Phụng Vụ - Mục Vụ
Ước gì ngọn lửa còn cháy mãi
LM. Giuse Trương Đình Hiền
20:49 14/04/2017
ƯỚC GÌ NGỌN LỬA CÒN CHÁY MÃI !
(LỄ VỌNG PHỤC SINH 2017 tại Giáo xứ Qui Hòa)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Chúng ta đang cử hành không phải một “Thánh Lễ bình thường” như bao Thánh lễ khác, nhưng là một cử hành rất đặc biệt, mà theo ngôn ngữ chính thức của sách Phụng Vụ - Sách lễ Rôma, đó là ĐÊM CANH THỨC VƯỢT QUA.
Vì là “Đêm Canh Thức” nên luật Phụng Vụ (Chữ đỏ) buộc phải “cử hành vào lúc chập tối và kết thúc trước rạng đông”
Trong khi đó mục tiêu của “Canh Thức” thì luật Phụng vụ (Chữ đỏ) lại dựa trên chính truyền thống xa xưa từ thời Cựu ước : “Đó là đêm Đức Chúa canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai Cập ; đêm đó thuộc về Đức Chúa, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.” (Xh 12,42) và theo lời dạy của chính Chúa Giêsu trong Tin Mừng : “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn…Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em : chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,35-37)
Còn ý nghĩa của toàn bộ Đêm Canh Thức Vượt Qua sẽ chuyển tải qua 4 nội dung với 4 diễn trình Phụng Vụ sau đây :
- Nội dung thứ nhất : Thắp nến Phục Sinh : Tin mừng Phục Sinh chính là tin vui vĩ đại nhất mà đêm nay một lần nữa Hội Thánh muốn công bố cho toàn thể nhân loại. Và cùng với Tin Mừng vĩ đại nầy, Cây Nến Phục Sinh được thắp sáng là biểu tượng của chính Đức Kitô Phục sinh, Ngài đang hiện diện đầy quyền năng trong thế giới.
- Nội dung thứ hai : Phụng Vụ Lời Chúa : Nếu được nghe đầy đủ, chúng ta hôm nay được nghe đến 7 bài đọc thuộc phần KT Cựu ước, một bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng - (9 Bài đọc cùng với lời nguyện đi theo sau mỗi bài). Ý nghĩa tổng quát của phần Phụng Vụ nầy được chính Vị Chủ tế nêu bật trong lời hiệu triệu khai mạc : “Chúng ta hãy ngẫm xem trong thời Cựu ước, Chúa đã cứu chuộc dân Người làm sao, và trong thời đại cuối cùng nầy, Người lại sai Con Một đến cứu chuộc chúng ta thế nào”.
- Nội dung thứ ba : Phụng Vụ Phép rửa. Cử hành Phụng vụ nầy muốn nói lên kết quả trực tiếp của công trình cứu độ được Đức Kitô thực hiện qua cái chết và sự phục sinh của Ngài : tái sinh chúng ta vào đời sống mới – đưa chúng ta gia nhập vào một Dân tộc mới, Dân được cứu độ, Dân Thánh của Thiên Chúa. Chính vì thế, tại nhiều nhà thờ trên thế giới, chính đêm nay và trong phần nghi thức nầy, có rất nhiều anh chị em dự tòng được chính thức lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức. Trong khi đó, mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ một lần nữa lặp lại các lời tuyên hứa khi chịu phép rửa tội và đón nhận nước thánh mới, dấu chỉ của hồng ân tái sinh.
- Nội dung thứ tư : Phụng Vụ Thánh Thể : cho dù cũng giống như bao cử hành Thánh lễ khác, nhưng phụng vụ Thánh Thể hôm nay mang một ý nghĩa đặc biệt đó chính là “Tiệc Thánh của Giao ước Mới mà chính nơi đây Đấng Phục Sinh đích thân đến gặp gỡ và bẻ bánh trao cho các môn sinh của Ngài khi Ngài vừa từ cõi chết sống lại”.
Sở dĩ tôi dừng lại khá lâu để cắt nghĩa các diễn trình Phụng Vụ của Đêm Canh Thức Vượt Qua nầy, vì cứ sự thường, chúng ta hay tham dự Thánh Lễ cách thụ động và mong cho mau kết thúc mà ít khi tham dự hết mình, sống cho đến tận cùng mầu nhiệm Phụng Vụ. Nếu với Đêm nay, chúng ta cũng tham dự (nói theo kiểu nhà nước) “theo đúng quy trình” như thế thì quá uổng, nếu không nói là quá vô tâm và vô ơn đối với Chúa.
Bởi vì, nếu dùng con mắt đức tin để hướng nhìn về cả con đường dài của lịch sử cứu rỗi mà Thiên Chúa đã cố công thực hiện (như phần Phụng Vụ Lời Chúa mới vừa trình bày), chúng ta phải thực sự cảm nhận rằng : câu chuyện của Phụng Vụ Đêm nay quá ư là vĩ đại, là cần thiết, là tuyệt hảo, không phải chỉ dành riêng cho chúng ta mà cho toàn thể nhân loại.
- Không tuyệt vời sao, khi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và cho dù loài người có quỵ ngã thảm thương thì Thiên Chúa cũng không quay lưng bỏ mặc (Bđ 1).
- Không tuyệt vời sao, khi chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi vào dòng tộc đức tin của Tổ phụ Abraham, bởi vì từ dòng tộc nầy, Đấng cứu độ chúng ta là Con Một Thiên Chúa sẽ nhập thể vào đời mang lấy kiếp phận con người và trở nên của lễ cứu độ mà cuộc sát tế đứa con Isaac của cụ tổ Abraham là hình ảnh tiên trưng rõ nét. (Bđ 2)
- Không tuyệt vời sao, khi nhân loại chúng ta chỉ là một đám dân nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ nhưng Thiên Chúa đã giải thoát và tuyển chọn thành dân riêng để dẫn đưa về đất hứa của tự do mà cuộc giải thoát dân Ít-ra-en đã như một tiền đề chuẩn bị và tiên báo để rồi hiện thực qua chính bí tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận và kính nhớ hôm nay ! (Bđ 3)
- Không tuyệt vời sao, khi Thiên Chúa không ngừng thanh tẩy chúng ta, biến đổi trái tim chai đá và ban thần khí mới cho cõi lòng chúng ta, nhất là khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thêm Sức. (Bđ 4).
- Không tuyệt vời sao, khi chúng ta được tuyển chọn để được hiệp nhất với Con Một Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại để chúng ta cũng chết cho tội lỗi và sống lại trong cuộc đời mới thuộc về Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta tin tưởng hoán cải trở về với Thiên Chúa tình yêu. (Bài Thánh Thư).
- Và có lẽ tuyệt vời nhất, đó chính là chính Đức Kitô Phục Sinh, một lần nữa đang có mặt ở đây, đang ngỏ lời với mỗi người chúng ta, từ chính “ngôi mộ trống” như Tin Mừng Matthêô tường thuật : “Chào anh chị em !... Anh chị em đừng sợ ! hãy đi báo tin mừng phục sinh cho các anh chị em khác…!”
Vâng, Phục Sinh là như thế, là câu chuyện về “Ngôi Mộ trống” của người phụ nữ Maria-Mađalêna mặc dầu đã 2000 năm rồi nhưng chưa bao giờ trở thành cổ tích mà cứ mới hoài, trẻ mãi. Bởi chưng, cũng chính từ câu chuyện đó, từ lời chứng giản đơn về “ngôi mộ trống” đó mà toàn bộ những gì liên quan đến chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đến vị ngôn sứ Giêsu đã sáng lên và đong đầy ý nghĩa. Thật vậy, khởi đi từ bình minh của “Ngày thứ nhất trong tuần”, với bước chân vội vã ra đi từ “mồ trống” của người phụ nữ hoàn lương Maria Mađalêna, hay sau đó, trên vạn nẻo đường thế giới, với những “cánh thuyền ra chỗ nước sâu” của các tay “chài lưới người” xuất thân từ biển hồ Galilê, danh hiệu Giêsu-Kitô cùng với lời rao giảng của Ngài, những phép lạ què đi, câm nói, điếc nghe, phong cùi lành sạch, chết được hoàn sinh…tất cả đã rực sáng lên để trở nên một Tin Mừng cả thể, dứt khoát, làm đảo lộn tất cả thân phận con người và hướng đi của vũ trụ - Tin mừng Phục Sinh. Phụng vụ đêm nay đã chọn Cây Nến Phục Sinh như là biểu tượng đẹp nhất và cũng rõ nét nhất cùng với những lời cắt nghĩa uy hùng của bài ca Exultet để thuyết minh cho chân lý nền tảng nầy : “Vậy xin Cha cho cây nến nầy. Chúng con đã thắp lên để tôn vinh Danh Thánh. Được cháy mãi không ngừng. Hầu xua đuổi bóng tối đêm nay….Ước chi ngọn lửa còn cháy mãi. Lúc xuất hiện Sao Mai : Một vì sao không bao giờ lặn, là Đức Kitô, con yêu quý của Cha, Đấng từ cõi chết sống lại, đem ánh sáng thanh bình soi chiếu vạn dân. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.”
Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng : Ánh nến phục sinh đó, Tin Mừng Phục Sinh đó, suốt 2000 năm nay, đã phải kinh qua bao nhiêu cuồng phong bảo táp, bao nhiêu kết án loại trừ, bao nhiêu đặt điều bôi nhọ…giống như thủ đoạn ngày nào của các quan chức Do Thái giáo : dùng tiền bạc đút lót để hòng dập tắt mọi chuyện liên quan đến “vụ án Giêsu Nadarét”, dùng phiến đá to lấp cửa mộ, dùng lính canh đứng gác bên ngoài, dùng dấu triện niêm phong của quan tổng trấn Philatô…Nhưng rồi chẳng bao lâu, “Tin mừng đó đã tràn ngập Thủ đô Giêrusalem”, đã chinh phục đế quốc Rôma và cho đến hôm nay “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (TV 18,5). Vâng, Thiên Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu, vĩ đại bằng những sự kiện thật bé bỏng đơn sơ như “ngôi mộ trống” ; và Tin Mừng Phục Sinh cũng sẽ mãi mãi được loan báo cho thế giới qua những con người nhỏ bé tầm thường như cô Maria Mađalêna, như anh dân chài vai u thịt bắp Phêrô, hay biết bao nhiêu anh chị em chúng ta ở đây, các nữ tu Phan Sinh, các anh em chức việc, các bạn giáo lý viên, các bà Legio Mariae…
Đêm Canh Thức Vượt Qua hôm nay, với các diễn trình Phụng Vụ và Lời Chúa, đã gọi mời chúng ta lên đường tiếp tục chuyện kể của bà Maria bằng chính ngôn ngữ và lời chứng của chính mình, như chứng từ của của một chàng hiệp sĩ thời đạo binh Thánh Giá : Anh thề hứa sẽ mang ánh lửa từ cây nến phục sinh tại mồ thánh Chúa ở Giêrusalem về thắp lên cây nến phục sinh trong nhà thờ của mình ở Tây ban Nha…; và anh đã mang được về quê hương với bí quyết duy nhất : tôi luôn chăm chú nhìn thẳng vào ánh lửa của ngọn nến trên suốt cuộc hành trình…!
Hôm nay, trên tay của mỗi người chúng ta cũng có một ngọn nến được thắp từ cây nến Phục Sinh cùng với lời nhắc bảo của bài ca Exultet : Ước chi ngọn lửa còn cháy mãi. Vâng, chúng ta hãy giữ mãi “ánh lửa phục sinh” trên mọi nẻo đường cuộc sống. Amen.
(LỄ VỌNG PHỤC SINH 2017 tại Giáo xứ Qui Hòa)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Chúng ta đang cử hành không phải một “Thánh Lễ bình thường” như bao Thánh lễ khác, nhưng là một cử hành rất đặc biệt, mà theo ngôn ngữ chính thức của sách Phụng Vụ - Sách lễ Rôma, đó là ĐÊM CANH THỨC VƯỢT QUA.
Vì là “Đêm Canh Thức” nên luật Phụng Vụ (Chữ đỏ) buộc phải “cử hành vào lúc chập tối và kết thúc trước rạng đông”
Trong khi đó mục tiêu của “Canh Thức” thì luật Phụng vụ (Chữ đỏ) lại dựa trên chính truyền thống xa xưa từ thời Cựu ước : “Đó là đêm Đức Chúa canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai Cập ; đêm đó thuộc về Đức Chúa, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.” (Xh 12,42) và theo lời dạy của chính Chúa Giêsu trong Tin Mừng : “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn…Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em : chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,35-37)
Còn ý nghĩa của toàn bộ Đêm Canh Thức Vượt Qua sẽ chuyển tải qua 4 nội dung với 4 diễn trình Phụng Vụ sau đây :
- Nội dung thứ nhất : Thắp nến Phục Sinh : Tin mừng Phục Sinh chính là tin vui vĩ đại nhất mà đêm nay một lần nữa Hội Thánh muốn công bố cho toàn thể nhân loại. Và cùng với Tin Mừng vĩ đại nầy, Cây Nến Phục Sinh được thắp sáng là biểu tượng của chính Đức Kitô Phục sinh, Ngài đang hiện diện đầy quyền năng trong thế giới.
- Nội dung thứ hai : Phụng Vụ Lời Chúa : Nếu được nghe đầy đủ, chúng ta hôm nay được nghe đến 7 bài đọc thuộc phần KT Cựu ước, một bài Thánh Thư và một bài Tin Mừng - (9 Bài đọc cùng với lời nguyện đi theo sau mỗi bài). Ý nghĩa tổng quát của phần Phụng Vụ nầy được chính Vị Chủ tế nêu bật trong lời hiệu triệu khai mạc : “Chúng ta hãy ngẫm xem trong thời Cựu ước, Chúa đã cứu chuộc dân Người làm sao, và trong thời đại cuối cùng nầy, Người lại sai Con Một đến cứu chuộc chúng ta thế nào”.
- Nội dung thứ ba : Phụng Vụ Phép rửa. Cử hành Phụng vụ nầy muốn nói lên kết quả trực tiếp của công trình cứu độ được Đức Kitô thực hiện qua cái chết và sự phục sinh của Ngài : tái sinh chúng ta vào đời sống mới – đưa chúng ta gia nhập vào một Dân tộc mới, Dân được cứu độ, Dân Thánh của Thiên Chúa. Chính vì thế, tại nhiều nhà thờ trên thế giới, chính đêm nay và trong phần nghi thức nầy, có rất nhiều anh chị em dự tòng được chính thức lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức. Trong khi đó, mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ một lần nữa lặp lại các lời tuyên hứa khi chịu phép rửa tội và đón nhận nước thánh mới, dấu chỉ của hồng ân tái sinh.
- Nội dung thứ tư : Phụng Vụ Thánh Thể : cho dù cũng giống như bao cử hành Thánh lễ khác, nhưng phụng vụ Thánh Thể hôm nay mang một ý nghĩa đặc biệt đó chính là “Tiệc Thánh của Giao ước Mới mà chính nơi đây Đấng Phục Sinh đích thân đến gặp gỡ và bẻ bánh trao cho các môn sinh của Ngài khi Ngài vừa từ cõi chết sống lại”.
Sở dĩ tôi dừng lại khá lâu để cắt nghĩa các diễn trình Phụng Vụ của Đêm Canh Thức Vượt Qua nầy, vì cứ sự thường, chúng ta hay tham dự Thánh Lễ cách thụ động và mong cho mau kết thúc mà ít khi tham dự hết mình, sống cho đến tận cùng mầu nhiệm Phụng Vụ. Nếu với Đêm nay, chúng ta cũng tham dự (nói theo kiểu nhà nước) “theo đúng quy trình” như thế thì quá uổng, nếu không nói là quá vô tâm và vô ơn đối với Chúa.
Bởi vì, nếu dùng con mắt đức tin để hướng nhìn về cả con đường dài của lịch sử cứu rỗi mà Thiên Chúa đã cố công thực hiện (như phần Phụng Vụ Lời Chúa mới vừa trình bày), chúng ta phải thực sự cảm nhận rằng : câu chuyện của Phụng Vụ Đêm nay quá ư là vĩ đại, là cần thiết, là tuyệt hảo, không phải chỉ dành riêng cho chúng ta mà cho toàn thể nhân loại.
- Không tuyệt vời sao, khi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và cho dù loài người có quỵ ngã thảm thương thì Thiên Chúa cũng không quay lưng bỏ mặc (Bđ 1).
- Không tuyệt vời sao, khi chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi vào dòng tộc đức tin của Tổ phụ Abraham, bởi vì từ dòng tộc nầy, Đấng cứu độ chúng ta là Con Một Thiên Chúa sẽ nhập thể vào đời mang lấy kiếp phận con người và trở nên của lễ cứu độ mà cuộc sát tế đứa con Isaac của cụ tổ Abraham là hình ảnh tiên trưng rõ nét. (Bđ 2)
- Không tuyệt vời sao, khi nhân loại chúng ta chỉ là một đám dân nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ nhưng Thiên Chúa đã giải thoát và tuyển chọn thành dân riêng để dẫn đưa về đất hứa của tự do mà cuộc giải thoát dân Ít-ra-en đã như một tiền đề chuẩn bị và tiên báo để rồi hiện thực qua chính bí tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận và kính nhớ hôm nay ! (Bđ 3)
- Không tuyệt vời sao, khi Thiên Chúa không ngừng thanh tẩy chúng ta, biến đổi trái tim chai đá và ban thần khí mới cho cõi lòng chúng ta, nhất là khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thêm Sức. (Bđ 4).
- Không tuyệt vời sao, khi chúng ta được tuyển chọn để được hiệp nhất với Con Một Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại để chúng ta cũng chết cho tội lỗi và sống lại trong cuộc đời mới thuộc về Thiên Chúa, mỗi khi chúng ta tin tưởng hoán cải trở về với Thiên Chúa tình yêu. (Bài Thánh Thư).
- Và có lẽ tuyệt vời nhất, đó chính là chính Đức Kitô Phục Sinh, một lần nữa đang có mặt ở đây, đang ngỏ lời với mỗi người chúng ta, từ chính “ngôi mộ trống” như Tin Mừng Matthêô tường thuật : “Chào anh chị em !... Anh chị em đừng sợ ! hãy đi báo tin mừng phục sinh cho các anh chị em khác…!”
Vâng, Phục Sinh là như thế, là câu chuyện về “Ngôi Mộ trống” của người phụ nữ Maria-Mađalêna mặc dầu đã 2000 năm rồi nhưng chưa bao giờ trở thành cổ tích mà cứ mới hoài, trẻ mãi. Bởi chưng, cũng chính từ câu chuyện đó, từ lời chứng giản đơn về “ngôi mộ trống” đó mà toàn bộ những gì liên quan đến chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đến vị ngôn sứ Giêsu đã sáng lên và đong đầy ý nghĩa. Thật vậy, khởi đi từ bình minh của “Ngày thứ nhất trong tuần”, với bước chân vội vã ra đi từ “mồ trống” của người phụ nữ hoàn lương Maria Mađalêna, hay sau đó, trên vạn nẻo đường thế giới, với những “cánh thuyền ra chỗ nước sâu” của các tay “chài lưới người” xuất thân từ biển hồ Galilê, danh hiệu Giêsu-Kitô cùng với lời rao giảng của Ngài, những phép lạ què đi, câm nói, điếc nghe, phong cùi lành sạch, chết được hoàn sinh…tất cả đã rực sáng lên để trở nên một Tin Mừng cả thể, dứt khoát, làm đảo lộn tất cả thân phận con người và hướng đi của vũ trụ - Tin mừng Phục Sinh. Phụng vụ đêm nay đã chọn Cây Nến Phục Sinh như là biểu tượng đẹp nhất và cũng rõ nét nhất cùng với những lời cắt nghĩa uy hùng của bài ca Exultet để thuyết minh cho chân lý nền tảng nầy : “Vậy xin Cha cho cây nến nầy. Chúng con đã thắp lên để tôn vinh Danh Thánh. Được cháy mãi không ngừng. Hầu xua đuổi bóng tối đêm nay….Ước chi ngọn lửa còn cháy mãi. Lúc xuất hiện Sao Mai : Một vì sao không bao giờ lặn, là Đức Kitô, con yêu quý của Cha, Đấng từ cõi chết sống lại, đem ánh sáng thanh bình soi chiếu vạn dân. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.”
Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng : Ánh nến phục sinh đó, Tin Mừng Phục Sinh đó, suốt 2000 năm nay, đã phải kinh qua bao nhiêu cuồng phong bảo táp, bao nhiêu kết án loại trừ, bao nhiêu đặt điều bôi nhọ…giống như thủ đoạn ngày nào của các quan chức Do Thái giáo : dùng tiền bạc đút lót để hòng dập tắt mọi chuyện liên quan đến “vụ án Giêsu Nadarét”, dùng phiến đá to lấp cửa mộ, dùng lính canh đứng gác bên ngoài, dùng dấu triện niêm phong của quan tổng trấn Philatô…Nhưng rồi chẳng bao lâu, “Tin mừng đó đã tràn ngập Thủ đô Giêrusalem”, đã chinh phục đế quốc Rôma và cho đến hôm nay “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (TV 18,5). Vâng, Thiên Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu, vĩ đại bằng những sự kiện thật bé bỏng đơn sơ như “ngôi mộ trống” ; và Tin Mừng Phục Sinh cũng sẽ mãi mãi được loan báo cho thế giới qua những con người nhỏ bé tầm thường như cô Maria Mađalêna, như anh dân chài vai u thịt bắp Phêrô, hay biết bao nhiêu anh chị em chúng ta ở đây, các nữ tu Phan Sinh, các anh em chức việc, các bạn giáo lý viên, các bà Legio Mariae…
Đêm Canh Thức Vượt Qua hôm nay, với các diễn trình Phụng Vụ và Lời Chúa, đã gọi mời chúng ta lên đường tiếp tục chuyện kể của bà Maria bằng chính ngôn ngữ và lời chứng của chính mình, như chứng từ của của một chàng hiệp sĩ thời đạo binh Thánh Giá : Anh thề hứa sẽ mang ánh lửa từ cây nến phục sinh tại mồ thánh Chúa ở Giêrusalem về thắp lên cây nến phục sinh trong nhà thờ của mình ở Tây ban Nha…; và anh đã mang được về quê hương với bí quyết duy nhất : tôi luôn chăm chú nhìn thẳng vào ánh lửa của ngọn nến trên suốt cuộc hành trình…!
Hôm nay, trên tay của mỗi người chúng ta cũng có một ngọn nến được thắp từ cây nến Phục Sinh cùng với lời nhắc bảo của bài ca Exultet : Ước chi ngọn lửa còn cháy mãi. Vâng, chúng ta hãy giữ mãi “ánh lửa phục sinh” trên mọi nẻo đường cuộc sống. Amen.
Lễ Phục Sinh: Để chiến đấu với văn minh sự chết
LM. Giuse Trương Đình Hiền
20:51 14/04/2017
ĐỂ CHIẾN ĐẤU VỚI NỀN VĂN MINH SỰ CHẾT
(Chúa Nhật PHỤC SINH 2017)
Dẫn nhập trước khi Rảy nước Thánh (Thay nghi thức sám hối)
Hôm nay các tờ lịch trên phần đông của thế giới đều đồng thanh gọi tên : NGÀY Chúa Nhật (Lord’ Day, Dominica, Domenica, Domingo, Dimanche…), Ngày mà cách đây 2000 năm trước, khi Kitô giáo chưa xuất hiện trong thế giới nầy thì người ta vẫn gọi tên là “Ngày Thứ Nhất” hay “Ngày Mặt Trời” (Sunday). Tuy nhiên, kể từ cái buổi sáng Tinh mơ “Ngày Thứ Nhất trong tuần”, khi các phụ nữ thân quen của Thầy Giêsu đến thăm mộ Thầy chỉ thấy “Mồ Trống”, các thiên thần báo tin Thầy đã sống lại…; rồi các “ngày thứ nhất tiếp sau”, Đức Kitô phục sinh đã hiện đến gặp các môn sinh…Cứ như thế, cuộc gặp gỡ của các kitô hữu ban đầu diển ra đều đặn vào “ngày thứ nhất trong tuần” và họ đã gọi ngày của cuộc họp mặt đặc biệt đó là “Ngày của Chúa”. Kể từ đó Ngày của Chúa, Chúa Nhật đã đi vào nhịp sống của loài người….
Đại lễ Phục Sinh hàng năm đó chính là sống lại cái biến cố vĩ đại làm nên “Ngày Chúa Nhật”, biến cố phát sinh lời chứng về câu chuyện “Mồ Trống”, biến cố Đức Kitô sống lại từ trong cõi chết để khai đường mở lối cho nhân loại tiến vào cuộc sống vĩnh hằng.
Ngày hôm nay cũng còn là dịp để bao nhiêu thế hệ kitô hữu, nhất là các anh chị em Tân Tòng vui mừng vì hồng ân Thánh Tẩy nhận được trong Đêm Hồng Phúc Vọng Phục Sinh khi chính thức trở nên Con cái Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy.
Để sống lại mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô và xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh nầy, cộng đoàn chúng ta sốt sắng nhận lãnh nước Thánh được rãy trên mình như dấu chỉ của hồng ân thanh tẩy.
Bài giảng Lời Chúa :
Người Châu Phi có câu ngạn ngữ : "Khi ta nhớ đến một người nào, thì người ấy sống lại, hiện diện ở giữa ta". Đối với niềm tin Kitô giáo, việc tưởng niệm Chúa Kitô chết và sống lại chính là hành vi nền tảng. "Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy". Và một khi Cộng đoàn Dân Chúa họp nhau tưởng niệm Chúa Ki-tô thì Ngài có mặt ở đó. Đó chính là điểm khác biệt căn cốt giữa phụng vụ của Giáo Hội và việc thờ phượng của các tôn giáo khác : chúng ta qui tụ, cầu nguyện, tôn thờ, lắng nghe, được sai đi và làm chứng…với một Đấng đang sống, đang hiện diện (Cf. PV số 7). Tuy nhiên, để sống “sự hiện diện đặc biệt nầy”, để cảm nghiệm thực sự một “Đức Kitô phục sinh đang có mặt”, cộng đoàn Dân Chúa phải trở về để gặp gỡ, để được khơi gợi và soi chiếu từ những “Lời Chứng” sống động về Đấng Phục sinh, từ những chứng nhân đã gặp gỡ, đã sống, đã lãnh nhận sứ mệnh, đã đồng hành với chính Đấng Phục sinh ngay từ “thuở ban đầu”. Vì thế, niềm tin phục sinh, tin mừng Phục sinh trước hết là “một lời chứng”, của “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm chưa dễ đã ai quên”
1. Tin Mừng Phục sinh : “một lời chứng” và một “sự hiện diện”:
v BĐ 1: Sách CVTĐ, qua kinh nghiệm bản thân và của chính cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, thánh Phêrô đã mạnh mẽ làm chứng :
“Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người trên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại”
v Cùng với Phêrô, mọi Tông đố khác, các bài giáo lý đầu tiên của Kitô giáo do các Ngài thực hiện, niềm tin nguyên thủy mà các Ngài muốn chuyển tải cho thế giới, giản đơn, chỉ là “Đức Kitô đã chết và đã sống lại”.
“Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấytận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời…” (1 Ga 1,1-2)
v Phaolô, một tông đồ trở lại cũng đã dõng dạc :
“Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng nầy ; điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các Ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh 2 : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. (Cv 13,32-33)
Tuy nhiên, nếu những lời khẳng định trên chỉ thuần túy là do óc tưởng tượng của con người, hay do một âm mưu tinh quái đạo diễn, thì hỏi thử liệu 2000 năm nay, sự thật về sự kiện Phục Sinh có khả năng trụ vững không giữa dòng chảy khắc nghiệt của lịch sử con người ? Thế mà chân lý ấy vẫn không ngừng được thuyết phục, sự thật huyền nhiệm ấy cứ mãi mãi là điểm tựa, là hứng khởi, là hy vọng, là niềm tin của bao thế hệ con người. Điều đó, chỉ có thể cắt nghĩa được : bên sau Lời chứng ấy, bên trong Tin Mừng ấy, ở giữa câu chuyện phục sinh ấy, mồ trống ây, có một Đấng Phục Sinh đang thực sự hiện diện trong quyền năng vĩnh cửu của Ngài. Vâng, Kitô giáo chính là Đức Giêsu-Kitô đang hiện diện, Kitô giáo chính là cuộc gặp gỡ giữa con người và một Đấng Phục Sinh, một cuộc gặp gỡ đã trở thành cốt yếu của đức tin, của việc tôn thờ, của định hướng sống ; và như thế, cử hành mầu nhiệm Phục Sinh hôm nay chính là :
2. Gặp gỡ và làm chứng về Đức Kitô phục sinh :
- Như cuộc gặp gỡ luôn mới mẻ, tinh khôi, thân mật, trào tràn niềm vui mà Hội Thánh đã diễn tả qua kinh Ca Tiếp Liên, khi đặt trên môi của chứng nhân Maria những lời :
“Tôi đã thấy nấm mồ của Đức Kitô, thấy thiên sứ chứng nhân hiển hiện, thấy y phục và khăn liệm xếp rời, thấy Đức Giêsu hy vọng của tôi…”.
- Đó cũng là cuộc gặp gỡ mang chiều kích “hướng thượng”, hoán cải, xoay trục về phía Đấng Phục Sinh như cách cảm nhận và khuyến dụ của chứng nhân Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Cô-lô-sê của Bđ 2 hôm nay :
“Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitoo, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitoo đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới…”
- Đó chính là cuộc gặp gỡ của thái độ nôn nao, khao khát, nhanh nhạy như những bước chạy vội vã đến mồ trống của hai chứng nhân Phêrô và Gioan trong buối sáng ngày thứ nhất trong tuần để cuối cùng “đã thấy và đã tin”.
Riêng với chúng ta hôm nay thì gặp gỡ Đấng Phục Sinh như thế nào đây ? Có thật Ngài đang hiện diện như cách cảm nhận của thi sĩ Trăng Thập Tự không :
Thì Ngài đang ở đó.
Khi anh em thất vọng,
Ngài vẫn ở bên.
Khi anh em hân hoan
Ngài vẫn không vắng mặt.
Đức Kitô phục sinh sẽ đến gặp ta
miễn sao ta chưa quên hẳn Ngài.
Còn nói đến Ngài như hai lử khách.
Còn nhớ đến anh em Ngài như Tôma
Miễn sao ta còn vướng vất
một vết tích nào đó về Ngài trong ký ức
Thì Ngài vẫn còn đến gặp ta
Thì Ngài còn đến đồng bàn với ta….
Đúng vậy, chính Ngài đã minh xác mà : “Ở nơi đâu có hai ba người họp lại vì Danh Ta, thì ta ở giữa họ” (Mt 18,20).
Cả cuộc đời của mỗi người chúng ta, đã biết bao mùa Chay-Tuần Thánh-Phục Sinh đã đi qua, bao nhiêu lần quỳ xuống nơi Tòa Giải Tội, bao nhiêu lần tiến lên đón nhận Mình Thánh Chúa…không lẽ chúng ta không có được một kỷ niệm nào về cuộc gặp gỡ với Đức Kitô phục sinh ?
Và rồi, bao nhiêu anh chị em mà chúng ta từng gặp gỡ trong cuộc đời, chẳng lẽ không có một một người nghèo, một bệnh nhân, một người tàn tật, một ai đó đang mang những giọt buồn, một ai đó đang sầu khổ thất vọng và cần biết bao một sẻ chia, một lời động viên, vỗ về, an ủi…?
Có lẽ Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta là một trong những chứng nhân đầy thuyết phục của thời đại chúng ta về sự gặp gỡ nầy, đặc biệt gặp gỡ Đấng Phục Sinh nơi những thân phận con người nghèo nàn, ốm đau, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị đọa đầy…Mẹ đã để lại lời chứng nầy trong kinh nguyện sau đây và cũng là tuyên ngôn cho tất cả những ai muốn lên đường làm chứng và rao giảng Tin Mừng Phục Sinh bằng cuộc chiến đấu cho yêu thương và hy vọng, cho niềm vui và hiệp nhất :
Lạy Chúa,
Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.(…)
Ước gì từ nay,
không có gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng tình yêu Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn ;
Xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con...
Vâng, chỉ với niềm vui và sức mạnh Phục Sinh, chỉ với Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mới cho chúng ta đủ dũng khí để chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến với nền văn minh sự chết. Amen
(Chúa Nhật PHỤC SINH 2017)
Dẫn nhập trước khi Rảy nước Thánh (Thay nghi thức sám hối)
Hôm nay các tờ lịch trên phần đông của thế giới đều đồng thanh gọi tên : NGÀY Chúa Nhật (Lord’ Day, Dominica, Domenica, Domingo, Dimanche…), Ngày mà cách đây 2000 năm trước, khi Kitô giáo chưa xuất hiện trong thế giới nầy thì người ta vẫn gọi tên là “Ngày Thứ Nhất” hay “Ngày Mặt Trời” (Sunday). Tuy nhiên, kể từ cái buổi sáng Tinh mơ “Ngày Thứ Nhất trong tuần”, khi các phụ nữ thân quen của Thầy Giêsu đến thăm mộ Thầy chỉ thấy “Mồ Trống”, các thiên thần báo tin Thầy đã sống lại…; rồi các “ngày thứ nhất tiếp sau”, Đức Kitô phục sinh đã hiện đến gặp các môn sinh…Cứ như thế, cuộc gặp gỡ của các kitô hữu ban đầu diển ra đều đặn vào “ngày thứ nhất trong tuần” và họ đã gọi ngày của cuộc họp mặt đặc biệt đó là “Ngày của Chúa”. Kể từ đó Ngày của Chúa, Chúa Nhật đã đi vào nhịp sống của loài người….
Đại lễ Phục Sinh hàng năm đó chính là sống lại cái biến cố vĩ đại làm nên “Ngày Chúa Nhật”, biến cố phát sinh lời chứng về câu chuyện “Mồ Trống”, biến cố Đức Kitô sống lại từ trong cõi chết để khai đường mở lối cho nhân loại tiến vào cuộc sống vĩnh hằng.
Ngày hôm nay cũng còn là dịp để bao nhiêu thế hệ kitô hữu, nhất là các anh chị em Tân Tòng vui mừng vì hồng ân Thánh Tẩy nhận được trong Đêm Hồng Phúc Vọng Phục Sinh khi chính thức trở nên Con cái Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy.
Để sống lại mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô và xứng đáng cử hành mầu nhiệm thánh nầy, cộng đoàn chúng ta sốt sắng nhận lãnh nước Thánh được rãy trên mình như dấu chỉ của hồng ân thanh tẩy.
Bài giảng Lời Chúa :
Người Châu Phi có câu ngạn ngữ : "Khi ta nhớ đến một người nào, thì người ấy sống lại, hiện diện ở giữa ta". Đối với niềm tin Kitô giáo, việc tưởng niệm Chúa Kitô chết và sống lại chính là hành vi nền tảng. "Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy". Và một khi Cộng đoàn Dân Chúa họp nhau tưởng niệm Chúa Ki-tô thì Ngài có mặt ở đó. Đó chính là điểm khác biệt căn cốt giữa phụng vụ của Giáo Hội và việc thờ phượng của các tôn giáo khác : chúng ta qui tụ, cầu nguyện, tôn thờ, lắng nghe, được sai đi và làm chứng…với một Đấng đang sống, đang hiện diện (Cf. PV số 7). Tuy nhiên, để sống “sự hiện diện đặc biệt nầy”, để cảm nghiệm thực sự một “Đức Kitô phục sinh đang có mặt”, cộng đoàn Dân Chúa phải trở về để gặp gỡ, để được khơi gợi và soi chiếu từ những “Lời Chứng” sống động về Đấng Phục sinh, từ những chứng nhân đã gặp gỡ, đã sống, đã lãnh nhận sứ mệnh, đã đồng hành với chính Đấng Phục sinh ngay từ “thuở ban đầu”. Vì thế, niềm tin phục sinh, tin mừng Phục sinh trước hết là “một lời chứng”, của “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm chưa dễ đã ai quên”
1. Tin Mừng Phục sinh : “một lời chứng” và một “sự hiện diện”:
v BĐ 1: Sách CVTĐ, qua kinh nghiệm bản thân và của chính cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, thánh Phêrô đã mạnh mẽ làm chứng :
“Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người trên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại”
v Cùng với Phêrô, mọi Tông đố khác, các bài giáo lý đầu tiên của Kitô giáo do các Ngài thực hiện, niềm tin nguyên thủy mà các Ngài muốn chuyển tải cho thế giới, giản đơn, chỉ là “Đức Kitô đã chết và đã sống lại”.
“Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấytận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời…” (1 Ga 1,1-2)
v Phaolô, một tông đồ trở lại cũng đã dõng dạc :
“Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng nầy ; điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các Ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh 2 : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. (Cv 13,32-33)
Tuy nhiên, nếu những lời khẳng định trên chỉ thuần túy là do óc tưởng tượng của con người, hay do một âm mưu tinh quái đạo diễn, thì hỏi thử liệu 2000 năm nay, sự thật về sự kiện Phục Sinh có khả năng trụ vững không giữa dòng chảy khắc nghiệt của lịch sử con người ? Thế mà chân lý ấy vẫn không ngừng được thuyết phục, sự thật huyền nhiệm ấy cứ mãi mãi là điểm tựa, là hứng khởi, là hy vọng, là niềm tin của bao thế hệ con người. Điều đó, chỉ có thể cắt nghĩa được : bên sau Lời chứng ấy, bên trong Tin Mừng ấy, ở giữa câu chuyện phục sinh ấy, mồ trống ây, có một Đấng Phục Sinh đang thực sự hiện diện trong quyền năng vĩnh cửu của Ngài. Vâng, Kitô giáo chính là Đức Giêsu-Kitô đang hiện diện, Kitô giáo chính là cuộc gặp gỡ giữa con người và một Đấng Phục Sinh, một cuộc gặp gỡ đã trở thành cốt yếu của đức tin, của việc tôn thờ, của định hướng sống ; và như thế, cử hành mầu nhiệm Phục Sinh hôm nay chính là :
2. Gặp gỡ và làm chứng về Đức Kitô phục sinh :
- Như cuộc gặp gỡ luôn mới mẻ, tinh khôi, thân mật, trào tràn niềm vui mà Hội Thánh đã diễn tả qua kinh Ca Tiếp Liên, khi đặt trên môi của chứng nhân Maria những lời :
“Tôi đã thấy nấm mồ của Đức Kitô, thấy thiên sứ chứng nhân hiển hiện, thấy y phục và khăn liệm xếp rời, thấy Đức Giêsu hy vọng của tôi…”.
- Đó cũng là cuộc gặp gỡ mang chiều kích “hướng thượng”, hoán cải, xoay trục về phía Đấng Phục Sinh như cách cảm nhận và khuyến dụ của chứng nhân Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Cô-lô-sê của Bđ 2 hôm nay :
“Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitoo, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitoo đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới…”
- Đó chính là cuộc gặp gỡ của thái độ nôn nao, khao khát, nhanh nhạy như những bước chạy vội vã đến mồ trống của hai chứng nhân Phêrô và Gioan trong buối sáng ngày thứ nhất trong tuần để cuối cùng “đã thấy và đã tin”.
Riêng với chúng ta hôm nay thì gặp gỡ Đấng Phục Sinh như thế nào đây ? Có thật Ngài đang hiện diện như cách cảm nhận của thi sĩ Trăng Thập Tự không :
Thì Ngài đang ở đó.
Khi anh em thất vọng,
Ngài vẫn ở bên.
Khi anh em hân hoan
Ngài vẫn không vắng mặt.
Đức Kitô phục sinh sẽ đến gặp ta
miễn sao ta chưa quên hẳn Ngài.
Còn nói đến Ngài như hai lử khách.
Còn nhớ đến anh em Ngài như Tôma
Miễn sao ta còn vướng vất
một vết tích nào đó về Ngài trong ký ức
Thì Ngài vẫn còn đến gặp ta
Thì Ngài còn đến đồng bàn với ta….
Đúng vậy, chính Ngài đã minh xác mà : “Ở nơi đâu có hai ba người họp lại vì Danh Ta, thì ta ở giữa họ” (Mt 18,20).
Cả cuộc đời của mỗi người chúng ta, đã biết bao mùa Chay-Tuần Thánh-Phục Sinh đã đi qua, bao nhiêu lần quỳ xuống nơi Tòa Giải Tội, bao nhiêu lần tiến lên đón nhận Mình Thánh Chúa…không lẽ chúng ta không có được một kỷ niệm nào về cuộc gặp gỡ với Đức Kitô phục sinh ?
Và rồi, bao nhiêu anh chị em mà chúng ta từng gặp gỡ trong cuộc đời, chẳng lẽ không có một một người nghèo, một bệnh nhân, một người tàn tật, một ai đó đang mang những giọt buồn, một ai đó đang sầu khổ thất vọng và cần biết bao một sẻ chia, một lời động viên, vỗ về, an ủi…?
Có lẽ Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta là một trong những chứng nhân đầy thuyết phục của thời đại chúng ta về sự gặp gỡ nầy, đặc biệt gặp gỡ Đấng Phục Sinh nơi những thân phận con người nghèo nàn, ốm đau, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị đọa đầy…Mẹ đã để lại lời chứng nầy trong kinh nguyện sau đây và cũng là tuyên ngôn cho tất cả những ai muốn lên đường làm chứng và rao giảng Tin Mừng Phục Sinh bằng cuộc chiến đấu cho yêu thương và hy vọng, cho niềm vui và hiệp nhất :
Lạy Chúa,
Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu
trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.(…)
Ước gì từ nay,
không có gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng tình yêu Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn ;
Xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con...
Vâng, chỉ với niềm vui và sức mạnh Phục Sinh, chỉ với Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mới cho chúng ta đủ dũng khí để chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến với nền văn minh sự chết. Amen
Vẹn câu thề
Lm Vũđình Tường
23:26 14/04/2017
Khi con người phạm tội Thiên Chúa không bỏ mặc con người nhưng hứa sẽ cứu con người khỏi án phạt muôn kiếp. Lời hứa trên được thực hiện vẹn toàn nơi Đức Kitô. Sự việc xảy ra khi Satan mượn hình con rắn dùng lời lẽ ngon ngọt dối trá, cám dỗ loài nguời phạm tội mở đường cho tội lỗi xâm nhập vào trong tim óc con người. Thiên Chúa không tiêu diệt Satan cũng không huỷ bỏ loài người. Điều này không có nghĩa là tội phạm được bỏ qua, làm ngơ mà không bị trừng phạt. Đối với Satan Thiên Chúa tuyên chiến với chúng và buộc chúng vào ngục tối nơi không có tình yêu thương. Đối với con người Thiên Chúa cho thời gian thức tỉnh trước khi ban ơn cứu độ. Thiên Chúa sai Con Ngài là Đức Kitô xuống trần gian làm người để tái tạo hình ảnh nguyên thuỷ, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Tội phá huỷ dung nhan tốt lành, nhân hậu và Đức Kitô kiến tạo lại hình ảnh đó.
Tổ phụ loài người được Thiên Chúa cho biết sẽ cứu nhân loại nhưng cứu bằng cách nào, khi nảo và xảy ra như thế nào thì tổ phụ không biết và các ngài sống trong cầu nguyện và đợi mong cho ngày đó mau đến. Một số hoạ sĩ cố gắng tạo ra hình ảnh ơn cứu độ khi họ vẽ hình người phụ nữ đạp Satan, gót chân đè trên đầu con rắn và con rắn cố gắng nhưng không thể làm hại được người phụ nữ. Satan cám dỗ làm hư hại hình ảnh con người nguyên thuỷ nay chính mặt chúng bị đạp bẹp bởi gót chân người phụ nữ. Satan làm hại con người, Thiên Chúa với quyền năng dùng chính con người, lại dùng hình ảnh chân yếu, tay mềm của người phụ nữ đứng trên đầu, đè bẹp đầu Satan để nói lên sức mạnh của Thiên Chúa cao cả ngàn trùng vượt lên trên sức tàn phá của ma quỷ. Người phụ nữ nhận biết một mình bà không thể làm được việc này mà có sự quan phòng, hỗ trợ đặc biệt từ Thiên Chúa. Chính vì thế mà bà lên tiếng ca tụng.
Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi cảm tạ Chúa Đấng cứu chuộc tôi vì Người đã làm cho tôi những điều trọng đại. Danh Người chí thánh.
Đức Kitô, Con một Thiên Chúa xuống trần, mặc lấy thân phận con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, chính Ngài chiến thắng Satan bằng việc đổ máu từ con tim yêu mến ra để cứu độ nhân loại. Ngài vác thập giá, chịu xỉ vả, cáo gian, vu vạ và chịu đóng đanh vào thập giá và chết sau ba ngày Thiên Chúa cho Ngài sống lại từ cõi chết, tuyên bố chiến thắng trận chiến cuối cùng là thần chết, đặt chúng vào ngục tối, không tình yêu thương nhưng chan chứa hận thù. Để tái tạo hình ảnh yêu thương Thiên Chúa dùng hình ảnh hy sinh, hiến tế để tái tạo và nói lên tình yêu chân chính đòi hy sinh, đổ máu mình ra mang lại ơn cứu chuộc.
Đức Trinh Nữ Maria thưa hai tiếng ‘xin vâng’ và Đức Kitô xuống thế làm người. Đức Kitô thưa hai tiếng ‘xin vâng’ cùng Chúa Cha và Satan, cha của dối trá bị đặt vào vị trí của chúng, sống trong ngục tối, không tình yêu thương. Đức Kitô sống lại từ cõi chết làm tròn lời Thiên Chúa hứa cứu độ loài người. Ngài hy sinh chết vì yêu thương, tỏ lộ tình yêu và ơn tha thứ. Điều này thể hiện bằng hành trình cuộc thương khó và chính Đức Kitô xác nhận khi trên thập tự Ngài ban ơn tha thứ cho tên trộm thống hối, ăn năn xin cùng Đức Kitô
Thưa Ngài, khi Ngài vào nước của Ngài xin nhớ đến con
Đức Kitô hứa ban sự sống cho kẻ biết nhận lỗi, thống hối, ăn năn. Lời hứa này không thể là lời hứa dối trá. Đây là lời hứa thật và ức Kitô thực hiện lời hứa đó, làm tròn lời Ngài hứa. Satan, cha của dối trá. Đức Kitô vào thế gian để tiêu diệt Satan, tiêu diệt gian dối trá hình dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiên Chúa là cha của sự thật, công bằng và yêu thương. Satan cha của dối trá, nguỵ tạo, lừa lọc, bất công và thù ghét.
Cái chết của Đức Kitô làm hài lòng kẻ chống đối Ngài. Sự sống lại của Ngài mang an bình, tăng đức tin cho các môn đệ. Việc Ngài về trời ban hy vọng cho những ai sống theo con đường Đức Kitô mời gọi.
Chúc Mừng Phục Sinh.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Tổ phụ loài người được Thiên Chúa cho biết sẽ cứu nhân loại nhưng cứu bằng cách nào, khi nảo và xảy ra như thế nào thì tổ phụ không biết và các ngài sống trong cầu nguyện và đợi mong cho ngày đó mau đến. Một số hoạ sĩ cố gắng tạo ra hình ảnh ơn cứu độ khi họ vẽ hình người phụ nữ đạp Satan, gót chân đè trên đầu con rắn và con rắn cố gắng nhưng không thể làm hại được người phụ nữ. Satan cám dỗ làm hư hại hình ảnh con người nguyên thuỷ nay chính mặt chúng bị đạp bẹp bởi gót chân người phụ nữ. Satan làm hại con người, Thiên Chúa với quyền năng dùng chính con người, lại dùng hình ảnh chân yếu, tay mềm của người phụ nữ đứng trên đầu, đè bẹp đầu Satan để nói lên sức mạnh của Thiên Chúa cao cả ngàn trùng vượt lên trên sức tàn phá của ma quỷ. Người phụ nữ nhận biết một mình bà không thể làm được việc này mà có sự quan phòng, hỗ trợ đặc biệt từ Thiên Chúa. Chính vì thế mà bà lên tiếng ca tụng.
Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi cảm tạ Chúa Đấng cứu chuộc tôi vì Người đã làm cho tôi những điều trọng đại. Danh Người chí thánh.
Đức Kitô, Con một Thiên Chúa xuống trần, mặc lấy thân phận con người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, chính Ngài chiến thắng Satan bằng việc đổ máu từ con tim yêu mến ra để cứu độ nhân loại. Ngài vác thập giá, chịu xỉ vả, cáo gian, vu vạ và chịu đóng đanh vào thập giá và chết sau ba ngày Thiên Chúa cho Ngài sống lại từ cõi chết, tuyên bố chiến thắng trận chiến cuối cùng là thần chết, đặt chúng vào ngục tối, không tình yêu thương nhưng chan chứa hận thù. Để tái tạo hình ảnh yêu thương Thiên Chúa dùng hình ảnh hy sinh, hiến tế để tái tạo và nói lên tình yêu chân chính đòi hy sinh, đổ máu mình ra mang lại ơn cứu chuộc.
Đức Trinh Nữ Maria thưa hai tiếng ‘xin vâng’ và Đức Kitô xuống thế làm người. Đức Kitô thưa hai tiếng ‘xin vâng’ cùng Chúa Cha và Satan, cha của dối trá bị đặt vào vị trí của chúng, sống trong ngục tối, không tình yêu thương. Đức Kitô sống lại từ cõi chết làm tròn lời Thiên Chúa hứa cứu độ loài người. Ngài hy sinh chết vì yêu thương, tỏ lộ tình yêu và ơn tha thứ. Điều này thể hiện bằng hành trình cuộc thương khó và chính Đức Kitô xác nhận khi trên thập tự Ngài ban ơn tha thứ cho tên trộm thống hối, ăn năn xin cùng Đức Kitô
Thưa Ngài, khi Ngài vào nước của Ngài xin nhớ đến con
Đức Kitô hứa ban sự sống cho kẻ biết nhận lỗi, thống hối, ăn năn. Lời hứa này không thể là lời hứa dối trá. Đây là lời hứa thật và ức Kitô thực hiện lời hứa đó, làm tròn lời Ngài hứa. Satan, cha của dối trá. Đức Kitô vào thế gian để tiêu diệt Satan, tiêu diệt gian dối trá hình dưới nhiều hình thức khác nhau. Thiên Chúa là cha của sự thật, công bằng và yêu thương. Satan cha của dối trá, nguỵ tạo, lừa lọc, bất công và thù ghét.
Cái chết của Đức Kitô làm hài lòng kẻ chống đối Ngài. Sự sống lại của Ngài mang an bình, tăng đức tin cho các môn đệ. Việc Ngài về trời ban hy vọng cho những ai sống theo con đường Đức Kitô mời gọi.
Chúc Mừng Phục Sinh.
Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org
Vọng phục sinh mà đã là phục sinh
LM. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
23:29 14/04/2017
Vọng phục sinh mà đã là phục sinh
Tối nay lễ Vọng Phục Sinh. Chưa phải là lễ Phục Sinh.
Thực ra, chẳng biết Chúa sống lại lúc nào. Nhưng sáng sớm ngày thứ nhất, ra mộ, thấy “đã” sống lại. Cho nên chắc ăn, ngày mai mới mừng Chúa Sống Lại.
Nhưng tối nay, Vọng, mà như đã Phục Sinh. Không tin cứ xem phụng vụ : Chúa là Ánh Sáng, ca tụng Ánh Sáng, nếu còn nằm trong mồ làm sao có ánh sáng ; các bài đọc, xướng Alleluia long trọng, bài Tin Mừng tường thuật sống lại ; chuông đổ vang hồi với Gloria.
Trong khi đó, thì niềm tin của chúng ta là “ngày thứ ba sống lại,” chứ không phải ngày thứ hai ! (chết 3g chiều qua, thứ sáu, hôm nay mới thứ bảy, tức “ngày thứ hai” !)
Vậy dẫu sao hôm nay cũng cứ còn trong mộ, đang chết, nhưng lại như đã sống.
Ve sầu hỏi Chúa Tạo Vật:
“Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?”
“Có chứ,” Chúa Tạo Vật trả lời tiếp: “Hạt giống của lúa, lúa mì và tất cả các hạt, chúng nó đều là vừa sống vừa chết; vừa chết vừa sống”.
Đúng là hạt lúa mì nếu không chết đi (chôn trong đất) thì cũng không sống lại (trỗi dậy) nảy sinh nhiều bông hạt khác. Hạt lúa : nếu phơi khô – ướp lạnh – cất kỹ – vẫn là hạt lúa. Nhưng nếu, chôn dưới đất, cho thối đi, rã đi, chết đi, sẽ sinh ra cây lúa tốt tươi.
Hình ảnh hạt lúa này chính Chúa Giêsu đã dùng: nếu hạt lúa mì gieo…. Và thánh Phaolô đã nói tới khi trả lời trong thư 1Corinto 15. 35-38: “Nhưng có người sẽ nói : kẻ chết trỗi dậy thế nào ? Họ lấy thân thể nào mà trở về ? Đồ ngốc ! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý Người muốn : giống nào hình thể nấy.”
Nếu Chúa Giêsu là nhà sinh vật, chắc hẳn Ngài sẽ lấy một hình ảnh khác ghê sợ nhưng thơ mộng để chỉ -“Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?” Đó là hình con sâu bò dưới đất.
Khi nhìn một con bướm ngày đẹp đẽ, có ai lại nghĩ rằng nó thoát xác từ một con sâu róm lông lá xấu xí, phải bò phải chui dưới lá cây đất đá ? Sâu nào ra bướm đó. Sâu càng xấu càng ra bướm đẹp. Sâu phải chết mới thành bướm bay. Nơi con sâu có màu sự chết và có mầm sự sống.
Bởi thế Đêm nay, Chúa còn đang chết, nhưng Chúa đã sống lại. Đêm Vọng Phục Sinh, mà đã là Ngày Phục Sinh.
Chúa Giêsu là hạt giống Nước Trời được gieo vào thế gian vừa có đủ sự chết nên Ngài đã chết, vừa có đủ Sự Sống nên Ngài đã sống lại.
Mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng ta đều có sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu : đó là khi chúng ta hy sinh, khi chúng ta hãm mình là chúng ta chết cho tội và sống trong ân sủng của Thiên Chúa; khi chúng ta nhịn nhục, khi chúng ta phục vụ là chúng ta chết cho cái tôi và sống lại trong Thần Khí của Chúa Giêsu...
Không phải chỉ đúng Đêm Vọng Phục Sinh, ngày lễ Phục Sinh chúng ta mới “sống lại”, nhưng tình yêu của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta chết và sống lại mỗi ngày, bởi vì mỗi người trong chúng ta là những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa nẩy mầm và phát triển đến môi trường chung quanh chúng ta.
Sẽ không ai biết Chúa Giêsu chết như thế nào và sống lại ra sao, nếu mỗi người trong chúng ta không đem đời sống của mình ra để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, mà chứng cớ sống động nhất chính là chúng ta sống như Chúa Giêsu đã sống : yêu thương, phục vụ và tha thứ - Alleluia.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh
(lấy câu chuyện từ LM Nhân Tài)
Tối nay lễ Vọng Phục Sinh. Chưa phải là lễ Phục Sinh.
Thực ra, chẳng biết Chúa sống lại lúc nào. Nhưng sáng sớm ngày thứ nhất, ra mộ, thấy “đã” sống lại. Cho nên chắc ăn, ngày mai mới mừng Chúa Sống Lại.
Nhưng tối nay, Vọng, mà như đã Phục Sinh. Không tin cứ xem phụng vụ : Chúa là Ánh Sáng, ca tụng Ánh Sáng, nếu còn nằm trong mồ làm sao có ánh sáng ; các bài đọc, xướng Alleluia long trọng, bài Tin Mừng tường thuật sống lại ; chuông đổ vang hồi với Gloria.
Trong khi đó, thì niềm tin của chúng ta là “ngày thứ ba sống lại,” chứ không phải ngày thứ hai ! (chết 3g chiều qua, thứ sáu, hôm nay mới thứ bảy, tức “ngày thứ hai” !)
Vậy dẫu sao hôm nay cũng cứ còn trong mộ, đang chết, nhưng lại như đã sống.
Ve sầu hỏi Chúa Tạo Vật:
“Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?”
“Có chứ,” Chúa Tạo Vật trả lời tiếp: “Hạt giống của lúa, lúa mì và tất cả các hạt, chúng nó đều là vừa sống vừa chết; vừa chết vừa sống”.
Đúng là hạt lúa mì nếu không chết đi (chôn trong đất) thì cũng không sống lại (trỗi dậy) nảy sinh nhiều bông hạt khác. Hạt lúa : nếu phơi khô – ướp lạnh – cất kỹ – vẫn là hạt lúa. Nhưng nếu, chôn dưới đất, cho thối đi, rã đi, chết đi, sẽ sinh ra cây lúa tốt tươi.
Hình ảnh hạt lúa này chính Chúa Giêsu đã dùng: nếu hạt lúa mì gieo…. Và thánh Phaolô đã nói tới khi trả lời trong thư 1Corinto 15. 35-38: “Nhưng có người sẽ nói : kẻ chết trỗi dậy thế nào ? Họ lấy thân thể nào mà trở về ? Đồ ngốc ! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý Người muốn : giống nào hình thể nấy.”
Nếu Chúa Giêsu là nhà sinh vật, chắc hẳn Ngài sẽ lấy một hình ảnh khác ghê sợ nhưng thơ mộng để chỉ -“Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?” Đó là hình con sâu bò dưới đất.
Khi nhìn một con bướm ngày đẹp đẽ, có ai lại nghĩ rằng nó thoát xác từ một con sâu róm lông lá xấu xí, phải bò phải chui dưới lá cây đất đá ? Sâu nào ra bướm đó. Sâu càng xấu càng ra bướm đẹp. Sâu phải chết mới thành bướm bay. Nơi con sâu có màu sự chết và có mầm sự sống.
Bởi thế Đêm nay, Chúa còn đang chết, nhưng Chúa đã sống lại. Đêm Vọng Phục Sinh, mà đã là Ngày Phục Sinh.
Chúa Giêsu là hạt giống Nước Trời được gieo vào thế gian vừa có đủ sự chết nên Ngài đã chết, vừa có đủ Sự Sống nên Ngài đã sống lại.
Mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng ta đều có sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu : đó là khi chúng ta hy sinh, khi chúng ta hãm mình là chúng ta chết cho tội và sống trong ân sủng của Thiên Chúa; khi chúng ta nhịn nhục, khi chúng ta phục vụ là chúng ta chết cho cái tôi và sống lại trong Thần Khí của Chúa Giêsu...
Không phải chỉ đúng Đêm Vọng Phục Sinh, ngày lễ Phục Sinh chúng ta mới “sống lại”, nhưng tình yêu của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta chết và sống lại mỗi ngày, bởi vì mỗi người trong chúng ta là những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa nẩy mầm và phát triển đến môi trường chung quanh chúng ta.
Sẽ không ai biết Chúa Giêsu chết như thế nào và sống lại ra sao, nếu mỗi người trong chúng ta không đem đời sống của mình ra để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, mà chứng cớ sống động nhất chính là chúng ta sống như Chúa Giêsu đã sống : yêu thương, phục vụ và tha thứ - Alleluia.
LM. Anphong Nguyễn Công Minh
(lấy câu chuyện từ LM Nhân Tài)
Tình yêu thập giá
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
04:32 14/04/2017
Thứ Sáu Tuần Thánh
Ga 18, 1 – 19, 42
Tình yêu thập giá
Con người từ muốn thuở vẫn tìm kiếm những gì là tốt đẹp cho đời sống của mình. Có người tìm thuốc trường sinh để kéo dài sự sống, có người tìm đối tượng lý tưởng cho đời mình, có người tìm dễ dãi và tìm hưởng thụ. Nhưng tất cả đều chỉ là những cái mau qua ở đời. Tuy nhiên, có một người tên là Giêsu đã giới thiệu với nhân loại, với thế giới, với chúng ta một sự thật, một điều mối mọt, ten sét không thể làm hư hỏng được : “ đó là tình yêu tuyệt đối, vô vị lợi và chấp nhận tự hủy “.
Thực tế, chúng ta tự hỏi : vào buổi sáng ngày hôm ấy, cách đây 2017 năm, tại sân Phủ đường Philatô, ai đã được giới thiệu và điều gì được giới thiệu? ...Nhiều người có thể nghĩ những con người được giới thiệu là : kẻ giầu có, biệt phái, luật sĩ có uy tín, kỳ mục và các lãnh đạo tôn giáo Do Thái, vị thượng tế, quan tổng trấn Philatô vv…Những điều được giới thiệu để người ta thèm muốn, kiếm tìm là sự thành công ở đời, thế giá, uy tín, tiếng tăm, ảnh hưởng, địa vị, của cải vật chất vv…Nhưng nếu, chúng ta chịu khó suy nghĩ, nhận định, chúng ta sẽ thấy những điều đó và những con người đó không tồn tại lâu dài, tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hút, không tồn tại ở trần gian.Điều trớ trêu và ngược đời là không phải những người vừa được nêu trên kia đang đưa ra được những khuôn mặt mới mẻ và những điều mới mẻ, mà chính tù nhân Giêsu người Nagiarét mới đang giới thiệu một điều vừa mới mẻ, vừa vững bền, tuy bề ngoài xem ra Người đang là con người bị yếm thế, thất bại, mặt mũi bê bết máu, đối với nhiều người không hấp dẫn, không gây ấn tượng tí nào ! Vâng, điều Đức Giêsu Nagiarét đang giới thiệu qua cuộc đau khổ và qua thân xác bầm dập của Ngài, đó là tình mến tuyệt đối, tình mến vô vị lợi, tình mến khiến Ngài quên mình, tự hủy, hy sinh đến cả mạng sống của mình. Điều Chúa Giêsu đanhg làm là điều mới mẻ, vì trong nhân loại chưa ai dám làm, và có thể làm vì nó bền vững hơn mọi cái trên đời vì những điều phát xuất từ tình mến sẽ tồn tại…
Vậy, Chúa Giêsu đến trần gian để giới thiệu sức sống mãnh liệt, sức sống anh hùng, cuộc sống vĩnh cửu, do đó cũng là điều mới mẻ chưa bao giờ có. Bài ca về người tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia giới thiệu hôm nay tại Phủ Đường Philatô, máu me bê bết, người ta mới nhận ra người tôi tớ đáng thương ấy là Đức Kitô vừa đáng thương vừa vô cùng cao cả, vừa đáng mọi người nể phục, tôn kính.Điều gì đã khiến Đức Kitô có tình yêu tuyệt đối như thế, có sức mạnh can trường,vị tha như thế ? Thưa đó chính là sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ơn của Thiên Chúa, khuôn mặt vô cùng đáng yêu, đáng mến của Thiên Chúa, vinh quang trên hết mọi vinh quang là vinh quang của Thiên Chúa.
Đành rằng trong nhân loại, trên thế giới đã có hoặc sẽ có những vị anh hùng rất cao vời, có tình mến vô cùng cao cả, nhưng chắc chắn họ không thể so sánh với Chúa Giêsu, vì chính Ngài là Thiên Chúa, và chính do ơn sức mạnh vô hình bên trong Thiên Chúa đã ban cho Ngài…
Chúng ta tôn vinh, khâm phục Ngài vì tính mới mẻ, tình yêu tuyệt vời, cao siêu Ngài dành ban cho nhân loại, cho thế giới, cho chúng ta qua Thập giá của Ngài :” Khi nào Ta được giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “…” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban sức mạnh, đức tin và niềm vui cho chúng con, để khi tham dự vào cuộc Thương khó của Chúa, chúng con trở thành khí cụ bình an cho mọi người, và để mọi người nhận ra chúng con đang có Chúa ở trong chúng con.Amen.
Ga 18, 1 – 19, 42
Tình yêu thập giá
Con người từ muốn thuở vẫn tìm kiếm những gì là tốt đẹp cho đời sống của mình. Có người tìm thuốc trường sinh để kéo dài sự sống, có người tìm đối tượng lý tưởng cho đời mình, có người tìm dễ dãi và tìm hưởng thụ. Nhưng tất cả đều chỉ là những cái mau qua ở đời. Tuy nhiên, có một người tên là Giêsu đã giới thiệu với nhân loại, với thế giới, với chúng ta một sự thật, một điều mối mọt, ten sét không thể làm hư hỏng được : “ đó là tình yêu tuyệt đối, vô vị lợi và chấp nhận tự hủy “.
Thực tế, chúng ta tự hỏi : vào buổi sáng ngày hôm ấy, cách đây 2017 năm, tại sân Phủ đường Philatô, ai đã được giới thiệu và điều gì được giới thiệu? ...Nhiều người có thể nghĩ những con người được giới thiệu là : kẻ giầu có, biệt phái, luật sĩ có uy tín, kỳ mục và các lãnh đạo tôn giáo Do Thái, vị thượng tế, quan tổng trấn Philatô vv…Những điều được giới thiệu để người ta thèm muốn, kiếm tìm là sự thành công ở đời, thế giá, uy tín, tiếng tăm, ảnh hưởng, địa vị, của cải vật chất vv…Nhưng nếu, chúng ta chịu khó suy nghĩ, nhận định, chúng ta sẽ thấy những điều đó và những con người đó không tồn tại lâu dài, tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hút, không tồn tại ở trần gian.Điều trớ trêu và ngược đời là không phải những người vừa được nêu trên kia đang đưa ra được những khuôn mặt mới mẻ và những điều mới mẻ, mà chính tù nhân Giêsu người Nagiarét mới đang giới thiệu một điều vừa mới mẻ, vừa vững bền, tuy bề ngoài xem ra Người đang là con người bị yếm thế, thất bại, mặt mũi bê bết máu, đối với nhiều người không hấp dẫn, không gây ấn tượng tí nào ! Vâng, điều Đức Giêsu Nagiarét đang giới thiệu qua cuộc đau khổ và qua thân xác bầm dập của Ngài, đó là tình mến tuyệt đối, tình mến vô vị lợi, tình mến khiến Ngài quên mình, tự hủy, hy sinh đến cả mạng sống của mình. Điều Chúa Giêsu đanhg làm là điều mới mẻ, vì trong nhân loại chưa ai dám làm, và có thể làm vì nó bền vững hơn mọi cái trên đời vì những điều phát xuất từ tình mến sẽ tồn tại…
Vậy, Chúa Giêsu đến trần gian để giới thiệu sức sống mãnh liệt, sức sống anh hùng, cuộc sống vĩnh cửu, do đó cũng là điều mới mẻ chưa bao giờ có. Bài ca về người tôi tớ đau khổ mà ngôn sứ Isaia giới thiệu hôm nay tại Phủ Đường Philatô, máu me bê bết, người ta mới nhận ra người tôi tớ đáng thương ấy là Đức Kitô vừa đáng thương vừa vô cùng cao cả, vừa đáng mọi người nể phục, tôn kính.Điều gì đã khiến Đức Kitô có tình yêu tuyệt đối như thế, có sức mạnh can trường,vị tha như thế ? Thưa đó chính là sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ơn của Thiên Chúa, khuôn mặt vô cùng đáng yêu, đáng mến của Thiên Chúa, vinh quang trên hết mọi vinh quang là vinh quang của Thiên Chúa.
Đành rằng trong nhân loại, trên thế giới đã có hoặc sẽ có những vị anh hùng rất cao vời, có tình mến vô cùng cao cả, nhưng chắc chắn họ không thể so sánh với Chúa Giêsu, vì chính Ngài là Thiên Chúa, và chính do ơn sức mạnh vô hình bên trong Thiên Chúa đã ban cho Ngài…
Chúng ta tôn vinh, khâm phục Ngài vì tính mới mẻ, tình yêu tuyệt vời, cao siêu Ngài dành ban cho nhân loại, cho thế giới, cho chúng ta qua Thập giá của Ngài :” Khi nào Ta được giương cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta “…” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban sức mạnh, đức tin và niềm vui cho chúng con, để khi tham dự vào cuộc Thương khó của Chúa, chúng con trở thành khí cụ bình an cho mọi người, và để mọi người nhận ra chúng con đang có Chúa ở trong chúng con.Amen.
Canh thức Vượt qua _ Thứ Bảy Tuần Thánh
Lm Jude Siciliano OP
04:56 14/04/2017
Canh thức Vượt qua _ Thứ Bảy Tuần Thánh
St 1: 1-2,2; St 22: 1-18; Xh 14: 15–15:1; Is 54: 5-14; Is 55:1-11; Br 3: 9-15; Ed 36: 16-17a,18-28; Rm 6: 3-11; Matthêu 28: 1-10
CHÚC MỪNG PHỤC SINH ! Thiên Chúa ĐÃ CHỖI DẬY ! NGÀI SỐNG LẠI THẬT
Bài sách thánh Matthêu về Phục Sinh bắt đầu với 2 người phụ nữ đi thăm mộ. Bà Maria Mác đa la và một bà Maria khác. Cả hai bà đều có mặt khi người ta chôn cất Chúa Giêsu. Họ trông thấy ông Giuse lăn một tảng đá to lấp cứ mộ. Ông ta ra đi. "Các bà còn ở lại đó, quay mặt vào mộ" (Mt 27: 61). Nơi mộ đất rung chuyển dữ dội, như báo hiệu thiên thần Chúa từ trời xuống lăng tảng đá ra. Lạ lùng thật, các người lính to lớn canh mộ phải "khiếp sợ, run rẫy và hóa ra cứng đờ như chết".
Nhưng các phụ nữ, mặc dù sợ hãi, vẫn tiếp tục làm chứng. Trước tiên họ làm chứng ngôi mộ trống, rối được thiên thần bảo hãy đi nhanh để báo tin sự sống lại cho các môn đệ Chúa Giêsu. Hình như thiên thần không để ý đến các phụ nữ, và không kể các bà vào số các môn đệ (Mt 28:7). Nhưng, thiên thần lại bảo các bà đi báo tin Chúa Giêsu sống lại. Và chính Chúa Giêsu hiện ra với các bà trước.
Phụ nữ không được kể là bao. Chính ra thì không ai để ý đến họ trong việc rao giảng về sự sống lại. Nhưng, thật ra họ có phần việc quan trọng trong việc báo tin sự Phục Sinh "Rồi các bà vội vã rời mộ chay về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay là Ngài đã sống lại từ cỏi chết". Chúa Giêsu chào các bà, và họ là người đầu tiên thờ lạy Chúa Kitô Phục Sinh. Sau đó chúng ta biết là 11 môn đệ hoài nghi bái lạy Ngài (Mt 28: 17). Các bà không hoài nghi. Họ rời khỏi mộ "tuy sợ hãi, nhưng dấy nên nỗi vui mừng".
Trước đó, trong câu chuyện cuộc Thương Khó, các môn đệ không hiểu biết điều gì đã xãy ra. Trong khi người đọc bài Thương Khó đã hiểu, vì đã được soạn trước bởi lời Chúa Giêsu tiên đoán về sự khổ hình và sự chết của Ngài. Dù vậy, trong khi câu chuyện tiếp tục thì các bà có mặt với Chúa Giêsu và tỏ ra hiểu biết điều gì sẽ xãy ra. Thí dụ như một phụ nữ đã tẩm đầu thơm lên mình Chúa Giêsu nơi bàn ăn ở nhà ông Simon (Mt 26: 6). Khi các môn đệ chống đối việc phí phạm dùng dầu thơm đắt giá, Chúa Giêsu bênh vực người phụ nữ và nói "Cô ấy đổ dầu thơm trên mình Thầy để mai táng Thầy đấy. Thầy bảo thật anh em: khắp thế gian Tin Mừng này được loan báo ở đâu, người ta cũng kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô" (Mt 26: 12-13). Khi Chúa Giêsu hấp hối trên cây thánh giá, các phụ nữ đứng dưới chân cây thánh giá. Và lúc chôn cất các bà "ở lại đó, quay mặt vào mộ" (Mt 27; 51-61). Theo cách chúng ta suy xét thì các bà làm được điều gì? Họ không có thái độ chống đối việc xử tử Chúa Giêsu.
Thường chúng ta không thể thay đổi, mặc dù chúng ta cố gắng hết sức. Sự việc biến chuyển đau đớn như: một cơn bệnh hiểm nghèo; cảnh vợ chồng tan rả; sự sút kém vì nghiện; cảnh khó khăn vì phải di cư. Dù vậy, chúng ta cố gắng làm hết sức chúng ta, chúng ta không đứng đó và để tình hình trở nên đồi tệ hơn. Tuy thế, vẫn còn có những lúc chúng ta có thể học hỏi về công việc của các phụ nữ trong sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu. Họ có mặt ở đó khi Chúa Giêsu đau khổ cho đến khi chôn cất Ngài. Họ trung kiên với người bạn và Thầy của họ. Trong giờ phút cùng cực Chúa Giêsu chết trên cây thánh giá, có lẽ điều an ủi Ngài là nhìn xuống trông thấy các phụ nữ có đó.
Các phụ nữ có thể tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu qua tình yêu thương và sự hiện diện của họ, chứ không có cách nào khác. Có lẽ vì thế mà họ là nhân chứng đầu tiên về sự sống lại phải không? Họ không có gì để dâng cho Chúa Kitô, nhưng sự hiện diện, và việc họ ngồi bên mộ, họ có thể lãnh nhận Tin Mừng của sự sống lại, và được chọn làm nhân chứng đầu tiên báo tin Phục Sinh "hãy mau về nói với các môn đệ Người."
Thánh Matthêu nói là các bà ra đi viếng mộ "vào ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng". Matthêu không nói cho chúng ta biết rỏ ngày và giờ để chúng ta yên lòng. Nhưng, đây là ngày thứ nhất trong tuần của trọn lịch sử - có lúc trước sự sống lại và bây giờ là hoàn tất thời gian mới sau sau sự sống lại. Đất rung chuyển dữ dội như một tiếng vang báo tin là có điều gì xãy ra, và thế gian đã được thay đổi vì việc đó. Các phụ nữ được giao bổn phận ra đi trước để báo tin là mọi sự đã thay đổi, đó là việc tạo dựng mới đã được hứa hẹn. Và bây giờ chúng ta sống một đời sống mới như Chúa Giêsu đã hứa.
Ông NT Wright nói là sự sống lại không chỉ thay đổi lòng dạ của các phụ nữ “nhưng đã đâm một lỗ thủng trong lich sử tầm thường". Sự sống lại đã thay đổi thế giới. Triều đại Thiên Chúa đã đến, và không phải chỉ là sự bắt đầu của một ngày, hay một tuần mới mà là "sự bắt đầu của thời gian mới của Thiên Chúa và sẽ tiếp tục cho đến khi các nước được đưa đến sự vâng lời".
Người ta có nhiều cách tin về sự sống lại. Có người chỉ chú trọng đến sự sống lại thôi, và làm họ là những người chứng khiến việc Thiên Chúa đã làm. Nhưng, chúng ta không phải chí là những người chứng kiến. Sự việc không thể chỉ tin việc do Thiên Chúa làm ra. Đức tin chúng ta gồm sự sống lại như chúng ta tuyên xưng là Chúa Giêsu là Con đầu lòng trong mỗi người của chúng ta. Qua Chúa Giêsu chúng ta có niềm hy vọng được một đời sống mới trong Thiên Chúa.
Có người tin là sự sống lại của Chúa Giêsu cho sự sống sau sự chết cho những ai tin vào Ngài, và sống một đời sống tốt đẹp ở đây và bây giờ. Trong đời sống sau này chúng ta sẽ được hưởng phần thưởng trong lúc chờ đợi đến khi chúng ta được hưởng phần thưởng trong đời sau. Sự tin tưởng như thế loại trừ những nhu cầu phải làm gì trong đời sống hiện tại. Phải chú trọng đến đời sống tương lai chứ không phải đời sống bây giờ. Một ảnh hưởng của sự tin tưởng như thế này là sẽ đua đến thái độ thụ động đối với sự đau khổ của kẻ khác, và thái độ bỏ qua những sự bất công trong xã hội.
Với Chúa Giêsu sống lại, chúng ta cũng được sống lại với Ngài. Nhưng,điều đó không có ý nghĩa là chúng ta chỉ ngồi yên trong đức tin, với hy vọng cho đời sống ngày sau. Thánh Phao lô nói về "một đời sống mới" mà chúng ta đã lãnh nhận qua phép rửa trong sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Phao lô khuyến khích chúng ta hãy thử suy nghĩ về chúng ta như khi chúng ta đã chết cho tội lỗi và đời sống cũ của chúng ta là "sống cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô Giêsu".
Ơn gọi của chúng ta là ngày ngày làm nhân chứng cho sự sống lại qua lối sống chú trọng đến Triều Đại Thiên Chúa, bằng cách làm những việc Chúa Giêsu dạy bảo và sống chứng nhân cho hình ảnh của Ngài trong đời sống chúng ta. Bởi thế, chúng ta cố gắng suy nghĩ đến nhu cầu của người khác: hoạt động tìm sự an toàn cho họ trong khi họ chiến đấu để sống một đời sống danh dự và hy vọng. Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng Ngài không để chúng ta đi đến chỗ để ngồi trên ngai. Ngài ở giữa chúng ta, và ở giữa láng giềng của chúng ta, nhất là ở giữa những người đói kém, tù tội, thiếu nước uống và cô đơn. Đức tin sống lại của chúng ta thúc đẩy chúng ta tiếp tục công việc Chúa Giêsu làm để cho Triều Đại Thiên Chúa được thực hiện ở đây và bây giờ. Đó là phần việc của chúng ta, việc mà Đấng sống lại gởi chúng ta đi làm, ban sức mạnh và lòng can đảm bởi Thần Khí của Ngài.
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
EASTER VIGIL (A)
Gn 1: 1-2,2; Gn 22: 1-18; Ex 14: 15–15:1; Is 54: 5-14; Is 55:1-11; Bar 3: 9-15; Ez 36: 16-17a,18-28; Rom 6: 3-11; Matthew 28: 1-10
Happy Easter! The Lord is risen! He is risen indeed!
Matthew’s resurrection account begins with two women going to the tomb, Mary Magdalene and "the other Mary." Both had been at Jesus’ burial. They saw Joseph roll the huge stone across the entrance to the tomb. He went away – the women "remained sitting there facing the tomb" (27:61). At the tomb there is an earthquake, as if to announce the angel’s descent. The angel rolls back the stone. Isn’t it interesting that the soldiers sent to guard the tomb were "shaken with fear of him and became like dead men"? So much for the big strong guards!
But the women, though afraid, continue to be faithful witnesses. First they witness the empty tomb, then receive instructions from the angel and go quickly to announce the news of the resurrection to Jesus’ disciples. It seems the women are not included in the angel’s reference to "his disciples" (28:7), yet it is to the women the angel gives instructions to announce Jesus’ resurrection and it is to the women that Jesus first appears.
Women don’t always get much credit, indeed are often forgotten in the preachings of the resurrection accounts. Yet, they play a crucial role in the Easter commission, "then go quickly and tell his disciples, ‘He has been raised from the dead."’ Jesus greets the women and they are the first to worship the resurrected Christ. Later we will learn that some of the 11 doubted (28:17). The women don’t have doubts. They leave the tomb "fearful yet overjoyed."
Previously, during the passion narrative, the disciples lacked understanding of what was happening. While the reader does understand because we have been prepared by Jesus’ predictions of his suffering and death. Yet, as the narrative progresses it is the women who are present to Jesus and show awareness of what is going to happen. For example a woman anoints him at table in Simon the leper’s house (26: 6ff). When the disciples protest the seeming waste of an extravagant ointment Jesus defends what the woman did. "By pouring this perfume on my body, she has contributed toward my burial preparation. I assure you, wherever the good news is proclaimed throughout the world, what she did will be spoken of as her memorial"(26:12-13). When Jesus is executed women stand by him at the cross and are at his burial, where they remain "sitting there facing the tomb" (27:55-61). By our usual way of measuring achievement, what did those women accomplish? They didn’t prevent Jesus’ execution.
Often we can not change, as hard as we may try, the tragic course of events: a fatal illness, a marriage breakup, the downward decline of an addiction, a refugee crisis. However we do what we can; we do not stand by and let things deteriorate. Still, there are times when we can learn from the role the women play in Jesus’ suffering and death. They were there with him in his pain, right up to his burial. They were loyal to their friend and master. At his lowest point, when he was hanging on the cross, it must have given him some comfort in his agony to look down to see the women at the foot of the cross.
The women could offer him their loyalty, love and presence – but not much else. Is that why the women are the first to witness the resurrection? They had nothing to offer Christ but their presence and, since they were there keeping vigil, they were available to receive the good news of the resurrection. The women are the first witnesses to the resurrection and the first chosen for an Easter mission, "Then go quickly and tell his disciples."
Matthew says the women went to the tomb "as the first day of the week was dawning." He’s not telling us a piece of information about day and time to satisfy our curiosity. This is the first day of a whole new period in history – there was a time before the resurrection and now a completely new time after the resurrection. The earthquake is like a huge kettle drum announcing that something momentous has happened and the world has been changed by it. The women are commissioned to go forth with the announcement that everything has changed; it is the long-promised new creation and we are now living a new way of life – just as Jesus promised.
NT Wright ("Matthew for Everyone," Louisville: Westminster John Knox Press, 2002) says that the resurrection had not only changed the women’s hearts, "but had torn a hole in normal history." The resurrection has changed the world forever. God’s kingdom had come, and it wasn’t just the start of a new day, or a new week, but, "the start of God’s new age that will continue until the nations have been brought into obedience" (p. 200-201).
People have different beliefs about Easter. Some focus only on the resurrection itself, which makes them just observers of what God has done. But we are not merely observers of an incredible feat performed by God. Our faith includes us in the resurrection event as we profess that Jesus is the firstborn among each of us. In him we have hope now for new life in God
Some believe Jesus’ resurrection offers life after death for those who profess faith in him and lead a good life here and now. In the next life we will experience our reward. In the meanwhile we wait, until we receive it in the next life. This belief eliminates the need to do anything in this life; it’s the future, not the present, that’s the focus. One of the side effects of this view is it contributes to a passivity towards the suffering of others and the tendency to ignore social injustice.
With Jesus’ resurrection we too have been raised with him. But that does not mean we are to sit around in our faith with hope for the next life. Paul speaks of a "newness of life" that we have received now through our baptism into Jesus’ death and resurrection. He encourages us to think of ourselves as dead to sin and our old selves and "living for God in Christ Jesus."
Our vocation is to daily witness to the resurrection by lives centered on God’s kingdom, by doing the things Jesus taught and witnessed for us in his life. Thus, we strive to live conscious of the needs of others, actively seeking their well-being as they struggle to live with dignity and hope. Jesus is risen, but he has not left us to go to some distant place to sit on a throne. He is in our midst and our neighbor, especially the hungry, the prisoner, the thirsty and the lonely. Our resurrected faith moves us to continue Jesus’ work of making God’s kingdom a reality here and now. That’s our mission, the work the resurrected one sends us to do, empowered and emboldened by his Spirit.
St 1: 1-2,2; St 22: 1-18; Xh 14: 15–15:1; Is 54: 5-14; Is 55:1-11; Br 3: 9-15; Ed 36: 16-17a,18-28; Rm 6: 3-11; Matthêu 28: 1-10
CHÚC MỪNG PHỤC SINH ! Thiên Chúa ĐÃ CHỖI DẬY ! NGÀI SỐNG LẠI THẬT
Bài sách thánh Matthêu về Phục Sinh bắt đầu với 2 người phụ nữ đi thăm mộ. Bà Maria Mác đa la và một bà Maria khác. Cả hai bà đều có mặt khi người ta chôn cất Chúa Giêsu. Họ trông thấy ông Giuse lăn một tảng đá to lấp cứ mộ. Ông ta ra đi. "Các bà còn ở lại đó, quay mặt vào mộ" (Mt 27: 61). Nơi mộ đất rung chuyển dữ dội, như báo hiệu thiên thần Chúa từ trời xuống lăng tảng đá ra. Lạ lùng thật, các người lính to lớn canh mộ phải "khiếp sợ, run rẫy và hóa ra cứng đờ như chết".
Nhưng các phụ nữ, mặc dù sợ hãi, vẫn tiếp tục làm chứng. Trước tiên họ làm chứng ngôi mộ trống, rối được thiên thần bảo hãy đi nhanh để báo tin sự sống lại cho các môn đệ Chúa Giêsu. Hình như thiên thần không để ý đến các phụ nữ, và không kể các bà vào số các môn đệ (Mt 28:7). Nhưng, thiên thần lại bảo các bà đi báo tin Chúa Giêsu sống lại. Và chính Chúa Giêsu hiện ra với các bà trước.
Phụ nữ không được kể là bao. Chính ra thì không ai để ý đến họ trong việc rao giảng về sự sống lại. Nhưng, thật ra họ có phần việc quan trọng trong việc báo tin sự Phục Sinh "Rồi các bà vội vã rời mộ chay về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay là Ngài đã sống lại từ cỏi chết". Chúa Giêsu chào các bà, và họ là người đầu tiên thờ lạy Chúa Kitô Phục Sinh. Sau đó chúng ta biết là 11 môn đệ hoài nghi bái lạy Ngài (Mt 28: 17). Các bà không hoài nghi. Họ rời khỏi mộ "tuy sợ hãi, nhưng dấy nên nỗi vui mừng".
Trước đó, trong câu chuyện cuộc Thương Khó, các môn đệ không hiểu biết điều gì đã xãy ra. Trong khi người đọc bài Thương Khó đã hiểu, vì đã được soạn trước bởi lời Chúa Giêsu tiên đoán về sự khổ hình và sự chết của Ngài. Dù vậy, trong khi câu chuyện tiếp tục thì các bà có mặt với Chúa Giêsu và tỏ ra hiểu biết điều gì sẽ xãy ra. Thí dụ như một phụ nữ đã tẩm đầu thơm lên mình Chúa Giêsu nơi bàn ăn ở nhà ông Simon (Mt 26: 6). Khi các môn đệ chống đối việc phí phạm dùng dầu thơm đắt giá, Chúa Giêsu bênh vực người phụ nữ và nói "Cô ấy đổ dầu thơm trên mình Thầy để mai táng Thầy đấy. Thầy bảo thật anh em: khắp thế gian Tin Mừng này được loan báo ở đâu, người ta cũng kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô" (Mt 26: 12-13). Khi Chúa Giêsu hấp hối trên cây thánh giá, các phụ nữ đứng dưới chân cây thánh giá. Và lúc chôn cất các bà "ở lại đó, quay mặt vào mộ" (Mt 27; 51-61). Theo cách chúng ta suy xét thì các bà làm được điều gì? Họ không có thái độ chống đối việc xử tử Chúa Giêsu.
Thường chúng ta không thể thay đổi, mặc dù chúng ta cố gắng hết sức. Sự việc biến chuyển đau đớn như: một cơn bệnh hiểm nghèo; cảnh vợ chồng tan rả; sự sút kém vì nghiện; cảnh khó khăn vì phải di cư. Dù vậy, chúng ta cố gắng làm hết sức chúng ta, chúng ta không đứng đó và để tình hình trở nên đồi tệ hơn. Tuy thế, vẫn còn có những lúc chúng ta có thể học hỏi về công việc của các phụ nữ trong sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu. Họ có mặt ở đó khi Chúa Giêsu đau khổ cho đến khi chôn cất Ngài. Họ trung kiên với người bạn và Thầy của họ. Trong giờ phút cùng cực Chúa Giêsu chết trên cây thánh giá, có lẽ điều an ủi Ngài là nhìn xuống trông thấy các phụ nữ có đó.
Các phụ nữ có thể tỏ lòng trung thành với Chúa Giêsu qua tình yêu thương và sự hiện diện của họ, chứ không có cách nào khác. Có lẽ vì thế mà họ là nhân chứng đầu tiên về sự sống lại phải không? Họ không có gì để dâng cho Chúa Kitô, nhưng sự hiện diện, và việc họ ngồi bên mộ, họ có thể lãnh nhận Tin Mừng của sự sống lại, và được chọn làm nhân chứng đầu tiên báo tin Phục Sinh "hãy mau về nói với các môn đệ Người."
Thánh Matthêu nói là các bà ra đi viếng mộ "vào ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng". Matthêu không nói cho chúng ta biết rỏ ngày và giờ để chúng ta yên lòng. Nhưng, đây là ngày thứ nhất trong tuần của trọn lịch sử - có lúc trước sự sống lại và bây giờ là hoàn tất thời gian mới sau sau sự sống lại. Đất rung chuyển dữ dội như một tiếng vang báo tin là có điều gì xãy ra, và thế gian đã được thay đổi vì việc đó. Các phụ nữ được giao bổn phận ra đi trước để báo tin là mọi sự đã thay đổi, đó là việc tạo dựng mới đã được hứa hẹn. Và bây giờ chúng ta sống một đời sống mới như Chúa Giêsu đã hứa.
Ông NT Wright nói là sự sống lại không chỉ thay đổi lòng dạ của các phụ nữ “nhưng đã đâm một lỗ thủng trong lich sử tầm thường". Sự sống lại đã thay đổi thế giới. Triều đại Thiên Chúa đã đến, và không phải chỉ là sự bắt đầu của một ngày, hay một tuần mới mà là "sự bắt đầu của thời gian mới của Thiên Chúa và sẽ tiếp tục cho đến khi các nước được đưa đến sự vâng lời".
Người ta có nhiều cách tin về sự sống lại. Có người chỉ chú trọng đến sự sống lại thôi, và làm họ là những người chứng khiến việc Thiên Chúa đã làm. Nhưng, chúng ta không phải chí là những người chứng kiến. Sự việc không thể chỉ tin việc do Thiên Chúa làm ra. Đức tin chúng ta gồm sự sống lại như chúng ta tuyên xưng là Chúa Giêsu là Con đầu lòng trong mỗi người của chúng ta. Qua Chúa Giêsu chúng ta có niềm hy vọng được một đời sống mới trong Thiên Chúa.
Có người tin là sự sống lại của Chúa Giêsu cho sự sống sau sự chết cho những ai tin vào Ngài, và sống một đời sống tốt đẹp ở đây và bây giờ. Trong đời sống sau này chúng ta sẽ được hưởng phần thưởng trong lúc chờ đợi đến khi chúng ta được hưởng phần thưởng trong đời sau. Sự tin tưởng như thế loại trừ những nhu cầu phải làm gì trong đời sống hiện tại. Phải chú trọng đến đời sống tương lai chứ không phải đời sống bây giờ. Một ảnh hưởng của sự tin tưởng như thế này là sẽ đua đến thái độ thụ động đối với sự đau khổ của kẻ khác, và thái độ bỏ qua những sự bất công trong xã hội.
Với Chúa Giêsu sống lại, chúng ta cũng được sống lại với Ngài. Nhưng,điều đó không có ý nghĩa là chúng ta chỉ ngồi yên trong đức tin, với hy vọng cho đời sống ngày sau. Thánh Phao lô nói về "một đời sống mới" mà chúng ta đã lãnh nhận qua phép rửa trong sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Phao lô khuyến khích chúng ta hãy thử suy nghĩ về chúng ta như khi chúng ta đã chết cho tội lỗi và đời sống cũ của chúng ta là "sống cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô Giêsu".
Ơn gọi của chúng ta là ngày ngày làm nhân chứng cho sự sống lại qua lối sống chú trọng đến Triều Đại Thiên Chúa, bằng cách làm những việc Chúa Giêsu dạy bảo và sống chứng nhân cho hình ảnh của Ngài trong đời sống chúng ta. Bởi thế, chúng ta cố gắng suy nghĩ đến nhu cầu của người khác: hoạt động tìm sự an toàn cho họ trong khi họ chiến đấu để sống một đời sống danh dự và hy vọng. Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng Ngài không để chúng ta đi đến chỗ để ngồi trên ngai. Ngài ở giữa chúng ta, và ở giữa láng giềng của chúng ta, nhất là ở giữa những người đói kém, tù tội, thiếu nước uống và cô đơn. Đức tin sống lại của chúng ta thúc đẩy chúng ta tiếp tục công việc Chúa Giêsu làm để cho Triều Đại Thiên Chúa được thực hiện ở đây và bây giờ. Đó là phần việc của chúng ta, việc mà Đấng sống lại gởi chúng ta đi làm, ban sức mạnh và lòng can đảm bởi Thần Khí của Ngài.
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
EASTER VIGIL (A)
Gn 1: 1-2,2; Gn 22: 1-18; Ex 14: 15–15:1; Is 54: 5-14; Is 55:1-11; Bar 3: 9-15; Ez 36: 16-17a,18-28; Rom 6: 3-11; Matthew 28: 1-10
Happy Easter! The Lord is risen! He is risen indeed!
Matthew’s resurrection account begins with two women going to the tomb, Mary Magdalene and "the other Mary." Both had been at Jesus’ burial. They saw Joseph roll the huge stone across the entrance to the tomb. He went away – the women "remained sitting there facing the tomb" (27:61). At the tomb there is an earthquake, as if to announce the angel’s descent. The angel rolls back the stone. Isn’t it interesting that the soldiers sent to guard the tomb were "shaken with fear of him and became like dead men"? So much for the big strong guards!
But the women, though afraid, continue to be faithful witnesses. First they witness the empty tomb, then receive instructions from the angel and go quickly to announce the news of the resurrection to Jesus’ disciples. It seems the women are not included in the angel’s reference to "his disciples" (28:7), yet it is to the women the angel gives instructions to announce Jesus’ resurrection and it is to the women that Jesus first appears.
Women don’t always get much credit, indeed are often forgotten in the preachings of the resurrection accounts. Yet, they play a crucial role in the Easter commission, "then go quickly and tell his disciples, ‘He has been raised from the dead."’ Jesus greets the women and they are the first to worship the resurrected Christ. Later we will learn that some of the 11 doubted (28:17). The women don’t have doubts. They leave the tomb "fearful yet overjoyed."
Previously, during the passion narrative, the disciples lacked understanding of what was happening. While the reader does understand because we have been prepared by Jesus’ predictions of his suffering and death. Yet, as the narrative progresses it is the women who are present to Jesus and show awareness of what is going to happen. For example a woman anoints him at table in Simon the leper’s house (26: 6ff). When the disciples protest the seeming waste of an extravagant ointment Jesus defends what the woman did. "By pouring this perfume on my body, she has contributed toward my burial preparation. I assure you, wherever the good news is proclaimed throughout the world, what she did will be spoken of as her memorial"(26:12-13). When Jesus is executed women stand by him at the cross and are at his burial, where they remain "sitting there facing the tomb" (27:55-61). By our usual way of measuring achievement, what did those women accomplish? They didn’t prevent Jesus’ execution.
Often we can not change, as hard as we may try, the tragic course of events: a fatal illness, a marriage breakup, the downward decline of an addiction, a refugee crisis. However we do what we can; we do not stand by and let things deteriorate. Still, there are times when we can learn from the role the women play in Jesus’ suffering and death. They were there with him in his pain, right up to his burial. They were loyal to their friend and master. At his lowest point, when he was hanging on the cross, it must have given him some comfort in his agony to look down to see the women at the foot of the cross.
The women could offer him their loyalty, love and presence – but not much else. Is that why the women are the first to witness the resurrection? They had nothing to offer Christ but their presence and, since they were there keeping vigil, they were available to receive the good news of the resurrection. The women are the first witnesses to the resurrection and the first chosen for an Easter mission, "Then go quickly and tell his disciples."
Matthew says the women went to the tomb "as the first day of the week was dawning." He’s not telling us a piece of information about day and time to satisfy our curiosity. This is the first day of a whole new period in history – there was a time before the resurrection and now a completely new time after the resurrection. The earthquake is like a huge kettle drum announcing that something momentous has happened and the world has been changed by it. The women are commissioned to go forth with the announcement that everything has changed; it is the long-promised new creation and we are now living a new way of life – just as Jesus promised.
NT Wright ("Matthew for Everyone," Louisville: Westminster John Knox Press, 2002) says that the resurrection had not only changed the women’s hearts, "but had torn a hole in normal history." The resurrection has changed the world forever. God’s kingdom had come, and it wasn’t just the start of a new day, or a new week, but, "the start of God’s new age that will continue until the nations have been brought into obedience" (p. 200-201).
People have different beliefs about Easter. Some focus only on the resurrection itself, which makes them just observers of what God has done. But we are not merely observers of an incredible feat performed by God. Our faith includes us in the resurrection event as we profess that Jesus is the firstborn among each of us. In him we have hope now for new life in God
Some believe Jesus’ resurrection offers life after death for those who profess faith in him and lead a good life here and now. In the next life we will experience our reward. In the meanwhile we wait, until we receive it in the next life. This belief eliminates the need to do anything in this life; it’s the future, not the present, that’s the focus. One of the side effects of this view is it contributes to a passivity towards the suffering of others and the tendency to ignore social injustice.
With Jesus’ resurrection we too have been raised with him. But that does not mean we are to sit around in our faith with hope for the next life. Paul speaks of a "newness of life" that we have received now through our baptism into Jesus’ death and resurrection. He encourages us to think of ourselves as dead to sin and our old selves and "living for God in Christ Jesus."
Our vocation is to daily witness to the resurrection by lives centered on God’s kingdom, by doing the things Jesus taught and witnessed for us in his life. Thus, we strive to live conscious of the needs of others, actively seeking their well-being as they struggle to live with dignity and hope. Jesus is risen, but he has not left us to go to some distant place to sit on a throne. He is in our midst and our neighbor, especially the hungry, the prisoner, the thirsty and the lonely. Our resurrected faith moves us to continue Jesus’ work of making God’s kingdom a reality here and now. That’s our mission, the work the resurrected one sends us to do, empowered and emboldened by his Spirit.
Chúa nhật Phục sinh A
Lm Jude Siciliano OP
05:01 14/04/2017
Chúa nhật Phục sinh A
TĐ Công Vụ10: 34a, 37-43; Tv. 117; Côlôsê 3: 1-4 (hay I Cr 5: 6-8); Gioan 20: 1-9
Các bài sách về lễ Phục Sinh đều bắt đầu giống nhau. Thí dụ: bài phúc âm bắt dầu "... ngày thứ nhất trong tuần...". Thánh Luca bắt đầu câu chuyện về hai môn đệ đi Emmaus "ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần..." Tuần tới, chúng ta cũng nghe những lời đó lại trong phúc âm thánh Gioan trong khi ông ta kể câu chuyện về Chúa Giêsu hiện ra cho các môn đệ trong phòng đóng cửa khóa kín. "vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần..." Thường ra thì phúc âm không chú trọng đến ngày giờ đúng lúc. Phần nhiều các câu chuyện bắt đầu một cách tương quan, như "sau khi Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem...", hay "sáng sớm Chúa Giêsu vào Đền Thờ...". Theo những điều nói chung, chúng ta những người thời nay muốn hỏi: Chúa Giêsu lên Giêrusalem đúng lúc nào... hay ngày nào, năm nào và giờ nào? Nhưng, trái lại, chúng ta hơi ngạc nhiên khi chúng ta hỏi những chi tiết như thế hình như tác giả phúc âm muốn nói "đó không phải là những điểm chính ở đây".
Mặc dù sự thật các chi tiết trong các bài về Phục Sinh hơi lộn xộn (như có hai thiên thần ở nơi mộ, hay chỉ có một thanh niên...? Bà Maria Mácđala đi ra mộ một mình hay đi với hai người phụ nữ khác v.v....?) Hình như nói đến ngày trong tuần phục sinh, các tác giả phúc âm viết rõ về một điểm: đó là "ngày thứ nhất trong tuần". Không phải chỉ là ngày sau ngày sa bát, không phải chỉ là ngày Chúa Nhật, nhưng là "ngày thứ nhất trong tuần". Các tác giả phúc âm không thay đổi việc họ thường nói về các sự kiện chung về ngày giờ chú trọng rõ ràng. Họ chỉ muốn chú trọng là đây là một hiện tượng mới xãy ra, một hiện tượng mới bắt đầu, một sự bắt đầu mới cho tất cả chúng ta: "ngày thứ nhất trong tuần". Cũng như, ngày thứ nhất Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng chiếu qua bóng tối âm u, nên bây giờ ánh sáng của Thiên Chúa một lần nữa soi qua bóng tối, và lần này là bóng tối của ngôi mộ. Vì "ngày thứ nhất trong tuần" chúng ta không còn sợ sệt về sự chết.
Có rất nhiều điều chúng ta học được về ngày thứ nhất này, bởi 3 người môn đệ trong câu chuyện hôm nay là thầy của chúng ta. Bà Maria đi ra mộ như chúng ta đi thăm mộ người thân thương để than khóc, để kính trọng người vừa qua đời, để nhớ lại một liên hệ bị chấm dứt thình lình vì sự chết. Bà Maria không nghĩ đến sự sống lại. Bởi đó, thánh Gioan nói với chúng ta là "bà ta ra đi lúc trời còn tối". Trời tối vì bà ta không trông thấy bởi ánh sáng đức tin, nên bà ta không hiểu điều gì đã xãy ra. Một ngôi mộ trống không đủ để chứng tỏ cho bà ta là Chúa Giêsu đã sống lại. Trái lại, bà ta suy luận như chúng ta cũng có thể suy luận là "người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ" Đó là chút tin tức đầu tiên bà ta báo.
Chúng ta nhìn xem xung quanh thế giới để tìm câu suy luận chính xác nói về sự sống lại. Chúng ta nghĩ đến con sâu trở thành con bướm với màu sắc đẹp. Chúng ta, những người ở miền đông bắc, nghĩ đến mặt đất còn đông giá lạnh cứng và nâu, chỉ có các chồi xanh cây cỏ đâm lên trở thành cây hoa như hoa thủy tiên. Theo một cách nào đó làm điều chúng ta suy luận về sự sống lại là dấu chỉ về sự sống đến thình lình, ngay cả từ các nơi chết chóc. Nhưng, với bao nhiêu sự kiện về sự chết hiện nay; với bao nhiêu giết chóc với xe mang bom nổ bên Iraq; với sự chết vì đói khát đe dọa hàng triệu dân ở Phi Châu; với bao nhiêu chết chóc, hãm hiếp, và áp bức những người vô tội ở nhiều nước; hay hoặc về nô lệ toàn thế giới; với bao nhiêu người thân thương của chúng ta chết - việc con sâu trở thành con bướm không đú để an ủi chúng ta. Như, một người bà con nói với tôi về chồng bà ta vừa chết: "anh ta là cả sự sống của tôi". Để an ủi những sự đau đớn ấy cần phải có thêm chi tiết. Điều suy luận như chính thật về sự sống và sự chết cho đến đời sống mới, nêu lên một câu hỏi lớn chứ không giúp an ủi sâu đậm nào khi chúng ta nhìn ngay vào sự chết. Chúng ta cần nhiều điều hơn để giúp chúng ta khỏi bâng khuâng, và sự thật là có nhiều điều hơn. Sau này, trong câu chuyện, mặc dù không ở trong bài đọc hôm nay. bà Maria sẽ gặp Đức Chúa sống lại và tin như chúng ta, là bóng tối của sự chết đã bị xóa nhòa bởi ánh sáng của Đức Chúa sống lại. Một khi được ơn ánh sáng bà ta sẽ báo tin mừng cho các môn đệ đang lo sợ chờ đợi trong phòng trên: "tôi đã thấy Chúa" (Ga 20: 18)
Tôi tự hỏi điều gì đã làm cho Phêrô chạy chậm khi ông ta chạy ra mộ với người môn đệ kia? Có phải là thánh Gioan muốn nói Phêrô chạy chậm là một cách nói văn hoa về việc Phêrô nhớ đến ông ta đã chối Thầy, và làm cho ông ta chạy chậm lại phải không? Ông ta bị trì hoản vì ý nghĩ nhớ đến quá khứ hay không? Nếu Phêrô đủ đức tin về sự sống lại thì mọi sự sẽ thay đổi cho ông ta. Trước mặt Chúa Giêsu Phục Sinh Phêrô sẽ lãnh nhận ơn tha thứ. Đó là một ơn huệ không phải ông ta đáng được hưởng, nhưng là một ơn huệ ông ta phải làm cho người khác. Ông ta tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Ông ta đã nghe Chúa Giêsu nói với ông ta là phải tha thứ đến 70 lần 7 phải không? Trong khi chúng ta cùng các môn đệ nhìn vào ngôi mộ trống và tỏ đức tin về Chúa Kitô sống lại, chúng ta có thể lãnh nhận sự tha thứ Ngài ban cho chúng ta hay không? Và nếu chúng ta lãnh nhận, vậy thì chúng ta phải tha thứ cho ai? có thể là chúng ta không phạm những tội lỗi nặng nề để níu kéo chúng ta trong khi chúng ta đi đến ngôi mộ với các môn đệ. Nhưng khi chúng ta suy ngẫm về việc chúng ta làm môn đệ; về tình thương yêu của chúng ta đối với Chúa Kitô; về sự dấn thân cho tin mừng của Ngài, và sự đáp lại trong việc phục vụ tha nhân- có thể chúng ta cũng bị níu kéo lại trong khi đi đến ngôi mộ. Nhưng nếu chúng ta trì hoản vì quá khứ như Phêrô chúng ta sẽ không trông thấy Đấng sống lại. Ngày "thứ nhất trong tuần" đó chỉ là một ngày Chúa Nhật khác.
Nếu Phêrô tin vào sự sống lại, ông ta sẽ nhìn thế giới với nhãn quan của Chúa Giêsu. Không có nhãn quan nào khác, hay thái độ nào khác. Ông ta sẽ phải tín nhiệm hoàn toàn và trung thành với Chúa Kitô, và quay đi khỏi những quyền uy nào trái ngược lại. Chúng ta, những người có đức tin vào sự sống lại cũng sẽ phải thay đổi lời nói và việc làm không theo quyền uy và tổ chức mà chúng ta đã dấn thân vào nếu những quyền uy và tổ chức đó không chứng tỏ tình yêu thương và sự công chính như Chúa Giêsu đã dạy. Thí dụ, vì sao ở quốc gia giàu nhất thế giới lại còn 25 % trẻ con sống trong sự nghèo khó? Vì sao phụ nữ không được quyền bình đẳng trong Giáo Hội, Giáo Hội của Đấng mà sự Phục Sinh đã được loan báo trước tiên bởi một phụ nữ? Vậy thì đức tin chúng ta vào sự sống lại làm sao mà chúng ta bị thách đố và được năng lực để nói và hành động, bây giờ lại là "ngày thứ nhất trong tuần"?
Nhưng nếu đây là "ngày thứ nhất" thì thánh Gioan nhắc chúng ta là điều gì đã hoàn toàn mới mẻ và thình lình xãy ra, và chúng ta có lý do hy vọng. Còn thêm một người nữa trong "câu chuyện thứ nhất" của chúng ta. Thánh Gioan nói với chúng ta là "người mà Chúa Giêsu yêu mến". Có người nghĩ đó là thánh Gioan. Phúc âm có thể cố tình làm rối loạn ở điểm này để mỗi người trong chúng ta có thể đặt chính mình vào câu chuyện. Người môn đệ Chúa thương nhìn vào ngôi mộ "đã thấy và tin". Tình thương của người môn đệ này đã biết và đã mở mắt ông ta. Đức tin của chúng ta cho chúng ta biết là chúng ta cũng có thể nghĩ chúng ta là "người môn đệ Chúa thương". Kinh nghiệm của tình thương yêu đó có thể mở mắt chúng ta nhìn vào ngày thứ nhất đó trong tuần - như mắt người môn đệ Chúa thương đã được mở ra khi ông ta nhìn vào ngôi mộ. Tình thương cho ông ta trông thấy. Tình thương này không dựa vào điều gì đáng được, hay điều gì do sự trông thấy của chúng ta. Trái lại, vì là bởi tình thương thì là một ơn huệ đã ban. Bây giờ chúng ta, những người được Chúa thương, có thể đương đầu với sự chết dưới mọi hình thức giả tạo nào của nó.
Tình thương mời gọi chúng ta nhìn vào điều gì trước chúng ta trong ngày thứ nhất của đời sống mới. Chúng ta không nhìn lại quá khứ để xem chúng ta trước kia là ai. Hôm nay là một ngày mới với ý thức và cơ hội mới. Thật ra chúng ta là những môn đệ Chúa thương. Tình thương chúng ta đã được lãnh nhận là căn bản của đời sống mới. Chúng ta có thể bắt đầu, hay khởi sự trở lại - để hành động như những người đã được thương yêu. Vì sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta tin tưởng chúng ta sẽ không rời khỏi tình yêu thương của Thiên Chúa. Và bởi thế chúng ta có thể được may mắn thương yêu người khác mà chúng ta thường không làm.
Chúng ta trở về với ngôi mộ trống và tự hỏi làm sao chúng ta có thể sống đời sống của người môn đệ Chúa thương. Làm sao chúng ta có thể thương yêu nhiều hơn? Nhất là làm sao chúng ta có thể chứng tỏ tình thương cho những ai không có dấu chỉ mà văn hóa của chúng ta yêu thương - như thanh thiếu niên, bề ngoài, sự giàu có và quyền uy? Hôm nay mỗi người trong chúng ta đi đến ngôi mộ trống, nhìn vào bên trong ngôi mộ và bên trong đời sống chúng ta. Có điểm nào mà chúng ta không tha thứ hay không? Dấu chỉ gì về sự chết mà chúng ta trông thấy, và chúng ta phải quay mặt đi hay phải đương đầu? Trong ánh sáng của những điều chúng ta trông thấy "trong ngày thứ nhất trong tuần đó" chúng ta cảm nghiệm một đời sống mới nào mà chúng ta sẽ chia sẻ với ai qua lời nói và việc làm?
Chuyển ngữ: FX Trọng Yên, OP
EASTER SUNDAY
Acts 10: 34a, 37-43; Ps. 118; Colossians 3: 1-4 (or I Cor 5: 6-8); John 20: 1-9
These Easter readings have similar beginnings. For example, today’s gospel starts, "...on the first day of the week...." St. Luke begins his story of the disciples traveling to Emmaus, "That very day, the first day of the week...." Next Sunday we will hear again these words from John as he tells the story of Jesus’ appearance to the huddled disciples behind the locked doors, "On the evening of that first day of the week...." Usually the gospels are not that fussy about precise days and hours. Most stories begin more generically, "After that Jesus went to Jerusalem...." or, "Early in the morning Jesus entered the Temple." Given such generalities, we moderns want to ask: exactly when did Jesus go to Jerusalem...what day, year and hour?" But instead we are almost always frustrated when we ask for that kind of information. It is as if the gospel writer is saying, "That’s not the point here."
Despite the fact that the details of these Easter readings get confusing (were there two angels at the tomb, or just a young man.... did Mary Magdalene go alone or with two other women, etc.?), it seems that, concerning the day of the week of the resurrection, the writers are specific about one thing – it was "the first day of the week." Not just the day after the Sabbath, not just Sunday, but "the first day of the week." The evangelists haven’t changing their usual habit of ambiguity about specifics. They just want to make the point that something new has happened, there is a fresh start, a new beginning for us all, it is "the first day of the week." Just as God, on the first day, created light to pierce the darkness, so now God’s light has once again pierced the darkness – this time it is the darkness of the tomb. Because of "the first day of the week," we no longer need to fear death.
There is much to learn on this first day and the three disciples in today’s story are our teachers. Mary goes to the tomb in the same way we have visited grave sites: to grieve; to pay respects to someone gone; to call to mind a relationship ended abruptly by death. She hasn’t anticipated the resurrection. Thus, John tells us, she went "while it was still dark." It is dark because she does not yet see by the light of faith and so does not understand what has happened. An empty tomb is not enough to convince her that Jesus is risen. Instead, she draws the same logical conclusion we would, "The Lord has been taken from the tomb!" That is the first bit of news she has to announce.
We look around the world trying to find logical arguments and hints of resurrection. We point to caterpillars that become butterflies with the gift of beauty and flight. We north-easterners point to frozen earth, bleak and brown and then to green shoots that soon will become daffodils. Somehow we think these are arguments for the resurrection, signs that life comes from unexpected, even dead-looking places. But with so much evidence of death these days; with more slaughter from car bombs in Iraq; death by starvation threatening millions in Africa, unending murder, rape and pillage of innocents in numerous countries (cf. below for information about world slavery) and with our own more immediate losses from the death of loved ones--- caterpillars becoming butterflies do not offer enough comfort and assurance in our grief. As a relative told me recently when her husband died, "He was my whole life." More is needed to get through that kind of grief. The seeming "logic" of life--- to death-- to new life, leaves big question marks and not deep solace when death stares us in the face. We need more to keep us from faltering and, thankfully, we have more. Later in the story, though not in today’s reading, Mary will meet the risen Lord and come to believe what we believe – the dark shadow of death has been driven out by the light of the risen Lord. Once given the gift of light, she will proclaim the good news to the frightened apostles waiting in the upper room, "I have seen the Lord" (20: 11-18).
I wonder what slowed Peter up as he and "the other disciple" raced to the tomb? Is Peter’s slow pace John’s poetic touch suggesting that Peter’s memory of betrayal had slowed him down? Is he burdened by the weight of the past? If Peter comes to faith in the resurrection, everything will change for him. In the face of the risen Lord, Peter will have to accept forgiveness. It will be a gift, not something he earned, but something he must offer others – if he is to believe in the risen Lord. Hadn’t he heard Jesus say that he must forgive "seventy times seven times?" As we look into the empty tomb with the disciples today and express faith in the risen Christ, can we accept the forgiveness he offers us? And if we do, whom must we then forgive? Perhaps we don’t have any "heavy" sins to slow us down as we approach the empty tomb with the disciples. But when we reflect on the quality of our discipleship; the love we have for Christ; our dedication to his message and our response in service to our neighbor – perhaps we too might be slow in approaching the tomb. But if we remain slowed down by the past with Peter, we won’t "see" the resurrected one. This "first day of the week" will just be another Sunday.
If Peter believes in the resurrection, he will have to view the world through the lens of Jesus; there can be no other lens, no other standard of behavior. He will have to give total loyalty to the Christ, and turn away from all other contrary powers. We who have resurrection faith will also have to question and work to change all powers and institutions to which we give allegiance, if they do not manifest the love and justice Jesus has taught. Why, for example, in the richest country in the world, do almost 25% of our children live in poverty? Why aren’t women given equality in our church, the church of the One whose resurrection was first announced to and proclaimed by a woman? How does the resurrection faith we have received challenge and empower us to speak and act, now that it is "the first day of the week?"
But if this is "the first day," then John is reminding us that something entirely new and unexpected is happening and we have reason to hope. There is one more person in our "first day story." John tells us it is "the one Jesus loved." Some think it was John himself. The gospel may be intentionally ambiguous here so that each of us can put ourselves in the story. The beloved disciple looked into the tomb and "saw and believed." The love this disciple had known had opened his eyes. Our faith tells us that we can call our selves "the disciple Jesus loved." The experience of that love may open our eyes to the possibilities of this first day of the week – as the beloved disciples’ eyes were opened when he peered into the tomb. Love gave him sight. This love is not based on merit, or achievements or our brilliant insights. Rather, as it is with love, it is given as a gift. We, the beloved, now can confront death in its many guises.
Love invites us to take a close look at what is before us on this first day of new life. We don’t look back over our shoulder at who we were and what we did in the past. This is a new day with new realizations and possibilities, after all, we are the beloved disciples. The love we have received is a basis for a new way to live. We can begin – or start again – to act like loved ones. Because of Jesus’ death and resurrection, we trust we will not fall out of the embrace of God’s love and so we can take chances in loving others we might not ordinarily take.
We return from the empty tomb asking ourselves how we can live the life of a beloved disciple. How can we love better? Especially, how can we show love to those who don’t have the signs our culture loves – like youth, looks, wealth and power? Each of us makes the trip to the empty tomb today, peers into the tomb and into our lives. Is there someone we have not forgiven? Have we hesitated getting involved in serving others? What signs of death do we see that we must turn away from or confront? In the light of what we "see" on this first day of the week, what new life do we experience and with whom should we share it in word and act?
Cô đơn: Chúa Giêsu và con người
Lm GB Nguyễn Minh Hùng
05:09 14/04/2017
Cô đơn: Chúa Giêsu và con người
Khi đối diện với đau khổ mà có người bên cạnh, họ chỉ cần hiện diện như một sớt chia, đồng cảm, cũng đủ thành sức mạnh giúp vượt qua, tăng can đảm, cộng nghị lực…
Nhưng đau khổ mà chỉ đối diện với chính đau khổ, quay quắt với bản thân, chắc chắn sẽ càng tê buốt, côi cút và bất hạnh. Nói cách khác, đau khổ nhất là khi phải đối diện nghịch cảnh mà người ta chỉ cảm nhận cô đơn. Và như thế, cô đơn chính là sự tột cùng của đau khổ…
Suy niệm đường thương khó của Chúa Giêsu, tôi cảm nhận nỗi đau tột cùng ấy của Chúa: Chúa cô đơn. Nhưng không phải chờ đến Tử Nạn. Một đời làm người của Chúa, vẫn thấy tràn ngập bóng dáng của cô đơn. Con đường lên đồi Tử Nạn và chính nơi đồi Tử Nạn là cao trào, là đỉnh điểm, là kết cuộc của một đời cô đơn, một đời mang thánh giá.
I. Cô đơn trong kiếp sống .
Khởi đi từ quyết định của thánh Giuse không thể chấp nhận người bạn đời, Đức Trinh Nữ “bỗng dưng” mang thai. Định tâm lặng lẽ rời xa, dù thánh Giuse không hề có suy nghĩ bỏ rơi Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ, chỉ là không chấp nhận sự mang thai “kỳ lạ” của Đức Mẹ, nhưng cũng đủ chứng minh, đường lối của Thiên Chúa, và do đó cũng là đường lối của Con Thiên Chúa làm người, không dễ gì con người hiểu nổi. Vì thế, ngày Chúa Giêsu bắt đầu làm người, cũng là ngày khởi đầu của niềm cô đơn.
Sau ngày giáng sinh, phải lặng lẽ chạy trốn giữa đêm trường, phải bôn ba hải ngoại bởi loài người truy tìm sát hại. Đến khi trở về, lại ẩn mình suốt những năm tháng tuổi thơ, chìm khuất giữa làng quê Nagiareth, thuộc miền Galilêa, chứ không phải Giuđêa (x.Mt 2, 13-23).
Một mặt, Chúa Giêsu một mình thầm lặng sống thánh ý Chúa Cha, mặt khác, Người vẫn hiện diện giữa đời như mọi người làm người. Chúa cũng từng nói lên sự dấn thân này vào lúc hành hương và quyết định ở lại đền thờ, trong khi cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều không thể hiểu thánh ý của Chúa: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49).
Rồi những năm cất bước truyền giáo, dù không biết bao nhiêu lần làm phép lạ giúp đỡ nhiều người, Chúa vẫn bị từ chối: Có lần cả thành “mời Chúa rời khỏi vùng đất của họ” (Mt 8, 34). Chúa từng bị hàng lãnh đạo Dothái giáo chống đối ra mặt. Nhiều lần họ “tìm cách giết Chúa Giêsu” (Ga 5, 18).
Chúa bị phản đối khi mạc khải sự thật về mình: là Con Thiên Chúa, là của ăn nuôi sống muôn người. Chính vì những chân lý ấy, mà có lần “nhiều môn đệ rút lui không còn tin theo Chúa nữa” (Ga 6, 66).
Những người thân của Chúa cũng xúc phạm đến Chúa không ít. Họ cho rằng “Chúa đã mất trí” (Mc 3, 21). Nhiều người khác, khi thấy Chúa trừ quỷ đã dám nghi ngờ: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ” (Lc 11, 15). Họ tìm cách xô Chúa xuống vực (x.Lc 4, 28-30) và nhiều lần ném đá Chúa: “Họ lại lấy đá ném Người” (Ga 10, 31)…
Các tông đồ là những người được Chúa trực tiếp hướng dẫn, thường xuyên sống cạnh Chúa, nhiều lúc cũng tỏ ra mù tối về những điều Chúa dạy cũng như những hành động của Chúa.
Có lần, Chúa trao cho tông đồ Phêrô quyền quan trọng: “Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16, 19), thì ngay sau đó, thánh Phêrô bị Chúa quở trách nặng, vì thánh nhân không hề hiểu biết gì về chương trình của Chúa, lại còn dám can gián Người đi vào cuộc thương khó (Mt 16, 13-23).
Lần khác, sau khi tiếp tục mạc khải về cuộc thương khó mà mình phải chịu, tưởng chừng các tông đồ sẽ lo âu lắm, đau khổ lắm, nào ngờ, các ông dường như không hề nghe biết gì. Chẳng những các ông làm như mình là người đứng ngoài cuộc hoàn toàn, lại còn tranh giành quyền được “ăn trên ngồi trước” trong thiên hạ (x.Mt 20, 17-23; Mc 10, 32-40).
Đấy chỉ là một ít dẫn chứng. Đọc toàn bộ Tin Mừng, chúng ta sẽ còn bắt gặp, trong cuộc sống làm người dương thế, Chúa Giêsu quá đơn độc. Con đường Chúa đi là con đường của người phải đi một mình. Cả một kiếp người, chỉ một mình đi, một minh lặng lẽ, một mình đối diện với sứ mệnh cứu chuộc, một mình hoàn hảo hóa thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu như đã vác thánh giá ngay từ giây phút khởi đầu làm người…
Đặc biệt hơn, trên con đường thương khó và tử nạn, để kết thúc cuộc đời dương thế, sự cô đơn của Chúa càng là một trong những điểm nổi bật mà chúng ta dễ dàng chứng kiến. Đó là sự cô đơn đứng trước tội lỗi nặng nề của thế gian. Đó là sự cô đơn đối diện với quyền lực của sự ác vẫn luôn thống trị lòng người.
II. Cô đơn trên đường Thương khó.
Đường thương khó khởi đi từ Chúa Nhật lễ Lá, khi Chúa Giêsu khải hoàn vào Giêrusalem. Mặc dù dân chúng tung hô và ca tụng Chúa vang dậy đất trời (x.Mt 21, 7-10), nhưng Chúa biết, đấy chỉ là lớp vỏ bọc đang chất chứa nhiều bội phản, nhiều mưu mô mà một ít ngày nữa thôi, sẽ trở thành làn sóng thù hận, quyết liệt đòi đóng đinh Chúa giữa những tòa án tàn bạo của những kẻ nắm quyền (x.Mt 27, 21-23).
Đêm thứ năm tuần Thánh, sau khi dự tiệc vượt qua với các tông đồ, trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu tìm đến các môn đệ để chia sẻ nỗi xao xuyến, vì chỉ trong vài giờ đồng hồ nữa thôi, Chúa sẽ bị trao nộp và bị bắt. Nhưng các môn đệ ngủ li bì. Họ không thể chia sẻ với Chúa bất cứ một trăn trở nào (x.Mt 26, 36-46).
Chúa biết rõ, họ chỉ là những con người hèn kém. Chúa biết rõ tông đồ Giuđa đang rắp tâm trở thành kẻ bán đứng Thầy mình. Dù nhiều lần Chúa tìm cách báo trước tội của ông, ông vẫn cứng đầu, vẫn quyết tâm nộp Chúa để lấy 30 đồng bạc (x.Mt 26, 14-16).
Cả tông đồ Phêrô, dù là tông đồ trưởng, sẽ chối Chúa. Cuộc chối bỏ này diễn ra nhiều lần, nhưng về cấp độ thời gian lại vô cùng nhanh chóng: chỉ trong hai canh gà của một đêm mà thôi. Chúng ta càng nhận ra sự hèn kém dữ dội hơn, khi đối tượng của những lần chối bỏ ấy lại chỉ là những đầy tớ và là đầy tớ gái (x.Mt 26, 69-74).
Chín tông đồ còn lại nhát đãm đến nỗi cao chạy xa bay, bỏ Chúa một mình lầm lũi giữa vô vàn thương đau vây bũa. Chỉ còn tông đồ Gioan theo Chúa đến khi Chúa hoàn tất hành trình thánh giá trên đồi Tử Nạn mà thôi.
Cuộc xử án Chúa diễn ra suốt đêm. Hết dinh thượng tế đến dinh tổng trấn, rồi lại dinh vua Hêrôđê, lại trở về dinh tổng trấn, chỉ một mình Chúa đối diện với tất cả sự gian dối, sự tàn bạo, sự sỉ nhục mà thế gian dành cho Chúa.
Cô đơn ghê gớm đến tột độ, khi Chúa bị treo trên thánh giá. Nguồn an ủi duy nhất của Chúa là Chúa Cha, nhưng hình như Chúa cũng không cảm được điều ấy nữa. Trên thánh giá, Chúa thốt lên lời xót xa: “Lạy Chúa, lạy Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con” (Mc 15, 34).
Dù vậy, Chúa vẫn một lòng tin tưởng nơi Chúa Cha. Trong mọi nỗi cô đơn, Chúa vẫn cho thấy lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha nơi Người là tuyệt đối, là không có bất cứ nỗi đau đớn nào làm suy giảm được. Giấy phút cuối cùng, trước khi tạ thế, Chúa tuyệt đối phó thác nơi Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
III. Những cô đơn giữa lòng đời hôm nay.
Người ta cho là thế giới ngày nay văn minh. Và người ta cũng nói, thế giới sẽ càng ngày càng văn minh. Điều đó có đúng hay không, tôi không biết, chỉ biết một điều rất thực tế: Cô đơn đang trở thành hiện tượng càng ngày càng phát triển, càng phổ biến.
Trên những con phố tấp nập, trên những con đường đông người đến nỗi thường xuyên kẹt xe, trên phố đi bộ buổi tối ồn ào, trên chuyến xe buýt đầy hành khách, trong những khu chợ sầm uất, trong những quán ăn trưa chật chội, trong những dãy nhà trọ ngột ngạt hơi người…, người ta vẫn có thể thấm thía nỗi cô đơn…
Cô đơn có thể khống chế con người ở mọi nơi, bất chấp mọi hoàn cảnh. Cô đơn ngay trong gia đình. Đời sống vợ chồng vẫn có thể trở thành chiếc nôi của cô đơn. Thậm chí cô đơn hiện hữu chính giữa cộng đoàn bác ái, cộng đoàn đức tin, cộng đoàn tu trì…
Cô đơn là tình trạng cô lập nơi một con người. Cô đơn không phải tự nhiên mà đến. Có hai loại cô đơn: Do con người tự nguyện và do tình liên đới bị tổn thương.
- Cô đơn do con người tự nguyện là sự tự nguyện một mình đi suốt chặn đường đời. Nếu cô đơn tự nguyện do sống lý tưởng cao đẹp nào đó, con người sẽ bình an, cuộc sống sẽ đẹp, sẽ hạnh phúc.
Trường hợp Chúa Giêsu. Người tự nguyện dấn thân cho lý tưởng cứu chuộc trần thế. Người chấp nhận tất cả để thánh ý Thiên Chúa ngày càng được diễn tả mạnh mẽ và rộng rãi. Người biết Người sẽ phải chấp nhận vì ai, mang lại kết quả nào. Bởi thế, nỗi cô đơn của Chúa, tuy lớn lao, tuy đau đớn, nhưng vì là sự tự nguyện, Chúa Giêsu vẫn đầy bình an, vẫn trọn vẹn hạnh phúc
.
- Còn cô đơn do tình liên đới bị tổn thương là cô đơn đáng sợ. Nó có thể xảy ra do hằn thù, độc ác, vô cảm của đồng loại. Nó có sức hủy hoại cuộc đời những ai là nạn nhân của nó. Nó đánh đổ cả sự nghiệp, lòng nhiệt huyết và lý tưởng của nạn nhân. Nó có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực. Nó gây nhiều đớn đau, mệt mỏi cho chính nạn nhân, cũng như những ai có liên quan.
Là Kitô hữu, chúng ta cần loại trừ những cô đơn loại này bằng nghĩa cử của tình yêu, của quan tâm, của đồng cảm.
Tình yêu của Chúa Giêsu Kitô sẽ là nguồn gợi hứng để Kitô hữu luôn biết sống lòng yêu mến, sống tương thân tương ái. Tình yêu của Chúa Giêsu Kitô giúp Kitô hữu loại trừ thái độ loại trừ, để đôi mắt của mình luôn tạo nên và phản chiếu ánh nhìn của trìu mến, của gần gũi, của liên kết…
Dù là cô đơn do tự nguyện hay cô đơn do tình liên đới bị tổn thương, tất cả đều đòi hỏi nhiều phấn đấu, nhiều nỗ lực vượt qua.
Đặc biệt, đang khi rơi vào trạng thái cô đơn, ta cần phải cảnh giác với mọi tư tưởng, mọi hành động của bản thân hay của bất cứ đối tượng nào tác động để không gây thêm phiền phức, thậm chí nguy hiểm.
Đối với bản thân, nhiều lần tôi tìm đến sự tĩnh mịch để cầu nguyện, để suy niệm, để nghiền ngẫm biết bao nhiêu biến cố xảy ra cho mình hay liên quan đến mình. Nhiều khi tôi muốn tìm đến cô đơn để tự do yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người, phụng sự Chúa và phục vụ con người cách hiệu quả, an nhiên, tự tại hơn.
Nhưng cũng có lúc cô đơn là nỗi rát buốt trong tâm hồn. Tôi suy niệm những cô đơn của Chúa Giêsu Kitô để thêm yêu mến Chúa, yêu thương bản thân mình và yêu thương anh em đồng loại. Nhờ đó, tôi có những phản ứng tích cực, những việc làm bổ ích giúp thăng tiến cuộc đời, thăng tiến nhiều người cùng khổ như mình.
Tôi tin rằng, Chúa yêu tôi, Người trao cho tôi thánh giá để tôi có cơ hội cộng tác với Người trong công trình cứu chuộc mà Người dành cho tôi và cho thế giới.
Thánh giá luôn là những thanh luyện cần thiết. Tôi học tập thanh luyện trong những cô đơn rát buốt để vững vàng hơn, tâm huyết hơn, lý tưởng hơn. Tôi tin đó là hy lễ cuộc đời của bản thân mình, mà tôi có để hiến dâng Thiên Chúa, để cả đời tôi, trong từng nhịp sống, từng biến cố, tôi chúc tụng Chúa, tôi yêu mến Chúa, tôi vâng phục thánh ý Chúa, tôi nương nhờ lòng từ ái của Chúa, tôi ngã mình vào trái tim đôn hậu của Chúa.
Tôi đang sống tuần Thánh. Lặng ngắm những cô đơn của Chúa, tôi thấy quý giá biết bao nhiêu điều mà Chúa đã sống, đã trải qua. Bởi nó cho tôi quá nhiều những bài học mà không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu. Nó đúc kết trong tôi thành ý nghĩa sống!
Khi đối diện với đau khổ mà có người bên cạnh, họ chỉ cần hiện diện như một sớt chia, đồng cảm, cũng đủ thành sức mạnh giúp vượt qua, tăng can đảm, cộng nghị lực…
Nhưng đau khổ mà chỉ đối diện với chính đau khổ, quay quắt với bản thân, chắc chắn sẽ càng tê buốt, côi cút và bất hạnh. Nói cách khác, đau khổ nhất là khi phải đối diện nghịch cảnh mà người ta chỉ cảm nhận cô đơn. Và như thế, cô đơn chính là sự tột cùng của đau khổ…
Suy niệm đường thương khó của Chúa Giêsu, tôi cảm nhận nỗi đau tột cùng ấy của Chúa: Chúa cô đơn. Nhưng không phải chờ đến Tử Nạn. Một đời làm người của Chúa, vẫn thấy tràn ngập bóng dáng của cô đơn. Con đường lên đồi Tử Nạn và chính nơi đồi Tử Nạn là cao trào, là đỉnh điểm, là kết cuộc của một đời cô đơn, một đời mang thánh giá.
I. Cô đơn trong kiếp sống .
Khởi đi từ quyết định của thánh Giuse không thể chấp nhận người bạn đời, Đức Trinh Nữ “bỗng dưng” mang thai. Định tâm lặng lẽ rời xa, dù thánh Giuse không hề có suy nghĩ bỏ rơi Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ, chỉ là không chấp nhận sự mang thai “kỳ lạ” của Đức Mẹ, nhưng cũng đủ chứng minh, đường lối của Thiên Chúa, và do đó cũng là đường lối của Con Thiên Chúa làm người, không dễ gì con người hiểu nổi. Vì thế, ngày Chúa Giêsu bắt đầu làm người, cũng là ngày khởi đầu của niềm cô đơn.
Sau ngày giáng sinh, phải lặng lẽ chạy trốn giữa đêm trường, phải bôn ba hải ngoại bởi loài người truy tìm sát hại. Đến khi trở về, lại ẩn mình suốt những năm tháng tuổi thơ, chìm khuất giữa làng quê Nagiareth, thuộc miền Galilêa, chứ không phải Giuđêa (x.Mt 2, 13-23).
Một mặt, Chúa Giêsu một mình thầm lặng sống thánh ý Chúa Cha, mặt khác, Người vẫn hiện diện giữa đời như mọi người làm người. Chúa cũng từng nói lên sự dấn thân này vào lúc hành hương và quyết định ở lại đền thờ, trong khi cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều không thể hiểu thánh ý của Chúa: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49).
Rồi những năm cất bước truyền giáo, dù không biết bao nhiêu lần làm phép lạ giúp đỡ nhiều người, Chúa vẫn bị từ chối: Có lần cả thành “mời Chúa rời khỏi vùng đất của họ” (Mt 8, 34). Chúa từng bị hàng lãnh đạo Dothái giáo chống đối ra mặt. Nhiều lần họ “tìm cách giết Chúa Giêsu” (Ga 5, 18).
Chúa bị phản đối khi mạc khải sự thật về mình: là Con Thiên Chúa, là của ăn nuôi sống muôn người. Chính vì những chân lý ấy, mà có lần “nhiều môn đệ rút lui không còn tin theo Chúa nữa” (Ga 6, 66).
Những người thân của Chúa cũng xúc phạm đến Chúa không ít. Họ cho rằng “Chúa đã mất trí” (Mc 3, 21). Nhiều người khác, khi thấy Chúa trừ quỷ đã dám nghi ngờ: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ” (Lc 11, 15). Họ tìm cách xô Chúa xuống vực (x.Lc 4, 28-30) và nhiều lần ném đá Chúa: “Họ lại lấy đá ném Người” (Ga 10, 31)…
Các tông đồ là những người được Chúa trực tiếp hướng dẫn, thường xuyên sống cạnh Chúa, nhiều lúc cũng tỏ ra mù tối về những điều Chúa dạy cũng như những hành động của Chúa.
Có lần, Chúa trao cho tông đồ Phêrô quyền quan trọng: “Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 16, 19), thì ngay sau đó, thánh Phêrô bị Chúa quở trách nặng, vì thánh nhân không hề hiểu biết gì về chương trình của Chúa, lại còn dám can gián Người đi vào cuộc thương khó (Mt 16, 13-23).
Lần khác, sau khi tiếp tục mạc khải về cuộc thương khó mà mình phải chịu, tưởng chừng các tông đồ sẽ lo âu lắm, đau khổ lắm, nào ngờ, các ông dường như không hề nghe biết gì. Chẳng những các ông làm như mình là người đứng ngoài cuộc hoàn toàn, lại còn tranh giành quyền được “ăn trên ngồi trước” trong thiên hạ (x.Mt 20, 17-23; Mc 10, 32-40).
Đấy chỉ là một ít dẫn chứng. Đọc toàn bộ Tin Mừng, chúng ta sẽ còn bắt gặp, trong cuộc sống làm người dương thế, Chúa Giêsu quá đơn độc. Con đường Chúa đi là con đường của người phải đi một mình. Cả một kiếp người, chỉ một mình đi, một minh lặng lẽ, một mình đối diện với sứ mệnh cứu chuộc, một mình hoàn hảo hóa thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu như đã vác thánh giá ngay từ giây phút khởi đầu làm người…
Đặc biệt hơn, trên con đường thương khó và tử nạn, để kết thúc cuộc đời dương thế, sự cô đơn của Chúa càng là một trong những điểm nổi bật mà chúng ta dễ dàng chứng kiến. Đó là sự cô đơn đứng trước tội lỗi nặng nề của thế gian. Đó là sự cô đơn đối diện với quyền lực của sự ác vẫn luôn thống trị lòng người.
II. Cô đơn trên đường Thương khó.
Đường thương khó khởi đi từ Chúa Nhật lễ Lá, khi Chúa Giêsu khải hoàn vào Giêrusalem. Mặc dù dân chúng tung hô và ca tụng Chúa vang dậy đất trời (x.Mt 21, 7-10), nhưng Chúa biết, đấy chỉ là lớp vỏ bọc đang chất chứa nhiều bội phản, nhiều mưu mô mà một ít ngày nữa thôi, sẽ trở thành làn sóng thù hận, quyết liệt đòi đóng đinh Chúa giữa những tòa án tàn bạo của những kẻ nắm quyền (x.Mt 27, 21-23).
Đêm thứ năm tuần Thánh, sau khi dự tiệc vượt qua với các tông đồ, trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu tìm đến các môn đệ để chia sẻ nỗi xao xuyến, vì chỉ trong vài giờ đồng hồ nữa thôi, Chúa sẽ bị trao nộp và bị bắt. Nhưng các môn đệ ngủ li bì. Họ không thể chia sẻ với Chúa bất cứ một trăn trở nào (x.Mt 26, 36-46).
Chúa biết rõ, họ chỉ là những con người hèn kém. Chúa biết rõ tông đồ Giuđa đang rắp tâm trở thành kẻ bán đứng Thầy mình. Dù nhiều lần Chúa tìm cách báo trước tội của ông, ông vẫn cứng đầu, vẫn quyết tâm nộp Chúa để lấy 30 đồng bạc (x.Mt 26, 14-16).
Cả tông đồ Phêrô, dù là tông đồ trưởng, sẽ chối Chúa. Cuộc chối bỏ này diễn ra nhiều lần, nhưng về cấp độ thời gian lại vô cùng nhanh chóng: chỉ trong hai canh gà của một đêm mà thôi. Chúng ta càng nhận ra sự hèn kém dữ dội hơn, khi đối tượng của những lần chối bỏ ấy lại chỉ là những đầy tớ và là đầy tớ gái (x.Mt 26, 69-74).
Chín tông đồ còn lại nhát đãm đến nỗi cao chạy xa bay, bỏ Chúa một mình lầm lũi giữa vô vàn thương đau vây bũa. Chỉ còn tông đồ Gioan theo Chúa đến khi Chúa hoàn tất hành trình thánh giá trên đồi Tử Nạn mà thôi.
Cuộc xử án Chúa diễn ra suốt đêm. Hết dinh thượng tế đến dinh tổng trấn, rồi lại dinh vua Hêrôđê, lại trở về dinh tổng trấn, chỉ một mình Chúa đối diện với tất cả sự gian dối, sự tàn bạo, sự sỉ nhục mà thế gian dành cho Chúa.
Cô đơn ghê gớm đến tột độ, khi Chúa bị treo trên thánh giá. Nguồn an ủi duy nhất của Chúa là Chúa Cha, nhưng hình như Chúa cũng không cảm được điều ấy nữa. Trên thánh giá, Chúa thốt lên lời xót xa: “Lạy Chúa, lạy Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con” (Mc 15, 34).
Dù vậy, Chúa vẫn một lòng tin tưởng nơi Chúa Cha. Trong mọi nỗi cô đơn, Chúa vẫn cho thấy lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha nơi Người là tuyệt đối, là không có bất cứ nỗi đau đớn nào làm suy giảm được. Giấy phút cuối cùng, trước khi tạ thế, Chúa tuyệt đối phó thác nơi Chúa Cha: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
III. Những cô đơn giữa lòng đời hôm nay.
Người ta cho là thế giới ngày nay văn minh. Và người ta cũng nói, thế giới sẽ càng ngày càng văn minh. Điều đó có đúng hay không, tôi không biết, chỉ biết một điều rất thực tế: Cô đơn đang trở thành hiện tượng càng ngày càng phát triển, càng phổ biến.
Trên những con phố tấp nập, trên những con đường đông người đến nỗi thường xuyên kẹt xe, trên phố đi bộ buổi tối ồn ào, trên chuyến xe buýt đầy hành khách, trong những khu chợ sầm uất, trong những quán ăn trưa chật chội, trong những dãy nhà trọ ngột ngạt hơi người…, người ta vẫn có thể thấm thía nỗi cô đơn…
Cô đơn có thể khống chế con người ở mọi nơi, bất chấp mọi hoàn cảnh. Cô đơn ngay trong gia đình. Đời sống vợ chồng vẫn có thể trở thành chiếc nôi của cô đơn. Thậm chí cô đơn hiện hữu chính giữa cộng đoàn bác ái, cộng đoàn đức tin, cộng đoàn tu trì…
Cô đơn là tình trạng cô lập nơi một con người. Cô đơn không phải tự nhiên mà đến. Có hai loại cô đơn: Do con người tự nguyện và do tình liên đới bị tổn thương.
- Cô đơn do con người tự nguyện là sự tự nguyện một mình đi suốt chặn đường đời. Nếu cô đơn tự nguyện do sống lý tưởng cao đẹp nào đó, con người sẽ bình an, cuộc sống sẽ đẹp, sẽ hạnh phúc.
Trường hợp Chúa Giêsu. Người tự nguyện dấn thân cho lý tưởng cứu chuộc trần thế. Người chấp nhận tất cả để thánh ý Thiên Chúa ngày càng được diễn tả mạnh mẽ và rộng rãi. Người biết Người sẽ phải chấp nhận vì ai, mang lại kết quả nào. Bởi thế, nỗi cô đơn của Chúa, tuy lớn lao, tuy đau đớn, nhưng vì là sự tự nguyện, Chúa Giêsu vẫn đầy bình an, vẫn trọn vẹn hạnh phúc
.
- Còn cô đơn do tình liên đới bị tổn thương là cô đơn đáng sợ. Nó có thể xảy ra do hằn thù, độc ác, vô cảm của đồng loại. Nó có sức hủy hoại cuộc đời những ai là nạn nhân của nó. Nó đánh đổ cả sự nghiệp, lòng nhiệt huyết và lý tưởng của nạn nhân. Nó có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực. Nó gây nhiều đớn đau, mệt mỏi cho chính nạn nhân, cũng như những ai có liên quan.
Là Kitô hữu, chúng ta cần loại trừ những cô đơn loại này bằng nghĩa cử của tình yêu, của quan tâm, của đồng cảm.
Tình yêu của Chúa Giêsu Kitô sẽ là nguồn gợi hứng để Kitô hữu luôn biết sống lòng yêu mến, sống tương thân tương ái. Tình yêu của Chúa Giêsu Kitô giúp Kitô hữu loại trừ thái độ loại trừ, để đôi mắt của mình luôn tạo nên và phản chiếu ánh nhìn của trìu mến, của gần gũi, của liên kết…
Dù là cô đơn do tự nguyện hay cô đơn do tình liên đới bị tổn thương, tất cả đều đòi hỏi nhiều phấn đấu, nhiều nỗ lực vượt qua.
Đặc biệt, đang khi rơi vào trạng thái cô đơn, ta cần phải cảnh giác với mọi tư tưởng, mọi hành động của bản thân hay của bất cứ đối tượng nào tác động để không gây thêm phiền phức, thậm chí nguy hiểm.
Đối với bản thân, nhiều lần tôi tìm đến sự tĩnh mịch để cầu nguyện, để suy niệm, để nghiền ngẫm biết bao nhiêu biến cố xảy ra cho mình hay liên quan đến mình. Nhiều khi tôi muốn tìm đến cô đơn để tự do yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người, phụng sự Chúa và phục vụ con người cách hiệu quả, an nhiên, tự tại hơn.
Nhưng cũng có lúc cô đơn là nỗi rát buốt trong tâm hồn. Tôi suy niệm những cô đơn của Chúa Giêsu Kitô để thêm yêu mến Chúa, yêu thương bản thân mình và yêu thương anh em đồng loại. Nhờ đó, tôi có những phản ứng tích cực, những việc làm bổ ích giúp thăng tiến cuộc đời, thăng tiến nhiều người cùng khổ như mình.
Tôi tin rằng, Chúa yêu tôi, Người trao cho tôi thánh giá để tôi có cơ hội cộng tác với Người trong công trình cứu chuộc mà Người dành cho tôi và cho thế giới.
Thánh giá luôn là những thanh luyện cần thiết. Tôi học tập thanh luyện trong những cô đơn rát buốt để vững vàng hơn, tâm huyết hơn, lý tưởng hơn. Tôi tin đó là hy lễ cuộc đời của bản thân mình, mà tôi có để hiến dâng Thiên Chúa, để cả đời tôi, trong từng nhịp sống, từng biến cố, tôi chúc tụng Chúa, tôi yêu mến Chúa, tôi vâng phục thánh ý Chúa, tôi nương nhờ lòng từ ái của Chúa, tôi ngã mình vào trái tim đôn hậu của Chúa.
Tôi đang sống tuần Thánh. Lặng ngắm những cô đơn của Chúa, tôi thấy quý giá biết bao nhiêu điều mà Chúa đã sống, đã trải qua. Bởi nó cho tôi quá nhiều những bài học mà không thể tìm thấy bất cứ nơi đâu. Nó đúc kết trong tôi thành ý nghĩa sống!
Sống và loan báo Tin mừng Chúa Phục sinh
Lm Đan Vinh
05:19 14/04/2017
Đêm Vọng Phục sinh A
St 1,1.26-31a ; Xh 14,15-15,1a ; Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Mt 28,1-10
Sống và loan báo Tin mừng Chúa Phục sinh
I. Học Lời Chúa
1. TIN MỪNG: Mt 28,1-10
(1) Sau ngày sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló dạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội, Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên. (3) Diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. (9) Và kìa Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.
2. Ý CHÍNH:
Vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác đã cùng đi thăm mồ Đức Giê-su. Nơi đây, các bà đã chứng kiến một trận động đất và cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy thiên thần hiện ra. Thiên thần đã trấn an các bà và loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su đã phục sinh. Thiên thần còn trao cho các bà sứ mệnh: hãy loan báo Tin Mừng ấy cho các tông đồ. Các bà vui vẻ thi hành và sau đó các bà còn được chính Chúa Phục Sinh hiện ra. Một lần nữa, Người lại trao sứ mệnh cho các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (10).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Sau ngày Sa-bát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Lu-ca và Mác-cô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (x Lc 24,1). + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giê-su (x Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mát-thêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Mác-cô và Lu-ca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để tiếp tục công việc ướp xác Đức Giê-su (x Mc 16,1; Lc 24,1). + Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh" như câu này và ”màn Đền Thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giê-su trút linh hồn trên cây thập giá (x. Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (x Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2). + Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra ở đây có thể là do đất động, nhưng đã được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người, khi họ muốn chôn Đức Giê-su và công trình cứu độ của Người trong mồ đá (x Mt 27,66). + Diện mạo Người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (x Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (x Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giê-su cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (x Mt 17,2).
- C 4-7: + Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các Tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (x. Mt 14,26). + Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ ! + Các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã chỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là sẽ “Qua đau khổ để vào vinh quang” (x. Mt 16,21). + Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giê-su đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực. + Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Mc 16,7). Ở đây Mát-thêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành. + Và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giê-su về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và sau đó thiên thần còn cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Ga-li-lê (x Mt 26,32).
- C 8-10: + Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ mệnh được trao phó. + Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáp-ri-en chào khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x Lc 1,28). + Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giê-su (x Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng. + Chị em đừng sợ: Đây là lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang bị khiếp sợ khi phải đối diện với thần thiêng.
4. HỎI ĐÁP: Chúa PS đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời ?
ĐÁP:
Về các cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh thì các Tin Mừng không nhất trí với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết chỗi dậy. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (x Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mát-thêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Phục sinh hiện ra tại Ga-li-lê để chính thức sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (x. Mt 28,16-20).
II. Sống Lời Chúa
1. LỜI CHÚA:
Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (6b-7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) BÉ SƠ SINH ĐÃ CHẾT ĐƯỢC SỐNG LẠI NHỜ LỜI CẦU NGUYỆN:
Vào tháng 10 năm 1995, tại vùng Hồ Lớn ở miền Đông Bắc nước Mỹ, giáp ranh với Ca-na-đa, một câu chuyện xảy ra làm sửng sốt nhiều người: Một bé sơ sinh đã chết và sau đó nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ và người thân, đã được Chúa cho sống lại như sau:
Bà TAN-MƠ (Tanmer) mẹ của bé RƠ-GHEO (Reugel) xúc động, kể lại như sau: “Đây là một món quà của Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi. Khi mới mang thai Rơ-gheo, mọi chuyện đều diễn ra bình thường. Các bác sĩ đã theo dõi tôi chặt chẽ, vì cháu lớn của tôi đã từng bị chết khi vừa ra đời. Qua kết quả kiểm tra thai nhi ngay trước khi lọt lòng mẹ thì tim cháu vẫn đập bình thường. Thế nhưng chỉ ít phút sau, cháu đã ra đời trong tình trạng tim bị ngừng đập. Lập tức các bác sĩ đã tìm cách cấp cứu, nhưng sau khi làm hết cách mà vẫn không kết quả, họ đành chịu bó tay, và ra lệnh cho hộ lý vào lau rửa và bọc cháu trong một chiếc khăn lông, rồi đặt nằm trong nôi để cha mẹ và các người thân vào chào từ biệt, trước khi nhà đòn đến liệm xác cháu rồi đem đi chôn. Bấy giờ cả gia đình tôi đều rất đau khổ. Bà ngoại là người cuối cùng bế cháu trong lúc mọi người sốt sắng cầu nguyện xin Chúa cho cháu được sống lại. Ít phút sau, bà ngoại phát hiện ra cháu vừa nấc lên một cái và thở mạnh. Bà nói to trong niềm vui: “Ồ, cháu tôi đang thở rồi này !”. Tiếng cầu kinh im bặt. Mọi người hồi hộp chạy lại gần. Bấy giờ bác sĩ trực đang ở gần đó vội chạy đến dùng ống nghe kiểm tra cháu và xác nhận cháu đã thực sự sống lại rồi. Ít phút sau phòng của bé đầy ắp người. Ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến sự kiện lạ lùng này trong niềm vui hân hoan khôn xiết.
2) ĐÁNH TAN BÓNG TỐI TỘI LỖI BẰNG ÁNH SÁNG TIN YÊU:
Một hôm JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Thành Phố Los Angeles Hoa Kỳ. Đang diễn thuyết, diễn giả bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này". Sau đó đèn tắt và sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi vừa đốt lên thì hãy kêu lớn: “Đã thấy!". Sau đó một que diêm được bật lên và cả sân vận động đều vang lên tiếng hô: "Đã thấy!". Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm, cũng sẽ chiếu sáng trong bóng tối của nhân loại như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang diêm quẹt hay bật lửa, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng. Ông John Keller kết luận: "Nếu mọi người chúng ta đều hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và sự oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng nhân ái của chúng ta". Làm như thế, John Keller muốn gửi đến mọi người một sứ điệp: “Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên”. Nếu một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thì thế giới đang bị tối tăm bao trùm này sẽ bớt đi phần tăm tối. Nếu mọi tín hữu Ki-tô đều thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu bằng các việc bác ái yêu thương phục vụ tha nhân, thì thế giới này sẽ nhận biết và tin yêu Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. SUY NIỆM:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI SỰ CHẾT:
Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh, nói lên cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ bóng tối tử thần đến ánh sáng Phục Sinh. Đức Giê-su chính là Ánh Sáng như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Ánh sáng đó đã được diễn tả trong nghi thức trước thánh lễ Vọng Phục Sinh hôm nay.
Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian nhà thờ khi các ngọn đèn đều tắt hết. Sau khi Chủ Sự làm phép lửa mới ở cuối nhà thờ, Linh mục đã dùng lửa này để thắp sáng cây nến Phục Sinh, và sau đó là nghi lễ rước nến Phục Sinh. Trong cuộc rước, Chủ sự cầm nến Phục Sinh lần lượt công bố ba lần: “Ánh Sáng Chúa Kitô”. Lần thứ nhất công bố ngay sau nghi thức làm phép lửa mới và mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Lần thứ hai công bố khi Chủ sự bước vào cửa chính cuối nhà thờ, và nến Phục Sinh được rước từ cuối nhà thờ đi lên cung thánh. Chủ Sự cầm cây nến cháy sáng đi đến đâu thì sẽ mồi lửa cho người đứng ở đầu các hàng ghế, người này sẽ mồi lửa sang người bên cạnh. Ánh sáng Phục Sinh dần dần lan tỏa ra cả nhà thờ. Khi rước nến Phục Sinh tới Cung Thánh, Chủ Sự sẽ quay xuống cộng đoàn long trọng công bố lần thứ ba. Bấy giờ toàn bộ ánh sáng trong nhà thờ được bật lên. Niềm vui Phục Sinh tiếp tục được thể hiện cách đầy đủ trong bài công bố Tin Mừng Phục Sinh “Mừng Vui Lên” hay “Exultet”.
2) SỐNG ĐỨC TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:
Nhiều người chúng ta vẫn đang ở trong nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn ở lì trong con người cũ cùng với các thói hư, khiến chúng ta chưa đón nhận được niềm vui của Chúa Phục Sinh. Cuộc sống của nhiều người chúng ta còn bị đè nặng bởi sự gian dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người loan báo tin vui phục sinh cho tha nhân chung quanh. Cuộc sống của nhiều gia đình tín hữu đang bị đè nặng bởi sự cãi vã, bị trói buộc bởi những giận hờn ganh ghét ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình luôn bị căng thẳng. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi những nấm mồ tối tăm ấy, để đón nhận ánh sáng phục sinh của Chúa. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta. Thánh Thần sẽ làm cho cuộc đời chúng ta tràn ngập niềm vui Phục Sinh.
Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa đã Phục sinh với khuôn mặt buồn rầu thất vọng. Chúng ta không thể nói về Chúa phục sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu sự bao dung và cảm thông với nỗi đau của anh chị em chung quanh mình.
Cũng vậy, niềm tin Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới nếp sống của bản thân và gia đình mình, đem lại cho môi trường mình đang sống một sức sống mới. Hãy phá bỏ đi tảng đá của sự giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tin yêu của Chúa.
3) HĂNG SAY LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH CHO THA NHÂN:
Phiến đá trấn ngoài cửa mộ đã không thể cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Những băng vải và khăn liệm đã không thể trói buộc được Người tiếp tục ở trong mồ đá. Sự sống đã chiến thắng thần chết. Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối âm u. Tình yêu đã toàn thắng dù trước đó đã bị hận thù nuốt trửng ! Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được niềm vui khi gặp Chúa Phục Sinh ở bên cạnh mồ Chúa; Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp lại Chúa tại xứ Ga-li-lê. Điều quan trọng là chúng ta hãy noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la, sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã hăng hái đi báo Tin Mừng cho các Tông đồ. Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho những anh em bệnh tật, nghèo đói, những người đang bị đau khổ thất vọng và mất niềm tin ?
4. THẢO LUẬN:
Cụ thể trong mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng Chúa đã Phục Sinh cho những người bên cạnh mình?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Con chẳng có thể chứng minh được Chúa đã sống lại bằng khoa học thực nghiệm hay bằng khoa khảo cổ học… Nhưng con chỉ chứng minh được mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nhờ Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh, nhờ lời của các nhân chứng đã theo dõi cuộc khổ nạn của Chúa, và đã gặp được Chúa nhiều lần sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.
- LẠY CHÚA. Xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống đời thường của con. Nhờ đó, chúng con sẽ được vui tươi phấn khởi và sẽ nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến cho những người chung quanh chúng con, noi gương bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các Tông đô khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
St 1,1.26-31a ; Xh 14,15-15,1a ; Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Mt 28,1-10
Sống và loan báo Tin mừng Chúa Phục sinh
I. Học Lời Chúa
1. TIN MỪNG: Mt 28,1-10
(1) Sau ngày sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló dạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội, Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên. (3) Diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. (9) Và kìa Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.
2. Ý CHÍNH:
Vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác đã cùng đi thăm mồ Đức Giê-su. Nơi đây, các bà đã chứng kiến một trận động đất và cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy thiên thần hiện ra. Thiên thần đã trấn an các bà và loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su đã phục sinh. Thiên thần còn trao cho các bà sứ mệnh: hãy loan báo Tin Mừng ấy cho các tông đồ. Các bà vui vẻ thi hành và sau đó các bà còn được chính Chúa Phục Sinh hiện ra. Một lần nữa, Người lại trao sứ mệnh cho các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (10).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Sau ngày Sa-bát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Lu-ca và Mác-cô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (x Lc 24,1). + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giê-su (x Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mát-thêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Mác-cô và Lu-ca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để tiếp tục công việc ướp xác Đức Giê-su (x Mc 16,1; Lc 24,1). + Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh" như câu này và ”màn Đền Thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giê-su trút linh hồn trên cây thập giá (x. Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (x Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2). + Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra ở đây có thể là do đất động, nhưng đã được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người, khi họ muốn chôn Đức Giê-su và công trình cứu độ của Người trong mồ đá (x Mt 27,66). + Diện mạo Người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (x Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (x Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giê-su cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (x Mt 17,2).
- C 4-7: + Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các Tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (x. Mt 14,26). + Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ ! + Các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã chỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là sẽ “Qua đau khổ để vào vinh quang” (x. Mt 16,21). + Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giê-su đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực. + Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Mc 16,7). Ở đây Mát-thêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành. + Và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giê-su về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và sau đó thiên thần còn cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Ga-li-lê (x Mt 26,32).
- C 8-10: + Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ mệnh được trao phó. + Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáp-ri-en chào khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x Lc 1,28). + Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giê-su (x Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng. + Chị em đừng sợ: Đây là lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang bị khiếp sợ khi phải đối diện với thần thiêng.
4. HỎI ĐÁP: Chúa PS đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời ?
ĐÁP:
Về các cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh thì các Tin Mừng không nhất trí với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết chỗi dậy. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (x Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mát-thêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Phục sinh hiện ra tại Ga-li-lê để chính thức sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (x. Mt 28,16-20).
II. Sống Lời Chúa
1. LỜI CHÚA:
Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (6b-7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) BÉ SƠ SINH ĐÃ CHẾT ĐƯỢC SỐNG LẠI NHỜ LỜI CẦU NGUYỆN:
Vào tháng 10 năm 1995, tại vùng Hồ Lớn ở miền Đông Bắc nước Mỹ, giáp ranh với Ca-na-đa, một câu chuyện xảy ra làm sửng sốt nhiều người: Một bé sơ sinh đã chết và sau đó nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ và người thân, đã được Chúa cho sống lại như sau:
Bà TAN-MƠ (Tanmer) mẹ của bé RƠ-GHEO (Reugel) xúc động, kể lại như sau: “Đây là một món quà của Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi. Khi mới mang thai Rơ-gheo, mọi chuyện đều diễn ra bình thường. Các bác sĩ đã theo dõi tôi chặt chẽ, vì cháu lớn của tôi đã từng bị chết khi vừa ra đời. Qua kết quả kiểm tra thai nhi ngay trước khi lọt lòng mẹ thì tim cháu vẫn đập bình thường. Thế nhưng chỉ ít phút sau, cháu đã ra đời trong tình trạng tim bị ngừng đập. Lập tức các bác sĩ đã tìm cách cấp cứu, nhưng sau khi làm hết cách mà vẫn không kết quả, họ đành chịu bó tay, và ra lệnh cho hộ lý vào lau rửa và bọc cháu trong một chiếc khăn lông, rồi đặt nằm trong nôi để cha mẹ và các người thân vào chào từ biệt, trước khi nhà đòn đến liệm xác cháu rồi đem đi chôn. Bấy giờ cả gia đình tôi đều rất đau khổ. Bà ngoại là người cuối cùng bế cháu trong lúc mọi người sốt sắng cầu nguyện xin Chúa cho cháu được sống lại. Ít phút sau, bà ngoại phát hiện ra cháu vừa nấc lên một cái và thở mạnh. Bà nói to trong niềm vui: “Ồ, cháu tôi đang thở rồi này !”. Tiếng cầu kinh im bặt. Mọi người hồi hộp chạy lại gần. Bấy giờ bác sĩ trực đang ở gần đó vội chạy đến dùng ống nghe kiểm tra cháu và xác nhận cháu đã thực sự sống lại rồi. Ít phút sau phòng của bé đầy ắp người. Ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến sự kiện lạ lùng này trong niềm vui hân hoan khôn xiết.
2) ĐÁNH TAN BÓNG TỐI TỘI LỖI BẰNG ÁNH SÁNG TIN YÊU:
Một hôm JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Thành Phố Los Angeles Hoa Kỳ. Đang diễn thuyết, diễn giả bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này". Sau đó đèn tắt và sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi vừa đốt lên thì hãy kêu lớn: “Đã thấy!". Sau đó một que diêm được bật lên và cả sân vận động đều vang lên tiếng hô: "Đã thấy!". Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm, cũng sẽ chiếu sáng trong bóng tối của nhân loại như vậy".
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang diêm quẹt hay bật lửa, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng. Ông John Keller kết luận: "Nếu mọi người chúng ta đều hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và sự oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng nhân ái của chúng ta". Làm như thế, John Keller muốn gửi đến mọi người một sứ điệp: “Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên”. Nếu một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thì thế giới đang bị tối tăm bao trùm này sẽ bớt đi phần tăm tối. Nếu mọi tín hữu Ki-tô đều thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu bằng các việc bác ái yêu thương phục vụ tha nhân, thì thế giới này sẽ nhận biết và tin yêu Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. SUY NIỆM:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI SỰ CHẾT:
Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh, nói lên cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ bóng tối tử thần đến ánh sáng Phục Sinh. Đức Giê-su chính là Ánh Sáng như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Ánh sáng đó đã được diễn tả trong nghi thức trước thánh lễ Vọng Phục Sinh hôm nay.
Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian nhà thờ khi các ngọn đèn đều tắt hết. Sau khi Chủ Sự làm phép lửa mới ở cuối nhà thờ, Linh mục đã dùng lửa này để thắp sáng cây nến Phục Sinh, và sau đó là nghi lễ rước nến Phục Sinh. Trong cuộc rước, Chủ sự cầm nến Phục Sinh lần lượt công bố ba lần: “Ánh Sáng Chúa Kitô”. Lần thứ nhất công bố ngay sau nghi thức làm phép lửa mới và mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Lần thứ hai công bố khi Chủ sự bước vào cửa chính cuối nhà thờ, và nến Phục Sinh được rước từ cuối nhà thờ đi lên cung thánh. Chủ Sự cầm cây nến cháy sáng đi đến đâu thì sẽ mồi lửa cho người đứng ở đầu các hàng ghế, người này sẽ mồi lửa sang người bên cạnh. Ánh sáng Phục Sinh dần dần lan tỏa ra cả nhà thờ. Khi rước nến Phục Sinh tới Cung Thánh, Chủ Sự sẽ quay xuống cộng đoàn long trọng công bố lần thứ ba. Bấy giờ toàn bộ ánh sáng trong nhà thờ được bật lên. Niềm vui Phục Sinh tiếp tục được thể hiện cách đầy đủ trong bài công bố Tin Mừng Phục Sinh “Mừng Vui Lên” hay “Exultet”.
2) SỐNG ĐỨC TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:
Nhiều người chúng ta vẫn đang ở trong nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn ở lì trong con người cũ cùng với các thói hư, khiến chúng ta chưa đón nhận được niềm vui của Chúa Phục Sinh. Cuộc sống của nhiều người chúng ta còn bị đè nặng bởi sự gian dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người loan báo tin vui phục sinh cho tha nhân chung quanh. Cuộc sống của nhiều gia đình tín hữu đang bị đè nặng bởi sự cãi vã, bị trói buộc bởi những giận hờn ganh ghét ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình luôn bị căng thẳng. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi những nấm mồ tối tăm ấy, để đón nhận ánh sáng phục sinh của Chúa. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta. Thánh Thần sẽ làm cho cuộc đời chúng ta tràn ngập niềm vui Phục Sinh.
Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa đã Phục sinh với khuôn mặt buồn rầu thất vọng. Chúng ta không thể nói về Chúa phục sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu sự bao dung và cảm thông với nỗi đau của anh chị em chung quanh mình.
Cũng vậy, niềm tin Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới nếp sống của bản thân và gia đình mình, đem lại cho môi trường mình đang sống một sức sống mới. Hãy phá bỏ đi tảng đá của sự giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tin yêu của Chúa.
3) HĂNG SAY LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH CHO THA NHÂN:
Phiến đá trấn ngoài cửa mộ đã không thể cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Những băng vải và khăn liệm đã không thể trói buộc được Người tiếp tục ở trong mồ đá. Sự sống đã chiến thắng thần chết. Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối âm u. Tình yêu đã toàn thắng dù trước đó đã bị hận thù nuốt trửng ! Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được niềm vui khi gặp Chúa Phục Sinh ở bên cạnh mồ Chúa; Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp lại Chúa tại xứ Ga-li-lê. Điều quan trọng là chúng ta hãy noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la, sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã hăng hái đi báo Tin Mừng cho các Tông đồ. Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho những anh em bệnh tật, nghèo đói, những người đang bị đau khổ thất vọng và mất niềm tin ?
4. THẢO LUẬN:
Cụ thể trong mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng Chúa đã Phục Sinh cho những người bên cạnh mình?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Con chẳng có thể chứng minh được Chúa đã sống lại bằng khoa học thực nghiệm hay bằng khoa khảo cổ học… Nhưng con chỉ chứng minh được mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nhờ Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh, nhờ lời của các nhân chứng đã theo dõi cuộc khổ nạn của Chúa, và đã gặp được Chúa nhiều lần sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.
- LẠY CHÚA. Xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống đời thường của con. Nhờ đó, chúng con sẽ được vui tươi phấn khởi và sẽ nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh đến cho những người chung quanh chúng con, noi gương bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các Tông đô khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục sinh
Lm Đan Vinh
05:31 14/04/2017
Chúa nhật Phục Sinh Lễ ngày
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục sinh
I. Học Lời Chúa
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ?
2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ?
3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ?
4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ?
6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ?
8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ?
9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn tệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục sinh
I. Học Lời Chúa
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ?
2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ?
3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ?
4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ?
6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ?
8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ?
9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn tệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
Bảy lời sau cùng của Chúa Giêsu
Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
08:10 14/04/2017
Bảy lời sau cùng của Chúa Giesu
Trên thập gía trước khi qua đời, Chúa Giêsu đã nói những lời sau cùng. Phúc âm theo Thánh Mattheo và thánh Maccô thuật chỉ có một lời, đang khi Phúc âm theo Thánh Luca thuật lại ba lời, và phúc âm theo Thánh Gioan thuật lại thêm ba lời. Cộng chung lại có tất cả bảy lời của Chúa nói trên thập gía.
1. „ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.“ Lc 23,34
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vào giây phút sau cùng trước khi chết cho bạn hữu , cho cả kẻ thù nghịch giết mình, cho kẻ không tin chấp nhận Chúa và kẻ ghét hận thù Chúa. Lời cầu nguyện xin ơn tha thứ làm hòa bao trùm cho quan tòa xử án , cho lính tráng thi hành bản án đóng đinh Chúa vào thập gía. Và cho cả những người đạo đức không sao hiểu nổi được tại sao Chúa lại để bị xử như thế.
2. „ Ngay hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.“ Lc 23,43
Như thế Chúa Giêsu chấp nhận lòng chân thành của tên trộm cùng bị xử án đóng vào thập gía với Chúa. Người trộm này đã thành thật nhận tội lỗi việc làm bất chính của mình, đồng thời công nhận tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, xin Ngài tha thứ cho và nhớ đến mình.
Người „ trộm lành“ này đã được Chúa Giêsu không chỉ cho vào Thiên đàng sau khi chết, mà còn như được Chúa phong Thánh cho nữa. Nên Giáo Hội Chính Thống tin như vậy, và họ lập một bàn thờ trong đền thờ mộ Chúa Giêsu sống lại ở Gierusalem, tôn kính vị Thánh trộm lành này.
3. „ Thưa bà, đây là con bà / Đây là mẹ của con.“ Ga 19,26
Mẹ Maria đã cùng theo sát con đường vác thập gía của con mình đến tận đồi Golgotha, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía. Ngày xưa Mẹ Maria đã cưu mang trong cung lòng mình Chúa Giêsu, rồi trong suốt quãng đường hơn 30 năm, mẹ Maria đã lo lắng chăm sóc nuôi Chúa Giêsu con mình, và giờ phút chót đau khổ sau cùng đời sống con mình, mẹ Maria cũng có mặt sát bên con mình. Không phải chỉ trong tinh thần, nhưng mẹ Maria đến đứng ngay sát dưới chân thập gía Chúa Giêsu.
Thấy mẹ mình, lòng hiếu thảo nơi con người Chúa Giêsu đã bừng dậy. Và Chúa đã tin tưởng trao dối nhiệm vụ cho Thánh Gioan, môn đệ Chúa cũng đang đứng đó : Anh hãy làm công việc lo săn sóc cho mẹ của tôi. Mẹ của tôi cũng là mẹ của anh.
4. Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, sao Chúa nỡ bỏ rơi con? Mc 15,34, Mt 27,46
Những lời than thở này bằng tiếng Aramien thời Chúa Giêsu: Eli, eli lema sabachthani? Lời này là lời cầu xin than van trong Thánh Vịnh 22,2 về sự bị Chúa bỏ rơi cô đơn. Lời cầu nguyện than thở này đồng thời nói lên tâm tình Thiên Chúa không quên ai khi kêu cầu với Người.
5. “ Tôi khát“ Ga 19,28
Chúa Giêsu trong cơn đau khổ đã xin sự giúp đỡ. Đói và khát lả nhu cầu căn bản của đời sống. Người đang hấp hối quằn quại trong đau khổ. Chúa khát nước cũng còn nói lên: Có biết bao nhiêu người cũng đang đói khát như Ngài, thực phẩm nước uống, nhất là thực phẩm nước uống tinh thần đức tin.
6. „ Thế là đã hoàn tất“ Ga 19,30
Sau trận chiến thắng, vị chỉ huy chiến dịch nói báo cáo với cấp trên“ sứ mạng đã hoàn tất“. Chúa Giêsu nói lời này là một người chiến thắng. Nhưng không là người chiến thắng được người khác đến bắt tay chúc mừng.
Chiến thắng của Người là tình yêu người mang đến cho con người đã đạt đến đích điểm. Hoàn tất những gì mang đến sự sống cho con người bị kết án phải chết vì tội lỗi. Ý muốn của đức Chúa Cha đã được thực hiện viên mãn. Sự cứu độ đã được thực hiện hoàn tất trọn vẹn trên thập gía.
7. Lạy Cha, con phó dâng linh hồn con trong tay Cha.“ Lc 23,46
Cái chết của Chúa Giesu trên thạp gía là sự chiến thắng của Thiên Chúa. Lời này Chúa Giêsu ở trong Thánh Vịnh 31,6 của Vua thánh David chỉ về tương lai cứu độ. Thiên Chúa che chở gìn giữ những kẻ trung thành tin tưởng nơi Ngài. Nước thiên đàng mở ra cho những người như thế.
Chúa Giêsu chịu đau khổ và sau cùng chết là một người Do Thái đạo đức. Bảy lời sau cùng của Chúa là bằng chứng lịch sử cho sự chết này.
Những người đứng chung quanh dưới chân thập gía Chúa Giêsu năm xưa đã tận tai nghe những lời này.
Họ là mẹ Maria cùng những người phụ nữ khác, đã không chạy ra xa trốn khỏi đồi Golgotha. Không gian khu đồi Golgotha và bức tường thành bao vây xung quanh đền thờ Gierusalem, những người lính canh và những kẻ tò mò, đều đã nghe tiếng những lời này vọng đến.
Thánh Gioan tông đồ của Chúa, người sau này đã viết phúc âm, đã tận mắt nhìn thấy những sự việc đã xảy ra và đã nghe, là nhân chứng thân thiết sống động về biến cố này.
Và cả Ông Nicodemo và Ông Giuse thành Arimathia, họ đã tháo gỡ thân xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập gía, rồi mang an táng trong mộ huyệt đá ở khu vườn gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, cũng là những người đã thấy, đã nghe và làm chứng về những lời sau cùng của Chúa Giêsu.
Những lời ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu từ hơn hai ngàn năm nay vẫn luôn để lại cho con người trẩn gian.i Đó là những lời tình yêu, lời mang lại sự sống cho linh hồn con người.
Thứ sáu tuần thánh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trên thập gía trước khi qua đời, Chúa Giêsu đã nói những lời sau cùng. Phúc âm theo Thánh Mattheo và thánh Maccô thuật chỉ có một lời, đang khi Phúc âm theo Thánh Luca thuật lại ba lời, và phúc âm theo Thánh Gioan thuật lại thêm ba lời. Cộng chung lại có tất cả bảy lời của Chúa nói trên thập gía.
1. „ Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.“ Lc 23,34
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu vào giây phút sau cùng trước khi chết cho bạn hữu , cho cả kẻ thù nghịch giết mình, cho kẻ không tin chấp nhận Chúa và kẻ ghét hận thù Chúa. Lời cầu nguyện xin ơn tha thứ làm hòa bao trùm cho quan tòa xử án , cho lính tráng thi hành bản án đóng đinh Chúa vào thập gía. Và cho cả những người đạo đức không sao hiểu nổi được tại sao Chúa lại để bị xử như thế.
2. „ Ngay hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.“ Lc 23,43
Như thế Chúa Giêsu chấp nhận lòng chân thành của tên trộm cùng bị xử án đóng vào thập gía với Chúa. Người trộm này đã thành thật nhận tội lỗi việc làm bất chính của mình, đồng thời công nhận tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, xin Ngài tha thứ cho và nhớ đến mình.
Người „ trộm lành“ này đã được Chúa Giêsu không chỉ cho vào Thiên đàng sau khi chết, mà còn như được Chúa phong Thánh cho nữa. Nên Giáo Hội Chính Thống tin như vậy, và họ lập một bàn thờ trong đền thờ mộ Chúa Giêsu sống lại ở Gierusalem, tôn kính vị Thánh trộm lành này.
3. „ Thưa bà, đây là con bà / Đây là mẹ của con.“ Ga 19,26
Mẹ Maria đã cùng theo sát con đường vác thập gía của con mình đến tận đồi Golgotha, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía. Ngày xưa Mẹ Maria đã cưu mang trong cung lòng mình Chúa Giêsu, rồi trong suốt quãng đường hơn 30 năm, mẹ Maria đã lo lắng chăm sóc nuôi Chúa Giêsu con mình, và giờ phút chót đau khổ sau cùng đời sống con mình, mẹ Maria cũng có mặt sát bên con mình. Không phải chỉ trong tinh thần, nhưng mẹ Maria đến đứng ngay sát dưới chân thập gía Chúa Giêsu.
Thấy mẹ mình, lòng hiếu thảo nơi con người Chúa Giêsu đã bừng dậy. Và Chúa đã tin tưởng trao dối nhiệm vụ cho Thánh Gioan, môn đệ Chúa cũng đang đứng đó : Anh hãy làm công việc lo săn sóc cho mẹ của tôi. Mẹ của tôi cũng là mẹ của anh.
4. Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa, sao Chúa nỡ bỏ rơi con? Mc 15,34, Mt 27,46
Những lời than thở này bằng tiếng Aramien thời Chúa Giêsu: Eli, eli lema sabachthani? Lời này là lời cầu xin than van trong Thánh Vịnh 22,2 về sự bị Chúa bỏ rơi cô đơn. Lời cầu nguyện than thở này đồng thời nói lên tâm tình Thiên Chúa không quên ai khi kêu cầu với Người.
5. “ Tôi khát“ Ga 19,28
Chúa Giêsu trong cơn đau khổ đã xin sự giúp đỡ. Đói và khát lả nhu cầu căn bản của đời sống. Người đang hấp hối quằn quại trong đau khổ. Chúa khát nước cũng còn nói lên: Có biết bao nhiêu người cũng đang đói khát như Ngài, thực phẩm nước uống, nhất là thực phẩm nước uống tinh thần đức tin.
6. „ Thế là đã hoàn tất“ Ga 19,30
Sau trận chiến thắng, vị chỉ huy chiến dịch nói báo cáo với cấp trên“ sứ mạng đã hoàn tất“. Chúa Giêsu nói lời này là một người chiến thắng. Nhưng không là người chiến thắng được người khác đến bắt tay chúc mừng.
Chiến thắng của Người là tình yêu người mang đến cho con người đã đạt đến đích điểm. Hoàn tất những gì mang đến sự sống cho con người bị kết án phải chết vì tội lỗi. Ý muốn của đức Chúa Cha đã được thực hiện viên mãn. Sự cứu độ đã được thực hiện hoàn tất trọn vẹn trên thập gía.
7. Lạy Cha, con phó dâng linh hồn con trong tay Cha.“ Lc 23,46
Cái chết của Chúa Giesu trên thạp gía là sự chiến thắng của Thiên Chúa. Lời này Chúa Giêsu ở trong Thánh Vịnh 31,6 của Vua thánh David chỉ về tương lai cứu độ. Thiên Chúa che chở gìn giữ những kẻ trung thành tin tưởng nơi Ngài. Nước thiên đàng mở ra cho những người như thế.
Chúa Giêsu chịu đau khổ và sau cùng chết là một người Do Thái đạo đức. Bảy lời sau cùng của Chúa là bằng chứng lịch sử cho sự chết này.
Những người đứng chung quanh dưới chân thập gía Chúa Giêsu năm xưa đã tận tai nghe những lời này.
Họ là mẹ Maria cùng những người phụ nữ khác, đã không chạy ra xa trốn khỏi đồi Golgotha. Không gian khu đồi Golgotha và bức tường thành bao vây xung quanh đền thờ Gierusalem, những người lính canh và những kẻ tò mò, đều đã nghe tiếng những lời này vọng đến.
Thánh Gioan tông đồ của Chúa, người sau này đã viết phúc âm, đã tận mắt nhìn thấy những sự việc đã xảy ra và đã nghe, là nhân chứng thân thiết sống động về biến cố này.
Và cả Ông Nicodemo và Ông Giuse thành Arimathia, họ đã tháo gỡ thân xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập gía, rồi mang an táng trong mộ huyệt đá ở khu vườn gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh, cũng là những người đã thấy, đã nghe và làm chứng về những lời sau cùng của Chúa Giêsu.
Những lời ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu từ hơn hai ngàn năm nay vẫn luôn để lại cho con người trẩn gian.i Đó là những lời tình yêu, lời mang lại sự sống cho linh hồn con người.
Thứ sáu tuần thánh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ông đã thấy và đã tin mầu nhiệm Chúa Phục Sinh
LM. Đan Vinh
08:12 14/04/2017
HIỆP SỐNG TIN MỪNG : CN LỄ NGÀY PHỤC SINH ABC
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Simon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. +sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). + Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2: + Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. + Và người môn đệ thương mến: Cách nói “môn đệ được thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình. + Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mồ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4: + Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông. + Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. + Nhưng không vào: Gioa-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi. + Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mồ.
- C 7-9: + Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả ! + Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước tới ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại từ cõi chết (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ? 2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau như thế nào ? 3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ? 4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ? 6) Hành động chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông như thế nào ? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ? 8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ? 9) Khi thấy hiện tượng mồ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên thi hành sứ mệnh rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ mệnh, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ mệnh đó”.
2) ĐƯỢC PHỤC SINH NHỜ SỐNG THEO LỜI CHÚA DẠY:
Cuốn phim “Chiếc cầu sông Quai” diễn tả câu chuyện phục sinh tại một trại tù như sau:
Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên những con người độc ác. Họ cư xử với nhau bằng luật rừng « Mạnh được yếu thua », trộm cắp, nghi ngờ và làm tay sai chỉ điểm nhau cho bọn lính cai tù.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình thành một nhóm học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với nỗi đau của họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vả, đã từng chịu cảnh đói khát mệt mỏi, đã từng bị môn đệ phản bội và đã từng bị bọn lính Rô-ma đánh đòn... Từ đó, tất cả những lời Đức Giê-su nói và những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với các tù nhân. Họ không còn nghĩ mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng đối xử với nhau bằng tình thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại tù thỉnh thoảng có những tiếng hát vui tươi thay cho sự thinh lặng căng thẳng, giống như sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Nói cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù chính là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trộm cắp. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì tìm cách chỉ điểm làm hại lẫn nhau.
3) TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT:
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
1) LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như do lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mồ than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
2) LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đạt đến đức tin trước Tông đồ Phê-rô (x Ga 20,8).
3) LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA TỘI VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN MỤC TỬ:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su có lần đã đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Phê-rô thường đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32).
Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Bị trách khi quá tự tin vào mình (x Mt 26,33-35). Nhất là đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75). Nhưng bù lại ông cũng có lòng yêu mến Thầy hơn mọi người. Lòng mến của Phê-rô thể hiện qua việc dứt khoát bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông tỏ ra can đảm khi rút gươm ra chém tên đầy tớ của thượng tế để bảo vệ Thầy (x Ga 18,10). Ông đi theo Gio-an để theo dõi diễn tiến cảnh Thượng Hội Đồng xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy đã sống lại chứ không bị trộm xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an quả quyết người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao sứ mệnh chăn dắt chiên con chiên mẹ và đàn chiên Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Lúc cuối đời ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
4) GIÁ TRỊ CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, đi ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ mệnh loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến đã làm cho Gio-an nhận ra Thầy trước các anh em và thấy được ý nghĩa các sự kiện của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó với Thầy, hy sinh mọi sự để theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã mau hồi tâm sám hối và được Thầy tín nhiệm trao sứ mệnh làm Đá Tảng đức tin, củng cố đức tin cho anh em (x Lc 22,32), và còn được trao quyền chăn dắt đàn chiên Hội Thánh.
Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại giữa đời thường. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng sẽ được loan báo đi khắp thế gian.
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ ban ơn giải cứu và giúp bạn được ơn trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
Ý nghiã mầu nhiệm Chúa Phục Sinh
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
08:14 14/04/2017
Ý NGHĨA MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
Là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của Kitô giáo, chắn hẳn mầu nhiệm Chúa Phục sinh cần phải được nghiên cứu, học hỏi nhiều hơn cả. Thế mà khi thử hỏi một tín hữu rằng: Chúa Phục sinh nghĩa là gì thì e rằng vẫn còn đó nhiều Kitô hữu lúng túng. Đã từng hỏi thiếu nhi câu hỏi ấy và chúng đơn sơ buộc miệng trả lời: Chúa Phục sinh nghĩa là Chúa sống lại. Và khi hỏi lại Chúa sống lại nghĩa là gì thì được câu trả lời rằng Chúa sống lại nghĩa là Chúa Phục sinh.
Các giảng viên giáo lý hay các sinh viên thần học thì có thể trả lời rành mạch rằng Chúa Phục sinh nghĩa là Chúa chỗi dậy khỏi thế giới người chết vào ngày thứ ba, sau khi đã chịu khổ nạn, đã chết thật và được mai táng. Chúa chỗi dậy cũng với thân xác ấy, mang đầy thương tích, nhưng là thân xác đã được biến đổi, được thần hoá nên không còn lệ thuộc các điều kiện thời gian và không gian. Điều này được Thánh Kinh, đặc biệt là các Tin mừng minh chứng.
Đây là một dữ kiện khó chấp nhận với người chưa có đức tin, nhất là với những người quá “duy lý”. Tuy nhiên với người có niềm tin, khi đón nhận mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thì vẫn không phi lý, vì họ đón nhận nó trên lời chứng của các Tông đồ và các môn đệ, những người đã thực sự thay đổi cuộc sống và đã can đảm đổ máu đào ra để minh chứng, một cách khó lý giải theo luận lý bình thường. Phải có cái gì đó khiến cho không chỉ một vài người mà cả một tập thể nhát đảm, đầy tham lam và ích kỷ đã trở nên kiên cường và quảng đại khác thường. Đó chính là mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
Đâu là ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh? Việc Chúa Phục sinh xác nhận thần tính của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã sống lại như lời Người đã tiên báo, ít là ba lần trong thời gian rao giảng tin mừng. Chỉ có Thiên Chúa mới làm chủ được sự sống, sự chết. Việc chỗi dậy từ cõi chết đã minh chứng cách hùng hồn Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Là Thiên Chúa thật nên những gì Người nói đều là chân thật, không thể sai lầm. Dù thời gian có qua đi thì lời của Người mãi là ánh sáng dẫn đường chúng ta đi về cõi phúc thật. Là Thiên Chúa thật thì Chúa Kitô chính là nguyên lý của hạnh phúc và sự sống đời đời của tất cả mọi người. Chính nhờ Người mà mọi vật mọi loài được tạo thành thì cũng chính nhờ Người mà muôn người và muôn vật đạt đến sự viên mãn.
Mầu nhiệm Chúa Phục sinh còn nhắc nhớ chúng ta rằng cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý. Con người được dựng nên không phải cho đời này mà là cho vĩnh cữu. Tuy nhiên cái vĩnh cửu lại được bắt đầu và xây dựng từ những cái ở đời này. Những cái ở đời này sẽ không mất đi nhưng sẽ được biến đổi. Được biến đổi ra như thế nào là tuỳ thái độ sống của mỗi người chúng ta. Và Chúa Kitô đã cho chúng ta chiếc chìa khoá để biến đổi những sự bình thường và cả tầm thường ở đời này thành phi thường, thành bất diệt, đó là tấm lòng của chúng ta, là tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân, đặc biệt dành cho những người bé mọn (x.Mt 25, 31-46).
Chúa đã phục sinh nghĩa là Chúa đang sống, đang đồng hành với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế để chúng ta có thể cùng với Người, nhờ Người và trong Người, sống đạo yêu thương. “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông” (Mc 16,7). Lời của Thiên sứ năm xưa nhắn bảo các phụ nữ một lần nữa nhắc nhớ chúng ta rằng hãy mở mắt, mở tai, mở trí, mở lòng để nhận ra Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta ngay trong đời thường, với chuyện cơm áo, gạo tiền, chuyện con cái, gia đình, chuyện non sông, xã hội… Như Phaolô trên đường đi Đamát, nhiều người đã gặp Chúa Phục sinh và cuộc đời của họ đã thay đổi cách phi thường.
Chúa Phục sinh sẵn sàng tỏ mình cho bất cứ ai. Vấn đề còn lại là ở thái độ của chúng ta. “Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7). Thực ra vẫn có đó nhiều người không dám xin, không dám tìm hay gõ cửa, hoặc có xin, tìm, hay gõ cửa nhưng không thực tâm, không hết lòng vì nhiều lý do, trong đó có lý do này: sợ phải đổi thay, sợ nên tốt hơn. Muốn thay đổi, nên tốt hơn thì phải bỏ mình, phải vác thập giá hằng ngày, một chân lý không có luật trừ, vì ngay cả Đấng Cứu Độ cũng phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang (x.Lc 24,26).
Mùa chay đã chấm dứt. Mùa Phục Sinh lại bắt đầu. Các lễ nghi Phụng vụ bên ngoài như trở lại với cách kiểu bình thường, chỉ thêm Kinh Vinh danh trong ngày Chúa Nhật và câu tung hô Allêluia. Quả là phí công, mất sức cũng như có nhiều sự phí phạm trong việc tổ chức “lễ lạc” mừng Chúa Phục Sinh, nếu giả như mỗi người chúng ta không thực tâm và quyết tâm muốn nên tốt hơn, thánh thiện hơn. Vì chưng, dù có hát trăm lần câu Hallêluia Chúa đã sống lại thì chuyện đâu lại hoàn đấy, bởi một lẽ dễ hiểu đó là chúng ta chưa thực sự gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của Kitô giáo, chắn hẳn mầu nhiệm Chúa Phục sinh cần phải được nghiên cứu, học hỏi nhiều hơn cả. Thế mà khi thử hỏi một tín hữu rằng: Chúa Phục sinh nghĩa là gì thì e rằng vẫn còn đó nhiều Kitô hữu lúng túng. Đã từng hỏi thiếu nhi câu hỏi ấy và chúng đơn sơ buộc miệng trả lời: Chúa Phục sinh nghĩa là Chúa sống lại. Và khi hỏi lại Chúa sống lại nghĩa là gì thì được câu trả lời rằng Chúa sống lại nghĩa là Chúa Phục sinh.
Các giảng viên giáo lý hay các sinh viên thần học thì có thể trả lời rành mạch rằng Chúa Phục sinh nghĩa là Chúa chỗi dậy khỏi thế giới người chết vào ngày thứ ba, sau khi đã chịu khổ nạn, đã chết thật và được mai táng. Chúa chỗi dậy cũng với thân xác ấy, mang đầy thương tích, nhưng là thân xác đã được biến đổi, được thần hoá nên không còn lệ thuộc các điều kiện thời gian và không gian. Điều này được Thánh Kinh, đặc biệt là các Tin mừng minh chứng.
Đây là một dữ kiện khó chấp nhận với người chưa có đức tin, nhất là với những người quá “duy lý”. Tuy nhiên với người có niềm tin, khi đón nhận mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thì vẫn không phi lý, vì họ đón nhận nó trên lời chứng của các Tông đồ và các môn đệ, những người đã thực sự thay đổi cuộc sống và đã can đảm đổ máu đào ra để minh chứng, một cách khó lý giải theo luận lý bình thường. Phải có cái gì đó khiến cho không chỉ một vài người mà cả một tập thể nhát đảm, đầy tham lam và ích kỷ đã trở nên kiên cường và quảng đại khác thường. Đó chính là mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
Đâu là ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh? Việc Chúa Phục sinh xác nhận thần tính của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã sống lại như lời Người đã tiên báo, ít là ba lần trong thời gian rao giảng tin mừng. Chỉ có Thiên Chúa mới làm chủ được sự sống, sự chết. Việc chỗi dậy từ cõi chết đã minh chứng cách hùng hồn Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Là Thiên Chúa thật nên những gì Người nói đều là chân thật, không thể sai lầm. Dù thời gian có qua đi thì lời của Người mãi là ánh sáng dẫn đường chúng ta đi về cõi phúc thật. Là Thiên Chúa thật thì Chúa Kitô chính là nguyên lý của hạnh phúc và sự sống đời đời của tất cả mọi người. Chính nhờ Người mà mọi vật mọi loài được tạo thành thì cũng chính nhờ Người mà muôn người và muôn vật đạt đến sự viên mãn.
Mầu nhiệm Chúa Phục sinh còn nhắc nhớ chúng ta rằng cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý. Con người được dựng nên không phải cho đời này mà là cho vĩnh cữu. Tuy nhiên cái vĩnh cửu lại được bắt đầu và xây dựng từ những cái ở đời này. Những cái ở đời này sẽ không mất đi nhưng sẽ được biến đổi. Được biến đổi ra như thế nào là tuỳ thái độ sống của mỗi người chúng ta. Và Chúa Kitô đã cho chúng ta chiếc chìa khoá để biến đổi những sự bình thường và cả tầm thường ở đời này thành phi thường, thành bất diệt, đó là tấm lòng của chúng ta, là tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân, đặc biệt dành cho những người bé mọn (x.Mt 25, 31-46).
Chúa đã phục sinh nghĩa là Chúa đang sống, đang đồng hành với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế để chúng ta có thể cùng với Người, nhờ Người và trong Người, sống đạo yêu thương. “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông” (Mc 16,7). Lời của Thiên sứ năm xưa nhắn bảo các phụ nữ một lần nữa nhắc nhớ chúng ta rằng hãy mở mắt, mở tai, mở trí, mở lòng để nhận ra Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta ngay trong đời thường, với chuyện cơm áo, gạo tiền, chuyện con cái, gia đình, chuyện non sông, xã hội… Như Phaolô trên đường đi Đamát, nhiều người đã gặp Chúa Phục sinh và cuộc đời của họ đã thay đổi cách phi thường.
Chúa Phục sinh sẵn sàng tỏ mình cho bất cứ ai. Vấn đề còn lại là ở thái độ của chúng ta. “Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7). Thực ra vẫn có đó nhiều người không dám xin, không dám tìm hay gõ cửa, hoặc có xin, tìm, hay gõ cửa nhưng không thực tâm, không hết lòng vì nhiều lý do, trong đó có lý do này: sợ phải đổi thay, sợ nên tốt hơn. Muốn thay đổi, nên tốt hơn thì phải bỏ mình, phải vác thập giá hằng ngày, một chân lý không có luật trừ, vì ngay cả Đấng Cứu Độ cũng phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang (x.Lc 24,26).
Mùa chay đã chấm dứt. Mùa Phục Sinh lại bắt đầu. Các lễ nghi Phụng vụ bên ngoài như trở lại với cách kiểu bình thường, chỉ thêm Kinh Vinh danh trong ngày Chúa Nhật và câu tung hô Allêluia. Quả là phí công, mất sức cũng như có nhiều sự phí phạm trong việc tổ chức “lễ lạc” mừng Chúa Phục Sinh, nếu giả như mỗi người chúng ta không thực tâm và quyết tâm muốn nên tốt hơn, thánh thiện hơn. Vì chưng, dù có hát trăm lần câu Hallêluia Chúa đã sống lại thì chuyện đâu lại hoàn đấy, bởi một lẽ dễ hiểu đó là chúng ta chưa thực sự gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Canh thức với Chúa trong vườn Giệtsimani tối 13/04/2017
VietCatholic Network
00:01 14/04/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Lúc 8h sáng thứ Năm 13 tháng Tư, tại nhà thờ Mộ Thánh, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa là Giám Quản Tòa Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ Giêrusalem đã cử hành thánh lễ Tiệc Ly ngày thứ Năm Tuần Thánh.
Cùng đồng tế với ngài có Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Lazzarotto là khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và hơn 200 linh mục.
Trong Thánh Lễ, Đức Thượng Phụ cũng lặp lại nghi thức rửa chân. Sau đó, ngài làm phép các loại dầu thánh cho các bệnh nhân và cho các tân tòng, và dầu thánh hiến.
Lễ kỷ niệm kết thúc với một cuộc rước dài với tất cả các vị đồng tế đi quanh mộ Chúa trong tiếng nhạc kawas và âm thanh trầm buồn của bình ca.
Theo thỏa ước Nguyên Trạng, hôm nay là ngày các linh mục tu sĩ dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa được giữ chìa khóa để mở cửa đền thờ Mộ Thánh cho buổi chầu Thánh Thể tổ chức lúc 2:45 chiều.
Lúc 9 giờ tối, cha Francesco Patton là Custos tức là trưởng đoàn hiệp sĩ Thánh Mộ đã chủ sự đêm canh thức cùng với Chúa Giêsu tại vườn Giệtsimani.
Đức Thánh Cha chủ sự lễ tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô
Lm. Trần Đức Anh OP
11:54 14/04/2017
VATICAN. Lúc 5 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh 14-4-2017, ĐTC Phanxicô đã chủ sự nghi thức trọng thể tại Đền thờ Thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của hơn 8 ngàn tín hữu, đông đảo các Hồng Y, GM, và hàng trăm chức sắc khác.
Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã diễn giảng về đề tài ”Hỡi Thập Giá, nguồn hy vọng duy nhất của thế giới”. Cha nhắc đến tình trạng bạo lực và lầm than của thế giới: ”Những tin tức về chết chóc, và những cái chết bạo lực hầu như không bao giờ thiếu trong các bản tin mỗi buổi tối!”. Nhưng có một cái chết cách đây 2 ngàn năm đã thay đổi vĩnh viễn khuôn mặt của cái chết và đã mang lại một ý nghĩa mới cho các chết của mỗi người”.
Vị Giảng thuyết cũng nhận xét rằng: Khi Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, ngài đã đánh đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ. Trước câu hỏi ”với quyền bính nào ông làm như thế?”, Chúa đáp: ”Hãy phá hủy đền thờ này đi, trong 3 ngày tôi sẽ làm xây lại đền thờ”. Thánh Gioan giải thích ”Ngài nói về đền thờ thân thể của Ngài” (Ga 2,19.21). Chính từ đền thờ ấy, như ngôn sứ Ezechiel đã nói đến, một tia nước đã vọt ra, rồi trở thành một suối, rồi thành con sông lớn tàu bè di chuyển được và quanh đó mọi hình thức sự sống tươi nở (Xc 47,1ss).
Từ những ý tưởng trên đây, Cha Cantalamessa đã nói đến sự lạc quan không thể đè nén của Kitô giáo, giữa bao nhiêu những thăng trầm của thế giới. Vì thế, không ai được tuyệt vọng, không ai được nói như Cain: ”Tội lỗi của tôi quá lớn không thể được tha thứ” (St 4,13). ”Thập giá không đứng đó để chống lại thế giới, nhưng vì thế giới: để mang lại một ý nghĩa cho tất cả những đau khổ, đã, đang và sẽ hiện diện trong lịch sử nhân loại. Như Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô: ”Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến trần thế để kết án thế gian, nhưng để thế gian được cứu thoát nhờ Ngài” (Ga 3,17).
Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ. Sau cùng 120 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. (SD 14-4-2017)
Vị Giảng thuyết cũng nhận xét rằng: Khi Chúa Giêsu mới bắt đầu sứ vụ, ngài đã đánh đuổi các con buôn ra khỏi đền thờ. Trước câu hỏi ”với quyền bính nào ông làm như thế?”, Chúa đáp: ”Hãy phá hủy đền thờ này đi, trong 3 ngày tôi sẽ làm xây lại đền thờ”. Thánh Gioan giải thích ”Ngài nói về đền thờ thân thể của Ngài” (Ga 2,19.21). Chính từ đền thờ ấy, như ngôn sứ Ezechiel đã nói đến, một tia nước đã vọt ra, rồi trở thành một suối, rồi thành con sông lớn tàu bè di chuyển được và quanh đó mọi hình thức sự sống tươi nở (Xc 47,1ss).
Từ những ý tưởng trên đây, Cha Cantalamessa đã nói đến sự lạc quan không thể đè nén của Kitô giáo, giữa bao nhiêu những thăng trầm của thế giới. Vì thế, không ai được tuyệt vọng, không ai được nói như Cain: ”Tội lỗi của tôi quá lớn không thể được tha thứ” (St 4,13). ”Thập giá không đứng đó để chống lại thế giới, nhưng vì thế giới: để mang lại một ý nghĩa cho tất cả những đau khổ, đã, đang và sẽ hiện diện trong lịch sử nhân loại. Như Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô: ”Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến trần thế để kết án thế gian, nhưng để thế gian được cứu thoát nhờ Ngài” (Ga 3,17).
Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ. Sau cùng 120 LM đã phân phát Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. (SD 14-4-2017)
Bài giảng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh của cha Raniero Cantalamessa tại Đền Thờ Thánh Phêrô
J.B. Đặng Minh An dịch
18:39 14/04/2017
Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài chia sẻ của ngài như sau:
“O CRUX, AVE SPES UNICA”
Hỡi thánh giá, nguồn hy vọng duy nhất của thế giới
Chúng ta đã lắng nghe câu chuyện về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Có vẻ không có gì khác hơn so với bài tường thuật về một cái chết thảm khốc, và tin tức liên quan đến những cái chết tàn bạo như thế không hề thiếu trong các bản tin buổi tối. Cả trong những ngày này cũng có rất nhiều, trong đó có tin về 38 người Kitô hữu Coptic ở Ai Cập bị thiệt mạng hôm Chúa Nhật Lễ Lá. Những loại tin tức như thế nối tiếp nhau với một tốc độ dày đặc đến mức chỉ một ngày sau là chúng ta quên mất đi những tin của một ngày trước đó. Vậy thì tại sao chúng ta lại ở đây để tưởng nhớ cái chết của một người đàn ông sống cách đây 2,000 năm? Lý do là vì cái chết này đã mãi mãi thay đổi chính bộ mặt của sự chết và mang đến cho nó một ý nghĩa mới. Chúng ta hãy suy tư một lúc về điều này.
“Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19: 33-34). Vào đầu sứ vụ của mình, để trả lời cho những kẻ hỏi Người lấy quyền gì mà đuổi các lái buôn khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 2:19). Bình luận về câu chuyện này, Thánh Gioan nói “Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2:21), và giờ đây cũng vị Thánh Sử ấy đã làm chứng rằng máu và nước tuôn đổ từ cạnh sườn của ngôi đền bị “phá hủy” này. Đó là một sự ám chỉ rõ ràng cho lời tiên tri của Ezekiel về một ngôi đền thờ trong tương lai của Thiên Chúa, với một tia nước đã vọt ra, rồi trở thành một suối, rồi thành con sông lớn tàu bè di chuyển được và quanh đó mọi hình thức sự sống tươi nở (Ez 47,1ff).
Nhưng chúng ta hãy đi sâu hơn vào nguồn gốc của “những con sông nước hằng sống” (Ga 7:38) đến từ trái tim bị đâm qua của Chúa Kitô. Trong sách Khải Huyền, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu viết, “giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con Chiên, trông như thể đã bị giết” (Kh 5: 6). Bị giết, nhưng đang đứng, có nghĩa là, bị đâm nhưng sống lại và vẫn sống.
Giờ đây giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và thế giới này, có một trái tim nhân loại đang đập không chỉ một cách ẩn dụ nhưng là thực sự về thể lý. Nếu Đức Kitô, trên thực tế, đã chỗi dậy từ cõi chết, thì thánh tâm Ngài cũng đã được nâng dậy từ trong kẻ chết; trái tim ấy sống động như phần còn lại của cơ thể Ngài, trong một chiều kích khác so với trước đây, một chiều kích thực tế, ngay cả khi đó là mầu nhiệm. Nếu Chiên Con còn sống đang ở trên trời, “bị giết, nhưng vẫn đứng”, thì trái tim của Ngài chia sẻ cùng một trạng thái đó; đó là một trái tim bị đâm thâu qua nhưng vẫn sống – dù mãi mãi bị đâm thâu qua, chính vì Người hằng sống đến muôn đời.
Hiện đã có một cụm từ được tạo ra để mô tả chiều sâu của cái ác có thể tích tụ trong trái tim của nhân loại, đó là “cái tâm của bóng tối.” Sau sự hy sinh của Chúa Kitô, cái tâm của ánh sáng trên thế giới còn đập mạnh hơn cái tâm của bóng tối. Chúa Kitô, trên thực tế, đã về trời, nhưng Người không từ bỏ thế gian, như Người đã không hề từ bỏ Thiên Chúa Ba Ngôi khi xuống thế làm người.
Một lời ca nhập lễ trong Phụng Vụ Giờ Kinh nói: “Kế hoạch của Chúa Cha” giờ đã được hoàn thành khi “biến Chúa Kitô thành trái tim của thế giới.” Điều này giải thích sự lạc quan không thể lay chuyển của Kitô giáo đã làm một nhà thần bí thời Trung cổ thốt lên rằng điều đáng để được mong đợi là “cần phải có tội lỗi; nhưng tất cả sẽ tốt đẹp, hết tất cả sẽ tốt đẹp, và tất cả mọi thứ sẽ ra tốt đẹp” (Julian thành Norwich).
* * *
Các tu sĩ dòng Carthusia đã chọn một huy hiệu đặt ở lối vào các tu viện của họ, trong các tài liệu chính thức, và trong các trường hợp khác. Huy hiệu này bao gồm một quả địa cầu có hình thánh giá bên trên với dòng chữ xung quanh nói rằng, “Stat crux dum volvitur Orbis” (nghĩa là “Thánh giá đứng vững trong khi trái đất quay cuồng”).
Thánh giá đại diện cho những gì nơi điểm cố định này, nơi cột buồm chính này của con tàu thế giới đang chập chùng trong sóng nước? Đó là tiếng nói “không” dứt khoát và không thể đảo ngược được của Thiên Chúa đối với bạo lực, bất công, thù hận, và dối trá – đối với tất cả những gì được gọi là “sự ác”, và cũng đồng thời là tiếng nói “có” cũng không thể đảo ngược của Ngài đối với tình yêu, sự thật, và sự tốt lành. “Không” đối với tội lỗi, “có” đối với các tội nhân. Đó là những gì Chúa Giêsu đã thực hiện trong suốt cuộc đời Người và giờ đây Ngài thánh hiến một cách chung cuộc qua cái chết của Người.
Lý do cho sự khác biệt này là rõ ràng: những người tội lỗi là những thụ tạo của Thiên Chúa bảo tồn được phẩm giá của họ, bất chấp tất cả những khuyết điểm của họ; ngoại trừ tội lỗi; tội lỗi là một thực tại gian trá được thêm vào, như một hậu quả của đam mê và của “sự ghen tị ma quỷ” (Kn 2:24). Đó cũng là một lý do mà Ngôi Lời, khi nhập thể, đã mặc lấy tất cả tính loài người, ngoại trừ tội lỗi. Người trộm lành mà Chúa Giêsu hứa thiên đường cho anh, là một thí dụ sống động cho tất cả điều này. Đừng có ai từ bỏ hy vọng của mình; đừng có ai nói như Cain, “tội lỗi của tôi quá lớn để có thể được tha thứ” (xem Sáng Thế 4:13).
Như thế, thánh giá, không “đứng” đó để chống lại thế gian nhưng là vì thế gian: để mang lại ý nghĩa cho tất cả những đau khổ đã từng là, đang là, và sẽ là trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”(Ga 3:17). Thánh giá là lời công bố sống động rằng chiến thắng cuối cùng không thuộc về những kẻ chiến thắng người khác nhưng thuộc về những ai chiến thắng chính mình; chiến thắng không thuôc về những kẻ gây ra đau khổ nhưng thuộc về những ai chịu khổ đau.
* * *
“Dum volvitur Orbis,” khi thế giới quay cuồng. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến bao nhiêu những đổi dời từ thời này sang thời khác; chúng ta nói về thời kỳ đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đồ sắt, thời của đế quốc, thời nguyên tử, và thời đại điện tử. Nhưng hôm nay có cái gì đó mới. Ý tưởng về một quá trình chuyển đổi không còn đủ để mô tả tình hình hiện tại của chúng ta. Cùng với ý tưởng về một sự đổi thay, ta cũng phải nói đến ý tưởng về một sự tan loãng. Người ta nói rằng chúng ta đang sống trong một “xã hội hóa lỏng” – liquid society. Nghĩa là không còn bất kỳ cái gì là cố định, không còn bất kỳ giá trị nào không thể tranh cãi, không còn bất cứ đá tảng nào giữa biển đời mà chúng ta có thể bám víu hay va chạm. Mọi thứ đều thay đổi liên tục.
Giả thuyết tồi tệ nhất mà triết gia đã dự đoán như là hiệu ứng về cái chết của Thiên Chúa đã trở thành hiện thực, trong đó sự ra đời của một thứ siêu người cần phải được ngăn chặn nhưng đã không ngăn chặn được: “Chúng ta đã làm gì khi chúng ta dời trái đất này xa dần khỏi mặt trời của nó? Trái đất di chuyển? hay chúng ta di chuyển? Xa tất cả mặt trời sao? Chúng ta có không hấp tấp với những thay đổi không ngừng này không? Đi ngược lại, sang một bên, hay theo mọi hướng? Có còn điều gì ở trên và ở dưới không? Chúng ta có lạc lối không trong cõi hư vô bất tận này? “(Nietzsche, Gay Science, aphorism 125).
Người ta thường nói rằng “giết chết Thiên Chúa là vụ tự tử khủng khiếp nhất”, và đó là một phần những gì chúng ta đang thấy. Jean-Paul Sartre không đúng khi cho rằng “nơi nào Thiên Chúa sinh ra, thì con người chết”. Điều ngược lại mới là đúng: nơi Thiên Chúa chết, con người chết theo.
Một nghệ sĩ siêu thực thuộc hậu bán thế kỷ trước là Salvador Dalí đã vẽ một cây thánh giá có vẻ như một một lời tiên tri về tình trạng này. Bức tranh mô tả một thánh giá rất lớn với Chúa Kitô lớn không kém đang nhìn từ trên cao, đầu Ngài ngục xuống. Tuy nhiên, bên dưới Ngài, không phải là đất nhưng là nước. Đấng chịu đóng đinh không được treo lơ lửng giữa trời và đất nhưng giữa trời và các thành phần chất lỏng của trái đất.
Hình ảnh này (cũng có hậu cảnh là các đám mây ám chỉ một đám mây nguyên tử) tuy bi thảm vẫn chứa đựng một sự chắc chắn đầy an ủi: có hy vọng ngay cả đối với một xã hội lỏng như xã hội của chúng ta! Có hy vọng bởi vì trên đó là “thập giá Chúa Kitô đang đứng.” Đây là những gì chúng ta lặp lại hàng năm trong phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh những lời của nhà thơ Venanzio Fortunato: “O Crux, spes ave Unica”, “Hỡi Thánh Giá, hy vọng duy nhất của chúng ta.”
Vâng, Thiên Chúa đã chết, ấy là chết ở nơi Con Ngài Chúa Giêsu Kitô; nhưng Ngài không ở lại trong ngôi mộ, Ngài đã chỗi dậy. “Anh em đã đóng đinh và giết chết Ngài,” Phêrô hét lên với đám đông vào ngày Lễ Ngũ Tuần, “Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại” (xem Công Vụ Tông Đồ 2: 23-24). Ngài là một trong số những người “chết nhưng bây giờ Người sống muôn đời” (xem Kh. 1:18). Thánh giá không “đứng” bất động ở giữa những biến động trên thế giới này như một sự nhắc nhở về một sự kiện trong quá khứ hay chỉ đơn thuần là một biểu tượng; thánh giá là một thực tế đang diễn ra, đang sống và hoạt động.
* * *
Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm cho phụng vụ cuộc thương khó Chúa thành vô nghĩa, nếu chúng ta dừng lại, giống như các nhà xã hội học, khi họ phân tích xã hội mà chúng ta đang sống. Chúa Kitô đã không đến để giải thích chuyện này chuyện nọ nhưng là để thay đổi nhân loại. Con tim của bóng tối không chỉ thuộc về những con người gian ác ẩn sâu trong rừng, cũng không phải chỉ là sản phẩm do xã hội phương Tây sản sinh ra. Nó nằm trong mỗi người chúng ta với những mức độ khác nhau.
Kinh Thánh gọi đó là một trái tim bằng đá: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.” (Ezekiel 36:26). Một trái tim bằng đá là một trái tim đóng kín với thánh ý Chúa và sự đau khổ của anh chị em, là trái tim của một người chỉ biết tích lũy bạc tiền vô giới hạn tiền và thờ ơ trước sự tuyệt vọng của những người không có dù chỉ là một ly nước cho con mình; đó cũng là trái tim của những ai để cho bản thân mình hoàn toàn bị chi phối bởi những đam mê nhơ bẩn và sẵn sàng giết người vì niềm đam mê ấy hay sẵn sàng để sống một cuộc sống hai mặt. Khi không giữ cho tim mình biết hướng về tha nhân, chúng ta không thể mô tả trái tim của chúng ta là một quả tim của một thừa tác viên của Chúa hay của một người tín hữu Kitô thực hành đạo, nếu như chúng ta tiếp tục sống về cơ bản là “cho chính chúng ta”, chứ không phải là “cho Chúa”.
Có lời chép rằng “Bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.” (Mt 27:51-52) Những dấu hiệu này thường được giải thích như là những dấu chỉ của ngày tận thế; như thể nó là ngôn ngữ biểu tượng cần thiết để mô tả các sự kiện mang tính cánh chung. Những dấu hiệu này còn có một ý nghĩa khích lệ: chúng chỉ ra những gì nên xảy ra ở trong lòng một người đọc và suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Trong một buổi cử hành phụng vụ như buổi cử hành ngày hôm nay, Thánh Lêô Cả nói với các tín hữu, “Trái đất – tức là bản tính con người của chúng ta - nên run rẩy trước sự đau khổ của Đấng Cứu Chuộc nó. Những tảng đá – là con tim của những người không tin- nên bật tung ra thành từng mảnh. Người chết, bị giam cầm trong mồ mả tử vong của họ, nên bước ra, vì giờ đây những tảng đá khổng lồ đã vỡ nát” (Bài giảng 66, 3; PL 54, 366).
Trái tim bằng thịt, được Chúa hứa ban qua các ngôn sứ, giờ đây hiện diện trên thế giới: đó là trái tim của Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua trên thánh giá, là trái tim mà chúng ta tôn sùng là “Thánh Tâm”. Khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta xác tín rằng trái tim Người cũng ngự đến và đập bên trong chúng ta nữa. Khi chúng ta ngước nhìn lên thánh giá, chúng ta hãy nói từ tận đáy lòng chúng ta, như người thu thuế trong đền thờ, “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội!” Và khi đó chúng ta, cũng như ông, trở về nhà “được công chính hóa” (Lc 18: 13-14).
Phục Sinh 2017: Công trường Nhà Thờ Thánh Phêrô như một vườn hoa Hòa Lan
Vũ Văn An
19:49 14/04/2017
Lễ trọng Phục Sinh vào Chúa Nhật, 16 tháng Tư, sẽ được cử hành tại Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô, nơi sẽ biến thành một vườn hoa, biểu tượng cho niềm vui vì Chúa Giêsu đã sống lại. Hơn 35,000 cây cảnh và bông hoa đã được chở tới từ Hòa Lan để dùng trong dịp này. Theo tuyên bố của Phòng Báo Chí Toà Thánh, thêm vào việc nhấn mạnh tới tính thánh thiêng của phụng vụ, việc trang hoàng hoa lá năm nay hết sức phong phú nhằm làm nổi bật Sứ Điệp Phục Sinh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Phòng Báo chí cho biết: Việc dâng tặng hoa của Hòa Lan lên Đức Giáo Hoàng vào dịp Phục Sinh đến nay là lần thứ ba mươi mốt. Việc sắp xếp hoa là công việc của một nhóm chuyên viên về hoa của Hoà Lan, do ông Paul Deckers phối trí; ông là người tham gia 30 lần tất cả.
Ông Paul Deckers cho biết: “Năm nào dịp này cũng là một dịp hoàn toàn kỳ diệu! Xe tải từ Hòa Lan tới vào hôm thứ Năm trước Lễ Phục Dinh. Cây, hoa và các trang trí hoa lá đã được chuẩn bị ngay ở Hòa Lan được lập tức rỡ xuống, và bắt đầu ngay công việc biến Công Trường mênh mông này thành một bức tranh vải bằng hoa”. Vị trí sắp xếp cây và hoa đã được nghiên cứu kỹ để không gây trở ngại cho việc diễn tiến Thánh Lễ Đại Trào và làm dễ việc các đài truyền hình tường trình Thánh Lễ, được hàng triệu khán giả khắp thế giới theo dõi.
Các chuẩn bị sơ khởi đã bắt đầu vào mùa thu qua với việc chọn hoa và những cây cảnh đẹp nhất. Vị trí của những cây có củ đang nở bông trước Vương Cung Thánh Đường và dưới chân các bậc thềm tạo nên một hình ảnh tương tự như những cánh đồng đang nở hoa nổi tiếng ở Hòa Lan: hàng dẫy dài bông tulip, lan dạ hương và thủy tiên đủ mầu đa dạng. Năm nay, các đỉnh cao về kiến trúc của Công Trường sẽ được làm nổi bật để nhấn mạnh tới nghi thức tôn giáo bao nhiêu có thể. Hàng bảng mầu xuất hiện chủ yếu nhờ hàng ngàn những củ đang trổ bông, vàng, trắng, đỏ và tulip mầu cam, xanh dương và mầu trắng dạ lan hương và những nét thủy tiên vàng phong phú. Các bông hoa dành cho Lễ Chúa Phục Sinh trình bầy biến cố độc đáo để làm nổi bật giá trị của cây cảnh và bông hoa trong các khoảnh khắc khác nhau của đời sống. Lễ Phục Sinh năm nay là một Lễ Phục Sinh đặc biệt vì nó được cử hành bởi cả Công Giáo lẫn Chính Thống Giáo cùng một ngày.
Các tiêu chuẩn quan trọng để chọn lựa hoa là giá trị biểu tượng của chúng. Như thường lệ, vàng và trắng được ưu tiên, vì đây là mầu cờ của Tòa Thánh. Có rất nhiều hoa huệ, vốn là biểu tượng của trong sạch và, trong nghệ thuật ảnh tượng Kitô Giáo, vốn tượng trưng cho Trinh Nữ Maria. Năm nay, một điều tuyệt đối mới mẻ là Roselily, một loại huệ đầu tiên nở hoa mà không có nhụy hoa. Không có nhụy hoa có nghĩa là không tạo phấn và do đó không làm dơ vải vóc, thành thử loại hoa này có thể được dùng trong bất cứ phối hợp nào.
Được sử dụng nhiều còn có hồng Avalanche bông lớn, biểu tượng cho Tháng Đức Mẹ. Hàng ngàn mẫu mầu trắng, hồng nhạt và mầu cá hồi có thể được chiêm ngưỡng trong những khu rộng lớn, biểu tượng cho sự kết hợp của nhiều dân tộc qua loài hoa. Dù gì, ngôn ngữ của hoa cũng có tính phổ quát.
Trước các hàng cột vĩ đại, là những ốc đảo nhỏ mầu xanh gồm những cây phong (birch) cao 6 thước, và hàng chanh (lime) nở hoa cao bằng hàng cột. Chanh được coi là cây của tình yêu phu thê, phong được coi là cây sự sống và tái sinh.
Nổi bật ở hai bên lối vào Vương Cung Thánh Đường là bốn trang trí hoa hỗn hợp vĩ đại với những cây phi yến (delphinium) mầu xanh dương nhạt, mà, trong ngôn ngữ các loài hoa, vốn nói lên tình yêu chân thành dâng lên trái tim trên cao, nhẹ nhàng và vĩ đại. Phi yến chỉ đứng sau đại hồng trắng, vốn biểu tượng cho sự thùy mị và khiêm nhường. Những cành hồng cũng được dùng để trang trí bàn thờ và ban công, từ đó, Đức Thánh Cha ban phép lành cho Thành Thánh và Thế Giới.
Trong việc trang trí Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô dịp Lễ Phục Sinh, hàng ngàn bông hồng Avalanche, phi yến xanh dương, huệ, đầu xuân (forsythia) và cây mận đã được sử dụng, được làm nổi bật thêm bằng những cành anh đào đỏ vàng. Các bậc thềm dẫn tới bàn thờ mà giáo dân hay chú ý được trang hoàng bằng những chuỗi bán nguyệt tròn trịa thủy tiên vàng óng ánh. Khi Đức Thánh Cha bước qua đó để tiến tới bàn thờ, người ta có cảm tưởng ngài đang bước giữa một cánh đồng Hòa Lan tiêu biểu đang trổ hoa. Trong các vườn, các công trình vĩ đại gồm các bông Roselily, các cây huệ đơm bông kép đủ mầu, từ trắng tới hồng nhạt và hồng thắm khiến ái cũng chú ý.
Ông Paul Deckers cho biết: “Năm nào dịp này cũng là một dịp hoàn toàn kỳ diệu! Xe tải từ Hòa Lan tới vào hôm thứ Năm trước Lễ Phục Dinh. Cây, hoa và các trang trí hoa lá đã được chuẩn bị ngay ở Hòa Lan được lập tức rỡ xuống, và bắt đầu ngay công việc biến Công Trường mênh mông này thành một bức tranh vải bằng hoa”. Vị trí sắp xếp cây và hoa đã được nghiên cứu kỹ để không gây trở ngại cho việc diễn tiến Thánh Lễ Đại Trào và làm dễ việc các đài truyền hình tường trình Thánh Lễ, được hàng triệu khán giả khắp thế giới theo dõi.
Các chuẩn bị sơ khởi đã bắt đầu vào mùa thu qua với việc chọn hoa và những cây cảnh đẹp nhất. Vị trí của những cây có củ đang nở bông trước Vương Cung Thánh Đường và dưới chân các bậc thềm tạo nên một hình ảnh tương tự như những cánh đồng đang nở hoa nổi tiếng ở Hòa Lan: hàng dẫy dài bông tulip, lan dạ hương và thủy tiên đủ mầu đa dạng. Năm nay, các đỉnh cao về kiến trúc của Công Trường sẽ được làm nổi bật để nhấn mạnh tới nghi thức tôn giáo bao nhiêu có thể. Hàng bảng mầu xuất hiện chủ yếu nhờ hàng ngàn những củ đang trổ bông, vàng, trắng, đỏ và tulip mầu cam, xanh dương và mầu trắng dạ lan hương và những nét thủy tiên vàng phong phú. Các bông hoa dành cho Lễ Chúa Phục Sinh trình bầy biến cố độc đáo để làm nổi bật giá trị của cây cảnh và bông hoa trong các khoảnh khắc khác nhau của đời sống. Lễ Phục Sinh năm nay là một Lễ Phục Sinh đặc biệt vì nó được cử hành bởi cả Công Giáo lẫn Chính Thống Giáo cùng một ngày.
Các tiêu chuẩn quan trọng để chọn lựa hoa là giá trị biểu tượng của chúng. Như thường lệ, vàng và trắng được ưu tiên, vì đây là mầu cờ của Tòa Thánh. Có rất nhiều hoa huệ, vốn là biểu tượng của trong sạch và, trong nghệ thuật ảnh tượng Kitô Giáo, vốn tượng trưng cho Trinh Nữ Maria. Năm nay, một điều tuyệt đối mới mẻ là Roselily, một loại huệ đầu tiên nở hoa mà không có nhụy hoa. Không có nhụy hoa có nghĩa là không tạo phấn và do đó không làm dơ vải vóc, thành thử loại hoa này có thể được dùng trong bất cứ phối hợp nào.
Được sử dụng nhiều còn có hồng Avalanche bông lớn, biểu tượng cho Tháng Đức Mẹ. Hàng ngàn mẫu mầu trắng, hồng nhạt và mầu cá hồi có thể được chiêm ngưỡng trong những khu rộng lớn, biểu tượng cho sự kết hợp của nhiều dân tộc qua loài hoa. Dù gì, ngôn ngữ của hoa cũng có tính phổ quát.
Trước các hàng cột vĩ đại, là những ốc đảo nhỏ mầu xanh gồm những cây phong (birch) cao 6 thước, và hàng chanh (lime) nở hoa cao bằng hàng cột. Chanh được coi là cây của tình yêu phu thê, phong được coi là cây sự sống và tái sinh.
Nổi bật ở hai bên lối vào Vương Cung Thánh Đường là bốn trang trí hoa hỗn hợp vĩ đại với những cây phi yến (delphinium) mầu xanh dương nhạt, mà, trong ngôn ngữ các loài hoa, vốn nói lên tình yêu chân thành dâng lên trái tim trên cao, nhẹ nhàng và vĩ đại. Phi yến chỉ đứng sau đại hồng trắng, vốn biểu tượng cho sự thùy mị và khiêm nhường. Những cành hồng cũng được dùng để trang trí bàn thờ và ban công, từ đó, Đức Thánh Cha ban phép lành cho Thành Thánh và Thế Giới.
Trong việc trang trí Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô dịp Lễ Phục Sinh, hàng ngàn bông hồng Avalanche, phi yến xanh dương, huệ, đầu xuân (forsythia) và cây mận đã được sử dụng, được làm nổi bật thêm bằng những cành anh đào đỏ vàng. Các bậc thềm dẫn tới bàn thờ mà giáo dân hay chú ý được trang hoàng bằng những chuỗi bán nguyệt tròn trịa thủy tiên vàng óng ánh. Khi Đức Thánh Cha bước qua đó để tiến tới bàn thờ, người ta có cảm tưởng ngài đang bước giữa một cánh đồng Hòa Lan tiêu biểu đang trổ hoa. Trong các vườn, các công trình vĩ đại gồm các bông Roselily, các cây huệ đơm bông kép đủ mầu, từ trắng tới hồng nhạt và hồng thắm khiến ái cũng chú ý.
Đức Thánh Cha cử hành nghi thức tưởng niệm cuộc thương khó Chúa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh 14/04/2017
VietCatholic Network
20:45 14/04/2017
Đức Thánh Cha Phanxicô đang nằm phủ phục trước bàn thờ chính trong Đền Thờ Thánh Phêrô. Lúc này là 5 giờ chiều ngày thứ Sáu 14 tháng Tư.
Trước sự hiện diện của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục trong giáo triều Rôma, Đức Thánh Cha đang nằm sấp mình trong thinh lặng.
Giờ đây, Đức Thánh Cha mở đầu buổi cử hành với lời nguyện, xin Chúa nhớ lại lòng từ bi và đoái thương, bảo vệ gia đình mà Chúa Kitô, Con Chúa, đã khai mạc mầu nhiệm vượt qua cho họ trong máu của Người.
Giờ đây cộng đoàn đang lắng nghe bài Thương Khó.
Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài chia sẻ của ngài.
Ngài nói:
“O CRUX, AVE SPES UNICA”
Hỡi thánh giá, nguồn hy vọng duy nhất của thế giới
Chúng ta đã lắng nghe câu chuyện về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Có vẻ không có gì khác hơn so với bài tường thuật về một cái chết thảm khốc, và tin tức liên quan đến những cái chết tàn bạo như thế không hề thiếu trong các bản tin buổi tối. Cả trong những ngày này cũng có rất nhiều, trong đó có tin về 38 người Kitô hữu Coptic ở Ai Cập bị thiệt mạng hôm Chúa Nhật Lễ Lá. Những loại tin tức như thế nối tiếp nhau với một tốc độ dày đặc đến mức chỉ một ngày sau là chúng ta quên mất đi những tin của một ngày trước đó. Vậy thì tại sao chúng ta lại ở đây để tưởng nhớ cái chết của một người đàn ông sống cách đây 2,000 năm? Lý do là vì cái chết này đã mãi mãi thay đổi chính bộ mặt của sự chết và mang đến cho nó một ý nghĩa mới. Chúng ta hãy suy tư một lúc về điều này.
“Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19: 33-34). Vào đầu sứ vụ của mình, để trả lời cho những kẻ hỏi Người lấy quyền gì mà đuổi các lái buôn khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 2:19). Bình luận về câu chuyện này, Thánh Gioan nói “Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2:21), và giờ đây cũng vị Thánh Sử ấy đã làm chứng rằng máu và nước tuôn đổ từ cạnh sườn của ngôi đền bị “phá hủy” này. Đó là một sự ám chỉ rõ ràng cho lời tiên tri của Ezekiel về một ngôi đền thờ trong tương lai của Thiên Chúa, với một tia nước đã vọt ra, rồi trở thành một suối, rồi thành con sông lớn tàu bè di chuyển được và quanh đó mọi hình thức sự sống tươi nở (Ez 47,1ff).
Nhưng chúng ta hãy đi sâu hơn vào nguồn gốc của “những con sông nước hằng sống” (Ga 7:38) đến từ trái tim bị đâm qua của Chúa Kitô. Trong sách Khải Huyền, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu viết, “giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con Chiên, trông như thể đã bị giết” (Kh 5: 6). Bị giết, nhưng đang đứng, có nghĩa là, bị đâm nhưng sống lại và vẫn sống.
Giờ đây giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và thế giới này, có một trái tim nhân loại đang đập không chỉ một cách ẩn dụ nhưng là thực sự về thể lý. Nếu Đức Kitô, trên thực tế, đã chỗi dậy từ cõi chết, thì thánh tâm Ngài cũng đã được nâng dậy từ trong kẻ chết; trái tim ấy sống động như phần còn lại của cơ thể Ngài, trong một chiều kích khác so với trước đây, một chiều kích thực tế, ngay cả khi đó là mầu nhiệm. Nếu Chiên Con còn sống đang ở trên trời, “bị giết, nhưng vẫn đứng”, thì trái tim của Ngài chia sẻ cùng một trạng thái đó; đó là một trái tim bị đâm thâu qua nhưng vẫn sống – dù mãi mãi bị đâm thâu qua, chính vì Người hằng sống đến muôn đời.
Hiện đã có một cụm từ được tạo ra để mô tả chiều sâu của cái ác có thể tích tụ trong trái tim của nhân loại, đó là “cái tâm của bóng tối.” Sau sự hy sinh của Chúa Kitô, cái tâm của ánh sáng trên thế giới còn đập mạnh hơn cái tâm của bóng tối. Chúa Kitô, trên thực tế, đã về trời, nhưng Người không từ bỏ thế gian, như Người đã không hề từ bỏ Thiên Chúa Ba Ngôi khi xuống thế làm người.
Một lời ca nhập lễ trong Phụng Vụ Giờ Kinh nói: “Kế hoạch của Chúa Cha” giờ đã được hoàn thành khi “biến Chúa Kitô thành trái tim của thế giới.” Điều này giải thích sự lạc quan không thể lay chuyển của Kitô giáo đã làm một nhà thần bí thời Trung cổ thốt lên rằng điều đáng để được mong đợi là “cần phải có tội lỗi; nhưng tất cả sẽ tốt đẹp, hết tất cả sẽ tốt đẹp, và tất cả mọi thứ sẽ ra tốt đẹp” (Julian thành Norwich).
* * *
Các tu sĩ dòng Carthusia đã chọn một huy hiệu đặt ở lối vào các tu viện của họ, trong các tài liệu chính thức, và trong các trường hợp khác. Huy hiệu này bao gồm một quả địa cầu có hình thánh giá bên trên với dòng chữ xung quanh nói rằng, “Stat crux dum volvitur Orbis” (nghĩa là “Thánh giá đứng vững trong khi trái đất quay cuồng”).
Thánh giá đại diện cho những gì nơi điểm cố định này, nơi cột buồm chính này của con tàu thế giới đang chập chùng trong sóng nước? Đó là tiếng nói “không” dứt khoát và không thể đảo ngược được của Thiên Chúa đối với bạo lực, bất công, thù hận, và dối trá – đối với tất cả những gì được gọi là “sự ác”, và cũng đồng thời là tiếng nói “có” cũng không thể đảo ngược của Ngài đối với tình yêu, sự thật, và sự tốt lành. “Không” đối với tội lỗi, “có” đối với các tội nhân. Đó là những gì Chúa Giêsu đã thực hiện trong suốt cuộc đời Người và giờ đây Ngài thánh hiến một cách chung cuộc qua cái chết của Người.
Lý do cho sự khác biệt này là rõ ràng: những người tội lỗi là những thụ tạo của Thiên Chúa bảo tồn được phẩm giá của họ, bất chấp tất cả những khuyết điểm của họ; ngoại trừ tội lỗi; tội lỗi là một thực tại gian trá được thêm vào, như một hậu quả của đam mê và của “sự ghen tị ma quỷ” (Kn 2:24). Đó cũng là một lý do mà Ngôi Lời, khi nhập thể, đã mặc lấy tất cả tính loài người, ngoại trừ tội lỗi. Người trộm lành mà Chúa Giêsu hứa thiên đường cho anh, là một thí dụ sống động cho tất cả điều này. Đừng có ai từ bỏ hy vọng của mình; đừng có ai nói như Cain, “tội lỗi của tôi quá lớn để có thể được tha thứ” (xem Sáng Thế 4:13).
Như thế, thánh giá, không “đứng” đó để chống lại thế gian nhưng là vì thế gian: để mang lại ý nghĩa cho tất cả những đau khổ đã từng là, đang là, và sẽ là trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”(Ga 3:17). Thánh giá là lời công bố sống động rằng chiến thắng cuối cùng không thuộc về những kẻ chiến thắng người khác nhưng thuộc về những ai chiến thắng chính mình; chiến thắng không thuôc về những kẻ gây ra đau khổ nhưng thuộc về những ai chịu khổ đau.
* * *
“Dum volvitur Orbis,” khi thế giới quay cuồng. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến bao nhiêu những đổi dời từ thời này sang thời khác; chúng ta nói về thời kỳ đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đồ sắt, thời của đế quốc, thời nguyên tử, và thời đại điện tử. Nhưng hôm nay có cái gì đó mới. Ý tưởng về một quá trình chuyển đổi không còn đủ để mô tả tình hình hiện tại của chúng ta. Cùng với ý tưởng về một sự đổi thay, ta cũng phải nói đến ý tưởng về một sự tan loãng. Người ta nói rằng chúng ta đang sống trong một “xã hội hóa lỏng” – liquid society. Nghĩa là không còn bất kỳ cái gì là cố định, không còn bất kỳ giá trị nào không thể tranh cãi, không còn bất cứ đá tảng nào giữa biển đời mà chúng ta có thể bám víu hay va chạm. Mọi thứ đều thay đổi liên tục.
Giả thuyết tồi tệ nhất mà triết gia đã dự đoán như là hiệu ứng về cái chết của Thiên Chúa đã trở thành hiện thực, trong đó sự ra đời của một thứ siêu người cần phải được ngăn chặn nhưng đã không ngăn chặn được: “Chúng ta đã làm gì khi chúng ta dời trái đất này xa dần khỏi mặt trời của nó? Trái đất di chuyển? hay chúng ta di chuyển? Xa tất cả mặt trời sao? Chúng ta có không hấp tấp với những thay đổi không ngừng này không? Đi ngược lại, sang một bên, hay theo mọi hướng? Có còn điều gì ở trên và ở dưới không? Chúng ta có lạc lối không trong cõi hư vô bất tận này? “(Nietzsche, Gay Science, aphorism 125).
Người ta thường nói rằng “giết chết Thiên Chúa là vụ tự tử khủng khiếp nhất”, và đó là một phần những gì chúng ta đang thấy. Jean-Paul Sartre không đúng khi cho rằng “nơi nào Thiên Chúa sinh ra, thì con người chết”. Điều ngược lại mới là đúng: nơi Thiên Chúa chết, con người chết theo.
Một nghệ sĩ siêu thực thuộc hậu bán thế kỷ trước là Salvador Dalí đã vẽ một cây thánh giá có vẻ như một một lời tiên tri về tình trạng này. Bức tranh mô tả một thánh giá rất lớn với Chúa Kitô lớn không kém đang nhìn từ trên cao, đầu Ngài ngục xuống. Tuy nhiên, bên dưới Ngài, không phải là đất nhưng là nước. Đấng chịu đóng đinh không được treo lơ lửng giữa trời và đất nhưng giữa trời và các thành phần chất lỏng của trái đất.
Hình ảnh này (cũng có hậu cảnh là các đám mây ám chỉ một đám mây nguyên tử) tuy bi thảm vẫn chứa đựng một sự chắc chắn đầy an ủi: có hy vọng ngay cả đối với một xã hội lỏng như xã hội của chúng ta! Có hy vọng bởi vì trên đó là “thập giá Chúa Kitô đang đứng.” Đây là những gì chúng ta lặp lại hàng năm trong phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh những lời của nhà thơ Venanzio Fortunato: “O Crux, spes ave Unica”, “Hỡi Thánh Giá, hy vọng duy nhất của chúng ta.”
Vâng, Thiên Chúa đã chết, ấy là chết ở nơi Con Ngài Chúa Giêsu Kitô; nhưng Ngài không ở lại trong ngôi mộ, Ngài đã chỗi dậy. “Anh em đã đóng đinh và giết chết Ngài,” Phêrô hét lên với đám đông vào ngày Lễ Ngũ Tuần, “Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại” (xem Công Vụ Tông Đồ 2: 23-24). Ngài là một trong số những người “chết nhưng bây giờ Người sống muôn đời” (xem Kh. 1:18). Thánh giá không “đứng” bất động ở giữa những biến động trên thế giới này như một sự nhắc nhở về một sự kiện trong quá khứ hay chỉ đơn thuần là một biểu tượng; thánh giá là một thực tế đang diễn ra, đang sống và hoạt động.
* * *
Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm cho phụng vụ cuộc thương khó Chúa thành vô nghĩa, nếu chúng ta dừng lại, giống như các nhà xã hội học, khi họ phân tích xã hội mà chúng ta đang sống. Chúa Kitô đã không đến để giải thích chuyện này chuyện nọ nhưng là để thay đổi nhân loại. Con tim của bóng tối không chỉ thuộc về những con người gian ác ẩn sâu trong rừng, cũng không phải chỉ là sản phẩm do xã hội phương Tây sản sinh ra. Nó nằm trong mỗi người chúng ta với những mức độ khác nhau.
Kinh Thánh gọi đó là một trái tim bằng đá: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.” (Ezekiel 36:26). Một trái tim bằng đá là một trái tim đóng kín với thánh ý Chúa và sự đau khổ của anh chị em, là trái tim của một người chỉ biết tích lũy bạc tiền vô giới hạn tiền và thờ ơ trước sự tuyệt vọng của những người không có dù chỉ là một ly nước cho con mình; đó cũng là trái tim của những ai để cho bản thân mình hoàn toàn bị chi phối bởi những đam mê nhơ bẩn và sẵn sàng giết người vì niềm đam mê ấy hay sẵn sàng để sống một cuộc sống hai mặt. Khi không giữ cho tim mình biết hướng về tha nhân, chúng ta không thể mô tả trái tim của chúng ta là một quả tim của một thừa tác viên của Chúa hay của một người tín hữu Kitô thực hành đạo, nếu như chúng ta tiếp tục sống về cơ bản là “cho chính chúng ta”, chứ không phải là “cho Chúa”.
Có lời chép rằng “Bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.” (Mt 27:51-52) Những dấu hiệu này thường được giải thích như là những dấu chỉ của ngày tận thế; như thể nó là ngôn ngữ biểu tượng cần thiết để mô tả các sự kiện mang tính cánh chung. Những dấu hiệu này còn có một ý nghĩa khích lệ: chúng chỉ ra những gì nên xảy ra ở trong lòng một người đọc và suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Trong một buổi cử hành phụng vụ như buổi cử hành ngày hôm nay, Thánh Lêô Cả nói với các tín hữu, “Trái đất – tức là bản tính con người của chúng ta - nên run rẩy trước sự đau khổ của Đấng Cứu Chuộc nó. Những tảng đá – là con tim của những người không tin- nên bật tung ra thành từng mảnh. Người chết, bị giam cầm trong mồ mả tử vong của họ, nên bước ra, vì giờ đây những tảng đá khổng lồ đã vỡ nát” (Bài giảng 66, 3; PL 54, 366).
Trái tim bằng thịt, được Chúa hứa ban qua các ngôn sứ, giờ đây hiện diện trên thế giới: đó là trái tim của Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua trên thánh giá, là trái tim mà chúng ta tôn sùng là “Thánh Tâm”. Khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta xác tín rằng trái tim Người cũng ngự đến và đập bên trong chúng ta nữa. Khi chúng ta ngước nhìn lên thánh giá, chúng ta hãy nói từ tận đáy lòng chúng ta, như người thu thuế trong đền thờ, “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội!” Và khi đó chúng ta, cũng như ông, trở về nhà “được công chính hóa” (Lc 18: 13-14).
Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ.
Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là một Thánh Lễ, do đó Thánh Thể không được thánh hiến. Tuy nhiên, Mình Thánh Chúa đã được trao cho các tín hữu bởi hàng chục linh mục. Sau khi Đức Giáo Hoàng đọc lời chúc bình an, phụng vụ đã kết thúc trong im lặng theo như là truyền thống Phụng Vụ của Giáo Hội trong ngày thứ Năm và thứ Sáu Tuần Thánh.
Trước sự hiện diện của gần 9 ngàn tín hữu, hơn 40 Hồng Y và 50 Giám Mục trong giáo triều Rôma, Đức Thánh Cha đang nằm sấp mình trong thinh lặng.
Giờ đây, Đức Thánh Cha mở đầu buổi cử hành với lời nguyện, xin Chúa nhớ lại lòng từ bi và đoái thương, bảo vệ gia đình mà Chúa Kitô, Con Chúa, đã khai mạc mầu nhiệm vượt qua cho họ trong máu của Người.
Giờ đây cộng đoàn đang lắng nghe bài Thương Khó.
Sau bài Thương Khó, Cha Raniero Cantalamessa, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo Hoàng đã trình bày bài chia sẻ của ngài.
Ngài nói:
“O CRUX, AVE SPES UNICA”
Hỡi thánh giá, nguồn hy vọng duy nhất của thế giới
Chúng ta đã lắng nghe câu chuyện về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Có vẻ không có gì khác hơn so với bài tường thuật về một cái chết thảm khốc, và tin tức liên quan đến những cái chết tàn bạo như thế không hề thiếu trong các bản tin buổi tối. Cả trong những ngày này cũng có rất nhiều, trong đó có tin về 38 người Kitô hữu Coptic ở Ai Cập bị thiệt mạng hôm Chúa Nhật Lễ Lá. Những loại tin tức như thế nối tiếp nhau với một tốc độ dày đặc đến mức chỉ một ngày sau là chúng ta quên mất đi những tin của một ngày trước đó. Vậy thì tại sao chúng ta lại ở đây để tưởng nhớ cái chết của một người đàn ông sống cách đây 2,000 năm? Lý do là vì cái chết này đã mãi mãi thay đổi chính bộ mặt của sự chết và mang đến cho nó một ý nghĩa mới. Chúng ta hãy suy tư một lúc về điều này.
“Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19: 33-34). Vào đầu sứ vụ của mình, để trả lời cho những kẻ hỏi Người lấy quyền gì mà đuổi các lái buôn khỏi đền thờ, Chúa Giêsu đáp: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 2:19). Bình luận về câu chuyện này, Thánh Gioan nói “Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2:21), và giờ đây cũng vị Thánh Sử ấy đã làm chứng rằng máu và nước tuôn đổ từ cạnh sườn của ngôi đền bị “phá hủy” này. Đó là một sự ám chỉ rõ ràng cho lời tiên tri của Ezekiel về một ngôi đền thờ trong tương lai của Thiên Chúa, với một tia nước đã vọt ra, rồi trở thành một suối, rồi thành con sông lớn tàu bè di chuyển được và quanh đó mọi hình thức sự sống tươi nở (Ez 47,1ff).
Nhưng chúng ta hãy đi sâu hơn vào nguồn gốc của “những con sông nước hằng sống” (Ga 7:38) đến từ trái tim bị đâm qua của Chúa Kitô. Trong sách Khải Huyền, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu viết, “giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con Chiên, trông như thể đã bị giết” (Kh 5: 6). Bị giết, nhưng đang đứng, có nghĩa là, bị đâm nhưng sống lại và vẫn sống.
Giờ đây giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và thế giới này, có một trái tim nhân loại đang đập không chỉ một cách ẩn dụ nhưng là thực sự về thể lý. Nếu Đức Kitô, trên thực tế, đã chỗi dậy từ cõi chết, thì thánh tâm Ngài cũng đã được nâng dậy từ trong kẻ chết; trái tim ấy sống động như phần còn lại của cơ thể Ngài, trong một chiều kích khác so với trước đây, một chiều kích thực tế, ngay cả khi đó là mầu nhiệm. Nếu Chiên Con còn sống đang ở trên trời, “bị giết, nhưng vẫn đứng”, thì trái tim của Ngài chia sẻ cùng một trạng thái đó; đó là một trái tim bị đâm thâu qua nhưng vẫn sống – dù mãi mãi bị đâm thâu qua, chính vì Người hằng sống đến muôn đời.
Hiện đã có một cụm từ được tạo ra để mô tả chiều sâu của cái ác có thể tích tụ trong trái tim của nhân loại, đó là “cái tâm của bóng tối.” Sau sự hy sinh của Chúa Kitô, cái tâm của ánh sáng trên thế giới còn đập mạnh hơn cái tâm của bóng tối. Chúa Kitô, trên thực tế, đã về trời, nhưng Người không từ bỏ thế gian, như Người đã không hề từ bỏ Thiên Chúa Ba Ngôi khi xuống thế làm người.
Một lời ca nhập lễ trong Phụng Vụ Giờ Kinh nói: “Kế hoạch của Chúa Cha” giờ đã được hoàn thành khi “biến Chúa Kitô thành trái tim của thế giới.” Điều này giải thích sự lạc quan không thể lay chuyển của Kitô giáo đã làm một nhà thần bí thời Trung cổ thốt lên rằng điều đáng để được mong đợi là “cần phải có tội lỗi; nhưng tất cả sẽ tốt đẹp, hết tất cả sẽ tốt đẹp, và tất cả mọi thứ sẽ ra tốt đẹp” (Julian thành Norwich).
* * *
Các tu sĩ dòng Carthusia đã chọn một huy hiệu đặt ở lối vào các tu viện của họ, trong các tài liệu chính thức, và trong các trường hợp khác. Huy hiệu này bao gồm một quả địa cầu có hình thánh giá bên trên với dòng chữ xung quanh nói rằng, “Stat crux dum volvitur Orbis” (nghĩa là “Thánh giá đứng vững trong khi trái đất quay cuồng”).
Thánh giá đại diện cho những gì nơi điểm cố định này, nơi cột buồm chính này của con tàu thế giới đang chập chùng trong sóng nước? Đó là tiếng nói “không” dứt khoát và không thể đảo ngược được của Thiên Chúa đối với bạo lực, bất công, thù hận, và dối trá – đối với tất cả những gì được gọi là “sự ác”, và cũng đồng thời là tiếng nói “có” cũng không thể đảo ngược của Ngài đối với tình yêu, sự thật, và sự tốt lành. “Không” đối với tội lỗi, “có” đối với các tội nhân. Đó là những gì Chúa Giêsu đã thực hiện trong suốt cuộc đời Người và giờ đây Ngài thánh hiến một cách chung cuộc qua cái chết của Người.
Lý do cho sự khác biệt này là rõ ràng: những người tội lỗi là những thụ tạo của Thiên Chúa bảo tồn được phẩm giá của họ, bất chấp tất cả những khuyết điểm của họ; ngoại trừ tội lỗi; tội lỗi là một thực tại gian trá được thêm vào, như một hậu quả của đam mê và của “sự ghen tị ma quỷ” (Kn 2:24). Đó cũng là một lý do mà Ngôi Lời, khi nhập thể, đã mặc lấy tất cả tính loài người, ngoại trừ tội lỗi. Người trộm lành mà Chúa Giêsu hứa thiên đường cho anh, là một thí dụ sống động cho tất cả điều này. Đừng có ai từ bỏ hy vọng của mình; đừng có ai nói như Cain, “tội lỗi của tôi quá lớn để có thể được tha thứ” (xem Sáng Thế 4:13).
Như thế, thánh giá, không “đứng” đó để chống lại thế gian nhưng là vì thế gian: để mang lại ý nghĩa cho tất cả những đau khổ đã từng là, đang là, và sẽ là trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”(Ga 3:17). Thánh giá là lời công bố sống động rằng chiến thắng cuối cùng không thuộc về những kẻ chiến thắng người khác nhưng thuộc về những ai chiến thắng chính mình; chiến thắng không thuôc về những kẻ gây ra đau khổ nhưng thuộc về những ai chịu khổ đau.
* * *
“Dum volvitur Orbis,” khi thế giới quay cuồng. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến bao nhiêu những đổi dời từ thời này sang thời khác; chúng ta nói về thời kỳ đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đồ sắt, thời của đế quốc, thời nguyên tử, và thời đại điện tử. Nhưng hôm nay có cái gì đó mới. Ý tưởng về một quá trình chuyển đổi không còn đủ để mô tả tình hình hiện tại của chúng ta. Cùng với ý tưởng về một sự đổi thay, ta cũng phải nói đến ý tưởng về một sự tan loãng. Người ta nói rằng chúng ta đang sống trong một “xã hội hóa lỏng” – liquid society. Nghĩa là không còn bất kỳ cái gì là cố định, không còn bất kỳ giá trị nào không thể tranh cãi, không còn bất cứ đá tảng nào giữa biển đời mà chúng ta có thể bám víu hay va chạm. Mọi thứ đều thay đổi liên tục.
Giả thuyết tồi tệ nhất mà triết gia đã dự đoán như là hiệu ứng về cái chết của Thiên Chúa đã trở thành hiện thực, trong đó sự ra đời của một thứ siêu người cần phải được ngăn chặn nhưng đã không ngăn chặn được: “Chúng ta đã làm gì khi chúng ta dời trái đất này xa dần khỏi mặt trời của nó? Trái đất di chuyển? hay chúng ta di chuyển? Xa tất cả mặt trời sao? Chúng ta có không hấp tấp với những thay đổi không ngừng này không? Đi ngược lại, sang một bên, hay theo mọi hướng? Có còn điều gì ở trên và ở dưới không? Chúng ta có lạc lối không trong cõi hư vô bất tận này? “(Nietzsche, Gay Science, aphorism 125).
Người ta thường nói rằng “giết chết Thiên Chúa là vụ tự tử khủng khiếp nhất”, và đó là một phần những gì chúng ta đang thấy. Jean-Paul Sartre không đúng khi cho rằng “nơi nào Thiên Chúa sinh ra, thì con người chết”. Điều ngược lại mới là đúng: nơi Thiên Chúa chết, con người chết theo.
Một nghệ sĩ siêu thực thuộc hậu bán thế kỷ trước là Salvador Dalí đã vẽ một cây thánh giá có vẻ như một một lời tiên tri về tình trạng này. Bức tranh mô tả một thánh giá rất lớn với Chúa Kitô lớn không kém đang nhìn từ trên cao, đầu Ngài ngục xuống. Tuy nhiên, bên dưới Ngài, không phải là đất nhưng là nước. Đấng chịu đóng đinh không được treo lơ lửng giữa trời và đất nhưng giữa trời và các thành phần chất lỏng của trái đất.
Hình ảnh này (cũng có hậu cảnh là các đám mây ám chỉ một đám mây nguyên tử) tuy bi thảm vẫn chứa đựng một sự chắc chắn đầy an ủi: có hy vọng ngay cả đối với một xã hội lỏng như xã hội của chúng ta! Có hy vọng bởi vì trên đó là “thập giá Chúa Kitô đang đứng.” Đây là những gì chúng ta lặp lại hàng năm trong phụng vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh những lời của nhà thơ Venanzio Fortunato: “O Crux, spes ave Unica”, “Hỡi Thánh Giá, hy vọng duy nhất của chúng ta.”
Vâng, Thiên Chúa đã chết, ấy là chết ở nơi Con Ngài Chúa Giêsu Kitô; nhưng Ngài không ở lại trong ngôi mộ, Ngài đã chỗi dậy. “Anh em đã đóng đinh và giết chết Ngài,” Phêrô hét lên với đám đông vào ngày Lễ Ngũ Tuần, “Nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại” (xem Công Vụ Tông Đồ 2: 23-24). Ngài là một trong số những người “chết nhưng bây giờ Người sống muôn đời” (xem Kh. 1:18). Thánh giá không “đứng” bất động ở giữa những biến động trên thế giới này như một sự nhắc nhở về một sự kiện trong quá khứ hay chỉ đơn thuần là một biểu tượng; thánh giá là một thực tế đang diễn ra, đang sống và hoạt động.
* * *
Tuy nhiên, chúng ta sẽ làm cho phụng vụ cuộc thương khó Chúa thành vô nghĩa, nếu chúng ta dừng lại, giống như các nhà xã hội học, khi họ phân tích xã hội mà chúng ta đang sống. Chúa Kitô đã không đến để giải thích chuyện này chuyện nọ nhưng là để thay đổi nhân loại. Con tim của bóng tối không chỉ thuộc về những con người gian ác ẩn sâu trong rừng, cũng không phải chỉ là sản phẩm do xã hội phương Tây sản sinh ra. Nó nằm trong mỗi người chúng ta với những mức độ khác nhau.
Kinh Thánh gọi đó là một trái tim bằng đá: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.” (Ezekiel 36:26). Một trái tim bằng đá là một trái tim đóng kín với thánh ý Chúa và sự đau khổ của anh chị em, là trái tim của một người chỉ biết tích lũy bạc tiền vô giới hạn tiền và thờ ơ trước sự tuyệt vọng của những người không có dù chỉ là một ly nước cho con mình; đó cũng là trái tim của những ai để cho bản thân mình hoàn toàn bị chi phối bởi những đam mê nhơ bẩn và sẵn sàng giết người vì niềm đam mê ấy hay sẵn sàng để sống một cuộc sống hai mặt. Khi không giữ cho tim mình biết hướng về tha nhân, chúng ta không thể mô tả trái tim của chúng ta là một quả tim của một thừa tác viên của Chúa hay của một người tín hữu Kitô thực hành đạo, nếu như chúng ta tiếp tục sống về cơ bản là “cho chính chúng ta”, chứ không phải là “cho Chúa”.
Có lời chép rằng “Bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.” (Mt 27:51-52) Những dấu hiệu này thường được giải thích như là những dấu chỉ của ngày tận thế; như thể nó là ngôn ngữ biểu tượng cần thiết để mô tả các sự kiện mang tính cánh chung. Những dấu hiệu này còn có một ý nghĩa khích lệ: chúng chỉ ra những gì nên xảy ra ở trong lòng một người đọc và suy niệm về Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô. Trong một buổi cử hành phụng vụ như buổi cử hành ngày hôm nay, Thánh Lêô Cả nói với các tín hữu, “Trái đất – tức là bản tính con người của chúng ta - nên run rẩy trước sự đau khổ của Đấng Cứu Chuộc nó. Những tảng đá – là con tim của những người không tin- nên bật tung ra thành từng mảnh. Người chết, bị giam cầm trong mồ mả tử vong của họ, nên bước ra, vì giờ đây những tảng đá khổng lồ đã vỡ nát” (Bài giảng 66, 3; PL 54, 366).
Trái tim bằng thịt, được Chúa hứa ban qua các ngôn sứ, giờ đây hiện diện trên thế giới: đó là trái tim của Chúa bị lưỡi đòng đâm thâu qua trên thánh giá, là trái tim mà chúng ta tôn sùng là “Thánh Tâm”. Khi lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta xác tín rằng trái tim Người cũng ngự đến và đập bên trong chúng ta nữa. Khi chúng ta ngước nhìn lên thánh giá, chúng ta hãy nói từ tận đáy lòng chúng ta, như người thu thuế trong đền thờ, “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội!” Và khi đó chúng ta, cũng như ông, trở về nhà “được công chính hóa” (Lc 18: 13-14).
Lễ nghi được tiếp nối với 10 lời nguyện cho các nhu cầu của Công Giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ Thánh Giá và phần hiệp lễ.
Phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh không phải là một Thánh Lễ, do đó Thánh Thể không được thánh hiến. Tuy nhiên, Mình Thánh Chúa đã được trao cho các tín hữu bởi hàng chục linh mục. Sau khi Đức Giáo Hoàng đọc lời chúc bình an, phụng vụ đã kết thúc trong im lặng theo như là truyền thống Phụng Vụ của Giáo Hội trong ngày thứ Năm và thứ Sáu Tuần Thánh.
Thứ Sáu Tuần Thánh tại Giêrusalem
VietCatholic Network
14:46 14/04/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Vào lúc 11 giờ sáng, các hiệp sĩ Thánh Mộ và anh chị em tín hữu đã đi đàng Thánh Giá trên chính con đường Chúa đã đi để lên đồi Golgotha.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Các nghi thức tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô tại Thánh Địa Giêrusalem không kết thúc sau lễ nghi suy tôn thánh giá lúc 3 giờ chiều nhưng trái lại buổi tối ngày Thứ Sáu Tuần Thánh mới là cao điểm với một nghi thức được nhiều người trông đợi đó là tang lễ của Chúa Kitô.
Đây là một nghi thức rất thịnh hành từ thời Trung Cổ ở nhiều quốc gia Âu Châu. Nhưng ở Giêrusalem, ngay tại nơi Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh và chịu chết trên thánh giá, nghi thức này có một ý nghĩa đặc biệt.
Ngay từ chiều tối đoàn rước tiến bước chậm chạp trong tiếng nhạc trầm buồn, u sầu trong đền thờ Thánh Mộ. Thỉnh thoảng đoàn lại dừng ở các nhà nguyện khác nhau trong đền thờ để suy niệm.
Bài trình thuật cuộc thương khó của Chúa Giêsu được đọc lên bằng các ngôn ngữ khác sau. Vị tổng thư ký của đoàn hiệp sĩ Thánh Mộ đã vác một cây thánh giá lên đồi Golgotha, ở đó sau khi đoạn Phúc Âm mô tả việc Chúa trút hơi thở cuối cùng và việc tháo đanh Chúa, 2 vị phó tế bắt đầu diễn lại các động tác tháo đanh và đưa Chúa xuống khỏi thánh giá trong không khí u buồn và than khóc. Đầu tiên là tháo mão gai trên đầu Ngài, rồi đến những chiếc đinh đã ghim Chúa vào thập giá.
Các động tác này tạo ra một bầu không khí thực sự mong đợi cho việc suy niệm về những biến cố lịch sử đã diễn ra ở đây. Một hình nộm của Chúa bị đóng đinh được rước vào trong huyệt đá để xức dầu thơm và được nhẹ nhàng đặt ở đó.
Một tu sĩ dòng Phanxicô, xức dầu chân dung của Đức Kitô trong khi nhắc lại lời Phúc Âm “Ông Giuse người xứ Arimathea là một môn đệ của Chúa Giêsu đã xin Philatô cho ông được tháo xác Chúa xuống khỏi thập giá. Philatô cho phép, và ông đã đưa xác Chúa xuống, bọc trong vải liệm, với các loại dầu thơm theo phong tục chôn cất của người Do Thái”.
Sau đó đoàn rước đến Mộ Thánh nơi đám tang Chúa được thực hiện cách biểu tượng.
Buổi đi Đàng Thánh Giá tại hí trường Côlôsêô ngày Thứ Sáu Tuần Thánh do Đức Thánh Cha chủ sự
VietCatholic Network
16:14 14/04/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
DẪN NHẬP
Download pdf version
Giờ đã đến. Cuộc lữ hành của Chúa Giêsu trên những nẻo đường bụi bặm của Galilê và Giuđêa, một cuộc gặp gỡ bất tận với những thân xác và con tim đang đau khổ, một cuộc hành trình được thúc đẩy bởi nhu cầu cấp bách của Ngài là công bố Nước Trời, kết thúc ở đây, hôm nay. Trên đồi Golgotha này. Hôm nay thập giá đặt dấu chấm hết. Chúa Giêsu sẽ không đi xa nữa.
Ngài không thể đi xa nữa!
Ở đây, tình yêu của Thiên Chúa cho thấy chiều kích đầy đủ của tình Ngài, vượt quá khả năng đo lường.
Hôm nay, tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn tất cả mọi người được cứu rỗi nơi Con của Người, đi đến tận cùng, nơi mọi từ ngữ đều lời thất bại, nơi mà chúng con cảm thấy ngỡ ngàng, lòng kính mến của chúng con choáng ngợp trước sự hào phóng trong những ý tưởng và kế hoạch của Thiên Chúa.
Trên đồi Golgotha này, trái với tất cả vẻ bề ngoài, điều nổi bật lên là sự sống, ân sủng và hòa bình. Ở đây điều đáng kể không phải là vương quốc của cái ác, mà chúng con tất cả đều biết rất rõ, nhưng là chiến thắng của tình yêu.
Bên dưới thập giá cũng thế, nổi bật lên là thế giới của chúng con với tất cả những thất bại và đau khổ, những thỉnh cầu và phản đối, tất cả những tiếng kêu của chúng con ngày nay kêu thấu đến Thiên Chúa từ những vùng đất nghèo khó và chiến tranh, từ những con thuyền tràn ngập người di cư.. .
Biết bao những giọt nước mắt, những đau khổ trong chén mà Chúa Con phải uống vì chúng con.
Biết bao những giọt nước mắt, bao nhiêu những đau khổ, nhưng chẳng có gì trong số đó sẽ bị mai một đi trong biển cả thời gian. Thay vào đó, Ngài sẽ đón nhận, và biến đổi trong mầu nhiệm của một tình yêu chiến thắng cái ác.
Đồi Golgotha nói với chúng con về lòng trung thành không lay chuyển của Thiên Chúa đối với nhân loại chúng con.
Một sự sống mới ra đời ở đó!
Chúng con cần can đảm để nói rằng tất cả điều này là niềm vui của Tin Mừng!
Trừ khi chúng con nhận ra sự thật này, chúng con vẫn còn bị mắc kẹt trong nỗi đau khổ và cái chết. Và chúng con không để cho cuộc thương khó của Đức Kitô sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng con.
Lời nguyện
Lạy Chúa, tầm nhìn của chúng con bị lu mờ. Làm sao chúng con có thể đi xa như thế với Chúa?
“Lòng Thương Xót” là tên của Chúa. Nhưng tên này là một điều điên rồ.
Xin cho những chiếc bầu da cũ kỹ của trái tim chúng con vỡ tung ra!
Xin soi sáng tầm nhìn của chúng con bằng tin mừng trong Phúc Âm, trong giờ phút chúng con đứng dưới chân cây thánh giá của Con Chúa.
Để rồi chúng con có thể cử mừng “chiều rộng, chiều dài và chiều sâu” (Eph 3:18) trong tình yêu của Chúa Kitô, với trái tim được an ủi và ngập tràn ánh sáng.
CHẶNG THỨ NHẤT
Chúa Giêsu bị kết án tử hình
Chúa Giêsu bị kết án tử hình
Phúc Âm theo thánh Luca
Khi trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu Người ra trước Thượng Hội Đồng (22: 66)
Phúc Âm theo thánh Máccô
Tất cả đều kết án Người đáng chết. Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: “Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi. (64-65)
SUY NIỆM
Các thành viên của Hội Đồng Công Tọa không cần thảo luận dài dòng mới đưa ra quyết định. Vấn đề đã được giải quyết từ lâu. Chúa Giêsu phải chết!
Đó cũng là những suy nghĩ của những người đã từng muốn xô Chúa Giêsu từ ngọn đồi ngày hôm đó, ở hội đường Nagiarét, khi Ngài mở sách và áp dụng những lời của tiên tri Isaiah vào chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4: 18-19).
Khi Chúa Giêsu chữa lành cho người bại liệt ở hồ Bethzatha và khai mạc ngày Sa-bát của Thiên Chúa, là ngày đem lại tự do cho mọi hình thức nô lệ, thì những tiếng lẩm bẩm và đe doạ mạng sống của Ngài đã bắt đầu nổi lên. (xem Ga 5: 1-18).
Ở cuối con đường này, khi Ngài lên Giêrusalem mừng Lễ Vượt Qua, cái bẫy giờ đây đã được giăng ra. Ngài không còn thoát được những kẻ thù của mình nữa (xem Ga 11: 45-57).
Nhưng sự hồi tưởng của chúng con phải quay trở lại xa hơn. Bắt đầu ở Bếtlêhem, vào lúc Chúa Giêsu chào đời, khi vua Hêrôđê lên án tử cho Chúa. Những tay sai của vua đã dùng gươm giáo tước mất mạng sống của các con trẻ thành Bếtlêhem. Lần đó Chúa Giêsu đã chạy thoát được cơn giận của họ. Nhưng chỉ trong một thời gian. Mạng sống của Ngài đã như chỉ mành treo chuông. Trong tiếng khóc nức nở của bà Rachel thương tiếc những đứa con mình nay không còn nữa, chúng con nghe một lời tiên tri về nỗi buồn mà ông Simêôn đã báo trước cho Đức Mẹ (xem Mt 2: 16-18; Lc 2: 34-35).
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, Chúa đã đến cùng chúng con, làm những điều thiện giữa chúng con và dẫn dắt về ánh sáng của sự sống những kẻ nằm trong miền thâm u của sự chết. Chúa nhìn thấu những vực thẳm trong trái tim chúng con.
Chúng con nói mình đứng về phía sự thiện và mong muốn sự sống. Nhưng chúng con lại là những kẻ tội lỗi và những kẻ đồng loã với cái chết.
Chúng con xưng mình là môn đồ của Chúa, nhưng chúng con lại chọn những con đường lìa xa tư tưởng, công lý và lòng thương xót của Chúa.
Xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con trong những cách thế bạo lực của chúng con.
Xin đừng mất kiên nhẫn với chúng con.
Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ!
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
“Dân ta ơi, ta đã làm gì cho ngươi? Hay ta đã làm phiền chi ngươi? Hãy trả lời ta đi.
CHẶNG THỨ HAI
Ông Phêrô chối Chúa
Ông Phêrô chối Chúa
Phúc Âm theo thánh Luca
Chừng một giờ sau, có người khác lại quả quyết: “Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng là người Galilê.” Nhưng ông Phê-rô trả lời: “Này anh, tôi không biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. (22:59-62)
SUY NIỆM
Ngồi quanh đống lửa, trong sân của Hội Đồng Công Tọa, ông Phêrô và một vài người khác sưởi ấm trong những giờ lạnh lẽo đó, giữa những ông đi qua và bà đi lại. Bên trong, số mệnh của Chúa Giêsu sắp được quyết định khi Ngài đối mặt với những kẻ cáo gian Người. Họ sẽ đòi Ngài phải chết.
Giống như một dòng nước thủy triều, sự thù hằn ngày càng dâng cao. Giống như dầu đổ vào lửa, hận thù bùng phát và lan rộng. Chẳng bao lâu đám đông thét lên và đòi Philatô tha tội cho Barabbas và lên án Chúa Giêsu.
Thật là lạnh xương sống khi dám xưng mình là bạn của một người đang bị kết án tử hình. Cho nên, sự trung thành dũng cảm của Phêrô đã thất bại trước câu hỏi nghi ngờ của một người tớ gái, là người đang đứng giữ cửa.
Dám xưng mình là một môn đệ của vị thầy Galilê nghĩa là đặt lòng trung thành với Chúa Giêsu lên trên cả cái mạng của mình! Khi yêu cầu lòng can đảm như thế, chân lý khó tìm được các nhân chứng.. . Đó là phương cách của chúng con. Nhiều người trong chúng con thích dối trá hơn sự thật. Phêrô là một người như chúng con. Ba lần ông phản bội Chúa. Rồi ông gặp ánh mắt của Chúa Giêsu. Và nước mắt của ông trào ra, cay đắng, như làn nước làm trôi đi một vết bẩn.
Chẳng bao lâu, trong một vài ngày nữa, xung quanh một ngọn lửa khác, trên bờ hồ, Phêrô sẽ nhận ra Chúa Phục Sinh của mình, là Đấng sẽ ủy thác cho ông việc chăm sóc các con chiên của Ngài. Phêrô sẽ biết đến những lời tha thứ của Chúa Phục Sinh trên tất cả những phản bội của chúng con là vô biên đến dường nào. Và từ lúc đó trở đi, ông sẽ có một lòng trung tín với Chúa khiến ông có thể chấp nhận cái chết của mình như là một của lễ kết hiệp với cái chết của Chúa Kitô.
Lời nguyện
Lạy Chúa, là Thiên Chúa của con, Chúa đã chọn Phêrô, là người môn đệ đã chối Chúa và đã đón nhận sự tha thứ của Chúa, làm người hướng dẫn đoàn chiên của Chúa.
Xin hãy đong đầy trái tim của chúng con với niềm tin và niềm vui khi biết rằng, trong Chúa, chúng con có thể vượt qua những rào cản của sợ hãi và bất trung.
Khi được dạy dỗ bởi Phêrô, xin cho tất cả các môn đệ của Chúa có thể làm chứng về đường lối của Chúa đối với tội lỗi của chúng con. Nguyện xin những khoảnh khắc nghiệt ngã và thất vọng trong đời chúng con không bao giờ có thể làm cho sự Phục sinh của Con Chúa trở nên vô nghĩa!
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,
Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,
Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.
CHẶNG THỨ BA
Chúa Giêsu và Philatô
Chúa Giêsu và Philatô
Phúc Âm theo thánh Máccô
Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội. Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá. (15:1.3.15)
Phúc Âm theo thánh Mátthêu
Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” (27:24)
Trích sách tiên tri Isaia
Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta.(53: 6)
SUY NIỆM
Rôma của Caesar Augústô, biểu tượng của văn minh, có những quân đoàn được cho là có sứ mạng mang đến cho các dân tộc đã bị chinh phục những lợi ích của trật tự công bình của nó.
Rôma cũng có mặt trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, trong con người của Philatô, là đại diện của Hoàng đế, là người bảo đảm cho luật pháp và công lý ở hải ngoại.
Tuy nhiên, cũng cùng một Philatô là người đã tuyên bố rằng mình không thấy Chúa Giêsu có tội gì, chính Philatô ấy là người đã lên án án tử hình cho Chúa Giêsu. Trên tòa cao, nơi Chúa Giêsu bị xét xử, sự thật trở nên quá rõ ràng. Công lý của dân ngoại cũng chẳng tốt hơn thứ công lý của Hội Đồng Công Tọa Do Thái!
Chúa Giêsu, Đấng Công Chính đón nhận một cách mầu nhiệm những ý nghĩ khát máu của trái tim con người, đang đánh đồng cả người Do Thái lẫn người ngoại giáo. Trong thời điểm này, Ngài đánh đồng họ bằng cách làm cho họ đồng trách nhiệm như nhau trong cái chết của Ngài. Tuy nhiên, thời gian sắp đến và đã gần kề, khi Đấng Công Chính sẽ đánh đồng họ theo một cách khác, qua thập giá của Người và với ơn tha thứ được ban cho tất cả mọi người, những người Do Thái và những người ngoại giáo, bằng cách đó cả hai sẽ được chữa lành khỏi sự gian ác và được giải phóng khỏi những cách thế bạo lực của họ.
Chỉ có một điều kiện để nhận được ơn sủng này. Đó là thừa nhận sự vô tội của Đấng thực sự vô tội, là Chiên Con của Thiên Chúa đã hy sinh vì tội lỗi của thế gian. Đó là từ bỏ cái giả định bên trong đang lẩm bẩm: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này”. Đó là thú nhận tội lỗi trong niềm tin rằng một tình yêu vô tận đang bao trùm tất cả mọi người, Do Thái cũng như dân ngoại, và Thiên Chúa kêu gọi tất cả mọi người trở thành con cái của Người.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, khi nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng đã bị nộp và bị kết án cho đến chết, chúng con chỉ cố biện minh cho mình và buộc tội người khác. Trong suốt một thời gian quá dài, các Kitô hữu chúng con đã đổ lỗi việc lên án Chúa trên vai dân Do Thái. Trong một thời gian dài, chúng con đã không nhận thức chúng con cũng phải nhìn nhận sự đồng lõa của chính chúng con trong tội lỗi này, để chúng con có thể được cứu rỗi nhờ máu của Chúa Giêsu bị đóng đinh.
Xin cho chúng con nhận biết nơi Con Chúa một Đấng Vô Tội, Đấng vô tội duy nhất trong lịch sử. Vì Ngài đã chấp nhận “thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (xem 2 Cor 5:21), để nhờ Ngài mà Chúa có thể gặp lại chúng con một lần nữa, phục hồi sự tinh tuyền Chúa đã dựng nên và làm cho chúng con là con cái Chúa.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, sao Chúa nỡ bỏ con?
CHẶNG THỨ TƯ
Chúa Giêsu, Vua Vinh Quang
Chúa Giêsu, Vua Vinh Quang
Phúc Âm theo thánh Máccô
Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: “Vạn tuế đức vua dân Do-thái!”
Trích sách tiên tri Isaia
Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. (53: 2-4)
SUY NIỆM
Sự chua chát của cái ác. Có bao nhiêu người nam nữ và thậm chí cả trẻ em là nạn nhân của bạo lực, lạm dụng, tra tấn và giết chóc, ở mọi thời điểm và mọi nơi.
Chúa Giêsu không tìm chỗ ẩn náu trong thần tính của Người. Người trở thành một phần trong cơn lũ những đau khổ khủng khiếp mà con người gây ra trên con người. Ngài cảm nhận nỗi cô đơn của những người bị bỏ rơi và những người bị gạt hoàn toàn ra ngoài lề.
Liệu những đau khổ của thêm một người vô tội nữa có thể giúp gì cho chúng con?
Chúa Giêsu là một người trong chúng con, nhưng trước hết, Người là Con yêu dấu của Cha, Đấng đã đến để làm trọn hảo toàn bộ sự công chính bởi sự vâng phục của Người.
Đột nhiên mọi sự lật ngược lại. Sự khinh miệt và xỉ nhục mà những kẻ tra tấn Chúa Giêsu đã cho chúng con thấy - theo một cách thế hoàn toàn ngược lại - một sự thật sâu sắc về vương quyền độc nhất của Người, được thể hiện như một tình yêu chỉ tìm kiếm thánh ý của Cha mình với ước muốn là tất cả chúng con được cứu rỗi. “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; con liền thưa: “Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý.” (Tv 40: 7-9).
Đó là thông điệp của giờ này trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Chỉ có một vinh quang trong cõi đời này và trong tương lai: vinh quang nhận biết và làm theo thánh ý Chúa Cha. Không ai trong chúng con có thể nhắm đến một phẩm giá cao hơn là phẩm giá được làm con cái trong Chúa Con, Đấng đã vâng phục vì chúng con, cho đến chết trên cây thập tự.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, vào ngày thánh thiện đem sự mặc khải của Chúa đến mức viên mãn này, chúng con xin Chúa lật nhào mọi thứ ngẫu tượng trong chúng con và trong thế giới của chúng con. Chúa biết sự lạc lối mà chúng tạo ra trong tâm trí và trái tim chúng con. Xin Chúa hãy lật nhào trong chúng con mọi ảo tưởng lừa dối về thành công và vinh quang.
Xin Chúa hãy lật nhào trong chúng con những hình ảnh liên tục về một Thiên Chúa do chính chúng con vẽ nên theo ý thích mình, một Thiên Chúa xa xôi, không giống như thiên nhan được mạc khải trong giao ước và được thể hiện ngày hôm nay trong Chúa Giêsu.
Người là Thiên Chúa vượt quá mọi hy vọng và kỳ vọng của chúng con. Xin cho chúng con tuyên xưng rằng trong Chúa Giêsu chúng con thấy “sự rạng ngời vinh quang của Chúa” (xem Do Thái 1: 3).
Xin cho chúng con được bước vào niềm vui vĩnh cửu khiến chúng con có thể chúc tụng Chúa Giêsu, Đấng đang mặc áo màu tím và đội mão gai, là vua của vinh quang. Vì trong Người mà Thánh Vịnh đã hát mừng: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào” (24: 9).
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa,
hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào
CHẶNG THỨ NĂM
Chúa Giêsu vác thánh giá
Chúa Giêsu vác thánh giá
Trích sách Ai Ca
“Này tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem: Có nỗi khổ nào so sánh được với nỗi khổ Đức Chúa giáng trên tôi, khi Người nổi trận lôi đình mà trừng phạt.” (1:12)
Thánh Vịnh 146
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Giacóp phù hộ và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ (5.7.8.9)
SUY NIỆM
Dọc theo lối đá lên đồi Golgotha, Chúa Giêsu đã không vác thập giá như cầm một chiếc cúp! Người hoàn toàn không giống như những anh hùng trong trí tưởng tượng của chúng con, đang vinh thắng trước những kẻ thù xấu xa của họ.
Lê từng bước một, chậm chạp, Người lết đi, cơ thể Người quằn xuống, thâm tím và chân Người run rẩy dưới sức nặng của cây thập tự.
Hết thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, Giáo Hội đã suy gẫm con đường này, giữa những gập ghềnh và những cái té ngã.
Chúa Giêsu ngã xuống, Người đứng dậy, rồi lại ngã. Người tiếp tục cuộc hành trình mệt nhọc, hầu chắc là dưới roi đòn của đám lính bên cạnh Người, như cách thức những người bị kết án trong thế giới này vẫn thường bị đối xử và ngược đãi.
Chúa, Đấng đã nâng người bệnh dậy, đã chữa lành cho người phụ nữ bị tê liệt, cứu sống cô con gái của ông Giairô đã chết trên giường bệnh, cho người què được đi, giờ đây đang nằm phủ phục trong cát bụi.
Đấng Tối Cao đã ngã xuống đất.
Xin cho chúng con dán mắt vào Chúa Giêsu. Qua Người, Đấng Tối Cao dạy chúng con trong một cách thế không thể tin nổi rằng Ngài cũng đồng thời là người thấp hèn nhất, để sẵn sàng đến với chúng con, và hạ xuống thấp hơn nữa, nếu cần, để không ai bị lạc lối trong chiều sâu của khổ đau.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, Chúa bước xuống tận những chiều sâu thẳm trong đêm tối của chúng con, hạ mình đến tận cùng, vì đó là cách thế Chúa xuống với cuộc đời của chúng con, là những kẻ quá thường khi vô ơn và đôi khi còn băng hoại.
Xin Chúa cho Giáo Hội của Chúa biết làm chứng rằng Đấng Tối Cao và Đấng Thấp Hèn Nhất, trong Chúa, là một khuôn mặt duy nhất. Xin cho Giáo Hội có thể mang lại cho tất cả những người rốt cùng niềm vui của Tin Mừng rằng không có sa ngã nào mà lòng thương xót của Chúa không thể chạm đến; không có sự lạc lối nào hay những vực thẳm nào là quá sâu và quá xa đến mức Chúa không thể tìm thấy những ai đã lạc bước sa chân.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Lạy Chúa, này con xin đến để làm theo thánh ý Chúa.
CHẶNG THỨ SÁU
Chúa Giêsu và ông Simôn người xứ Kyrênê
Chúa Giêsu và ông Simôn người xứ Kyrênê
Phúc Âm theo thánh Luca
Khi điệu Đức Giêsu đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Simôn, gốc Kyrênê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giêsu.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu
Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?”
SUY NIỆM
Chúa Giêsu đang vấp ngã trên đường đi, lưng Người oằn xuống dưới sức nặng của thập giá. Tuy nhiên, Người không được dừng lại nhưng phải tiếp tục đi, đến Golgotha, “Núi Sọ” khủng khiếp, bên ngoài bức tường của thành phố, là điểm đến mà quân lính đang thúc giục Người.
Một người đàn ông mạnh khoẻ đi qua vào lúc đó. Anh ta dường như không liên quan gì đến những chuyện đang xảy ra. Anh đang trên đường trở về nhà mình, hoàn toàn không ý thức gì về các sự kiện xung quanh Chúa Giêsu, khi quân lính buộc anh phải vác thập giá giúp Người.
Anh ta có thể biết gì về người bị kết án đang bị đám lính xua đi đến chỗ hành hình? Anh có thể biết gì về con người mà vẻ bề ngoài “quá thê thảm, không còn hình tượng người ta”, giống như người đầy tớ đau khổ của Isaia?
Chúng con không được nghe kể về sự ngạc nhiên của Simêon, và lúc đầu anh ấy có từ chối không, hay có thương hại Chúa mà vác thập giá giúp Người hay không. Tin Mừng chỉ đề cập đến tên của anh ta: ông Simôn người xứ Kyrênê. Tuy nhiên, Tin Mừng đã giữ cho sống động danh tính của người Libya này và cử chỉ giúp đỡ đơn sơ của anh, để dạy chúng con rằng, khi giảm bớt nỗi đau của ai đó bị kết án, Simôn đã làm giảm nhẹ nỗi đau của Chúa Giêsu, của Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu, đã đi ngang qua con đường của Simôn dưới hình dạng của một người nô lệ, vì chúng con, vì ông Simôn, vì phần rỗi của thế giới. Cho dù anh ta có biết điều đó hay không.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, Chúa đã mạc khải cho chúng con rằng trong mỗi người nghèo khổ, trần truồng, bị giam giữ, đói khát, chính là Chúa đang đứng trước chúng con, chính là Chúa mà chúng con chào đón, thăm viếng, cho mặc và ăn uống. “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 35-36). Mầu nhiệm thay cuộc gặp gỡ của Chúa với nhân loại chúng con! Không ai bị loại trừ khỏi cuộc gặp gỡ này, nếu người ấy tỏ lòng trắc ẩn.
Chúng con xin dâng lên Chúa như một của lễ thiêng liêng, tất cả những hành động từ bi, đón nhận, dấn thân, được thực hiện hằng ngày trên thế giới này. Xin Chúa rủ lòng thương xem những hành động ấy như là sự thật của nhân loại chúng con, đang nói to hơn tất cả các hành động từ chối và hận thù. Xin Chúa rủ lòng thương chúc phúc cho những người nam nữ từ bi đã làm rạng danh Chúa, dù cho họ chưa biết Chúa.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,
Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,
Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.
CHẶNG THỨ BẨY
Chúa Giêsu và những người phụ nữ thành Giêrusalem
Chúa Giêsu và những người phụ nữ thành Giêrusalem
Phúc Âm theo thánh Luca
Dân chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than khóc Người. Đức Giêsu quay lại phía các bà mà nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu... Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” (23: 27-28.31)
SUY NIỆM
Những giọt nước mắt dành cho Chúa Giêsu của những người phụ nữ như một hành động từ bi, những giọt nước mắt của phụ nữ ấy luôn hiện diện trong thế giới này.
Chúng lặng lẽ rơi trên má họ. Và chắc chắn, thậm chí còn thường xuyên hơn, họ rơi lệ trong trái tim mình, giống như những giọt nước mắt bằng máu đã được thánh Catherine thành Siena đề cập đến.
Không phải chỉ có phụ nữ mới khóc, như thể họ có quá nhiều nỗi đau để than van, trong sự thụ động và bất lực trước một lịch sử chỉ có những người đàn ông mới có quyền được viết.
Sự đau khổ của họ bao trùm tất cả những giọt nước mắt rơi lặng lẽ và không lộ ra trong một thế giới có quá nhiều thứ để khóc. Có những giọt nước mắt của những đứa trẻ sợ hãi và những người bị thương trên chiến trường đang kêu mẹ, những giọt nước mắt của những người bệnh đang hấp hối, một mình trên ngưỡng cửa của cõi u minh. Có những giọt nước mắt của sự thất vọng rơi trên khuôn mặt của thế giới này, vốn được tạo thành vào ngày đầu tiên cho nước mắt của niềm vui, trong sự hân hoan được chia sẻ giữa một người nam và một người nữ.
Etty Hillesum, là một người phụ nữ can đảm của Do Thái, là người không hề nản chí trước đám cháy lan nhanh khủng khiếp của Quốc xã, đã bảo vệ sự thiện cho đến cùng. Cô thì thầm với chúng con bí mật mà cô nắm bắt ở cuối con đường của cô: rằng có những giọt nước mắt kêu lên van xin sự an ủi trên chính khuôn mặt của Chúa, khi Người khóc thương trước những đau khổ của con cái mình. Giữa nơi địa ngục mà thế giới đã lao vào, cô đã dám nói với Chúa trong lời cầu nguyện của mình: “Con sẽ cố gắng giúp Chúa!” Thật dũng cảm, và đồng thời thật nữ tính và linh thánh!
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, Thiên Chúa của sự dịu dàng và lòng thương xót, Thiên Chúa của tình yêu và sự trung tín tuyệt vời, xin dạy chúng con lúc thịnh vượng đừng khinh chê những giọt nước mắt của những người nghèo đang kêu lên cùng Chúa và tìm kiếm sự giúp đỡ của chúng con. Xin dạy chúng con đừng lờ đi những giọt lệ ấy bằng sự thờ ơ. Xin dạy cho chúng con có can đảm để cùng khóc với họ. Xin dạy chúng con, trong đêm đen những đau khổ, cô đơn và thất vọng của chúng con, để chúng con biết nghe những mối phúc mà Chúa đã nói với chúng con trong bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an” (Mt 5: 4)
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,
Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,
Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.
CHẶNG THỨ TÁM
Chúa Giêsu bị lột áo
Chúa Giêsu bị lột áo
Phúc Âm theo thánh Gioan
Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần (19:23).
Trích sách ông Gióp
“Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.” (1:21)
SUY NIỆM
Thân thể bị chê bai của Chúa Giêsu bị lột ra. Bị phơi bày cho những ánh mắt chế giễu và khinh thường. Thân xác của Người, giập nát và đầy những vết thương, đã sẵn sàng cho sự trừng phạt cuối cùng là bị đóng đinh vào thập giá. Nhân loại phàm trần như chúng con còn biết làm gì hơn là cúi mặt để tránh đừng gây thêm ô nhục cho Chúa?
Tuy nhiên, thần khí đến giúp chúng con trong bối cảnh thất vọng và hoang mang này. Ngài dạy chúng con hiểu ngôn ngữ của Thiên Chúa, ngôn ngữ của kénosis [tự hạ mình ra thành hư không], sự tự hạ mình của Thiên Chúa để đến với chúng con ở bất cứ nơi nào. Nhà thần học Chính Thống Giáo Christos Yannaras nói với chúng con về ngôn ngữ này của Thiên Chúa: “ngôn ngữ của kénosis: nghĩa là hài nhi Giêsu nằm trần truồng trong máng cỏ; trần truồng trên sông để nhận phép Rửa như một người nô lệ; và trần truồng chịu treo trên thập giá như một phường trộm cướp. Trong tất cả những điều này, Ngài đã thể hiện tình yêu của mình dành cho chúng ta”.
Khi chúng con bước vào mầu nhiệm ân sủng này, xin cho chúng con có thể mở mắt mình ra một lần nữa và ngắm nhìn thân xác chịu bầm giập của Chúa Giêsu. Rồi chúng con hướng đến những gì đôi mắt của chúng con không thể nhìn thấy được: đó là sự trần truồng của Người đang tỏa ra ánh quang rạng rỡ với cùng một vẻ huy hoàng đã làm y phục Ngài sáng rạng rỡ trong cuộc Biến Hình.
Ánh sáng xua tan mọi bóng tối.
Đó là ánh sáng không thể cưỡng lại của một tình yêu đến tột cùng.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, chúng con đặt trước mắt mình những đoàn lũ những người nam nữ là nạn nhân của tra tấn, một con số thật kinh hoàng các thân thể bị bầm giập, bị đấm đá đang run rẩy vì sợ hãi, đang chờ chết trong các tầng hầm và trong các nhà giam ảm đạm.
Chúng con cầu xin Chúa lắng nghe những tiếng kêu của họ.
Đối mặt với điều ác, chúng con không nói nên lời và bất lực.
Tuy nhiên, Chúa làm được những gì chúng con không làm nổi. Chúa có thể tìm ra một thông lộ giữa chập chùng những hỗn loạn và ảm đạm của điều ác. Ngay cả giờ đây, trong cuộc thương khó của Con yêu dấu Chúa, Chúa vẫn có thể mang lại ánh sáng phục sinh.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,
Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,
Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.
CHẶNG THỨ CHÍN
Chúa Giêsu chịu đóng đinh
Chúa Giêsu chịu đóng đinh
Phúc Âm theo thánh Luca
Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (23:33-34)
Trích sách tiên tri Isaia
Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành (53:5).
SUY NIỆM
Quả thật, Thiên Chúa không thể như thế!
Con yêu dấu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, giờ đây là một thân thể bị phơi bày trên thập giá của sự hổ thẹn, bị bỏ rơi nhục nhã, giữa hai tên tội phạm. Một người đau khổ mà người ta quay đi; ngay cả chúng con cũng từng quay lưng lại với rất nhiều những người nam nữ có khuôn mặt biến dạng mà chúng con gặp trên đường đi.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, từ đó mọi sự được tác thành, giờ đây chỉ còn là một khối thịt câm nín và đau khổ. Tất cả sự tàn ác của con người đều nổi lên chống lại Người và đã thắng thế. Quả thật, Thiên Chúa không thể như thế. Tuy nhiên, đồng thời, chính xác đó mới là những gì chúng con cần nơi Chúa!
Người đến để chia sẻ cuộc sống của mình với chúng con. “Hãy nhận lấy!” như Người vẫn thường nói, khi Người chữa bệnh cho những người đau yếu, tha thứ cho những con tim lầm lạc và trao ban chính Người trong bữa tiệc ly.
Tuy nhiên, Người đã kết thúc trong tay chúng con, trong thực tại của chết chóc và bạo lực không ngừng gây kinh hoàng cho chúng con khi chúng con nhìn xung quanh mình. Bạo lực cũng lẻn cả vào trong trái tim của chúng con nữa. Các tu sĩ bị giết tại Tibhirine đã nhận thức được điều này; cùng với lời cầu nguyện: “xin hãy tước vũ khí của họ!”, các vị cũng cầu xin: “và của cả chúng con nữa!”
Tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đã xuống thăm địa ngục của chúng con. Đó là cách duy nhất để giải thoát chúng con ra khỏi cái ác.
Chúa Giêsu đã phải mang sự dịu dàng vô biên của Thiên Chúa đến chính tâm điểm tội lỗi của thế gian.
Chỉ bằng cách đó, bằng cách trực tiếp gặp gỡ với sự sống của Thiên Chúa, cái chết mới quay lui và sụp đổ, như một kẻ thù, gặp phải người khác mạnh mẽ hơn mình, sẽ cao bay xa chạy và biến mất.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, xin đón nhận lời chúc tụng trong thinh lặng của chúng con.
Như các vị vua không nói nên lời khi tiên tri Isaia công bố về Người Tôi Tớ (xem 52:15), chúng con im lặng và ngạc nhiên trước Chiên Con bị giết vì chúng con và vì sự sống của thế gian. Chúng con tuyên xưng rằng nhờ những thương tích của Chúa, chúng con được chữa lành. “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.” (Tv 116: 12.17).
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Chúa Kitô, chịu chết vì tội lỗi chúng con,
Chúa Kitô, đã sống lại vì sự sống của chúng con,
Chúng con cầu xin Chúa: xin thương xót chúng con.
CHẶNG THỨ MƯỜI
Chúa Giêsu trên thánh giá chịu thiên hạ nhạo cười
Chúa Giêsu trên thánh giá chịu thiên hạ nhạo cười
Phúc Âm theo thánh Luca
Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” (23:35-39)
Bấy giờ, quỷ nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!…Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn” (4:3.9-11).
SUY NIỆM
Chẳng lẽ Chúa Giêsu không xuống khỏi thập giá được sao? Chúng con chắc không dám đặt câu hỏi này vì Phúc Âm há chỉ đặt nó trên môi của những kẻ vô thần đó sao?
Nhưng mà, cái câu hỏi ấy vẫn tiếp tục ám ảnh chúng con, vì chúng con cũng vẫn là một phần của cái thế giới đầy chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã phải đối mặt trong suốt bốn mươi ngày trong hoang địa, như là sự khởi đầu và khai mạc sứ vụ của Người. “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!…Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ gìn giữ bạn”. Tuy nhiên, trong chiều kích mà chúng con, những người đã chịu phép rửa và tin vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, những người đang dõi bước theo Ngài, những lời châm chọc của kẻ ác không hề tóm được chúng con; chúng bất lực, sự lừa dối của chúng là hiển nhiên.
Chỉ khi nào chúng con khám phá ra được sức mạnh cương quyết của những lời đó, “Điều đó không cần thiết sao.. .?” (Lc 24:26), mà Chúa Giêsu đã kiên nhẫn giảng giải với các môn đồ của mình trên đường Emmaus.
“Điều cần thiết” là Đức Kitô phải chấp nhận sự vâng lời và sự bất lực này, để đến với chúng con trong sự bất lực vì sự bất tuân của chúng con.
Chỉ khi đó chúng con mới hiểu được rằng “chỉ có một Thiên Chúa Đấng chịu khổ đau mới có thể cứu được chúng ta”, như Dietrich Bonhoeffer đã viết vài tháng trước khi bị hành hình. Khi trải nghiệm sức mạnh của ma quỉ đến tột cùng, ông mới có thể tổng hợp, trong sự thật đơn giản và áp đảo này, về đức tin Kitô giáo.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, ai sẽ giải phóng chúng con khỏi những nanh vuốt của thế gian? Ai sẽ giải phóng chúng con ra khỏi sự bạo ngược của những lời dối trá, làm cho chúng con ra kiêu căng và tìm kiếm vinh quang phù phiếm của chúng con?
Chỉ một mình Chúa mới có thể biến đổi con tim chúng con.
Chỉ một mình Chúa mới có thể làm cho chúng con yêu thích con đường khiêm hạ.
Chỉ có Chúa, là Đấng đã chỉ cho chúng con thấy không có chiến thắng nào ngoài tình yêu, và tất cả những gì khác chỉ là rơm rạ phất phơ trước gió, chỉ là những ảo ảnh biến mất khi đối mặt với chân lý của Chúa.
Chúng con xin Chúa, lạy Chúa, xin xua tan những giả trá đang muốn thống trị trong trái tim và trong thế giới của chúng con.
Xin cho chúng con bước theo những đường lối của Chúa, để thế giới có thể nhận ra sức mạnh của thánh giá.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Lạy Thiên Chúa của con, lạy Chúa, sao Chúa nỡ bỏ con?
CHẶNG THỨ MƯỜI MỘT
Chúa Giêsu và Mẹ Người
Chúa Giêsu và Mẹ Người
Phúc Âm theo thánh Gioan
Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđalêla. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (19:25-27).
SUY NIỆM
Đức Mẹ cũng đã đến cuối cuộc hành trình. Mẹ đã đến ngày mà ông già Simêôn đã tiên báo. Khi ôm hài nhi trong vòng tay run rẩy của mình, lời tạ ơn của ông đã phải nhường bước cho những lời bí ẩn đan quyện bi kịch và hy vọng, nỗi buồn và ơn cứu độ vào với nhau.
Ông Simêôn nói: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2,34-35).
Cuộc viếng thăm của thiên sứ đã làm cho trái tim của Đức Maria kinh ngạc trước tin lạ lùng rằng Thiên Chúa đã chọn cuộc đời mình để mang lại những điều mới mẻ đã hứa cùng Israel: “điều mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe” (1 Cr 2: 9; Is 64: 3). Mẹ đã ưng thuận với kế hoạch thiêng liêng sẽ sớm liên quan đến thân xác của mình và sau đó đồng hành cùng con Mẹ, là hoa trái của cung lòng Mẹ dọc theo những nẻo đường không lường trước được.
Trong những ngày bình yên tại Nazareth, và sau đó trong đời sống công cộng của Chúa Giêsu, khi phòng ốc cần được mở rộng thêm cho một gia đình khác, gia đình của các môn đệ, những người lạ mặt mà Chúa Giêsu đã kết làm anh, làm chị, làm em, và làm mẹ mình, Mẹ đã lưu giữ tất cả những điều này trong trái tim mình. Mẹ đã ủy thác mọi sự trong sự kiên nhẫn tuyệt vời xuất phát từ niềm tin của mình.
Hôm nay là ngày hoàn thành. Lưỡi gươm đã đâm thâu tâm hồn Mẹ. Đức Maria cũng có một niềm tin bất tận mà Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn niềm tin ấy trong sự vâng phục của Người đối với Chúa Cha. Đứng ở đó, Mẹ không bỏ rơi con mình. Stabat Mater. Trong bóng tối, nhưng với một niềm tín thác, Mẹ biết rằng Thiên Chúa sẽ giữ lời hứa của Người. Trong bóng tối, nhưng với một sự xác tín, Mẹ biết rằng Chúa Giêsu vừa là lời hứa vừa là sự hoàn thành của lời hứa ấy.
Lời nguyện
Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và người nữ của nhân loại chúng con, như một người mẹ, Mẹ hạ sinh chúng con trong Đấng mà Mẹ đã sinh ra: xin nâng đỡ chúng con trong đức tin vào giờ khắc tối tăm này và dạy chúng con biết hy vọng trước tất cả những thất vọng của cuộc đời.
Xin Mẹ gìn giữ toàn thể Giáo Hội trong sự trung tín và tỉnh thức, theo gương trung tín của Mẹ, khiêm tốn ngoan ngoãn vâng theo thánh ý Chúa, trong hết mọi sự Chúa dạy hay gởi đến cho chúng con, hiệp nhất chúng con, giúp chúng con vươn xa tới điều chúng con không dám mơ tưởng, là ơn cứu rỗi.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Lạy Nữ Vương Rất Thánh, Lạy Mẹ từ bi,
Là sự sống của chúng con, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con.
CHẶNG THỨ MƯỜI HAI
Chúa Giêsu chết trên thánh giá
Chúa Giêsu chết trên thánh giá
Phúc Âm theo thánh Gioan
Đức Giêsu nói “Ta khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất! “ Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí… Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, quân lính không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực” (19:28-30.33-35).
SUY NIỆM
Tất cả giờ đây đã được hoàn thành. Sứ vụ của Chúa Giêsu đã được hoàn tất. Ngài đã đến từ Chúa Cha trong một sứ mệnh của lòng thương xót. Nhiệm vụ đó đã được hoàn thành với một lòng trung tín đạt đến những giới hạn tột cùng của tình yêu. Tất cả đã kết thúc. Chúa Giêsu phó linh hồn mình vào tay Chúa Cha.
Tất cả mọi thứ dường như rơi vào một sự im lặng chết người đang ập xuống trên đồi Golgotha và ba cây thánh giá đứng đó. Vào cuối ngày lễ Vượt Qua này, bất cứ ai đi qua đó cũng chỉ có thể nghĩ đến sự thất bại của Chúa Giêsu, sự sụp đổ của niềm hy vọng đã làm rung động con tim nhiều người, an ủi người nghèo, nâng đỡ người thấp hèn và cho những người theo Ngài thấp thoáng thấy rằng đã đến thời điểm Thiên Chúa sẽ hoàn thành những lời hứa đã được các tiên tri tiên báo. Bây giờ mọi thứ dường như đã mất, tan tành trong đống đổ nát.
Tuy nhiên, trong bối cảnh thất vọng đó, Thánh Sử Gioan đã khiến chúng ta chú ý đến một chi tiết nhỏ, mà ngài đã long trọng miêu tả. Nước và máu đã tuôn ra từ bên phải cạnh sườn Chúa Giêsu trên cây thánh giá. Thật tuyệt vời! Vết thương mở ra bởi ngọn giáo của người lính tuôn trào một dòng nước và máu nói với chúng ta về sự sống và sự chào đời.
Thông điệp này khá ngắn gọn, nhưng nó nói lên một cách hùng hồn trong con tim những ai còn nhớ. Từ thân thể của Chúa Giêsu, có một dòng nước mà vị tiên tri đã thấy từ Đền Thờ. Một dòng nước tràn lên và trở thành một con sông hùng vĩ, một dòng nước phục hồi và làm sinh hoa trái tất cả những gì nó chạm đến trong dòng chảy của mình. Chúa Giêsu đã chẳng nói về thân xác Ngài như một Đền Thờ mới đó sao? “Máu của giao ước” đi kèm với nước đó. Chẳng phải Chúa Giêsu đã nói về xác thịt và máu Ngài như là thức ăn cho sự sống đời đời đó sao?
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trong những ngày thiêng liêng của mầu nhiệm Vượt Qua này, xin hãy canh tân trong chúng con niềm vui của phép rửa tội.
Khi chúng con chiêm ngưỡng nước và máu chảy ra từ cạnh sườn Chúa, xin hãy dạy cho chúng con biết nhận ra nguồn suối sự sống mới của chúng con, tình yêu trên đó Giáo Hội Chúa được xây dựng, và niềm hy vọng khi Chúa chọn chúng con và gửi chúng con đi chia sẻ cùng thế giới.
Đây là nguồn mạch của sự sống tắm gội toàn bộ vũ trụ, dâng lên từ cạnh sườn bị đâm thâu qua của Chúa Kitô. Xin cho phép rửa là vinh quang duy nhất của của chúng con, khi chúng con dâng lên Chúa lời tán tụng ngợi khen đầy những kinh ngạc của chúng con.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Chiên Con đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,
danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.
CHẶNG THỨ MƯỜI BA
Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thánh giá
Hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thánh giá
Phúc Âm theo thánh Luca
Ông Giuse người xứ Arimathêa hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. (23:53)
SUY NIỆM
Có những dấu chỉ về sự yêu thương chăm sóc và danh dự dành cho thân xác bị bầm giập và tan nát của Chúa Giêsu. Một vài người đàn ông và đàn bà tụ tập dưới chân thập giá. Ông Giuse, một người xứ Arimathêa, “một người tốt lành và công chính” (Lc 23:50), là người mà Thánh Luca nói với chúng ta, đã xin Philatô cho phép chôn cất Chúa. Và cả ông Nicôđêmô, là người đã đến với Chúa Giêsu vào ban đêm, như Thánh Gioan đề cập thêm. Và có cả một số những phụ nữ, là những người trung thành với Chúa đến cùng, cũng phụ giúp.
Sự chiêm ngắm của Giáo Hội về cảnh này cũng bao gồm Đức Trinh Nữ Maria, người chắc chắn đã có mặt trong giây phút này.
Đức Maria, Mẹ của lòng từ bi, đón nhận vào vòng tay Mẹ cơ thể đã được sinh ra từ xác thịt mình, mà Mẹ đã đồng hành, đầy yêu thương và lặng lẽ, qua nhiều năm, giống như mọi người mẹ chăm sóc con cái mình.
Bây giờ cơ thể mà Mẹ đang ôm trong tay đã mở rộng đến tột cùng nỗi buồn của Mẹ, và nảy sinh một thụ tạo mới từ cuộc thương khó của một tình yêu đã đâm thấu trái tim của cả Con và Mẹ.
Trong sự im lặng tuyệt vọng rơi xuống sau những tiếng la lớn của những người lính, những lời xúc phạm của những kẻ qua đường và sự náo loạn của cuộc đóng đinh hành hình, chỉ còn lại những dấu hiệu của tình yêu và sự chăm sóc, những yêu thương kính trọng. Ông Giuse hạ xác Chúa xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn vào núi đá trong khu vườn gần đó.
Chúa Giêsu được lấy khỏi tay những kẻ giết người. Bây giờ, trong cái chết, một lần nữa Người được ôm ấp với sự dịu dàng và từ bi.
Bạo lực của những kẻ giết người đã lui ra xa. Sự dịu dàng đã trở lại nơi hành hình.
Sự dịu dàng của Chúa và những ai thuộc về Người, của những trái tim hiền lành mà Chúa đã hứa Nước Trời dành cho họ. Sự hiền lành ban đầu của sáng tạo, của người nam và người nữ được tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Sự dịu dàng của thời cuối cùng, khi mọi giọt lệ được lau sạch và chó sói sẽ ở cùng với chiên con, vì mọi xác thịt sẽ nhận biết Thiên Chúa (xem 11: 6.9).
Khúc hát dâng Mẹ Maria
Ôi Maria, đừng khóc nữa: Con Mẹ, là Chúa chúng con, đã say ngủ trong yên bình.
Cha của Người, trong vinh quang, mở ra trước mắt Người những cánh cửa của cuộc sống!
Ôi Maria, hân hoan lên: Chúa Giêsu Phục Sinh đã chinh phục được cái chết!
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Con sẽ nằm xuống trong bình an, Chúa ơi, và giấc ngủ sẽ đến ngay lập tức.
Con sẽ trỗi dậy, vì Chúa là sức mạnh của con.
CHẶNG THỨ MƯỜI BỐN
Chúa Giêsu được đặt trong huyệt đá
Chúa Giêsu được đặt trong huyệt đá
Phúc Âm theo thánh Luca
Cùng đi với ông Giuse, có những người phụ nữ đã theo Đức Giêsu từ Galilê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm (23:55-56).
SUY NIỆM
Những phụ nữ đã đi khỏi. Người mà họ đã cùng đồng hành và chăm sóc liên tục dọc những nẻo đường Galilê không còn nữa. Tối nay, họ để Người lại một mình, họ chỉ còn đồng hành với Người qua những suy nghĩ về ngôi mộ và tấm vải liệm Người. Một hồi ức thoáng qua nhưng rất quý giá về những ngày đầy phấn khởi đã đi qua. Giờ chỉ còn lại sự cô đơn và im lặng. Ngày Sa-bát kéo đến gần, buộc người Do Thái phải nghỉ việc, như Thiên Chúa đã nghỉ ngơi sau khi hoàn tất và chúc phúc cho công trình sáng tạo của Ngài.
Hôm nay có một sự hoàn thành khác, hiện vẫn còn ẩn giấu và khó hiểu. Một ngày Sa-bát để nghỉ ngơi lặng lẽ, với những con tim hồi tưởng và những tâm trí nặng những ưu phiền. Nhưng đối với những người phụ nữ, đó cũng là một ngày để chuẩn bị dầu và thuốc thơm để bày tỏ sự kính trọng cuối cùng dành cho thân xác của Chúa vào ngày mai, lúc sáng sớm.
Phải chăng họ đang chuẩn bị chỉ đơn giản là để dưỡng nuôi hy vọng của mình? Điều gì sẽ xảy ra nếu Chúa đã chuẩn bị sẵn, để đáp lại lòng sùng mộ của họ, bằng một cái gì họ không thể đoán trước, không thể tưởng tượng hay dự đoán được? Sự phát hiện ra một ngôi mộ trống, một thông điệp rằng Người không còn ở đó, vì Người đã phá tan các cánh cửa của cái chết.. .
Lời nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con, xin hãy nhìn đến và chúc phúc cho tất cả những người phụ nữ ở khắp mọi nơi đang chăm sóc cho những thân thể yếu đuối và dễ bị tổn thương, với lòng tốt và sự tôn trọng.
Xin ban cho cả chúng con nữa, những người đã đồng hành cùng Chúa trên con đường tình yêu này đến cùng, cùng với những người phụ nữ trong Tin Mừng, được bền chí trong lời cầu nguyện nhiệt thành. Vì chúng con biết rằng lời cầu nguyện của chúng con sẽ được đáp trả bằng sự phục sinh của Chúa Giêsu, mà Giáo Hội Chúa chuẩn bị cử hành trong niềm vui của đêm Phục Sinh.
Lạy Cha chúng con ở trên trời….
Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. Amen.