Ngày 02-08-2011
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy tìm gặp Thiên Chúa
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
17:00 02/08/2011
CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN A
+++
A. DẪN NHẬP

Trong cuộc sống ai cũng muốn cho mình có một đời sống an toàn, được bảo đảm, không gặp những thử thách, những trở ngại làm cho mình phải lo sợ. Đấy là ước vọng chung của mọi người. Nhưng trong thực tế, không ai có một cuộc đời tươi đẹp như thế, bao lâu còn ở trên trần thế này. Cuộc đời không thiếu gì chông gai, không thiếu gì những gian nan thử thách làm cho nhiều người có thể vươn lên và có thể làm cho nhiều người bị tụt xuống.

Phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước và cứu ông Phêrô cho khỏi bị chìm nói lên quyền năng vô biên của Chúa. Trong cuộc sống bình yên cũng như trong những lúc gặp gian nan thử thách, Thiên Chúa luôn ở bên cạnh con người. Chúa sẵn sàng ban ơn phù trợ và cứu giúp khi chúng ta kêu cầu. Để bảo đảm cho cuộc sống, chúng ta hãy luôn ngước mắt nhìn lên Chúa, đừng nhìn xuống, đừng cậy dựa vào mình hay vào người khác mà chỉ cậy nhờ ơn Chúa phù giúp, kêu cầu Chúa như thánh Phêrô đã làm :”Lạy Thầy, xin cứu con”. Tin tưởng phó thác vào Chúa như vậy con người sẽ có một cuộc sống an toàn.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 1V 19,9a.11-13.
Thời vua Akháp đang trị vì nước Israel, hoàng hậu Zébabel đem việc thờ phượng thần Baal vào nước, tiên tri Elia phải liều mạng đến kéo đồng bào ông về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm của tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt.

Ông phải chạy trốn lên núi Horeb trong một quãng đường dài mệt mỏi. Nơi đây Thiên Chúa đã hiện ra với ông, không phải trong tiếng sấm sét ầm ĩ của một thiên nhiên giận dữ như khi hiện ra với ông Maisen, nhưng hiện ra với ông một cách êm dịu trong sự tĩnh mịch của miền rừng núi. Elia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.

+ Bài đọc 2 : Rm 9,1-5
Thánh Phaolô giãi bầy tâm sự với tín hữu Rôma : Ngài rất đau buồn khi thấy đồng bào Do thái của Ngài không tin nhận Đức Kitô. Ngài muốn nói lên tình yêu của Ngài đối với dân Do thái, dân Chúa chọn, mà trong những thế kỷ trước đã được đầy tràn hồng ân của Chúa. Vì tình yêu thắm thiết ấy, thánh Phaolô sẵn sàng chịu cho người ta nguyền rủa, ngay cả việc xa rời Chúa Kitô, nếu mãi mãi sự hy sinh này cứu được dân Do thái

Nhưng dù sao, Ngài cũng hy vọng rằng cuối cùng dân Do thái cũng sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng “được quyền làm con, được cho thấy vinh quang, nhận giao ước, lề luật, phụng tự và lời hứa”.
+ Bài Tin mừng : Mt 14,22-33

Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng hào hứng, muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Điều đó không phù hợp với sứ mạng Messia của Ngài. Có lẽ Ngài không muốn cho lòng hăng hái lệch lạc này tác động lên các Tông đồ, nên đã vội vã bảo các ông lên thuyền sang bên bờ kia.

Sáng sớm Ngài đã đi trên mặt nước mà đến với các ông. Họ tưởng Ngài là ma nên đã kêu rú lên. Nhưng Chúa Giêsu đã trấn an họ. Ông Phêrô muốn rời thuyền đi trên mặt nước mà đến với Chúa. Được sự đồng ý của Chúa, ông mạnh dạn bước đi, nhưng vì sóng lớn, ông sắp bị chìm, đã kêu lên :”Lạy Thầy, xin cứu con”. Chúa Giêsu đưa tay ra đỡ ông lên thuyền và trách ông thiếu lòng tin. Sau biến cố này, các môn đệ đã thốt lên :”Quả thật, Ngài là Con ThiênChúa”.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Có Chúa trong cuộc đời
I. CUỘC ĐỜI CON NGƯỜI TRÊN TRẦN THẾ

Trên trần gian này ai cũng muốn được hạnh phúc, còn hạnh phúc đời sau thì tùy ở mỗi người, có đức tin hay không. Sống trên đời, con người ai cũng muốn được an toàn may mắn, gặp những điều tốt đẹp... nên họ chúc nhau : vạn sự như ý. Thế nhưng những trang lịch sử của toàn thế giới, của các dân tộc và của riêng bao con người, đã cho thấy rằng các điều tốt đẹp trên nếu có đạt được thì rất giới hạn và mau qua. Ngay trong đời sống của các thánh hiền hay của những người có đức Kitô hiện diện cũng không có nghĩa là họ thoát khỏi những khó khăn không ngờ xẩy đến.
Tuy nhiên, nếu như xưa Đức Kitô ở bên cạnh các Tông đồ, giúp đỡ các ông thắng vượt những khó khăn trên mặt biển, thì sự hiện diện của Đức Kitô nơi chúng ta sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận và vượt qua những khó khăn hằng ngày trong cuộc sống như vậy vì “ngày nào có sự khó cho ngày ấy”. Chính trong các hoàn cảnh này, niềm tin của chúng ta mới phát triển và trưởng thành hơn.
Kinh nghiệm cho hay những người có đức tin hay những người chẳng có đức tin đều bị chi phối bởi những luật lệ thiên nhiên mà không ai chống lại được. Không thiếu gì những thiên tai do thiên nhiên đưa đến như bão lụt, động đất, hạn hán, sóng thần... hoặc do con người gây ra như chiến tranh, loạn lạc, hận thù chia rẽ, khủng bố, nghèo đói...
Nữ sĩ Đoàn thị Điểm đã nói lên nhận xét của mình về một xã hội chứa đầy những đau khổ loạn ly trong phần mở đầu cuốn “Chinh phụ ngâm khúc” :
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiêu nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng không,
Nào ai gây dựng nên nông nỗi này ?

Thi sĩ Nguyễn Du cũng gửi gấm tâm sự của mình trước những cảnh nhiễu nhương của xã hội thời ông, trong cuốn “Đoạn trường tân thanh” :

Trăm năm trong cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Theo nhận xét của Nguyễn Du đời người là một cuộc bể dâu, thay thay đổi đổi không ngừng, không có gì là vững chắc. Trong những thay đổi ấy thi sĩ thấy có biết bao nhiêu cảnh đoạn trường xẩy ra làm cho mình đau đớn. Chính những điều thay đổi ấy không làm cho thi sĩ được yên ủi, nhưng ngược lại làm cho thi sĩ phải buồn sầu đối với “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Thi sĩ Xuân Diệu thì có cái nhìn bi quan về sự thay đổi của sự vật, nghĩa là chỉ nhìn thấy cái mất mà không thấy cái còn :
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt.
Một thi sĩ khác cũng phát biểu như thế :
Hoa nở để mà tàn,
Trăng tròn để mà khuyết,
Mây hợp để mà tan,
Nước đầy để mà vơi.

Có rất nhiều người trên đời đã phải vật lộn với biết bao gian nan thử thách để mà sống. Có người đã vượt qua, có người bị đắm chìm, nên người ta đã gửi kinh nghiệm sống ấy vào câu tục ngữ : Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh : nghĩa là số phận của con người, hoặc cuộc sống long đong gặp nhiều gian truân vất vả.
II. NHỮNG THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI

1. Trong đời sống vật chất và tinh thần

Đối với những người yếu đuối tinh thần, những người nhu nhược thì sự gian nan khốn khó làm cho họ nản lòng rủn chí. Trái lại, đối với những người có ý chí vững mạnh, gian nan khốn khó càng là động lực thúc đẩy họ tiến lên.
Ông Baden Powell, ông tổ của Hướng Đạo, đã nói :”Đời sẽ thành vô vị nếu toàn là đường mật , muối sẽ mặn chát nếu ta nhấm một mình nó, nhưng khi bỏ nó vào đồ ăn, nó là một thứ gia vị ngon lành. Khó khăn, trở ngại đều là những hạt muối trong đời”.
Người Đông phương thường truyền lại một câu chuyện mang tính chất ngụ ngôn như thế này : Ngày xưa có chàng nông phu theo truyền thống lâu đời của gia đình, năm nào cũng chăm chỉ cầy bừa đào xới đất ruộng, dù mười hai năm liền trời không mưa.
Ngày nay phần đông chúng ta chỉ cần một năm trời hạn hán là đâm ra chán nản, không muốn tiếp tục cầy ruộng nữa. Chúng ta thường là những người thiếu ý chí, quên lời dạy của cổ nhân :”Ở đời không có con đường nào bước một bước mà đến nơi bao giờ”.
Người ta cho gian nan thử thách là một điều cần thiết để đề cao giá trị con người không biết mỏi mệt, không chịu đầu hàng trước những khó khăn :
Có gió lung mới biết tùng bá cứng,
Có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao.
(Tục ngữ)

Hoặc một nhận xét rất thực tế của một danh nhân :
“Những cây mạnh nhất, cao nhất, mọc trên những mảnh đất cằn cỗi nhất”.
Bời vì kinh nghiệm của một thi sĩ đã cho biết :
Chiến đấu có gian nan
Khải hoàn mới vinh quang.
(Corneille)
2. Trong đời sống thiêng liêng

Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về sự chấp nhận và biết thánh hoá những gian nan thử thách trong đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã diễn tả trong một bài Thánh ca :

“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Tc Pl 2, 6-8).

Kinh thánh cũng cho biết gian nan thử thách là cần vì nhờ đó mà vàng thau không còn lẫn lộn nữa. Nhờ thử thách vàng ròng sẽ được tinh luyện :”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Vì thế người ta nói :

Vàng vào lửa hoá vàng y
Rác rơm vào lửa biến đi đàng nào.

Thánh vịnh 90 cho biết cuộc đời con người vắn vỏi chỉ như cơn gió thoảng qua, nhưng trong đó có biết bao đau khổ con người phải chịu :

Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
(Tv 90,10)

Thánh Phaolô đã bị đau khổ dằn vặt vì những khó khăn xẩy ra nơi mình. Ngài đã phải chiến đấu khổ sở. Ngài đã tiết lộ cuộc chiến đấu cam go của ngài cho tín hữu Côrintô:”Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi đã bị như một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi :”Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,7-9).

Truyện: Chỉ bán hạt giống.
Cha Antony de Mello kể lại giấc mơ của Paquita như sau : Nàng rảo quanh các quầy hàng của một trong những cửa tiệm lớn nhất hành tinh. Bỗng nhiên nàng nhận ra Thiên Chúa sau một quầy hàng :
- Lạy Chúa, Ngài bán gì vậy ?
- Tất cả những gì mà lòng con mong ước.
- Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, tình yêu, sự khôn ngoan, những liều thuốc chữa trị mọi thứ sợ hãi.
- Tốt lắm, nhưng ở đây không bán trái mà chỉ bán hạt giống thôi.
(André Sève, Sương mai, tr 51-52)

III. THÁI ĐỘ CỦA TA TRƯỚC GIAN NAN THỬ THÁCH

Ta có thể coi trần gian là một biển rộng mênh mông, con người chỉ là một chiếc thuyền trên mặt biển. Mặt biển có lúc phẳng lặng, con thuyền có thể lướt qua mặt nước một cách an toàn. Nhưng cũng có lúc mặt biển nổi sóng to gió lớn như biển Tibériade mà các Tông đồ đang gặp phải trong bài Tin mừng hôm nay thì con thuyền sẽ chao đảo, phải chèo chống mạnh mẽ. Trong những lúc con thuyền đời ta đang gặp sóng gió trên biển cả, ta phải làm gì ? Một mình chèo chống chưa đủ vì sức người yếu đuối, sóng gió lại dữ dội. Ngoài sức chèo chống của mình, chúng ta còn phải kêu cầu Chúa đến giúp đỡ như các Tông đồ đã làm :”Xin cứu con với”!

1. Ta phải tin cậy Chúa

Trong cơn gian nan thử thách ta hay thất bại, nản lòng vì chỉ tin vào sức mình hay vào người khác. Để vượt qua những khó khăn ấy, Chúa đòi chúng ta phải có lòng tin vào Chúa. Thánh Phêrô đã chứng minh điều đó : khi bước xuống khỏi thuyền đi trên mặt nước đến với Chúa : ông tin. Khi sắp bị chìm, ông sợ hãi kêu cứu : ông mất tin. Khi Chúa kéo ông lên thuyền : ông tin. Tại sao ông Phêrô cũng như chúng ta sợ ? Vì thiếu lòng tin. Chúa khuyên :”Đừng sợ”.

Truyện : Đức tin lớn lao.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao (Trích ở Góp nhặt).

Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Matthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng, luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xáo động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.

Nhìn lại những thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những gian nan thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa ở giữa sóng gió - chúng ta dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tín thác vào Chúa Kitô để có sự bình an, không còn chia sẻ con đường thập giá như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
(Mai Chi, CG và DT, số Giáng sinh 95, tr 228)

2. Ta phải nỗ lực

Chúa luôn yêu thương ta, Chúa không bao giờ “đem con bỏ chợ”. Nhưng thương yêu không có nghĩa là lúc nào Ngài cũng âu yếm ôm ta vào lòng, chiều chuộng như một đứa con nít, nhưng Chúa muốn ta phải trưởng thành, phải chịu gian nan thử thách để thành nhân.

Tuy Chúa để ta phải chịu thử thách, Ngài đã đo lường sức chịu đựng của chúng ta, không bao giờ chúng ta phải chịu thử thách quá mức. Chúa chỉ đòi chúng ta cộng tác một nửa hay ít ra một phần, còn bao nhiêu thì để phần cho Chúa, giống như trường hợp các Tông đồ chỉ cung cấp cho Chúa có 5 cái bánh và 2 con cá, nhưng Chúa đã làm cho 5000 người đàn ông ăn no không kể đàn bà con trẻ, lại còn thu được 12 thúng bánh vụn.

Muốn thành công, Chúa đòi chúng ta phải cộng tác, Chúa không chịu làm một mình. Thánh Augustinô đã có kinh nghiệm về chân lý ấy khi viết trong cuốn “Tự thuật” :”Lạy Chúa, khi dựng nên con Chúa không cần có con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không cộng tác’.

Truyện : Phải kiên trì
Ông Paden Powell kể : Có hai con ếch té nhào vào trong một lu sữa to lớn. Cả hai dẫy dụa và mệt lử. Một con nản lòng và chết đuối. Con kia cũng thất vọng, nhưng mà điều đó càng khiến nó vùng vẫy đến nỗi nó trèo được lên đỉnh một khối bơ, vì nhờ vậy mà nó thoát chết.

3. Ta phải cầu nguyện
Trong cuộc sống chúng ta gặp phải nhiều khó khăn, những ngăn trở làm cho chúng ta hoang mang. Chúng ta có thể tham khảo ý kiến của những người khôn ngoan, hiểu biết hơn, nhưng những hiểu biết đó chỉ có hạn ; hơn nữa những khó khăn ấy vượt khả năng của chúng ta, chỉ còn một lối thoát là hãy chạy đến với Chúa, xin Ngài giúp đỡ. Hãy theo gương thánh Phêrô kêu xin Chúa giúp :”Lạy Thầy, xin cứu con”. Hãy nhìn thẳng vào Chúa, đừng rời Chúa. Bao lâu con mắt ta rời Chúa là ta thất bại vì chỉ biết nhìn vào chính mình hoặc vào người khác.

Truyện : Hãy nhìn lên.
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu :”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi ! Nhìn lên lại bầu trời đi”. Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 242)

Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta thẳng thắn nhìn vào cuộc sống của mình. Nếu chúng ta không cảm nghiệm được sự bình an là niềm vui thiêng liêng mà ta đã từng cảm nhận, thì chắc hẳn là vì chúng ta đã rời khỏi mắt Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đang sắp bị bão tố cuộc đời nuốt trửng, thì có lẽ là vì chúng ta đã rời mắt đi xa Chúa Giêsu.

 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:42 02/08/2011
CẬN THỊ

N2T


Có ba anh em đều bị cận thị, hôm nọ cả ba đều cùng đi thăm một người bạn. Vào phòng khách, thấy trên tường treo một bức hoành “Di Thanh đường遺清堂”.

Người anh cả nói: “Chủ nhận bị bệnh, bệnh nặng đáng sợ lắm sao, nếu không thì tại sao lại viết “di tinh ốc 遺精屋?”

Người em thứ nhì nói: “Không phải vậy đâu, chủ nhân thích đạo gia cho nên mới viết “Đạo tình đường道情堂” đó chứ !”

Hai người tranh luận hồi lâu, sau đó kêu đứa em thứ ba coi rõ ràng là chữ gì, đứa em nhìn rất lâu rồi bất chợt cười lớn tiếng, nói: “Cả hai anh đều quá hoang đường, trên tường có bức hoành nào đâu !”

Suy tư:

Cận thị là phải nhìn thật gần mới thấy, xa xa một chút thì không thể nhìn thấy rõ ràng nếu không mang kính cận. Cận thị có hai loại: một là hai con mắt thịt bị cận thị, hai là bị cận thị về con mắt tâm hồn.

Loại thứ nhất vì học hành đọc sách nhiều, vì có bệnh về mắt hoặc vì thiếu dinh dưỡng mà bị cận; loại cận thị thứ hai thì mới là nguy hiểm cho bản thân và cho người khác.

- Con mắt tâm hồn bị cận thị là vì do quá coi trọng quyền lực của mình mà không nhìn thấy ý kiến chính đáng của người khác.

- Con mắt tâm hồn bị cận thị là vì quá kiêu ngạo chỉ thấy mình là đúng, mà không nhìn thấy sự bất bình nơi người khác.

- Con mắt tâm hồn bị cận thị là vì lỡ khoe khoang mình rồi, nên không nhìn thấy chỗ nào phải xuống nơi nào phải lên.

- Con mắt tâm hồn bị cận thị là luôn làm ra dáng đạo mạo bí hiểm để người khác thấy mình là người thông thái, mà không nhìn thấy cái bỉu môi xa lánh của người cộng sự và những người chung quanh.

Con mắt xác thịt bị cận thị thì có kính cận mang vào để nhìn cho rõ; con mắt tâm hồn bị cận thì phải dùng cặp kính khiêm tốn và Lời Chúa mang vào để nhìn cho rõ, bằng không thì sẽ không nhìn thấy đường lên thiên đàng mặc dù mình là người Ki-tô hữu...

-------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:39 02/08/2011
N2T

4. Thần lực để cứu linh hồn người ta là hiến tế cực lớn trước tòa Thiên Chúa toàn năng, ai dạy người ta yêu mến Thiên Chúa nhiều, thì người ấy càng có đức ái nhiều trước mặt Thiên Chúa.

(Thánh Gregory I)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thanh niên Ấn Độ phải là đại sứ của chủ nghĩa đa nguyên, hòa bình, và hòa hợp tại Đại hội Giới trẻ Thế giới
Phạm Kim An
07:26 02/08/2011
Thanh niên Ấn Độ phải là đại sứ của chủ nghĩa đa nguyên, hòa bình, và hòa hợp tại Đại hội Giới trẻ Thế giới

Mumbai, Ấn Độ - Hơn một ngàn người trẻ, trong đó có 110 người ở Kerala và 240 người của tổng giáo phận Mumbai, sẽ là "đại sứ" cho Ấn Độ tại Đại hội Giới trẻ Thế giới tại Madrid, từ ngày 16 đến 21-8.

Đây là cách thức Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng Giám Mục tổng giáo phận Mumbai, miêu tả trong một Thánh lễ đặc biệt ngày 31-7 tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Núi (Bandra, Tổng Giáo Phận Mumbai), thúc giục họ mang đến cho Tây Ban Nha “di sản phong phú đa nguyên của Ấn Độ, nơi mà tính đa dạng tôn giáo và văn hóa được bảo vệ và tổ chức, để đảm bảo sự sống chung hòa hợp giữa thành viên của các niềm tin khác nhau và các chân trời văn hóa khác nhau".

Trong một quốc gia của "giới trẻ" - 40% dân số là ở lứa tuổi 20 và vào năm 2020 với trung bình tuổi dưới 30 – vốn là quê hương của ít nhất tám tôn giáo - Ấn Độ giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), đạo Sikh, Do Thái giáo, giáo phái Jansen – việc chia sẻ các giá trị của hợp tác, hòa hợp, hiệp nhất và khoan dung là chìa khóa để đạt được một trật tự thế giới mới được đánh dấu bằng nền hòa bình.

Vì lý do này, theo Đức Hồng y, những người trẻ tuổi là "nguồn tài nguyên lớn nhất và niềm hy vọng lớn nhất của Ấn Độ, và chúng ta dạy họ vượt qua các sự khác biệt" và "đánh giá cao sự đa dạng của các nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo".

Hồng y Tổng Giám mục nói: “Đất nước này có thể được định nghĩa là ‘trưởng nữ của Giáo Hội tại châu Á’ (Thánh Tôma Tông đồ, nhà truyền giáo đầu tiên của Đông phương, đã truyền giáo tại Ấn Độ vào năm 52), và ngày nay 18 triệu người Công giáo là các chứng nhân tự hào của một đức tin phong phú và sinh động, không chỉ ở Ấn Độ mà còn trên toàn châu Á".

Ngài nói: “Trong bối cảnh này, ở Madrid, những người trẻ tuổi của chúng ta có thể đóng góp nhiều cho Giáo Hội hoàn vũ, mang theo mình các truyền thống đa tôn giáo của Ấn Độ, chống lại xu hướng của chủ nghĩa thế tục lan tràn ở châu Âu". (AsiaNews 1-8-2011)

Phạm Kim An
 
Giám chức Vatican: Giáohội Công giáo sẽ không bao giờ vi phạm ấn tích giải tội
Nguyễn Trọng Đa
07:27 02/08/2011
Giám chức Vatican: Giáohội Công giáo sẽ không bao giờ vi phạm ấn tích giải tội

Roma – Vị Nhiếp chính của Tòa Cáo giải Tông đồ, Đức Tổng Giám Mục Gianfranco Girotti, khẳng định rằng Giáo Hội Công Giáo sẽ không bao giờ tiết lộ lời xưng tội của một hối nhân.

Ngày 27-7, ĐứcTổng Giám Mục Girotti nói với báo Il Foglio: “Quốc gia Ireland có thể thông qua luật theo ý của họ, nhưng Ireland phải biết rằng Giáo Hội sẽ không bao giờ buộc các cha giải tội nói thông tín cho các quan chức dân sự biết”.

Ngày 14-7, Thủ tướng Ireland Enda Kenny hứa sẽ đưa ra dự luật mới, vốn sẽ phạt tù đến năm năm cho các linh mục không thông báo cho chính quyền dân sự về các trường hợp lạm dụng tình dục, được xưng với linh mục ấy trong tòa giải tội.

Dự luật nàymâu thuẫn với Giáo Luật, vốn bảo vệ quyền bất khả xâm phạm của ấn tích giải tội, và cấm các cha giải tội vi phạm luật.

Đức Tổng Giám Mục Girotti nói: "Cha giải tội nào phá vỡ ấn tích giải tội sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae) – tức là tự động – bởi Giáo Hội. Do đó, biện pháp được đề xuất là phi lý và không thể chấp nhận được".

Ngàinói thêm: "Việc xưng tội là một chuyện riêng tư, cho phép hối nhân sửa chữa bản thân và tự thanh luyện mình. Ấn tích là một điều kiện cần thiết. Điều này không có nghĩa là các Giám mục không nên bảo vệ chống lại người ấu dâm, và một khi các điều tra thích hợp đã diễn ra, hãy yêu cầu các cá nhân này phải đền trả cho tội ác của họ".

"Nếu người ta muốn vi phạm việc xưng tội, câu trả lời của Giáo Hội sẽ luôn luôn là không".

Ngài nhắc lại: “Tất cả các người phạm tội ác có bổn phận trả lẽ công lý cho các tội ác mình đã phạm, nhưng điều này không liên quan đến cha giải tội vi phạm ấn tích giải tội. Việc xưng tội là nhằm thanh tẩy linh hồn trước mặt Thiên Chúa ".

Đức Tổng Giám Mục Girotti nói rằng các cha giải tội "có nghĩa vụ tha tội, với điều kiện hối nhân thực lòng ăn năn”, còn việc thông báo cho các quan chức dân sự, hình phạt tù hoặc trừng phạt khác do pháp luật của Nhà nước đặt ra là một vấn đề khác. (CNA / EWTN News 1-8-2011)

Nguyễn Trọng Đa
 
Thánh Lễ Cầu Hồn cho khâm sứ Tòa Thánh sẽ được cử hành tại Vương Cung Thánh Đường Quốc Gia
Bùi Hữu Thư
13:26 02/08/2011
Khâm sứ Tòa Thánh Pietro Sambi
Hoa Thịnh Đốn (CNS) -- Thánh Lễ Cầu Hồn cho Tổng Giám Mục Pietro Sambi, qua đời ngày 27 tháng 7 sẽ được tổ chức tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ngày 14 tháng 9.

Tổng Giám Mục Timothy M. Dolan, tổng giáo phận Nữu Ước, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ sẽ chủ tế Thánh Lễ 12 giờ trưa theo thông cáo của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ ngày 1 tháng 8.

Khâm sứ Tòa Thánh là một tổng giám mục người Ý, 73 tuổi, đã làm đại sứ tại Hoa Kỳ từ tháng Hai 2006, đã qua đời tại Bệnh Viện Johns Hopkins tại Baltimore vì biến chứng sau khi giải phẫu phổi ba tuần trước đó.

Ngày 29 và 30 tháng 7, thi hài ngài được quàn tại Tòa Khâm Sứ Hoa Thịnh Đốn, sau đó đã được chuyên chở sang Ý để được an táng.

Thi hài đã đến phi trường tại Rimini, Ý, vào buổi sáng ngày 31 tháng 7, và được chở tới nhà thờ của giáo xứ nơi quê hương của ngài tại Sogliano al Rubicone, ở đây một buổi canh thức cầu nguyện đã được tổ chức vào tối hôm đó cùng với một buổi canh thức khác vào ngày 1 tháng 8.

Thánh đường Thánh Lôrensô sẽ mở cửa cho các quan khách viếng xác cho đến khi có Thánh Lễ an táng ngày 2 tháng 8.

Tại Hoa Thịnh Đốn, Thánh Lễ cầu hồn sẽ được tổ chức vào ngày Lễ Kính Suy Tôn Thánh Giá, và trùng hợp với buổi họp Mùa Thu của Uỷ Ban Điều Hành Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Các giám mục trên toàn quốc sẽ đồng tế, kể cả Hồng Y Donald W. Wuerl, tổng giáo phận Hoa Thịnh Đốn.

Đức Ông Jean-Francois Lantheaume, tham vụ ngoại giao tại tòa khâm sứ, cũng sẽ đồng tế.

Trong một văn thư gửi cho các giám mục ngày 28 tháng 7, Tổng Giám Mục Dolan nói Thánh Lễ cho Đức Khâm Sứ Sambi sẽ là một dịp để bầy tỏ "sự biết ơn về gương mẫu linh mục và thời gian lâu dài ngài phục vụ cho Đức Thánh Cha và giáo hội."

Thánh Lễ cũng là một dịp để cho ngoại giao đoàn tôn kính Tổng Giám Mục Sambi. Vì là một đại sứ tại Hoa Kỳ, ngài cũng là một thành viên của ngoại giao đoàn.

Trong một thông cáo khác, Đức Ông Walter Rossi, chánh sở nhà thờ Chánh Tòa Hoa Thịnh Đốn nói: cố Tổng Giám Mục là một gương mặt quen thuộc tại Vương Cung Thánh Đường Quốc Gia, và đã chủ toạ cùng giảng thuyết trong các Thánh Lễ Giáng Sinh, Phục Sinh, và các ngày lễ quan trọng của giáo hội.

Đức Ông nói: Vương Cung Thánh Đường rất hân hạnh được làm điạ điểm cử hành Thánh Lễ Cầu Hồn vì "trên nhiều phương diện thánh đường được sử dụng như nhà thờ chánh tòa của đức khâm sứ."

Đức Ông Rossi nói: Tổng Giám Mục Sambi thật sự là "tất cả những gì mọi người muốn nơi một giám mục và một linh mục. Ngài hiền lành, tế nhị, nhưng cũng cứng rắn khi cần thiết, một người hết sức đạo đức, một học giả, một nhà ngoại giao tận tâm, và một linh mục có một.. . tinh thần chăm sóc và có trách nhiệm đối với mọi người."

Đức Ông nói: "Tôi tự coi mình là có phúc vì được gọi Đức Tổng Giám Mục Sambi là một người bạn, mặc dù ngài không còn hiện diện với chúng tôi, tôi tin tưởng rằng cùng với giáo hội tại Hoa Kỳ, tôi có một người bạn trên Thiên Đàng."

Đức Ông tiếp: "Vì Đức Tổng Giám Mục Sambi đã chăm sóc cho giáo hội tại Hoa Kỳ trong năm năm qua. Tôi tin rằng ngài sẽ tiếp tục canh giữ chúng tôi và cầu bầu với Thiên Chúa cho chúng tôi."
 
Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới khởi đầu và hành trình
Lm. Thiện Tĩnh
07:41 02/08/2011
Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới khởi đầu và hành trình

1. Khởi đầu và việc thiết lập Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới

1984 Tại quảng trường thánh Phêrô, Vatican, Roma, Italia, Chúa Nhật lễ Lá (15/4/1984) đông đảo các bạn trẻ tập trung nhân dịp mừng Năm Thánh Cứu Độ. Đức Thánh Cha đã trao Thánh Giá cho các Bạn trẻ vào ngày 22/4/1984.

1985 Chúa Nhật lễ Lá (31/3/1985) đông đảo các bạn trẻ tập trung tại quảng trường thánh Phêrô, Vatican, Roma, Italia, nhân dịp mừng Năm Thánh Quốc Tế Giới Trẻ. Chủ đề: “Thưa Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10, 17).

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết Tông Thư cho các bạn trẻ trên toàn thế giới. Ngày 20/12/1985 Đức Thánh Cha cho công bố việc thành lập Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới. Đại hội này từ nay sẽ được tổ chức hàng năm.

2. Hành trình các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới: thời gian, chủ đề và nơi tổ chức

1986 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần I. Chủ đề: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3, 15). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 23/3/1986.

1987 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần II. Chủ đề: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó” (1Ga 4, 16). Tổ chức cấp quốc tế tại Buenos Aires, Argentina, 11-12/4/1987.

1988 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần III. Chủ đề: “Người bảo gì, anh em hãy làm theo như vậy” (Ga 2,5). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 27/3/1988.

1989 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần IV. Chủ đề: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Tổ chức cấp quốc tế tại Santiago de Compostela, Spagna, 15-20/8/1989.

1990 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần V. Chủ đề: “Ta là cây nho, các con là cành nho” (Ga 15,5). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 8/4/1990.

1991 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần VI. Chủ đề: “Anh em đã nhận được một Thần Khí để trở nên những người con của Thiên Chúa” (Rm 8, 15). Tổ chức cấp quốc tế tại Czestochowa, Balan, từ 10-15/8/1991.

1992 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần VII. Chủ đề: “Anh em hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ (Ga 16,15). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 12/4/1992.

1993 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần VIII. Chủ đề: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Tổ chức cấp quốc tế tại Denver, USA, 10-15 agosto 1993.

1994 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần IX. Chủ đề: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 27/3/1994.

1995 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần X. Chủ đề: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21). Tổ chức cấp quốc tế tại Manila, Filippine, 10-15/1/1995.

1996 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XI. Chủ đề: “Lạy Chúa, chúng con sẽ đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 31/3/1996.

1997 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XII. Chủ đề: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Anh em hãy đến và xem” (Ga 1, 38-39). Tổ chức cấp quốc tế tại Paris, Pháp, 19-24/8/1997.

1998 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XIII. Chủ đề: “Chúa Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14, 26). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 5/4/1998.

1999 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XIV. Chủ đề: “Chúa Cha yêu thương anh em” (Ga 16, 27). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 28/3/1999.

2000 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XV. Chủ đề: “Ngôi Lời đã nhập thể làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Tổ chức cấp quốc tế tại Roma, Italia, 15-20/8/2000.

2001 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XVI. Chủ đề: “Nếu ai muốn theo ta, hãy từ bỏ chính mình mà vác thập giá mình mọi ngày mà theo ta” (Lc 19, 23). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 8/4/2001.

2002 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XVII. Chủ đề: “Các con là muối cho đời... các con là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13-14). Tổ chức cấp quốc tế tại Toronto, Canada, 23- 28/7/2002.

2003 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XVIII. Chủ đề: “Này là Mẹ con” (Ga 19, 27). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 13/4/2003.

2004 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XIX. Chủ đề: “Chúng con muốn gặp Đức Giêsu” (Ga 12, 21). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 4/4/2004.

2005 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XX. Chủ đề: “Chúng con đến để thờ lạy Người” (Mt 2, 2). Tổ chức cấp quốc tế tại Colonia, Đức, 16- 21/8/2005.

2006 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XXI. Chủ đề: “Lời Ngài là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 9/4/2006.

2007 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XXII. Chủ đề: “Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em” (Ga 13, 34). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 8/4/2007.

2008 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XXIII. Chủ đề: “anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy” (Cv 1, 8). Tổ chức cấp quốc tế tại Sydney, Úc, 15-20/7/2008.

2009 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XXIV. Chủ đề: “Chúng ta đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa Hằng sống” (1 Tm 4, 10). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 5/4/2009.

2010 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XXV. Chủ đề: “Thưa Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10, 17). Tổ chức cấp giáo phận vào Chúa Nhật Lễ Lá 28/3/2010.

2011 Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần XXVI. Chủ đề: “Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu” (Col 2, 7). Sẽ tổ chức cấp quốc tế tại Madrid, Tây Ban Nha, 16-21/8/2011.

Lm. Thiện Tĩnh

Tổng hợp
 
Ấn Độ: Khóc thương ĐGM Vincent Kympat
Trầm Thiên Thu
12:59 02/08/2011
Ấn Độ: Khóc thương ĐGM Vincent Kympat

ẤN ĐỘ (UCANews.com, 2-8-2011) – Ngày 1-8-2011, khoảng 50.000 người đã tham dự tang lễ ĐGM Vincent Kympat GP Jowai, người đã qua đời ngày 30-7-2011 vì cơn đau tim.

Đức TGM Dominic Jala (Dòng Sa-lê-diêng) của GP Shillong, chủ tế thánh lễ cầu hồn cho ĐGM Vincent Kympat, đã ca ngợi vị Giám mục quá cố là “người của mọi người” và hoạt động vì Giáo hội.

Ông Bilhan Kympat, người anh sống chung với ĐGM Vincent Kympat, nói rằng ông đã đi tìm ĐGM vì không thấy ngài ra ăn trưa và phát hiện ngài nằm bất tỉnh trong phòng tắm.

Bác sĩ khuyên nên đưa ngài tới một bệnh viện gần nhất. ĐGM Vincent Kympat trút hơi thở cuối cùng lúc 3 giờ chiều, hưởng thọ 64 tuổi.

LM Stephen Francis, phát ngôn viên của giáo phận, nói rằng ĐGM Vincent Kympat rất tích cực thành lập các cộng đoàn Kitô hữu tại các giáo xứ.

Ba ngày trước khi qua đời, ngài đã đi thăm mục vụ các linh mục và giáo dân ở các giáo xứ xa xôi. LM Stephen Francis nói: “Các chuyến thăm viếng như vậy giúp xây dựng Giáo hội và củng cố niềm tin của giáo dân”.

Đức TGM Thomas Menamparampil (Dòng Sa-lê-diêng) của GP Guwahati, chủ tế thánh lễ an táng tại Nhà thờ chính tòa Thánh Têrêsa, nói rằng ĐGM Jowai “rất gần gũi” với giáo dân. Ngài có năng lực và có tài, sáng tạo và hành động. Ngài qua đời là sự mất mát lớn đối với toàn Giáo hội vùng Đông Bắc Ấn Độ”.

LM tổng đại diện Simeon Sungoh nói: “ĐGM Vincent Kympat luôn thúc giục các linh mục sống chân thật, minh bạch và có trách nhiệm. ĐGM Vincent Kympat được lòng giáo dân vì ngài sống đời tông đồ tận tâm và gương mẫu”.

ĐGM Vincent Kympat là Giám mục tiên khởi của GP Jowai. Ngài sinh tại Mawsutong, một ngôi làng hẻo lánh ở Jaintia Hills, thuộc Meghalaya, nơi mà Công giáo mới có khoảng 100 năm.

Ngài bắt đầu làm mục vụ là làm cha phụ tá giáo xứ, sau đó lám giám đốc Trung tâm Đào tạo Giáo lý viên và Trung tâm Laity Formation ở Shillong, thủ phủ Meghalaya.

TRẦM THIÊN THU
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Dòng Thánh Tâm Huế đang tren đường phát triển mạnh
Đam Nguyên
02:01 02/08/2011
HUẾ, Việt Nam – Sau ngày giải phóng 1975, một dòng nam tu bản địa chuyên trách về giáo dục ở miền trung Việt Nam tưởng chừng như đi vào ngõ cụt vì mất hết trường và hầu như không còn ơn gọi, nhưng một thánh lễ khấn dòng gần đây với số tu sĩ tuyên khấn đông kỷ lục cho thấy sự phát triển trở lại sau giai đoạn hồi sinh.

Xem hình ảnh khấn dòng

Đức cha Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng phụ tá Giám mục của Huế đã chủ sự Thánh lễ khấn dòng hôm 29-7 tại nhà thờ Bến Ngự cho 16 tu sĩ khấn lần đầu và 4 tu sĩ khấn trọn đời trong Dòng Thánh Tâm. Đồng tế với Đức cha phụ tá có cha Bề trên Tổng quyền Antôn Huỳnh Đầy, cha Giám đốc Đại chủng viện Alphongsô Nguyễn Hữu Long và gần 70 linh mục. Cộng đoàn tham dự bao gồm quý tu sĩ nam nữ, quý thân nhân và ân nhân của các khấn sinh, quý khách của dòng và cộng đoàn giáo xứ. Nhà thờ không còn chỗ nào trống, người ta phải chấp nhận ngồi ghế phụ tại các hành lang xung quanh và bên trên nhà thờ để tham dự Thánh lễ kéo dài hơn 2 tiếng.

Đức cha chủ tế nói trong Thánh lễ rằng: “Xin chia vui với Dòng vì đã có một vụ mùa bội thu ơn gọi thánh hiến”. Ngài cám ơn cha mẹ của các tu sĩ đến từ Huế và các giáo phận khác trong cả nước vì “đã quảng đại dâng con mình để phục vụ Chúa và Giáo Hội”.

Vị Giám chức 71 tuổi nói thêm rằng: “Đời sống thánh hiến là một ân huệ nhưng không, một món quà tình yêu mà Thiên Chúa đã trao ban cho Giáo Hội. Nhưng Ngài còn chờ đợi nơi những con người được chọn, một tâm hồn thiện chí, quảng đại, một sự cộng tác tích cực để làm cho bộ mặt của Giáo Hội thêm tươi trẻ và năng động, nhờ sự dấn thân theo sát Đức Kitô bằng cách tự nguyện tuân giữ 3 lời khuyên Phúc Âm: khiết tịnh, khó nghèo và tuân phục”.

Trong bài huấn từ, cho các khấn sinh trước khi bước vào giai đoạn mới và cũng là huấn từ cho Dòng đang trong thời kỳ canh tân, thích nghi và phát triển, Đức cha nói: “Chúng ta đừng quá lo sợ những gì sẽ xảy đến trong tương lai, vì tương lai không ở trong tầm tay của chúng ta, tương là là của Chúa. Chúng ta chỉ biết sống trong phó thác và hy vọng. Nhưng ít ra chúng ta an tâm vì hiện tại của chúng ta đang ở trong tình yêu và an bình của Thiên Chúa”.

Thánh lễ diễn ra cách sốt sắng và trang nghiêm với từng nghi thức tuyên khấn lần đầu của 16 thầy và tuyên khấn trọn đời của 4 thầy. Cảm động trong không gian thánh thiêng khi các khấn sinh nằm sấp nghe ca đoàn hát Kinh Cầu Các Thánh chưa đủ, cả cộng đoàn càng xúc động hơn khi từng khấn sinh tiến lên, quỳ gối, nắm chặt đôi tay vị Bề Trên Tổng Quyền và tuyên khấn trọn đời trong nước mắt và nghẹn ngào. Khóc vì niềm vui của cá nhân, niềm vui của Dòng, nhất là vì ơn Chúa xuống “như mưa như mưa” mặc kệ cho đời con bất xứng.

Cuối Thánh lễ, khi vị chủ tế và cộng đoàn an tòa thì mọi thành viên thuộc Dòng Thánh Tâm đứng, trong khi cha Bề Trên đại diện Dòng bày tỏ tâm tình biết ơn đối với Đức Tổng giám mục Stêphanô và Đức cha Phụ tá Phanxicô Xaviê vì đã rất ưu ái và quan tâm đến từng bước đi của Dòng, tạo mọi điều kiện cho Dòng hồi sinh và phát triển. Cha Bề Trên cũng cám ơn Ban Giám Đốc Đại Chủng Viện Huế đã dày công đào tạo nhiều thế hệ tu sĩ trong Dòng trở thành Linh mục Thánh Tâm, đặc biệt với sự hiện diện của Cha Tân Giám đốc Anphong Nguyễn Hữu Long, người vừa giúp giảng tĩnh tâm 8 ngày cho các khấn sinh tại Trung tâm Mục vụ Huế.

Dòng cũng không quên cám ơn Quý Cha trong và ngoài Giáo phận, Quý Bề trên, Quý Tu sĩ nam nữ, Quý Thân nhân và Ân nhân, Quý Khách và mọi thành phần không chỉ vì hiện diện trong ngày lễ khấn Dòng hôm nay, mà Quý Vị đã, đang và sẽ còn đồng hành với anh em Thánh Tâm trong sứ vụ của mình giữa lòng Giáo Hội và xã hội.

Sau Thánh lễ, nói chuyện với vị thầy kỳ cựu Phương Pháp Học, Cha Gioan Hoan Nguyễn Hữu Vịnh, niên trưởng Dòng Thánh Tâm, nói rằng: “Lễ khấn Dòng năm nay thiết lập kỷ lục số người tuyên khấn lần đầu”. Ngài cho biết kể từ khi thành lập Dòng năm 1925, mỗi dịp lễ khấn chỉ có 6 hay 7 người tuyên khấn lần đầu sau khi đã mãn 1 hoặc 2 năm ở Tập viện, có những năm có từ 1 đến 3 người khấn, thậm chí không có lễ khấn vì Tập viện không có Tập sinh.

Cha Vịnh 88 tuổi, giải thích rằng những bạn trẻ đến từ các Giáo xứ trong Giáo phận thích đi tu làm cha hơn là làm thầy Dòng, trong khi đó Dòng của ngài trước năm 1975 lại đào tạo nên các tu sĩ làm thầy giáo dạy học theo chương trình của nhà nước trong các trường của Giáo Hội. “Thời đó tuy không nhiều nhưng mỗi năm vẫn có một số người có thiện chí đến nhà Dòng xin tu. Những năm gần đây rất nhiều người trẻ tới xin vào Dòng, đến nỗi chúng tôi không đủ chỗ để cho họ ở”.

Cha Vịnh, cựu Bề trên, kể lại giai đoạn từ 1970-1975 là những năm chiến tranh đẫm máu diễn ra tại Huế và miền Nam. Dòng của ngài có nhiều tu sĩ bị giết chết hoặc mất tích, nhiều cơ sở vật chất bị phá huỷ và phải di dời. Từ sau năm 1975, các tu sĩ hồi tục gần hết vì không còn trường để dạy học và bị đe doạ đến cuộc sống, nhà nước đã quản lý Tu Viện Mẹ và toàn bộ các trường học của Dòng ở miền Trung và miền Nam.

Tuy nhiên, “chúng tôi tìm cách sống và bảo vệ một Tu Viện duy nhất ở Huế”. Trong số 15 người còn bám trụ với Dòng, một số tu sĩ đi mua đất canh tác như những người nông dân, một số đi làm thuê làm mướn để nuôi sống anh em mình, một số âm thầm giúp mục vụ Giáo xứ.

Cha Vịnh cho biết sau khi nhà nước tiếp quản trường Trung học Phổ thông của Dòng tại Sài Gòn vào năm 1976, ngài bị buộc nghỉ làm Hiệu trưởng, sau đó Đức Tổng Giám mục Sài Gòn cử ngài coi sóc một Giáo xứ. “Tôi tiếp tục cổ động và trợ giúp các mầm mống ơn gọi trong Giáo xứ. Có những năm Dòng tôi không có ai đến xin tu. Tôi phải rời bỏ Giáo xứ để về làm Bề Trên, dần dần Chúa gửi những Ơn gọi đến với nhà Dòng. Từ năm 2000, tôi kêu gọi các cựu tu sĩ và học trò cũ ở hải ngoại giúp đỡ tiền để tôi xây nhà cho những người trẻ ở và tu học.”, cha Vịnh kể.

“Ngày nay nhà nước vẫn chưa cho phép Giáo Hội mở trường học, họ cũng chưa trả lại đất đai và nhà cửa cho chúng tôi, nên các tu sĩ được giáo quyền cho phép học thần học và chịu chức Linh mục để đi Truyền Giáo. Chính điều này đã thu hút nhiều ơn gọi đến từ mọi nơi trong cả nước”, cha Vịnh nói.

Theo cha Bề trên Antôn Huỳnh Đầy, các tu sĩ sau khi khấn lần đầu sẽ được gửi đi học tại các Chủng viện của các Giáo phận hoặc các Học viện Liên Dòng. Họ sẽ là nhân tố đi Truyền Giáo, giúp mục vụ Giáo xứ hoặc chuyên trách tại 11 Sở và cộng đoàn của Dòng ở 8 Giáo phận khác nhau”.

Cha Đầy 57 tuổi, cho biết ngài đang nỗ lực mở rộng môi trường phục vụ cả về địa bàn và các công việc để Dòng Thánh Tâm hiện diện ở mọi nơi, tuy nhiên vẫn ưu tiên vấn đề giáo dục giới trẻ và truyền giáo cho lương dân. “Có một số mạnh thường quân được Chúa gửi đến cho chúng tôi, họ quảng đại hiến đất cho chúng tôi tại một số Giáo phận hoặc giúp đỡ tiền để xây dựng nhà ở, nhà nội trú cho học sinh sinh viên và Nhà Thờ mà Dòng đang phụ trách. Chúng tôi đang thiếu nhân sự chuyên trách đào tạo để lo huấn luyện các ơn gọi trong Dòng. Ở tại các cộng đoàn lại càng thiếu nhiều nhân sự lo giúp mục vụ giáo xứ và điểm Truyền Giáo.”, cha Đầy nói.

Vị Bề Trên còn cho biết có nhiều khó khăn mà Dòng đang gặp phải, như cơ sở vật chất quá tải, tìm học bổng cho các tu sĩ du học, nhất là vấn đề chi phí nuôi ăn học cho các thành viên 3 năm trước khi khấn Dòng và 6 hoặc 8 năm sau khi khấn Dòng vì sau khoảng thời gian này họ mới có thể ra đi và làm việc để nuôi sống chính họ được. “Chúng tôi phó thác trong Thánh Tâm Chúa”, cha Đầy nói.

Tân tu sĩ Bonaventura Phạm Nhật Nam cho biết Thầy đang chuẩn bị thi tuyển sinh vào Đại Chủng viện sẽ diễn ra trong 2 tuần nữa. “Tôi mong mình sẽ trung thành với ơn gọi để sau này về góp phần cho các dân tộc thiểu số ở Kontum, quê hương tôi”, Nam nói.

Dòng Thánh Tâm được Đức cha Eugène Marie Joseph Allys, Giám mục Tông toà của Huế sáng lập năm 1925. Vị thừa sai người Pháp đã mời người bản xứ là linh mục Đaminh Hồ Ngọc Cẩn cộng tác xây dựng và đào tạo Dòng này trong vòng 10 năm trước khi cha Cẩn được bổ nhiệm làm Giám mục Bùi Chu. Hiện nay Dòng có 19 Tu sĩ Linh mục, 14 Tu sĩ vĩnh khấn, 45 Tu sĩ tạm khấn, 15 Tập sinh, 21 Thỉnh sinh và 70 Đệ tử đang tìm hiểu ơn gọi.
 
Sinh viên Công Giáo Bùi Chu bế mạc Lễ Truyền Thống năm 2011
Đinh Văn Khôi
07:36 02/08/2011
Sinh viên Công Giáo Bùi Chu bế mạc Lễ truyền thống năm 2011

Sáng ngày 31/7/2011 Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm - Giám mục giáo phận Bùi Chu đã đến cử hành Thánh lễ bế mạc Lễ truyền thống cho sinh viên Công giáo Bùi Chu tại giáo xứ Nam Phương (thuộc giáo hạt Kiên Chính - Tứ Trùng). Đồng tế trong thánh lễ có cha Phêrô Lương Đức Thiệu - Đặc trách sinh viên Giáo phận Bùi Chu, cha Giuse Trần Hưng Đạo – Chánh xứ Nam Phương giáo cùng gần 14 Linh mục trong ngoài giáo hạt Kiên Chính - Tứ Trùng. Tham dự Thánh lễ có đông đảo các bà con giáo dân trong và ngài giáo hạt, tu sĩ nam nữ và hơn 1000 các bạn sinh viên, cựu sinh viên giáo phận Bùi Chu.

Xem hình lễ bế mạc

Hội sinh viên Công giáo Bùi Chu được chính thức thành lập vào năm 2005, nhưng từ trước khi ra đời, Bùi Chu đã nổi tiếng là đất học và là cái nôi truyền giáo của Việt Nam, nơi khởi đầu bước chân của các thừa sai. Lịch sử giáo phận còn ghi lại những tấm gương can trường, kiên trung với đức tin của bao thế hệ trải qua các thời kỳ bách hại, cấm cách.

Tiếp bước truyền thống cha ông sinh viên Công giáo Bùi Chu đã không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp không nhỏ cho Giáo Hội và xã hội trong mọi lĩnh vực. Hội sinh viên Công giáo Bùi Chu chính là cầu nối để thúc đẩy và nuôi dưỡng đời sống đức tin của các bạn sinh viên. Trong quá trình học tập nơi thành thị xa hoa và đầy cạm bẫy, nơi làm cho không ít các sinh viên Công giáo sa chân vào vòng tội lỗi, tệ nạn xã hội cùng đức tin hao mòn và dần chết khô. Hội svcg Bùi Chu chính là môi trường tốt để các bạn sinh hoạt nâng cao nhận thức xã hội, bản lĩnh sống, củng cố đức tin… giúp các bạn trưởng thành hơn. Đồng thời là mối dây gắn kết tình anh em hiệp nhất trong Đức KiTô.

Hiện nay sinh viên Công giáo Bùi Chu với số lượng đông đảo so với sinh viên các Giáo phận khác đã tham gia tích cực và là thành phần chủ chốt trong trong các nhóm sinh viên nơi các bạn học tập như: nhóm sinh viên Công Nghiệp, nhóm sinh viên Nông Nghiệp, nhóm sinh viên Phú Mỹ, nhóm sinh viên Thạch Bích... Bùi Chu còn được coi là đất thánh nơi sinh trưởng của rất nhiều các tu sĩ, các vị chủ chăn phục vụ Giáo Hội Việt Nam và Giáo Hội hoàn vũ.

Ngày trước diễn ra khai mạc Lễ truyền thống chúng tôi thấy rõ sự lo lắng của Ban tổ chức về sự thành công của Lễ truyền thống năm nay vì trời mưa to, gió lớn liên tục trong nhiều ngày không có dấu hiệu chấm dứt. Nhưng khi giờ phút khai mạc được bắt đầu sự lo lắng đó đã được Chúa lo liệu, tất cả đều bất ngờ vì số lượng rất đông các bạn sinh viên đến tham dự , các chương trình sự tham gia ủng hộ nhiệt tình của các bạn.

Chúng tôi được cha Đặc trách sinh viên Giáo phận Bùi Chu - Phêrô Lương Đức Thiệu cho biết năm nay Lễ truyền thống được diễn ra rất tốt đẹp, mặc dù do ảnh hưởng mạnh của cơn bão số 3 nhưng tất cả các chương trình vẫn được diễn ra theo kế hoạch, các trò chơi và đêm văn nghệ ngoài trời vào chiều tối 30/7/2011 được các bạn sinh viên và bà con giáo dân háo hức nhiệt tình tham gia dù rằng trời mưa.

Trong suốt hai ngày đặc biệt này, các bạn sinh viên đã sống trọn tâm tình qua thánh lễ, các giờ chia sẻ, cuộc thi giáo lý. Mọi tâm tình được đẩy lên cao trong ngày 31/7/2011 - ngày bế mạc Lễ truyền thống trước sự hiện diện của Đức Cha, quý Cha, cộng đoàn và toàn thể các bạn sinh viên.

Giảng trong Thánh lễ, Đức Cha Giuse đã nhấn mạnh đến những ưu tư của Giáo Hội trong thế giới hôm nay, khi mà những hiểm họa đối với những người trẻ:sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội, sự suy giảm đời sống đức tin... đang ngày càng trở nên khốc liệt. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, những người trẻ đặc biệt là các bạn sinh viên được mời gọi cách mạnh mẽ để trở nên những chứng tá đích thực của Chúa Kitô giữa trần gian nhằm đem tình thương và công lý vào giữa lòng đời. Đức Cha cũng mời gọi các bạn trẻ tiến bước không ngừng để có khả năng phục vụ Giáo Hội và xã hội trước sự biến đổi và đòi hỏi của thời đại. Sự nghèo khó của các bạn sinh viên chính là điều mà Thiên Chúa chúc phúc, nghèo khó là môi trường đưa các bạn đến với gần Chúa hơn, tạo cho các bạn khoảng cách tránh xa các tệ nạn ăn chơi, sa đọa của giới trẻ hiện nay.

Trước đó, vào tối thứ Bảy, tại đây đã tổ chức đêm diễn nguyện và cầu nguyện của các bạn sinh viên, như một điểm nhấn chuyển tải tâm tình những người trẻ Bùi Chu đến với cộng đoàn.

Sau thánh lễ là nghi thức trao cờ truyền thống cho hạt Đại Đồng - Thức Hóa, hạt năm sau đăng cai Lễ truyền thống sinh viên giáo phận được Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm chủ sự.

Tâm tình Lễ truyền thống chắc chắn sẽ còn đọng lại nhiều dấu ấn trong tâm hồn mỗi bạn sinh viên và giáo dân nơi đây. Được trải qua những giờ phút cầu đặc biệt, được lắng nghe những bài học quý báu từ Lời Chúa, được cảm nghiệm sâu sắc tình Chúa và tình người trong những giờ cầu nguyện, sinh viên Công giáo Bùi Chu sẽ có thêm sức sống để diễn tả những thông điệp đã lãnh nhận cho tha nhân trên nền tảng của sự hiệp nhất, tình liên đới và bác ái. Để mỗi người con Bùi Chu thực sự là chứng nhân giữa lòng xã hội, là muối cho đời.

 
GX Nghi Lộc, GP Vinh khát khao Công lý Hòa bình trong ánh nến nguyện cầu
Thiên Khải Đường
07:47 02/08/2011
GX Nghi Lộc, GP Vinh khát khao Công lý Hòa bình trong ánh nến nguyện cầu

Sự thật và Công lý luôn là khát khao mà những con người chân chính hướng đến. Đối với người Công giáo, điều đó lại càng cần thiết và sống động. Khi những bất công, những áp bức đang lan tràn và ngày càng khủng khiếp, thì Công lý, Hòa bình như một mục đích để con người xả thân và sống thiện hảo hơn – cho mình và cho đồng loại. Sự áp bức dân lành vô tội không phải là điều chỉ diễn ra ở thời đại này.

Xem hình cầu nguyện

Chúng ta biết rằng, nửa cuối thế kỉ XIX là thời kì dầu sôi lửa bỏng, đau thương khủng khiếp bậc nhất của người Công giáo Việt Nam. Tưởng có lúc phải lụi tàn, không hi vọng sống còn vì những cuộc bách hại tôn giáo liên miên, đầy tính dã man tàn bạo do vua quan nhà Nguyễn và giới sĩ phu Văn Thân lúc bấy giờ chủ trương. Khắp các thôn làng thuộc Thanh - Nghệ - Tĩnh, cuộc bách hại lại thêm phần dữ dội. Những giáo dân từ mọi nẻo đã chạy về một vùng đất với tên gọi đơn sơ là “làng Nghi” và sau này có tên giáo xứ Nghi Lộc để lánh nạn, tìm chốn nương thân.

Theo các tài liệu còn lưu giữ được và theo lời các bậc cao niên trong làng kể lại, những năm dưới thời vua Tự Đức là thời kì đau thương nhất của giáo xứ này. Năm Tự Đức thứ 27 (1874), một cuộc thiêu sát kinh hoàng do các sĩ phu Văn Thân đã nổ ra tại đây. Một họ đạo với số giáo dân chưa quá 200 người lúc bấy giờ đã có đến 77 vị ngã xuống vì Đức tin.

Những nỗi đau lịch sử ấy có lẽ không cần phải khơi gợi lại. Bởi tự nó đã nói lên sự bạo tàn, vô nhân tính của giới cầm quyền ngày trước. Tự nó đã nói lên nỗi đau đớn, tủi nhục của những người tin Chúa. Một thời kì lịch sử đã qua, để mỗi khi nhớ lại chúng ta không khỏi rùng mình kinh hãi. Máu của người Công giáo Việt Nam phải đổ ra quá nhiều cho một lí tưởng, một lẽ sống.

Dòng máu tử đạo đổ ra đã vun trồng nên những hoa thơm quả ngọt. Những hồng phúc cha ông xưa để lại cho cháu con bây giờ như sợi chỉ thắm nối dài những ân lộc tuôn đổ từ Trời. Sự thật, công lý, hòa bình là khát khao, là lý tưởng của mỗi chúng ta.

Trong đêm thứ Hai, ngày 1.8.2011, tại giáo xứ Nghi Lộc đã diễn ra thánh lễ cầu nguyện cho linh hồn những người quá cố, cầu nguyện cho các vị ân nhân gần xa đã giúp đỡ giáo xứ trong việc kiến thiết các cơ sở vật chất, các phong trào đoàn thể... và nhất là cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình – một truyền thống tốt đẹp mà Nghi Lộc luôn đề cao trong dòng lịch sử của mình. Thánh lễ được Ca đoàn Cecilia tổ chức tại nghĩa trang giáo xứ.

Đoàn con cái quây quần bên Cha xứ Jos. Nguyễn Đăng Điền, hiệp ý cùng Mẹ hiền Giáo hội, cùng những anh chị em chung một niềm tin để dâng lên Thiên Chúa tấm lòng thảo kính khiêm cung. Dâng lên Thiên Chúa lời nguyện cầu thành tâm cho Công lý và Hòa bình được tỏa lan trên lãnh thổ này. Vì Chúa là Ánh sáng Thế gian.

Thánh lễ diễn ra trong một khung cảnh thật thiêng liêng xúc động. Bên những nấm mộ của người đã nằm xuống, là anh chị em của tôi, của bạn, từng ánh nến sáng lung linh đang bừng tỏa xua tan bóng tối. Hãy thắp lên đời ta, hãy thắp cho trần gian. Đốt cháy tan niềm đau, xóa bóng đêm từ lâu vây kín quanh đời...

Cũng thật trùng hợp, cùng thời điểm này cách đây hai năm, khi biến cố Tam Tòa đang hồi nóng bỏng, tại xứ Nghi Lộc cũng đã diễn ra thánh lễ hiệp thông cùng giáo dân Tam Tòa vô tội. Vẫn còn đó nỗi đau Tam Tòa, Thái Hà, Tòa Khâm Sứ, Đồng Chiêm, Cồn Dầu... dù nó đã lắng dịu đi nếu xét về tính thời sự, nhưng đã bao giờ chúng ta thôi thổn thức?

Chúng ta cầu nguyện cho Công lý và Hòa bình, cũng là cầu nguyện cho những người anh hùng của chúng ta đang xả thân vì lý tưởng đó. Dù cùng tôn giáo hay khác tôn giáo, họ đều là những con người đáng trọng. Nỗi đau, nỗi oan khiên mà họ phải chịu, cũng là nỗi đau của chính chúng ta. Nỗi đau của những người muốn sống một cuộc đời hiên ngang và đáng sống.

Chúng ta cầu nguyện cho hàng Giáo phẩm của Giáo hội, để các ngài luôn kiên vững trong mọi hoàn cảnh, để các ngài là những bậc chủ chăn đích thực, biết sống vì đoàn chiên và sống cho đoàn chiên. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta...

Kết thúc thánh lễ và giờ cầu nguyện, lời Kinh Hòa Bình vang lên thật xúc động và hào hùng. Ước mong một tương lai đầy tươi sáng với nền tảng công lý và hòa bình đích thực sẽ đến với dân tộc này, với nước non này...

GX Nghi Lộc, 02.08.2011

Thiên Khải Đường
 
Caritas Hải Phòng hỗ trợ nạn nhân vụ cháy xưởng giầy da An Lão
VP Caritas Hải Phòng
13:08 02/08/2011
CARITAS HẢI PHÒNG HỖ TRỢ NẠN NHÂN TRONG VỤ CHÁY XƯỞNG GIẦY DA TẠI XÃ TÂN DÂN – AN LÃO – HẢI PHÒNG

Hải Phòng, trong những ngày qua xôn xao vụ cháy xưởng giầy da, xảy ra vào khoảng 16 h ngày 29/07/2011 ở xã Tân Dân- An Lão – Hải Phòng, vụ cháy kinh hoàng đã làm cho 13 công nhân thiệt mạng tại chỗ và 25 công nhân bị bỏng nặng 23 trường hợp đã được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện bỏng Quốc gia. Số nạn nhân trên đều không phải là người Công Giáo.

Xem hình

Ngay sau khi nhận được thông tin Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, quý Cha cùng cộng đoàn dân Chúa giáo phận Hải Phòng đã hướng lòng về các nạn nhân cùng hiệp ý cầu nguyện cho họ, đồng thời Đức Cha Giuse, Cha thư ký Tòa Giám Mục, nhóm Ve Chai Nhân Ái, quý vị ân nhân đã chung tay với Caritas giáo phận giúp đỡ các nạn nhân.

Cha giám đốc cùng với nhân viên văn phòng Caritas tới thực tế địa bàn động viên, phân ưu và hỗ trợ một phần kinh phí cho các gia đình nạn nhân đồng thời tìm hiểu những khó khăn của họ gặp phải sau khi vụ hỏa hoạn xảy ra để có kế hoạch giúp đỡ các nạn nhân cách cụ thể. Hỗ trợ ban đầu cho các nạn nhân là 48 triệu đồng.

Thật xót xa khi chúng tôi tận mắt chứng kiến ba mươi tám nạn nhân là ba mươi tám hoàn cảnh khác nhau. Khi những người Cha người mẹ của nạn nhân đang phải chống chọi với bệnh tật, hay những người chồng ốm đau không việc làm và những đứa trẻ thơ dại không người chăm sóc, tất cả đang sầu khổ vì người thân mình đang gặp nạn. Họ là những người mà Caritas Hải Phòng thấy cần giúp đỡ.

Nguyện xin cho các nạn nhân đã qua đời được an nghỉ trong vòng tay của Thượng Đế của Ông Trời, xin cho các bệnh nhân sẽ mau chóng được chữa trị và những người thân yêu của các nạn nhân sớm ổn định cuộc sống.

Caritas Hải Phòng sẽ còn tiếp tục giúp đỡ các nạn nhân trong thời gian tới, rất mong sự chung tay giúp đỡ của quý Vị, xin Chúa trả công bội hậu cho quý ân nhân đã rộng tay cộng tác với Caritas Hải Phòng.

Văn Phòng Caritas Hải Phòng

EMail: caritashp@gmail.com

Đ/c 46 Hoàng Văn Thụ - Hồng Bàng – Hải Phòng
 
Giáo xứ Hoà Do mừng kỷ niệm 40 năm thành lập
Thới Hoa
19:09 02/08/2011
Giáo xứ Hoà Do mừng kỷ niệm 40 năm thành lập

Chúa nhật ngày 31-07-2011, đúng 08g30, Giáo Xứ Hoà Do hân hoan chào đón Đức Cha Giuse Giám Mục Địa Phận về dâng lễ Tạ ơn Mừng 40 Năm Hình Thành và Phát Triển Giáo Xứ.

Được biết Giáo Xứ vừa hoàn tất việc tu sửa nhà thờ, cung thánh, thay bàn thờ mới, tượng Chuộc Tội, Đức Mẹ và Thánh Giuse, do đó Trong Thánh Lễ Đức Cha đã làm phép các ảnh tượng và cung hiến Bàn Thờ mới này.

Cũng trong thánh lễ hôm nay Đức Cha ban bí tích Thêm Sức cho 67 Em trong Giáo Xứ.

Đây đúng là một ngày Đại Lễ của Giáo Xứ.

Thánh lễ đồng tế có Quý Cha trong Giáo Phận về tham dự, Quý Tu Sĩ nam nữ, Quý khách trong và ngoài nước, Quý Tôn giáo bạn cùng đông đảo giáo dân. Thánh Lễ diễn ra long trọng, trang nghiêm sốt sắng. Sau Thánh Lễ là liên hoan tiệc mừng.

Xem hình giáo xứ mừng kỷ niệm

LỊCH SỬ GIÁO XỨ HÒA DO (1971-2011)

I. V ị trí và nguồn gốc

Dọc theo Quốc lộ I, Giáo xứ Hòa Do trãi dài trên hai phường Cam Phúc Bắc và Cam Nghĩa- Thành phố Cam Ranh

- Đông giáp Vịnh Cam Ranh

- Tây giáp Hòn Rồng và Giáo xứ Nghĩa Phú

- Nam giáp Giáo xứ Xuân Ninh

- Bắc giáp Đồng Bà Thìn

- Giáo xứ Hòa Do có 5 Giáo Họ:Hòa Bình, Fatima, Tử Đạo, Hòa Mỹ Nam, Hòa Mỹ Bắc.

- Hơn 2500 giáo dân với ngôi Thánh Đường trang nghiêm do Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Phương làm Quản xứ.

II. Hình thành và phát triển

1. Hình thành

Ngược dòng lịch sử, Hòa Do ban đầu chỉ là một khu rừng hoang vắng, thưa thớt vài chục gia đình chài lưới, làm rẫy, đốt than...... trong đó có 03 gia đình Công Giáo. Từ năm 1961, dân số đã lên tới 70- 80 gia đình, được chính quyền bấy giờ thu góp lại thành một ấp theo quốc sách Ấp Chiến Lược. Lúc ấy Hòa Do đã có mặt chừng 10 gia đình Công Giáo, tụ họp gần gũi nhau, không có linh mục, không có nhà thờ, họ phải vào Giáo xứ Xuân Ninh để tham dự thánh lễ.

Vào năm 1964, Linh mục GiuSe Lê Quang Ngọc - Quản xứ Xuân Ninh đến dâng lễ Chúa Nhật tại chỗ, từ đây tên tuổi họ đạo Hòa Do được khai sinh.

Ngày 25-10-1965 Thị Xã Cam Ranh được tuyên bố thành lập. Một năm sau, Thị Xã phát triển theo nhịp độ quân đội Nước Ngoài đến đồn trú. Hòa Do trở thành nơi tiếp xúc buôn bán náo nhiệt, mà báo chí đã đặt cho một danh xưng đầy ý nghĩa: “ Ngã ba quốc tế” để nói lên tầm quan trọng và đa diện của mảnh đất địa đầu bán đảo Cam Ranh. Đồng thời với dân chúng thập phương tuôn về lập nghiệp, một số gia đình Công Giáo cũng góp mặt trong môi trường mới này. Tiếp đến, làng Phế Binh cũng tìm về nơi đây “ cắm dùi”, trong đó có một số gia đình giáo dân khác nữa.

Việc phải đến đã đến, Giáo Hội cần phải thực hiện trong thế giới hôm nay, Đức Giám Mục Giáo Phận Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã sáng suốt nhìn xa thấy rộng, sợ rằng nếu “ chậm trể sẽ trở tay không kịp” , nên Ngài đã quyết định cho thành lập Tân Giáo xứ Hòa Do bằng văn thư đề ngày 11.4.1971 và cử Linh mục Gioan Baotixita Trần Thúc Định làm Quản xứ tiên khởi. Giáo xứ Hòa Do được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh GiuSe Thợ.

2. Phát triển

Lúc mới thành lập Giáo xứ Hòa Do có chừng 800 giáo dân. Bốn tháng sau, dân số Hòa Do lại tăng lên với những khu vực mới như: Hội Quả Phụ, Khu Giáo Giới, Nhóm Tị Nạn, do đó số giáo dân cũng gia tăng. Để tiện sinh hoạt Giáo xứ chia thành các giáo họ theo địa bàn cư trú. Giáo họ Hòa Bình sống gần Thánh Đường, Giáo họ Fatima rải dọc theo Quốc lộ I A đối diện với Thánh Đường, Giáo họ Tử Đạo tập trung khu Thương Phế Binh (cũ) còn Giáo họ Hòa Mỹ giáo dân sống ở khu vực Mỹ Ca đa phần là giáo dân Nam- Ngãi- Bình- Phú chạy về sinh sống. Nay là giáo họ Hòa Mỹ Nam và Hòa Mỹ Bắc

Hội Đồng Giáo xứ tiên khởi gồm các ông: Giuse Lê Văn Tuấn, ông Phêrô Nguyễn Hưu, Philiphê Phạm Lưu , Cố vấn Hội Đồng Giáo xứ cụ Giuse Nguyễn Thuộc và cụ Giuse Nguyễn Thư . Những vị này đã có công trong việc xây dựng ngôi Thánh Đường tiên khởi. Tuy bước đầu khó khăn nhưng Giáo xứ vẫn hình thành được các đoàn thể: Đạo Binh Đức Mẹ, Hùng Tâm Dũng Chí, Thanh Lao Công, Ca Đoàn. Bên cạnh đó có sự hiện diện của trường tiểu học Dòng Giuse, chi nhánh Cô Nhi Viện Sao Mai, Cộng đoàn Hòa Bình( Dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn) làm cho sinh hoạt của Giáo xứ càng trở nên sống động và đi vào nề nếp hơn.

Sau năm 1975 Linh mục Giuse Lê Văn Sỹ được bổ nhiệm để thay Linh mục Gioan Baotixita Trần Thúc Định. Đất nước mới thống nhất, hoàn cảnh lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn khiến cho các sinh hoạt trong Giáo xứ cũng bị ảnh hưởng. Cha Quản xứ đầy nhiệt huyết, với sự cộng tác tích cực của Ban Hành Giáo đã đưa Giáo xứ từng bước đi lên, sống tốt đời đẹp đạo theo tinh thần Phúc Âm. Linh mục Quản xứ và giáo dân luôn mơ ước xây dựng một ngôi Thánh Đường mới, rộng hơn,trang nghiêm hơn để đáp ứng nhu cầu phát triển và sinh hoạt của giáo xứ.

Ngày 27-11- 1992, Đức Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Hòa làm lễ đặt viên đá đầu tiên cho ngôi Thánh Đường. Ngày 25-11-1993 lễ khánh thành ngôi Thánh Đường mới, đồng thời bổ nhiệm Linh mục Tôma Trần Văn Hiệu làm Quản xứ.

Từ đây mở ra môt thời kỳ mới trong sự phát triển của Giáo xứ như nâng cao dân trí, mở rộng truyền giáo, qui tụ con chiên lầm lạc, xây dựng và phát triển các đoàn thể..... bên cạnh đó, linh mục Tôma Trần Văn Hiệu tiếp tục xây dựng nhà xứ, nhà hội, phòng học giáo lý, đồi Đức Mẹ, tường rào chung quanh, nhà để xe..... làm cho bộ mặt Giáo xứ không ngừng thay đổi và cơ cấu Giáo xứ từng bước chặt chẻ hơn.

Ngày 20-03-2006 , tiếp nối sứ vụ của các linh mục tiền nhiệm, Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Phương được bổ nhiệm làm Quản xứ cùng với sự cộng tác đắc lực của Ban Thường Vụ HĐGX, các giáo họ, các ban ngành đoàn thể và toàn thể giáo dân làm cho Giáo xứ Hòa Do sinh động về hình thức bên ngoài lẫn chiều sâu bên trong.

Hòa Do 40 năm hình thành và phát triển qua lời bầu cử của Mẹ Maria và bảo trợ của Thánh Giuse bổn mạng. Thiên Chúa đã ban xuống trên Giáo xứ muôn vàn hồng ân. Đặc biệt, sự quan tâm của các vị Chủ Chăn và các Linh Mục Quản xứ qua các thời kỳ: Cha Giuse Lê Quang Ngọc(1964- 1971), Cha Gioan Baotixita Trần Thúc Định( 1971-1975), Cha Giuse Lê Văn Sỹ( 1975-1992), Cha Tôma Trần Văn Hiệu

( 1993-2006), Cha Phêrô Nguyễn Văn Phương( 2006- Cho đến nay). Hòa Do ban đầu từ 03 hộ gia đình Công Giáo, nay giáo xứ đã có hơn 535 gia đình Công giáo, giáo xứ không ngừng phát triển về hình thức bên ngoài mà còn ở đời sống đạo sốt mến bên trong: với 03 Ca Đoàn nhiệt thành, các lớp học Giáo Lý sôi nổi, các đoàn thể rộn ràng sinh hoạt, Hội Legio Maria, Gia Đình Giuse, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Anh Em Khôi Bình, đội Trợ Táng các Giáo Họ. Đó là những con số biết nói về giáo xứ Hòa Do sống động và tăng trưởng.

Lễ kỷ niệm 40 năm thành lập Giáo xứ Hòa Do, ngày 31 tháng 7 năm 2011
 
Giáo họ Trung Sơn Nam Đàn: Hạt giống nảy mầm
Peter Dũng
19:16 02/08/2011
Giáo họ Trung Sơn Nam Đàn : Hạt giống nảy mầm

Vào hồi 15 giờ ngày 31/7/2011 Linh mục Phêrô Lê Nam Cao, Quản xứ Vạn Lộc đã giải tội và cử hành thánh lễ cho các em xưng tội, rước lễ lần đầu tại nhà thờ giáo họ Trung Sơn, giáo xứ Van Lộc. Hiệp thông cùng các em trong buổi lễ có quý thầy ĐCV, quý xơ dòng MTG cùng đông đảo bà con giáo dân trong giáo họ.

Từ Thị Trấn Nam Đàn qua sông Lam đi theo quốc lộ 15 khoảng 12km là đến giáo họ Trung Sơn, điểm cực nam của giáo phận trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Là một vùng bán sơn địa, giáo dân chủ yếu sống bằng nghề nông, đời sống kinh tế còn rất nhiều khó khăn. Trước đây để lưu truyền hạt giống đức tin, những giáo dân trong giáo họ đã phải đương đầu với những khó khăn, bom đạn của chiến tranh, những cuộc băt bớ đạo… Đã có những đợt di cư trên diện rộng vào nam, những người ở lại vì sợ bắt bớ, tù tội nên giữ đạo không được tron vẹn. Đến trước năm 1998 giáo họ chỉ còn lại vài gia đình giữ đạo và tham gia đầy đủ các phép bí tích, tưởng chừng như giáo họ đã bị gạch tên khỏi bản đồ giáo phận nhưng nhờ hồng ân Thiên Chúa còn thương đến vùng đất nghèo này. Vào đầu năm 1998 nhờ sự vân động nhiệt tình của cha xứ tiền nhiệm Giuse Phan Sỹ Phương cùng sự cộng tác đắc lực ông Đào, ông Khôi những bậc trưởng bối trong giáo họ nên đã vận động được gần 100 người trở lại đạo. Từ đây lịch sử giáo họ bước sang một trang mới, tính đến nay Giáo họ Trung Sơn đã có 42 hộ gia đình với 161 nhân danh.

Ngày hôm nay 31/7 đánh dấu một bước tiến mới trên con đường tìm lại đức tin của giáo họ, lần đầu tiên sau gần 50 năm giáo dân nơi đây mới lại được thấy những đứa trẻ được xưng tội rước lễ lần đầu tại giáo họ. Như lời chia sẻ với các em vừa được lãnh nhận bí tích thánh thể của Linh mục Phêrô Lê Nam Cao sau thánh lễ “ Ngày hôm nay là một ngày rất đặc biệt của các con cũng như toàn thể giáo dân trong giáo họ Trung Sơn, các con được lãnh nhận bí tích thánh thể, được đón Chúa vào lòng, các con phải sống tốt để xứng đáng hơn với tha nhân, xứng đáng hơn với Chúa. Các con là những hạt giống được nuôi nấng bằng ơn nghĩa của Chúa, niềm tin của các con được xây nên bằng máu thịt của cha ông đổ xuống nơi mảnh đất khô cằn này. Nay hạt giống đã nảy mầm các con phải vươn mình lên phải là chứng nhân cho Đức Kitô.”

Cũng nói thêm, vì điều kiện địa lý cách xa nhà thờ xứ đến 8km nên việc sinh hoạt tôn giáo của bà con giáo dân nơi đây rất vất vả nhiều khi không được tron vẹn. Nhờ sự mạnh dạn của cha xứ cùng một số gia đình trong gáo họ, ước mơ về một nơi phụng tự xứng đáng, trung tâm mục vụ sinh hoạt của giáo dân đang dần được hình thành. Ngôi thánh đường giáo họ Trung Sơn đã được khởi công xây dựng từ ngày 20/1/2010 cũng đã hình thành sơ bộ tuy nhiên vì điều kiện kinh tế giáo dân còn vất vả, nguồn kinh phí thì đã cạn nên ngôi tánh đường vẫn còn giao giở không biết khi nào mớ hoàn thành.

Các em ra về trong niềm vui, niềm háo hức vì được đón Chúa vào lòng, được là một con ngườ mới. Ngôi thánh đường còn giang giở nhưng những giờ kinh sớm tối vẫn đều đặn cất lên ca vang lời cảm tạ Thiên Chúa. Một niềm tin mãnh liệt đang sống dậy trong lòng người dân nơi đây. Trung Sơn ơi! Hạt giống đức tin đang nảy mầm.
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thuyết tỷ lệ về luân lý
Vũ Văn An
05:22 02/08/2011
Thuyết tỷ lệ (proportionalism) là một lý thuyết luân lý được khá nhiều thần học gia khoa bảng của Mỹ và Âu Châu tin theo. Đây là một hình thức lý luận đạo đức thường được biết dưới danh xưng thuyết hậu quả (consequentialism). Một lý thuyết luân lý được coi là theo thuyết tỷ lệ (hay hậu quả) khi dựa vào việc lượng giá theo lối so sánh lợi hại để xác định luân lý tính của các hành động. Luân lý tính của một hành động được lượng định bằng cách cân nhắc lợi ích tương đối (những điều tốt hay có giá trị) có thể có được từ một diễn tiến hành động ngược với những thiệt hại tương ứng (điều xấu) có thể có của nó. Nếu tốt nặng hơn xấu, thì hành động ấy được coi là đúng về phương diện luân lý bất kể sự kiện điều xấu hay điều ác có thể đã xẩy ra.

Trong tư duy Công Giáo, việc cầu cứu tới lối suy luận theo thuyết tỷ lệ này xẩy ra sau khi có việc làm của Ủy Ban Giáo Hoàng về Kiểm Soát Sinh Đẻ, nhưng không nhiều lắm. Thực vậy, Ủy Ban kết thúc việc làm của mình vào năm 1966. Các nhà thần học Âu Châu lúc ấy có chú ý tới thuyết tỷ lệ nhưng ý niệm này chưa nổi bật bao nhiêu.

Cho tới cuối năm 1971, các nhà thần học Mỹ vẫn còn tỏ ra dè dặt đối với nền luân lý duy hậu quả. Linh mục quá cố Richard A. McCormick, Dòng Tên, cha đẻ của thuyết tỷ lệ Mỹ và là nhà thần học nổi tiếng của Đại Học Notre-Dame, xem ra đã chạy theo tiền đề của thuyết tỷ lệ vào khoảng năm 1972. Trước đó, ngài tỏ ra lo lắng: nếu áp dụng trọn vẹn lý thuyết luân lý này, nó có thể hủy hẳn ý niệm “intrinsece malum ex objecto”(sự ác nội tại từ chính sự vật), nghĩa là một số hành động xấu ngay trong chúng, bất kể các lợi ích do hành động ấy mang lại (xem “Notes on Moral Theology” của ngài trong Theological Studies từ năm 1971).

Lo sợ của linh mục McCormick rất đúng. Phương pháp này quả đã bác bỏ các hành vi tự nó xấu và do đó bác bỏ luôn truyền thống Công Giáo là truyền thống bênh vực sự hiện hữu của chúng. Nhưng sau đó, ngài tin rằng nguyên tắc tự gọi là ưu tiên chọn lựa (preference) là điều rất chủ yếu đối với suy luận luân lý; nó khá hiển nhiên, vì nó cho rằng người ta luôn thích chọn giải pháp nào hứa hẹn tối đa điều tốt hoặc tối thiểu điều xấu, và quả là điều vô lý khi chọn giải pháp hứa hẹn đem lại tối thiểu điều tốt hay tối đa điều xấu.

Quan điểm trên dẫn người ta tới chỗ bác bỏ việc có những hành động xấu từ trong nội tại và chọn chúng sẽ không bao giờ là đúng cả. Cha McCormick công nhận rằng một vài qui tắc có tính tuyệt đối thực tiễn (practical absolutes) vì vi phạm chúng khó có thể đem lại điều tốt lớn hơn hay điều xấu nhỏ hơn (như hiếp dâm chẳng hạn). Nhưng nguyên tắc (tỷ lệ) vẫn đúng và cực kỳ hiếm họa mới có những hoàn cảnh trong đó thực hiện những việc loại này có thể là điều ít xấu hơn.

Tại sao “nguyên tắc ưu tiên chọn lựa” của McCormick lại không lành mạnh? Tại sao việc tính toán “điều tốt hơn” và “điều ít xấu hơn” lại không thể là cách thỏa đáng để hành động? Vấn đề hệ ở ý niệm này: người ta có thể tối đa hóa điều tốt, điều tốt nhân bản có thể được định lượng hóa bằng bất cứ phương thức thuận lý nào. Điều ấy vừa lầm lẫn vừa đòi hỏi một quan điểm hời hợt về sự thiện nhân bản và đời sống luân lý.

Nói một cách đơn giản, các sự thiện nhân bản trong chọn lựa luân lý không thể đo lường được. Làm sao ta đo lường được giá trị sự sống con người so với tình bạn hay nhận thức chân lý, hay làm sao tôi đo lường được giá trị sự sống của tôi so với giá trị sự sống của anh? Sự thiện nhân bản không hề có “ở ngoài kia” đâu đó để được tối đa hóa. Nó cư ngụ trong trái tim người nào biết cam kết với nó trước khi họ biểu lộ nó ra bên ngoài, và nó vẫn tồn tại ngay cả khi người này thất bại không đưa ra được bất cứ thành quả tốt đẹp nào.

Xin đơn cử một thí dụ: sự cam kết của một bà mẹ đối với phúc lợi của con mình vốn có một thực tại trong trái tim bà bất luận bà có thành công hay không trong việc phát huy phúc lợi cho con. Sự cam kết của bà đối với sự thiện của con không đơn giản chỉ dựa vào khả thể một phúc lợi có thể được thực hiện nếu mọi sự đều diễn tiến như dự trù. Sự cam kết của một người chồng đối với một người vợ bị hôn mê không phương cứu chữa cũng thế. Bỏ nàng lấy người khác có thể hứa hẹn một lợi ích lớn hơn. Vậy thì điều gì biện minh cho việc vẫn trung thành với nàng, trong nhiều năm còn lại? Chắc chắn không phải bất cứ thước đo định lượng nào về tốt hơn hay ít xấu hơn. Đúng hơn, là sự tôn kính chàng vẫn dành cho giao ước hôn nhân giữa hai người, là tình yêu của chàng dành cho vợ và cho thực tại của mối liên hệ một xương một thịt lâu bền của họ; và cho sự tốt lành của đời nàng ngay trong lúc này, tàn tật, không còn biết gì, liệt giường, ấy thế nhưng vẫn tốt lành một cách chân thực và khách quan.

Thứ đạo đức tỷ lệ cũng là thứ đạo đức nông cạn. Luân lý tính không đơn giản chỉ là “làm tốt” theo nghĩa tối đa hóa tư thế sinh lợi của sự việc trên thế giới, nhưng là làm người tốt. Mà làm người tốt đòi phải cam kết tôn kính sự thiện nhân bản như nó đang hiện hữu trong hũu thể trọn vẹn và đầy đủ của các cá nhân và cộng đoàn (được cụ thể hoá tức khắc trong sự sống thân xác, trong tình bạn, trong hôn nhân, trong sự hoà hợp với Thiên Chúa, trong nhận thức chân lý…).

Như thế, đòi hỏi căn bản của luân lý tính là: mọi yếu tố của sự thiện nhân bản phải được tôn trọng trong mọi chọn lựa của ta, cho dù hành động ngược lại có thể hứa hẹn nhiều lợi ích đo lường được. Nếu biết hành động lối này, ta sẽ lên khuôn ý chí ta và chính ta biết tôn kính sự thiện. Đức Gioan Phaolô II từng viết rằng “hành vi nhân bản là hành vi luân lý vì chúng nói lên và xác định ra sự thiện hay sự ác của cá nhân thực hiện chúng. Chúng không tạo ra sự thay đổi chỉ trong tình trạng sự vật ở bên ngoài con người, nhưng trong mức độ chọn lựa tự do, chúng đem lại một định nghĩa luân lý cho người thực hiện chúng, nói lên các đặc điểm tâm linh sâu sắc của họ” ("Veritatis Splendor" số 71).

Thiếu sót sau cùng được coi là trầm trọng nhất của thuyết tỷ lệ là việc nó chủ trương rằng ta có thể thực hiện trước việc lượng giá so sánh để thấy điều tốt và điều xấu thuần (net good and bad) do một diễn trình hành động hứa hẹn. Nhưng để làm việc này, người ta cần phải nhìn được tương lai, phải vào được cả lãnh vực của quan phòng. Một tham vọng như thế cũng không kém ảo tưởng hơn việc đi tìm thuốc trường sinh kiểu Tần Thủy Hoàng. Việc phân tích luân lý bề ngoài xem ra khách quan của thuyết tỷ lệ nhất thiết phải thiên vị một số hậu quả được nó phóng chiếu hơn các hậu quả khác, đặc biệt là những hậu quả thúc bách nhất đối với xúc cảm của người chọn lựa, nhất định sẽ giảm thiểu thành quả theo sở thích chủ quan của họ.

Nghịch lý thay, trước đó, linh mục McCormick còn sử dụng suy luận trên tốt hơn ta: “Nhưng ai có thể tự tin đưa ra một phán đoán như thế? Một cá nhân? Ít khi lắm. Xem ra cần phải có một sự sáng suốt mà ít người trần có thể có được, một sự sáng có thể làm tê liệt quyết định trong hầu hết mọi trường hợp. Thí dụ, một cá nhân sẽ nói được gì về việc liệu việc phá thai hiện nay, xét về lâu về dài, sẽ phá hoại hay cổ vũ giá trị sự sống bà mẹ và thai nhi? Điều này đặc biệt đúng nếu cá nhân trong cuộc bị đe dọa nhiều khiến phải phá thai và do đó chú trọng nhiều vào sự bế tắc tức khắc hơn là những đe dọa về lâu về dài” (Notes On Moral Theology 1965 Through 1980, Washington, D.C.: University Press of America, 1981, tr. 319; cũng nên xem John Paul II trong Veritatis Splendor, số 77).

Nếu một loại hành động nào luôn luôn hủy diệt, làm hư hại hay ngăn cản một yếu căn bản nào đó của sự thiện nhân bản, thì không một việc xếp hạng thành quả theo tỷ lệ nào có thể biến hành động ấy thành nhất quán với sự triển nở toàn diện của con người. Cố ý chọn hành động ấy sẽ làm ta ra xấu. Đó chính là lý do tại sao Đức Gioan Phaolô II dạy trong "Veritatis Splendor" rằng thuyết tỷ lệ vừa không lành mạnh vừa không thích đáng được dùng trong lý luận đạo đức Công Giáo (các số 76, 79).

Theo E. Christian Brugger, Giáo Sư Thần Học Luân Lý tại Chủng Viện Thánh John Vianney, Denver, Colorado, Zenit 27 tháng 7, 2011.
 
Thông Báo
Thành Kính Phân Ưu
Lm Francis Lý văn Ca
17:25 02/08/2011
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Trong Niềm Kính Yêu

xin dâng lên Thiên Chúa tâm tình nguyện cầu cho

Linh Hồn Bà Cố Maria Nguyễn Thị Ngọt

(1913-2011)

là thân mẫu Đức Cha Tôma Vũ Đình Hiệu

Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Xuân Lộc, Việt Nam.

Bà Cố Maria đã được Chúa gọi về lúc 9.00 sáng, ngày 26 tháng 7 năm 2011

hưởng thọ 98 tuổi.

Xin được hiệp thông cầu nguyện trong thánh lễ an táng

vào ngày thứ Sáu, 29 tháng 7 năm 2011

tại Giáo Xứ Thiên Phước, Hạt Long Thành

Địa Phận Xuân Lộc.

Nguyện xin Chúa Chiên Lành đón nhận

linh hồn Bà Cố Maria đáng kính vào Nước Thiên Đàng.

Perth, ngày 27 tháng 7 năm 2011

Thành kính

Linh mục Francis Lý văn Ca

Giáo Xứ Chúa Chiên Lành

Linh mục Đaminh Nguyễn Hoàng Dương

(Du Học Sinh, Giáo Phận Bà Rịa)

Linh mục Giuse Nguyễn Văn Quang

(Du Học Sinh, Giáo Phận Xuân Lộc)

Lockridge, Perth - Úc Châu