Ngày 24-05-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:17 24/05/2009
DỠ THÙNG ĐỰNG HÀNG

N2T


Hai chiếc xe ô tô vận tải dừng lại hai đuôi xe dính với nhau, anh tài xế một trong hai xe bước xuống ra sức dỡ một thùng hàng lớn muốn chuyển nó từ chiếc xe A qua chiếc xe B.

Người qua đường nhìn thấy anh ta khổ cực như thế thì tự nguyện vui vẻ đến giúp. Thế là hai người, anh đẩy tôi kéo, mồ hôi chảy trên lưng, thở phì phò như trâu kéo xe, khoảng nửa giờ sau mà không tiến triển chút nào cả.

Người qua đường nhụt chí, thở dài nói:

- “Theo tớ nghĩ thì hết cách rồi, chúng ta không thể khuân thùng xe này ra khỏi chiếc xe này được.”

- “Khuân đi ?” tài xế lớn tiếng nói: “Trời ạ, không phải tôi khuân thùng xe đi, mà là muốn đem thùng hàng chuyển lên xe ô tô kia.”

(Trích: Bài ca của loài ếch)

Suy tư:

Một người muốn bê thùng hàng trên xe đem qua xe khác, một người muốn dỡ thùng đựng hàng của chiếc xe đem xuống, rốt cuộc không được gì cả, uổng công vô ích là tại vì hai người không làm cùng mục tiêu, không cùng một suy nghĩ, tóm lại là hai người không nhất trí với nhau trong công việc.

Trong chuyện nhỏ mà không nhất trí với nhau thì trong chuyện lớn sẽ trở thành đối thủ của nhau, thế là cộng đoàn chia năm xẻ bảy, gia đình tan nát, xã hội bất an và bản thân thì cảm thấy ngán ngẫm cho cuộc sống.

Chúa Giê-su nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán...”(Mt 12, 30)

Đi với Chúa Giê-su là đi trong chân lý và sự thật, vì Ngài là chân lý; thu góp với Chúa Giê-su là thu góp các linh hồn về cho Ngài, đó chính là truyền giáo, và bởi vì sứ mệnh truyền giáo này, mà chúng ta –người Ki-tô hữu- cần phải hiệp nhất với nhau trong một Giáo Hội duy nhất là Giáo Hội Công Giáo của Chúa Giê-su ở trần gian này.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:18 24/05/2009
N2T


24. Nếu anh tham lam mọi sự, bất luận lớn hay nhỏ, nặng hay nhẹ, thì cũng đều có thể ngăn cản việc tu đức nên thánh của anh. Giống như buộc con chim bằng sợi giây lớn hay nhỏ, thì nó cũng không thể bay được.

(Thánh John of Cross)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:20 24/05/2009
N2T


124. Nhân cách thành thục thì gánh vác trăm phần trăm.

 
Thơ: Con đường Thập Giá
Trầm Thiên Thu
04:07 24/05/2009
TÂM NIỆM

Cho tôi làm Thập tự
Trên ngọn tháp giáo đường
Để luôn luôn ghi nhớ
Sống cuộc đời yêu thương
Cho tôi làm cỏ dại
Trên cánh đồng bao la
Để không hề ngần ngại
Sống cuộc đời đơn sơ
Cho tôi làm khúc hát
Ca tụng Chúa muôn đời
Song đôi như lục bát
Sống vì Chúa, vì người
Cho tôi làm lời nguyện
Mang tình yêu Chúa Trời
Để muôn dân, muôn nước
Đón nhận Ngài nơi nơi
Cho tôi làm giọt lệ
Than khóc tội bao nhiêu
Dù cát bụi hèn mọn
Vẫn trọn niềm tin yêu

ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Con đường Thập giá cheo leo
Gian nan, vất vả, nhọc lao, gập ghềnh
Ai lo giữ mạng sống mình
Thì rồi sẽ mất – Đời thành trầm luân
Ai vì Chúa, vì Phúc âm
Hy sinh mạng sống được phần quang vinh
Chúa cho hưởng phúc trường sinh
Đời đời bên Chúa ca tình tri âm

Cuộc đời Thiên Chúa trao ban
Sự sống rất cần, đừng phí một giây
Xin cho con biết vì Ngài
Sống cho xứng đáng tháng ngày hồng ân

NỖI LÒNG

Bỏ Ngài con biết theo ai
Trước sau chỉ thấy mình Ngài mà thôi

Nhìn trời từng vạt mây trôi
Bất chợt bồi hồi ngày tháng tiếp năm
Vơi đầy những nỗi băn khoăn
Độc hành một chuyến trở trăn sớm chiều

Bóng đời trôi dạt liêu xiêu
Đôi khi khờ dại gieo neo thăng trầm
Nhiêu khê cuộc sống miên man
Hoang vu như những tiếng ngân chuông chiều

Thiếu Ngài, con đẫm ưu sầu
Thuyền con vô định, ba đào cứ xô
Con đâu làm được điều gì
Nếu không có Chúa độ trì đỡ nâng.
 
Thơ: Chiều giáo đường
Viễn Dzu Tử
04:09 24/05/2009
Chiều êm chầm chậm xuống dần
Lâng lâng cầu nguyện nhặt lần tiếng chuông
Vang ngân từ tháp Giáo đường
Lung linh ánh sáng yêu thương mỗi ngày
Nhịp chân đếm bước thiên thai
Tìm về hạnh phúc miệt mài tháng năm
 
Thơ: Không đề
Kha Đông Anh
04:10 24/05/2009
Đứng trên bờ tội lỗi
Chợt khát vọng hồng ân
Trên bước đường lầy lội
Mắt nhòa lệ ăn năn
Trăm năm là yếu đuối
Nên Ngài chết cho tôi
Trong niềm vui sống lại
Nghe trái tim bồi hồi
Vần thơ tôi bỗng khác
Ấp úng lời tạ ơn
Cung đàn tôi lỗi nhịp
Biết cảm mến tình thương
Xin giã biệt dĩ vãng
Con hoang bước trở về
Thanh thản và vui sống
Phục sinh rộn thánh ca.
 
Mặt chìm, mặt nổi cuộc đời
Anmai, CSsR
04:14 24/05/2009
Sáng nay, lòng đã buồn trong bầu tang lễ của một người thân quen lại chồng thêm nỗi buồn khi nghe tin Em bị dừng khấn ! Một người quen biết với mình mà rơi vào cảnh ngộ ấy làm sao mà vui được. Chắc có lẽ các vị hữu trách cầu nguyện và suy nghĩ nhiều để ra quyết định với Em. Chuyện bề trên quyết định trên Em làm tôi lại có dịp để suy nghĩ đến chuyện chìm, chuyện nổi của đời tu, của ơn gọi của mình.

Một tu sĩ, không thuộc dòng chiêm niệm nghĩa là hoạt động nhưng không phải là cứ chăm chăm chú chú vào hoạt động mà đánh mất đi đời chiêm niệm, đời cầu nguyện. Dù tu trong dòng hoạt động đi chăng nữa ta cũng phải ngầm hiểu với nhau rằng cần lắm những giây phút chiêm niệm, những giờ phút cầu nguyện. Những giờ phút “chìm” ở Tu Viện sẽ là “dưỡng chất” cho ta “nổi” ở ngoài Tu Viện và những chuyện “nổi” ta làm ngoài Tu Viện phải được đặt trên nền tảng “chìm” mà ta trau dồi ở trong Tu Viện. Phải chăng đời tu chỉ đánh giá ở những bề nổi mà quên đi bề chìm. Dẫu là dòng hoạt động đi chăng nữa nhưng đâu phải lúc nào cũng như con rối hoạt động ngoài đường.

Tôi cũng như Em, mang trong mình phận của một con người và nhất là tuổi trẻ, ta thích làm và làm nhiều việc để tìm cái thành công của cuộc đời nhưng đó không phải là cùng đích của đời tu, không phải là căn cốt của đời tu. Căn cốt của đời tu vẫn phải đặt trên nền tảng của bề chìm chính là đời sống cầu nguyện, đời sống chiêm niệm. Bằng chứng là tất cả những gì Em đã nổ lực và cống hiến dẫu cho rằng đó là cho người nghèo, cho người tất bạt rất nổi nhưng bề chìm của Em bị thiếu, bị khuyết để rồi các vị hữu trách phải đi đến quyết định chẳng mấy gì gọi là vui ấy. Tất cả những thành quả, những kết quả có được phải nói rằng chỉ là con số “không” thật lớn trước quyết định ấy của Bề Trên.

Tôi không làm bề trên, tôi không có trách nhiệm đào tạo trên Em nhưng tôi cũng hiểu rằng các đấng các bậc cũng đau lòng lắm với cái quyết định ấy. Vì lẽ, cái quyết định ấy phải cân nhắc, phải suy nghĩ, phải cầu nguyện nữa chứ không dựa trên cảm tính được. Trong lòng tin, qua quyết định của các vị hữu trách là ý mà Chúa gợi lên trong Em.

Nhìn lại Em, qủa thật Em quá thành công và thành công mỹ mãn trên bước đường Em đi. Có thể nói Em là một “ngôi sao” của các bạn đồng lớp, của các bạn cùng trang lứa. Những việc Em làm, những thành công của Em mà Em có được ắt hẳn là hơn nhiều người, hơn nhiều bạn cùng lớp. Nhìn Em, nhiều người trong đó có tôi cũng thích, cũng mong có những thành quả ấy nhưng dưới mắt của Thiên Chúa, dưới mắt của những vị hữu trách không phải là như vậy.

Với quyết định của các đấng các bậc cũng như kết quả những ngày tháng Em cố gắng hoạt động ấy một lần nữa cho tôi thấy rằng căn cốt của đời tu không phải là những thành công rực rỡ, những tràng pháo tay thật to, những lời ngợi khen đầy hoa mỹ. Không phải ngẫu nhiên hay vì cảm tính mà các vị hữu trách quyết định như vậy. Tôi nghĩ rằng phải cầu nguyện, phải tham khảo ý kiến, phải cân nhắc lắm mới quyết định như vậy. Các vị hữu trách quyết định như vậy để đưa ra lập trường chung của đào tạo, của ơn gọi đó là cầu nguyện, chiêm niệm chứ không phải ở những cái rực rỡ thành công bề ngoài. Lập trường, đường lối của các vị hữu trách vẫn đặt nặng bề chìm, đời sống cầu nguyện và chiêm niệm chứ không phải là bề nổi, là bên ngoài của một tu sĩ.

Thật đáng thương cho những tu sĩ sống dựa trên những thành công bề nổi rực rỡ, những tràng pháo tay và những lời ngợi khen đầy hoa mỹ. Tất cả nó chẳng là gì cả nếu như tu sĩ ấy không đặt cuộc đời mình trong sự chiêm niệm với Chúa, trong đời sống cầu nguyện với Ngài.

Đã có người làm mát lòng tôi khen tôi điều này điều kia, tôi đều cảm ơn họ vì họ đã dành cho mình những lời khen ấy nhưng xét cho cùng nó chẳng là gì cả. Chúa Giêsu ngày xưa cũng thế ! Người ta theo Chúa, người ta cũng tung hô Chúa, tán dương Chúa và thậm chí còn đòi tôn Chúa lên làm Vua nhưng rồi người ta giết Chúa chẳng khác gì một tên trọng tội. Nếu như ta sống trên những lời tán dương đó một lúc nào đó ta sẽ đau đớn nếu như những người đó sát hại chúng ta. Và nếu muốn lòng mình được thanh thản, bình an như Chúa trước lời tung hô, trước bản án tử người ta dành cho Chúa thì không có con đường nào khác con đường chiêm niệm, kết hiệp với Chúa Cha.

Nhớ lại suy nghĩ và cách lối của Cha Thánh Anphongsô - tổ phụ Dòng Chúa Cứu Thế - quả thật là hay. Ngài vẫn dặn dò các tu sĩ dòng mình là phải chiêm nghiệm rồi mới hoạt động và hoạt động rồi phải về lại tu viện để sống đời chiêm nghiệm. Dù làm gì đi chăng nữa như là giảng đại phúc, lo cho người nghèo khổ tất bạt đi chăng nữa thì Ngài vẫn mời gọi tu sĩ dành một nửa thời gian cho hoạt động và dành một nửa cho chiêm niệm. Một đoàn đi giảng đại phúc thì cần lắm những trợ sĩ lo bếp núc và quan trọng hơn là đoàn trợ sĩ đó cầu nguyện cho lời rao giảng của các linh mục.

Chuyện Em được mời gọi dừng lại cũng là dịp để tôi nhìn lại mình. Tôi cũng như Em, hăng hái, nhiệt huyết với ơn gọi, với đời tu nhưng những hoạt động bề nổi ấy không phải là cùng đích của đời tu. Những hoạt động nổi ấy nếu như không đặt trên bề chìm của đời sống cầu nguyện, của đời sống chiêm niệm thì thành quả ấy chẳng là gì cả.

Đời sống cầu nguyện, đời sống chiêm nghiệm của ta không ai đánh giá, không ai nhận xét được, chỉ mình ta và Chúa và Chúa với ta biết chuyện này mà thôi. Thật đáng tiếc nếu ta chỉ chăm chăm chú chú bề ngoài mà ta không nuôi dưỡng đời sống nội tâm của ta.

Đôi khi vì lòng nhiệt thành tông đồ, vì lòng nhiệt thành với người nghèo mà ta đánh mất bề chìm của đời tu thì tất cả những hoạt động, những thành công ấy thành rỗng vô nghĩa. Khi ấy, ta muốn nổi còn ta để Chúa chìm. Chuyện quan trọng của cuộc đời, như Gioan Tẩy Giả nói và sống là ta để Chúa nổi và ta thì chìm.

Chuyện của Em nhắc nhớ tôi dù mình ở cung bậc nào mình cũng phải dành giờ cho bề chìm của đời tu đó là chiêm nghiệm, cầu nguyện chứ đừng dốc hết lòng hết sức cho bề nổi của cuộc đời.

Chuyện của Em cũng nhắc nhớ tôi rằng mình cần phải bồi đắp bề chìm của đời tu thật tốt để rồi khi bề chìm tốt bỗng dưng những thành quả bề ngoài sẽ tự đến. Còn nếu ta cứ chăm chăm chú chú bề nổi thì một lúc nào đó ta sẽ gãy, ta sẽ đổ vì căn cốt của đời tu là bề chìm của ta nó rỗng tuếch !

Bề nổi: những thành công sẽ chẳng là gì cả nếu như bề chìm: đời sống chiêm nghiệm trống vắng.
 
Niềm vinh quang Chúa Thăng Thiên chỉa sẻ với những ai bước theo con đường của Người
Jos. Tú nạc, NMS
04:16 24/05/2009
Chúa Nhật Thăng Thiên - Nam B (Acts 1: 1-11; Psalm 47; Ephesians 1: 17-23; Mark 16: 15-20)

Bằng cách nào người ta cố gắng một cách nhanh chóng hướng về những sự việc của Thiên Chúa trước những phút cuối cùng của con người. Những môn đệ của Chúa Jesus hầu như không trấn tĩnh được từ những chấn thương tâm hồn về biến cố Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá và kích động trước sự kiện Chúa phục sinh. Chúa Jesus đã phải thuyết phục họ rằng Người đã sống lại thật. Giai đoạn hậu phục sinh ngắn ngủi được mô tả trong Tin mừng kéo dài 40 ngày. Vì sự tạm trú của Người đã kết thúc, họ nài ép Chúa Jesus thực hiện lần cuối cùng một điều gì đó mà tất cả trong số họ đang mong đợi: khôi phục vương quốc Israel – thanh tẩy vùng đất – và đuổi dân La Mã căm ghét.

Nhưng Chúa Jesus đã không dùng thủ thuật hoặc tấn công – Người đã quở trách họ vì những toan tính cửa họ để tò mò, tọc mạch kế hoạch và thời gian biểu của Thiên Chúa. Những quan tâm của Thiên Chúa khi nào và lúc nào và không còn là của chúng ta. Sứ mệnh duy nhất cùa họ trong lúc này là kiên nhẫn chờ đợi ở Jerusalem về sự ban truyền nồng nhiệt yếu tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa có trong tâm trí một ảnh hưởng chung – Thần Khí đã gửi bởi Thiên Chúa và sinh lực loài người cùng thực hiện kế hoạch thiêng liêng, cao cả. Ngay lúc này, sứ mệnh của những người theo Người là để được làm chứng tá của Người tới lúc tận thế. Hình ảnh cuối cùng với Chúa Jesus hướng lên vào trong thế giới bên kia và lời tiên báo được ban ra tới đám đông bởi hai bóng dáng thiên thần.

Họ không tránh được niềm say mê với những điều kỳ diệu của những gì mà họ vừa chứng kiến. Niềm tin của họ không phải là cái trộm nhìn vào trong thế giới bên kia. Họ sống là những người chú ý đến đời sống thế gian mà với sự cộng hưởng sức mạnh dẫn truyền thần khí đã được húa giúp đỡ.

Tính chất tinh thần của riêng chúng ta không phải là thái độ miệt thị của thế giới và nhu cầu con người. Chúng ta phải tiến hành một cách tích cực trong việc tìm kiếm về một thế giới công bình, an lạc. Và đó sẽ là một sự lừa dối để suy ngĩ về sự Thăng Thiên trong thuật ngữ không gian về điều này với mục đích cổ vũ một sự ám ảnh với thế giới siêu nhiên khác. Chúa Jesus không “bay lên” một nơi nào mặc dù làm thế nào Người có thể hiện ra với đám đông. Sự Thăng Thiên nói về mối quan hệ với Thiên Chúa – để bay về với Thiên Chúa nghĩa là được hiệp nhất cùng Thiên Chúa và trong sự hiện diện muôn đời của Người. Sự Thăng Thiên của Chúa Jesus muốn nói rằng sự tiến triển tâm hồn của loài người đã được đặt trong tay Người – và trong tay của chúng ta nếu chúng ta quan tâm một cách đúng đắn tình môn đệ.

Ephesians dẫn truyền sự việc này thậm chí còn sâu xa hơn – sự Phục Sinh và sự Thăng Thiên sau đó là một việc trưng bày hiển nhiên về quyền năng nhân từ của Thiên Chúa thực hiện công cuộc bảo vệ chúng ta. Cùng với sức mạnh mà Chúa Jesus được sống lại từ cõi chết và đã đưa Người về Nước Trời là một sức mạnh tương đồng đó là việc làm cho chúng ta và trong chúng ta. Sự khôn ngoan, khai sáng và niềm vinh quang của Thiên Chúa là những món quà tuyệt diệu mà chúng ta được thừa hưởng với tư cách là con cái Chúa và chúng ta bắt đầu vận dụng những món quà này trong cuộc đời này.

Những tiết mục trong Kinh Thánh của Mark được giới thiệu duy nhất trong một lá thư “in lại được sửa chữa” như sự hoàn hảo đầu tiên với tiết mục 8: những người phụ nữ chạy xa và không nói với ai về việc họ sợ hãi. Trong những thế kỷ sau, nhiều cộng đồng đã cảm thấy bắt buộc đưa Mark vào lời dẫn của ba Tin Mừng khác. Nhưng cùng với sự mở rộng này đã đi đến một số ít tư tưởng nghi ngờ. Phải chăng một số người nào đó đã bị lên án và đánh mất bởi họ không tin vào Tin Mừng? Tinh thần tôn giáo ở thế kỷ thứ nhất hiểu những sự việc trong những phạm trù “cả hai/ hoặc”, và thế giới quan khải huyền của những người truyền bá phúc âm đã bổ sung một ý nghĩa chinh phục cấp bách mà chúng ta không có. Chúng ta cũng có một năng lực tư duy uyên bác hơn về sự hoạt động yếu tính của Thiên Chúa trong lịch sử và đời sống loài người. Và điều này có phải thực sự là khôn ngoan, sáng suốt cho những tín hữu để bày tỏ đức tin bằng việc uống độc dược và sờ vào những con rắn độc cắn chết người chăng? Điều nay nghe như ngột ngạt, nguy hiểm đối với việc đặt Thiên Chúa trước sự thử nghiệm – giống như tập tục của một số người nhìn thẳng vào mặt trời để chứng tỏ đức tin của mình.

Nhưng hình ảnh này đơn thuần chỉ mang ý nghĩa sức mạnh mới được ban tặng cho các tín hữu: trong một thế giới được tân tạo thiên nhiên và con người ở trong sự thanh bình mà tình trạng sợ hãi luôn đeo đuổi tâm hồn con người bắt đầu nới lỏng. Sự sống lên ngôi và ngự bên hữu Thiên Chúa là một ẩn dụ về quyền năng của Chúa Jesus thay vì sự mô tả về một cung điện huy hoàng, tráng lệ quá đỗi phàm nhân hoặc sự sắp xếp đồ trang trí nội thấy tuyệt trần. Nó có một hàm ý rằng đánh động đến mỗi cá nhân chúng ta, nhắc nhở chúng ta rằng đời sống thế gian của chúng ta nhưng chỉ là giai đoạn đầu của nột thời gian vô tận với Thiên Chúa.

Niềm vinh quang và quyền năng của sự Thăng Thiên và “sự đăng quang” của Chúa Jesus được dang rộng và chia sẻ với những ai tin nơi danh Người và bước theo con đường của Người.

Nguồn: Regis College – The School of Theology
 
Tâm Sự Với Chúa Mỗi Ngày - Tuần VII Sau Phục Sinh
Lm Jos Tạ Duy Tuyền
23:39 24/05/2009
Thứ hai sau Chúa nhật 7 phục sinh

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con được lòng yêu mến và siêng năng đến với Chúa và rước Chúa để được bồi dưỡng bởi sức sống thần linh của Chúa. Xin cho đời sống chúng con là một giọt nước luôn được hòa tan vào chén rượu nồng là tình yêu Thiên Chúa, để dù sống hay chết, cũng là sống và chết cho tình yêu đã tự hiến vì chúng con. Xin giúp chúng con biết sống như thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, không còn là tôi sống mà là Đức Ky-tô sống trong tôi”.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã chiến thắng thế gian. Đó là niềm vui cho chúng con. Vì từ nay chúng con có Chúa bảo vệ, nâng đỡ và chở che. Xin cho chúng con luôn biết can đảm đối diện với thập giá trong cuộc đời. Xin giúp chúng con chiến thắng tính nhút nhát, lười biếng muốn trốn tránh bổn phận hằng ngày. Xin ban ơn trợ giúp để chúng con thắng vượt những cám dỗ tội lỗi và biết đứng lên làm lại cuộc đời sau những lần vấp ngã.

Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con bằng những ơn lành hồn xác, để mỗi ngày chúng con càng xác tín hơn về tình thương quan phòng của Chúa. Amen

Thứ ba sau Chúa nhật 7 phục sinh

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa đã yêu thương chúng con bằng tình yêu thật lớn lao! Chúa luôn ưu ái dành cho chúng con biết bao ân huệ trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Chúa chăm sóc từng cuộc đời chúng con. Chúa lo lắng cho từng hoàn cảnh đời sống chúng con. Chúng con xin tạ ơn tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã đi hết hành trình đời người trong sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa đã tôn vinh Chúa Cha qua ba mươi ba năm cuộc đời dương gian. Hôm nay, Chúa đã về trời để được Chúa Cha ân thưởng cho những việc làm của Chúa nơi dương gian. Xin giúp chúng con biết học nơi Chúa trong sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết tôn vinh Chúa Cha trong việc chu toàn bổn phận thờ phượng kính mến Chúa, trong việc ngoan ngoãn vâng lời bề trên, trong việc sống hoà thuận với mọi người.

Lạy Chúa, thế gian luôn đầy những cạm bẫy sự dữ, xin giúp chúng con vượt thắng những cám dỗ, những yếu hèn để gìn giữ lòng mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi. Xin giúp chúng con đi hết hành trình đời mình với trọn niềm trung tín sắt son trong ơn gọi làm con Chúa. Amen

Thứ Tư sau Chúa nhật 7 phục sinh

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tham dự vào bàn tiệc Thánh của Chúa. Đây là dấu chỉ sự hiệp nhất chúng con nên một trong Chúa. Qua tiệc thánh này chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh, cùng được nuôi dưỡng bởi một sức sống thần linh là chính Chúa. Xin giúp chúng con biết sống tình hiệp nhất với nhau trong tình tương thân tương ái để ca tụng Chúa là Cha.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật ở với chúng con luôn mãi. Chúa Thánh Thần sẽ dạy chúng con những điều hay lẽ phải. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng con biết sống theo giáo huấn của Chúa. Xin giúp chúng con biết đón nhận hồng ân Chúa Thánh Thần, để nhờ ơn Chúa, chúng con luôn sống thảo hiếu với Cha trên trời. Xin Thánh Thần Chúa thánh hoá chúng con trong tình yêu của Chúa để chúng con luôn hiệp nhất yêu thương nhau. Xin Chúa cũng gìn giữ mọi người chúng con trong tình thương của người mục tử luôn lo lắng đến từng con chiên, luôn chăm sóc từng con chiên qua những ơn lành hồn và xác. Xin Chúa cũng thánh hoá chúng con trong chân lý để chúng con luôn sống theo sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát chúng con khỏi mọi điều tội lỗi.

Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những ràng buộc của gian tà, tội lỗi, để nhờ sự tự do, chúng con tích cực xây dựng cuộc sống trần gian luôn công bình, bác ái và tràn đầy tình yêu thương. Amen

Thứ Năm sau Chúa nhật 7 phục sinh

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa hằng mong ước ở lại trong chúng con. Chúa muốn ở bên cuộc đời chúng con như người cha luôn chăm sóc con cái mình. Chúa muốn tình thương của Chúa ở mãi trên cuộc đời chúng con. Chúng con xin cám tạ tình thương vô biên mà Chúa đã dành cho chúng con.

Lạy Chúa Giê-su, nhờ Chúa mà chúng con được hiệp nhất với nhau, được nhìn nhận nhau là anh em con một Cha trên trời. Xin Chúa gìn giữ sự hiệp nhất nơi nhân loại chúng con. Sự hiệp nhất không phải là hành vi cố nhịn nhục, nhịn nói những câu mất lòng nhau, hay cố nhịn tránh va chạm để đánh lừa người đời. Sự hiệp nhất mà Chúa muốn chúng con sống là tình yêu thương bao dung, để sẵn lòng tha thứ cho lầm lỗi của nhau. Một tình yêu khiêm cung tha thứ tất cả, nhịn nhục tất cả và trên hết là yêu thương vô vị lợi với hết mọi người. Một tình yêu có thể xoá tan mọi ngăn cách để sống hoà hợp với nhau trong tình tương thân tương ái.

Lạy Chúa, thế giới cần hiệp nhất với nhau để nhân loại thôi kết án lẫn nhau, thôi nói hành, nói xấu lẫn nhau. Thế giới cần hiệp nhất để cuộc sống chung được an hoà và tươi vui. Xin Chúa hãy gìn giữ chúng con luôn hiệp nhất để cùng nhau sống lời Chúa và làm chứng nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen

Thứ sáu sau Chúa nhật 7 phục sinh

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa là tình yêu. Tình yêu Chúa đã trở nên nguồn sống cho cuộc đời chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con biết sống đền đáp tình yêu cao sâu mà Chúa đã dành cho chúng con. Đó là biết thực thi lời Chúa, biết sống theo giáo huấn của Chúa. Xin giúp chúng con đừng xa lìa Chúa bởi những đam mê tội lỗi trần gian.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa hằng mong ước các tông đồ của Chúa biết trở nên những mục tử như lòng Chúa mong ước. Một mục tử có trách nhiệm trước sự sống còn của đàn chiên. Một mục tử biết từng con chiên, băng bó từng con chiên. Một mục tử luôn tìm kiếm những của ăn thích hợp cho đàn chiên, luôn lo cho đàn chiên được hạnh phúc và bình yên. Xin cho chúng con biết cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng con. Xin Chúa ban những ơn lành hồn xác để các ngài luôn chu toàn sứ vụ mục tử với lòng yêu mến nồng nàn. Xin cho các ngài cũng hoạ lại tình yêu của Chúa khi chăm sóc đàn chiên Chúa một cách nhiệt thành và đầy hy sinh quên mình.

Lạy Chúa, xin cũng dạy chúng con biết yêu Chúa và yêu mọi người như Chúa yêu thương chúng con. Xin giúp chúng con có một trái tim như Chúa để chúng con luôn đối xử tốt với nhau trong thân ái, trong yêu thương và kính trọng. Xin được nhờ những dấu chứng yêu thương đó mà chúng con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen

Thứ bảy sau Chúa nhật 7 phục sinh

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,

Chúa hằng mong muốn chúng con trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Chúa muốn chúng con được ở lại trong tình yêu của Chúa. Chúa muốn hoà nhịp vào cuộc đời chúng con để chia sẻ những lắng lo của kiếp người. Chúng con xin dâng cuộc đời cho Chúa. Chúng con xin tín thác cuộc đời cho lòng thương xót Chúa như môn đệ Gioan tựa sát bên lòng Chúa.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu, môn đệ Gioan thật diễm phúc được tựa sát bên lòng Chúa để nghe nhịp đập yêu thương của Chúa. Ông đã cảm nghiệm sâu sắc tình yêu của Chúa. Ông hoàn toàn trung thành với Chúa. Khi gian nan. Khi đấu đối với sự dữ, Gioan vẫn trung kiên, vẫn theo Chúa cho đến cùng. Xin giúp chúng con được cảm nghiệm tình yêu Chúa dành cho chúng con như Gioan đã cảm nghiệm. Xin giúp chúng con biết sống kết hợp với Chúa một cách mật thiết, khăng khít để chúng con chỉ còn biết sống cho Chúa mà thôi!

Lạy Chúa, giữa cuộc đời đầy sóng gió nguy nan xin cho chúng con luôn trung thành với Chúa. Giữa cuộc đời đầy thăng trầm nổi trôi, xin cho chúng con biết tín thác vào Chúa. Xin giúp chúng con biết tựa sát cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa để Chúa luôn là thuẫn đỡ, là thành luỹ che chở cuộc đời chúng con.Amen
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một tân chức câm điếc được phong chức Linh Mục tại Boston
Nguyễn Long Thao
06:28 24/05/2009
BOSTON 23/05/09. - Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Giá của Tổng Giáo Phận Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’Malley đã truyền chức Linh Mục cho sáu tân chức trong đó có một vị bi câm điếc và một người Việt Nam

LM Shawn Carey đứng hàng thứ 5 gần cuối hàng
Các tân chức được thụ phong hôm nay là các tân Linh Mục: Israel Rodriguez, Huy Nguyễn, Sean Maher, David Gunter, Shawn Carey, và Frank Camp.

Đặc biệt tân Linh Mục Shawn Carey là người bị câm điếc bẩm sinh và là vị Linh Mục câm điếc thứ 11 của toàn Giáo Hội Hoa Kỳ

Giáo Hội Hoa Kỳ đã dành ra ngân khoản đặc biệt để huấn luyện các chủng sinh câm điếc. Các Linh Mục câm điếc sẽ lo việc mục vụ cho các giáo dân câm điếc. Trong thánh lễ truyền chức hôm nay cả một khu Vương Cung Thánh Đường Boston đã được ban tổ chức dành riêng cho cộng đồng người câm điếc đến dự lễ phong chức cho cha Shawn Carey.

Qua người thông dịch, cha Shawn Carey đã ra dấu hiệu bằng tay nói với toàn thể cộng đồng: “Thật là một phép lạ. Là một chủng sinh câm điếc, là người câm điếc tôi đã trải qua cuộc hành trình dài để tiến tới chức Linh Mục và tôi không thể ngờ được cuộc hành trình ấy mau như vậy”.

Trong thánh lễ này cũng có một thầy Việt Nam là thầy Nguyễn Huy được phong chức Linh Mục. Đông đảo thân nhân của cha Nguyễn Huy có mặt trong thánh lễ. Do vậy ban tổ chức đã mời một ca đoàn Việt Nam trình bày một bản thánh ca Việt Nam trong buổi lễ mà hầu hết quan khách là người Hoa Kỳ.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tổ ấm Huynh Đệ với 75 em chậm phát triển tại Phan thiết
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
17:15 24/05/2009
PHAN THIẾT - Sáng 24 tháng 5, tôi dự buổi lễ tổng kết năm học của Tổ ấm huynh đệ tại Toà Giám mục Phan thiết. Buổi lễ thật ấn tượng và chan chứa niềm vui trong nước mắt vì cảm động. Đức cha Phaolô, Đức Cha Nicolas, Đức Ông JB và cha Quản lý cùng hiện diện để chia vui với các phụ huynh và các em kém may mắn.



Đông đảo cha mẹ các em đến dự lễ tổng kết và vui mừng lắng nghe Bác sĩ Thạc sĩ Lan Hải thuyết trình đề tài “Giáo dục giới tính cho trẻ khuyết tật và 3 phương pháp dạy trẻ”, Bác sĩ Bùi Duy Luật, đang làm việc tại bệnh viện Chợ Rẫy thuyết trình đề tài “ Chăm sóc trẻ khuyết tật và các sai lầm thường gặp”. Hai Bác sĩ trình bày hấp hẫn lôi cuốn, minh hoạ bằng nhiều hình ảnh và câu chuyện thực tế, sát sườn với cuộc sống của các em, đúc kết những kinh nghiệm quý báu và những nghiên cứu y khoa, giúp nhiều kỹ năng cho các phụ huynh để chăm sóc con cái tốt hơn.

Đức cha Phaolô cho biết hiện nay trong giáo phận có những Tổ ấm đã quy tụ được 250 em thiểu năng khuyết tật do các Nữ tu dòng MTG nha trang, MTG Phan thiết điều hành. Ngài nói rằng việc phục vụ con người là phục vụ Thiên Chúa. Giáo hội luôn quý trọng con người cho dù người đó ở đang ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Các thai nhi trong lòng mẹ, những người nghèo, những người tàn tật đều là con cái của Thiên Chúa. Họ cần đựơc quan tâm, được yêu thương, được nâng đỡ nhiều hơn vì họ đã kém may mắn rồi. Chăm sóc những người bé nhỏ là chăm sóc chính Chúa vậy. Chúa Giêsu đã dạy: được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích chi. Giáo hội rất trân trọng con người. Giáo phận muốn mở thêm nhiều cơ sở để các Nữ tu chăm lo cho nhiều trẻ em bất hạnh. Mong ước nhiều người cộng tác để cùng nhau thực thi đức ái Kitô giáo.

Đức cha già Nicolas với giọng nói yếu ớt làm mọi người xúc động. Tôi thường thăm các em, tôi hỏi các con có làm toán được không? Các em đáp: thưa được. Vậy một cộng một bằng mấy? Các em đáp: thưa bằng hai. Các em biết cộng trừ nhân chia. Tôi vui lắm. Các phụ huynh cũng vui lắm. Tôi chia vui với anh chị em và các em. Tôi chúc mọi người sức khoẻ và vui trong Chúa Phục Sinh. Đức cha Nicolas còn ở lại xem các em diễn văn nghệ.

Với 8 tiết mục bao gồm các thể loại vũ khúc, múa phụ hoạ, tiểu phẩm, thể dục nhịp điệu, 75 diễn viên khuyết tật đã làm mọi người cười vui, chan hoà nước mắt rưng rưng niềm xúc động. Nhìn các em hạnh phúc vui tươi, khôn lanh hơn một chút, tôi thấy Tổ ấm là một gia đình. Các Nữ tu như những mẹ hiền chăm sóc đàn con khuyết tật, như những cô giáo tận tuỵ dạy dỗ học sinh bất hạnh, như những bảo mẫu nuôi dưỡng đàn con với cả tấm lòng yêu thương.

Tổ ấm huynh đệ được Đức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi thành lập ngày 13.8.2005. Cơ sở đặt tại khuôn viên Toà Giám Mục. Các Nữ tu Mến Thánh Giá Nha trang điều hành. Tổ ấm quy tụ 75 em học sinh thiểu năng, chia ra các lớp học, mỗi lớp có chương trình học riêng và không phân biệt lứa tuổi. Một trường học thật đặc biệt gồm 6 lớp trong đó có 10 em bệnh tự kỷ, 2 em bị nhiễm chất độc da cam, 20 em chậm phát triển trí tuệ, 35 em bị hội chứng Down, số còn lại bị bại não. Nhà trường được 11 cô giáo là Nữ tu dạy dỗ chăm sóc tận tình chu đáo.

Tại Thành phố Phan thiết có nhiều trẻ em chậm phát triển và khuyết tật. Đức cha Nicolas đã thương và quy tụ thành trường lớp. Ngài dành mấy dãy nhà của Toà Giám Mục để cho các em học hành. Trái tim vị mục tử khả kính hoà nhịp đập nơi những trẻ em không may mắn. Ngài muốn mở rộng thêm cơ sở để đón tiếp thêm nhiều em nữa. Tuổi cao sức yếu nhưng trái tim yêu thương của ngài luôn mãi trẻ trung thổn thức theo nhịp đập của những người nghèo.

Giữa cuộc đời hôm nay, Tình Yêu Giêsu thể hiện nơi bóng dáng các Nữ tu đang chăm sóc các trẻ em bất hạnh. Đem yêu thương đến với các tâm hồn đau khổ, đem niềm tin và hy vọng đến những ai thất vọng chán chường, đem hạnh phúc an vui đến cho những ai bơ vơ lạc lõng. Sống đạo là sống yêu thương phục vụ. Sống đạo là đi theo con đường Chúa Giêsu đã đi, sống như Chúa đã sống. Phục vụ các trẻ kém may mắn đòi hỏi một tấm lòng “chịu thương chịu khó”. Có một số cán bộ nhà nước khi đến thăm Tổ ấm đã tâm sự rằng: chúng tôi có tiền, có cơ sở vật chất, nhưng chúng tôi không có tâm hồn như các Nữ tu. Đúng như vậy, tâm hồn các Nữ tu luôn quãng đại trong đời sống hiến dâng. Các Nữ tu thực thi lời dạy của Thầy Chí Thánh: Khi các con làm cho những người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta vậy.

Chia tay Tổ ấm huynh đệ, mọi người ước mong các ân nhân xa gần quãng đại trợ giúp đỡ để những công việc nhân ái của các Nữ tu góp thêm tình yêu Giêsu cho cuộc đời hôm nay.

Quý vị có thể liên lạc với Tổ ấm qua địa chỉ:
Sr Maria Goretti Hoàng Thị Liên
316/3a Trần Hưng Đạo – Phan thiết.
ĐT: 0623.815791.
 
Thư chung của Đức TGM Hà Nội về Tháng Thánh Tâm và Năm Thánh Linh Mục
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
17:22 24/05/2009
Thư chung của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Tháng Sáu năm nay thật đặc biệt. Ngoài việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đức Thánh Cha còn mở Năm Thánh Linh Mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của thánh Gioan Maria Vianê. Trong tháng Thánh Tâm, Giáo hội mời gọi ta hãy siêng năng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu chỉ tay vào Trái Tim có vòng gai và ngọn lửa bốc cháy là một lời mời gọi của Tình Yêu Thương. Ngày 19-06-2009, lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu năm nay, Giáo hội sẽ khai mạc Năm Thánh Linh Mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày cha thánh Gioan Maria Vianê qua đời. Việc cử hành này trước hết nói lên tầm quan trọng của các linh mục trong việc rao giảng Tin mừng. Đồng thời nêu cao tấm gương linh mục thánh thiện của cha thánh Gioan Maria Vianê. Và mời gọi các linh mục hãy noi gương cha thánh tìm về Thánh Tâm Chúa như cội nguồn, như đích điểm, như trường đào tạo của đời linh mục.

Thư chung của Đức Tổng giám mục Giuse
Gửi cộng đoàn Dân Chúa Tổng giáo phận Hà nội
Nhân dịp tháng Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2009

Hà nội ngày 18 tháng 05 năm 2009

Anh chị em thân mến,

Tháng Sáu năm nay thật đặc biệt. Ngoài việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, Đức Thánh Cha còn mở Năm Thánh Linh Mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của thánh Gioan Maria Vianê.

THÁNG THÁNH TÂM

Trong tháng Thánh Tâm, Giáo hội mời gọi ta hãy siêng năng tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Hình ảnh Chúa Giêsu chỉ tay vào Trái Tim có vòng gai và ngọn lửa bốc cháy là một lời mời gọi của Tình Yêu Thương.

Chúa mời gọi ta chiêm ngắm Tình Yêu Thương của Chúa. Trái Tim thường được coi là trung tâm phát xuất tình yêu. Chúa cũng có một trái tim như ta. Trái Tim Người là ngọn lửa tình yêu bừng bừng cháy đêm ngày. Vì Người mãi thao thức băn khoăn cho chúng ta là đoàn chiên yêu quí của Người. Trong Kinh Thánh ta đã thấy người “chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đám đông tất tưởi bơ vơ như đàn chiên không người chăm sóc (Mc 5, 34). Người “khóc” thương Lazarô (Ga 11, 35). Trên thánh giá, Người thương tha thứ cho anh trộm lành (x. Lc 23, 39-43) và thương cầu nguyện xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người (x. Lc 23, 34). Tình Yêu Thương của Chúa được diễn tả chi tiết qua hình ảnh người Mục Tử nhân lành. Người Mục Tử nhân lành biết từng con chiên nên có thể gọi tên từng con một. Người Mục Tử chăm sóc cho từng con chiên. Con nào bị thương tích sẽ được băng bó cẩn thận. Con nào đau yếu sẽ được chăm sóc. Tất cả đoàn chiên sẽ được hướng dẫn đến đồng cỏ non xanh có dòng suối mát trong (x. Ed 34, 14-16). Người đi tìm con chiên lạc. Và khi tìm được thì vác nó lên vai đem về mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 4-7). Nhất là khi sói dữ đến tấn công người Mục Tử nhân lành sẽ liều mình đương đầu với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên (x. Ga 10, 11-15). Chúa Giêsu là người Mục Tử Nhân Lành. Người biết rõ ta vì Người đã dựng nên ta. Người thông cảm với hoàn cảnh khốn khổ của ta. Người từ trời xuống thể để đi tìm chúng ta là những con chiên lạc. Người dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Người và bằng Mình Máu Thánh Người. Người yêu thương chúng ta nên đã liều mạng sống hi sinh chịu chết thay cho chúng ta.

Chúa mời gọi ta ở lại trong Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa không chỉ mời gọi ta chiêm ngắm mà còn mời gọi ta đến với Chúa để được hưởng tình yêu thương của Chúa. Khi hai môn đệ Gioan và Anrê muốn đến nơi Chúa ở, Chúa đã mời gọi các ngài: “Hãy đến mà xem”. Xem để thấy tình yêu thương của Chúa và nhất là để hưởng nếm Tình Yêu Thương đó. Hai môn đệ đã ở với Chúa một buổi chiều. Buổi chiều đó đã để lại trong lòng các ông những kỷ niệm êm đềm không bao giờ quên được. Hơn nửa thế kỷ sau, thánh Gioan mới ghi lại kỷ niệm ngày đầu tiên gặp gỡ với Chúa, thế mà Ngài vẫn nhớ như in từng lời nói, từng cử chỉ và tất cả những gì đã diễn ra buổi chiều hôm ấy. Ngài còn nhớ cả thời gian gặp Chúa vào khoảng 5 giờ chiều (x. Ga 1, 35-39). Thật là một kỷ niệm ngọt ngào. Quả vậy Chúa mời gọi ta đến để hưởng Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa muốn ấp ủ ta như gà mẹ ấp ủ gà con (x. Mt 23, 37). Chúa mời ta đến để bổ sức cho ta, để ta có thể gánh nổi những gánh nặng cuộc đời, những gánh nặng bổn phận, những gánh nặng của riêng mình và những gánh nặng của người chung quanh. “Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúa mời gọi ta đến với Chúa để được thỏa lòng khao khát, để lấp đầy những khát vọng thâm sâu của ta. “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống ! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống”(Ga 7, 37-38). Chúa mời gọi ta hãy ở lại trong Tình Yêu Thương của Chúa, để ta được hưởng Tình Yêu Thương của Chúa, để chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn, để cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả dồi dào và những kết quả đó sẽ tồn tại mãi mãi (x. Ga 15, 9-17).

Chúa mời gọi ta đáp đền Tình Yêu Thương của Chúa. Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đền đáp tình yêu. Chúa tha thiết yêu ta và mong ta đền đáp. Ta đền đáp trước hết bằng tuân giữ điều răn của Chúa như Lời Chúa dậy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(Ga 14, 15). Ngoài ra Chúa còn mời gọi chúng ta hãy tích cực đáp lại tình yêu của Chúa bằng việc sùng kính Thánh Tâm Chúa. Theo thánh nữ Magarita, Chúa mong muốn ta hãy sùng kính Thánh Tâm Chúa bằng việc thánh hóa ngày Thứ Sáu, đặc biệt là ngày Thứ Sáu đầu tháng. Mỗi ngày thứ Sáu đầu tháng ta hãy hi sinh hãm mình, xưng tội chịu lễ, đi đàng Thánh Giá, làm giờ thánh Đền Tạ Thánh Tâm Chúa. Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa đang là nguồn ơn lành đem lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho Giáo hội và cho các linh hồn. Từ năm 2000 Đức Cố Giáo hoàng Gioan-Phaolô đệ nhị còn quảng bá việc tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót. Lòng Chúa Thương Xót được Chúa mặc khải cho thánh nữ Faustina. Tuy mới khởi sự được 10 năm nhưng việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ. Vì việc sùng kính này xem ra đáp ứng được những nhu cầu tâm linh của thế giới hôm nay.

NĂM THÁNH LINH MỤC

Ngày 19-06-2009, lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu năm nay, Giáo hội sẽ khai mạc Năm Thánh Linh Mục nhân kỷ niệm 150 năm ngày cha thánh Gioan Maria Vianê qua đời. Việc cử hành này trước hết nói lên tầm quan trọng của các linh mục trong việc rao giảng Tin mừng. Đồng thời nêu cao tấm gương linh mục thánh thiện của cha thánh Gioan Maria Vianê. Và mời gọi các linh mục hãy noi gương cha thánh tìm về Thánh Tâm Chúa như cội nguồn, như đích điểm, như trường đào tạo của đời linh mục.

Thánh Tâm Chúa là cội nguồn của chức linh mục. Chức linh mục là chức vụ cao quí vì được khai sinh nơi Tình Yêu Thương của Chúa. Chúa yêu thương nhân loại và mong muốn nhân loại được tiếp tục yêu thương qua các linh mục. Chúa yêu thương các linh mục nên đã sinh ra các linh mục từ Trái Tim rất yêu thương của Chúa, để các linh mục tiếp tục là sự hiện diện yêu thương của Chúa giữa trần gian. Thật cao quí và ngọt ngào thay. Linh mục là sáng kiến đầy yêu thương của Chúa và là quà tặng của Tình Yêu Thương của Chúa cho nhân loại.

Thánh Tâm Chúa là đích điểm của chức linh mục. Được sinh ra từ Trái Tim Chúa, linh mục phải trở về với Trái Tim Chúa. Được sinh ra để đem Tình Yêu Thương của Chúa đến cho mọi người, linh mục phải đem mọi người về với Tình Yêu Thương của Chúa. Linh mục là người được hiến dâng cho Tình Yêu Thương của Chúa. Nên mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của linh mục đều nhằm bày tỏ, phát triển và giúp mọi người đạt tới Tình Yêu Thương của Chúa.

Thánh Tâm Chúa là trường đào tạo linh mục. Trong lò lửa mến hằng cháy của Thánh Tâm Chúa, linh mục được thanh luyện khỏi mọi tội lỗi, khỏi mọi ích kỷ, khỏi mọi toan tính nhỏ mọn. Thánh Tâm Chúa sẽ là trường dạy về Tình Yêu Thương, sự hiền lành khiêm nhường, sự khoan dung tha thứ, sự hi sinh quên mình, sự quảng đại phục vụ. Đó chính là những môn học rất cần thiết cho cuộc đời linh mục.

Nếu Giáo hội mời gọi mọi tín hữu hãy tôn sùng đền tạ Thánh Tâm Chúa, Giáo hội mong muốn các linh mục hãy đi tiên phong trong công việc này. Vì đó chính là nguồn sức sống của các linh mục.

Trong Năm Thánh Linh Mục, anh chị em hãy hiệp ý với các linh mục tạ ơn Tình Yêu Thương của Chúa dành cho chúng ta và cách riêng dành cho các linh mục. Anh chị em hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên dấu chỉ của Tình Yêu Thương của Chúa giữa lòng thế giới. Anh chị em cũng hãy cầu nguyện và khuyến khích cho nhiều bạn trẻ hiến dâng đời sống trong nhiệm vụ linh mục. Thế giới hôm nay đang rất cần các linh mục, vì thế giới hôm nay cần Tình Yêu Thương của Chúa, cần sự hiện diện của Tình Yêu Thương, cần bằng chứng của Tình Yêu Thương của Chúa.

Tôi tha thiết mời gọi anh chị em, cách riêng các linh mục hãy đáp lại lời mời gọi của Thánh Tâm Chúa. Hãy theo lời thánh nữ Magarita tôn sùng đền tạ Thánh Tâm Chúa, thánh hóa ngày Thứ Sáu Đầu Tháng. Hãy đến học nơi ngôi trường Thánh Tâm Chúa. Và nhất là hãy là những chứng nhân của Tình Yêu Thương của Chúa giữa trần gian.

Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu ban tràn đầy ơn Tình Yêu xuống trên từng anh chị em, từng gia đình, từng giáo xứ. Xin cho Nước Tình Yêu của Chúa hiển trị giữa chúng ta.

Thân ái,

Tổng giám mục Hà nội
 
Nhìn lại Sứ mạng Truyền giáo trong 50 năm qua và hướng đến tương lai
LM Antôn Nguyễn Ngọc Sơn
17:40 24/05/2009
NHÌN LẠI SỨ MẠNG
TRUYỀN GIÁO TRONG 50 NĂM QUA
VÀ HƯỚNG ĐẾN TƯƠNG LAI


Tháng 5-2009

Lời ngỏ

Bạn đọc thân mến,

Xin gửi tới bạn đọc tập tài liệu Nhìn lại sứ mạng truyền giáo trong 50 năm qua và hướng đến tương lai như món quà nhỏ để gợi ý suy tư nhân dịp Năm Thánh kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam.

Đây chỉ là 3 bài viết về chủ đề truyền giáo được thu gom lại hơn là một bài tổng hợp có bố cục chặt chẽ. Chúng tôi bắt đầu từ việc suy tư về hiệu quả truyền giáo tại Việt Nam trong những năm gần đây để dẫn tới việc xây dựng một nền văn hoá nhân bản tâm linh mà các bậc tiền bối ở Việt Nam cũng như ở Hàn Quốc đã thể hiện trong đời sống của mình. Từ đó giới thiệu hình ảnh người tông đồ trong thời đại mới chính là người kể lại câu chuyện Giêsu cho đồng bào cũng như mọi người trong thế giới hôm nay. Tập tài liệu có phần Phụ lục gồm 28 bảng biểu với những số liệu thống kê có thể giúp các bạn tìm thêm nhiều điều khi muốn nghiên cứu về Giáo hội Công giáo Việt Nam.

Nhân dịp này, chúng tôi xin hết lòng cám ơn các tổ chức và cá nhân đã tìm giúp chúng tôi các số liệu và thực hiện tập tài liệu này. Chúng tôi đặc biệt ghi ơn Nhà Xuất Bản Our Sunday Visitor, Đức Ông P.B. Trần Văn Khả.

Chúng tôi xin trao tặng tập tài liệu này cho Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Chủ tịch Uỷ ban Loan báo Tin Mừng, để ngài toàn quyền sử dụng cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.

Chúng tôi rất mong ước quý độc giả góp thêm ý kiến để tập tài liệu có thể hữu ích cho nhiều người.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.


HIỆU QUẢ TRUYỀN GIÁO Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
- NGHI VẤN VÀ GIẢI THÍCH


NHẬP ĐỀ

Việc truyền giáo hay loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo Hội Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4, 16), dựa trên sứ mạng mà Chúa Cha đã giao cho Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Vì vậy, qua mỗi thời kỳ lịch sử, chúng ta có thể nói rằng Giáo Hội thế nào thì truyền giáo thế ấy. Truyền giáo thế nào thì kết quả như vậy. Giáo hội Việt Nam cũng như nhiều giáo hội địa phương khác không nằm ngoài định luật này.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, chúng ta thử nhìn lại nỗ lực truyền giáo trong những năm qua để rút ra bài học kinh nghiệm cũng như để hoạch định những đường hướng truyền giáo cho tương lai.

Muốn hiểu được sâu hơn hiện trạng sống đạo và truyền đạo của người tín hữu Việt Nam hiện nay chúng ta phải nhìn lại cả một bối cảnh truyền giáo rộng lớn của Giáo Hội toàn cầu và của Giáo hội Việt Nam, vì kết quả của công cuộc loan báo Tin Mừng này là công lao gieo vãi và vun xới cho cánh đồng truyền giáo của biết bao thế hệ đi trước. Tuy nhiên, chúng tôi muốn dành phần nghiên cứu này cho những loạt bài nghiên cứu sâu hơn.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ muốn bàn đến hiệu quả truyền giáo ở Việt Nam trong vài chục năm gần đây với nghi vấn rằng hiệu quả ấy chưa cao như lòng mong ước và tìm cách giải đáp nghi vấn này.

Chúng tôi xin trình bày đề tài này theo 4 phần:

- Dựa vào đâu để nói việc truyền giáo tại Việt Nam có hiệu quả chưa cao?
- Nhận định về tình trạng truyền giáo ở Việt Nam.
- Đi tìm một vài nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
- Những gợi ý để đổi mới công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.

1. DỰA VÀO ĐÂU ĐỂ NÓI VIỆC TRUYỀN GIÁO TẠI VIỆT NAM CÓ HIỆU QUẢ CHƯA CAO?

1.1. Lời cảm thông

Khi nói việc truyền giáo tại Việt Nam trong vài chục năm gần đây đạt hiệu quả chưa cao, chúng tôi có thể đã làm buồn lòng một số người và dường như chối bỏ công sức của bao vị tông đồ gồm cả giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân đang làm việc miệt mài trên cánh đồng truyền giáo.

Nhiều vị đã lập luận rằng: con số mấy chục ngàn người lớn trở lại Công giáo mỗi năm ở Việt Nam lại không phải là thành quả đáng khích lệ hay sao? Nhất là khi so sánh với vài nước ở châu Âu như Pháp, Đức, Ý mỗi năm chỉ có một vài ngàn! Số người tín hữu Việt Nam tăng từ 2 triệu vào năm 1960 đến 5,2 triệu vào năm 2000 và hơn 6 triệu vào năm 2008 (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr.19) lại không phải là kết quả lớn lao sao!? Những nghi lễ phụng tự trang nghiêm, đông đảo tín hữu tham dự mỗi Chủ Nhật lại không biểu lộ nét sống đạo mạnh mẽ của người Công giáo Việt Nam đó sao!? Nhất là khi nhiều nhà thờ ở các nước Âu Mỹ trống vắng đến lạnh lùng!

Quả thực, chúng tôi luôn trân trọng mọi hoạt động tông đồ và hiểu rằng giá trị thực sự của hoạt động loan báo Tin Mừng nằm ở sự lượng định hay phán quyết của Thiên Chúa chứ không phải của con người. Dù cả một đời không rửa tội được một ai, nhưng nhà truyền giáo vẫn được đánh giá rất cao vì sự hiện diện tích cực, hiền lành, nhân ái của người ấy trong một cộng đồng xa lạ, vì những nỗ lực rao giảng Tin Mừng của người ấy đã thấm nhập vào xã hội, vào nền văn hoá của dân tộc… và cuối cùng chỉ có Thiên Chúa mới nhìn thấu hết những gì nhà truyền giáo ấy thực hiện và thưởng công cho người đó.

1.2. Dựa vào thực trạng của Giáo Hội qua số liệu thống kê

Nhận định của chúng tôi dựa vào tình trạng thực tế của Giáo hội Việt Nam được tổng kết trong các báo cáo hằng năm của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi sang Toà Thánh Vatican hay công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như Bản tin Hiệp Thông, Đài Vatican, Đài Veritas Asia (Chân lý Á Châu)…

Chúng tôi đã thu tích hàng chục ngàn số liệu về Giáo Hội toàn cầu, Giáo hội các châu, Giáo hội Việt Nam trong mấy chục năm qua và tổng kết trong 28 bảng thống kê ở phần Phụ lục cho loạt bài nghiên cứu này về công cuộc Truyền giáo. Vì thế, chúng tôi mời bạn đọc theo dõi các con số trên các bảng tổng kết và biểu đồ về tình trạng truyền giáo của Giáo Hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam để hiểu hơn về việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.

Những con số này chắc chắn không thể nào nói lên được thực trạng của công cuộc loan báo Tin Mừng vì đây vừa là một hoạt động mang tính xã hội tác động lên con người (qua các chỉ số người lớn trở lại đạo, tham dự các bí tích, hoạt động xã hội…), vừa mang tính siêu nhiên vì tác động lên tinh thần con người, lên văn hoá dân tộc và cả nền văn minh nhân loại mà không ai có thể đo lường và thống kê được.

Tuy nhiên, dựa vào những số liệu thống kê, chúng ta có thể nhận ra một số dấu hiệu về công cuộc loan báo Tin Mừng của một cộng đồng hay của một giáo hội địa phương. Dấu hiệu này có giá trị tích cực hay tiêu cực là tuỳ theo người nhận định nó dựa trên các tiêu chuẩn nào. Chúng giống như ngọn đèn vàng trong tín hiệu giao thông cảnh báo cho chúng ta chuẩn bị dừng lại hay cẩn thận trước khi tiến tới.

1.3. Nguồn dữ liệu

Các số liệu này chúng tôi thu thập trong các nguồn chính sau đây:

- Tổng cục Thống kê Việt Nam, Niên giám Thống kê, từ năm 1993-2007, NXB Thống Kê, Hà Nội, in và phát hành.
- Các sách Niên giám Thống kê từ năm 1997 đến 2007 do Cục Thống kê TP. HCM in và phát hành.
- Niên giám Giáo hội Công giáo Việt Nam 2004, 2005 do Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam in và phát hành.
- Việt Nam Công giáo Niên giám 1964 do tủ sách Sacerdos thực hiện, Nhà in Nguyễn Bá Tòng, 12-1963.
- Catholic Almanac hằng năm, từ năm 1999 đến 2009, của NXB Our Sunday Visitors, Huntington, Indiana, Hoa Kỳ, phát hành.
- Annuario Pontificio của Văn phòng Thống kê Toà Thánh Vatican.
- Bản tin Hiệp Thông của Văn phòng Thư ký - Uỷ ban Văn hoá của Hội đồng Giám mục Việt Nam, từ năm 2000-2009.
- Và nhiều nguồn truyền thông khác.

1.4. Vài điểm cần lưu ý về số liệu

Nhiều số liệu về Giáo hội Việt Nam cần được điều chỉnh vì có sự khác biệt hay sai sót do các nguyên nhân sau: do hoàn cảnh chiến tranh, do ngăn cách hai miền Nam Bắc suốt từ năm 1954-1975; hoặc ít có tổ chức trong nước quan tâm đến các số liệu về tôn giáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam (từ năm 1975-1990), trừ thống kê của Nhà Nước trong cuộc Tổng Điều tra năm 1999; do ranh giới hành chính và tôn giáo không trùng khớp nhau (nhiều giáo phận bị chồng chéo lên nhau, có giáo phận nằm trong 3-4 tỉnh, hoặc có khi một tỉnh thuộc về 2-3 giáo phận khác nhau nên khi làm thống kê nhiều lúc diện tích của Giáo hội Việt Nam lại lớn hơn vài ngàn kilômet vuông so với diện tích nước Việt Nam, hoặc số dân mà các giám mục quản lý cũng tăng hơn so với dân số Việt Nam chừng 3-4 triệu); do những biến động xã hội như cuộc di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 (vì thế số liệu ở các giáo phận bị xáo trộn nhiều); do di tản từ Việt Nam sang nhiều nước khác từ năm 1975-1985; do di dân vì tình hình kinh tế xã hội khó khăn từ năm 1990-2008.

Chúng tôi đã trình bày những lý do đó trong cuốn Người Mục tử Cộng đồng Hướng về Tương lai. Sách này trình bày rất nhiều những số liệu và chứng minh nhiều số liệu không ổn định như có giáo phận ở miền Bắc chỉ tăng có 2 giáo dân trong suốt 13 năm! (x. Nguyễn Ngọc Sơn, Người Mục tử Cộng đồng Hướng về Tương lai, NXB TP.HCM, 1996, tr. 51-59).

Vì thế, những số liệu về diện tích, dân số Việt Nam đăng trong bảng tổng kết hằng năm của HĐGMVN đã được chúng tôi thay thế bằng số liệu của Cục Thống kê Nhà Nước cho chính xác hơn.

Những số liệu về Giáo hội Việt Nam cũng như của các giáo phận ở Việt Nam được báo cáo về Toà Thánh Vatican và được công bố khá chậm, trung bình phải 2-3 năm sau. Chúng tôi đã có dịp so sánh các số liệu với nhau. Những số liệu này mất 2 năm mới xuất hiện trên Annuario Pontificio của Toà Thánh Vatican rồi sau đó mất thêm 1 năm mới được trích lại trên cuốn Catholic Almanac. Thí dụ: Dân số toàn cầu hiện nay đã vượt quá 6.750 tỷ nhưng trong Catholic Almanac 2009 mới chỉ có 6.542.824.000 (tr. 335), và số tín hữu Việt Nam ở đây là 5.990.000 (tr. 333). Đó là các số liệu Giáo hội Việt Nam báo cáo về Toà Thánh vào năm 2006. Vì thế, khi xem các số liệu của Giáo Hội toàn cầu ta nên hiểu đó là số liệu của 2-3 năm về trước. Thí dụ: Thống kê năm 1963 là số liệu của năm 1960. Còn các số liệu của Giáo hội Việt Nam trong các bảng từ số 13-27 được tính đúng năm theo bảng thống kê.

2. NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH TRẠNG TRUYỀN GIÁO Ở VIỆT NAM

2.1. Tình trạng truyền giáo của Giáo Hội toàn cầu

Trước khi tìm hiểu tình trạng truyền giáo ở Việt Nam, chúng tôi muốn nói sơ qua về tình trạng truyền giáo của Giáo Hội toàn cầu. Ở đây chúng tôi chỉ đưa ra vài con số để làm bối cảnh cho công cuộc loan báo Tin Mừng ở Việt Nam.

Trong mấy chục năm qua, chúng tôi thấy số người Công giáo tăng từ 558.220.654 người (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr. 139) trên tổng số 3.068.275.975 vào năm 1960 lên đến 1.130.750.000 người trên tổng số 6.542.824.000 người của dân số thế giới vào năm 2006 (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Toàn cầu từ 1962-2009, Bảng 1, tr. 1).

Số tăng này phần lớn là tăng tự nhiên theo số trẻ sinh ra. Ngoài ra, mỗi năm có khoảng từ 1-2 triệu người lớn được rửa tội. Tuy nhiên, nếu tính theo tỷ lệ giữa số dân Công giáo và dân số thế giới thì tỷ lệ này giảm từ 18,2% vào năm 1960 còn 17,99% vào năm 1975, và còn 17,2% vào năm 2006 (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Toàn cầu từ 1962-2009, Bảng 1, tr. 1).

Nếu so sánh với dân số Hồi giáo vào năm 1960 có 433.840.000 người trên tổng số 3.068.275.975, chiếm 14,13% dân số thế giới (x. Việt Nam Công giáo Niên giám 1964, tr. 140) thì vào năm 2006 đã vượt qua Công giáo và chiếm 19,2% dân số. Có người giải thích rằng người Hồi giáo sinh nhiều con nên dân số tăng nhanh.

Số người lớn được rửa tội trung bình cả thế giới là 2,5 triệu người/năm, trong khoảng 10 năm gần đây, trong khi Giáo Hội toàn cầu có hơn 1.000 giám mục, 400.000 linh mục triều và dòng, hơn 800.000 tu sĩ nam nữ, 200.000 tông đồ giáo dân, gần 3 triệu giáo lý viên (x. Thống kê Giáo hội Toàn cầu từ 1962-2009, Bảng 1, tr. 1). Như thế, trung bình cứ 2 người Công giáo ưu tuyển mới cuốn hút được 1 người theo đạo/năm.

Nói như vậy để chúng ta thấy Giáo Hội toàn cầu trong suốt 50 năm qua không tăng thêm mà còn giảm bớt 1% so với dân số toàn thế giới. Điều này chứng tỏ việc truyền giáo chưa có hiệu quả về mặt số lượng. Còn chất lượng sống đạo có tốt hơn không lại là chuyện khác. Chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích sâu hơn về tình trạng này trong một bài khác.

2.2. Tình trạng truyền giáo của Giáo hội Việt Nam

Về tình trạng truyền giáo của Giáo hội Việt Nam, chúng tôi xin tóm tắt qua các số liệu sau đây:

* Từ năm 1960-2008, tỷ lệ dân số Công giáo Việt Nam so với dân số cả nước không tăng lên được 1%.
- Năm 1960: tổng số dân Việt Nam là 30.172.000 người. Công giáo là 2.094.540, chiếm tỷ lệ khoảng 6,93%.
- Năm 2000: tổng số dân Việt Nam là 77.635.400 người. Công giáo là 5.234.303, chiếm tỷ lệ 6,7% (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr. 19).
- Năm 2008: tổng số dân Việt Nam là 86.160.000 người. Công giáo là 6.187.486, chiếm tỷ lệ 7,18% (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr. 19).

Nếu so sánh tỷ lệ dân số Công giáo của các năm 1933 (tỷ lệ 7,2%), năm 1939 (tỷ lệ 7,5%) với tỷ lệ của các năm gần đây ta sẽ thấy tỷ lệ này đang có nguy cơ giảm (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008, Bảng 12, tr. 19).

* Trong vòng 50 năm qua, số dân Công giáo Việt Nam tăng từ 2 triệu vào năm 1960 lên đến hơn 6 triệu vào năm 2008. Như thế là tăng gấp 3 lần. Nhưng số tăng này hầu như là kết quả tương ứng với số sinh tự nhiên nên chưa thể nói được là truyền giáo có kết quả tốt đẹp. Nếu ta so sánh số trẻ sơ sinh được Rửa Tội hằng năm với số dân Công giáo tăng hằng năm sẽ thấy hai số đó gần như bằng nhau (x. Phụ lục, Tổng kết Nhân sự các Giáo phận từ 2000-2008, Bảng 22, tr. 44).

Tổng số trẻ được Rửa Tội từ 2001-2008 là 873.486 (x. Phụ lục, Tổng kết Tình trạng Bí tích từ năm 2000-2008, Bảng 24, tr. 46). Trong khi số tín hữu tăng từ năm 2001-2008 là: 6.187.486 – 5.324.492 = 862.994 người. Nếu so sánh 2 số đó ta thấy số tín hữu tăng còn thấp hơn số trẻ được Rửa Tội đến 10.492 người (873.486 - 862.994). Vậy thì số người lớn và số trẻ em từ 1-7 tuổi được Rửa Tội biến đi đâu?

* Số người lớn trở lại đạo từ năm 2001-2008 là 283.620 và số trẻ từ 1-7 tuổi được Rửa Tội là 63.256 (x. Phụ lục, Tổng kết Tình trạng Bí tích từ năm 2000-2008, Bảng 24, tr. 46). Nếu tính số tử của người Công giáo là 8%o như số trung bình của toàn quốc tương đương với số trẻ được rửa tội từ 1-7 tuổi trong 8 năm qua thì chúng ta tự hỏi con số người lớn trở lại đạo 283.620 biến đi đâu mà không tìm được lời giải thích. Không lẽ có cả hàng trăm ngàn người bỏ đạo từ năm 2001-2008?!

* Trong vòng 8 năm gần đây (2001-2008), số người trở lại đạo trung bình mỗi năm khoảng 35.000 người (283.620: 8 năm = 35.453 (x. Bảng 24, tr. 46). Nếu quan sát các lớp học giáo lý dự tòng, ta thấy có tới 80-90% người muốn theo đạo là để lập gia đình với người có đạo. Vậy động lực theo đạo thật sự của họ là gì? Họ có thể sống đạo và giữ đạo lâu dài không? Cần phải giúp họ nuôi dưỡng đức tin thế nào để tránh được câu mỉa mai sau đây:

Sấp mình lạy Chúa Ba Ngôi
Tôi lấy được vợ, tôi thôi nhà thờ!


* Một nhận xét khác là số người trở lại đạo không tương xứng với số nhân sự lo việc truyền giáo. Nếu ta tổng cộng số linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên trong cả nước hay trong một giáo phận, ta sẽ thấy kết quả này là khá nhỏ bé. Vậy thì ai là người loan báo Tin Mừng? Các linh mục, tu sĩ có bao giờ suy nghĩ về hiệu quả truyền giáo và thay đổi cách thức truyền giáo không? Giáo dân có tích cực tham gia vào công cuộc này không?

Thí dụ: năm 2008, Giáo hội Việt Nam có 3.541 linh mục, 1.480 chủng sinh, 2.125 chủng sinh dự bị, 1.914 tu sĩ nam, 13.838 tu sĩ nữ, 56.698 giáo lý viên (x. Bảng 21, tr. 41) vậy mà chỉ thu hút được 41.444 người (x. Bảng 24, tr. 46). Đây là số cao nhất trong mấy năm gần đây. Trung bình cứ 2 người tín hữu ưu tuyển mới thu hút được 1 người theo đạo. Đó là chúng ta chưa nói đến cả triệu đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành.

* Nhiều giáo phận có số người lớn trở lại đạo rất thấp:

Thí dụ năm 2008:

• Cả giáo phận Huế chỉ có 106 người lớn trở lại đạo, trong khi tổng số giáo dân là 68.240 người, 131 linh mục, 44 chủng sinh, 86 tu sĩ nam, 916 tu sĩ nữ, 744 giáo lý viên (x. Phụ lục, Bảng Tổng kết các Giáo phận năm 2008, Bảng 21, tr. 41-42).

• Giáo phận Bùi Chu có 735 người lớn trở lại đạo, trong khi có 391.837 tín hữu, 159 linh mục, 54 chủng sinh, 609 tu sĩ nữ, 4.053 giáo lý viên (x. Phụ lục, Bảng Tổng kết các Giáo phận năm 2008, Bảng 21, tr. 41-42).

• Tổng Giáo phận TP.HCM có 662.148 tín hữu, 604 linh mục triều và dòng, 87 chủng sinh, 317 tu sinh, 959 tu sĩ nam, 3.103 tu sĩ nữ (chưa kể 567 tu sĩ thuộc tu hội), 5.528 giáo lý viên. Số người lớn được Rửa Tội cả năm là 7.345 người (x. Phụ lục, Bảng Tổng kết các Giáo phận năm 2008, Bảng 21, tr. 41-42), đông nhất trong 26 giáo phận.

2.3. So sánh hoạt động truyền giáo của vài giáo hội khác

Nếu nhìn vào Giáo hội Tin Lành ở Việt Nam, năm 1999: số tín hữu là 400.000 người (x. Thống kê Quốc gia 1999, tr.133). Năm 2008: con số này đã lên tới 1.500.000 người. Như thế, số tín hữu tăng gần 4 lần trong vòng 10 năm. Đó mới chỉ là vài hệ phái chính, chưa kể các hệ phái khác như Pentecostist (Ngũ Tuần), Chứng nhân Yavê…

Nói đến thành công này, một số người giải thích rằng tại vì anh em Tin Lành có nhiều phương tiện như tiền bạc, thuốc men, phân phối sách Kinh Thánh, dạy Anh ngữ miễn phí… nên có thể giúp đỡ nhiều người và thu hút người khác theo đạo. Chúng ta không biết có phải đó là lý do chính yếu không hay còn những hoạt động tích cực nào khác cần phải tìm hiểu và học hỏi lẫn nhau? Nếu có dịp đến hớt tóc ở góc đường Kỳ Đồng gần Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, TP.HCM, chúng ta sẽ thấy những người thợ vừa hớt tóc vừa giảng đạo, dù rằng chúng ta không muốn nghe nhưng họ vẫn cứ nói. Ở Giáo xứ Chợ Đũi, Q.1, TP.HCM, nhóm Pentecostist mượn hội trường của giáo xứ để mỗi tuần tổ chức buổi họp mặt của nhóm. Nhìn những người tham gia nhóm hát với tất cả niềm hăng say ta mới thấy sức cuốn hút của những ai được Chúa Thánh Thần tác động.

Nếu nhìn vào Giáo hội Hàn Quốc, vào năm 1949, người Công giáo xuất phát cùng với anh em Tin Lành ở mức 1% dân số, đến năm 2006, tổng kết của Hàn Quốc: Công giáo là 9,65% và anh em Tin Lành là 26% (x. Phụ lục, Thống kê Giáo hội Hàn Quốc 1999-2009, Bảng 28, tr. 50). Chúng ta cần học bài học truyền giáo của anh em Hàn Quốc. Khi sang làm việc ở Việt Nam, nhóm Công giáo đã gặp gỡ nhau tại Giáo xứ Vườn Xoài. Họ lo lắng và tích cực truyền giáo không chỉ cho cộng đồng của họ mà còn truyền giáo cho những người Việt Nam, truyền giáo cho những thương gia Hàn Quốc đã sang đây làm việc. Chương trình của Giáo hội Hàn Quốc cách đây nhiều năm là mỗi gia đình Công giáo nhận đỡ đầu cho một gia đình không Công giáo, và họ quyết tâm là trong 5 năm phải tăng gấp đôi số người tín hữu. Họ đã hoàn thành điều này chỉ trong vòng 3 năm! Giáo hội Việt Nam sẽ có chương trình truyền giáo như thế không?

Do đó, chúng ta cần phân tích những nguyên nhân gây nên thiếu hiệu quả trong công cuộc truyền giáo để thấy cần thay đổi thế nào cho công cuộc truyền giáo được kết quả.

3. MỘT VÀI NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG THIẾU HIỆU QUẢ

Tình trạng thực tế về truyền giáo đòi hỏi chúng ta phải quan tâm và đặt vấn đề cho việc truyền giáo của mình: Tại sao Giáo hội Việt Nam với bao nhiêu dòng tu, bao nhiêu hoạt động tích cực trong xã hội, bao nhiêu lễ nghi rất hoành tráng (thí dụ như Đại hội Đức Mẹ La Vang 2008 với khoảng 500.000-600.000 người tham dự) mà vẫn không cuốn hút được người ta theo đạo? Nếu tình trạng kém hiệu quả chỉ xảy ra trong 1-2 năm thì chúng ta còn cho là ngẫu nhiên, nhưng kéo dài đến 50 năm thì đó là vấn đề đáng ta tìm hiểu và phân tích.

Đã có rất nhiều những hội nghị, hội thảo thuộc đủ các cấp, các miền, từ Giáo hội trung ương đến Giáo hội địa phương, được tổ chức để tìm hiểu và nghiên cứu sâu xa vấn đề truyền giáo của Giáo hội Công giáo nhưng kết quả chưa thu được là bao. Nhiều tài liệu hướng dẫn cho các thành phần dân Chúa học hỏi về công cuộc truyền giáo đã được soạn thảo và phân phối cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân ưu tuyển nhưng hình như chúng vẫn chưa tạo nên những kết quả thiết thực.

Chúng tôi nghĩ rằng những nghiên cứu và khám phá từ các giới chuyên môn trong Giáo Hội đã khá phong phú để giúp chúng ta tìm ra những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên. Chúng tôi xin tóm tắt vào mấy điểm sau đây:

3.1. Chưa có một nhận thức đầy đủ về việc loan báo Tin Mừng

Nhận thức này được khoa Truyền giáo học cung cấp cho ta để hiểu rằng người loan báo (chủ thể) cần những điều kiện nào, người được loan báo (đối tượng) cần được quan tâm như thế nào và Tin Mừng (nội dung) được loan báo là loại tin gì và loan báo ra sao (phương thức) (x. Felippe Gomez, S.J., Truyền giáo học, Antôn & Đuốc Sáng xuất bản, 2003).

Dù đã được hướng dẫn bằng những nghiên cứu sâu xa của Công đồng Vatican II với các Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân) năm 1965, Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng) năm 1965, Sắc lệnh Ad Gentes (Đến với Muôn dân) năm 1965, Apostolicam Actuositatem (Hoạt động Tông đồ) năm 1965, cũng như nhiều văn kiện của các Đức Thánh Cha, đặc biệt là ĐTC Phaolô VI với Thông điệp Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) năm 1975, và ĐTC Gioan Phaolô II với Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế) năm 1990, nhất là Thông điệp Hậu Thượng Hội đồng Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại châu Á) năm 1999, nhiều tín hữu Việt Nam hầu như không được học hỏi chúng nên chưa có một nhận thức đầy đủ về việc loan báo Tin Mừng. Đến ngày Khánh nhật Truyền giáo (tháng 10 hằng năm), nhiều người chỉ nhắc đi nhắc lại điệp khúc “Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh” chứ không biết thể hiện bản chất ấy thành những hành động cụ thể như thế nào trong đời sống.

Nhiều tín hữu còn cho rằng loan báo Tin Mừng là công việc chuyên môn của linh mục, tu sĩ hay một số giáo dân chuyên nghiệp đã được học về Thần học, chứ không phải là bổn phận của chính mình. Nhiều vị có trách nhiệm lại cho rằng truyền giáo là mở những lớp giáo lý tân tòng để dạy cho người muốn theo đạo những bài học soạn sẵn hay bắt họ học thuộc lòng một số kinh. Nhiều người tích cực hơn thì mua các sách Kinh Thánh hay Tân Ước phát tặng cho anh em lương dân hay tặng quà cho họ trong những dịp lễ Tết.

Uỷ ban Loan báo Tin Mừng của HĐGMVN hay của các giáo phận trong mấy chục năm qua dường như vẫn còn để ngỏ mảnh đất này cho các nhà thần học tự khám phá, các tín hữu riêng lẻ hay các dòng tu tự dấn thân hoạt động hơn là tổ chức, định hướng và liên kết các hoạt động truyền giáo trong Giáo hội Việt Nam. Người ta đưa ra gương mẫu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu hay nhiều gương mẫu khác mà quên đi Đức Giêsu Kitô mới là người mẫu loan báo Tin Mừng tuyệt hảo nhất cho mọi thời đại. Người loan báo tin vui Nước Trời với niềm phấn khởi, xác tín, và quyền năng của Ngôi Lời Thiên Chúa thể hiện nơi chính bản thân Người: “Đức Giêsu đi khắp các thành, các làng rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền” (x. Mt 9,35; 4,23). Người đúng là sứ giả của Lời để Thiên Chúa trực tiếp dạy bảo chúng ta, để Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài và đưa mọi người vào cuộc hiệp thông toàn diện với Thiên Chúa (x. Hội đồng Chủ tịch Năm Thánh 2000, Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ Duy nhất, Rôma 1999, bản dịch, tr. 24).

3.2. Thiếu nền tảng Kitô học vững chắc

Để có nhận thức đầy đủ về công trình loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Giáo Hội cần những nhà thần học trình bày một học thuyết thật rõ ràng, trong sáng, mạch lạc về Đức Giêsu Kitô. Học thuyết này sẽ giúp người tín hữu thống nhất về mặt tư tưởng cũng như hành động với Đức Giêsu và giới thiệu Người cho người khác. Các Nghị phụ của Thượng Hội đồng Giám mục châu Á đã xin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đề nghị các nhà thần học soạn một giáo trình cơ bản về Kitô học vừa trung thành với Thánh Kinh, Thánh Truyền và Giáo huấn của Hội Thánh, vừa giải đáp thoả đáng các vấn đề về Đức Kitô do các khoa học đặt ra trong tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn. Dù được khuyến khích rất nhiều nhưng các nhà thần học chưa dám viết giáo trình này vì trong lịch sử những vấn đề Kitô học là nguồn gây tranh cãi và chia rẽ trong Giáo Hội suốt những thế kỷ đầu. Đa số chỉ dừng lại ở những điểm cơ bản của Công đồng Nicea (năm 325) và Calcedonia (năm 451).

Để chuẩn bị cho nền tảng Kitô học mới mẻ này, ĐTC Gioan Phaolô II luôn luôn trình bày về Đức Kitô trong các văn kiện và lời rao giảng của ngài; còn ĐTC Bênêđictô XVI đã viết cuốn Đức Giêsu Nazareth, năm 2007 (x. Joseph Ratzinger, Jesus of Nazareth, NXB Vatican) ngay khi mới lên ngôi Giáo hoàng. Thực ra, khi còn là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, ngài đã trình bày một số điểm tranh luận trong Kitô học qua cuốn Giáo lý Hội Thánh Công giáo (năm 1992) và bản Toát yếu Giáo lý của Hội Thánh Công giáo (năm 2005).

Nếu người ta nắm vững nguyên tắc Kitô học và giảng dạy tinh thần đối thoại liên tôn thì rất nhiều người tín hữu sẽ vượt qua mặc cảm sợ hãi và tội lỗi khi phải tham dự những lễ nghi với những anh em không cùng tôn giáo, và những anh em lương dân chắc chắn sẽ có nhiều thiện cảm khi hiểu ra những thái độ ứng xử thân thiện và tôn trọng của người Công giáo. Ví dụ ở Việt Nam vẫn còn nhiều căng thẳng về văn hoá và tôn giáo: nhiều người vẫn hiểu rằng vào đạo thì không được vào chùa lạy Phật, không được làm mâm cúng, không được ăn đồ đã cúng Phật vì sợ mắc tội!

3.3. Thực trạng sống đạo chưa đáp ứng với yêu cầu của Tin Mừng

Nhìn vào đời sống người Kitô hữu hiện nay, chúng ta thấy có một khoảng cách khá lớn giữa điều người ta hiểu và điều người ta sống. Đời sống đạo tập trung vào các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong.

Ở Việt Nam, hơn 60% dân số dưới tuổi 30. Những người trẻ đang có xu hướng đi tìm biết sự thật ẩn chứa trong thiên nhiên, trong con người cũng như xã hội qua việc say mê học hỏi khoa học kỹ thuật. Nhưng nhiều người chúng ta lại quá quan tâm đến thần học, ít chú trọng đến các khoa học, và chưa trình bày cho người trẻ hiểu rằng Đức Giêsu chính là sự thật toàn diện và vĩnh cửu (x. ĐTC Gioan Phaolô II, Giáo Hội tại châu Á, số 10) và Người sẵn sàng khai mở tâm trí để giúp con người hiểu biết những sự thật đó.

Hơn nữa, những người trẻ này cũng đang có xu hướng chạy theo cái đẹp qua sự say mê cuồng nhiệt đối với các thần tượng như cầu thủ, diễn viên, người mẫu và ham chuộng thời trang, âm nhạc, thể thao như biểu hiện của cái đẹp. Trong khi đó chúng ta hô hào họ hãy xoá bỏ thần tượng, sống đơn giản, nghèo khó, nhưng lại chưa giới thiệu cho họ một Thiên Chúa là chủ của cái đẹp và chưa giúp họ hiểu tinh thần nghèo khó của Đức Giêsu thật sự là gì.

Đức Giêsu dạy: “Con người làm chủ ngày Sabbat” (Mt 12,8) như mời gọi chúng ta chú ý đến con người hơn những luật lệ, hình thức đạo đức bên ngoài. Thế nhưng, những ngôi nhà thờ đồ sộ, những tu viện to lớn bên cạnh các căn nhà tồn tàn, rách nát như trở thành những pháo đài kiên cố khiến nhiều người ngại ngùng không dám tìm gặp Đức Kitô ở đó. Nhìn những cuộc hành hương với vài trăm ngàn người tham dự, mà người ở xa tiêu hàng triệu đồng, người ở gần tốn vài chục ngàn cho việc đi lại ăn ở, và nếu tính tổng cộng có thể lên tới hàng chục, hàng trăm tỷ đồng, trong khi hàng trăm ngàn học sinh vẫn còn thiếu lớp, cả triệu (5,5) người tàn tật còn thiếu điều kiện sinh sống, hàng trăm ngàn người nghèo thất nghiệp đang phải chật vật kiếm ăn, thì có lẽ chúng ta phải nhìn lại cách thức bày tỏ lòng đạo của mình đối với Chúa và Đức Mẹ cho âm thầm, khiêm tốn hơn chăng?

Nếu chúng ta chỉ rao giảng Lời Chúa như một người tiếp thị, quảng cáo Tin Mừng mà chưa phải là chứng nhân thực sự của Tin Mừng Đức Kitô với những hành động cụ thể trong đời sống thì việc truyền giáo vẫn khó đạt kết quả như lòng mong ước.

4. VÀI GỢI Ý ĐỂ ĐỔI MỚI CÔNG CUỘC TRUYỂN GIÁO TẠI VIỆT NAM

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã mời gọi chúng ta xuất phát lại từ Đức Giêsu Kitô và sống với Người thì mới có thể chia sẻ kinh nghiệm cho người khác trong đời sống thường ngày. Đây là gợi ý để chúng ta suy nghĩ về công việc truyền giáo của mình. Tuy nhiên, muốn xuất phát lại từ Đức Kitô trước hết chúng ta cần trở lại với Người (x. Thông điệp Giáo Hội tại châu Á, số 10).

4.1. Trở lại với Đức Kitô để cảm nghiệm được nội dung loan báo Tin Mừng là chính Đức Kitô

Trở lại với Đức Kitô là chúng ta tìm lại cảm nghiệm sống động của các Tông đồ về Đức Giêsu Phục Sinh như là tâm điểm cho mọi hoạt động và suy tư của mình. Đức Giêsu không phải là một mớ thông tin mà ta đã thu thập được trong những giờ học giáo lý hay qua những bài giảng, bài kinh. Đức Giêsu cũng chẳng phải là những câu Tin Mừng chúng ta học thuộc lòng và nhắc lại cho người khác mà không cảm nghiệm được ý nghĩa thâm sâu và sức cứu độ mãnh liệt trong từng lời nói của Người. Người cũng chẳng phải là những cuốn sách Thánh Kinh ta trân trọng trao tặng anh em lương dân và khuyến khích họ đọc Lời Chúa trong khi chính ta cũng cảm thấy khó khăn trước những bản văn cần giải thích của Thánh Kinh.

Tin Mừng hay Lời Chúa phải là một con người đang sống giữa chúng ta và sống trong ta để ta có mối tương quan mật thiết với Người. Để hiểu trọn vẹn về một con người đang sống, ta không phải chỉ cần thông tin mà còn phải gặp gỡ, tiếp xúc, yêu thương và nếu cần, có thể hoà nhập thành một “để tôi sống nhưng không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi” (x. Gl 2,20). Có như thế chúng ta mới có thể chia sẻ Đức Giêsu cho những người khác, mới “kể chuyện về Đức Giêsu” như đề nghị của Đại hội Truyền giáo châu Á được tổ chức tại Chiang Mai, Thái Lan, từ ngày 18 đến 22-10-2006. Nếu nội dung loan báo thật sự là Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô thì chính Người sẽ “củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” (Mc 16,20) để thể hiện ơn cứu độ và giải thoát con người.

4.2. Trở lại với Đức Kitô để khám phá ra giá trị cao cả của người nghe Tin Mừng

Trở lại với Đức Giêsu Kitô để thấy rằng qua việc Ngôi Lời Thiên Chúa trở thành con người (x. Ga 1,14), thì con người trở thành con đường của Thiên Chúa và cũng là con đường của Giáo Hội (x. UBBAXH/HĐGMVN, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, số 62). Lúc đó nhà truyền giáo mới tập trung mọi cố gắng lo cho biết bao con người trong vùng đất Á châu và Việt Nam, nhất là những người nghèo khổ, yếu kém, bị bóc lột và bị gạt ra ngoài lề xã hội, như Đức Giêsu đã tất bật từ sáng sớm đến tối mịt để rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ cho con người. Tất cả những công việc này đều là hoạt động truyền giáo, đều nhằm xây dựng một nền nhân bản toàn diện và liên đới mà Công đồng Vatican II đã khởi xướng vào năm 1965 và được khai triển trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo từ năm 2004. Các tổ chức của Giáo Hội được mời gọi để khai triển và thể hiện nền nhân bản này.

Trở lại với Đức Kitô ta sẽ khám phá ra mầu nhiệm Nhập Thể luôn gắn liền với mầu nhiệm Nhập Thế để can đảm dấn thân vào xã hội trần thế hôm nay. Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành Đức Giêsu Nazareth, đã đi vào dòng lịch sử con người, đã đón nhận những yếu tố của vũ trụ vật chất qua thân xác của mình. Người đã đưa tính tuyệt đối, vĩnh hằng, thánh thiện, vô biên của Thiên Chúa vào trong cái tương đối, nhất thời, tội luỵ, hữu hạn của con người và vũ trụ để từ nay tất cả đều được biến đổi và thần hoá. Từ đó, mỗi con người đều có giá trị vô song dù họ già nua, tàn tật, xấu xa đến đâu chăng nữa. Từ đó, mỗi công việc đều có giá trị vĩnh hằng, đem lại ơn cứu độ dù nó chỉ kéo dài một vài giây như nụ cười, dù có vẻ tầm thường như các chậu quần áo ta giặt mỗi ngày, như làm vệ sinh, rửa mặt, đánh răng mỗi bữa. Truyền giáo bây giờ chính là kết hợp với Đức Kitô trong đời sống thường ngày để dâng lên Người những công việc tưởng như nhỏ bé vô nghĩa nhưng thực ra có giá trị vô song nếu ta làm vì yêu mến Đức Kitô để cứu độ anh em mình.

Sống trong một châu lục với nhiều dân tộc có các nền văn hoá và tôn giáo khác nhau, ta cần trở lại với Đức Kitô để thấy Người không phải là của riêng Kitô giáo nhưng là Đấng Cứu Độ của toàn thể nhân loại và vũ trụ. Cha Trên Trời muốn cứu độ tất cả con cái mình nên đã ban Người Con Một cho chúng ta, và Chúa Thánh Thần vẫn đang chuẩn bị cho việc Đức Kitô đến với mọi người cũng như không ngừng nói trong các tôn giáo (x. CĐ. Vat. II, Tuyên ngôn Nostra aetate, số 1; Giáo Hội tại châu Á, số 15,18). Việc truyền giáo là một cố gắng liên tục để hội nhập văn hoá và đối thoại liên tôn của từng người tín hữu cũng như từng tổ chức của Giáo Hội. Trong hoạt hoạt động này, chúng ta cần học lại thái độ khoan dung của Đức Kitô (x. Mc 9,38-39) để biết phân biệt những hình thức mê tín dị đoan đồng thời biết đánh giá đúng các nghi thức phụng vụ, lời kinh và cách sống của những người không cùng tôn giáo với mình, thậm chí ngay trong việc trừ ma diệt quỷ của họ (x. Mc 9,39-40).

4.3. Trở lại với Đức Giêsu Kitô để nhà truyền giáo trở thành hiện thân sống động của Người

Sứ mạng truyền giáo bắt nguồn từ chính sứ mạng của Đức Kitô vì chính Người là Ngôi Lời hằng hữu đã được Chúa Cha sai đến trần gian (x. Lc 4,18) để mạc khải tình thương cứu độ của Chúa Cha và tất cả những ai tin Người sẽ được sống đời đời (x. Ga 3, 16). Tin Mừng cứu độ ấy được Đức Kitô loan báo bằng toàn thể con người mình, bằng lời nói cũng như hành động. Chính Người sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho muôn loài thụ tạo” (Mc 16,15) và ban muôn ân sủng của Thánh Thần để giúp chúng ta hoàn thành sứ mạng ấy.

Vì thế, xét về bản thân, nhà truyền giáo cần 4 điểm sau đây: xác tín về sứ mạng cứu độ Chúa Cha trao cho mình, hoà nhập thành một với Đức Kitô, gắn bó mật thiết với Chúa Thánh Thần và hiệp thông sâu xa với Giáo Hội. Khi có đủ 4 yếu tố này, bản thân nhà truyền giáo trở thành hình ảnh sống động của Chúa Ba Ngôi, trở thành hiện thân của Chúa Giêsu Kitô ở trần gian và trở nên Tin Mừng sống động là nội dung của việc truyền giáo (x. Gl 2,20). Việc truyền giáo ngày nay không phải chỉ tìm đến một dân tộc xa lạ, đến với những người khác mình về tôn giáo và văn hoá, cũng không phải chỉ là việc dạy giáo lý hoặc thăng tiến con người và phát triển cộng đồng nhưng là tiếp xúc với mọi người mọi vật trong đời sống thường ngày để chia sẻ bản thân mình cho họ như chính Đức Kitô đã làm. Nhà truyền giáo là tấm bánh Đức Kitô được bẻ ra để nuôi sống thế giới (x. Sứ điệp ĐTC Gioan Phaolô II nhân dịp Khánh nhật Truyền giáo 2005; Ga 6,35.51.58.68).

Nhà truyền giáo cần phải trở lại với Đức Kitô và hoà nhập thành một với Người qua đời sống cầu nguyện và phụng vụ để Người chuyển thông quyền năng làm chứng cho Tin Mừng qua các dấu lạ như chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, nói được thứ ngôn ngữ mới lạ của tình thương mà Thánh Thần thúc đẩy trong lòng ta (x. Mc 16,16-20). Nhà truyền giáo có thể chữa lành bệnh tật không phải như một bác sĩ hay xua trừ ma quỷ không phải như một thầy pháp nhưng với tư cách là chứng nhân của Đức Kitô vì họ có thể làm được mọi sự với Đấng ban sức mạnh cho họ (x. Pl 4,13). Như thế, việc rao giảng Lời Chúa, cử hành bí tích và bác ái từ thiện đều gắn bó mật thiết với nhau, hình thành nên bản chất của Giáo Hội mà người tín hữu nào cũng cần thể hiện trong đời sống (x. ĐTC Bênêđictô XVI, Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 25).

Kết luận

Khi suy nghĩ về hiệu quả truyền giáo ở Việt Nam trong những năm gần đây, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì những ơn lành Người ban cho Giáo hội Việt Nam. Dù kết quả truyền giáo chưa đạt được như lòng mong ước, chúng ta vẫn cảm nghiệm được sức sống mãnh liệt và niềm hăng say vô tận của người tín hữu Việt Nam muốn dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Một vài dấu hiệu trình bày trong bài viết này chỉ nhằm mục đích mời gọi mỗi người chúng ta trở lại với Đức Kitô để gắn bó mật thiết với Người vì Đức Kitô chính là con đường dẫn ta và dân tộc đến sự thật toàn diện và sự sống vĩnh hằng.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đại thắng Nguyên Mông
Xuân Ly Băng
04:01 24/05/2009
ĐẠI THẮNG NGUYÊN MÔNG

(Bài thơ này được tác giả Xuân Ly Băng sáng tác vào tháng 2 năm 1979,
khi nghe đài báo lính Trung Quốc tràn sang tàn phá sáu tỉnh miền Bắc.
Tác giả viết: "Thức giấc lúc gần nửa đêm, bức xúc hết cỡ nói...
những ngày sau đó, tôi đã ngồi viết một số bài thơ lịch sử...
Cho đến bây giờ những bài sử thi này đang nằm im lìm trong kho thơ.
Phải chăng nay đã đến lúc phổ biến những bài này
để nói lên tâm tình của một người dân đối với tiền đồ đất nước
."


“Một bài ca hùng tráng
Trời Đại Việt reo ngân
Mà thanh âm còn mãi
đến muôn năm
Vòi vọi như núi cao
Dạt dào như biển rộng
Là bài ca chiến thắng
Của một dân tộc anh hùng
Sắt son đoàn kết
Diệt giặc Nguyên Mông.

Giặc Nguyên Mông
Bốn phương trời tung hoành mưa gió
Chúng đến đâu thì trời long đất lở
Chúng qua đâu thì máu chảy đầu rơi
Gót viễn chinh tung bụi khắp bầu trời
Đoàn chiến mã xéo cỏ cây tàn hại
Từ Thái Bình Dương đến bờ Bắc Hải
Khắp Á Âu bao dân nước tan tành
Bao thành trì, đô thị phải điêu linh
Diệt Nam Tống và xâm lăng Tây Hạ
Khi chiếm trọn cả Trung Hoa lục địa
Chúng quả tình đã hăm dọa nước ta
Một đám mây đen phủ khắp sơn hà
Vận đất nước đang cực kỳ nghiêm trọng
Cả triều đình và dân gian chấn động
Cuộc kháng chiến phải chuẩn bị sẵn sàng
Lớp vương tôn mở hội nghị Bình Than
Vứt bút nghiêng để lên đường cứu nước
Điện Diên Hồng nhiều lão ông quắc thước
Giữa đêm khuya thề quyết diệt Nguyên Mông
Hịch Tướng Sĩ như ngọn lửa cháy bừng
Đốt nóng bỏng muôn lòng người nghĩa khí
Chữ Thát đát ghi thân người chiến sĩ
Quyết ra đi đền trả non sông
Hốt Tất Liệt tên tướng giặc Nguyên Mông
Sai sứ giả bảo triều đình hàng phục
Vua quan ta truyền bắt y tống ngục
Nòi Đại Việt đâu phải giống nhát hèn
Chí quật cường nắm vững một niềm tin
Vào chính nghĩa của tự do độc lập
Quân Mông Cổ kiêu căng và láo xược
Tràn quân vào để xâm lược nước Nam
Cả ba lần chúng đều bị phá tan
Bởi khí thế quật cường dân Đại Việt
Đoàn viễn chinh theo nhau bị tiêu diệt
Bọn sống còn tan rã chạy thoát thân
Chủ tướng Thoát Hoan, thảm bại hai lần
Rúc ống đồng theo tàn quân về nước
Bộ tướng lãnh của đoàn quân ngạo ngược
Kế tiếp nhau đền nợ máu ở đây
Tướng Toa Đô, trận Tây kết bỏ thây
Bọn Lý Quán, Lý Hằng đều bị giết
Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp
Trận Bạch Đằng bị bắt sống cả ba
Tên Sài Thung, từng làm nhục nước ta
Bị phục kích bắn nổ tròng con mắt
Dân cả nước trong quá trình diệt giặc
Lập chiến công thủy bộ rất oai hùng
Với thiên tài chiến lược Hưng Đạo Vương
Cùng các tướng uy danh truyền vạn đại
Trần Nhật Duật cùng tướng Trần Quang Khải
Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái với Lê Tần
Trần Quốc Toản “phá địch báo hoàng ân"
Trần Khánh Dư, trận Vân Đồn diệt hạm
Khí khái thay tướng quân Trần Bình Trọng
Quát quân thù: “Thà làm quỷ nước Nam
Chứ không thà đất Bắc được làm vương”
Trần Thủ Độ, vị tướng già quắc thước
Với vua Trần phát ngôn lời đanh thép:
“Đầu tôi còn, xin bệ hạ đừng lo”
Hai vua Trần tâm địa quả nhân từ
Nhưng ý chí thảy kiên cường bất khuất
Trần Nhân Tôn chính tay người đốc suất
Thủy quân ta trong chiến thắng Bạch Đằng
Dân Việt ta đằng đẳng ba mươi năm
Đồng gian khổ nhưng một lòng đoàn kết
Kẻ thù chung, một quyết tâm tiêu diệt
Đã viết thành những trang sử vinh quang
Trận Hàm Tử: “Quân giặc bị phá tan
Trận Chương Dương: kinh thành được khôi phục
Trận Tây Kết: ba vạn thù ngã gục
Quân dân ta đã thừa thắng phá tung
Tại Vạn Kiếp, doanh trại giặc cuối cùng
Khiến Thoát Hoan phải tuyệt đường chiến đấu
Bắt thủy bộ liều thân mở đường máu
Đám tàn quân theo hai ngã rút lui
Ngã Lạng Sơn bị chận đánh tơi bời
Ngã Bạch Đằng: bao chiến thuyền tan tác
Khắp đường bộ, đường sông muôn thây giặc
Như củi rừng sau bão tố ngổn ngang
Nửa triệu quân hùng hổ của Thoát Hoan
Bị chìm xuống đáy hoàng hôn lịch sử…
Cả nước ta ca bài ca bất tử
Hùng tráng thay: vang dội đến muôn đời.

(Mùa Thu 1979)
 
Những bài thơ về Tây Nguyên
Lê Dân Việt
04:19 24/05/2009
PHẢI CỨU TỔ QUỐC VIỆT NAM

Đất việt mất, làm sao cho tròn nghĩa?
Khi dân oan, đang than khóc rỉ rên
Khi tôn giáo, bị bách hại liên miên
Cộng đem Tàu, dày xéo mả tổ tiên

Bô-xít Tây Nguyên, chúng đào xới tới tấp
Toàn dân ơi! Ta phải đồng tâm hiệp nhất
Đất của ta, là máu thịt, là nôi
Cha ông ta, đã gầy dựng tự bao đời

Mà nay cộng, đem voi về dày mả tổ
Nhìn Tây Nguyên, mà lòng đau đớn quá
Lũ việt cộng, đâu còn máu Việt người
Để Trung Quốc, cày xới đất còn tươi

Trước quân Tàu, đảng chúng nó sợ hãi
Dâng Bản Dốc, và thác Quan Nam Ải
Nhìn Tây Nguyên, toàn dân trỗi căm hờn
Lòng uất nghẹn, máu trào lên từng cơn

Tài sản quê hương, để dành cho con cháu
Chứ không phải cho bay, lũ thảo khấu
Dâng đất, biển mà lòng vòng che dấu
Vận nước tang thương, hỡi các thanh niên!!!

Ta không thể nào, cúi mặt lặng yên!
Biển, đất mất mà không hề phẫn uất???
Chẳng lẽ thanh niên, cúi đầu chấp nhận?
Cho dân tộc mình, tan nát đau buồn…

Việc cứu nước, không thể tính thiệt hơn
Trước lịch sử, ta phải có trách nhiệm
Phải đứng lên, ta trị bọn lấp liếm
Để Trung Quốc, làm tan nát quê hương…

Là thanh niên, ta quyết tâm cùng thề
Phải diệt trừ, bọn phá hoại đất nước
Tất cả thanh niên phải anh dũng tiến bước
Ta đấu tranh để cứu lại nước Nam

Ta đứng lên, để trị lũ gian tham
Phất cao cờ, chính nghĩa Việt thăng hoa
Vì tổ tiên, vì tồn vong nòi giống
Không thể rống, kêu ngoại nhân tới giúp

Không vì, bơ sữa… mà hèn ẩn núp
Cũng không thể, cứ ngồi mà than khóc
Hãy đứng lên, cả hằng triệu triệu người
Không để nước, theo Tàu mà cuốn trôi

Khử vô thần, hại nước xong mới thôi
Hãy đứng lên, ta phất cờ đại nghĩa
Rạng danh Nam, là con cháu hậu duệ
Vì tổ quốc, toàn dân đứng lên nào

Phải dẹp tan, tất cả ngọn cờ sao
Thì dân tộc, mới thanh bình hạnh phúc

CỨU TỔ QUỐC VIỆT NAM

Người dân Việt, hướng Thái Hà năm thánh
Vì công lý, trỗi khúc nhạc reo vui
Kinh hòa bình, cất lên khắp nơi nơi
Ta đấu tranh, bởi giang sơn tơi tả

Tám mươi triệu con ngưuời đang khổ giá
Đang đau khổ, dưới loài quỉ gian manh
Chuyện Bô-xít, toàn dân rất bất bình
Phá Tây Nguyên, bởi lũ người hung bạo

Tàn phá môi trường, bởi quân ngược ngạo
Bao chất độc, ngấm vào thịt đau thương
Toàn dân ơi! Có thấy nỗi đoạn trường
Trung ương đảng, quê mình đã bán quách

Cho quân Tàu, tha hồ vơ vét sạch
Chỉ chờ ngày, chúng thôn tính nước ta
Bằng vũ lực, thôn tính cả nước nhà
Ôi việt cộng, lũ bọn người bất chánh

Luồn cúi Tàu, để buôn thần, bán thánh
Toàn dân ơi! Ta đứng lên hiệp thông
Triệu triệu người, như những đóa hoa hồng
Quyết đứng lên, đấu tranh vì chính nghĩa

Cứu tổ quốc, cứu quê hương của mẹ
Khỏi Trung Cộng, khỏi việt cộng gian tà
Để nước Việt, dân tộc được thăng hoa
Phải đứng lên, khi thời cơ đã đến

Ta chờ nhau, ngày giờ trong điểm hẹn
Phải xuống đường, cứu tổ quốc bạn ơi!!!

BAUXITE MỒ CHÔN TỔ QUỐC?

Đất Tây Nguyên, bây giờ đang loang lở
Bởi quân Tàu, dày xéo đã kéo về
Lũ việt cộng, bắt tay xới tái tê
Bởi cộng sản, chung nhau loài quỉ đỏ

Nhìn chúng phá, dân Nam buồn đứng ngó
Tổ tiên ơi! Trị tội lũ vô luân
Bán đất, biển, bô-xít chúng vinh thân
Tây Nguyên đó, tan hoang vùng đất mẹ

Trung Cộng phá, việt gian nào hó hé
Phá giang sơn, cả bọn chó lặng câm
Bởi theo Trung, bọn chúng đã ngấm ngầm
Tàu làm tới, chúng hoàn toàn câm nín

Tổ quốc tan hoang, chúng nào nghĩ đến
Chỉ nghĩ đến, đảng cướp được vinh quang
Ỷ chuyên chính, chúng theo Tàu làm càng
Hại dân Nam, cho dân nghèo lê lết

Cả dân oan, đã đấu tranh mỏi mệt
Toàn dân ơi! Để tổ quốc lên trên
Cứu đất nước, đang trong lúc gập ghềnh
Cứu quê hương, đang trong lúc tàn tạ

Bởi Trung quốc, vốn là quân xa lạ
Dám khai thác, đất nước ta nghênh ngang
Hãy đứng lên, ta phất ngọn cờ vàng
Trị hỗn quân, cho chúng nó tan hoang

ĐỨNG LÊN CHO TÂY NGUYÊN

Nghĩ Tây Nguyên, đêm nay buồn không ngủ
Bởi tiếng gầm, cơ khí xới cuồng điên
Tàu đào xới, đất mẹ Việt đau thương
Xe Trung Quốc, tha hồ mà cày phá

Đất Tây Nguyên, đâu còn gì êm ả
Bao chất độc, ngầm vào máu thịt rêm
Dân thiểu số, sẽ khóc lóc bên thềm
Lũ việt gian, làm tan hoang quê mẹ

Nhìn thảm cảnh, toàn dân đã rơi lệ
Vì cộng sản, mà vận nước trầm luân
Bởi quân ác, với bạo ngược vô ngần
Đày dân tôi, dân Nam cứ khổ mãi

Trấn áp dân, làm dân oan sợ hãi
Toàn dân ơi! Ta đứng lên đồng hành
Đừng để cộng, bán đất nước tan tành
Bán quê hương, giàu sang trong yên giấc

Để nước mất, theo Tàu là sự thực!
Hãy đứng lên, ta bảo vệ đất cha
Đuổi ba thù, cho chúng nó đi xa
Đảng việt gian, những lãnh đạo thối tha

Luồn cúi Tàu, toàn những tên ngu muội
Vì lợi danh, bán đứng cả tên tuổi
Bán lương tâm, bán luôn cả giống nòi
Dân thiệt thòi, mất luôn cả nhà cửa

Hãy đứng lên, cứu vận nước bạn ơi
Cùng đạo đời, ta đòi hỏi công lý
Bắt bạo quyền, phải phục tùng dân ý
Cho giang sơn mất mát lấy trở về

Mong dân Việt, hãy bừng tỉnh cơn mê
Không sợ hãi, đồng hành ta thực hiện
Triệu triệu người, bảo bệ đất tổ tông
Ta đuổi đi, tất cả lũ cuồng ngông

TA CON CHÁU TIÊN RỒNG

Dân Tây Nguyên, muôn lòng đau dịu vợi
Bởi Tàu đào, cây cối đã hoang vu
Vận quê hương, vì cộng sản tối mù
Chung niềm đau, thái Hà tại Hà Nội

Cùng Tòa Khâm, và giáo oan vạn lối
Chó bạo quyền, hung dữ đã vô tâm
Dân oan khổ, đã chịu đựng tháng năm
Luồn cúi Tàu, đảng phủ phục chào đón

Dâng biển, đất, Tây Nguyên bởi việt gian
Hành xử cộng, tàn ác rất dã man
Nước mất nhà tan, bọn chúng mặc kệ
Còn bợ Tàu, làm những điều tồi tệ

Với xảo quyệt, gian tham và bất chánh
Mặc cho Tàu, bắn giết dân, biển Đông
Dân Nam khổ, theo ngày tháng chất chồng
Nước sắp mất, mà cộng còn bố láo

Ôi ngỗ ngáo, bởi những quân vô đạo
Đảng ngược ngạo, đày giáo oan dãi dầu
Đòi công lý, sao thấy quá bể dâu
Nói lẽ phải, chúng mở lời hăm dọa

Bắt dân oan, chúng đày đọa quá xá
Bán Tây Nguyên, đồng lòng cả lũ quỉ
Bô-xít kia, hủy hoại cả kiếp người
Ôi dân Việt, vận nước đã nổi trôi

Bởi đảng cướp, toàn lũ vượn đười ươi
Một chế độ, hoàn toàn phi chính nghĩa
Bán giang sơn, chúng cùng nhau bô bô
Đẩy dân tộc, xuống tận đáy huyệt mồ

Ôi đất nước, còn đâu hình chữ S
Dân tộc ơi! Đứng lên trị gian manh
Quyết cùng nhau, diệt trừ lũ hôi tanh
Và tống khứ, những hỗn quân ngang ngược

Để quê ta, vươn mình với năm châu
Đất tổ tiên, con cháu phải giữ gìn
Cùng đứng lên, thề vững một niềm tin
Thắp nến lên, ta truyền đi ngọn lửa

Lửa truyền đi, thiêu đốt chúng tan hàng
Cùng các làng, vững tâm ta tiến bước
Cứu đất nước, toàn dân phải gánh gồng
Để xứng danh, ta con cháu Tiên Rồng

CỨU ĐẤT MẸ TÂY NGUYÊN

Hãy noi gương, cha ông ta quật khởi
Đuổi xâm lăng, với khí phách tiền nhân
Vì tổ quốc, xả thân cứu toàn dân
Phải đuổi giặc, sĩ phu lòng ghi khắc

Cùng đứng lên, trị lũ quân phương Bắc
Để dân Nam, xứ sở được bình yên
Bảo vệ nước, muôn lòng phải trung kiên
Bọn việt gian, tất yếu ta phải bứng

Có như thế, dân tộc mới bền vững
Cho con cháu, cho hậu duệ ta vươn
Để dân Nam, thoát cảnh đời đau thương
Khi phải sống, dưới chế độ phỉ báng

Đày đạo, đời khốn khổ sau năm tháng
Nay Tây Nguyên, sắp mất bởi phi nhân
Tàu đào xới, cả bọn khuyển lặng câm
Để dân tộc, cứ mất mát âm thầm

Hỡi dân Nam, hỡi thanh niên hào kiệt
Phải đứng lên, với niềm tin mãnh liệt
Trong ngoài nước, phải xác tín niềm tin
Đất tiên tổ, phải cùng nhau giữ gìn

Không để mất, bởi chủ nghĩa vô đạo
Hãy đứng lên, hỡi nhi đồng, phụ lão
Hãy đứng lên, hỡi thầy giáo, học trò
Hãy đứng lên, hỡi thợ thuyền, nông phu

Hãy đứng lên, hỡi thương gia, bác sĩ
Hãy đứng lên, hỡi kỹ sư, dược sĩ
Hãy đứng lên, hỡi các bà, các chị
Hãy đứng lên, hỡi tất cả người trai

Hãy đứng lên, toàn dân ta chen vai
Hãy đứng lên, hỡi người bị áp bức
Hãy đứng lên, hỡi những người trí thức
Hãy đứng lên, hỡi những người tù ngục

Hãy đứng lên, hỡi những vị giám mục
Hãy đứng lên, hỡi người bị gông cùm
Hãy đứng lên, hỡi cha xứ, ông trùm
Hãy đứng lên, các tôn giáo hợp chung

Hãy đứng lên, đừng tự tại ung dung
Hãy đứng lên, hỡi các bậc anh thư
Hãy đứng lên, hỡi tu sĩ, nhà sư
Vì cứu nước, là nhiệm vụ của chung

Đừng đứng đó, mà chỉ lo truyền giảng
Bảo vệ nước, toàn dân phải cáng đáng
Phải đứng lên, ta trừ khử lũ yêu
Dù đau thương, khốn khổ cũng phải liều

Có như thế, thắng lợi ắt phải nhiều
Và quê hương, vươn mình tươi đẹp lắm
Với sức người, xây nước Việt tươi thắm
Cho giang sơn, toàn vẹn mãi vững bền

Mà cha ông, đổ xương máu dựng nên
Khi vô thần, được dẹp qua một bên
Các tôn giáo, lại tự do hành đạo
Tùy khả năng, tha hồ mà truyền giáo

Trong công lý, ta xây lại nước Nam
Vì nước Việt, ta đứng lên cùng làm
Cho nước Nam, vang danh toàn thế giới.
 
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương
Trần Trung Đạo
16:49 24/05/2009
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương

Một ngày hè như thế này 29 năm trước, người anh cùng sở làm và cũng cùng quê Đà Nẵng ghé qua hỏi tôi có thích đi Côn Đảo một chuyến với anh. Không giống như khi được các anh chị khác rủ đi thăm miền bắc trong những lần họ nghỉ phép về thăm nhà mà tôi đã từ chối trước đây, Côn Đảo có một hấp lực cực mạnh khiến tôi gật đầu không chút gì ngần ngại. Chiếc ghe vượt biên anh đóng sắp hoàn tất và đã hứa dành cho tôi một chỗ. Nghĩ đến việc ra đi không hẹn ngày trở lại, thăm Côn Đảo là dịp hiếm hoi không thể bỏ qua. Côn Đảo là đất lịch sử của cách mạng Việt Nam, điểm hẹn của những tâm hồn yêu nước và cũng là nơi nhà cách mạng Phan Chu Trinh từng tả “Bốn mặt dày vò oai sóng gió / Một mình che chở tội non sông” trong bài thơ “Đập đá Côn Lôn” nổi tiếng của ông. Người anh cùng sở làm lo hết các phương tiện cần thiết, và như thế chúng tôi đi. Anh có vài việc phải đi, còn tôi chỉ đi theo cho biết chứ không làm gì cả.

Khi anh làm xong việc, thời gian còn lại anh em chúng tôi đi vài nơi trên đảo. Côn Đảo ngày chúng tôi đến còn rất hoang vắng. Những khu tù chính trị đã giải tán từ lâu. Tù chính trị mới không bị đưa ra đây mà vào Chí Hòa, Phan Đăng Lưu hay các trại tù miền Bắc. Các khu trại giam Côn Đảo đã trở thành một viện bảo tàng nhưng ít có người thăm. Bên cạnh những xà lim nơi các đảng viên Cộng sản cấp trung ương từng bị giam giữ, Côn Đảo còn có những khu nổi tiếng vì được báo chí phản chiến Mỹ và Việt khai thác tận tình như chuồng cọp, chuồng bò. Khu chuồng cọp được xây từ thời thực dân, cũ kỹ, kích thước rộng bằng những lớp học nối tiếp nhau. Đặc điểm của khu chuồng cọp là phòng giam không có mái che mà chỉ có những bờ tường dày và thanh sắt lớn. Chị coi sóc ở đây, vốn là một tù nhân Côn Đảo, cho biết trên bờ tường dựng sẵn nhiều thùng vôi bột, nếu tù nhân la ó, phản đối, trật tự tù sẽ đổ vôi xuống.

Trên đường ra về chúng tôi đi theo chị coi sóc nhà tù đến nghĩa địa Hàng Dương. Nắng đã dịu nhiều. Mặt trời đang xuống dần bên kia đỉnh núi. Được gọi là Hàng Dương có lẽ vì chung quanh nghĩa địa có rất nhiều dương liễu. Nghĩa địa có nhiều khu. Mỗi khu có vài trăm ngôi mộ. Chị trịnh trọng giới thiệu một ngôi mộ mà chị gọi là rất linh thiêng: mộ chị Võ Thị Sáu. Tôi không biết gì nhiều về chị Sáu ngoài bản nhạc bắt đầu với “Mùa lêkima nở, ở quê tôi miền đất đỏ” và đọc đâu đó chuyện chị bị xử bắn khi còn trong tuổi vị thành niên. Tấm bia trên mộ chị Sáu hướng về phía biển và nỗi bật lên vì ngày đó đã được xây cao hơn các ngôi mộ khác. Phía sau mộ chị Sáu có một cây dương liễu cụt ngọn, cằn cỗi, trên tàn cây có những chồi xanh nhú lên. Việc một cây bị chặt ngọn nên sinh ra những nhánh non là chuyện bình thường nhưng qua lời giải thích của chị hướng dẫn thì đó là một điều kỳ diệu, một dấu chứng linh thiêng, điềm báo của một cái cũ tàn đi nhưng những cái mới ra đời. Ngay cả một cây dương liễu cũng được giải thích bằng lý luận và niềm tin Cộng Sản.

Anh tôi không thích cảnh nghĩa trang buồn tẻ nên đã đi dạo nơi khác. Cả chị hướng dẫn cũng đi ra ngoài. Tôi ngồi một mình nhìn mấy trăm ngôi mộ, có tên và không tên, được đắp và không được đắp, cao thấp không đều. Bên cạnh một số mộ có bia, tên tuổi và vừa được chỉnh trang, hẳn là của các đảng viên Cộng sản cao cấp, rất nhiều ngôi mộ không có ngay cả tấm thẻ gỗ ghi tên, cỏ mọc đầy sau nhiều năm chưa được một lần chăm sóc. Phần lớn các ngôi mộ trong nghĩa địa Hàng Dương là dấu tích tàn ác của thực dân Pháp. Thời Việt Nam Cộng hòa, chuyện ở tù Côn Đảo cho đến chết là chuyện hiếm hoi. Hầu hết tù chính trị chỉ ở một thời gian ngắn trước khi được đưa ra Thạch Hản, Thiện Ngôn, Lộc Ninh, Bồng Sơn để trao trả về phía bên kia như đã ghi lại một cách chi tiết trong tác phẩm ký sự Tù binh và hòa bình của nhà văn Phan Nhật Nam.

Hôm qua, khi bắt đầu viết bài này tôi vào Google tìm mộ chị Võ Thị Sáu. Cây dương liễu đã chết và được thay vào đó bằng cây phượng đỏ. Ngôi mộ của chị cũng được xây bằng đá đen, cao hơn ngôi mộ cũ nhiều và không phải sơn màu vôi trắng như lần tôi đến. Nghĩa địa Hàng Dương bây giờ là một trung tâm du lịch, màu sắc lòe loẹt, không còn những mộ cỏ hoang vu, những con đường đất hẹp và những hàng dương cằn cỗi chung quanh. Tôi không cảm thấy chút nào xúc động khi nhìn lại cảnh nghĩa địa Hàng Dương mà chỉ tội nghiệp cho các em học sinh đang sắp hàng vào xem các di tích được gọi là cách mạng ở Côn Đảo. Các em đi xem kịch mà tưởng mình đang tìm về lịch sử cha ông.

Một trong những đặc điểm của chế độ Cộng sản là lừa dối. Không phải chỉ Việt Nam mà mọi quốc gia Cộng sản đều như thế. Khi chế độ Cộng sản Đông Đức sụp đổ, báo chí khám phá trong cơ sở dữ liệu của cơ quan an ninh Stasi một hệ thống lừa dối có tầm vóc quy mô ngoài giới hạn đạo đức của con người. Việc nghi kỵ, lừa dối không chỉ ở nằm trong hệ thống đảng, các cơ quan nhà nước, mà cả trong mỗi gia đình ruột thịt, máu mủ thân yêu. Anh lừa dối em. Vợ lừa dối chồng. Cha mẹ lừa dối con cái. Cháu chắt lừa dối ông bà. Lừa dối là phương tiện duy nhất để tồn tại trong xã hội Cộng Sản.

Tại Việt Nam cũng thế. Vở kịch tuyên truyền mà Đảng đã đóng suốt mấy chục năm qua làm thui chột nhận thức của nhiều thế hệ Việt Nam. Từ chuyện Lê Văn Tám lấy thân mình làm đuốc đến chuyện Tôn Đức Thắng kéo cờ Cộng sản trên Hắc Hải đều là những chuyện hoang đường nhưng nghe riết cũng quen tai, nghe riết nên tin là chuyện thật.

Có một thời không ít người dân miền bắc còn tin rằng những khẩu CKC, AK47 của mấy chị dân quân đã từng bắn hạ những F-4 Fantom, F-111 của Mỹ. Theo lời kể của cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Xô tại Việt Nam trong một bài báo trên tờ Pravda nhân dịp đánh dấu 30 năm cuộc chiến Việt Nam chấm dứt, Liên Xô đã gởi nguyên một trung đoàn phòng không với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên Xô đã chết trên đất bắc. Những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ F4 Fantom của Thượng Nghị Sĩ John McCain, cũng từ hỏa tiễn của các đơn vị Hồng quân Liên Xô chứ không phải từ “Bộ đội phòng không anh hùng”, nói chi là các chị dân quân núp bên bờ ruộng như trong mấy bức ảnh tuyên truyền của đảng.

Cũng theo lời kể của cựu thiếu tướng Liên Xô Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng phòng không Liên Xô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970, Việt Nam chỉ là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Xô. Họ muốn đích thân xử dụng vũ khí để chuẩn bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Xô trong trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này. Cuộc chiến đã tàn, chế độ cũng đã tan, ngọn đèn đời sắp tắt, những người lính già Nga chẳng bị áp lực nào để phải nói dối, để tuyên truyền, để bảo vệ cho đảng, hay cho cả chính mình. Họ chỉ còn kỷ niệm, và kỷ niệm của tuổi về chiều thường thành thật, trong sáng như những ngày mới lớn.

Bên cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16 sư đoàn với 170 ngàn quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam để yểm trợ cho đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng đai an ninh của Trung Quốc. Tội ác của đảng Cộng sản Trung Quốc đối với dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện.

Máu đổ, thây rơi, nhà tan, cửa nát ở Hà Nội, Hải Phòng là điều có thật. Những mất mát đau thương vô cùng to lớn của đồng bào miền Bắc đã chịu đựng dưới đạn bom Mỹ là điều có thật. Căm thù, phẫn uất vì thế là những phản ứng tự nhiên. Tuy nhiên không phải chỉ vì đế quốc Mỹ đã đơn phương xâm lược Việt Nam như các thế hệ sinh viên học sinh đã và đang được dạy. Hơn ba mươi năm là một thời gian đủ dài để đồng bào miền bắc, các thế hệ trẻ miền bắc có gia đình chịu đựng đau thương bất hạnh trong chiến tranh, nhìn lại cuộc chiến một cách khách quan và so sánh với thực tế đất nước để qua đó biết rõ những ai và học thuyết nào chính là nguyên nhân của chiến tranh, độc tài và chậm tiến hôm nay.

Đảng Cộng sản có thể tùy thích tạo ra hàng trăm đảng viên cỡ Lê Văn Tám, Tôn Đức Thắng. Đó là chuyện nội bộ của đảng nhưng họ không có quyền biến Côn Đảo thành tài sản riêng của đảng, không có quyền mê hoặc của các thế hệ trẻ Việt Nam bằng các mẫu chuyện hoang đường kiểu Lê Văn Tám như bộ máy tuyên truyền Liên Xô đã từng tô điểm lên một cậu bé nhà nông Pavlik Morozov bất hiếu trước đây. Côn Đảo cũng không phải là đất hương hỏa của Marx, Lenin để lại cho đảng Cộng sản Việt Nam mà là đất thiêng của cách mạng Việt Nam nơi nhiều thế hệ đã lấy xương thịt mình làm phân bón cho mầm xanh tương lai dân tộc.

Trong nghĩa địa Hàng Dương, bên chiếc cầu đá phía bên phải dinh chúa đảo, trước những xà lim chật hẹp, một ngày không xa, các thế hệ Việt Nam sẽ đến đó, không phải để nghe kể công, nghe tuyên truyền mà đến để im lặng cúi đầu tưởng niệm các anh hùng dân tộc.

Họ là ai? Họ là những đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội, Phong trào Đông Du, Phong trào Duy Tân, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập hiến, Đại Việt Duy dân và nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản khác.

Họ là ai? Họ là tín đồ các tôn giáo, nhất là Cao Đài và Hòa Hảo, hai tôn giáo được ra đời tại miền Nam, có truyền thống kiên quyết chống cả thực dân lẫn Cộng sản.

Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết vài lần trên diễn đàn này, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Ông bà chúng ta có súng dùng súng, có gậy dùng gậy, và trong nhiều trường hợp chỉ là những bàn tay không gầy yếu.

Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phát, nhưng công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay.

Tôi tin, phần lớn những người yêu nước đã chết trong giấc mơ về một Việt Nam hòa bình, độc lập chứ không phải trong giấc mơ về một xã hội Cộng sản đại đồng. Người yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, dân tộc sẽ ghi ơn họ một cách công bằng.

Tôi tin, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Ngoài một Nguyễn An Ninh để lại thịt xương, một Trần Cao Vân, một Phan Chu Trinh để lại những bài thơ viết bằng máu và mồ hôi trong những ngày đập đá, còn có hàng ngàn, hàng vạn đồng bào đã chết trong âm thầm, không để lại họ tên.

Nhưng cho dù họ có để lại đủ họ tên đi nữa, các thế hệ Việt Nam sau 1975 cũng không có quyền biết đến họ, không có cơ hội để cám ơn họ, để thắp một nén hương, và phần mộ họ một mai có thể sẽ bị san bằng theo mưa nắng. Đảng Cộng sản không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà còn cố tình nhuộm đỏ cả lịch sử.

Côn Đảo ngày nay gắn liền với tên tuổi của các đảng viên Cộng sản trung ương Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Lê Quang Vịnh v.v. Các em học sinh đang sắp hàng chờ vào xem những xà lim kia làm sao biết được, với số đảng viên vỏn vẹn 5 ngàn vào mùa thu 1945, đảng Cộng Sản, dù bị bỏ tù và chết gấp mười lần trong hai cuộc chiến, cũng không thể bằng với con số khoảng 200 ngàn người Việt Nam yêu nước đã từng ở tù Côn Đảo theo nhiều nguồn ước lượng.

Các em cũng không biết rằng hàng trăm lãnh tụ cách mạng không Cộng sản mà đức độ và tài năng bao trùm nhiều lãnh vực như Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trương Tử Anh, Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế Nghiệp v.v., đã không ở tù hay chết ngoài Côn Đảo chỉ vì họ bị Cộng sản thủ tiêu ngay tại đất liền.

Khác với đảng Cộng sản được thành lập từ nước ngoài theo chỉ thị của quốc tế Cộng sản và nhiều đảng viên được đưa sang Trung Quốc, Liên Xô huấn luyện một cách bài bản nhằm thực hiện các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn của trung ương đảng đề ra, phần lớn đảng phái không Cộng sản đã sinh ra và lớn lên ngay trong lòng dân tộc với tất cả khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt. Họ không chỉ bị chết dưới lưỡi đao phong kiến, máy chém thực dân mà còn chết trong bàn tay của những người cùng máu mủ với mình.

Đọc lại diễn tiến của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, quá trình thành lập các đảng phái không Cộng sản và lắng nghe các nhà cách mạng trải lòng qua thơ văn đẫm đầy máu lệ, mới cảm thấy lòng yêu nước của thế hệ cha ông thật vô bờ bến.

Bằng hành trang duy nhất trên vai là lòng yêu nước, các nhà cách mạng không Cộng sản dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc trên chuyến xe chạy bằng máu của chính mình.

Chiều mùa hè năm đó, lần đầu tiên trong đời tôi xúc động đứng im lặng trước anh linh của những anh hùng đã ngã xuống cho độc lập tự do thật sự của dân tộc. Xương thịt của những người đã hy sinh từ phong trào kháng thuế miền Trung, Hà Thành đầu độc, khởi nghĩa Duy Tân, Thái Nguyên, Yên Bái hẳn đã hòa tan vào lòng đất mẹ nhưng anh linh họ vẫn là ngọn đuốc soi sáng giấc mơ Việt Nam độc lập, tự chủ của dân tộc.

Như tôi có lần đã viết. Giấc của họ là giấc mơ của những người để lưng trần, tóc cắt ngắn, đóng khố che thân, dắt bầy con, vượt bao nhiêu núi rừng ghềnh thác trong cuộc nam tiến đầy gian nan nhưng vô cùng hiển hách, từ dọc bờ Dương Tử di dân xuống lưu vực sông Hồng cách đây gần 50 thế kỷ. Trong lúc bao nhiêu bộ tộc Bách Việt khác đã hoàn toàn bị tiêu diệt hay đồng hóa vào những tỉnh, những huyện như Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay, giòng giống Lạc Việt qua bao độ thăng trầm, vẫn tồn tại và trưởng thành như một nước Việt Nam.

Giấc mơ của họ là giấc mơ của những người đã tạo nên nền văn minh Việt Nam rất sớm. Nơi đó, từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên, tổ tiên chúng ta đã biết trồng cây ăn trái, biết làm đồ gốm, biết đẽo đá thành những lưỡi cuốc nhọn, biết đắp đất ngăn bờ để đưa nước sông vào ruộng. Tổ tiên chúng ta đã biết xây dựng các cơ xấu xã hội, lấy thôn làng làm căn bản, lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế, lấy tình nghĩa đồng bào làm sức mạnh, lấy nguồn gốc tổ tiên (một mẹ trăm con, chung cùng bọc trứng) làm nơi nương tựa tinh thần. Những hình ảnh thân thương quen thuộc của cây đa, bến nước, sân đình gắn liền trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Chính tinh thần văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý đồ đồng hóa phát xuất từ phương Bắc.

Giấc mơ của họ là giấc mơ của một dân tộc hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường, nhà Minh qua bốn lần bắc thuộc với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất.

Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên đã đổ xuống trước các cuộc xâm lăng của các triều đại Bắc phương khác.

Lịch sử bao giờ cũng mang tính kế tục nhưng trước hết là lịch sử của thời đại. Mỗi thế hệ có một trách nhiệm để hoàn thành những trách nhiệm mà lịch sử giao phó cho thời đại của họ nhưng dù không hoàn thành, ngọn đuốc lịch sử vẫn phải được chuyển sang bàn tay thế hệ khác. Giấc mơ về Việt Nam tự do, dân chủ và giàu mạnh dù sớm hay muộn sẽ phải thành hiện thực.

Thời gian gần đây, tôi có dịp đọc nhiều bài viết từ những tấm lòng đang băng khoăng vì đất nước. Phần lớn bắt đầu bằng nhóm chữ “chưa bao giờ …như hôm nay”. Chưa bao giờ con người Việt Nam bị khinh thường như hôm nay. Chưa bao giờ lãnh thổ Việt Nam bị chiếm đoạt trắng trợn như hôm nay. Chưa bao giờ chủ quyền đất nước bị đe dọa như hôm nay. Chưa bao giờ tài nguyên thiên nhiên bị thất thoát như hôm nay. Tất cả đều đúng cả. Tôi chỉ muốn thêm vào một “chưa bao giờ” nữa, đó là, chưa bao giờ ranh giới giữa dân tộc và phản dân tộc rõ ràng như hôm nay. Biên giới đó rõ ràng đến mức một người Việt Nam có thể chọn lựa đứng về phía chính nghĩa, phía dân tộc mà không phải lo lầm lỡ về sau.

Giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn một con đường riêng của họ. Con đường đảng chọn cũng rất rõ ràng: phát triển đất nước theo định hướng Trung Quốc và cùng lúc bằng mọi giá duy trì chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam.

Bộ chính trị trung ương đảng Cộng sản Việt Nam không phải là những người không biết suy nghĩ, không thấy đúng, thấy sai và thậm chí có rất nhiều cơ hội để sửa sai nhưng quyền lợi cá nhân, phe nhóm và đảng đã che khuất sự sống còn và tương lai đất nước.

Nhân dân Việt Nam chịu đựng quá nhiều rồi, nhượng bộ quá nhiều rồi, lùi bước quá nhiều rồi. Từ xâm lăng Hoàng Sa đến chiến tranh biên giới, các trận đánh khu vực Lão Sơn, lấn chiếm Trường Sa, bắn chết ngư dân Thanh Hóa và hôm nay Bauxite. Chỉ một thời gian ngắn thôi mà nhìn ra biển, nhìn lên núi, nhìn xuống phố, nhìn qua sông, đâu đâu cũng thấy hàng Trung Quốc, đất Trung Quốc, đảo Trung Quốc, người Trung Quốc, vài chục năm nữa đất nước sẽ ra sao?

Tại sao Trung Quốc không bắn thủng tàu, không ăn cướp tài sản, đất đai của Thái Lan, Philippines hay ngay cả của đàn em Bắc Hàn một cách công khai, lộ liễu như họ đã và đang làm đối với Việt Nam? Một người có ý thức nào cũng biết, đơn giản bởi vì giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc sống trong gan ruột của giới lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam những kẻ không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc núp dưới chiếc dù Trung Quốc.

Như tôi có lần mách nước cho bà con ngư dân trong bài “Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa”, cách hay nhất để khỏi bị hải quân Trung Quốc bắn chết là khi tàu đánh cá vừa ra khỏi cửa biển thì xin các bác làm ơn hạ cái lá cờ gọi là “cờ tổ quốc” xuống dùm. Nếu phải treo thì treo đại một lá cờ Phi, cờ Thái Lan, cờ Nhật lên mũi tàu. Nói ra thì cho là phản động nhưng tin tôi đi, làm như thế bà con ngư dân mới hy vọng còn đường trở về với vợ con.

Thời điểm 1958, Pháp đã rút đi và Mỹ thì chưa đến mà Phạm Văn Đồng, còn có thể thay mặt cho 11 ủy viên bộ chính tri, hạ bút ký một văn kiện nhục nhã như thế thì với hoàn cảnh phe Cộng sản chỉ còn lại năm anh em trên một chiếc xe tang, trong đó có đến bốn em đang lâm cảnh hàn vi đói khát, thì chuyện gì mà họ không dám làm. Lê Khả Phiêu, trong giai đoạn tìm về chủ cũ năm 1991, cũng có thể đã ký những văn bản tương tự như văn bản của Phạm Văn Đồng, khác chăng, “đồng chí Phạm Văn Đồng bị lộ” và “đồng chí Lê Khả Phiêu chưa bị lộ” mà thôi.

Người Do Thái nguyền rủa Hitler, nhân loại kết án Hitler, nhưng nhân dân Đức trước khi có thái độ tương tự, họ phải biết trách các thế hệ Đức trong thập niên 30 của thế kỷ 20, bởi vì chính dân Đức thời đó bằng con đường bầu cử hợp pháp đã đồng ý đặt mình dưới sự lãnh đạo của Hitler và đảng Quốc Xã. Nhân dân Việt Nam chưa bao giờ bầu đảng Cộng sản để lãnh đạo nhưng chắc chắn cũng sẽ phải trả lời cho các thế hệ mai sau về thái độ thờ ơ, thỏa hiệp, yếu hèn của các thế hệ hôm nay trước tình trạng băng hoại đạo đức, lạc hậu kinh tế, thất thoát tài nguyên, mất mát lãnh thổ và suy yếu chủ quyền đất nước.
 
Dưới gót giầy Quân Minh
Xuân Ly Băng
17:17 24/05/2009
Cảnh mất nước, ôi thảm thê nhục nhã
Gót quân thù giày xéo khắp non sông
Giặc nhà Minh hai mươi năm ròng rã
Áp bức dân ta, tàn bạo vô cùng.

Bọn Hoàng Phúc và thổ quan nô dịch
Nướng dân đen như nướng thịt trong lò
Lá cây rừng không ghi hết tội địch
Nước biển xanh đâu rửa hết tanh nhơ

Chúng vơ vét nào trân châu bảo ngọc
Bắt dân mình phải lặn biển trèo non
Chúng bòn mót từng đấu ngô hạt thóc
Dân điêu linh ngày tháng chết mỏi mòn

Thuế khóa nặng nề, phu phen khủng khiếp
Đẩy dân mình xuống hố thẳm vực sâu
Lớp tráng niên sức mỗi ngày cùng kiệt
Lớp nữ nhi chúng cưỡng bức về Tàu

Ruột thịt tan tành, gia đình ly tán
Tiếng khóc than như thác nước vỡ bờ
Ngập đất trời trào lên muôn sầu oán
Hết tình người… chúng vẫn đứng nhìn trơ

Bọn Trương Phụ còn vô cùng tàn ác
Bắt dân ta đồng hóa với người Tàu
Xóa tên nước, đổi thay cách ăn mặc
Bao sách vở chúng càn quét tịch thâu

Chúng muốn diệt dân mình tận góc rễ
Nên cướp phá mọi di tích, bia đài
Chúng bắt dân trọn đời làm nô lệ
Quyền sinh sát một tay chúng tác oai

Chúng hạ nhục dân mình đến tột độ
Lệnh “bái hài” chúng công bố khắp nơi
Người khí khái phải cực cùng khốn khổ
Vì quốc thể mà máu chảy đầu rơi

Tội giặc Minh muôn đời không kể xiết
Đất trời nào mà lại có dung tha
Sẽ một ngày vùng lên toàn dân Việt
Diệt xâm lăng để giải phóng sơn hà

Thu 1979
 
6.000 gián dân giáo xứ Hữu Lễ thuộc giáo phận Thanh Hóa thắp nến cầu nguyện cho Công Lý và Tây Nguyên
Phóng viên Hà Nội
22:53 24/05/2009
THANH HÓA - Tối 23 tháng 5 năm 2009, hơn 6000 giáo dân giáo xứ Hữu Lễ đã tổ chức buổi thắp nến cầu nguyện cho công lý hòa bình, cho các vị đại biểu Quốc Hội biết lắng nghe tiếng dân và hiểu thấu lòng dân, có can đảm để can thiệp để Nhà Nước CSVN dừng lại dự án bauxite Tây Nguyên giúp đồng bào thoát khỏi hiểm họa bauxte đỏ và nhất là giúp dân tộc thoát khỏi nạn xâm lăng của Trung Cộng.




 
Thông Báo
Thư mời Đại Hội Phó Tế Việt Nam lần thứ III
Pt Joseph Nguyễn Ánh
17:04 24/05/2009
CỘNG ĐỒNG PHÓ TẾ VIỆT NAM - HOA KỲ
THƯ MỜI ĐẠI HỘI PHÓ TẾ VIỆT NAM LẦN THỨ III

Orange County, ngày 20 tháng 5 năm 2009

Kính gởi: Quý Thày Phó tế và Phu nhân; Quý Ứng viên và Phu nhân

Để duy trì sự hiệp thông trong Giáo Hội, và theo tinh thần của Đại Hội Phó Tế lần thứ II vào tháng Bẩy năm 2007 tại Orange County, California. Ban Tổ Chức trân trọng kính mời Quý Thày Cô và Quý Ứng Viên và Phu Nhân đến tham dự Đai Hội Phó Tế lần thứ III, tại:

Marywood Center (Tòa Giám Mục GP. Orange)
2811 E. Villa Real Drive, Orange - CA 92863
Phone: (714) 240-8508 / (714) 504-9186
Anh9650777@yaho o.com / ngoddong@yahoo.com

Thời gian: Từ 2 giờ chiều thứ Sáu ngày 31 tháng 7 năm 2009
đến 2 giờ chiều Chúa Nhật ngày 02 tháng 8 năm 2009

Mục đích của Đại Hội là để thắt chặt tình thân ái giữa các Thày Cô trong đại gia đình Phó tế, là cơ hội gặp gỡ, nâng đỡ, cùng trao đổi kinh nghiệm phục vụ. Điểm quan trọng trong năm nay là chúng ta sẽ bầu lại Ban Chấp Hành Cộng Đồng nhiệm kỳ 2009-2011.

Chủ đề của Đại Hội Phó Tế Kỳ III là “Người Phó Tế với Thánh Phaolô”. Trong Đại Hội này, chúng ta sẽ có dịp tìm hiểu về Thánh Phaolô nói gì với người Phó tế và Gia đình, cũng như người Phó tế trong năm thánh Phaolô đã phục vụ như thế nào?

Một lần nữa, Ban Tổ Chức tha thiết, mong mỏi sự đáp ứng nhiệt tình của quí vị, vì đó là một đóng góp tích cực cho đại gia đình Phó tế. Ngoài ra, bên cạnh những món ăn tinh thần, chúng ta còn có dịp thưởng thức những món ăn thuần túy quê hương nơi miền nắng ấm Cali.

Thay mặt Ban Tổ Chức, xin Thiên Chúa chúc lành cho toàn thể quí vị, và hẹn gặp nhau trong ngày Đại Hội. ( Xin mang Alba & Stole xanh - Thánh Lễ Đại Trào)

Trân trọng,

Phó tế Joseph Nguyễn Ánh
Chủ Tịch CĐPTVNHK
Phó tế Vincent Ngô Đình Đông
Trưởng Ban Tổ Chức
 
Đại Hội Giáo Lý Toàn Quốc kỳ X mang chủ đề: “Thánh Phaolô Tông Đồ: Mẫu Gương của Giáo Lý Viên”,
LM Giuse Nguyễn Thanh Liêm
17:26 24/05/2009

Ngày 25 tháng 5, 2009

Thư gởi Cha Trưởng Ban - Đại Hội Giáo Lý Kỳ X

Kính thưa Cha Việt Hưng,
Trưởng Ban Giáo Lý Việt Nam Tại Hoa Kỳ,

Được tin, trong phiên họp của Ủy Ban Giáo Lý Việt Nam tại Hoa Kỳ, tổ chức tại Nhà Ơn Gọi Tu Hội Nhập Thể Tận Hiến Truyền Giáo, Ủy Ban đã quyết định tổ chức Đại Hội Giáo Lý kỳ X, vào cuối tuần 12-14 tháng 6 năm 2009, tại Baton Rouge. Đại Hội Giáo Lý Toàn Quốc kỳ X mang chủ đề: “Thánh Phaolô Tông Đồ: Mẫu Gương của Giáo Lý Viên”, thay mặt Ban Lãnh Đạo Liên Đoàn, chúng con chân thành cám ơn Cha và quý cộng tác viên vất vả hy sinh thời gian và công sức tổ chức Đại Hội này cho quý Giáo Lý Viên trên toàn Hoa Kỳ.

Chúng con được biết sáu đề tài hội thảo sẽ xoay quanh chủ đề này, nhằm "giúp cho các giáo lý viên hiểu, sống và truyền đạt cho các học sinh tinh thần, giáo lý và gương sống đức tin của Thánh Phaolô, Tông đồ Dân Ngoại, một nhà thần học, và một nhà truyền giáo số một: hăng say, nhiệt thành, hy sinh, quên mình, quảng đại..." và "ngoài sáu đề tài hội thảo trên đây, Đại Hội vẫn duy trì ba đề tài hội thảo mang tính huấn luyện dành cho giáo lý viên: Phương pháp soạn bài và đứng lớp, Sinh hoạt của lớp Giáo Lý và Tĩnh Tâm Thêm Sức Ephata". (Lá thư Cha Trưởng Ban)

Chúng con cầu nguyện để Đại Hội sẽ đạt được kết quả tốt đẹp như Ủy Ban mong muốn.
Xin Thiên Chúa chúc phúc lành xuống trên Đại Hội, Cha Trưởng Ban và tất cả quý anh chị em Giáo Lý Viên. Xin Cha cũng chuyển giùm lời chào thăm của chúng con đến Đại Hội, và lòng chân thành biết ơn những sự hy sinh của quý Giáo Lý Viên phục vụ tại các Giáo Xứ, Họ Đạo, Cộng Đoàn địa phương trong bao nhiêu qua.

Rất thân mến,

Chủ Tịch Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ