Ngày 18-04-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Khôn trong Chúa
Lm Vũđình Tường
02:31 18/04/2009
Như thế nào được coi là khôn ngoan trong Chúa? Thưa, rất đơn giản. Tin vào Ngài sẽ nhận được ơn khôn ngoan trong Chúa. Vì ‘Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành’ Mat 7, 24-27.

Những lúc mặt hồ phảng phất gió, sóng biển ít gào thét, cây cối hơi uốn mình, ngọn cỏ rung nhè nhẹ. Trong sông, ngoài biển cá đùa vui. Trên trời chim bay. Dưới đất bướm lượn. Trái lại lúc biển gầm, sóng vỗ, cây cúi rạp mình, mưa gào, thác đổ. Tai ương xảy đến lúc đó mới rõ con cá, cánh bướm, chim trời, côn trùng và ngay cả thảo mộc đời chúng cũng có mưa sa, bão táp. Tránh nóng khô gặp tuyết lạnh. Thời tiết tự ngàn xưa đến nay vẫn thế. Lúc nguy khốn, côn trùng chọn nấp sau các cây cổ thụ. Trong khi đó cây cối lại chọn nương theo chiều gió để sống còn.

Đời người

Đời người cũng vậy, tránh sao khỏi mưa to, gió lớn, bão lốc cuộc đời bất thình lình ập đến. Cố sự xảy ra, người có đức tin, tin tưởng, bám víu vào Chúa chặt hơn. Đời vẫn gặp mưa to, vẫn gió lớn, dông tố vẫn đến. Niềm tin không lay vì xây trên nền đá: Lời Chúa. Chọn đặt tin tưởng vào Chúa chính là chọn nương thân nơi cây cổ thụ. Cây cung cấp đức tin, cây ban sự sống trường sinh, cây không bao giờ đổ. Cây Đức Kitô treo trên đó để:

kéo mọi người lên cùng Ta.

Trái lại, đức tin hời hợt, khi con người bó tay, đầu hàng, chào thua. Lúc nguy cập biết chạy đâu? Kêu ai cứu? Cầu ai vớt? Khôn ngoan nước trời khác khôn ngoan thế gian. Biển đời sóng êm, gió lặng, khôn ngoan nước trời lặn sâu đáy biển. Biển gầm, sóng vỗ, khôn ngoan nước trời là phao cho ta bám. Đeo phao đời vẫn tròng trành, sóng vỗ dập dềnh, bị cuốn theo giòng đời nhưng chẳng chìm vì có phao đức tin trợ giúp. Lúc thập tử, nhất sinh mới biết ai khôn, ai dại. Khôn vặt suốt đời vẫn bằng không nếu có lần dại từ chối tin theo Chúa.

Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? Mat 16,24.

Khoa học gia khảo cứu về lịch sử tạo dựng vũ trụ và tiên đoán cuộc sống tương lai dựa vào nghiên cứu vật chất. Vật chất hay chết, sao giải thích được thần thiêng. Trong khi thần thiêng không hề chết lại giúp hiểu vật chất. Vì thế Đức Kitô nói với thánh Tôma.

Vì đã thấy Thần nên anh tin.

Phúc thay những người không thấy mà tin Gn 19,29


Đức Tin

Không đức tin hướng dẫn sao hiểu được lịch sử vũ trụ và lịch sử ơn cứu độ Chúa dành cho ta. Nhờ đức tin hướng dẫn con người có thể biết thêm về cuộc sống và hành trình về nước trời. Không ai hiểu thấu mầu nhiệm cuộc đời. Nhờ lòng tin giúp hiểu nhiều hơn về mầu nhiệm cuộc đời. Đức tin không nhằm mục đích giải thích về lịch sử sáng tạo, lịch sử đời người. Mục đích của đức tin giúp định hướng cuộc đời đi về đâu và mục đích sống trên đời. Nhờ đức tin hướng dẫn ta

Biết mình là anh chị em trong Chúa.

Biết là dân riêng Chúa chọn.

Biết được Chúa yêu thương.

Biết Chúa ban ơn cứu độ.

Biết Chúa cứu ta khỏi chết vì tội lỗi.

Biết Chúa thánh hoá, biến đổi cuộc sống ta trở nên giống Chúa hơn.

Không thể tìm thấy khôn ngoan nước trời nơi vật thể, nơi loài người. Khôn ngoan nước trời tìm nơi Đấng từ trời xuống. Điều kiện tiên quyết và duy nhất để gặp Ngài là tin. Từ đó lần mò học biết thêm về Thiên Chúa quyền năng, giầu tình thương và hay tha thứ.

Hạnh phúc thật chính là "Phúc cho ai không thấy mà tin"

TÌM BÀI CŨ:

Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html

Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html

Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:01 18/04/2009
SĨ DIỆN

N2T


Một vị chỉ đạo tu đức rất là danh tiếng thổ lộ với đại sư: “Tôi không thể cầu nguyện, cũng không cách gì hiểu được kinh thánh, càng không có phương pháp tu đức gì để dạy người khác...”

- “Sao không đem tất cả quăng đi ?” đại sư an ủi nói như thế.

- “Sao có thể làm như thế được ? Tôi vốn được gọi là người có thánh đức, lại có rất đông tín đồ theo sau.”

Sau chuyện đó, đại sư thở dài nói: “Cái hôm nay gọi là thánh đức, thì đã hữu danh vô thực; duy chỉ có thiên tài thì có thể xưng là hữu thực nhưng lại vô danh.

(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Có nhiều người vĩ sĩ diện mà không dám từ bỏ ơn thiên triệu của mình, họ sợ người khác cười, sợ mất tiếng tăm, sợ không còn được người khác kính trọng.v.v...nên vẫn cứ bám vào sĩ diện để rồi có khi mất linh hồn và tổn hại đến thân xác.

Biết mình không kham nổi công việc mà bề trên giao phó, nhưng vì bổng lộc, vì danh vọng hảo huyền mà không dám từ bỏ chức vụ; biết tình khả năng có hạn không làm được việc, nhưng vì ích lợi của một nhóm người nên bị họ xúi giục, mà không dám can đảm rút lui...

Sĩ diện là con dao hai lưỡi, một lưỡi để cắt tỉa cái tôi của mình ngày càng tốt đẹp hơn, một lưỡi khác thì đâm ngọt ngào vào yết hầu của mình để chết từ từ mà không biết.

Thành thật, khiêm tốn là hai thuẩn đỡ chống lại cái sĩ diện của mình.
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:03 18/04/2009
CHỦ NHẬT II PHỤC SINH (B)

Tin Mừng: Ga 20, 19-31.

“Tám ngày sau, Đức Giê-su đến.”


Bạn thân mến,

Chúa Giê-su đã sống lại rồi, và đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ của mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su lại hiện ra với các môn đệ, và ưu ái bày tỏ tình thương của Ngài khi chúc và ban bình an cho các ông, trong tâm tình ấy, tôi xin chia sẻ với bạn sự bình an của Chúa và bình an của con người, rồi bạn và tôi sẽ cố gắng tìm kiếm sự bình an thật trong cuộc sống của mình.

1. Bình an của Chúa Giê-su.

Nỗi kinh hoàng khi chứng kiến thầy mình bị tử hình trên thập giá vẫn chưa làm cho các tông đồ hết sợ, và sự thất vọng vẫn còn trên nét mặt của các ông thì Chúa Giê-su hiện đến, Ngài đến như dấu chỉ của yêu thương, như một sự an ủi, và củng cố niềm tin cho các môn đệ của mình sau những đau thương của Ngài mà các ông đã chứng kiến.

Liên tiếp nhiều lần hiện ra cho các môn đệ, Chúa Giê-su đều nhấn mạnh đến sự bình an, chỉ có bình an của Ngài mới thật sự đánh tan nỗi sợ hãi nơi các môn đệ; chỉ có bình an của Chúa Giê-su ban cho, thì các tông đồ mới mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng cho Chúa Giê-su Phục Sinh; chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mà Chúa Giê-su ban cho, thì các tông đồ mới trở thành những chứng nhân sống động không sợ hãi, không nhát gan, không ươn lười để rao giảng về Đấng Phục Sinh –Chúa Giê-su- mà mình đã tin theo.

2. Bình an của loài người.

Quan niệm của con người là hể có tiền, có vật chất, có quyền có thế, có người hầu hạ, có xe hơi nhà cao cửa rộng là có bình an và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì có những ông tổng thống bị giam tù, có những vị tỷ phú bị vợ bỏ, có những ca sĩ nổi tiếng tự tử, và có những người giàu có khác sống không có bình an và hạnh phúc, bởi vì bình an bởi tiền tài vật chất là bình an giả tạo, bình an do quyền lực mang lại là bình an không bền, bởi vì không có tình yêu thương.

Chúa Giê-su chịu đau khổ nơi thân mình và trong tâm hồn là vì sự bình an giả tạo của quan Phi-la-tô; Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá là bởi hạnh phúc giả dối của các thầy thượng tế, pha-ri-siêu và các kinh sư cũng như của những người Do Thái khác, bình an và hạnh phúc của họ chỉ là những đau khồ và nước mắt của người khác, cho nên không được bền lâu, và thay vì tận hưởng bình an mà họ tạo ra, thì tâm hồn của họ luôn áy náy, lo âu và phiền muộn...

Bạn thân mến,

Chúa Giê-su sống lại thật rồi, và Ngài vẫn còn ở lại với chúng ta mỗi ngày trong bí tích Thánh Thể, chính sự ở lại này mà Giáo Hội cho dù gặp nhiều phong ba bão táp thì vẫn cứ bình yên giữa biển đời, chính sự ở lại của Ngài trong bí tích Thánh Thể mà bạn và tôi luôn cảm thấy bình an trong tâm hồn, không chùn bước trước những đau khổ và thử thách, bởi vì chính những đau khổ và thử thách ấy, Chúa Giê-su đã cam chịu vì yêu thương chúng ta.

Bình an là món quà phục sinh mà Chúa Giê-su trao ban cho các môn đệ của Ngài sau khi Ngài sống lại từ cõi chết, ngày hôm nay, Ngài cũng ban sự bình an ấy cho chúng ta, nếu chúng ta biết cầu xin và dám “chết” cho cái tôi của mình, cũng như dám xác tín bình an của Chúa là lâu dài, để đánh đổi những cám dỗ của ma quỷ và những lạc thú của thế gian, đó là những bình an giả tạo của con người.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

-------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://360.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:05 18/04/2009
N2T


143. Chúng ta sống ở đời này để tìm kiếm ngôi báu trên trời; bản tính của chúng ta thì không thể đạt được ngôi báu ấy, nhưng có thể dùng thánh đức để chiếm hữu nó.

(Thánh Hieronymus)
 
Mỗi ngày một câu Cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
04:06 18/04/2009
N2T


89. Dũng khí làm cho con người ta kiên cường đối diện với sự vật, và cũng làm cho con người ta giữ thái độ lạc quan.

 
Đóng bè để giữ vững đức tin
LM. Trần Bình Trọng
05:18 18/04/2009
ÐÓNG BÈ ÐỂ GIỮ VỮNG ÐỨC TIN

Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Năm B:

Kính Lòng Thương Xót Chúa

Cv 4:32-35; 1Ga 5:1-6; Ga 20:19-31


Có ai dám cả gan bơi ngược dòng nước chảy mạnh xuống dốc, cuốn theo những vật trên mặt nước, hay chỉ có những người liều lĩnh mới làm như vậy không? Những trào lưu tư tưởng phóng túng, những lối sống buông thả, sa đoạ trong xã hội hiện đại với nhiều phương tiện truyền thông cận đại và nhanh chóng, giống như những dòng nước chảy mạnh. Bên cạnh dòng nước chảy mạnh, còn có những dòng nước nhỏ, chảy chậm hai bên bờ. Ðể khỏi bị lôi cuốn vào dòng nước chảy mạnh, người ta phải dùng một trong hai giải pháp. Một là dùng thuyền nhỏ, đi mon men sát bờ, đôi khi cần bám vào những gốc rể cây. Hai là đóng bè lớn cho vững chắc, rồi chung sức lèo lái: người thì dùng chèo để chống cho thuyền khỏi trôi xuôi dòng nước, người khác dùng sào dài để đẩy cho thuyền đi ngược dòng từng nấc và cứ thế từng nấc một. Sống trong xã hội hiện nay, người ta chỉ cần nhấn con chuột là tin tức và hình ảnh có thể hiện ra trên màn ảnh máy điện toán ngay tại phòng ngủ, người ta ít có cơ hội chọn giải pháp đi mon men hai bên bờ. Vì thế người ta cần đóng bè để giúp nhau giữ vững đức tin.

Người ta cũng đóng bè với nhau vì hai lý do. Một là cùng chung một đối tượng, một mục đích như cùng xuống đường để đòi hỏi một quyền lợi hay phản đối điều gì. Hai là cùng chia sẻ một cảm tình như lo sợ, vui mừng.. chẳng hạn dự đám cưới để chia vui, dự đám tang để chia buồn..

Sau biến cố tự nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để đóng bè. Vì sợ người Do Thái phát hiện như Phúc âm hôm nay kể lại mà các tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong. Trong cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình, các ông tụ họp nhau lại cầu nguyện để ủng hộ tinh thần và nâng đỡ nhau. Bỗng nhiên Ðức Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.

Riêng có ông Tôma lại tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20:25). May phúc cho ông là chính Ðức Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông. Lúc này ông mới kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20:28).

Cộng đồng Kitô giáo hay chặt chẽ hơn là cộng đồng Công giáo được gọi là cộng đồng đức tin, gồm những người cùng chia sẻ một niềm tin và cùng theo đuổi một mục đích. Nếu muốn giữ vững đức tin, người ta cần ở lai trong cộng đồng, thờ phượng và sinh hoạt với cộng đồng đức tin. Khi người ta liên kết và thờ phượng với cộng đồng đức tin, đức tin của họ sẽ được củng cố. Nếu đức tin của người ta vững mạnh, họ có thể giúp làm tăng triển đức tin của người yếu đức tin. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai, theo sách Công vụ Tông đồ, nhờ có đức tin tập thể của người nọ nâng đỡ người kia, mà họ có thể để mọi sự làm của chung (Cv 2:44). Còn thánh Gioan thì cho rằng nhờ đức tin mà người tín hữu thắng được thế gian (1Ga 5:4).

Ðức tin của người công giáo dựa trên hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Theo chiều dọc thì Thiên Chúa từ trên, mời gọi ta đến đời sống đức tin và ta đáp trả. Còn đức tin dựa theo chiều ngang có nghĩa là ta cần dựa vào cha mẹ, họ hàng, bạn hữu và những người cùng chung một niềm tin, để giúp nhau duy trì và phát triển đức tin. Ta cần tìm đến những người có đức tin mạnh, những người có tâm hồn đạo hạnh, để hun đúc lại đức tin của mình. Ngoài ra đức tin cần phải được thực hành. Nếu không thì như Thánh Giacôbê quả quyết: Ðức tin không có việc làm, là đức tin chết (Gc 2:26). Vì thế những người chủ trương giữ đạo tại tâm là tự lừa dối mình. Tách biệt ra khỏi cộng đồng đức tin, đức tin của người tín hữu có thể bị lung lạc, khi bị gièm pha và tấn công bởi những người chống đối đạo.

Ðể áp dụng thực hành, người ta cần biểu lộ đức tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, làm việc bác ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Còn loài người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu.. để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho họ về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.

Nhà thờ xứ đạo là biểu hiệu đức tin và là trung tâm điểm của đời sống đức tin. Sau khi sinh ra, ta được mang đến nhà thờ để chịu Phép Rửa tội. Ta Rước lễ lần đầu ở trong nhà thờ. Ta chịu Phép Thêm sức cũng ở trong nhà thờ xứ đạo. Và ta lãnh nhận Bí tích Hôn phối cũng ở trong nhà thờ. Khi nằm xuống vĩnh viễn, thân xác ta còn được mang đến nhà thờ để được cử hành lễ an táng. Ðến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ là cách biểu lộ đức tin một cách cụ thể nhất. Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng việc bàu cử của Mẹ Maria và các thánh, bằng lời cầu nguyện và gương sáng của người tín hữu khác. Không tìm đến sức hỗ trợ thiêng liêng, là tự cô lập hoá đức tin của mình.

Hôm nay cũng là Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Năm 1931, Chúa Giêsu hiện ra và yêu cầu nữ tu Faustina Kowalska cổ võ lòng thương xót Chúa. Chúa bảo thánh nữ cho vẽ bức ảnh mô tả lòng thương xót Chúa như thánh nữ đã thấy trong thị kiến với lời ghi chú: Lậy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa. Thứ Sáu Tuần thánh 1937, Chúa còn yêu cầu thánh nữ cổ võ làm Tuần Cửu nhật bắt đầu từ Thứ Sáu Tuần thánh bằng cách dùng tràng hạt đọc chuỗi thương xót: Vì cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới như khi lần hạt mà đọc kinh Kính mừng, để mừng Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa.

Lời nguyện theo kinh đọc ngày thứ năm Tuần Cửu nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa:

Lậy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót,

là chính sự lân ái.

Chúa không từ chối những ai tìm kiếm ánh sáng của Chúa.

Xin đón nhận vào trái tim vô cùng từ bi lân mẫn Chúa,

linh hồn những người đã li khai khỏi Giáo hội Chúa.

Xin lấy ánh sáng Chúa dẫn dắt họ về hiệp nhất với Giáo hội,

đừng để họ thoát khỏi Trái Tim từ bi lân ái Chúa,

nhưng xin dẫn họ về để họ cũng được tôn vinh

lòng quảng đại xót thương của Chúa. Amen. 1


_________________

1. Bản dịch kinh của Văn Phòng Mục Vụ Tông Ðồ Fatima Việt Nam tại Hoa Kì từ bản Anh ngữ

Marians of the Immacualate Conception/ Association of Marian Helpers, Stockbridge, MA.
 
Được chữa lành khỏi hoài nghi
LM. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
15:45 18/04/2009

Được chữa lành khỏi hoài nghi



Có người nào can đảm dám đặt ngón tay vào vết thương mở rộng máu me đang chảy ra nơi thân thể người khác không?

Tôi thì không có cam đảm làm chuyện này, cùng ngay cả nơi vết thương trên thân mình tôi nữa cũng không. Vì tôi sợ làm đau thêm, và có thể vết thương sẽ mở rộng ra, máu lại chảy nhiều hơn nữa!

Người mẹ khi thấy con mình ngã té, em bé khóc kêu la, vì vết thương làm em đau. Mẹ em tất tưởi chạy lại ôm em vào lòng, lấy nước bọt xoa bóp cùng thổi vào chỗ vết thương. Nhờ đó, cơn đau giảm dịu bớt.

Nếu vết thương nặng to hơn, mẹ em hối hả bế em chạy đi tìm cách băng bó chữa trị cho máu khỏi chảy ra, cho giảm bớt sự đau đớn.

Khi có vết thương, hầu như ai cũng không muốn để lộ ra. Nhưng tìm cách băng bó che dấu lại. Và cũng chẳng ai muốn gây vết thương đau đớn cho ai hết. Đó là đời sống tự nhiên của con người.

Ấy thế mà Thánh Toma tông đồ lại muốn xỏ ngón tay vào vết thương của Chúa Giêsu, như thánh nhân muốn: có được như thế tôi mới tin Chúa Giêsu đã sống lại!

Ông nghi ngờ và chỉ muốn tin sau khi đã sờ mó đụng chạm vào vết thương của Thầy Giêsu mình. Ông đòi bằng chứng cụ thể mắt thấy tai nghe tay đụng chạm sờ mó, chứ lời nói xuông không có sức thuyết phục được ông.

Chúa Giêsu sống lại hiện ra chỉ cho các Tông đồ những vết thương nơi chân tay, nơi cạnh sườn ngài.

Ông Toma đòi hỏi xem và sờ vào vết thương của Chúa Giêsu, rồi mới tin.

Bây giờ đến lượt Chúa Giêsu đòi hỏi ông hãy làm như ông đòi hỏi, để ông thoát ra khỏi vòng hoài nghi.

Lời yêu cầu của Chúa Giêsu: Toma hãy đến và sờ vào vết thương của Thầy, là lời mời gọi hãy đến gặp gỡ đụng chạm vào Chúa.

Thánh Toma đã chấp nhận lời mời gọi của Thầy Giêsu. Và qua đó Ông đã được chữa lành khỏi vòng hoài nghi. Từ cuộc gặp gỡ đụng chạm sát gần gũi, đức tin sống động lại trong tầm hồn đời sống Ông. Đức tin vào Chúa phục sinh khác nào như đôi cánh cho Ông bay lên vút lên cao. Và nhờ đó Ông đã dấn thân theo lời Chúa truyền đi tới tận nước Ấn Độ rao truyền làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh.

Sự hoài nghi ăn rễ sâu biểu hiện qua thắc mắc, và nhờ thế thúc đẩy con người chúng ta tiến tới hướng về đàng trước. Trong việc giáo dục đào tạo xưa nay, nhất là ngành nghiên cứu, đều khởi đầu từ hoài nghi thắc mắc.

Biết Toma hoài nghi, nhưng Chúa Giêsu không loại bỏ khước từ ông. Trái lại ngài cởi mở cùng đòi hỏi Ông tiến đến gần xỏ ngón tay vào vết thương của ngài. Qua kinh nghiệm thực tiễn đó, Ông Toma đã từ hoài nghi trở thành người tin.

Như Thánh Toma, chúng ta, dù có yếu kém lòng tin, cũng được phép tiếp cận với Chúa Giêsu, qua cầu nguyện, tìm hiểu suy tư về thiên nhiên, qua tín hiệu của những biến cố trong đời sống, qua tiếp nhận các Bí tích trong đời sống đức tin, nhất là qua đời sống bác ái tình người. Từ sự tiếp cận cá nhân giữa ta với Chúa, sẽ tìm được cửa ngõ thông thương đến với ngài. Và từ tiếp cận với những bí nhiệm lạ lùng đó, một sức mạnh lạ lùng cũng nảy sinh có sức đánh thức tâm hồn niềm tin ta bừng tỉnh sống lại.

Tuy con người trong xã hội sống bên cạnh gần nhau, nhưng mỗi người đều tự thu mình vào một thế giới riêng của mình, họ như cố gắng giữ khoảng cách giữa nhau cho khỏi bị đụng chạm phiền hà…Sự tiếp cận gần gũi nhau, như giúp đỡ, an ủi liên đới với nhau, là điều tốt cùng cần thiết, nhưng càng ngày càng ít đi, nhất là trong xã hội văn minh có đời sống cao cấp sung túc.

Đức tin vào Thiên Chúa và vào sự sống lại của Chúa Giêsu nảy sinh sống động, khi vết thương tâm hồn đời sống nơi con người được chữa lành qua sự tha thứ làm hòa giữa nhau.
 
Cộng đoàn Phục Sinh
+ TGM Giuse Ngô quang Kiệt
17:30 18/04/2009
Chúa Nhật II Phục sinh

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Ga 20, 19-31: Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Các bài đọc hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các sách Tin mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:

Đó là cộng đoàn cầu nguyện.

Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thày thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thày Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thày. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thày để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thày đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.

Đó là cộng đoàn đức tin.

Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường.

Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin. Như trường hợp của Tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.

Đó là cộng đoàn đức ái.

Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung...Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng đoàn như thế.

Đó là cộng đoàn chứng nhân.

Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô phục sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của các Tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mácđala, của Phêrô và Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tôma.

Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan toả ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh mẽ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hoà. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống.

Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô phục sinh, đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Giáo xứ của bạn, khu xóm của bạn, gia đình của bạn đã được ơn phục sinh chưa ?
2- Bạn phải làm gì để góp phần đem ơn phục sinh đến cho gia đình, khu xóm, giáo xứ của bạn ?
3- Trong những nét đẹp của cộng đoàn phục sinh, theo bạn nét đẹp nào có sức hấp dẫn nhất ?
 
Em có thấy
Sa Mạc Hồng
17:31 18/04/2009
Em có thấy Ngài
Trong buổi sáng Phục sinh
Khi sương mai còn đọng trên cành
Vẳng tiếng chim vui reo hót
Đoá hồng ân rọi ánh bình minh
Em có thấy Ngài mặc áo trắng
Từ phía cửa mồ đi ra
Trong ánh sáng chói loà
Vang tiếng thiên thần ca hát
Em có biết trên đường Emmau
Mấy môn đồ đi bên nhau
Trong nỗi niềm man mác
Chẳng hiểu hết ý nhiệm mầu!

Em không thấy những gì em muốn thấy
Nhưng em nghe Ngài nói thật chân tình
“Phúc cho ai không thấy mà tin” (Yn20,29)
Dù em không tin hay em không thấy
Đức Kytô, Ngài cũng đã Phục sinh!
 
Chứng nhân Phục Sinh
Hai Tê Miệt Vườn
17:36 18/04/2009
Chứng nhân của Chúa Phục Sinh.
Là khi anh sống chữ tình Tình tối đa.
Trước tiên với Chúa là Cha.
Sau cùng kẻ khác chẳng xa lạ gì.
Ngày đêm anh quyết thực thi
Giới răn bác ái chỉ vì yêu thương.
Lòng anh chẳng có ghen tương.
Không còn đó kỵ, vấn vương hận thù
Nhưng luôn anh sống hiền từ
Với bao nhân thế, chẳng chừ một ai.
Tình anh đâu bị tàn phai.
Vẫn hằng tồn tại mãi hoài nơi Cha.
Cuối đời anh được về nhà.
Cùng toàn nhân loại bên Cha trên trời.
Sau khi sống trọn kiếp người.
Trên nơi dương thế bằng đời yêu thương.

CUNG CÁCH LÀM CHỨNG

Niềm tin vào Chúa Phục Sinh.
Được anh diễn tả, chứng nhân cho đời.
Bằng qua cuộc sống tuyệt vời,
ở trong sự thiện, rạng ngời tình yêu.
Nghĩa tình mới thật mục tiêu,
Suốt đời anh nhắm, chẳng liều bỏ qua.
Đời anh một bản trường ca,
Về lòng từ ái của Cha trên trời.
Đây là cách thế kêu mời,
Mọi người dương thế sống đời thiện chân.
Cùng nhau chung sức góp phần
Dựng xây xã hội tốt lành đẹp tươi
Dắt nhau thẳng tiến về trời
Nghìn thu vui sống bên Người Cha yêu.

Phục Sinh 2009
 
Lễ phong chức Phó Tế tại Sydney
Diệp Hải Dung
17:54 18/04/2009
SYDNEY - Tối thứ Sáu 17/04/2009 Đông đủ Giáo Dân Úc Việt và quan khách đã đến nhà thờ Our Lady of Mt Camel Giáo đoàn Mount Pritchard tham dự Thánh lễ truyền chức Phó Tế cho Thầy Phêrô Đặng Đình Nên do Đức Giám Mục Phụ Tá Sydney Julian Porteous chủ tế và hơn 50 Linh Mục Úc Việt cùng đồng tế.

Xem hình ảnh

Sau bài đọc Phúc Âm là nghi thức phong chức Phó Tế cho Thầy Phêrô Đặng Đình Nên, Thầy được xướng danh và mời gọi lên bàn Thờ. Đức Giám Mục Julian tuyên đọc tiểu sử của Thầy và quá trình tu học trong Đại Chủng Viện Chúa Chiên Lành Sydney trong suốt thời gian 7 năm và hôm nay sẽ được lãnh nhận chức Phó Tế để tiến thân phục trên bước đường Tông Đồ cho Chúa. Kế tiếp Thầy phủ phục trước bàn thờ và Đức Giám Mục cùng với quý Cha quỳ đọc kinh cầu Các Thánh. Sau đó Thầy mặc Áo Dalmatica Phó Tế và tiến lên quỳ trước Đức Giám Mục lãnh nhận chức Phó Tế. Tất cả mọi người trong thánh đường đều hoan hỷ vổ tay chúc mừng Tân Phó Tế Phêrô Đặng Đình Nên. Nghi thức phong chức chấm dứt và tiếp nối là phần Thánh lễ tạ ơn do Đức Giám Mục chủ tế. Thầy Đặng Đình Nên được chính thức phụ giúp Thánh lễ cùng với Đức Giám Mục.

Trước khi kết thúc Thánh lễ, Thầy ngỏ lời cám ơn: “Hôm nay là ngày hết sức đặc biệt đối với con trên bước đường độc thân dâng hiến phục vụ Giáo Hội và Dân Chúa. Con hết lòng cám ơn Ba Mẹ và mọi thành viên trong gia đình đã dâng con cho Chúa. Mẹ đã mất nhưng con tin rằng giờ này Mẹ đang cùng con và mọi người trong gia đình cảm tạ ơn Chúa. Con xin cám ơn Đức Hồng Y George Pell đã nhận con vào chủng viện. Đức Giám Mục Juilian Porteous đã quan tâm giúp đỡ, các Cha trong ban giám đốc Chủng Viện Chúa Chiên Lành và các anh em chủng sinh đã đồng hành với con gần 7 năm qua. Con xin cám ơn Cha Nguyễn Văn Viên giới thiệu khuyến khích con vào chủng viện Chúa Chiên Lành. Con xin cám ơn Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn và Ban Tuyên úy CĐCGVN TGP Sydney đã dành cho con những cảm tình thân thương. Con cám ơn Cha Chính xứ Anthony Fregolent và Giáo đoàn Mt. Pritchard đã tạo điều kiện cho việc tổ chức Thánh lễ hôm nay. Cám ơn Cha Dương Thanh Liêm đã chuẩn bị cho Thánh lễ truyền chức rất chu đáo. Cám ơn Ban Thường Vụ và Hội Đồng Mục Vụ của tất cả các Giáo đoàn, Ban ngành đoàn thể trong Cộng Đồng. Con xin cám ơn quý Cha, quý Tu Sĩ Nam Nữ ở Sydney và các tiểu bang khác đã về đây dâng lễ cầu nguyện cho con. Cám ơn Ca đoàn Ngôi Ba Giáo đoàn Mt. Pritchard đã hy sinh thời giờ tập hát và làm cho bầu không khí trong Thánh lễ được thánh thiện sốt sắng. Sau cùng con xin cám ơn tất cả mọi người và nguyện xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta nhân ngày con lãnh chức Phó Tế. Xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho con.”

Sau đó Thánh lễ kết thúc, Đức Giám Mục và tất cả mọi người ở lại tham dự tiệc liên hoan chúc mừng Thầy Tân Phó Tế Phêrô Đặng Đình Nên và thưởng lãm văn nghệ do Ca đoàn Ngôi Ba trình diễn.
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một Linh Mục không ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ Tô Cách Lan trình diễn trên đài truyền hình Anh
Bùi Hữu Thư
02:41 18/04/2009
Một Linh Mục không ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ Tô Cách Lan trình diễn trên đài truyền hình Anh

Luân Đôn
(CNS) – Khán thính giả cười khúc khích và ban giám khảo cuả “Chương Trình Nước Anh có Nhân Tài”, hoặc trợn mắt hay cố giữ bộ mặt lạnh như tiền để che dấu sự ngờ vực khi người phụ nữ trung niên trông vụng về nói với họ là bà muốn được nổi tiếng như nữ tài tử kiêm ca sĩ Anh Elaine Paige.

Rồi Susan Boyle bắt đầu hát, và họ hết sức ngạc nhiên và sững sờ vì giọng hát tuyệt vời của bà và đứng lên vỗ tay.

Nhưng linh mục Basil Clark, xem chương trình truyền hình tại nhà ở Broxburn, Tô Cách Lan lại không ngạc nhiên.

Cha đã thấy tình trạng này xẩy ra bao nhiêu lần trước đây khi cha cùng đi với bà Boyle, 47 tuổi, trong cuộc hành hương hàng năm của Đạo Binh Đức Mẹ tới Đền Đức Mẹ tại Knock, Ái Nhĩ Lan.

Cha Clark, cha quản hạt West Lothian, nơi có gia đình của bà Boyle trú ngụ tại làng Blackburn, nói, "Khi tôi quan sát bộ mặt của ban giám khảo tôi nhớ lại phản ứng của tôi khi tôi thấy Susan hát lần đầu tiên – tôi hoàn toàn bị hấp dẫn bởi giọng hát tuyệt vời này.”

Cha cho cơ quan thông tấn Catholic News Service hay trong một cuộc phỏng vấn ngày 16 tháng Tư, "Ai thấy bà hát lần thứ nhất cũng có phản ứng như vậy. Tôi không bao giờ thấy bà hát dở, mặc dầu bà có thể quên lời vì quá căng thẳng.”

Bà Boyle đầu tiên xuất hiện trước các giám khảo Simon Cowell, Piers Morgan và Amanda Holden trên chương trình Truyền Hình ITV1 "Hoa kỳ có tài năng"; được phát hình ngày 11 tháng 4.

Tên tuổi của bà lan tràn trên mạng lưới toàn cầu, và chỉ trong 5 ngày bà đã thu hút được trên 15 triệu người trên YouTube với bài "I Dreamed a Dream," trong nhạc kịch "Les Miserables."

Một phần của sự thu hút của bà Boyle là bà không có vẻ gì là một ứng viên minh tinh màn ành. Bà nói trên đài truyền hình là bà “chưa bao giờ được hôn” và vẫn sống độc thân với con mèo từ khi mẹ bà qua đời năm 2007.

Theo giới truyền thông Anh, bà có khuyết tật về học vấn, vì bị ngạt thở, thiếu dưỡng khí lúc sanh ra. Bà thất nghiệp và là một người Công Giáo năng đi lễ, đời sống xã hội của bà xoay quanh gia đình và giáo xứ Đức Mẹ Lộ Đức. Bà cũng thích hát karaoke tại quán rượu điạ phương.

Cha Clark nói, "Khi bà đứng lên hát hoặc rất hay, hoặc sẽ có những cử chỉ lạ lùng vì bà có khuyết tật về học vấn.

Cha nói, "Dù sao thì đây là một giọng hát rất hay bị giam giữ trong một cơ thể bị hư hại. Đây là một sự tương phản tột cùng.”

Về phần bà Doyle, bà nói, “Tôi biết đây là một điều tôi phải làm. Tôi phải vượt thắng. Nhờ mẹ tôi mà tôi mới có can đảm.”

"Nhưng ai nhạo cười tôi bây giờ lại tử tế đối với tôi. Do đó tôi nghĩ tôi đã làm cho họ đổi ý.”
 
Thánh Thể có thể trở nên tình yêu được sống hằng ngày.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
07:18 18/04/2009
Đức Thánh Cha khích lệ sự chú ý tới mầu nhiệm hầu biến đổi thế giới

VATICAN (Zenit.org).- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khích lệ các người Công Giáo đi vào trong mầu nhiệm Thánh Thể, hầu cảm nghiệm tình yêu của Chúa và học biết phải yêu thương những kẻ khác bằng cách ngắm nhìn Chúa Kitô.

Đức Giáo Hoàng nói điều này trong bài giảng Thánh lễ Thứ Năm Tuần Thánh, trong đó ngài đã suy tư về phụng vụ và sự tường thuật về việc thiết lập Thánh Thể.

Ngài đã khuyên các tín hữu của ngài “phải có sự chú ý nội tâm lớn đối với mầu nhiệm của ngày này, đối với những lời diển tả mầu nhiệm này,” biết nghe một cách mới mẻ sự tường thụât việc thiết lập, “trên nền tảng Kinh Thánh và trong sự chiêm ngắm chính Chúa.”

Tường thuật này, ngài giải thích, là một kinh nguyện, và “chỉ trong khi cầu nguyện hành vi linh mục của việc truyền phép được hoàn thành, việc truyền phép trở thành sự biến đổi, sự biến chất những quà tặng bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô.”

Đức Thánh Cha đã khẳng định rằng “ của dâng hiến chúng ta đặt trong tay Chúa trở lại từ Người được chúc lành và được biến đổi.”

Chiêm ngắm Chúa Kitô

Đức Thánh Cha ghi chú rằng trong phụng vụ này, “Giáo Hội khi cầu nguyện nhìn xem những bàn tay và con mắt của Chúa.”

Ngài nói tiếp: “Đó là dường như Giáo Hội muốn quan sát Người, nhận thấy hình thức của sự cầu nguyện và hành động của Người trong giờ đặc biệt này, Giáo hội muốn gặp gương mặt của Chúa Giêsu qua những giác quan nữa, nói dược vậy”.

“Chúng ta hãy nhìn xem những bàn tay này mà Người đã dùng để chữa lành những người đàn ông và đàn bà; những bàn tay Người sử dụng để chúc lành các trẻ em; những bàn tay Người đã đặt trên những con người; những bàn tay bị đóng vào Thánh Giá và mãi mãi mang những dấu thánh như những dấu chỉ sự Người sẵn sàng chịu chết cho tình yêu.”

“Chúa dạy chúng ta ngước mắt lên,” Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói, “ và cách riêng tâm hồn chúng ta.”

Ngài nói thêm, “ Người dạy chúng ta chăm chú ngó nhìn lên, phân cách cái nhìn này khỏi những sự thế gian này, để hướng chúng ta trong sự cầu nguyện tới Chúa và như vậy là nâng chúng ta lên.”

Đức Giáo Hoàng khuyên tín hữu cầu nguyện “hầu không sự dữ nào sẽ vào qua mắt chúng ta, sữa đổi và làm hư hỏng chính hữu thể chúng ta.” Hãy cầu nguyện, ngài nói, “cho những con mắt thấy cái gì là thật, rạng rỡ và tốt lành; hầu chúng có khả năng thấy sự hiện diện của Chúa trong thế gíơi.”

“Chúng ta hãy cầu nguyện xin cho chúng ta sẽ nhìn xem thế giới với những con mắt tình yêu,” ngài nói thêm, “với những con mắt của Chua Giêsu, nhận ra những anh em và chị em chúng ta là những kẻ cần sự giúp đỡ của chúng ta, đang chờ đợi lời nói và hành động của chúng ta.”

Bẻ bánh

Đức Thánh Cha khẳng định hành vi bẻ bánh “là hành vi của người cha gia đình kẻ chăm sóc con cái mình và ban cho chúng điều chúng nó cần cho sự sống”.

Ngài nói tiếp: “Phân chia, chia sẻ, mang lại sự hiệp nhất. Qua sự chia sẻ, sự hiệp thông được xây dựng. Trong bánh vị bẻ ra, Chúa phân phát chính mình”.

“Cử chỉ bẻ ra cũng ám chỉ cách mầu nhiệm sự chết, tình yêu trải dài tới sự chết.”

Đức Thánh Cha đã giải thích rằng khi “Chúa Giêsu biến đổi bánh, Người không ban cho bánh trần gian nữa, nhưng ban sự hiệp thông với chính mình Người”.

Ngài nói thêm: “Thế nhưng, sự biến đổi này là khởi đầu sự biến đổi thế giới---thành một thế giới phục sinh, một thế giới của Chúa.

“Vâng, đó là nói về sự biến đổi--của người mới và thế giới mới bắt nguồn trong bánh được truyền phép, được biến đổi, được biến chất.”

Tình yêu của Chúa Kitô

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã ghi nhận rằng “trong hành vi của Chúa Giêsu bẻ bánh, tình yêu được chia sẻ đã đạt hình thức triệt để nhất: Chúa Giêsu để Người bị bẻ ra như bánh ban sự sống.”

Như vậy, Thánh Thể “không bao giờ có thể đúng là một hành động phụng vụ,” nhưng phải trở nên “tình yêu trong sự sống hằng ngày.”

“Trong sự thờ phượng của Kitô hữu, hai sự trở nên một--cảm nghiệm tình yêu của Chúa trong hành vi thờ phượng và nuôi dưỡng tình yêu đối với tha nhân của mình”.

Chúa chuẩn bị một bàn tiệc cho chúng ta, Đức Giáo Hoàng nói, “giữa những đe dọa của thế giới này, và Người ban cho chúng ta chén vinh hiển—chén của niềm vui lớn, của bữa tiệc thật, mà tất chúng ta đều ao ước—chén đầy rượu tình yêu của Người.”

Ngài đã khẳng định: “Máu Chúa Giêsu là tình yêu của Người, trong đó sự sống thần linh và sự sống nhân bản đã trở nên một. Chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa, hầu chúng ta có thể hiểu thâm sâu hơn nữa sự cao cả của mầu nhiệm này.”

Khi kết thúc, Đức Thánh Cha cầu nguyện: “Lạy Chúa, hôm nay Chúa ban cho chúng con sự sống của Chúa, Chúa ban chính Chúa cho chúng con. Xin Chúa đi vào cách sâu thẳm trong chúng con với tình yêu của Chúa.”
 
Cơn hấp hối của Chúa Kitô đánh động những tâm hồn cứng cỏi nhất
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
07:19 18/04/2009
Đức Giáo Hoàng cống hiến bài suy tư lúc kết thúc chặng Đàng Thánh Giá.

ROME (Zenit.org).- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói dầu những tâm hồn cứng cỏi nhất cũng bị xúc động cho đến sự thương xót khi chứng kiến sự đau khổ Chúa Kitô trong lúc Người chịu thương khó và chết, bởi vì sự thương khó đó mạc khải sự viên mãn tình yêu của Chúa đối với nhân loại.

Đức Giáo Hoàng nói điều này tối Thứ Sáu Tuần Thánh lúc kết thúc Chặng Đàng Thánh Giá tại Hí Trường Roma. Nói từ đỉnh đồi Palatine, ngài suy tư về những lời nói của viên bách quản mà Thánh Maccô trích dẫn cuối bài tường thuật Thương Khó: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, Người này là Con Thiên Chúa!”

“Chúng ta không thể không kinh ngạc bởi sự tuyên xưng đức tin của người lính Roma này, kẻ hiện diện suốt những giai đoạn khác nhau của sự Đóng Đinh. Khi sự tối tăm ban đêm đổ xuống trên ngày Thứ sáu này không giống như ngày nào khác trong lịch sử, khi hy lễ Thánh giá đã hoàn tất và những kẻ đứng gần hối hả cử hành Lễ Vượt Qua Do Thái như thông lệ, một ít lời này, nặn ra từ miệng lưỡi của một viên chỉ huy không tên tuổi trong đạo binh Roma, vang đội qua thinh lặng bao vây cái chết kỳ lạ nhất”.

“Viên sĩ quan Roma này, đã chứng kiến sự hành quyết của một trong vô số tù nhân bị án tử, có khả năng nhận ta trong người bị đóng đinh này người Con Thiên Chúa, Đấng đã chết trong một sự bị bỏ rơi nhục nhã nhất.”

“Sự cuối cùng đầy sĩ nhục của Chúa Kitô đáng lý đánh dấu sự chiến thắng của hận thù và sự chết trên tình yêu và sự sống,” Đức giáo Hoàng nói. Nhưng không phải vậy! Treo từ Thánh Giá trên đồi Golgotha là một con người đã chết, nhưng con người này được nhận biết là ‘Con Thiên Chúa’ bởi viên bách quản.”

Đức Thánh Cha đã ghi nhận rằng, “như viên bách quản, chúng ta dừng lại để nhìn xem gương mặt không còn sống của Đấng Chịu Đóng Đinh lúc kết thúc Đàng Thánh Giá truyền thống này.”

Tình yêu của Thiên Chúa

“Nỗi thống khổ của sự Thương Khó Chúa Giêsu không thể không gây xúc động tới sự thương xót dầu những tâm hồn cứng cỏi nhất,” ngài nói, “ bởi vì điều đó là đỉnh điểm sự mạc khải tình yêu của Chúa cho mỗi người chúng ta.”

“Qua bao nhiêu ngàn năm, một số đông lớn những người nam và nữ đã được lôi kéo sâu sắc vào trong mầu nhiệm này và họ đã theo Người, ban tặng, lúc tới phiên mình, như Người và với sự giúp đỡ của Người, mạng sống mình cho những kẻ khác,” Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói tiếp. “ Các người là những vị thánh và những kẻ tử đạo, nhiều kẻ trong các ngài vẫn vô danh tánh đối với chúng ta”.

“Cả trong thời đại chúng ta, biết bao nhiêu người, trong thinh lặng trong sự sống hằng ngày, kết hợp những đau khổ của mình với những đau khổ của Đấng Chịu Đóng Đinh và trở thành những tông đồ của một sự đổi mới thiêng liêng và xã hội.!”

“Chiều nay chúng ta hãy dừng lại hầu chiêm ngắm gương mặt biến hình của Người,” ngài khích lệ. “Đó là gương mặt của Con Người Sầu Khổ, Đấng chịu gánh vác gánh nặng của tất cả sự khổ não chí tử của chúng ta. Gương mặt của Người được phản chiếu trong gương mặt của mỗi người bị làm nhục và bị xúc phạm, bị bịnh hoạn và đau khố, cô đơn, bị bỏ rơi và khinh bỉ.

“Đổ máu mình ra, Người đã chuộc chúng ta khỏi cảnh nô lệ sự chết, Người đã bẻ gãy sự cô độc những nước mắt chúng ta, Người đã bắt đầu mọi sự sầu khổ và mọi nỗi âu lo của chúng ta
 
Đức Giáo Hoàng: Giáo Hội không bao giờ chìm
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
07:20 18/04/2009
Ngài suy tư về ý nghĩa Vọng Phục Sinh

VATICAN (Zenit.org).- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói đang khi nhiều ngừoi tưởng Giáo Hội đang chìm, hay là đã phải chết từ lâu, thì Giáo Hội tiếp tục sống, do bàn tay Chúa Kitô giữ gìn.

Đức Thánh Cha nói điều này khi ngài suy tư trong bài giảng của ngài ngày Thứ Bảy trong lễ Vọng phục Sinh tại Vương Cung Thánh Đường Phêrô về ba biểu trưng chính được sử dụng trong Lễ Vọng Phục Sinh: ánh sáng, nước và bài hát mới—bài Alleluia. Trong Thánh Lễ ngài đã rửa tội năm người lớn: ba người nam Italians, một người nữ từ Trung Hoa và một người nữ từ U.S.

“Trước hết,” ngài nói, có sự sáng”: “Nơi nào có sự sáng, thi sự sống sinh ra, hỗn mang có thể biến thành vũ trụ.”

“Sự sống lại của Chúa Giêsu là một sự bừng sáng. Sự chết bị đánh bại. mồ bị mở ra. Đấng Phục Sinh là sự Sáng, sư Sáng của thế giới. Với việc phục sinh, ngày của Chúa thách thức những đêm tối lịch sử.”

“Bắt đầu với sự phục sinh, Sự sáng của Thiên Chúa lan ra khắp thế giới và suốt lịch sử. Bình minh bắt đầu. Chỉ Sự Sáng--Chúa Giêsu Kitô__ là sự sáng thật, môt cái gì hơn là hiện tượng thể lý của sự sáng. Người là sự sáng tinh ròng: chính Thiên Chúa, Đấng làm cho một tạo vật mới được sinh ra giữa cái củ, biến hỗn mang thành vũ trụ."

“Trong Lễ Vọng Phụng Sinh, “Đức Thánh Cha nói, “ Giáo Hội diễn tả mầu nhiệm sự sáng của Chúa Kitô trong dấu của cây Nến Phục Sinh, ngọn lửa của nó vừa sáng vừa nóng. Sự biểu trưng của sự sáng liên kết với sự biểu trưng của lửa: sự chói lọi và sự nóng, sự chói lọi và nghị lực biến đổi chứa đựng trong lửa--chân lý và tình yêu đi đôi. Cây nến Phục Sinh cháy lên, và do đó bị tiêu hao: Thánh giá và sự phục sinh không thể chia lìa.”

Sự sống và sự chết

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói rằng biểu trưng thứ hai, nước, có hai ý nghĩa đối nghịch”: “Một đàng có biển, điều xem ra như là một lực lượng đối nghịch với sự sống trên trái đất, luôn đe dọa nó; nhưng Thiên Chúa đã đặt một giới hạn trên nó. Do đó sách Mạc Khải nói rằng trong thế giới mới, biển không còn nữa.

Đó là yếu tố sự chết. Và như vậy nó trở thành sự diễn tả biểu trưng sự chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá: Chúa Kitô xuống trong biển, trong những nước sự chết, như Israel đi vào trong Biển Đỏ. Sau khi đã trổi dậy từ sự chết, Người ban cho chúng ta sự sống.

“Điều này có nghĩa là bí tích rửa tội không những là một sự thanh tẩy, nhưng là một sự sinh mới: với Chua Kitô, chúng ta, nói được, xuống dưới biển sự chết, hầu chúng ta trổi dậy như những tạo vật mới.”

Ngài nói con “đàng khác trong đó chúng ta gặp nước là trong hình thức của một mạch tươi mát ban sự sống, hay là con sông lớn từ đó sự sống phát xuất.”

“Không có nước không có sự sống,” Đức Thánh Cha khẳng dịnh.” Điều đáng chú ý là các giếng nước trong Kinh thánh được gán cho nhiều tầm quan trọng là dường nào. Giếng là những nơi từ đó sự sống nẩy lên. Ngoài giếng Giacob, Chúa Kitô đã nói với người đàn bà Smaritano về giếng mới, về nước ban sự sống thật.”

Sau đó Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI suy tư về biểu trưng thứ ba, “sự hát bài hát mơi—bài alleluia.”

“Khi một người cảm nghiệm một niềm vui lớn, họ không thể giữ nó cho chính mình,” ngài giải thích. “Họ phải tỏ bày sự đó, phải chuyển sự đó cho kẻ khác. Nhưng điều gì xảy ra khi một người bị đánh động bởi sứ sáng phục sinh, và như vậy họ tiếp xúc với chính sự Sống, với Chân lý và Tình Yêu? Họ không thể chỉ nói về điều ấy. Nói không còn thích hợp nữa. Phải hát.”

“Trong lễ Vọng Phục Sinh, năm này qua năm khác, chúng ta những người Kito hữu xướng lên bài hát này sau bài đọc thứ ba, chúng ta hát nó như bài hát của chúng ta, bởi vì chính chúng ta, qua quyền phép của Thiên Chúa, đã được rút ra từ nước và được giải phóng cho sự sống thật,”

Một bài hát mới

Nhắc lại truyện từ Kinh Thánh khi Môisen hát một bài hát sau sự gải phóng của dân Israel khởi Ai Cập, Đức Giáo Hoàng nói “hình ảnh này diễn tả tình huống các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô trong mọi thời đại, tình huống của Giáo Hội trong lịch sử thế giới này.”

“Nói theo kiểu loài người, điều này là tự-phản ngịch,” ngài giải thích. “Một đàng, cộng đồng được đặt trong thời kỳ Xuất Hành, gĩưa Biển Đỏ, trong một biển, thật ngược đời, đồng thời vừa là nước đá vừa là lửa.

“Và Giáo Hội không phải, nói được, luôn luôn bươc đi trong biển, qua lửa và sự lạnh, đó sao? Nói theo kiểu loài người, Giáo Hội phải chìm. Nhưng đang khi Giáo Hội còn đi giữa Biển Đỏ, thì Giáo Hội hát—Giáo Hôi xướng lên bài hát ngợi khen của người công chính: bài hát của Môisen và của Con Chiên, trong đó những Giáo Ước Củ và Mới hoà lẫn trong sự hài hoà.

“”Đang khi, nói cho đúng, Giáo Hội phải chìm, thì Giáo Hội hát bài hát ngợi khen của những kẻ được cứu thoát. Giáo Hội đang đứng trong nước lịch sử sự chết nhưng Giáo Hội đã phục sinh. Khi hát, Giáo Hội níu tay Chúa, tay đó nắm giữ Giáo Hội trên nước.

“Và Giáo Hội biết rằng do dó Giáo Hội đã được nâng lên khỏi trọng lực sự chết và sự dữ-- một lực mạnh mà không có cách nào khác để thoát được-- được nâng lên và kéo vào trong trọng lực mới của Chúa, của chân lý và của tình yêu.”

“Hiện tại, Giáo Hội còn ở giữa hai lãnh vực trọng lực,” Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI suy tư. “Nhưng một khi Chúa Kitô đã sống lại, trọng lực kéo của tình yêu mạnh hơn trọng lực kéo của hận thù: trọng lực của sự sống mạnh hơn trọng lực của sự chết. Có lẽ hiện nay đó là tình huống của Giáo Hội trong mọi thời đại”.

“Luôn luôn xem ra dường như Giáo Hội phải chìm, và Giáo Hội đã luôn luôn được cứu,” ngài nói. “Thánh Phaolo minh họa tình huống này với những lời: “Chúng ta dường như chết, và kìa chúng ta sống.” Bàn tay cứu độ của Chúa giữ chúng ta, và như vậy chúng ta có thể luôn luôn hát bài ca của những kẻ được cứu, bài hát mới của những kẻ phục sinh: Alleluia!”
 
Đức Giáo Hoàng kêu gọi các Kitô Hữu phải nên “men mới”
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
07:21 18/04/2009
Ngài cống hiến suy tư Phaolô về những nghi thức Phục Sinh

VATICAN.- Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói đúng như người Do Thái đem bánh không men ra khỏi nhà mình trong ngày Vượt Qua để chỉ một sự bắt đầu mới, những Kitô hữu phải đẩy xa khỏi lòng mình “chất men tội cũ”.

Đức Giáo Hoàng đã nói điều này trong bài giảng Thánh Lễ Phục Sinh của ngài tại Vương Cung thánh Phêrô, trong bài giảng này ngài đã suy tư về một đoạn thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô: “Chúa kitô, chiên Vượt Qua của chúng ta bị sát tế.” Ngài nói đoạn này”chứa đựng, trong một tổng hợp gây ấn tượng, một ý thức đầy đủ về sự mới mẻ của sự sông trong Chúa Kitô.”

“Biểu tượng trung tâm của lịch sử cứu rỗi—con chiên Vượt Qua-- ở đây được đồng hóa với Chúa Giêsu, Đấng được gọi ‘con chiên Vượt Qua của chúng ta,’” Đức Thánh Cha giải thích. Ngài ghi nhận việc người Do Thái sát tế một con chiên mỗi năm trong lễ Vượt Qua,” để ghi nhớ sự giải phóng khỏi cảnh nô lệ tại Ai Cập.”

“Trong sự thương khó và sự chết của Người, Chúa Giêsu mạc khải chính Mình là Chiên Thiên Chúa, ‘hiến tế ‘ trên Thánh Giá, hầu tẩy xóa tội lỗi thế gian,” Đức Thánh Cha nói. “Người bị giết tại chính giờ có thói quen sát tế những con chiên trong Đền Thờ Jerusalem.

“Ý nghĩa của hy lễ này chính Người đã nói trước trong bữa Tiệc Cuối, bằng cách thay thế chính mình Người--dưới những dấu bánh và rượu—cho thức ăn nghi lễ của bữa ăn Vượt Qua Do Thái. Như vậy chúng ta có thể nói thật rằng Chúa Giêsu làm viên mãn truyền thống Lễ Vượt Qua xưa và đã biến Vượt Qua xưa thành Vượt Qua của Người.”

Nhường chỗ cho sự mới

Căn cứ trên sự giải thích này về lễ Vượt Qua, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã tiếp tục suy tư về sự giải thích của Thánh Phaolô về chất men.”

Ngài đã giải thích rằng trong lễ Vượt Qua tập quán Do thái đưa xa khỏi nhà mọi mảnh vụn của bánh có men, điều đó được sử dụng để nhắc nhớ khi tổ tiên của họ bỏ đất Ai cập, chỉ mang theo mình bánh không men.

“Đồng thời, dù cho” Đức Giáo Hoàng nói thêm, “’bánh không men là một biểu trưng của sự thanh tẩy: sự loại bỏ điều củ để nhường chỗ cho cái mới.”

Đức Thánh Cha nói Thánh Phaolô giải thích rằng truyền thống xưa đạt tới một ý nghĩa mới với Chúa Kitô, “một lần nữa phát xuất từ cuộc ‘Xuất Hành mới,’ tức là sự đi qua của Chúa Giêsu từ sự chết tới sự sống đời đời.”

“Vì Chúa Kitô, là con Chiên thật, đã hiến mình cho chúng ta, chúng ta cũng vậy, những môn đệ của Người- nhờ Người và qua Người—có thể là và phải là ‘bột mới,’ là ‘bánh không men,’ giải thoát khỏi mọi yếu tố cặn bã của men sự tội: không còn sự dữ và sự xấu xa trong lòng chúng ta”.

Chúng ta hãy mở thần trí chúng ta cho Chúa Kitô, Đấng đã chết và đã phục sinh hầu đổi mới chúng ta,” Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khích lệ,” ngõ hầu đưa xa khỏi lòng chúng ta chất độc sự tội và sự chết, và tuôn xuống trong máu –ban sự sống của Chúa Thánh Thần: sự sống thần linh và đời đời.
 
Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là một câu chuyện tưởng tượng.
Đ.Ô Nguyễn Quang Sách
07:21 18/04/2009
Đức Giáo Hoàng công bố chiến thắng của Chúa Cứu Thế trên sự Chết

VATICAN, APRIL, 12, 2009 (Zenit.org.) - Lễ Phục Sinh không dựa trên một truyện thần hoại, một lý thuyết hay một truyện tưởng tượng, nhưng đúng hơn trên một biến cố lịch sử rất thật về sự chết và sống lại của Chúa Kitô, Đức Thánh Cha nói.

Đức Thánh Cha đã nói điều này hôm Chúa Nhật Phục Sinhtrong sứ điệp Phục Sinh ngài phát hành từ bao lơn Đền Thờ Thánh Phêrô lúc trưa trước khi ngài ban phép lành của ngài “urbi et orbi” (cho thành Roma và cho thế giới). Ngài đã khởi sự với câu hỏi: “Có cái gì sau khi chết?”

Sứ điệp Phục Sinh, ngài giải thích cho 200,000 người qui tụ trong Quảng Trường Thánh Phêrô, là “sự chết không có tiếng nói sau cùng, bởi vì sự Sống sẽ chiến thắng sau cùng.”

“Sự chắc chăn này của chúng ta không dựa trên một lý luận đơn thuần nhân bản,” Đức Thánh Cha đã tiếp tục nói, “nhưng trên một sự kiện lịch sử đức tin: Chúa Giêsu Kitô, đã chịu đóng đinh và chịu mai táng, đã phục sinh với thân xác vinh hiển của Ngừoi.”

Ngài nói tiếp: “Liên tục kể từ bình minh Phục Sinh, một mùa Xuân mới hy vọng đã tràn đầy thế giới; từ ngày này sự phục sinh của chúng ta đã bắt đầu, bởi vì Phục Sinh không đơn thuần báo hiệu một thơi điểm trong lịch sử, nhưng là sự khởi đầu của một điều kiện mới.

“Chúa Giêsu phục sinh không vì ký ức của Người vẫn sống động trong tâm hồn các môn đệ ngài, nhưng vì chính Người sống trong chúng ta, và trong Người chúng ta đã có thể thưởng thức niềm vui sự sống đời đời.”

Đức Thánh Cha đã khẳng định rằng sự Phục Sinh “không phải là một lý thuyết, nhưng là một thực tại lịch sử”: “Đây không phải là một chuyện thần thoại hay một giấc mơ, đó không phải là một ảo mộng hay là một điều không tưởng, đó không phải là một truyện thần tiên, nhưng đó là một biến cố đặc biệt và không được lập lại: Chúa Giêsu thành Nadareth, Con của Đức Maria, lúc chiều tối trong ngày thứ Sáu đã được hạ xuống khỏi cây Thánh Giá và được mai táng, đã bỏ ngôi mộ cách vinh hiển.”

Sự sáng trong cảnh tối tăm

“Việc công bố sự phục sinh của Chúa thắp sáng lên những vùng tối tăm của thế giới trong đó chúng ta sống,” Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã suy niệm. “Tôi qui chiếu cách riêng tới thuyết vật chất và thuyết hư vô, tới một ảo mộng về thế giới không khả năng di chuyển quá điều khoa học có thể xác nhận, và rút về cách buồn bã trong một cảm giác trống trơn được tưởng tượng là vận mạng quyết định của sự sống con người.”

“Đây là một sự kiện,” ngài nói tiếp, “ là nếu Chúa Kitô không phục sinh, ‘sự trống trơn’ sẽ chiếm phần thắng. Nếu chúng ta loại bỏ Chúa Kitô và sự phục sinh của Người, thì không còn lối thoát cho con người, và mỗi một trong những hy vọng của họ vẫn là một ảo tưởng.”

Đức Giáo Hoàng đã nói Chúa Nhật Phục Sinh là ngày khi “sự công bố về sự phục sinh của Chúa bung ra mãnh liệt,” và đó là sự trả lời cho câu hỏi đặt ra trong sách Giảng Viên: Nếu có điều gì đáng cho người ta nói, ‘Coi đây, cái mới đây này!

Trong ngày này, ngài nói, những Kitô hữu trả lời “vâng”: “Trong sáng Phục Sinh, mọi sự đã được đổi mới.

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha than phiền, trong thế giới ngày nay “còn có rất nhiều, trên thực tế, quá nhiều dấu của quyền chi phối trước kia [thuộc sự chết]

Cần những người giúp đở

“Mặc dầu qua sự phục Sinh, Chúa Kitô đã phá hủy cội rễ sự dữ, Người vẫn còn muốn sự giúp đỡ của những người nam và những người nữ trong mọi thời đại và mọi nơi để giúp Người khẳng định sự chiến thắng của Người bằng cách sử dụng chính những vũ khí của Người: những vũ khí công lý và chân lý, sự thương xót, sự tha thứ và tình yêu”.

Đức Thánh Cha nói rằng đó là sứ điệp của ngài mang tới cho châu Phi tháng trước trong cuộc thăm viếng của ngài tại Cameroon và Angola, và sứ điệp ngài muốn đem tới Đât Thánh trong tháng May.

“Châu Phi đau khổ không cân đối từ những vụ xung đột độc ác và liên tục, thường bị quên, đang gây ra rất nhiều sự đổ màu và phá hủy trong nhiều nước của họ và từ con số gia tăng của những con trai và con gái của họ, những kẻ làm mồi cho sự đói khát, nghèo khó và bệnh tật”.

Và trong Đất Thánh, ngài nói, “sự hoà giải—khó, nhưng cần thiết—là một điều kiện tiên quyết cho một tương lai an ninh toàn bộ và sự sống chung hoà bình, và điều này chỉ có thể hoàn tất qua những cố gắng đổi mới, bền bỉ và chân thành hầu giải quyết sự xung đột Israel-Palestine.”

“Những ý nghĩ của tôi hướng về bên ngoài từ Đất Thánh tới những xứ láng giềng, tới Trung Đông, tới toàn thế giới,” Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói tiếp. Trong một thời gian suy thoái lương thực thế giới, rối loạn tài chánh, những hình thức củ và mới cảnh nghèo, sự thay đổi thời tiết gây âu lo, bạo lực và sự bần cùng áp bức nhiều người bỏ quê hương mình đi tìm một hình thức sống ít bấp bênh hơn, sự đe dọa khủng bố luôn hiện diện, những nổi sợ ngày càng gia tăng về tương lai, thì cần phải tái phám phá những lý do cho hy vọng.

“Đừng có ai rút lui khỏi trận chiến hoà bình do sự phục sinh của Chúa Kitô phát động.”

Ngài nói thêm,’ “Chúa Kitô đang tìm kiếm những người nam và nữ để giúp Người khẳng định sự chiến thắng của Người bằng cách sử dụng những vũ khí của Người: những vũ khí công lý và chân lý, sự thương xót, sự tha thứ và tình yêu.”
 
Kỷ niệm 800 năm Lập Dòng Anh Em Hèn Mọn Phan Sinh và suy tư của Giáo Hoàng
Ngọc Loan
09:03 18/04/2009
VATICAN Cách đây đúng 800 năm, vào năm 1209 Đức Giáo Hoàng Innocent đệ tạm đã chuẩn y cho phép lập Dòng Phan Sinh do Đấng sáng lập, Thánh Phanxicô thành Assisi. Các Linh Mục Dòng Anh Em Hèn Mọn Phan Sinh từ khắp nơi trên thế giới đã tụ về đồi Assisi tại Italia từ ngày Thứ Tư 15/4 để mừng kỷ niệm 800 năm sinh nhật Dòng.

Đồi Assisi tại Italia cũng là nơi nổi tiếng dành cho khách hành hương và là nơi tụ họp tổ chức các buổi cầu nguyện Liên Tôn do Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chủ xướng.

Linh đạo của Thánh Phanxicô là noi gương Đức Giêsu: sống khó nghèo, khiêm hạ, yêu thương phục vụ mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ, yêu quý thiên nhiên và súc vật.

Nhân kỷ niệm sinh nhật thành lập Dòng, là dịp để nhìn lại những suy tư của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI cống hiến đến cuộc đời Thánh Phanxicô, là mẫu gương thay đổi tận căn để bắt chước Chúa Kitô. Đức Thánh Cha đã ca ngợi “tinh thần Assisi” và nhấn mạnh đến sự đối thoại và xây dựng nhịp cầu đối thoại liên tôn.

Đồng thời Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng nhấn mạnh và khuyến khích các tu sĩ Dòng Anh Em Hèn Mọn hãy làm nổi bật tinh thần linh đạo của Thánh Phanxicô trong sự thay đổi cuộc đời khi gặp gỡ với Đức Kitô. Và ngày nay khách hành hương cần phải hiểu rõ điều này.

Đức Thánh Cha đã nói và suy tư những điều này trong cuộc viếng thăm tại Assisi vào năm 2007 “Thật không đủ để ngưỡng mộ Thánh Phanxicô, nhưng qua Ngài họ có thể gặp gỡ Đức Kitô.”

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã diễn tả Thánh Phanxicô khi còn trẻ là “ông vua con trong các buổi dạ hội”, bon chen với quần áo sặc sỡ và hoàn cảnh kinh tế trong thế kỷ thứ 13. Và trong suốt 25 năm đầu trong cuộc đời Phanxicô là một người chỉ thích ăn chơi đua đòi, lang thang khắp châu thành Italia, thế nhưng thánh nhân đã nhìn thấy cuộc đời trống vắng.

Cuộc đời Phanxicô đã biến đổi khi Ngài trực diện với những người nghèo và bệnh tật. Đức Giáo Hoàng đã so sánh cuộc đời cải hóa của Phanxicô giống như thánh Phaolô trên đường đi Đamát. Thế nhưng Phanxicô đã biến đổi từ từ không như Thánh Phaolô đã biến đổi ngay khi thấy ánh sáng Đức Kitô chói lọi lúc ngã ngựa.

Cuộc đời Phanxicô được cải hoá vào lúc khi ngài cầu nguyện trước cây thập giá, ngài đã nghe tiếng Chúa gọi “hãy sửa sang lại căn nhà cho ta”. Thánh Phanxicô bắt đầu đi lang thang trên đồi thâu lượm gặt đá để xây dựng lại đền thờ. Ngài đã bị xỉ nhục như một người điên, có lần bị ông cố nổi cơn điên nhốt lại trong phòng, đôi lúc bị đói khát và bị cóng lạnh.

Năm 1208, Phanxicô đã thực sự hiểu rõ ơn gọi của mình, khi lắng nghe Bài Phúc Âm Đức Giêsu truyền cho các môn đệ: hãy từ bỏ mọi sự và đi rao giảng kêu gọi mọi người sám hối. Phanxicô đã cảm nhận những lời này như chính những lời kêu gọi trong đời hiến dâng của ngài.

Từ đây những người thường chế nhạo Phanxicô bắt đầu tỏ ra kính trọng ngài và thu hút được những người theo ngài. Phanxicô bắt đầu viết ra “luật” đầu tiên tóm từ những nguyên tắc trong Phúc Âm để thành lập Dòng. Thế nhưng văn bản chính xác cho đến ngày nay vẫn không tìm thấy, nhưng đã được Đức Giáo Hoàng Innocent đệ tam chuẩn y vào năm 1209, mặc dầu cũng gặp nhiều sự đối kháng trong Giáo Triều lúc bấy giờ về đời sống luật dòng.

Năm nay, kỷ niệm 800 năm thành lập Dòng cũng là kỷ niệm luật đầu tiên của Dòng ra đời, cũng là kỷ niệm lễ giỗ 763 năm ngày thánh nhân từ trần vào năm 1226. Thánh Phanxicô đã được cất lên hàng các Thánh 2 năm sau đó và được tôn là bổn mạng nước Italia, bổn mạng Tổ Chức Công Giáo Tiến Hành Italia và nhiều nhóm khác nữa, kể các các nhóm bảo vệ môi trường và chăm lo súc vật.

Đối với Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, gương Thánh Nhân vẫn còn hiện thực cho tới ngày hôm nay không phải về sinh thái nhưng chính ơn gọi của ngài là hình ảnh của Đức Kitô khi thực sự nhìn qua lăng kính hoạt động xã hội mà chính thánh nhân đã chịu đau khổ mà hình ảnh có thể nói lên được những vết thương của Đức Kitô”.

Đức Thánh Cha nói: “Ngài đã yêu mến Đức Kitô. Những vết thương trên thập giá đã làm con tim ngài đau khổ, đã để lại dấu thánh trên mình Ngài tại Núi La Verna. Ngài có thể nói như thánh Phaolô: “tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Chắc chán trong Thông Điệp về xã hội mà Đức Biển Đức XVI sẽ ban hành tới đây sẽ có gương thánh Phanxicô khi đưa ra những vấn đề về bác ái và sự đáp ứng của người Kitô giáo trước sự bất công kinh tệ Vì đối với Đức Giáo Hoàng, ngài đã nói sự từ bỏ thụ hưởng vật chất tận căn là một phần trong cuộc đời thánh nhân “đi kiếm tìm Đức Kitô nơi gương mặt của những người nghèo”.



Những hình ảnh trong bài lấy từ Assisi trong những ngày qua
 
Vị Giáo Hoàng Xanh
Quang Tâm
18:20 18/04/2009
Đức Bênêđíctô XVI thường xuyên lên tiếng về vấn đề môi trường. Ngài sử dụng giáo huấn Công Giáo để nhắc mọi thành phần trong Giáo hội về trách nhiệm bảo vệ môi trường. Khởi cuộc viếng thăm chính thức nước Úc ngày 17.7.2008 nhân Ngày Giới Trẻ Thế Giới thứ XXIII, ngài đề cập đến “nhu cầu bảo vệ môi trường” tại cuộc đón tiếp ở Dinh Chính phủ. Đức Giáo Hoàng nói: “Với nhiều ngàn người trẻ đang viếng thăm nước Úc, đây là dịp thích hợp để ta suy nghĩ về thế giới nào ta sẽ trao lại cho các thế hệ tương lai. Trong ngôn ngữ quốc ca của các bạn, vùng đất này “phong phú các quà tặng thiên nhiên, với một một vẻ đẹp giàu có và độc đáo". Kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa nhắc ta nhu cầu bảo vệ môi trường và thực hiện trách nhiệm quản lý tài sản trái đất. Về mặt này, tôi nhận thấy nước Úc đang nghiêm túc thực hiện cam kết thực hiện trách nhiệm chăm sóc môi trường thiên nhiên”.

Trong một dịp khác, ngài đưa ra mẫu gương Thánh Phanxicô Assisi “đã sống một đời sống tôn trọng môi trường” cho người Công giáo noi theo trong vấn đề bảo vệ môi trường. Hơn thế nữa, Đức Thánh Cha còn xem hủy hoại môi trường là một trong bảy tội mới. Ngài nói: “Có lẽ chúng ta còn ngần ngại khi nhìn nhận rằng có những vết sẹo trên bề mặt trái đất: nạn sói mòn đất, nạn phá rừng, nạn phung phí tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đại dương để thỏa mãn một lối tiêu thụ tham lam vô độ”. Trong danh mục bảy tội mới mà Giáo hội đưa ra hồi tháng 3 năm 2008 và kêu gọi người tín hữu phải ăn năn, “tội hủy hoại môi trường” đứng thứ tư và các tội “gây bất công xã hội” và “tập trung của cải vào tay một thiểu số một cách quá mức” cũng đều có liên quan đến nghĩa vụ chăm sóc trái đất.

Đức Bênêđíctô XVI không phải là vị giáo hoàng đầu tiên lên tiếng về sự suy thoái môi trường. Vị tiền nhiệm của ngài, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã từng mô tả các mối quan tâm môi trường là một “vấn đề luân lý” và ngay từ năm 1990 đã nhận định rằng chúng ta có “trách nhiệm nặng nề phải duy trì trật tự trên trái đất vì lợi ích của các thế hệ tương lai”. Tuy nhiên, chính Đức Bênêđíctô XVI mới là vị giáo hoàng triển khai, đưa vấn đề bảo vệ môi trường trở thành chính sách và một bộ phận trung tâm trong giáo huấn của ngài. Trong bài giảng đầu tiên trên cương vị Giáo Hoàng, ngài nói “các gia tài trái đất đã bị sử dụng vào việc khai thác và hủy diệt” và kêu gọi người Công giáo hãy “quản lý tốt hơn công trình tạo dựng của Thiên Chúa”.

Thiết tưởng không cần phải dẫn chứng, tìm hiểu thêm về những giáo huấn và hoạt động của ngài. Vấn đề là: mọi người Kitô hữu chúng ta từ Đức giáo hoàng trở xuống cho đến người "phó giáo dân" đang học đạo để được rửa tội có "xanh" không và "xanh" đến cỡ nào? Hay là chúng ta "xanh mặt" líu lưỡi khi đứng trước những đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường, khi mà nhiều người thuộc nhiều giới và nhiều niềm tin khác nhau đã mạnh mẽ lên tiếng?

Ngày 18.4.2009
 
Vị Giáo hoàng triển dương Hiệp nhất
Phụng Nghi
21:20 18/04/2009
Chủ nhật 19 tháng 4 năm 2009 tới đây đánh dấu năm thứ tư ngày tuyển chọn Joseph Ratzinger làm Giáo tông Bênêđictô XVI. Mặc dầu năm nay ngài đã 83 tuổi, là một nhà thần học chuyên nghiệp, một cựu giáo sư, nhưng triều đại giáo hoàng của Bênêđictô tuyệt nhiên chẳng có gì buồn nản. Những quyết định của ngài đã mang niềm vui đến cho người bảo thủ và nỗi kinh ngạc cho người cấp tiến. Ngài đã làm nao nức giới trẻ và giáo dân khắp năm châu lục, vậy mà lại gây nỗi uất hận nơi người Hồi giáo và một vài nhóm người Do thái. Ngài đã dạy dỗ và đã xin lòng tha thứ. Ngài đã lôi cuốn những đám đông kỷ lục cả ở Roma lẫn quanh khắp thế giới, vậy mà lại bị kết án là người tù bị giam hãm trong điện Vatican.

Triều đại giáo hoàng 4 năm của Bênêđictô, với tất cả những thành đạt lớn và những mối căng thẳng, có thể được tóm gọn chỉ trong một từ ngữ: hiệp nhất. Bằng tấm lòng can đảm và thận trọng, Bênêđictô đã lao lực cho sự hiệp nhất – không phải là sự đơn nhất – trong đức tin và đức bác ái; đó không phải là một chiến công đạt được dễ dàng, khi mà, như lời châm biếm của John Zmirak, Đức giáo hoàng đang “cố gắng điều hành một giáo hội thành nơi có chỗ cho cả [hồng y Los Angeles] Roger Mahony… lẫn [Giám mục chính thống] Richard Williamson.” Định nghĩa về hiệp nhất của Bênêđictô như thế không bao gồm những thỏa hiệp siêu nhiên hoặc những khẳng định làm ấm lòng người, từng làm cho các nỗ lực và thành công của ngài lại càng thêm ấn tượng sâu sắc. Đối với Bênêđictô, hiệp nhất chân thực là một sự hiệp thông không giả tạo của mọi con người – cả bên trong lẫn bên ngoài Giáo hội Công giáo – với “Thiên Chúa, Đấng cất tiếng nói trong Kinh Thánh.”

Bênêđictô đã đeo đuổi và vun trồng sự hiệp nhất trong nhiều chiều kích khác nhau. Trước hết, và nổi bật nhất, ngài đã lao động cần cù để tái lập sự hiệp nhất với quá khứ của Giáo hội, đặc biệt là dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II. Như mới đây ngài đã nhắc nhở những người tưởng rằng công đồng đã chính thức thay đổi mọi niềm tin, luật lệ và nghi thức phụng tự trước đó: “Vatican II bao quát toàn bộ lịch sử tín lý của Giáo hội. Bất cứ ai muốn tuân phục Công đồng phải chấp nhận đức tin đã được tuyên xưng qua bao thế kỷ, và không thể chặt đứt những gốc rễ từ đó cây rút lên được sức sống.”

Tính cách hợp pháp của Công đồng Vatican II và những điều cải cách có dụng ý của công đồng tuỳ thuộc vào sức lớn mạnh cơ bản, liên tục phát xuất từ truyền thống sống động dài 2000 năm của Giáo hội. Trong xu hướng này, Bênêđictô đã đặc biệt tập trung vào việc thay đổi quan niệm đối với phụng vụ mới -- là cải cách dễ nhận thấy nhất của Công đồng Vatican II – hướng về các căn cội từ đó phụng vụ rút ra được sự sống. Để làm được điều đó, ngài đã cố ý làm nổi bật lên sự long trọng và vẻ đẹp của các Thánh lễ công cộng ngài cử hành, và vào tháng 7 năm 2007 cũng đã chấp thuận việc cử hành Thánh lễ theo nghi thức cổ truyền bằng tiếng La tinh. Bằng việc trả lại tự do cho phụng vụ cổ xưa, Đức giáo hoàng giải thích rằng ngài hy vọng có được “một sự hòa giải nội bộ ngay trong lòng Giáo hội”; nghĩa là, ngài mong muốn có sự hiệp nhất trong các hình thức phụng tự quá khứ và hiện tại của Giáo hội, bởi vì phụng vụ của Giáo hội vừa trình bầy vừa tạo ảnh hưởng lên căn tính cũng như niềm tin của Giáo hội. Như Linh mục John Zuhlsdorf đã luận giải, phụng vụ được cử hành đúng đắn là “mũi lao” trong “Kế hoạch Marshall” của Bênêđictô để lại tiếp sinh lực cho căn tính Công giáo.

Hai là, Bênêđictô đã tìm kiếm sự hiệp nhất – không trong ý nghĩa là một đức tin đồng dạng, nhưng là “sự đồng thuận quanh chân lý liên quan đến các giá trị hay mục tiêu đặc thù” – với những người không Công giáo và không theo Thiên Chúa giáo khác trên khắp thế giới. Tất cả những cuộc tông du của ngài ra ngoài nước, kể cả cuộc viếng thăm Hoa kỳ hồi tháng 4 năm 2008, đã bao gồm những cuộc gặp gỡ thân tình và chân thực xây dựng trên những chân lý cùng được các nhà lãnh đạo các tôn giáo khác chia sẻ, kể cả những nhóm Do thái và Hồi giáo.

Tuy nhiên, hai lần, thông điệp của Bênêđictô về hiệp nhất liên tôn giáo đã bị mất đi trong lúc trao truyền – lần thứ nhất gửi đến người Hồi giáo trong bài diễn từ thời danh đọc tại Regensburg năm 2006, và lần thứ hai, cho người Do thái, khi mới đây ngài cất vạ tuyệt thông cho một giám mục trước kia đã chối bỏ không có các các phòng chứa hơi độc của Quốc xã.

Trong khi Bênêđictô đã có thể làm cho cũng những luận điểm này nổi bật lên bằng cách thức nhẹ nhàng và ít va chạm hơn, nhưng tiếp theo sau đã không có, như người ta gán cho, chuyện cho rằng sự chú tâm của Đức giáo hoàng vào công việc nội bộ đã làm cho ngài trở thành con người thờ ơ lạnh giá với tình đoàn kết toàn cầu. Một lời tuyên bố như thế là bỏ qua tầm quan trọng việc ngài tiếp tục nhấn mạnh đến công tác đại kết và đối thoại, gồm cả việc ngài thăm viếng Thổ nhĩ kỳ năm 2006, và công việc ngài làm với người Do thái lâu dài hàng nhiều thập niên.

Nỗ lực thứ ba của Bênêđictô cho sự hiệp nhất – với người Công giáo cũng như không Công giáo đang chịu khổ đau hay bị đặt ra ngoài lề xã hội – càng chứng tỏ hơn mối quan tâm đích thực của ngài đối với mọi người, không phân biệt tôn giáo hay địa vị.Trong những tháng đầu triều đại giáo hoàng, ngài đã có dịp ăn trưa với cả Hans Küng, người dẫn đầu các nhà thần học cấp tiến bất đồng của thế giới, và với Giám mục Bernard Fellay, đứng đầu Hiệp hội Thánh Piô X, một nhóm Công giáo nệ cổ bất bình thường. Ngài đã tới thăm trại tập trung Auschwitz của Quốc xã vào tháng 5 năm 2006, ở đó ngài cảm động hỏi Chúa tại sao Chúa lặng thinh suốt thời kỳ Holocaust (tàn sát tập thể người Do thái), một câu hỏi mà ngài thú nhận là ngài không thể trả lời được.Trong cuộc thăm viếng Washington D.C., Bênêđictô yêu cầu có một cuộc họp ngoài thời khóa biểu dự trù trước với những nạn nhân cuộc lạm dụng tình dục do hàng giáo sĩ, nhằm để đề cao phương thức chữa lành. Mới đây, ngài mong tìm đem hy vọng cho người nghèo và đau khổ tại châu Phi, nơi ngài nói rằng tiến trình của Giáo hội để chiến đấu chống dịch bệnh AIDS – khẳng định chiều kích nhân bản của tình dục, an ủi người khổ đau, và cấm đoán bao cao su ngừa thụ thai – là giải pháp duy nhất có sự tôn trọng đích thực phẩm giá con người.

Sau hết, trái với những người coi ngài như là một nhà khoa bảng không ai tiếp cận được, qua những lần xuất hiện, các bài diễn từ, và những trước tác, ta thấy Bênêđictô đã tìm kiếm sự hiệp nhất của nhân loại với Thiên Chúa. Giáo hoàng phải làm việc đó, dường như là chuyện hiển nhiên, thế nhưng phương diện này trong triều đại giáo hoàng của ngài đã bị người ta bỏ qua nhiều nhất. Ngay cả giữa cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Bênêđictô vẫn duy trì quan niệm rằng sự kết hiệp với Thiên Chúa là giải pháp rốt ráo cho các vấn đề của thế giới. Ngài đã xuất sắc tóm gọn điều đó trên chuyến bay đến châu Phi trong một bản tuyên bố truyền đạt sự hiểu biết của chính mình về sứ mạng của ngài trong vai trò giáo hoàng:

Tôi không tới châu Phi với một chương trình nghị sự về kinh tế hay chính trị, là điều nằm ngoài thẩm quyền của tôi. Tôi đi với một chương trình vể tôn giáo, liên hệ tới đức tin và luân lý, nhưng chương trình này cũng có một đóng góp thiết yếu để cống hiến cho sự giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Chúng ta tất cả đều biết rằng một yếu tố căn bản của cuộc khủng hoảng đó là thiếu đạo đức trong các cấu trúc kinh tế. Người ta đã hiểu rằng luân lý đạo đức không phải là điều gì “bên ngoài” kinh tế, nhưng là “bên trong”, và rằng kinh tế không thể vận hành nếu không bao gồm yếu tố đạo đức. Vì thế, khi nói về Thiên Chúa, nói về những giá trị tinh thần lớn lao tạo thành cuộc sống Kitô giáo, tôi sẽ cố đóng góp phần mình, cũng để giúp vượt qua được cơn khủng hoảng hiện tại, và canh tân hệ thống kinh tế từ bên trong, nơi thực sự phát xuất cuộc khủng hoảng.

Tương phản lại, những người phỉ báng Bênêđictô thẳng thừng phủ nhận rằng ngài là vị giáo hoàng của hiệp nhất; mà họ thấy ngài như đang chia rẽ Giáo hội bằng cách đưa nó về phía hữu khuynh. Thực ra, nỗ lực của ngài về hiệp nhất với quá khứ và với người Công giáo lạc đường ở châu Âu đã gợi ra một lời chỉ trích cho rằng Đức giáo hoàng “đang bỏ mặc cả hàng tỉ người Công giáo bên ngoài châu Âu lẫn những lời truyền dạy của Chúa Giêsu Kitô.” Hơn nữa, ngay cả chính một số giám mục của ngài cũng đã thắc mắc về quyết định mới đây trong việc ngài tha vạ tuyệt thông cho các giám mục thuộc Huynh đoàn Thánh Piô X do sự đối kháng của nhóm này đối với một số phương diện của Công đồng Vatican II. Vì thế cử chỉ hiệp nhất của Đức giáo hoàng đối với một nhóm bảo thủ lại được tiếp diễn bằng một sự phản loạn của những người quyết tâm đảm bảo sự bất hiệp nhất giữa Giáo hội tiền và hậu công đồng. Cơn sóng gió truyền thông tiếp sau đã không được giập tắt cho tới khi chính Bênêđictô viết một lá thư thật khiêm tốn giải thích lý lẽ của ngài.

Lá thư đã thân mật chuyển tải tầm nhìn hiệp nhất tất cả thành viên Giáo hội của Bênêđictô – cấp tiến cũng như bảo thủ -- thiết lập trên đức bác ái và chân lý. Chân lý, như Bênêđictô hằng đề cập không bao giờ mệt mỏi, được tìm thấy nơi Chúa Giêsu Kitô và trong Giáo hội Công giáo nơi bảo tồn toàn vẹn giáo huấn của Người. Lời tuyên xưng chân lý đó của Đức giáo hoàng, không hề khuất phục trước các nhu cầu đòi hỏi phải phù hợp về chính trị () đã làm cho những người chỉ trích ngài tức giận, những người muốn Bênêđictô dịu giọng cho phù hợp với ý thức hệ hẹp hòi của họ đòi cho Giáo hội phải như thế nào. Làm như thế, họ phá hoại sự hiệp nhất chân chính trong lòng Giáo hội và với các tôn giáo khác – bởi vì, như Bênêđictô biết rất rõ – tôn trọng người khác cần đến sự hiểu biết họ là ai và họ tin tưởng điều gì.

Nhưng, như một người cha nhân từ, Bênêđictô đã chứng tỏ ngài mở rộng vòng tay cho mọi người – Công giáo hay không, trung thành hay không – và chính ngài đã biểu lộ sự hiệp nhất mà ngài ao ước cho đàn chiên của ngài. Sự mưu cầu hiệp nhất của ngài – với quá khứ, với các tôn giáo khác, với người đau khổ, với Thiên Chúa – tóm lược 4 năm lãnh đạo, thường can đảm và gây tranh luận, để tái tạo sức sống cho căn tính Công giáo. Lá thư của Đức giáo hoàng gửi cho các vị giám mục bao gồm cả ước nguyện của ngài muốn thúc đẩy việc mưu tìm sự hiệp nhất chân thật. Nơi điều đó chúng ta có thể được đảm bảo rằng vị giáo sư cao niên này sẽ còn giữ cho chúng ta rất hào hứng và nôn nao muốn biết kết cục sẽ ra sao.

Nguồn: David G. Bonagura Jr./ InsideCatholic.com





 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Khóa họp thường niên của Hội Đồng Lãnh Đạo Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ
Giuse Đặng Văn Kiếm
17:59 18/04/2009
ATLANTA, Georgia – Khóa họp thường niên của Hội Đồng Lãnh Đạo Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ được diễn ra từ ngày 16 tới 18 tháng 4 năm 2009 tại Họ Đạo Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Tổng Giáo phận Atlanta, Georgia. Linh mục Quản nhiệm họ đạo với 4,000 giáo dân nơi đây cũng là vị Tổng Tuyên úy đương nhiệm của phong trào, cha Phanxicô Xaviê Trần Quốc Tuấn.

Trọng điểm của khóa họp lần này, ngoài những tường trình sinh hoạt và huấn luyện các ngành các cấp từ 8 Miền trên toàn quốc, các thành viên tham dự bàn thảo và biểu quyết tu chính một số điều khoản Nội Quy, cách riêng chấp thuận đề án đổi mới và phát triển ngành Hiệp sĩ, và qua đó có liên hệ tới sự thay đổi trong việc sắp xếp lại theo từng lứa tuổi thể lý và tâm lý thuộc các ngành Ấu nhi, Thiếu nhi và Nghĩa sĩ.

Việc hoàn chỉnh trên đây cho thấy, trong một Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể gồm có 4 ngành phân chia theo các lứa tuổi như sau:

• ẤU NHI với khẩu hiệu NGOAN: từ 7 đến 9 tuổi, sống với Chúa Giêsu ấu thơ. Thêm vào đó, tùy theo nhu cầu và hoàn cảnh địa phương, có thể nhận các em 6 tuổi là Ấu Non.

• THIẾU NHI với khẩu hiệu HY SINH: từ 10 đến 12 tuổi, sống với Chúa Giêsu ẩn dật.

• NGHĨA SĨ với khẩu hiệu CHINH PHỤC: từ 13 đến 15 tuổi, cùng với thánh Phaolô sống với Chúa Giêsu rao giảng.

• HIỆP SĨ với khẩu hiệu DẤN THÂN: từ 16 tuổi trở lên, cùng với các Tiền Nhân Tử Đạo Việt Nam sống làm chứng loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu cho mọi người chung quanh. Các Hiệp sĩ từ 16 đến 17 tuổi sinh hoạt trực thuộc Đoàn địa phương và việc tổ chức giống như các ngành khác. Các Hiệp sĩ từ 18 tuổi trở lên có thể quy tụ sinh hoạt trong môi trường Đại Học và nghề nghiệp giữa cộng đồng xã hội thể hiện tinh thần “Bác ái, Huynh đệ, Hiệp nhất, Phục vụ”, là một lối sống nối tiếp tưởng thành từ châm ngôn “Cầu nguyện, Rước lễ, Hy sinh, làm việc Tông đồ” vốn đã ý thức thực hành liên tục ngay từ lớp tuổi Ấu nhi.

Khoá họp được điều hợp trôi chảy bởi trưởng Nguyễn Đức Thanh, Chủ tịch Ban Chấp Hành Trung Ương. Hai vị đại diện nhóm soạn thảo trình bày mạch lạc và khúc chiết các đề án tu chính, là trưởng Nguyễn Đình Mạnh Trường, cựu Chủ tịch, và trưởng Đào Văn Đức, Phó CT BCH/TƯ đặc trách Nghiên Huấn.

Theo tường trình từ các Miền, hiện nay Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ có chừng 13.500 đoàn sinh học tập tại 104 Đoàn địa phương thuộc các Cộng đoàn, Họ đạo, Giáo xứ trong các Giáo phận Công giáo Hoa Kỳ, được sự chăm sóc hướng dẫn trực tiếp của hơn 100 cha Tuyên úy, Phó tế, các Tu sĩ nam nữ Trợ úy, phụ huynh Trợ tá, và 1.780 Huynh trưởng.

Tham dự phó hội lần này có sự hiện diện của 33 thành viên. Ngoài cha Tổng Tuyên úy, nhận thấy có cha cựu TTU Chu Vinh Quang, cha Phó TTU đặc trách Nghiên Huấn Nguyễn Bá Thông, Đức ông Phạm Xuân Thắng từ Virginia, cha Nguyễn Thanh Bình từ Missouri, cha Trần Anh Vũ từ Wisconsin, cha Nguyễn Kim Long từ California, cha Lê Thu từ Texas, cùng các Trợ tá và Huynh trưởng đến từ khắp các miền đất nước. Khóa họp cũng mở đường giây điện thoại viễn liên cho các thành viên không thể đến tham dự, để cùng góp ý cho sự phát triển chung.
 
Mái Ấm Hy vọng Bãi Giếng Nam cho trẻ mồ côi tàn tật
Quang Huyền
18:06 18/04/2009
NHA TRANG - Trong thời đại toàn cầu hóa, người ta tranh đua nhau làm kinh tế và họ rỉ tai nhau rằng: “Đầu tư vào giáo dục thì không bao giờ thua lỗ”, thế là các trường học, các trung tâm dạy học mở ra khắp nơi để đáp ứng nhu cầu của người dân, nhưng ở các nơi ấy không có nhiều chỗ cho người nghèo. Thế nhưng ở một khóc khuất nào đó của xã hội, chúng ta cũng thấy mọc lên những mái ấm từ thiện phục vụ cho trẻ em nghèo, tàn tật. Mỗi mái ấm có những ý hướng và đối tượng phục vụ khác nhau, nhưng đều có chung mục tiêu là thăng tiến cuộc sống cho các trẻ em nghèo và trẻ em bệnh tật. MÁI ẤM HY VỌNG BÃI GIẾNG NAM –NHA TRANG (MAHV) do các Nữ tu dòng Mến Thánh Giá - Nha Trang phụ trách đã được thành hình với mục tiêu cao đẹp đó.

Vùng quê Bãi Giếng Nam, Cam Đức, Cam Lâm, thuộc Giáo xứ Hòa Bình, Giáo Phận Nha Trang là một vùng quê nghèo của Tỉnh Khánh Hòa. Nơi đây, có số giáo dân khỏang 800 người, phần lớn còn lại là lương dân, họ là dân di cư từ Quãng Trạch, Quãng Bình vào từ năm 1990 và những năm sau đó. Người dân kiếm sống bằng nghề chài lưới ven biển, do đó kinh tế rất khó khăn, cái nghèo dẫn đến sức khỏe kém, trình độ học vấn thấp và hiện nay còn nhiều người người mù chữ. Người dân phải vật lộn với “biển khơi” để kiếm cơm áo cho gia đình. Nhưng không may thay trong số họ lại có những gia đình có con cái bị tật nguyền. Bệnh tật của con cái lại kéo gì đôi vai của họ xuống thấp hơn, đời sống nghèo khổ lại càng nghèo khổ hơn. Đáng thương nhất là những đứa trẻ tàn tật và mồ côi. Các cháu không có được sự chăm sóc cần thiết về sức khỏe và tinh thần, không được gia đình quan tâm giúp đỡ, để có thể phát triển như các trẻ bình thường khác. Bất hạnh hơn nữa là một trong số các cháu tật nguyền đó đã bị cha mẹ hắt hủi, bỏ bê và thậm chí từ chối.

Chứng kiến những cảnh đời thơ dại đáng thương tâm đó, các Nữ tu dòng MTG Nha Trang đã nghĩ đến việc quy tụ các cháu lại để nuôi dạy và chăm sóc. Thế là MAHV được khởi công từ 15/11/2004 và hoàn tất ngày 19/03/2005.

Mục tiêu của MAHV là đón nhận, nuôi dưỡng và giáo dục những trẻ em Mồ côi, Khuyết và dị tật của những gia đình nghèo, neo đơn. Tạo cho các cháu kém may mắn có nơi để học hành, vui chơi và chăm sóc tốt hơn, giúp các cháu phát triển về thể lý và tinh thần như những đứa trẻ bình thường khác; đồng thời góp phần thoa dịu nỗi đau, sự thiệt thòi của các cháu, giúp các cháu hòa nhập được với cộng đồng, xã hội bên ngòai. Với mục tiêu đó, MAHV mở rộng vòng tay để đón nhận tất cả các cháu mồ côi, bệnh tật, bị bỏ rơi, không phân biệt thành phần tôn giáo.

Tuy còn mon trẻ, nhưng MAHV đang cưu mang và nuôi dạy 30 cháu. Các cháu là trẻ mồ côi, trẻ bị bệnh Đao, Bãi Não, Câm Điếc, Tâm Thần và chậm phát triển. Các cháu này đ61n từ các gia đình Công Giáo, Phật giáo, lương dân.

Được biết, hiên nay MAHV tình thương này được phục vụ bởi ba Nữ tu thuộc Dòng Mến Thánh Giá - Nha Trang. Các Nữ tu này đã và đang dấn thân để ươm mầm hy vọng tương lai cho các cháu. Các Xơ chỉ có mong muốn đơn giản là bù đáp cho các cháu những thiệt thòi về mặt xã hội và nhất là sự thiếu vắng tình yêu thương từ gia đình và cha mẹ các em. Nhờ tình yêu thương chăm sóc của những “người mẹ thứ hai” này, các cháu ngày càng khôn lớn, phát triển và linh họat hơn. Nữ tu Nguyễn Thị Hương, phụ trách mái ấm tâm sự: “Các cháu trong mái ấm đã bước đầu có được sự phát triển tốt về sức khỏe, còn chuyện học hành thì phải kiên nhẫn chờ đợi thôi”. Đúng vậy, khi được ở mái ấm này, các cháu có cơ hội để phát triển tốt hơn về mọi mặt, nhất là vấn đề sức khỏe. Tuy vậy, trong mái ấm có những cháu đã 13 - 15 tuổi, nhưng khả năng trí tuệ của các cháu rất khiêm tốn, nhất là những cháu bị bệnh Đao và Tâm Thần. Hiên nay, cả mái ấm chỉ có một cháu biết đọc và viết chữ, một ít cháu biết đọc, một ít cháu khác nữa biết múa hát và còn lại thì đang phải chờ đợi.

Món quà lớn nhất cho các Nữ tu và những người quan tâm đến các cháu là sự linh hoạt, vui vẽ, hồn nhiên của các cháu kém may mắn này, dầu cho những tháng ngày sắp tới của các cháu vẫn mờ mịt. Những nụ cười “ngây ngô” trên khuôn mặt thơ dại của các cháu giờ đây lại trở thành những động lực để các Nữ tu ở đây nuôi dưỡng niềm hy vọng vào tương lai của chác cháu. Bằng tấm lòng bao dung của những người thánh hiến, họ nhận ra rằng các cháu là những đứa trẻ đáng được yêu thương chăm sóc và giáo dục như bao trẻ khác. Hơn nữa, các cháu là những Đức Kitô nghèo khổ, bệnh tật đang cần đến sự giúp đỡ của họ hơn bao giờ hết.

Mặc dầu vậy, để việc chăm sóc các cháu được duy trì tốt ngoài tấm lòng còn cần đến sự động viện, giúp đỡ và cộng tác của nhiều người. Hiện nay MAHV đang cần có những điều kiện tối thiểu để phục vụ việc nuôi dạy các cháu. Nữ tu Nguyễn Thị Hương chia sẻ: “Điều kiện chăm sóc các cháu ở mái ấm hiện nay rất eo hẹp, vì các cháu vào đây hầu như miễm phí hòan toàn. Chúng tôi mong ước làm sao có điều kiện để các cháu được khám bệnh định kỳ hằng tnág, tiện việc chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh cách khoa học hơn”. Bên cạnh đó, nữ tu này cũng trăn trở về sự thiếu thốn kinh phí để chăm sóc các cháu: “Nhớ lại, Tết vừa qua, các cháu không có bánh chưng, bánh tét để ăn, không có đủ quần áo mới để mặc, thấy mà thương, nhưng “cái khó đành bó cái khôn”.

Cuộc sống của các cô trò trong MAHV vẫn còn chật vật, nhưng tình yêu thương giữa họ lại lớn hơn, một tình yêu có khả năng ươm trồng những tia hy vọng cho những đứa trẻ bất hạnh dù cho nó rất mong manh. Đó là lý do để chúng ta hy vọng cho mái ấm này ngày càng lớn lên trong ơn thánh Chúa và sự cộng tác của nhiều tổ chức và cá nhân có tấm lòng yêu qúy các trẻ mồ côi và bệnh tật.

Ước mong rằng như ý nghĩa của tên gọi, MAHV sẽ mãi là một ngôi nhà ấm cúng, tràn ngập tình yêu thương. Ở đó, các cháu sẽ được lớn lớn như những nầm non hy vọng của gia đình và xã hội, nhờ sự chăm sóc yêu thương và bảo bọc bởi bàn tay của các Nữ tu, và sự sưởi ấm bởi tấm lòng nhân ái của nhiều ân nhân xa gần.

Bằng cái nhìn đức tin, chúng ta luôn tin rằng sự khiếm khuyết của các cháu không phải lỗi của các cháu cũng không phải lỗi của cha mẹ các cháu, nhưng là để qua các cháu Thiên Chúa được tôn vinh; vì lẽ đó, những tật bệnh và khiếm khuyết của các cháu là “lỗ hổng”, để chúng ta “lấp đầy” bằng tình yêu thương như Chúa đã dạy “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,41).

(Địa chỉ liên lạc: Nữ Tu Nguyễn Thị Hương, Mái Ấm Hy Vọng, Bãi Giếng Nam, Cam Đức, Cam Lâm, Tỉnh Khánh Hòa; Đt: 058 3981 692, Dd: 0909 505 204, srngochuongopposite@gmail.com)

Quang Huyền, OFM
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Môi trường sống ca ngợi Thiên Chúa
Gioan Lê Quang Vinh
17:33 18/04/2009
Một cô diễn viên múa sau này là diễn viên điện ảnh kể cho tôi nghe một câu chuyện buồn cười, dễ hiểu với người ở Việt nam, nhưng nếu là người ở nước khác nghe chuyện này chắc sẽ thấy khó hiểu tại sao. Khoảng mười năm trước, đoàn múa của cô đi Singapore. Một buổi sáng cô đứng trên lầu khách sạn nhìn xuống thấy các bạn trong đoàn múa đang vui vẻ chụp hình dưới công viên. Bất ngờ một viên cảnh sát đến ra hiệu cho họ đi chỗ khác. Cô chạy ngay xuống để xem sao vì trong đoàn múa chỉ có mình cô biết nói tiếng Anh thôi. Cô đến hỏi viên cảnh sát tại sao lại không cho bạn bè cô chụp hình ở đó, có thấy bảng cấm quay phim chụp hình nào đâu. (Tôi nghĩ cô ta nên nói là ở Singapore người ta phải tôn trọng nhân quyền, không phải hứng lên là cấm quay phim chụp hình!). Nhưng lời của viên cảnh sát làm cô ta bỗng ngớ ra: “Tôi đâu dám cấm các chị chụp hình. Tôi chỉ muốn giải thích với các chị rằng đừng chụp hình với cái này. Nó xinh xinh vậy chứ nó là cái thùng rác đó”. Khi cô nói lại với bạn bè, ai cũng cảm thấy ngượng ngùng và vội vã bỏ đi. Có một điểm đáng nói ở đây: dường như đối với nhiều người Việt, cái gì mà chung quanh không có rác thì chắc chắn không phải là thùng rác! Câu chuyện bi hài nho nhỏ này đặt ra cho chúng ta câu hỏi bi hài lớn lao hơn: bao giờ dân Việt chúng ta mới ý thức rằng môi trường là quà tặng của Đấng Tạo Hoá, cần được nâng niu và giữ gìn một cách cẩn thận bởi cả một cộng đồng để chung sức gìn giữ chứ không phải muốn làm gì thì làm?

1. Môi trường là quà tặng của Thiên Chúa.

Một trong những niềm vui của cuộc sống là được nhận những món quà. Người tặng quà càng quyền cao chức trọng thì người nhận quà càng trân quí món quà. Nhưng nói chung món quà tự nó cũng là quí giá dù do ai tặng đi nữa. Món quà dù chỉ là một tấm ảnh nhỏ, người ta cũng nâng niu nó. Nếu món quà có giá trị cao, người ta lại quí nó theo một cách khác. Thế nhưng có một món quà cao hơn các của cải bình thường, đẹp hơn mọi tác phẩm nghệ thuật và do Chúa tể trời đất ban tặng mà người ta lại đang coi thường. Ấy là món quà vũ trụ, là mặt đất, là môi trường mà con người đang no say hưởng dùng. Vậy mà con người lại phung phí và ra sức huỷ hoại nó. Có những món quà lỡ phá huỷ rồi còn có thể sửa lại được. Còn môi trường khi đã phá đi thì sức người vô phương khôi phục. Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy rằng vũ trụ này “chính là ân huệ Chúa ban, là đất đai và kế hoạch Chúa giao cho con người quản lý và làm việc với tinh thần trách nhiệm của một con người” (chương X, khoản 451). Và Học Thuyết đã nhìn thấy trước những điều tàn nhẫn mà con người có thể thực hiện trên người mẹ thiên nhiên đang mang lấy con người trong lòng mình, đồng thời đã gióng lên tiếng chuông thiết tha, nhưng dường như con người chưa nghe hoặc chưa muốn nghe tiếng chuông cảnh tỉnh ấy.

Kinh Thánh ghi lại rất rõ ràng Thiên Chúa đã tạo dưng nên vũ trụ bằng quyền năng, nhưng cách Kinh Thánh diễn tả công trình tạo dựng qua từng ngày từng ngày để cho thấy Đấng Tạo Hoá muốn chăm chút cho công trình của mình, bởi vì Ngài muốn ban tặng cho con người món quà tuyệt vời ấy như là công trình của tình yêu, vừa là tài nguyên nuôi sống con người và còn là tác phẩm nghệ thuật tinh xảo nhất. Thuở xa xưa, con người gắn bó với thiên nhiên lạ lùng. Thi ca và hội hoạ của các thời đại trước cho thấy con người gần gũi với thiên nhiên và yêu quí môi trường biết bao. Rồi thời đại khoa học kỹ thuật xuất hiện như một bước tiến của nhân loại, đồng thời lại là bước lùi của giao tiếp với môi trường thiên nhiên.

2. Phá huỷ môi trường là tội ác lớn lao.

Gọi thời khoa học kỹ thuật là buớc lùi của nhân loại trong việc giao tiếp ứng xử với thiên nhiên là bởi vì khi khoa học phát triển thì bao hệ luỵ xảy ra phá huỷ người mẹ thiên nhiên. Khói, chất thải và bao nhiêu bất cẩn của con người từ khoa học kỹ thuật đã phá huỷ tầng ozone, làm ô nhiễm bầu không khí và nguồn nước, làm huỷ hoại môi trường sinh thái… Nhưng có một điều đáng chú ý là những nước đang phát triển, nghèo đói nhưng lại “liều mạng” phá huỷ môi trường nhiều nhất. Hơn nữa, ở những nước nghèo mà nền giáo dục sa sút, đạo đức xã hội suy đồi, người có chức quyền chỉ lo vơ vét, thì môi trường bị chà đạp thảm hại nhất. Ở những nước đó, người ta thờ ơ với chuyện huỷ hoại môi trường, vô cảm với ô nhiễm, với việc xả chất thải vô tội vạ vào sông vào biển. Người ta thậm chí còn chấp nhận những dự án khai thác tài nguyên mà hậu quả là đẩy môi trường vào cõi chết. Cách đây ít lâu, cha Vinh sơn Phạm Trung Thành DCCT có viết: “Họ rẻ rúng mạng con người quá, họ chỉ biết lợi nhuận dành cho họ, họ bất chấp hậu quả tai hại như thế nào để lại cho người khác gánh chịu”. Và ngài hỏi: “Bây giờ phải làm sao?”

Học Thuyết Xã Hội Công giáo coi việc sử dụng khoa học làm hại môi trường là điều bệnh hoạn và do tham vọng của con người. Và chính vì “bệnh hoạn” đó mà “thế cân bằng giữa con người và môi trường dường như đã lên tới mức nguy kịch” (xem chương X, khoản 461).

Tất cả những hành vi phá hoại môi trường là tội ác, vì ba lý do. Một là khi phá môi trường, người ta quăng đi món quà cao cả Thiên Chúa gửi tặng con người và truyền cho họ giữ nó nguyên tuyền cho đến ngày Ngài đến thu tất cả về một mối. Hai là khi phá hoại môi trường như thế, người ta trực tiếp giết chết đồng loại của mình, dù cái chết đến chậm chạp. Ba là khi đó người ta cố ý và lạnh lùng gửi vào tương lai, gửi cho con cháu mình gia sản mang mầm mống sự chết.

3. Góp phần gìn giữ môi trường

Không biết nền giáo dục Việt nam ưu việt đến cỡ nào, nhưng dường như kết quả của nó là làm cho các trật tự bị xới tung lên, nói theo Cha Vũ Khởi Phụng là “mọi chuyện chưa được đặt đúng chỗ của nó”. Làm một điều tốt giữa đám đông, người ta e dè. Giết một con người trong bụng mẹ, người ta coi như đập một con muỗi. Phá hoại môi trường thì còn ít nghiêm trọng hơn là bị lở môi (chứ không phải môi trường)! Bởi vậy cho nên khi người ta sử dụng chất thải bừa bãi, mua sách mà không có bao xốp cho họ đựng là họ la lối ngay. Chạy xe nhả khói đầy đường đối với nhiều người chỉ là chuyện nhỏ. Tôi hay nói đùa với sinh viên: nếu thấy con chuột chết, người tốt sẽ quăng ra đường, còn người xấu mới ném sang nhà hàng xóm! Quả thật, chuyện quăng rác, ném chuột cứ xảy ra tự nhiên như người ta đi đứng. Còn chuyện phá rừng, đổ chất thải công nghiệp, khai thác khoáng sản bừa bãi thì “nói xong rồi bỏ”, chẳng ai quan tâm. Nếu cứ mãi như thế, đất nước và người dân này rồi sẽ thế nào?

“Bây giờ phải làm sao?” Câu hỏi nhức nhối ấy cứ đi với chúng ta mãi cho đến khi chúng ta biết phải làm sao. Chẳng lẽ ngồi nhìn? Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo đang bắt đầu vang vọng, và chúng ta, những người con của Giáo Hội phải lên tiếng nói và phải góp phần gìn giữ môi trường. Yêu quê hương yêu đất nuớc làm sao được khi cứ khai thác quê hương bừa bãi rồi làm ô nhiễm đất và nuớc?

Học Thuyết Xã Hội Công giáo đưa ra cách ứng xử hợp lý khi ứng dụng công nghệ để tránh làm tổn hại môi trường: “Chính vì lý do đó, “cần giữ thái độ thận trọng và chú ý sàng lọc ra bản chất, mục đích và các phương thế của mỗi hình thức công nghệ ứng dụng”. Bởi vậy, các nhà khoa học phải “tận dụng khả năng nghiên cứu và kỹ thuật của mình một cách trung thực để phục vụ nhân loại”, phải biết cách bắt các khả năng ấy tuân theo “các nguyên tắc và các giá trị luân lý, vốn luôn tôn trọng và giúp thực hiện trọn vẹn phẩm giá con người”. (chương X, khoản 458). Như thế, việc sử dụng khoa học bừa bãi là thiếu khôn ngoan và đi ngược lại với luân lý và đạo đức. Quan trọng hơn cả vẫn là cách nhìn về con người: “Một điểm quan trọng mà mỗi khi ứng dụng khoa học và công nghệ người ta phải tham chiếu là phải tôn trọng con người, và cũng kèm theo đó là thái độ cần phải tôn trọng các sinh vật khác.” (chương X, khoản 459). Nếu coi con người là nhân vị được cứu độ, là hình ảnh của Thiên Chúa thì người ta không thể làm hại đến môi trường sống mà Chúa đã sáng tạo.

4. Dân Chúa không thể im lặng trước sự phá huỷ môi trường

Đức Thánh Cha Benedicto XVI và vị tiền nhiệm của Ngài là Đức Gioan Phaolô II đã nhiều lần lên tiếng về nguy cơ của việc huỷ hoại môi trường. Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nhấn mạnh rằng việc chăm sóc và bảo vệ môi trường là “nghĩa vụ chung và phổ quát, nghĩa vụ tôn trọng một tài sản chung, được dành cho hết mọi người”. Do đó mà mỗi người Kytô hữu phải chia sẻ nghĩa vụ đó, phải nói và làm những gì có thể để quà tặng của Thiên Chúa không bị coi rẻ nữa.

Theo luật pháp nói chung, nếu ta thấy người khác phạm tội mà không lên tiếng thì ta cũng có lỗi. Đó là một trong những khía cạnh của nguyên tắc liên đới trong đời sống người Kytô hữu mà Học Thuyết Xã Hội đã nhắc nhở.

Các vị mục tử ở nước ta chắc chắn cũng đang lên tiếng hay ít ra là chuẩn bị lên tiếng, bởi các ngài nhớ lời Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng ngài thấy ghê sợ những chủ chăn câm lặng (chúng ta biết Đức Thánh Cha dùng từ nặng nề hơn nhiều).

Về phần mình, mỗi thành phần dân Chúa phải thực hiện đôi điều cụ thể nhất. Thứ nhất, phải đọc và học biết Học Thuyết Xã Hội Công Giáo nói gì về việc bảo vệ môi trường. Thứ hai phải thực hành điều mình đọc. Không thể cứ nói và rồi cứ làm hại môi trường. Và thứ ba là hãy làm “ngọn đèn để trên mái nhà” bằng đời sống, trước hết bằng lời nói, bằng kiến nghị để những hành vi phá hoại môi trường có thể dừng lại kịp thời. Hiện nay có nhiều kiến nghị về môi trường, về khai thác bauxite. Vietcatholic cũng đang có kiến nghị về việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên Việt nam. Người Công giáo cần nói lên tiếng nói của Giáo Hội và của lương tâm mình, vì muốn bảo vệ công trình tay Chúa sáng tạo, và cũng vì muốn cho các thế hệ tương lai không phải hứng chịu những rác rưởi của thế hệ hôm nay.

Xin hãy để vũ trụ vẹn toàn và cùng với vũ trụ mà ca ngợi Chúa: “Trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa, hoàn vũ với muôn loài, chính Chúa dựng nên” (Thánh Vịnh 89, 12). “Hãy ca tụng Chúa, hỡi lửa hồng mưa đá, tuyết trắng mây mù, ngọn cuồng phong, cấp thừa hành lời Chúa. Núi với đồi trùng trùng điệp điệp,cây ăn trái và đủ loại bá hương, thú vật rừng hoang cùng là gia súc, loài bò sát và mọi giống chim trời”. (Thánh Vịnh 148, 9-10). Viết bài này, con cũng muốn kính xin các vị chủ chăn trong Giáo Hội sớm lên tiếng chính thức để bảo vệ cho công trình tay Chúa sáng tạo. Lệnh truyền của Đức Giêsu khi Người về Trời: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân” chắc cũng bao hàm việc giảng dạy cho muôn người cùng với vũ trụ này, môi trường sống này mà ca tụng Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá quyền năng.

Sàigòn Tuần Bát Nhật Phục Sinh 2009
 
“Ông cố vấn” Singapore và những nỗi đau của dân Việt
Alfonso Hoàng Gia Bảo
18:21 18/04/2009
Tuần qua, tin tức về chuyến viếng thăm VN của cựu thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu được truyền thông trong nước đưa tin một cách hết sức phấn khởi và hồ hởi. Từng lãnh đạo một quốc gia đạt đến thịnh vượng nhất Asean, những lời vàng ngọc được vị lãnh đạo 86 tuổi này ban phát suốt hành trình Nam Bắc từ 13-17/4 vừa qua, như “ VN cần tập trung các khoản kích cầu cho các dự án hạ tầng vì cách làm này vừa nâng cấp được hạ tầng cơ sở vừa giải quyết được bài toán việc làm, tạo ra thu nhập và thu nhập đó sẽ quay vòng kích thích tiêu dùng…VN không chỉ đối phó với suy thoái mà cần chuẩn bị thật kỹ các phương án đón đầu khi kinh tế phục hồi, phải sớm lo tái đào tạo lực lượng lao động bị mất việc do khủng hoảng kinh tế…” v.v… xuất hiện nhan nhản khắp các mặt báo trong nước suốt tuần, chứng tỏ giới lãnh đạo Hà Nội bị mê hoặc bởi “ông cố vấn”.

Làm sao các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết v.v… tránh khỏi việc bị ‘hớp hồn’ này vì mặc dù được tẩm nhiều bơ sữa tư bản mặt mày trông đã sáng sủa, bớt thâm đen xám xịt, bân bẩn như lớp đàn anh Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh… nhưng tiền bạc mới chỉ có thể bóc đi khỏi họ cái vỏ xấu xí bề ngoài, còn kiến thức cần thiết của những nhà kỹ trị chuyên nghiệp một khi đã chẳng được học hành lúc nhỏ, thì nay có mà đem bán hết cả nước VN này đi chắc chắn cũng không có ông thầy nào dám đứng ra đảm bảo sẽ giúp họ lấp bớt những lỗ hổng kiến thức ấy.

Tôi còn nhớ ngày ông Dũng lên làm thủ tướng, một tờ điện tử trong nước đã nhanh hẩu đoảng vội đăng tiểu sử ông tân thủ tướng chắc muốn để lấy điểm cùng độc giả nhưng lại sơ xuất khai báo quá thành thật về trình độ văn hóa của ông tân thủ tướng chỉ với mấy chữ “học tiểu học ở trường…” nên vài giờ sau, khi tôi quay lại định copy cái lý lịch có một không hai này thì chẳng còn thấy đâu.

Điều này cho thấy giới lãnh đạo VN cũng rất mặc cảm về những lỗ hổng kiến thức của mình nên mới phải “tốt khoe xấu che” nhưng sự thật thì vẫn mãi là sự thật, nào ai có thể giấu mãi cây kim trong bọc? Chính những lúc đất nước gặp khó khăn do suy thoái kinh tế như hiện nay, là lúc chúng phải đang bắt lòi đầu ra.

Càng được khuyên, càng rối?

Nếu ở các thế kỷ trước, các triết gia và nhũng nhà tư tưởng lớn có khả năng làm khuynh đảo khiến thế giới bị phân hoá ra thành nhiều nhóm ý thức hệ khác nhau: tư bản, cộng sản, trung lập, không liên kết v.v… thì giờ đây là lúc những nhà kinh tế đang đi dọn dẹp, thu gom tất cả về lại một đầu mối đó là sự chi phối gần như tuyệt đối của kinh tế. Quốc gia nào văn minh giàu mạnh nơi ấy sẽ nắm giữ nhiều thứ chân lý. Do vậy, muốn chiến thắng trên chiến trường ngày nay sẽ không còn là chuyện giỏi chịu nếm mật nằm gai, anh dũng chiến đấu mà cái đầu lại dốt đặc cán mai hoặc chỉ cần dở chiêu ‘lật lọng’ như CSVN năm xưa. Chính vì vậy mà họ đâm ra bế tắc!

Sự bế tắc của giới lãnh đạo VN hiện nay không chỉ ở chỗ bản thân họ không biết đào đâu ra sự tự tin để tự lèo lái đất nước qua những cơn phong ba bão táp một cách đầy quyết đoán, mạnh mẽ như chúng ta đang thấy ở tân tổng thống Mỹ B.Obama (tất nhiên chỉ mong họ có được vài phần của ông Obama cũng đã là đại phước cho dân tộc rồi) mà còn bởi họ cũng chẳng dám tin vào những “quần thần” có năng lực cỡ như các ông Lê Đăng Doanh, Nguyễn Quang A v.v… vì e ngại nạn bè cánh ngay trong chính đảng CSVN của họ. Không phải tự dưng mà một trong những việc đầu tiên ông Dũng làm khi lên làm thủ tướng là dẹp bỏ ngay cái ban cố vấn cũ của ông Phan Văn Khải.

Chính vì sự bế tắc này mà Bộ Chính Trị CSVN những năm gần đây phải thường xuyên ‘cầu viện’ các tổ chức quốc tế như IMF hoặc các chuyên gia tư vấn nước ngoài như Giáo sư Michael E. Porter, nhóm nghiên cứu đại học Haward. Bản thân ông Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến đi Mỹ vừa qua cũng đã chủ động xin được gặp ông Alan Greenspan để được nghe vài lời khuyên bảo.

Nhưng gần gũi hơn cả với Hà Nội vẫn là “ông cố vấn” họ Lý của Singapore, mà ngoài chuyện bằng cấp chẳng thua kém ai, cũng đã từng tốt nghiệp luật và kinh tế tại các đại học Anh Quốc từ những năm 40, ông còn ưu việt hơn khối người có học vị cao trọng khác ở chỗ sự thịnh vượng của Singapore do ông lèo lái là thứ chứng chỉ sống về tài năng lãnh đạo.

Ngoài ra cũng còn phải kể đến sự ‘đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu’ cả về mặt chính trị mà đảng Nhân dân Hành động (PAP) của ông ở Singapore cũng cai trị Singapore nhiều thập niên y như một mình một chợ mặc sức tung hoành giống đảng CSVN, nhưng nhờ có mức sống cao nên dân chúng chẳng ai kêu ca. Chính những kỳ tích kinh tế này đã giúp Singapore chẳng những không bị Mỹ và các nước Phương Tây lên án độc tài, mà còn được khen ngợi về sự vươn lên bằng chính nội lực mà không nhờ nhiều vào viện trợ như Nhật và Hàn Quốc.

Ngay từ thời ông Võ Văn Kiệt còn làm thủ tướng, các nhà lãnh đạo VN đã bắt đầu dòm ngó sang Singapore để “kết bạn”. Hệ thống điện thoại di động 8 số đầu tiên ở VN tiền thân của CityPhone sau này chính là kết quả của mối liên doanh giữa hai “tập đoàn” con cháu Phan Văn Khải và Lý Quang Diệu.

Tóm lại, Hà Nội cảm thấy rất an tâm khi ‘làm bạn’ với ‘triều đại’ nhà Lý Singapore mà chẳng phải lo lắng về bất cứ ‘diễn biến hòa bình’ nào đe doạ. Những khái niệm về nhân quyền, dân chủ, tôn giáo luôn được đặt ngoài vùng phủ sóng đối với mối quan hệ tay đôi này. Vì thế mà chúng ta không ngạc nhiên mỗi lần ông Lý Quang Diệu ‘có việc’ sang VN là mỗi lần truyền thông trong nước đưa tin hết sức tận tình và sốt sắng, mà có lẽ ngay cả các quan chức TQ đương chức có khi cũng còn chưa được hưởng chế độ ưu đãi này. Các chuyến đi của ông Lý Quang Diệu sang VN trước nay, gần như ông luôn gặp mặt đầy đủ các quan chức đảng và chính phủ VN.

Tất cả nỗ lực ‘tầm sư Singapore học đạo’ này của CSVN không ngoài mục đích giúp nuôi hy vọng duy trì sự độc tài nhờ có hình tượng Singapore cũng độc tài chẳng kém để có cái biện minh.

Nhưng sự đời đâu có đơn giản như vậy!

Dân số Singapore chỉ bằng 1/3 Sàigòn và diện tích thì chỉ bằng gần 1/500 của VN nên họ chỉ là một hộ gia đình trong cả một bản làng lớn, nơi các mối quan hệ không thể còn dựa trên căn bản đạo lý như trong một gia đình mà phải bằng pháp luật mà luật lệ cộng sản VN ra sao thì ai nấy chắc cũng đã quá rõ chẳng cần mất công nói nhiều.

Do vậy, Đảng Nhân dân Hành động vẫn là đảng Nhân dân Hành động, CSVN vẫn mãi là CSVN với bao sự tệ hại của nó như trước nay. Nếu giới lãnh đạo Hà Nội vẫn chỉ là nhũng con người tối ngày chỉ lo bám víu vào sự tồn tại của Điều 4, thì VN vẫn không thể nào sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu và đảng CSVN sớm muộn gì cũng phải bị dẹp bỏ.

Chưa biết giá trị những lời khuyên của ông Lý Quang Diệu đúng sai ra sao cũng như giới lãnh đạo Hà Nội sẽ vận dụng chúng vào thực tế ra sao, nhưng trước mắt cái giá tủi hổ mà những ai đang trăn trở đối với quê hương đất nước này phải trả thì đã quá rõ: vì đâu đất nước mình rộng lớn là vậy, sách đèn lâu đời là vậy mà nay phải đi thỉnh mời “ông cố vấn’ hàng xóm bé xíu sang để ban phát “lời khuyên”, ai đã biến đất nước dân tộc VN ta nên nông nỗi này? “Lắm thầy nhiều ma, lắm cha khó lấy chồng” người mà mất căn bản thiếu tự tin càng nghe nhiều lời khuyên liệu có càng thêm rối?

Lời khuyên “đắt giá”?

Nhìn cảnh người người “vồ vập” ông Lý Quang Diệu trong một cuộc họp ở Hà Nội để được nghe những ‘lời vàng ý ngọc’, khuyên dân Việt mình ‘làm lành tránh dữ’ được chiếu trên truyền hình quốc gia hai ngày trước (16/4) mà tôi không khỏi cảm thấy ‘bùi ngùi’ nhất lại là sắp gần đến ngày xui xẻo tận mạng 30/4/1975, càng khiến những ‘cựu cư dân Sàigòn’ chúng tôi nhớ lại cái thời 1975, thời mà đảo quốc Singapore của ông Lý Quang Diệu chẳng là cái đinh rỉ gì so với Sàigòn của VNCH, nên không ai có thể hình dung ra nổi một sự đổi ngôi thần kỳ: thầy VN phải xuống làm học trò của Singapore lại có thể xảy ra như hôm nay?

Trong số những ‘lời vàng thước ngọc’ của ông Lý Quang Diệu, cái khiến tôi quan tâm hơn cả chẳng phải là về kinh tế, mà lại là câu “trình độ tiếng Anh còn nhiều hạn chế là một điểm cần khắc phục” (http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30093&cn_id=336116 mà thoạt nghe không khỏi ngỡ ngàng, vì sao ông Lý Quang Diệu lại nỡ bóng gió chê bai dân Việt Nam mình vì dốt tiếng Anh, không được như Singapore của ông nên mới bị lạc hậu?

Không biết có phải vì sự quị lụy quá đáng của giới lãnh đạo Hà Nội bấy lâu nay đã khiến ông cựu thủ tướng Lý cảm thấy luôn rất tự tin, thoải mái trong những phát biểu liên quan đến nước VN như vậy hay không nhưng trước đây khi được khi được Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson (Anh Quốc) trao giải thưởng Học giả vào năm 2006 ông cũng đã từng đưa ra những nhận xét nghe khá là ‘phũ phàng’ “cuộc chiến Việt Nam đã đem đến “những lợi ích không ngờ đến” cho châu Á” hàm ý nhờ có bức tường VNCH mà cộng sản đã không vượt qua nổi bán đảo Đông Dương giúp cho các lân bang được tránh khỏi sự tàn phá của chủ thuyết này. Đồng thời cũng nhờ có chiến tranh VN mà Singapore cùng các nước trong vùng được hưởng lợi nhờ nhiều trăm tỷ dollars Mỹ đổ vào các hậu cứ như Utapao Tháilan, các căn cứ ở Philippinnes v.v…

Người Việt nào mà chẳng thấy đau khi phải nghe những lời như vậy khi biết rằng kẻ gây ra cuộc chiến ấy, những “người bạn mới” của ông, cũng chính là những ruột thịt của chúng ta.

Càng tiếp tục đau khi nghe ông Lý Quang Diệu lập luận tiếp “Bốn con rồng và bốn con hổ lại đã biến đổi hai nước cộng sản Trung Quốc và Việt Nam thành các nền kinh tế thị trường mở và giúp họ có xã hội tự do hơn.” (http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/10/061013_lee_warcomment.shtml) nhưng trên thực tế lại là ngược lại, chính những nhà đầu tư Singapore, Tháiland, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan v.v… mới là những bên đang tiếp tục khai thác cái sự đói nghèo của dân VN và TQ trong các khu chế xuất mọc lên khắp nơi trên lãnh thổ VN và TQ. Họ đến đây mà lại với lý do để “giúp VN sớm có xã hội dân chủ” mà chẳng phải vì lợi nhuận nghe mới nực cười làm sao!

Trở lại với việc ông Lý Quang Diệu khuyên nhà nước VN chịu khó đầu tư cho dân học tiếng Anh trong chuyến đi lần này, tôi chắc nó cũng đã khiến không ít người phải ‘vắt óc’ suy nghi mấy ngày qua. Vì cớ sự gì mà “ông cố vấn” Singapore đã chẳng ngần ngại đụng chạm đến tập quán văn hóa, ngôn ngữ của quốc gia khác, là điều rất hiếm khi các chính khách trong khi công du xứ người dám đề cập đến. Chẳng nhẽ một lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm như ông Lý Quang Diệu lại mắc phải ‘sai lầm chết người’ có thể sẽ khiến buồn lòng không ít người Việt yêu văn hóa Pháp? Tại sao ông không khuyên dân mình đi học tiếng Trung Quốc là cường quốc kế bên và cũng là ngôn ngữ của tổ tiên ông?

Sự hớ hênh đáng ngạc nhiên của “ông cố vấn” cộng thêm sự khó hiểu báo đài VN thoải mái đưa tin như chẳng hề có người VN nào nhận ra dân tộc mình đang bị xúc phạm, buộc chúng ta phải suy nghĩ về những ẩn ý sâu xa núp sau lời khuyên này và phải chăng đây cũng chính là lời nhắn nhủ giá trị nhất của ông Lý Quang Diệu trong chuyến thăm VN vừa kết thúc hôm qua, rằng “Hà Nội hãy mạnh dạn nghiêng hẳn vào Mỹ” một lời khuyên xem ra rất đúng lúc, kinh tế chỉ là chuyện nhỏ so với nguy cơ Trung Quốc đang lộng hành trong khu vực hiện nay mà chắc chắn cũng không thể không ảnh hưởng đến Singapore của ông.

Nếu không vì lý do chính đáng này thì những lời khuyên dân VN lo đi học tiếng Anh của ông Lý Quang Diệu sẽ không còn cách nào khác hơn để hiểu đó chính là những lời lộng ngôn. Mà điều này thì thật đáng tiếc cho ông!

Sàigòn, 18/4/2009
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Con Đường
Ánh Tuyết
06:12 18/04/2009

CON ĐƯỜNG



Ảnh của Ánh Tuyết

Tiến lên trên đường hy vọng, bất chấp những van nài "tan nát lòng"

của tình thân thuộc cố tri..

(Trích “Đường Hy Vọng” của Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền