn ở dưới sông nhìn thiên hạ câu cá của con sông và cũng được thưởng thức món cá nướng bắt tại con sông có cây cầu lừng danh lịch sử. Từ chỗ chúng tôi câu ra đến cầu cũng không xa mấy nên cá nơi khúc sông đang câu là cá biển, cá nước mặn. Gió chiều không lạnh lắm nhưng khi mặt trời sắp ẩn mình sau những bụi cây khí hậu trở nên lạnh hơn, cộng thêm gió sông lùa vào làm mọi người nhanh tay trùm kín toàn thân.
Đi câu dẫn người ta đi từ thất vọng này đến hy vọng khác. Thoạt nhìn chiếc tầu tôi cảm thấy thất vọng vì chiếc tầu mới cáo cạnh. Tầu câu mà mới quá có nghĩa là chủ tầu rất ít đi mà ít đi câu thì lấy đâu ra kinh nghiệm biết chỗ câu để hy vọng có cá. Khi nhìn thấy đám đồ nghề đi câu tôi lại có hy vọng vì thấy đầy đủ dụng cụ cần thiết cho bất cứ loại cá nào khi cần. Dọc đường đi tôi lại thất vọng vì giờ này anh mới đi mua lưỡi câu cho loại cá cần câu như thế anh chưa câu loại cá này bao giờ hoặc ít nhất là trong năm nay. Tôi lại mang hy vọng bởi anh nói trước khi đi đã hỏi mấy người bạn họ cho biết lúc này loại cá đó đang ăn, đúng mùa cá nên cần phải thay đổi chương trình câu chút xíu.
Bao nhiêu hy vọng dồn cả vào sợi cước dập dềnh, bập bềnh theo con thuyền trên sóng. Mỗi lần giây câu căng ra là tinh thần căng theo tưởng đâu cá cắn kéo giây nhưng rồi nó lại chùn trở lại. Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, hy vọng cũng chìm theo giòng sông, chìm sâu đáy nước. Chủ tầu bắt đầu than tức vì thấy thiên hạ trước sau, phải trái bên nào cũng bận rộn gỡ cá, kẻ kéo, người vợt thấy thích mắt trong khi năm sáu người trên ghe mình nhàn hạ. Đúng là số nhàn đến độ đi câu cũng nhàn, không phải vất vả như thiên hạ. Chủ tầu quyết định dời bến cũ chuyển sang bến mới với hy vọng sẽ có cá cho bữa cơm chiều. Đến chỗ mới cũng không hơn gì vẫn nhàn hạ như xưa. Đàn cá không chỉ kì thị, không hiếu khách đến từ nơi khác mà còn coi thường dân bản xứ, vẫn không chịu cắn câu. Chủ tầu lại quyết định di chuyển chỗ mang hy vọng cho con tầu trống không. Mọi người không ai có í kiến, đều im lặng vâng lời ông chủ hy vọng gặp may hơn chăng. Thế là lại cuốn giây câu, lại bỏ mồi ra đi trong hy vọng. Neo tầu xong ông chủ lúc đó thảnh thơi hơn bắt đầu ngó quanh quất bạn câu. Hy vọng vươn cao, có người quen kia rồi. Câu chuyện không ngoài việc câu mồi gì, lưỡi số mấy, cước loại nào, thả nông sâu ra sao. Khi đã học biết kĩ thuật, thực hành đúng bài bản được hướng dẫn, người ít kinh nghiệm câu nhất trong tầu lại là người mang niềm vui lớn nhất cho mọi người. Lạ lùng thay anh kéo con cá đầu tiên mà lại là con cá lớn. Mọi người hồi hộp vì nhiều khi con cá chỉ cho xem đuôi của nó rồi vẫy đuôi đi thẳng xuống lòng sông. May mắn, con cá chui tọt vào vợt và giẫy mạnh khi bị đưa ra khỏi nước. Con cá tức ứa máu, nơi miệng nó có chút máu pha lẫn rãi, chảy giài thành giọt lấp lánh như sợi kim cương do ánh nắng chiều chiếu qua. Con cá nằm yên trong giỏ, lúc đó người câu mới yên tâm, con cá thuộc về mình, từ giã giòng sông muôn thuở. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm. Ít nhất trong tầu giờ đây cũng có mùi cá tanh, dễ chịu hơn mùi tanh của con mồi. Rồi người thứ hai cũng giật con cá, con này nhỏ hơn, giãy nhiều hơn, cố thoát thân nhưng số phận nó đã bị cái lưỡi câu quái ác ghim chặt cổ họng. Miệng nó trào máu, thân mình vật vã, vảy rơi ra và rồi cuối cùng nó nằm im vì còn sức đâu mà vật vã mãi. Tinh thần mọi người lên cao rồi lại im lìm với cái im lặng của sợi cước. Một số ghe bắt đầu cuốn gói về. Thưa người câu hơn tha hồ quăng ném, không sợ đụng giây câu người khác, không sợ bị mắng vốn, mắng lời, mắng thua lỗ vì cước cuốn giây, chằng chịt. Vừa tháo gỡ, vừa chán ngấy cảnh đã không được câu còn sợ làm hàng xóm mất lòng. Rồi giây câu giật mạnh thế là lại một con cá nữa dính câu, rồi người kia lại la lớn, mừng vui có cá. Cả hai con cá kéo lên đều không đủ kích thước thế là phải nhẹ nhàng tháo lưỡi câu, hai tay cầm con cá nhẹ nhàng thả xuống mặt nước sông, con cá vẫy đuôi cám ơn người thả nó trước khi biến mất vào lòng sông. Tôi suy nghĩ nhiều về chuyện đó mới nghiệm ra. Bảo vệ cá chính là bảo vệ chính mình bởi nếu không có luật lệ, nếu không bảo vệ cá để tự do, bắt bừa bãi, câu thả giàn thì chỉ một thời gian ngắn, dăm ba năm, không còn cá để câu. Cá bị tuyệt chủng là lúc con người đói, thiếu lương thực. Hơn nữa không có cá ăn rong rêu, cỏ dại nơi lòng sông mọc tràn lan dẫn đến tình trạng nước dơ, sông cạn và bệnh tật phát sinh, ảnh hưởng nhiều đến môi trường sống của con người. Thế mới biết luật lệ câu ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống tương lai như thế nào.
Vài ba con cá cắn câu sau cũng là cá nhỏ, dưới kích thước và chủ tầu cho biết đến lúc ra về vì giờ cá lớn ăn đã qua, bây giờ mấy chú cá tiểu học mới ra quân, gặp mồi đâu ăn đó. Có ở lì thêm cũng mất công. Điều anh suy đoán có lẽ đúng vì những tầu câu chung quanh rút gần hết chỉ còn lại vài ba tầu đói cá, hay là tay mơ năm thì mười hoạ mới đi câu một lần nên hy vọng đấu lì may ra có ăn. Mọi người cảm thấy thoải mái trong chuyến đi câu vừa qua, chỉ có chủ tầu vẫn còn ấm ức, nhắc đi nhắc lại hai chữ ‘tức quá’. Miệng nói tức nhưng khuôn mặt anh vẫn vui tươi, vẫn thoải mái, tử tế với mọi người cho nên tôi tin là anh ta chỉ tức nơi cửa miệng, ngoài môi, còn trong tâm thì vô cùng thoải mái vì gặp gỡ anh em, bạn bè lâu ngày không có dịp hội ngộ. Nếu anh có tức thì tức đám cá không chịu ăn mồi như í anh muốn và tức với con cá thì cũng bằng hoà cả làng vì đó chỉ là nói để mà nói hơn là biểu tỏ thái độ mất thân thiện. Trên đường về chủ tầu hứa hẹn sáng sớm mai đi chuyến nữa. Tôi quen thuộc với tình trạng thức khuya dậy muộn nên hứa hẹn dậy sớm đi câu tôi chọn thái độ trở về với châm ngôn.
Im lặng là vàng.
Con người mà học biết cách diễn tả tâm tư tình cảm như anh bạn chủ tầu thì cuộc đời sẽ nhẹ nhàng biết mấy bởi cách đối xử đó diễn tả được tâm tư nhưng không gây oán thù, hờn giận. Điều này khó nhưng không phải không thể làm được. Nếu quyết tâm học cách diễn tả tình cảm các nhẹ nhàng chắc chắn bạn sẽ thực hành được í nguyện. Nếu có tức cũng chỉ nên tức ngoài đầu môi, chóp lưỡi còn tâm tư vẫn an bình, thanh thản như thế vừa xả được bực dọc vừa có được tâm tư an bình.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Không thể nào giận mà không tức bởi giận đến sau tức và giận là kết quả của tức. Có khi tức giận sống độc thân, đi riêng rẽ một mình. Như thế tức và giận không bắt buộc phải đi chung với nhau. Tức mà không giận là tức tịt, tức đui bởi không có hậu quả giận kèm theo. Có những lúc tức mà không giận. Có những lúc vừa tức vừa giận. Tức mà không giận là trường hợp tôi chứng kiến trong dịp đi chơi vừa qua.
Sau chuyến đi Mỹ người thân quen hỏi sang Mỹ đi những đâu. Tôi đáp đi câu. Thực ra đây chỉ là một nửa sự thật. Sự thật tôi đi theo xem người khác câu, còn chính mình thì không câu mà chung thuyền nhìn người khác câu. Lí do đơn giản là tôi không có kinh nghiệm và cũng không có phép câu cá ở xứ tư bản. Nói thế để quí vị biết cá xứ tư bản cũng có nhiều đặc quyền, đặc lợi. Luật lệ câu chính phủ đưa ra bảo vệ cá, chẳng hạn như người câu cần có giấy phép câu trong ngày. Thứ đến phải học biết mùa nào câu cá loại gì. Câu trái mùa nếu câu được cũng phải thả xuống sông trở lại vì bắt cá trái mùa là một trọng tội. Cá nào được phép câu và được câu mỗi ngày mấy con. Như thế mới biết con cá ở xứ tư bản cũng có nhiều luật lệ bảo vệ nó. Nó được luật pháp bảo vệ, tôn trọng còn hơn cả con người sống trong một xã hội mà chỉ lừa dối cho dân chúng ăn bánh vẽ, tô mầu son phấn, đánh nước sơn bóng loè bịp dư luận, quần chúng. Khi lọt vào vòng rồi mới thấu rõ đằng sau cái nước sơn kia có một lớp độc tố.
Phải học biết kích thước phân lượng con cá được phép câu. Nếu nhỏ dưới kích thước sẽ bị phạt và nếu tham câu nhiều hơn số lượng cho phép câu một ngày cũng bị phạt. Dân chuyên nghiệp rành về luật lệ và kĩ thuật câu cá. Tôi là tay mơ nên coi đó như là đặc quyền của cá xứ tư bản. Ngoài việc đón con nước, con gió còn phải đến đúng chỗ câu, cá mới chịu ăn. Cùng con sông nhưng không phải chỗ nào cá cũng ăn mồi mà phải đến đúng chỗ chúng họp chợ chúng mới chịu ăn mồi. Đúng chỗ câu đã vậy còn phải đúng mồi và mồi phải vừa khuôn khổ, không to quá, cũng chẳng nhỏ quá. Mắc mồi không đúng kiểu, câu không được cá. Mồi câu không đúng, cá làm ngơ bơi qua. Giây câu không đúng kích thước, lớn quá cá cho qua, nhỏ quá nếu giật sẽ bị đứt giây toi con mồi. Cục chì không đúng khổ cũng làm cho mồi câu nằm chờ hàng giờ. Tất cả những nguyên nhân trên dẫn đến việc anh bạn chở chúng tôi đi câu than luôn miệng:
Tức quá, câu hoài chẳng được gì.
Dường như để chữa thẹn cho việc câu cá mà tay sạch, mồi dư anh than tiếp:
Mọi khi đi đâu có xui vậy.
Tôi nghĩ bụng nhưng không nói ra bởi số tôi kị cá, nơi đâu có bóng dáng tôi cá lảng ra xa. Nơi đâu có mồ hôi tôi cá ngửi thấy đều muốn ói, lấy chi dám ăn con mồi. Có lẽ bạn chưa thấy cá ói. Tôi thấy rồi, nó vãy đuôi thật mạnh, ở tại chỗ, miệng há lớn thế là nó ói thức ăn ra. Nước nơi đó hơi vẩn đục. Trông cá ói cũng lịch sự lắm. Không khạc nhổ tùm lum như con người.
Tôi có nghe đến tên con sông đang câu nhưng không nhớ vì không rành địa dư nhưng nghe chủ tầu nói con sông này chảy ra cây cầu nổi tiếng ở San Francisco. Vài năm trước đó tôi đứng trên cầu nhìn xuống chân cầu tít mù xa tưởng tượng đến giòng sông bên dưới với sức nước cuốn trôi. Hôm đó không may mắn, giòng sông thở khói nhiều nên không nhìn thấy chân cầu. Hôm nay man mắn hơn, hãnh diện không những đã được đi trên cây cầu mà còn ở dưới sông nhìn thiên hạ câu cá của con sông và cũng được thưởng thức món cá nướng bắt tại con sông có cây cầu lừng danh lịch sử. Từ chỗ chúng tôi câu ra đến cầu cũng không xa mấy nên cá nơi khúc sông đang câu là cá biển, cá nước mặn. Gió chiều không lạnh lắm nhưng khi mặt trời sắp ẩn mình sau những bụi cây khí hậu trở nên lạnh hơn, cộng thêm gió sông lùa vào làm mọi người nhanh tay trùm kín toàn thân.
Đi câu dẫn người ta đi từ thất vọng này đến hy vọng khác. Thoạt nhìn chiếc tầu tôi cảm thấy thất vọng vì chiếc tầu mới cáo cạnh. Tầu câu mà mới quá có nghĩa là chủ tầu rất ít đi mà ít đi câu thì lấy đâu ra kinh nghiệm biết chỗ câu để hy vọng có cá. Khi nhìn thấy đám đồ nghề đi câu tôi lại có hy vọng vì thấy đầy đủ dụng cụ cần thiết cho bất cứ loại cá nào khi cần. Dọc đường đi tôi lại thất vọng vì giờ này anh mới đi mua lưỡi câu cho loại cá cần câu như thế anh chưa câu loại cá này bao giờ hoặc ít nhất là trong năm nay. Tôi lại mang hy vọng bởi anh nói trước khi đi đã hỏi mấy người bạn họ cho biết lúc này loại cá đó đang ăn, đúng mùa cá nên cần phải thay đổi chương trình câu chút xíu.
Bao nhiêu hy vọng dồn cả vào sợi cước dập dềnh, bập bềnh theo con thuyền trên sóng. Mỗi lần giây câu căng ra là tinh thần căng theo tưởng đâu cá cắn kéo giây nhưng rồi nó lại chùn trở lại. Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, hy vọng cũng chìm theo giòng sông, chìm sâu đáy nước. Chủ tầu bắt đầu than tức vì thấy thiên hạ trước sau, phải trái bên nào cũng bận rộn gỡ cá, kẻ kéo, người vợt thấy thích mắt trong khi năm sáu người trên ghe mình nhàn hạ. Đúng là số nhàn đến độ đi câu cũng nhàn, không phải vất vả như thiên hạ. Chủ tầu quyết định dời bến cũ chuyển sang bến mới với hy vọng sẽ có cá cho bữa cơm chiều. Đến chỗ mới cũng không hơn gì vẫn nhàn hạ như xưa. Đàn cá không chỉ kì thị, không hiếu khách đến từ nơi khác mà còn coi thường dân bản xứ, vẫn không chịu cắn câu. Chủ tầu lại quyết định di chuyển chỗ mang hy vọng cho con tầu trống không. Mọi người không ai có í kiến, đều im lặng vâng lời ông chủ hy vọng gặp may hơn chăng. Thế là lại cuốn giây câu, lại bỏ mồi ra đi trong hy vọng. Neo tầu xong ông chủ lúc đó thảnh thơi hơn bắt đầu ngó quanh quất bạn câu. Hy vọng vươn cao, có người quen kia rồi. Câu chuyện không ngoài việc câu mồi gì, lưỡi số mấy, cước loại nào, thả nông sâu ra sao. Khi đã học biết kĩ thuật, thực hành đúng bài bản được hướng dẫn, người ít kinh nghiệm câu nhất trong tầu lại là người mang niềm vui lớn nhất cho mọi người. Lạ lùng thay anh kéo con cá đầu tiên mà lại là con cá lớn. Mọi người hồi hộp vì nhiều khi con cá chỉ cho xem đuôi của nó rồi vẫy đuôi đi thẳng xuống lòng sông. May mắn, con cá chui tọt vào vợt và giẫy mạnh khi bị đưa ra khỏi nước. Con cá tức ứa máu, nơi miệng nó có chút máu pha lẫn rãi, chảy giài thành giọt lấp lánh như sợi kim cương do ánh nắng chiều chiếu qua. Con cá nằm yên trong giỏ, lúc đó người câu mới yên tâm, con cá thuộc về mình, từ giã giòng sông muôn thuở. Ai nấy thở phào nhẹ nhõm. Ít nhất trong tầu giờ đây cũng có mùi cá tanh, dễ chịu hơn mùi tanh của con mồi. Rồi người thứ hai cũng giật con cá, con này nhỏ hơn, giãy nhiều hơn, cố thoát thân nhưng số phận nó đã bị cái lưỡi câu quái ác ghim chặt cổ họng. Miệng nó trào máu, thân mình vật vã, vảy rơi ra và rồi cuối cùng nó nằm im vì còn sức đâu mà vật vã mãi. Tinh thần mọi người lên cao rồi lại im lìm với cái im lặng của sợi cước. Một số ghe bắt đầu cuốn gói về. Thưa người câu hơn tha hồ quăng ném, không sợ đụng giây câu người khác, không sợ bị mắng vốn, mắng lời, mắng thua lỗ vì cước cuốn giây, chằng chịt. Vừa tháo gỡ, vừa chán ngấy cảnh đã không được câu còn sợ làm hàng xóm mất lòng. Rồi giây câu giật mạnh thế là lại một con cá nữa dính câu, rồi người kia lại la lớn, mừng vui có cá. Cả hai con cá kéo lên đều không đủ kích thước thế là phải nhẹ nhàng tháo lưỡi câu, hai tay cầm con cá nhẹ nhàng thả xuống mặt nước sông, con cá vẫy đuôi cám ơn người thả nó trước khi biến mất vào lòng sông. Tôi suy nghĩ nhiều về chuyện đó mới nghiệm ra. Bảo vệ cá chính là bảo vệ chính mình bởi nếu không có luật lệ, nếu không bảo vệ cá để tự do, bắt bừa bãi, câu thả giàn thì chỉ một thời gian ngắn, dăm ba năm, không còn cá để câu. Cá bị tuyệt chủng là lúc con người đói, thiếu lương thực. Hơn nữa không có cá ăn rong rêu, cỏ dại nơi lòng sông mọc tràn lan dẫn đến tình trạng nước dơ, sông cạn và bệnh tật phát sinh, ảnh hưởng nhiều đến môi trường sống của con người. Thế mới biết luật lệ câu ảnh hưởng mạnh đến cuộc sống tương lai như thế nào.
Vài ba con cá cắn câu sau cũng là cá nhỏ, dưới kích thước và chủ tầu cho biết đến lúc ra về vì giờ cá lớn ăn đã qua, bây giờ mấy chú cá tiểu học mới ra quân, gặp mồi đâu ăn đó. Có ở lì thêm cũng mất công. Điều anh suy đoán có lẽ đúng vì những tầu câu chung quanh rút gần hết chỉ còn lại vài ba tầu đói cá, hay là tay mơ năm thì mười hoạ mới đi câu một lần nên hy vọng đấu lì may ra có ăn. Mọi người cảm thấy thoải mái trong chuyến đi câu vừa qua, chỉ có chủ tầu vẫn còn ấm ức, nhắc đi nhắc lại hai chữ ‘tức quá’. Miệng nói tức nhưng khuôn mặt anh vẫn vui tươi, vẫn thoải mái, tử tế với mọi người cho nên tôi tin là anh ta chỉ tức nơi cửa miệng, ngoài môi, còn trong tâm thì vô cùng thoải mái vì gặp gỡ anh em, bạn bè lâu ngày không có dịp hội ngộ. Nếu anh có tức thì tức đám cá không chịu ăn mồi như í anh muốn và tức với con cá thì cũng bằng hoà cả làng vì đó chỉ là nói để mà nói hơn là biểu tỏ thái độ mất thân thiện. Trên đường về chủ tầu hứa hẹn sáng sớm mai đi chuyến nữa. Tôi quen thuộc với tình trạng thức khuya dậy muộn nên hứa hẹn dậy sớm đi câu tôi chọn thái độ trở về với châm ngôn.
Im lặng là vàng.
Con người mà học biết cách diễn tả tâm tư tình cảm như anh bạn chủ tầu thì cuộc đời sẽ nhẹ nhàng biết mấy bởi cách đối xử đó diễn tả được tâm tư nhưng không gây oán thù, hờn giận. Điều này khó nhưng không phải không thể làm được. Nếu quyết tâm học cách diễn tả tình cảm các nhẹ nhàng chắc chắn bạn sẽ thực hành được í nguyện. Nếu có tức cũng chỉ nên tức ngoài đầu môi, chóp lưỡi còn tâm tư vẫn an bình, thanh thản như thế vừa xả được bực dọc vừa có được tâm tư an bình.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Dưới Trời Bao La
Dominic Đức Nguyễn
21:09 02/09/2015
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Ngắm trông trời biển bao la
Tạ ơn Thượng Đế cao xa tuyệt vời.
(bt)
VietCatholic TV
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 27/8 – 02/09/2015: Ngày Thế Giới Cầu Cho Việc Chăm Sóc Thiên Nhiên tại Vatican
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:07 02/09/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Hoạt động chính trong Ngày Thế Giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thiên nhiên như công trình tạo dựng của Thiên Chúa là buổi phụng vụ Lời Chúa, diễn ra trong Đền thờ Thánh Phêrô, với sự tham dự của 20 Hồng Y, 40 Tổng Giám Mục và Giám mục, 100 Giám chức và linh mục, cùng với đại diện Giáo Hội Chính Thống và các Giáo Hội Kitô khác, và gần một ngàn tín hữu.
Mở đầu là bài ca dẫn nhập trích từ sách ngôn sứ Daniel (3,57-87) mời gọi toàn thể các loài thụ tạo hãy chúc tụng Chúa. Tiếp đến là lời chào phụng vụ của Đức Thánh Cha và lời nguyện trong đó ngài chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa và cầu xin Chúa “dạy chúng con biết chiêm ngắm Chúa trong vẻ đẹp của vũ trụ, qua đó tất cả đều nói về Chúa. Xin thức tỉnh sự ngợi khen và lòng biết ơn của chúng con vì mỗi hữu thể Chúa đã dựng nên. Xin ban cho chúng con ơn được cảm thấy liên kết mật thiết với tất cả những gì hiện hữu.. Xin tỏ cho chúng con thấy chỗ của chúng con trong thế giới này như dụng cụ tình thương của Chúa đối với mọi loài trên trái đất, vì không loài nào bị Chúa quên lãng”.
Đức Thánh Cha cũng nguyện rằng: “Xin Chúa soi sáng những chủ nhân ông của quyền lực và tiền bạc, để họ không rơi vào tội dửng dưng, nhưng yêu mến công ích, thăng tiến những người yếu, và chăm sóc thế giới chúng con đang ở. Những người nghèo và trái đất đang kêu: 'Lạy Chúa, xin nắm lấy chúng con bằng quyền năng và ánh sáng của Chúa, để bảo vệ mọi sự sống, để chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn, để Nước Chúa hiển trị, Nước công chính, an bình, yêu thương và tươi đẹp”.
Buổi cầu nguyện đã được tiếp tục với 3 bài đọc. Bài thứ I bằng tiếng Anh trích từ sách Sáng Thế kể lại sự sáng tạo của Thiên Chúa và Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm, tất cả đều rất tốt đẹp (St 1,26-2.3.15).
Bài thứ hai bằng tiếng Ý trích từ thông điệp “Laudato Sí” của Đức Thánh Cha (84,86,87), nói về sự phong phú của các loài thụ tạo: “Toàn thể vũ trụ, với những quan hệ đa dạng, chứng tỏ rõ ràng sự phong phú khôn lường của Thiên Chúa.. Các loài thụ tạo có liên hệ mật thiết với nhau.. Trong thông điệp, Đức Thánh Cha viết: “Khi chúng ta nhận thức sự phản ánh của Thiên Chúa trong tất cả những gì hiện hữu, tâm hồn cảm thấy ước muốn tôn thờ Chúa vì tất cả những gì Chúa đã dựng nên, và cùng với các loài thụ tạo, chúng ta chúc tụng Chúa như trong bài ca rất hay của thánh Phanxicô Assisi”.
Sau cùng, trong bài Tin Mừng theo thánh Mathêu (6,24-34), Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ đừng lo lắng về ngày mai, “Các con hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, cũng chẳng thu vén vào kho, vậy mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Các con chẳng giá trị hơn chung hay sao?!”
Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng từ 35 năm nay, đã giảng sau các bài đọc. Cha nói đến phẩm trật trong các loài thụ tạo để phục vụ sự sống, và phê bình hiện tượng người ta chi tiêu những ngân khoản khổng lồ cho súc vật trong khi họ để cho hàng triệu trẻ em chết trước mắt vị đói và bệnh tật.
Nhắc đến Lời Chúa dạy trong Tin Mừng đừng lo lắng về ngày mai, Cha Cantalamessa khẳng định rằng chúng ta không lo lắng về ngày mai của chúng ta, nhưng chúng ta hãy lo lắng về ngày mai của con cháu chúng ta. “Tin Mừng muốn chúng ta không dính bén của cải trần thế, nhưng khi có liên hệ tới tha nhân, Tin Mừng không hề muốn nghe nói về sự dửng dưng và sống ngày qua ngày.. Chúa Giêsu nhiều lần lo lắng cho dân chúng được ăn, ngài làm phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều và sau đó ngài còn bảo hãy lượm những gì còn dư, để không điều gì bị phí phạm”.
Cha Cantalamessa nhấn mạnh điều Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng: “Các con không thể phụng sự Thiên Chúa lẫn tiền tài”. Không ai có thể phục vụ nghiêm túc chính nghĩa bảo tồn công trình tạo dựng nếu không có can đảm chống lại sự tích trữ thái quá giàu sáng trong tay một thiểu số và chống lại việc coi tiền bạc như mẫu mực cuộc sống”.
Tiếp đến 6 ý nguyện đã lần lượt được xướng lên bằng 6 ngôn ngữ khác nhau: Pháp, Tây Ban Nha, Ba Lan, Đức, Arập và Bồ đào nha. Xin Chúa ban sức mạnh để chúng con chăm sóc bảo vệ sự sống và vẻ đẹp, xin Chúa ban hòa bình để chúng con sống với nhau như anh chị em và không làm hại một ai, xin Chúa giúp chúng con giúp đỡ những người bị bỏ rơi và quên lãng trên trái ấy này, xin chúa lành cuộc sống chúng con để chúng con bảo vệ thế giới chứ không bóc lột nó, xin Chúa đánh đông tâm hồn những người chỉ tìm lợi lộc mà gây hại cho những người nghèo và trái đất. Sau cùng xin Chúa dạy chúng con khám phá giá trị của mọi sự, chiêm ngắm và nhìn nhận rằng chúng con có liên hệ sâu xa với tất cả các loại thụ tạo trên con đường tiến về ánh sáng vĩnh cửu của Cha”.
Buổi cầu nguyện kết thúc với Kinh Lạy Cha và Phép lành của Đức Thánh Cha
2. Niềm an ủi Kitô phải được đặt nơi Chúa Giêsu chứ không nơi những lời nói năng nhảm nhí
Trong bài giảng đầu tiên tại nhà nguyện Santa Marta sau kỳ nghỉ hè, Đức Thánh Cha khuyên các Kitô hữu hãy an ủi nhau thông qua những việc làm tốt lành và những lời hay đẹp chứ không phải bằng những lời nói nhảm nhí vô dụng.
Bài giảng sáng thứ Ba, ngày 01 tháng 9, của Đức Thánh Cha đã dựa vào thư của thánh Phaolô Tông Đồ gởi các tín hữu thành Thessalonica trong đó có đoạn viết:
“Thưa anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm… Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ… Anh em hãy an ủi nhau và xây dựng cho nhau, như anh em vẫn làm”
Đức Thánh Cha ghi nhận rằng thánh Phaolô Tông Đồ đã viết rằng ngày của Chúa có thể đến mà không báo trước “như một tên trộm” nhưng Chúa Giêsu đang đến để mang lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài. Lời khuyên của thánh nhân là chúng ta hãy an ủi lẫn nhau và giúp đỡ lẫn nhau và sự an ủi này sẽ mang đến cho chúng ta hy vọng.
Đức Thánh Cha nói:
“Chúng ta hãy nói về điều này. Tôi hỏi anh chị em: Khi an ủi nhau chúng ta liệu sẽ nói rằng Chúa sẽ đến và chúng ta sẽ gặp Ngài? Hay là chúng ta nói đủ thứ chuyện, bao gồm cả thần học, những điều về Giáo Hội, các linh mục, nữ tu, giám mục, đủ thứ hết? Và hy vọng rằng những chuyện như thế an ủi chúng ta? 'Hãy an ủi lẫn nhau’, hãy an ủi những thành viên trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn của chúng ta, trong các giáo xứ của chúng ta, chúng ta đang nói là chúng ta đang chờ đợi Chúa đến? Hay là chúng ta chỉ nói những chuyện nhảm nhí để giết thời giờ và cho bớt buồn chán?”
Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích trong thánh vịnh đáp ca ngày hôm nay, chúng ta lặp lại những lời này: “Tôi chắc chắn sẽ nhìn thấy sự tốt lành của Chúa trong cõi nhân sinh”, nhưng câu hỏi được đặt ra ở đây là anh chị em có vững tin mình sẽ nhìn thấy Chúa?
Đức Thánh Cha khuyên chúng ta nên theo gương của ông Job là người bất chấp bao nhiêu những chuyện không may xảy đến với mình vẫn duy trì niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và rằng ông sẽ được thấy Ngài bằng đôi mắt của chính mình.
“Đó là sự thật. Ngài sẽ đến để phán xét và khi chúng ta đến nhà nguyện Sistina, chúng ta thấy cảnh huy hoàng của Ngày Chung Thẩm. Nhưng chúng ta cũng phải tin rằng Ngài sẽ đến để tìm tôi vì tôi thấy Ngài với đôi mắt của tôi, tôi ôm lấy Ngài và luôn luôn ở với Ngài. Đây là hy vọng mà Thánh Tông Đồ Phaolô nói với chúng ta để chúng ta giải thích cho những người khác thông qua cuộc sống của chúng ta, để chúng ta làm chứng cho hy vọng. Đây là niềm an ủi đúng nghĩa, đây là xác tín chân thật: đó là tôi chắc chắn sẽ nhìn thấy tình thương của Chúa”
Như Thánh Tông Đồ Phaolô đã khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, Đức Thánh Cha nói “Anh chị em hãy nhủ bao nhau với những công việc tốt lành và hãy nâng đỡ lẫn nhau. Bằng cách này, chúng ta có thể tiến về phía trước.”
“Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ân sủng này: là hạt giống hy vọng mà Ngài đã gieo vào tâm hồn chúng ta được nảy mầm và phát triển cho đến lúc cuối cùng khi chúng ta được gặp gỡ Ngài. ‘Tôi chắc chắn rằng tôi sẽ nhìn thấy Chúa.’ ‘Tôi chắc chắn rằng Chúa chúng ta đang sống’ ‘Tôi chắc chắn rằng Chúa chúng ta sẽ đi tìm tôi’. Điều này cần phải là chân trời của cuộc sống chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho ân sủng này và cho chúng ta biết an ủi lẫn nhau với những công việc tốt lành và những lời nói tốt đẹp, chúng ta hãy tiến dọc theo con đường này.”
3. Câu chuyện về diễn từ của Chúa Giêsu trong hội đường Ca-phác-na-um
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Vào buổi chiều phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Ngài thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy đi lên núi một mình, sau đó, giữa đêm Ngài đã đi trên Biển Hồ mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra đi một mình mà Đức Giêsu không cùng xuống thuyền đó cùng với họ. Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giêsu không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Ngài.
Khi đến Ca-phác-nu-um, họ ngạc nhiên gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy”. Câu hỏi mà họ nêu lên mang đến một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giêsu đi trên mặt biển.
Đáp lại, Đức Giêsu phán: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Cách đây ít năm, tại bang Ca-li-for-ni-a Hoa Kỳ, có hiện tượng thanh niên tự tử hàng loạt. Tất cả đều là những thanh niên trẻ tuổi, con nhà giàu, có học thức. Nguyên nhân tự tử là vì họ mong về Thiên đàng. Năm ấy có sao chổi xuất hiện. Họ cho rằng sao chổi chính là chuyến xe về Thiên đàng. Mấy mươi năm mới có một chuyến, nên họ vội vàng ra đi, sợ nhỡ chuyến.
Tính tỉ lệ những người tự tử, ta thấy thanh niên các nước giàu tự tử nhiều hơn thanh niên các nước nghèo. Ngay cả tại Việt Nam, trong các thành phố lớn, đang có hiện tượng các thanh niên đua xe gắn máy, liều lĩnh coi thường mạng sống. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy đó là những thanh niên con nhà giầu có.
Những hiện tượng đó đáng cho ta suy nghĩ. Những người nghèo đói thật vất vả khổ sở. Họ chỉ mong sao cho có đủ cơm ăn áo mặc. Có cơm ăn áo mặc đã là hạnh phúc. Nhưng khi người ta đã có đủ cơm đủ áo, đủ mọi phương tiện, người ta vẫn không hạnh phúc. Nhìn những thanh niên giầu có chán đời đi tìm cái chết; nhìn những thanh niên chán cảnh nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm đeo ba-lô đi du lịch bụi đời, ta thấy rằng vật chất không phải là tất cả. Và những khao khát của con người là vô tận. Hôm nay tôi chưa đủ ăn thì tôi mong cho có đủ ăn. Ngày mai đủ ăn rồi, tôi lại muốn ăn ngon hơn. Hôm nay còn đi bộ, tôi mong được một chiếc xe đạp. Có xe đạp rồi tôi mong có xe máy. Có xe máy rồi tôi mong có xe hơi. Có xe hơi rẻ tiền rồi, lại mong có cái tốt hơn, tiện nghi hơn, chạy nhanh hơn, êm ái hơn. Có tất cả rồi, người ta vẫn chưa hài lòng. Cuộc đời vẫn còn thiếu một cái gì đó. Bao tử hết bị hành hạ, thì lập tức tâm hồn cảm thấy những cơn đói khác dày vò: đói bình an, đói tình yêu, đói hạnh phúc, đói ý nghĩa cuộc đời, đói những điều cao thượng. Những cơn đói khát tinh thần này rất mãnh liệt. Nên con người mãi mãi khắc khoải đi tìm. Mà hạnh phúc dường như luôn luôn ở ngoài tầm tay với.
Đứng trước đoàn người hăm hở đi tìm lương thực, Chúa Giêsu đã cảnh báo họ: “Đừng lo tìm những thứ lương thực hay hư nát, nhưng hãy tìm lương thực đem lại hạnh phúc trường sinh”. Vì Người đã rõ giá trị tạm bợ của miếng cơm manh áo. Người cũng thấu rõ tâm hồn con người mau chán những gì đạt được. Người đã tạo dựng tâm hồn con người, nên Người hiểu lòng khao khát của con người là vô biên. Chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có thể lấp đầy những khát khao ấy. Người đã mở đường để tâm hồn con người thoát khỏi những ràng buộc của vật chất, vươn lên tìm kiếm những giá trị thiêng liêng cao cả, xứng với tầm vóc con Thiên Chúa.
4. Cuộc sống giả hình của người Pharisêu
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 30 tháng 8, Đức Thánh Cha đã lên án thái độ giả hình của người Pharisêu được tường thuật trong Phúc Âm theo thánh Máccô được đọc trong Chúa Nhật 22 mùa thường niên.
Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến. Họ lên tiếng phàn nàn khi thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do Thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. Vậy, người Pharisêu và các kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”
Đức Thánh Cha nói:
“Việc chấp hành giới luật theo nghĩa đen từng câu từng chữ sẽ không có kết quả nếu việc tuân giữ ấy không thay đổi con tim và không được chuyển hóa thành những thái độ cụ thể như mở rộng tân hồn mình để gặp gỡ Thiên Chúa và Lời Ngài trong lời cầu nguyện; tìm kiếm công lý và hòa bình; hỗ trợ người nghèo, người yếu, và những người bị áp bức.”
Đức Thánh Cha nói tiếp:
“Chúng ta đều biết, trong các cộng đồng của chúng ta, trong các giáo xứ, trong các khu phố của chúng ta, có biết bao tác hại người ta gây ra cho Giáo Hội, bao nhiêu những tai tiếng gây ra bởi những người tự xưng là người Công Giáo và thường xuyên đi nhà thờ, nhưng sau đó, trong cuộc sống hàng ngày, họ bỏ bê gia đình, nói xấu người khác và làm ra bao nhiêu những chuyện đại loại như thế. Đây là những gì Chúa Giêsu lên án, vì đây là những dấu chỉ phản chứng của niềm tin Kitô. “
“Biên giới giữa thiện và ác không ngang qua bên ngoài chúng ta nhưng bên trong chúng ta,” Đức Thánh Cha Phanxicô nói tiếp. “Chúng ta có thể tự hỏi: ‘trái tim của tôi ở đâu?” và Chúa Giêsu trả lời: “Kho báu anh em ở đâu, thì trái tim anh em ở đó.”
Vì thế, chúng ta phải tự hỏi mình kho báu của tôi là gì? Có phải là Chúa Giêsu, là giáo lý của Ngài hay không? Nếu đúng là thế chúng ta có một con tim tốt lành.
Hay kho báu của chúng ta là những điều gì khác?
Đức Thánh Cha cảnh báo rằng nếu trái tim chúng ta chưa yêu mến Chúa Kitô và giáo lý của Ngài, thì con tim chúng ta phải được thanh tẩy và hoán cải.
Nếu không có một trái tim tinh khiết, anh chị em không thể có bàn tay thật sạch và môi miệng biết nói những lời chân thành của tình yêu. Điều này chỉ có nơi những trái tim chân thành và tinh khiết.
Đức Thánh Cha đã kết luận bài huấn đức của ngài trước khi đọc kinh Truyền Tin với lời nguyện xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, ban cho chúng ta một tâm hồn trong sạch, một trái tim xa lánh những thói đạo đức giả để chúng ta có thể sống theo tinh thần của lề luật và để đạt được mục đích thật sự của lề luật, đó là sự trọn hảo của đức ái.
5. Khi thực sự yêu mến Chúa, chúng ta sẽ tìm ra giờ để cầu nguyện
Khi thực sự yêu mến Chúa, chúng ta sẽ tìm ra giờ để cầu nguyện. Một con tim có tình yêu thương đối với Thiên Chúa biến thành lời cầu nguyện cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh tượng thánh hay một nụ hôn gửi về phía nhà thờ.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với hơn 30,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 26 tháng 8 tại quảng trường thánh Phêrô. Ngoài các đoàn hành hương đến từ các nước Bắc Mỹ Hoà Kỳ và Canada, có nhiều đoàn hành hương đến từ các nước Âu châu như Pháp, Đức, Áo, Anh, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, cũng có các nhóm tín hữu đến từ Trung Quốc, Dubai, Nigeria, hay từ Mỹ Latinh như Ba Tây.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý thời giờ cầu nguyện trong gia đình. Đề cập đến lời than thông thường nhất liên quan tới việc cầu nguyện Đức Thánh Cha nói:
Lời than thông thường nhất của các kitô hữu liên quan tời thời giờ là: “Con muốn cầu nguyện nhiều hơn… con muốn làm điều đó, nhưng con thiếu giờ”. Sự khó chịu này chắc chắn là thành thật, bởi vì trái tim con người luôn luôn kiếm tìm lời cầu nguyện, cả khi không biết nó. Và nếu nó không tìm ra lời cầu nguyện, nó không có sự bình an. Nhưng để gặp nhau, cần phải vun trồng trong con tim một tình yêu “nồng cháy” đối với Thiên Chúa, một tình yêu trìu mến.
Đức Thánh Cha nhận xét tiếp rằng:
Chúng ta có thể tự đặt cho mình một câu hỏi rất đơn sơ. Tin nơi Thiên Chúa với tất cả con tim, tốt rồi, hy vọng rằng Chúa trợ giúp chúng ta trong các khó khăn, tốt rồi, cảm thấy có bổn phận phải cám ơn Chúa, tốt rồi. Tất cả đều chính đáng. Nhưng chúng ta có yêu Chúa một chút không? Tư tưởng về Thiên Chúa có làm cho chúng ta cảm động không, có khiến chúng ta ngạc nhiên không, có làm cho chúng ta hiền dịu không?
Chúng ta hãy nhớ tới công thức của giới răn lớn nâng đỡ mọi giới răn khác: “Con hãy yêu Chúa Thiên Chúa của con với hết con tim, hết linh hồn và sức lực con” (Đnl 6,5, x. Mt 22,37). Công thức dùng ngôn ngữ mạnh mẽ của tình yêu, bằng cách đổ dồn nó về cho Thiên Chúa. Đó, tất cả tinh thần của lời cầu nguyện trước hết là ở đây. Và nếu nó ở đây, thì nó chiếm hữu tất cả thời gian và không bao giờ ra khói đó nữa.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Chúng ta có thành công nghĩ tới Thiên Chúa như cái vuốt ve giữ gìn chúng ta sống, mà trước đó không có gì không? Một cái vuốt ve mà không gì, kể cả cái chết, có thể tách rời chúng ta không? Hay chúng ta chỉ nghĩ Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng đã làm ra mọi sư, là vị Thẩm Phán kiểm soát mọi hành động của chúng ta? Dĩ nhiên tất cả đều đúng. Nhưng chỉ khi Thiên Chúa là sự trìu mến của tất cả mọi trìu mến của chúng ta, ý nghĩa của các lời này mới tràn đầy. Khi đó chúng ta cảm thấy hạnh phúc và cũng hơi xấu hổ một chút, bởi vì Ngài nghĩ tới chúng ta và nhất là yêu thương chúng ta. Đây lại không phải là điều hay đẹp sao? Ngài đã có thể làm cho mình được nhận biết một cách đơn sơ như Đấng Tối Cao, ban các giới răn và chờ đợi các kết quả thôi. Nhưng Thiên Chúa đã và đang làm hơn điều này, một cách vô tận.
Nếu lòng trìu mến đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không suởi ấm thời gian. Chúng ta cũng có thể thêm “nhiều lời” như dân ngoại làm, như Chúa Giêsu nói; hay cả đến trình bầy các lễ nghi của chúng ta “như các người Pharisêu làm” (x. Mt 6,5.7). Rồi Đức Thánh Cha miêu tả một con tim có Chúa ngự trị như sau:
Một con tim được ở bởi sự trìu mến đối với Thiên Chúa, nó biến thành lời cầu nguyện cả môt tư tưởng không lời, hay một khẩn cầu trước ảnh tuợng thánh, hoặc một nụ hôn gửi tới nhà thờ. Thật đẹp biết bao khi các bà mẹ dậy cho các con nhỏ gửi một cái hôn tới cho Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Trong lúc đó trái tim của các trẻ em biến thành nơi cầu nguyện. Và đây là một ơn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta đừng bao giờ quên xin ơn này cho từng người trong chúng ta! Thần Khí của Thiên Chúa có kiểu đặc biệt nói trong con tim chúng ta “Abba Cha ơi” như Chúa Giêsu nói, một kiểu mà chúng ta sẽ không bao giờ một mình tìm ra được (x. Gl 4,6). Ơn này của Chúa Thánh Thần chính trong gia đình mà chúng ta học xin và đánh giá cao. Nếu bạn học nó với cùng sự tự phát, mà bạn học gọi “mẹ “ hay “cha”, bạn đã học được luôn mãi. Khi điều này xảy ra, thòi gian của toàn cuộc sống gia đình bị lôi cuốn vào cung lòng tình yêu của Thiên Chúa và tự động tìm ra giờ cầu nguyện.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta biết thời giờ của gia đình là một thời giờ phức tạp và đầy sinh hoạt, bận rộn và lo lắng. Nó luôn luôn ít, và không bao giờ đủ. Ai có một gia đình thì mau chóng học giải quyết một phương trình mà cả các nhà toán học giỏi nhất cũng không giải được: trong vòng 24 giờ người ta làm cho nó thành gấp đôi. Có những người cha và người mẹ đáng lãnh giải Nobel về diều này!
Tinh thần cầu nguyện trả lại thời giờ cho Thiên Chúa, nó ra khỏi nỗi ám ảnh của một cuộc sống luôn luôn thiếu thời giờ, tìm lại được niềm an bình của các việc cần thiết, và khám ra niềm vui của các món quà không chờ đợi. Hai chị em Marta và Maria, mà Phúc Âm nói tới, là những người hướng dẫn tốt trong việc này. Họ học được từ Thiên Chúa sự hài hòa của các tiết nhịp gia đình: vẻ đẹp của các ngày lễ, sự thanh thản của công việc làm, tinh thần cầu nguyện (x. Lc 10,38-42). Cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu mà họ rất yêu mến đã là ngày lễ của họ. Tuy nhiên, một ngày kia Marta học biết rằng sự hiếu khách, tuy quan trọng, nhưng không là tất cả, nhưng lắng nghe Chúa, như Maria đã làm, đã là điều thực sự nòng cốt, là phần nhất của thời gian. Lời cầu nguyện vọt lên từ việc lắng nghe Chúa Giêsu, từ việc đọc Tin Mừng, từ chỗ tin tưởng nơi lời Chúa.
Trong gia đình có sự tin tưởng này không? Chúng ta có sách Phúc Âm trong nhà không? Chúng ta có thỉnh thoảng mở ra để đọc chung với nhau không? Chúng ta có suy gẫm trong khi lần hạt Mân Côi không? Tin Mừng được đọc và suy gẫm trong gia đình giống như bánh ngon dưỡng nuôi con tim của mọi người. Vào ban sáng và ban chiều, khi chúng ta ngồi vào bàn ăn, hãy tập cũng nhau đọc một lời cầu nguyện rất đơn sơ: đó là Chúa Giêsu đến giữa chúng ta, như Ngài đã đến nhà của Marta, Maria và Ladarô vậy.
Trong lời cầu nguyện của gia đình, trong những lúc mạnh khỏe cũng như trong những lúc khó khăn, chúng ta hãy tín thác nơi nhau, mỗi người được gìn giữ bởi tình yêu của Thiên Chúa.
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 27/8 – 02/09/2015: Thảm kịch của những người tị nạn
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:38 02/09/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước lễ phong chân phước cho Đức Cha Flaviano Micae Melki là một sứ điệp hy vọng và khích lệ cho tất cả các tín hữu Kitô đang bị hạ nhục và áp bức.
Trên đây là lời Đức Hồng Y Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tuyên bố với đài Vatican, trước khi lên đường sang Liban chủ sự nghi thức phong chân phước cho Đức Cha Đức Cha Flaviano Micae Melki, thuộc Giáo Hội Công Giáo Syriac, tử đạo 100 năm đúng vào ngày thứ Bẩy 29 tháng 8 năm 1915, tại Thổ Nhĩ Kỳ, vì quyết liệt không chịu bỏ Kitô giáo theo Hồi giáo.
Lễ phong diễn ra tại Tu viện Đức Mẹ Giải Thoát (Our Lady of Delivrance) ở Harissa, phía bắc Beirut, trước sự hiện diện của các vị Thượng Phụ và thủ lãnh các Giáo Hội Kitô Đông phương đến từ Liban, Syria và Iraq, cùng với hàng ngàn tín hữu địa phương.
Đức Hồng Y Amato nói: “Nhiều tín hữu Kitô ngày nay ở Trung Đông, và cả những nơi khác, đang chịu đau khổ vị sự suy tàn của một nền văn hóa sống chung hòa bình giữa con người với nhau. Nhưng các anh chị em ấy không muốn đầu hàng trước sự kinh hoàng, và họ đáp lại bạo lực bằng sự can đảm và niềm tin mạnh mẽ”.
Đức Hồng Y Tổng trưởng Bộ Phong thánh cũng nhận định rằng:
“Ngày nay, cũng như cách đây 100 năm, các tín hữu Kitô bị kỳ thị, bách hại, trục xuất, và giết hại. Nhà của họ bị đánh dấu không phải bằng máu con chiên trong lễ Vượt Qua, nhưng bằng chữ N màu đỏ, có nghĩa là Nazareni, Kitô hữu, một dấu chỉ họ sẽ bị kết án. Cũng như 100 năm trước đây, thời Đức Cha Melki tử đạo, ngày nay các tín hữu Kitô cũng bị tước bỏ mọi tự do, bó buộc phải rời bỏ quê hương hoặc bị cưỡng bách theo Hồi giáo nếu không sẽ bị giết. Trong thực tế, chính cái chết đang thống trị trong tâm trí chai đá những kẻ bách hại, họ không chịu nổi nền văn minh Kitô về tự do, tình huynh đệ, tôn trọng tha nhân, công lý và bác ái”.
Đức Cha Melki sinh cách đây 158 năm (1858) ở làng Kalaat Mara, Thổ nhĩ kỳ, trong một gia đình Chính Thống Syriac và thụ phong phó tế trong Giáo Hội này khi được 20 tuổi. Sau đó thầy trở lại Giáo Hội Công Giáo Syriac, và được thụ phong linh mục.
Cuộc bách hại của nhà cầm quyền đế quốc Ottoman chống các Kitô hữu bắt đầu nghiêm trọng với vụ tàn sát những người Arméni từ năm 1894 đến 1897. Nhà thờ và gia cư của cha Melki bị đốt phá năm 1895, nhiều giáo dân của cha bị sát hại, trong đó có cả thân mẫu của cha. Tổng cộng các cuộc tàn sát ấy làm cho từ 80 đến 300 ngàn Kitô hữu Arméni bị thiệt mạng.
Cha Melki thụ phong Giám Mục năm 1913 và coi sóc giáo phận Gazireh của Công Giáo Syriac.
Trong đợt bách hại thứ 2 chống các tín hữu Kitô trong đế quốc Ottoman bắt đầu vào tháng 4-1915, Đức Cha Micae Melki bị bắt và sau khi quyết liệt từ chối theo Hồi giáo để được sống, ngài bị đánh bất tỉnh và bị chặt đầu. Hôm đó là ngày 29-8-1915.
2. Đức Thánh Cha Phanxicô rất lo âu theo dõi thảm kịch của những người đang phải bỏ nhà cửa quê hương trốn chạy đi nơi khác.
Đây là một cuộc xuất hành vĩ đại với bao nhiêu gia đình lâm vào cảng mất mát mọi của cải nhà cửa, liều mình ra đi với hai bàn tay trắng mong thoát khỏi chiến tranh, đói khổ và bạo lực đủ kiểu để tìm kiếm tương lai. Trong một tweet, Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người hãy mở con tim cho những ai đang phải đau khổ. Ngài viết: Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con biết tỏ ra quảng đại hơn và luôn gần gũi hơn những gia đình nghèo khó.
Trong khi đó, con số người di dân thiệt mạng ngày càng lên cao. Vài ngày trước đây, thi hài của 71 người bị chết ngạt chồng chất lên nhau, trong đó có cả 8 phụ nữ và 4 trẻ em, đã được khám phá trong một chiếc xe tải nhỏ đậu ven một xa lộ bên Áo. Hôm sau đó, 200 người khác chết trong hai vụ đắm tàu ngoài khơi Lybia. Trong một phóng sự gửi về đài Vatican, ký giả Benedetta Capelli nói: Xác người lềnh bềnh trong nước, tiếng người còn sống van xin cầu cứu, màn đêm dày đặc khiến cho công cuộc cứu vớt gặp nhiều khó khăn. Đó là cảnh tượng người ta phải chứng kiến ngoài khơi duyên hải Zuwara nước Libia hôm 27 tháng 8, khi hai con tàu đầy chật người di dân tỵ nạn bị đắm. Phải ghi thêm con số những người chết này vào danh sách 2,500 người di dân thiệt mạng trên đường vượt Địa Trung Hải vừa được Liên Hiệp Quốc công bố hôm 28 tháng 8. 10 tên lái tàu đã bị nhận diện và bắt giữ trên con tàu chở 600 người di dân cặp bến Palermo thủ phủ đảo Sicilia Nam Italia, trong đó có 52 người chết ngạt trong hầm tàu. 3 người khác bị chính quyền Áo bắt giam trong vụ khám phá xe tải đầy xác người. Nhiều vụ đụng độ cũng xảy ra tại biên giới Hy Lạp và Macedonia.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài Vatican, đặc phái viên Nello Scavo của báo Avvenire, nghĩa là Tương Lai, tại vùng Pristina Macedonia cho biết “các cuộc kiểm soát của cảnh sát ngày càng trở nên chặt chẽ hơn và thường xuyên hơn. Người tỵ nạn từ Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgari đến chỉ có được ba ngày để đi qua lãnh thổ Macedonia tìm đường vào Âu châu. Trong những tháng vừa qua đã có trên 100 ngàn người đến đây. Chỉ trong những ngày vừa qua, đã có 4000. Họ gặp nhiều khó khăn trong việc vượt qua bức tường mới được chính quyền Orban dựng lên, nhưng không có gì ngăn cản được họ. Sống chết gì thì họ cũng sẽ tìm ra những con đường khác để vào Âu châu.
Đặc phái viên báo Tương Lai nhận xét thêm rằng “sự hiện diện của người di dân tỵ nạn đã đẩy mạnh guồng máy của bọn buôn người, vốn đã rất thịnh hành tại đây. Các nhóm tội phạm mafia vùng Kossovo, liên kết với mafia Serbi và macedoni đang tổ chức những lối thoát mới để vượt qua bức tường Hungari, chẳng hạn qua ngõ Rumani hay các nước vùng Balkans vào Sloveni và Croat, rồi từ đó vào Áo hay Italia, tuy với nhiều hiểm nguy hơn, như chúng ta vừa thấy trong vụ chiếc xe tải ở Áo. Nguy hiểm cao hơn, thì giá cả cũng cao hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho bọn bất lương. Vì thế, tình hình hiện nay rất rắc rối và nhiều khó khăn. Người di dân và tỵ nạn phải chịu bao nhiêu đau khổ vì đường đi và cũng vì thái độ đối xử của các lực lượng cảnh sát, nhất là cảnh sát macedoni. Bù lại, nhiều nơi, họ đã được người dân địa phương tận tình giúp đỡ. Chẳng hạn như tại Veles, gần Skopje, một số dân chúng địa phương, nhất là một phụ nữ, đã tổ chức được một cơ cấu đón tiếp và trợ giúp hơn 50 ngàn người trong vòng 2 năm gần đây mà hoàn toàn không cậy nhờ đến thẩm quyền chức trách địa phương. Và thật là phi thường khi chứng kiến thiện chí và lòng quảng đại của từng cá nhân có thể vượt thắng những chướng ngại mà các chính quyền không muốn đương đầu.
3. Đường hướng đối thoại đại kết của Đức Thánh Cha Phanxicô
Trong lãnh vực đại kết Kitô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô ít chú trọng về đối thoại thần học và nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ thân hữu, huynh đệ và sự cộng tác, nhất là trong lãnh vực xã hội.
Trên đây là nhận định của Đức Hồng Y Kurt Koch, người Thụy Sĩ, Chủ tịch Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, trong cuộc phỏng vấn dành cho mạng Công Giáo “katholische.de” truyền đi từ thành phố Bonn hôm 24 tháng 8.
Đức Hồng Y Koch nói: “Trong lãnh vực đại kết, Đức Giáo Hoàng Phanxicô theo đuổi một lối tiếp cận khác với vị tiền nhiệm. Ngài nhấn mạnh nhiều hơn đến việc cầu nguyện chung, những hoạt động chung và những cuộc gặp gỡ. Qua đó có hàm chứa một nhận định thực tiễn, theo đó trong lãnh vực đại kết, chúng ta không thể chỉ tiến bước với cuộc đối thoại thần học”. Những tương quan huynh đệ là điều kiện phải có trước đó để có thể đi vào những vấn đề thần học khó khăn”.
Đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, điều quan trọng là một Giáo Hội thừa sai, mang Tin Mừng đến cho thế giới. “Và Đức Giáo Hoàng muốn rằng chúng ta làm tất cả những gì có thể làm chung, cả những gì chúng ta đã cộng tác với nhau”.
Về các Giáo Hội Cải Cách, Đức Hồng Y Koch nhận xét rằng thế giới Tin Lành hiện nay đang có một “sự phân hóa kinh khủng: càng này càng có những Giáo Hội mới được khai sinh”. Thêm vào đó có sự gia tăng mới mẻ của các phong trào Tin Lành (Evangelical), Phong trào Ngũ Tuần. Hiện nay các Giáo Hội Ngũ Tuần (Pentekostalismus) đứng thứ hai sau Giáo Hội Công Giáo về số tín đồ. Có lẽ người ta phải nói đến một hình thức thứ tư của Giáo Hội: Công Giáo, Chính Thống, Thệ Phản và Pentecostal”. Trong các Phong trào này có những thành kiến kinh khủng chống Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội Công Giáo. Ở đây Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng có những tiếp xúc bản thân.
Trong cuộc đối thoại với các tín hữu Luther, Giáo Hội Công Giáo theo đuổi mục đích đạt tới một lập trường chung về Giáo Hội, về Thánh Thể và chức vụ trong Giáo Hội. “Tôi hy vọng sẽ có một tuyên ngôn chung, trên bình diện hoàn cầu, giữa Liên hiệp các Giáo Hội Luther thế giới và Giáo Hội Công Giáo”. Đây sẽ là một bước tiến mới và rất lớn, sau tuyên ngôn chung liên quan đến Giáo lý về sự công chính hóa hồi năm 1999”.
Bàn về quan hệ với Do Thái giáo, Đức Hồng Y Koch, 63 tuổi, cũng là Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh liên lạc với Do thái giáo mô tả quan hệ này “ổn đỉnh đến độ có thể cùng nhau đáp ứng và giải quyết những đòi hỏi và những vấn đề đang nảy sinh”. Trong số các Rabbi Do thái có một ước muốn mạnh mẽ, không những nói về các vấn đề chính trị và lịch sử, nhưng còn bàn về các vấn đề thần học một cách khẩn trương hơn”.
Về quan hệ với Chính Thống giáo, Đức Hồng Y Kurt Koch nhận định rằng “những vấn đề căng thẳng nội bộ của Chính Thống giáo đang chặn đứng cuộc đối thoại đại kết”. Đức Hồng Y hy vọng Công đồng Liên Chính Thống giáo dự kiến sẽ bắt đầu họp từ lễ Chúa Thánh Thần 2016 sẽ giúp đào sâu sự hiệp nhất giữa các tín hữu Chính Thống.
4. Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện trong “Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc Chăm sóc Thiên nhiên”.
Trong buổi tiếp kiến chung hôm thứ Tư 26 tháng 08 năm 2015, cũng là buổi tiếp kiến chung lần thứ 100, Ðức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi các tín hữu Công Giáo cầu nguyện cho trái đất trong ngày thứ Ba 01 tháng Chín năm 2015, “Ngày Thế giới Cầu nguyện cho việc Chăm sóc Thiên nhiên”, được cử hành lần đầu tiên vào năm 2015. Chính Ðức Thánh Cha đã thiết lập ngày này hôm 06 tháng Tám năm 2015, tiếp nối sáng kiến của các Giáo Hội Chính Thống. Ðược biết, Ðức Thượng phụ Constantinopolis là Dimitrios I đã thiết lập ngày này vào năm 1989.
Ðức Thánh Cha nói: “Hợp lời cầu nguyện với các anh chị em Chính Thống giáo của chúng ta và với tất cả mọi người thiện chí, chúng ta muốn góp phần vào việc tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng sinh thái hiện đang kềm kẹp nhân loại. Trên khắp thế giới, các Giáo Hội địa phương khác nhau đã đặt ra các chương trình cầu nguyện và suy tư để Ngày này trở thành khoảnh khắc đặc biệt và cổ vũ việc áp dụng những lối sống hài hoà hợp lý”.
Vào lúc 17 giờ thứ Ba 01 tháng Chín năm 2015, Ðức Thánh Cha đã chủ sự một buổi Phụng vụ Lời Chúa tại Đền Thờ Thánh Phêrô với các thành viên của Giáo triều, người dân tại Roma, và các khách hành hương.
5. Tòa Thánh tránh sáng kiến của Palestine đòi treo cờ tại Liên Hiệp Quốc.
Tòa Thánh yêu cầu Phái Bộ Palestine tại Liên Hiệp Quốc đừng ghi tên Tòa Thánh trong một dự thảo nghị quyết yêu cầu cho treo cờ Palestine tại Liên Hiệp Quốc.
Chính quyền Palestine muốn nhân cơ hội Ðức Thánh Cha Phanxicô sắp viếng thăm Liên Hiệp Quốc vào ngày 25 tháng 9 năm 2015, để đề ra dự thảo một nghị quyết yêu cầu đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cho phép treo lá cờ của hai quốc gia có quy chế Quan sát viên thường trực tại tổ chức quốc tế này: Vatican và Palestine, cũng như lá cờ của 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc.
Hôm 25 tháng 8 năm 2015, Phái bộ Quan sát thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc đã chuyển tới các nhà ngoại giao tại đây một thông báo cho biết Tòa Thánh không có ý bảo trợ dự thảo nghị quyết vừa nói của Palestine.
Palestine cũng như Tòa Thánh đều có cùng quy chế quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc. Trong dự thảo, Palestine trích dẫn nhiều về Tòa Thánh để hỗ trợ lý luận của mình về việc cho treo cờ các nước quan sát viên thường trực cạnh các nước thành viên của tổ chức quốc tế này.
Thông báo của Tòa Thánh nói rằng Tòa Thánh không chống lại sự kiện Palestine yêu cầu cho trưng cờ của mình, nhưng không muốn đích thân can dự vào việc này.
Palestine được Ðại hội đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận cho qui chế Quốc gia Quan sát viên thường trực hồi tháng 11 năm 2012, nhưng Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc vẫn luôn ngăn chặn việc cho Palestine trở thanh quốc gia thành viên (lần bỏ phiếu cuối cùng diễn ra hồi tháng 12 năm 2014 với đa số chỉ có 1 phiếu).
Tòa Thánh có thể trở thành quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc nhưng chỉ muốn được qui chế Quan sát viên thường trực, để tránh bị lôi kéo vào phe này và phe kia.
Ngày 13 tháng 5 năm 2015, Tòa Thánh và Palestine đã ký kết một hiệp định song phương trong đó có nói rõ ràng về “Quốc gia Palestine”, điều này khiến cho Israel phản đối. Giới báo chí cho rằng sự kiện Tòa Thánh không muốn ủng hộ dự thảo nghị quyết của Palestine là để tránh những tranh luận mới. Ðối với Tòa Thánh, tại Thánh Ðịa những sự kiện và cử chỉ hòa bình thì quan trọng hơn là những lời nói và lá cờ, dù ở phe bên này hay phe bên kia.
6. Cuba chuẩn bị nơi cử hành Thánh Lễ của Ðức Thánh Cha.
Quảng trường Cách Mạng ở thủ đô La Habana của Cuba đã được chuẩn bị cho thánh lễ Ðức Thánh Cha Phanxicô sẽ cử hành tại đây sáng Chúa Nhật 20 tháng 9 năm 2015.
Một bàn thờ lớn và một nhà mặc áo lễ với màu cờ vàng trắng của Vatican, cùng với 3 bục cao dành cho giới báo chí, và ca đoàn cũng đã được chuẩn bị xong hôm 26 tháng 8 năm 2015.
Giới báo chí ghi nhận rằng từ hơn 40 ngày nay, khoảng 50 công nhân đã làm việc để chuẩn bị cho khu vực Ðức Thánh Cha sẽ cử hành thánh lễ vào ngày hôm sau khi ngài từ Roma bay đến Cuba.
Cũng tại Quảng trường Cách mạng này, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã cử hành thánh lễ hồi năm 1998 và Ðức Giáo Hoàng Biển Ðức 16 hồi năm 2012. Quanh Quảng trường có nhiều trụ sở của các bộ và tượng đài Ông José Marti, anh hùng độc lập của Cuba.
Theo báo chí địa phương, những công việc còn lại là thiết lập một số dụng cụ trang trí và các hàng rào cho buổi lễ.
Chủ tịch Raoul Castro đứng đầu trong số 4 ngàn khách mời dự lễ, cùng với hàng trăm ngàn tín hữu.
Sau thủ đô La Habana, Ðức Thánh Cha sẽ đến thăm và cử hành thánh lễ tại giáo phận Holguin ở mạn đông bắc Cuba, trước khi bay đến thành phố Santiago de Cuba ở mạn cực nam Cuba, nơi có Ðền thánh Ðức Mẹ bác ái mỏ đồng, bổn mạng của nước này. Theo các cơ quan truyền thông Cuba, công việc chuẩn bị đón tiếp Ðức Thánh Cha tại các nơi này cũng đang được hoàn thành.
7. 220 ngàn bạn trẻ đã đăng ký dự Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Krakow.
Chỉ trong vòng 1 tháng đầu tiên đã có 220 ngàn bạn trẻ đăng ký tham dự Ngày Quốc Tế giới tại Krakow hay còn gọi là Cracovia, Ba Lan, vào cuối tháng 7 năm 2016.
Hôm 25 tháng 8 năm 2015, Ðức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám Mục Krakow, nói với hãng tin KAI của Công Giáo Ba Lan rằng sự chú ý tới Ngày Quốc Tế giới trẻ với Ðức Thánh Cha Phanxicô rất mạnh không những ở Âu Châu, nhưng cả tại Mỹ châu nữa. Hồi năm 2011, phải đợi 6 tháng số người đăng ký mới lên tới khoảng 200 ngàn người, để tham dự Ngày Quốc tế giới trẻ tại Madrid, Tây Ban Nha.
Ðức Hồng Y Dziwisz cũng tiết lộ rằng trong chuyến đi Ba Lan vào năm tới, ngoài Krakow, Ðức Thánh Cha Phanxicô còn viếng Ðền thánh Ðức Mẹ Czestochowa, và trại tập trung Auschwitz. Các Giám Mục Ba Lan mong ước ngài viếng thăm Poznan, Gniezno và thủ đô Varsava.
Ngày Quốc Tế giới trẻ ở Krakow sẽ tiến hành từ ngày 26 đến 31 tháng 7 năm 2016. Ban tổ chức dự kiến sẽ có 2 triệu 500 ngàn tín hữu tham dự thánh lễ bế mạc do Ðức Thánh Cha cử hành sáng Chúa Nhật 31 tháng 7 năm 2016.
8. Quyết định của Đức Thánh Cha: Mọi linh mục đều có năng quyền tha tội phá thai trong Năm Thánh Lòng Thương Xót
Phá thai là một trường hợp đặc biệt tự động bị vạ tuyệt thông không phải chỉ cho người mẹ đã phá thai, mà cả cho người chồng hay các người bà con đã khiến cho người mẹ phá thai, và nhân viên y tế, tức các bác sĩ và y tá cộng tác tích cực vào việc phá thai.
Người bị vạ tuyệt thông bị cấm lãnh nhận các bí tích, bao gồm cả bí tích Hòa Giải, tức bí tích Giải Tội. Vì thế, một người bị vạ tuyệt thông không thể lãnh nhận bí tích Hòa Giải khi chưa được giải vạ tuyệt thông.
Trong trường hợp phá thai vạ tuyệt thông có thể được giải bởi Đức Giám Mục bản quyền và những linh mục mà ngài chỉ định.
Trong thư đề ngày 1 tháng Chín gửi Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin Mừng, là cơ quan được Đức Thánh Cha giao nhiệm vụ phối hợp các hoạt động Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha viết:
“Tôi quyết định ban phép cho tất cả các linh mục, trong Năm Thánh, được giải tội phá thai cho những người đã gây ra và nếu họ thành tâm thống hối xin tha thứ. Các linh mục hãy chuẩn bị thi hành công tác quan trọng này, hãy biết liên kết những lời đón tiếp chân thành với một suy tư giúp hiểu tội đã phạm và chỉ dẫn con đường hoán cải đích thực để đón nhận sự tha thứ chân thực và quảng đại của Chúa Cha, Đấng đổi mới mọi sự bằng sự hiện diện của Ngài.”
Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ bắt đầu từ ngày 8 tháng 12 năm nay và kết thúc vào ngày 20 tháng 11 năm 2016.
Trong thư, Đức Thánh Cha cũng truyền rằng phép giải tội do các linh mục thuộc Huynh Đoàn Thánh Piô X ban trong Năm Thánh Lòng Thương Xót là thành sự.
Ngài viết:
“Một cân nhắc cuối cùng liên quan đến các tín hữu vì nhiều lý do đã chọn tham dự thánh lễ tại các nhà thờ điều hành bởi các linh mục thuộc Huynh Đoàn Thánh Piô X. Năm Thánh Lòng Thương Xót không loại trừ một ai. Từ các miền khác nhau, một số anh em giám mục nói với tôi về đức tin và việc thực hành các bí tích tốt đẹp của họ, tuy nhiên họ sống trong một tình trạng áy náy về mục vụ... Trong khi tìm một giải pháp tái lập sự hiệp thông trọn vẹn với các linh mục và các vị bề trên của Huynh đoàn, tôi qui định rằng những tín hữu ấy, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, khi đến lãnh nhận bí tích Hòa Giải nơi các linh mục thuộc Huynh Đoàn Thánh Piô X, thì họ lãnh nhận ơn xá giải các tội lỗi của họ một cách hữu hiệu và thành sự.”
Trong Năm Thánh, Giáo Hội khích lệ các tín hữu đón nhận ơn toàn xá bằng cách thực hiện những cuộc hành hương qua 4 Cửa Thánh tại 4 Đại Đền Thờ ở Rôma là Đền Thờ Thánh Phêrô, Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, Đền Thờ Đức Bà Cả và Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành. Tuy nhiên, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót tất cả các giáo phận trên thế giới đều có Cửa Năm Thánh để giúp các tín hữu dễ dàng đón nhận ơn toàn xá.
Đức Thánh Cha viết:
“Tôi mong muốn ân xá Năm Thánh đến với mỗi người như một kinh nghiệm chân thực về lòng từ bi của Chúa, lòng từ bi thương xót này đến với mỗi người với khuôn mặt của Người Cha đón nhận và tha thứ, hoàn toàn quên các tội đã phạm. Để sống và được ơn xá, các tín hữu được kêu gọi thực hiện một cuộc lữ hành ngắn tiến qua Cửa Thánh, được mở tại mỗi nhà thờ chính tòa giáo phận hoặc tại các thánh đường do Đức Giám Mục giáo phận chỉ định, và tại 4 đền thờ Giáo Hoàng ở Rôma, như dấu chỉ ước muốn nồng nhiệt hoán cải chân thực. Tôi cũng qui định rằng các tín hữu cũng được hưởng ân xá khi qua tiến qua Cửa Thánh tại các đền thánh hay trong các thánh đường theo truyền thống được coi là nhà thờ Năm Thánh”.
Các tín hữu già yếu không thể ra khỏi nhà nếu kết hiệp những đau khổ họ phải chịu với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có thể được ơn xá khi rước lễ hoặc tham dự thánh lễ và kinh nguyện cộng đồng, kể cả qua các phương tiện truyền thông.
Với các tù nhân, Đức Thánh Cha mong ước Năm Thánh là một cơ hội đại xá dành cho những người, tuy đáng bị hình phạt, nhưng đã ý thức những bất công mình đã gây ra và chân thành muốn tái hội nhập vào xã hội. Ngài qui định rằng các tù nhân có thể lãnh nhận ân xá trong các nguyện đường ở nhà tù, và mỗi lần họ bước qua cửa phòng giam của họ, nghĩ đến và cầu nguyện với Chúa Cha, thì cử chỉ này đối với họ cũng tương đương với việc bước qua Cửa Năm Thánh.
9. Hai thánh đường Công Giáo ở thủ đô Damascus bị pháo kích.
Một trận mưa đạn pháo từ khu vực phiến quân đã dội xuống thủ đô Damascus của Syria, hôm 23 tháng 8, trúng 2 thánh đường làm cho 9 thường dân bị thiệt mạng và 47 người bị thương.
Ðức Cha Samir Nassar, Tổng Giám Mục của Giáo Hội Công Giáo Maronit ở Damascus nói với hãng tin Fides của Bộ truyền giáo rằng có hai quả trọng pháo rơi xuống mái nhà thờ Công Giáo Maronit và thánh đường Công Giáo la tinh gần đó cũng bị trúng đạn.
Ðức Tổng Giám Mục Nasser cho biết: “Một khía cạnh trong chiến tranh Syria là sống dưới những cuộc pháo kích mù quáng, người ta không biết khi nào mình có thể bị trúng bom đạn.. Những người còn sống không thể săn sóc những người bị thương vì thiếu phương tiện và không có khả năng chuyên môn. Họ chìm đắm trong kinh nguyện thinh lặng, trước di cốt của những vị tử đạo là hạt giống đức tin”.
Theo Ðức Tổng Giám Mục Nasser, tuy những cuộc pháo kích vào Damascus tương đối hiếm, nhưng các cuộc giao tranh dữ dội giữa quân đội chính phủ và phiến quân tại các khu vực ngoại ô là điều thường xuyên. Tình trạng đó cũng khiến cho việc tiếp tế lương thực thuốc men cho vùng thủ đô ở trong tình trạng bấp bênh”.
Theo thống kê chính thức, tổng giáo phận Damascus của Giáo Hội Công Giáo Maronite có 15 ngàn tín hữu và Giáo Hội Công Giáo Syriac có 14 ngàn tín hữu tại đây, trong khi Giáo Hội Công Giáo Melkite có 3 ngàn tín hữu.
Trước tình cảnh điêu linh của người dân Syria với 4 triệu người phải di tản ra nước ngoài, 7,600,000 người phải tản cư bên trong Syria, hầu hết các thành phố đều bị tàn phá nặng nề, Đức Giám Mục giáo phận Leiria-Fátima, Bồ Đào Nha, phối hợp với phong trào Blue Army, hay còn gọi là Đạo Binh Xanh, quyết định đưa thánh tượng Đức Mẹ Fatima từ Đền Thánh Fatima ở Bồ Đào Nha sang thủ đô Damascus của Syria.
Bộ ngoại giao Syria hoan nghênh quyết định thể hiện tình liên đới này và cho biết thánh tượng Đức Mẹ Fatima sẽ đến thủ đô Damascus vào ngày 7 tháng Chín tới đây.
Trong thông báo về diễn biến này, Đức Cha António Augusto dos Santos Marto của giáo phận Leiria-Fátima thúc giục Liên Hiệp Quốc và Liên Hiệp Âu Châu “đừng bỏ rơi các nạn nhân của bất khoan dung và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo”.
Đức Cha António nói thêm rằng quyết định của ngài là để đáp lại lời mời gọi của các Giám Mục Trung Đông là những người đang phải đau lòng chứng kiến sự tận diệt Kitô Giáo trong vùng.
10. Ðiều tra tôn giáo tại Ấn Ðộ cho thấy số tín hữu Ấn giáo giảm sút trong khi số tín hữu Kitô ổn định.
Theo số liệu của cuộc điều tra tình hình các cộng đồng tôn giáo tại Ấn Ðộ năm 2011 được các nhà chức trách nước này công bố, số tín đồ Hồi giáo đã tăng thêm 0.8% và hiện chiếm 14.2% dân số, trong khi Ấn Ðộ giáo đã giảm 0.7% và chiếm 79.8% dân số cả nước.
Kitô giáo vẫn giữ mức ổn định với tỉ lệ 2.3% dân số, trong khi người Sikh có tỉ lệ 1.7% và Phật giáo 0.7%.
Cuộc điều tra cũng xác nhận dân số Ấn Ðộ là 1 tỉ 200 triệu dân. Theo số liệu, số người Hồi giáo đã gia tăng tại tất cả các bang lớn của Liên bang Ấn Ðộ.
11. Ðức Thượng phụ Công Giáo Syria tha thiết xin trợ giúp.
Ðức Thượng phụ Công Giáo Syria Ignatius Youssef Younan Đệ Tam đã bày tỏ sự tuyệt vọng và nỗi sợ hãi của các Kitô hữu Syria. Ngài kêu gọi sự trợ giúp chống lại “nỗi kinh hoàng” do quân khủng bố Nhà nước Hồi giáo IS gây ra.
Tuyên bố của Đức Thượng Phụ đã được gửi đến Hiệp hội nhân đạo Kitô giáo L'Oeuvre d'Orient nghĩa là Bác ái Ðông phương sau khi quân IS phá huỷ tu viện Mar Elian tại thành phố Al-Qaryatayn và bắt đi hàng chục Kitô hữu hôm thứ Sáu, 21 tháng Tám vừa qua.
Ðức Thượng phụ Youssef III kêu gọi “thế giới mệnh danh là văn minh” đừng giữ sự im lặng giả hình nữa, trước những “kinh hoàng” do quân IS gây ra.
Trong một ám chỉ mạnh mẽ về Hoa Kỳ, ngài gay gắt chỉ trích: “Làm sao một đất nước tự cho mình là người bảo vệ quyền con người lại có thể nhắm mắt làm ngơ trước những hành vi sai trái như chặt đầu, bắt làm nô lệ và hãm hiếp các trẻ em và phụ nữ? Ðó có phải là dân chủ không?”
Ngài nói tiếp: “Chúng tôi cần phải hét to lên: chúng tôi sợ quân IS, bởi vì chúng tôi đã bị bỏ rơi và chúng tôi không có phương tiện tự bảo vệ mình”.
Trong tuyên bố, Ðức Thượng phụ xác nhận rằng tu viện Mar Elian, “có tuổi thọ ít nhất mười lăm thế kỷ”, đã bị bọn “tội phạm ISIS” phá huỷ.
“Vị tu viện trưởng, cha Jacques Mourad, đã bị bắt cóc từ ba tháng nay, chắc chắn do chính những kẻ khủng bố cứ dựa vào tôn giáo của lòng thương xót nhưng lại làm đủ mọi điều phi lý nhân danh Thiên Chúa của mình!”.
Ðức Thượng phụ bày tỏ lo ngại về số phận của “hàng chục gia đình bị bắt cóc” và xác định hiện nay không thể liên lạc được với những nơi này.
12. Tuyên phong Chân Phước cho Đức Giám Mục Công Giáo Syria Flavianus Michael Melki
Đức Giám Mục Công Giáo Flavianus Michael Melki, chịu tử đạo trong thời kỳ “Diệt chủng Assyria (1914-1918)” do đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ gây ra, đã được tôn phong Chân phước vào ngày thứ Bảy 29 tháng Tám, trong một cử hành phụng vụ trọng thể tại Tu viện Ðức Bà Giải Thoát ở Harissa bên Li Băng, với sự tham dự của nhiều vị Thượng phụ và lãnh đạo các Giáo Hội Kitô giáo Ðông phương Liban, Syria và Iraq.
Ðức Thượng phụ Công Giáo Syria Ignatius Youssef Đệ Tam đã chủ sự buổi lễ. Khởi đầu Phụng vụ thánh, Đức Hồng Y Angelo Amato, Bộ trưởng Bộ Phong thánh đã tuyên đọc Sắc lệnh tôn phong Chân phước của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Ðức giám mục Flavianus Michael Melki đã bị giết vì lòng thù ghét đức tin vào ngày 29 tháng Tám năm 1915 cách nay một trăm năm tại Djézireh - nay là Thổ Nhĩ Kỳ, trong các vụ thảm sát người Armenia và các thành viên của các cộng đồng Kitô giáo khác theo sự xúi giục của Phong trào Jon Turkler – Nước Thổ Nhĩ Kỳ trẻ trung, là nhóm nắm chính quyền lúc bấy giờ.
Linh mục Công Giáo Syria Nizar Semaan nói với hãng tin Fides rằng: “Từ lâu rồi Giáo Hội của chúng tôi đã không có một vị Chân phước nào, và Ðức giám mục Melki sẽ là người đầu tiên của trong số các vị tử đạo Syria của nạn Diệt chủng được vinh dự tôn kính trên bàn thờ. Lễ tôn phong Chân phước cho ngài là một món quà cho tất cả các Kitô hữu Ðông phương”.
Cha Nizar nói thêm: “Trong giai đoạn thử thách mới này, khuôn mặt của ngài cho chúng ta thấy đức tin ngời sáng mà ngài đã sống trong cuộc đàn áp khốc liệt một trăm năm trước đây, và ngài có thể đem lại hy vọng và can đảm cho tất cả các tín hữu. Chúng tôi cầu xin, nhờ ngài chuyển cầu và trợ giúp, cho mọi người tại các quốc gia ở Trung Ðông biết tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô, và cũng cầu xin cho các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự biết đi theo con đường dẫn đến hoà bình'.
Vị tân Chân phước sinh năm 1858 tại Kalaat Mara, một ngôi làng ở phía đông Merdin. Ngài thụ phong giám mục Gazarta năm 1913, sống trong giai đoạn nghèo đói cùng cực và đã phải bán đi quần áo của mình để giúp đỡ người nghèo. Mùa hè năm 1915, ngài bị chính quyền Ottoman bắt giữ vào ngày 28 tháng 8 năm 1915, cùng với một giám mục Canđê. Theo các nguồn tin Hồi giáo, nhân chứng cho biết hai vị giám mục đã bị giết vì không chịu chối bỏ đức tin và cải sang đạo Hồi. Ðức giám mục Michael Melki đã bị tra tấn đến chết và sau đó bị chặt đầu.
13. Điện văn của Ðức Thánh Cha gởi tổng thống Ukraine
Ðức Thánh Cha chúc mừng ngày độc lập của Ukraine khỏi ách thống trị của Nga và cầu cho đất nước này được hòa bình.
Trên đây là nội dung sứ điệp Ðức Thánh Cha Phanxicô gửi đến tổng thống Petro Poroshenko hôm 24 tháng 8, nhân kỷ niệm lần thứ 24 Ukarine được độc lập khỏi Liên Xô vào năm 1991. Sứ điệp có đoạn viết: “Tôi cầu nguyện cho đất nước của Tổng Thống trong tình trạng khó khăn này và tôi hỗ trợ những cố gắng giúp đất nước Ukarine tiến bước trong tinh thần hòa bình và thống nhất”.
Ðức Thánh Cha tái bày tỏ sự gần gũi tinh thần với các nạn nhân, gia đình họ và tất cả những người đang chịu đau khổ.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 23 tháng 8 tại Quảng trường Thánh Phêrô, Ðức Thánh Cha cũng đã nói rằng:
“Tôi lo âu theo dõi xung đột ở miền tại Ukraine lại trở nên sôi động trong những tuần lễ gần đây. Tôi lập lại lời kêu gọi hãy tôn trọng các cam kết đã đề ra để đạt tới sự bình định và với sự trợ giúp của các tổ chức và những người thiện chí, người ta đáp ứng được tình trạng cấp thiết mà nhiều người đang phải chịu tại nước này. Xin Chúa ban hòa bình cho Ukraine, đang chuẩn bị mừng quốc khánh vào ngày mai”.
Lễ quốc khánh mừng độc lập của Ukraine đã diễn ra tại thủ đô Kiev với cuộc diễn binh trọng thể. Trong diễn văn, Tổng thống nhắc đến thảm trạng chiến tranh của đất nước: gần 2,100 binh sĩ bị thiệt mạng trong cuộc xung đột tại vùng Donbass ở mạn đông Ukraine chống những thành phần thân Nga đang đòi ly khai, khoảng 7 ngàn binh sĩ bị thương. Tổng cộng từ khi xảy ra cuộc xung đột đến nay có 6,800 người chết, trong đó có nhiều thường dân. Hàng chục ngàn người tản cư, không còn nhà cửa và đất đai. Bao nhiêu người nam, phụ, lão, ấu phải rời bỏ các vùng xung đột.
Tổng thống Poroshenko cũng tố giác chiến lược của Nga ngăn cản không cho Ukraine xích lại gần Âu Châu. Theo ông 50 ngàn quân Nga trú đóng gần biên giới Nga - Ukraine, và 9 ngàn quân Nga khác đang hỗ trợ các “nhóm phiên quân” ở những vùng ly khai.
14. Tố giác những tấn kích nhắm vào các tín hữu Kitô Ấn Độ
Thông tấn xã Công Giáo Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc cho biết nhóm “Diễn đàn Kitô tỉnh Sambalpur”, thuộc bang Orissa bên Ấn Ðộ đã gửi một giác thư đến ông Jamir, thống đốc bang này, yêu cầu chính quyền bảo vệ an ninh và quyền lợi của các tín hữu ky tô công dân, như đã được Hiến Pháp quốc gia bảo đảm.
Ngày 25 tháng 08 năm 2015, các tín hữu Kitô cử hành ngày đặc biệt tưởng niệm nạn nhân của các bạo lực hồi năm 2007 và năm sau đó 2008. Lãnh thổ chịu nhiều thiệt hại nhất là huyện Kandhamal, với 400 làng bị thanh lọc hoàn toàn, mọi tín hữu Kitô bị đuổi đi nơi khác. 5,600 căn nhà của người Kitô và 296 nhà thờ bị thiêu đốt, 100 người bị giết nhưng chính quyền chỉ thừa nhận có 56 người chết mà thôi. Hàng ngàn người khác bị thương, chưa kể đến nhiều phụ nữ bị cưỡng hiếp và 56 ngàn người phải tản cư.
Trong giác thư, Diễn đàn Kitô Sambalpur nhắc nhở chính quyền bang Orissa rằng “Chúng tôi, những người tin vào Chúa Kitô, chúng tôi là những người giàu lòng thương xót, hiền hòa, khiêm hạ: chúng tôi chỉ mong được bảo đảm hòa bình, an ninh và bảo vệ như một cộng đoàn thiểu số tại Orissa. Diễn đàn cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với chính quyền Sambalpur đã nỗ lực tôn trọng luật pháp bảo đảm hòa bình và an ninh cho toàn cộng đoàn Kitô suốt những năm gần đây. Theo hãng tin Fides, tình hình liên tôn tại bang Orissa hiện nay đang tạm yên, nhưng người ta cần đề cao cảnh giác, nhất là cần quan sát các nhóm ấn giáo quá khích. Trong những tháng gần đây, giới chức chính quyền đã chấp thuận yêu cầu của các tổ chức và các Giáo Hội Kitô, cấm lãnh tụ ấn giáo quá khích Pravin Togadia không được vào huyện Kandhamal. Ông này thường hay dùng những lời lẽ khích động người ấn giáo nổi lên dùng bạo lực. Dạo năm 2008, ngay trước khi bạo lực tái bùng nổ tại Kandhamal, Togadia đã nhiều lần đến thăm vùng này.
15. Phát biểu của Ðức Hồng Y Jean-Louis Tauran tại cuộc Gặp Gỡ Rimini
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Cuộc Gặp Gỡ Rimini lần thứ 36 diễn ra từ hôm 20 tháng 8 do phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng tổ chức đã kết thúc hôm 26 tháng 8 vừa qua.
Cuộc Gặp Gỡ Rimini năm nay thu hút các thành phần ưu tú nhất trong đời sống chính trị và xã hội Ý và một số nhân vật cao cấp của Vatican và thế giới. Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon đã gửi tới đại hội một sứ điệp video. Ðức Giáo Hoàng Phanxicô và Tổng Thống Ý Sergio Mattarella đều gửi thông điệp cho đại hội.
Đích thân tham dự Cuộc Gặp Gỡ này, Ðức Hồng Y Jean-Louis Tauran, người phụ trách cuộc đối thoại của Tòa Thánh với các tôn giáo khác, nói với các đại diện cao cấp của Do Thái Giáo và Hồi Giáo tại Cuộc Gặp Gỡ Rimini rằng: Thiên Chúa chưa chết.
Theo Đức Hồng Y, quả là một nghịch lý khi các tôn giáo bị liên kết với bạo lực. Ðây là kết quả của các nhóm khủng bố và cực đoan thiểu số trong các tôn giáo, nhất là Hồi Giáo.
“Nhưng hiển nhiên, đó không phải là Hồi Giáo đích thực”. Ngài bảo: tôn giáo không phải là vấn nạn mà là giải pháp cho an ninh quốc tế.
Ðức Hồng Y Tauran nói thêm rằng “chúng ta hiện sống trong một thế giới nghịch lý. Một đàng, có những người tuyên bố Thiên Chúa đã chết, ta không cần Người nữa. Nhưng đàng khác, chỉ cần nhìn các sạp báo: bao nhiêu lần Thiên Chúa được nhắc tới trên báo chí?”
Về ba tôn giáo độc thần là Kitô Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo, ngài cho hay họ có ba thách đố: “bản sắc, tư cách người khác, và thành thực trong ý hướng”.
Thành thực, theo ngài, là ý thức rằng trong đối thoại tôn giáo không nên có ý hướng cải đạo người khác. Ngài bảo: “đối thoại liên tôn có thể cổ vũ việc trở lại, nhưng đó không phải là mục đích. Mục đích của đối thoại là từng bước tiến tới sự thật”.
Trong cuộc thảo luận này, có sự hiện diện của Azzedine Gaci, trưởng Ðền Thờ Hồi Giáo Othman ở Villeurbanne, Pháp, và Haim Koria, trưởng giáo sĩ Do Thái Giáo của Pháp.
Phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng đã được thành lập bởi Tôi Tớ Chúa là Cha Luigi Giussani sinh năm 1922 và qua đời năm 2005. Tiến trình phong chân phước cho ngài đang trong giai đoạn khởi sự.
16. Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha trong Tháng Chín
Kính thưa quý vị và anh chị em, trong tháng Chín này, ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô như sau:
- Ý chung: Cầu cho tất cả mọi người trẻ được thăng tiến nhờ được giáo dục và có công ăn việc làm.
- Ý truyền giáo: Cầu cho các giáo lý viên trở nên nhân chứng bằng một đời sống phù hợp với đức tin mà họ rao giảng.
17. Cuba có thể sẽ ruồng bắt các thành phần đối lập trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm
Một nhà lãnh đạo của một nhóm nhân quyền tại Cuba đang lo ngại rằng chính phủ nướ này sẽ lặp lại chiến dịch đàn áp đối lập giống như năm 2012 khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đến thăm Cuba.
Bà Berta Soler, người lãnh đạo của nhóm Phụ Nữ Áo Trắng, là nhóm gồm những thân nhân vợ con của những người bất đồng chính kiến đang bị giam giữ nói:
“Trong chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16, chính quyền Cuba đã bắt giữ hoặc ngăn ngừa những người bất đồng không thể liên lạc với nhau. Họ cũng đóng cửa các đường dây điện thoại trong một đường kính rộng từ 15 đến 25 dặm. Các điện thoại di động của những người hoạt động nhân quyền và cuả người thân đều không thể hoạt động được. Ba ngày trước khi Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đến, chính quyền Cuba đã bắt giữ tất cả các nhà hoạt động nhân quyền, vì vậy chúng tôi đã không thể tham dự do Đức Giáo Hoàng cử hành tại Santiago de Cuba và Havana. Chúng tôi đang lo ngại rằng những điều tương tự sẽ lại xảy ra khi Đức Thánh Cha Phanxicô tới”
Các nhà lãnh đạo đối lập đã báo cáo rằng việc gây khó dễ cho nhóm Phụ Nữ Áo Trắng và các nhà hoạt động đối lập đã bắt đầu xảy ra từ ngày Chúa Nhật vừa qua.
Theo bà Soler, hiện nay “đang có khoảng 80 tù nhân chính trị đang bị giam và 42 người bị quản thúc tại gia. 42 người này có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào và bị đưa vào tù mà không cần xét xử.”