Ngày 19-03-2014
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Trung Quốc: Chính quyền cho phép cử hành thánh lễ an táng ĐGM Phạm Trung Lương trong nhà thờ chính tòa
Tiền Hô
09:42 19/03/2014
Trung Quốc: Chính quyền cho phép cử hành thánh lễ an táng ĐGM Phạm Trung Lương trong nhà thờ chính tòa

Thượng Hải, 18/03/2014 - Chính quyền thành phố Thượng Hải đã cấp phép cho người Công Giáo trong giáo phận này cử hành thánh lễ an táng cho giám mục của họ là Đức Cha Giuse Phạm Trung Lương (Fan Zhongliang), ngài qua đời vào hôm 16 Tháng Ba.

Đức Cha Phạm Trung Lương là giám mục của Giáo phận Thượng Hải, thuộc cộng đoàn Giáo Hội hầm trú, mà chính phủ vốn không công nhận điều này. Khi công bố việc ngài qua đời, nhà cầm quyền đã cấm di chuyển thi hài của ngài đến nhà thờ chính tòa mà chỉ được quàn ở một nhà tang lễ, nơi này tín hữu mới có thể tỏ lòng tôn kính ngài từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Sau đó, họ đã cho phép cử hành thánh lễ tại đó, mà thực chất là một số linh mục đã cử hành rồi.

Mặc dù chính phủ tuyên bố lễ tang chỉ được làm đơn giản và riêng tư nhưng một số lượng lớn tín hữu của cả cộng đoàn chính thức và hầm trú vẫn đến buổi lễ.

Một người đã tham dự thánh lễ cho biết, có linh mục công khai cầu nguyện cho Đức Cha Tađêô Mã Đạt Khâm (Ma Daqin) - giám mục phụ tá của Thượng Hải. Kể từ ngày được tấn phong, Đức Cha Mã Đạt Khâm đã bị quản thúc tại gia sau khi tuyên bố ly khai khỏi Hội Công Giáo Yêu Nước Trung Quốc - hiệp hội không được Tòa Thánh chấp nhận.

Cuối cùng, giáo dân cũng đã có thể đến tham dự thánh lễ an táng ngài tại nhà thờ Chính tòa Thánh Inhaxiô của Thượng Hải.

Tiền Hô
 
ĐTC: Thánh Giuse là mẫu gương của mọi nhà giáo dục và mọi người cha gia đình
Linh Tiến Khải
11:00 19/03/2014
Thánh Giuse không chỉ là người giữ gìn Chúa Kitô, mà còn là vị đồng hành và giáo dục Chúa lớn lên trên bình diện tâm thể lý, sự khôn ngoan và ơn thánh nữa. Vì thế thánh nhân là mẫu gương của mọi nhà giáo dục, đặc biệt của mọi người cha gia đình.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với 80.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư hàng tuần 19-3-2014 tại quảng trường Thánh Phêrô. 19-3 cũng là ngày kỷ niệm đúng một năm Đức Thánh Cha Phanxicô bắt đầu sứ vụ Phêrô của ngài.

Mở đầu bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: hôm nay ngày 19 tháng 3 lễ kính thánh Giuse, Phu Quân Đức Maria, và Bổn Mạng của Giáo Hội hoàn vũ. Vì thế chúng ta dành bài giáo lý hôm nay cho Người, là Đấng đáng cho chúng ta biết ơn và sùng kính, vì đã biết giữ gìn Đức Thánh Trinh Nữ và Con là Đức Giêsu. Gìn gĩư đã là đặc điểm cuộc đời của thánh Giuse trong sứ mệnh cao cả của Người, mà tôi đã nhắc tới cách đây một năm. Hôm nay tôi muốn lấy lại đề tài ấy nhưng trong viễn tượng giáo dục. Đức Thánh Cha nói:

Chúng ta hãy nhìn vào thánh Giuse như mẫu gương của nhà giáo dục, người giữ gìn và đồng hành với Chúa Giêsu trên con đường của Người là lớn lên “trong khôn ngoan, tuổi tác và ơn thánh”, như ghi trong Phúc Âm thánh Luca (Lc 2,52). Ngài không phải là cha của Đức Giêsu: Cha của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng ngài đã làm cha, giữ nhiệm vụ làm cha để giúp Đức Giêsu lớn lên.

Hãy bắt đầu với tuổi tác là chiều kích tự nhiên nhất, là sự lớn lên trong thể lý và tâm lý. Cùng với Mẹ Maria thánh Giuse lo lắng cho Chúa Giêsu trước hết từ quan điểm này, nghĩa là ngài đã ”nuôi dưỡng” Chúa, lo lắng để Người không thiếu những gì cần thiết cho sự phát triển lành mạnh. Chúng ta đừng quên rằng việc lo lắng giữ gìn sư sống của Con Trẻ đã bao gồm cả việc chay trốn sang Ai Cập, kinh nghiệm cam go của cuộc sống tị nạn. Thánh Giuse là người tị nạn cùng với Mẹ Maria và Chúa Giêsu, để trốn chạy sự đe dọa của vua Hêrôđê. Thế rồi một khi đã trở về quê hương và định cư tại Nagiarét, có tất cả giai đoạn cuộc sống của Chúa Giêsu trong gia đình Người. Và trong các năm đó thánh Giuse cũng đã dậy Đức Giêsu công việc của mình, và Chúa Giêsu đã tập nghề thợ mộc như Giuse cha Người.

Nói tiếp trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đề cập tới chiều kích thứ hai của việc giáo dục Chúa Giêsu: đó là chiều kích của sự ”khôn ngoan”.

Thánh Giuse đã là gương mẫu và là thầy của sự khôn ngoan được dưỡng nuôi bằng Lời của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ tới việc thánh nhân đã giáo dục Bé Giêsu lắng nghe Thánh Kinh, nhất là ngày thứ bẩy dẫn Người tới hội đường Nagiarét. Và thánh Giuse đã đồng hành để Chúa Giêsu lắng nghe Lời Chúa trong hội đường.

Và sau cùng là chiều kích của ”ơn thánh”. Liên quan tới Chúa Giêsu Thánh Luca nói: ”Ơn thánh Chúa ở với Người” (Lc 2,40). Ở đây chắc chắn phần dành cho thánh Giuse bị hạn chế hơn, so với các lãnh vực của tuổi tác và sự khôn ngoan. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn, nếu nghĩ rằng một người cha và một người mẹ không thể làm gì để giáo dục con cái lớn lên trong ơn thánh Chúa. Lớn lên trong tuổi tác, lớn lên trong sự khôn ngoan, lớn lên trong ơn thánh: đó là công việc mà thánh Giuse đã làm với Chúa Giêsu, làm cho Người lớn lên trong ba chiều kích này, giúp Người lớn lên.

Anh chị em thên mến, sứ mệnh của thánh Giuse chắc chắn là duy nhất và không thể lập lại được, bởi vì Chúa Giêsu là tuyệt đối duy nhất. Tuy nhiên trong việc giữ gìn Đức Giêsu bằng cách giáo dục Người lớn lên trong tuổi tác, sự khôn ngoan và ơn thánh, thánh nhân là mẫu gương của mọi nhà giáo dục, đặc biệt của mọi người cha. Thánh Giuse là mẫu gương của người giáo dục, của ba, của cha. Vì thế tôi phó thác cho sự che chở của Người mọi cha mẹ, các linh mục là những người cha, và những người có nhiệm vụ giáo dục trong Giáo Hội và trong xã hôi. Một cách đặc biệt hôm nay là lễ Hiền phụ, tôi muốn chào tất cả các bậc cha mẹ, tất cả các người cha. Tôi xin chào với tất cả con tim. Chúng ta hãy xem nào: tại quảng trường này có vài người cha nào không? Xin các người cha hãy giơ tay lên! Thật nhiều qúa! Xin chúc mừng, xin chúc mừng ngày lễ của quý vị! Tôi xin cho anh em ơn luôn luôn gần gũi với con cái của anh em, để cho chúng lớn lên, gần gũi, gần gũi với chúng! Chúng cần anh em, cần sự hiện diện của anh em, cần sự gần gũi và cần tình yêu của anh em. Hãy giống như thánh Giuse đối với chúng: là những người giữ gìn sự trưởng thành của chúng trong tuổi tác, sự khôn ngoan và ơn thánh. Những người giữ gìn con đường của chúng; là những nhà giáo dục và đồng hành với chúng. Với sự gần gũi này anh em sẽ là những nhà giáo dục đích thật. Xin cám ơn vì tất cả những gì anh em làm cho con cái anh em. Xin cám ơn. Xin chúc mừng anh em tất cả. Mừng lễ hiền phụ, mừng lễ tất cả các người cha hiện diện nơi đây! Xin thánh Giuse chúc lành cho anh em và đồng hành với anh em. Và vài người trong chúng ta đã mất cha, cha đã qua đời rồi. Chúa đã gọi cha về với Ngài rồi. Có biết bao nhiêu người tại quảng trường này cũng không còn cha nữa. Chúng ta có thể cầu nguyện cho mọi người cha trên thế giới, cho những người cha còn sống cũng như cho những người cha đã qua đời, và cho cha của riêng từng người chúng ta, và chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Mỗi người hãy nhớ tới cha của mình nếu còn sống và nếu đã chết. Và chúng ta cầu xin Người Cha vĩ đại của tất cả chúng ta. Một Kinh Lậy Cha cho tất cả mọi người cha của chúng ta. Đức Thánh Cha đã cùng tín hữu đọc Kinh Lậy Cha. Rồi ngài nói: xin chúc mừng các người cha nhé!

Đức Thánh Cha đã chào các đoàn hành hương hiện diện, trong đó có các đoàn hành hương đến từ Á châu như Indonesia và Nhật Bản. Cũng có các đoàn hành hương đến từ châu Mỹ Latinh như Mêhicô, Ecuador, Argentina và Brasil.

Trong số các nhóm hành hương tiếng Ý có phái đoàn ”đuốc hòa bình Biển Đức” do Đức Cha Renato Boccardo Tổng Giám Mục Spoletto Morcia hướng dẫn, Linh Mục Augusto Ricci Giám quản Montecassino, và đức viện phụ Mauro Meacci, viện phụ đan viện Subiaco. Đức Thánh Cha cầu mong sáng kiến này tạo thuận tiện cho hòa bình trong con tim, mà chỉ có Chúa Kitô biết ban cho con người. Ngài cũng chào một nhóm hàng trăm sĩ quan quân đội Italia.

Chào các bạn trẻ, người đau yếu và các cặp vợ chồng mới cưới, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người biết hôm nay Giáo Hội mừng kính lễ thánh Giuse Bổn Mạng Giáo Hội hoàn vũ. Ngài khuyên các bạn trẻ nhìn lên thánh nhân như mẫu gương của cuộc sống khiêm nhường và kín đáo. Đức Thánh Cha khích lệ các bệnh nhân, đặc biệt các bệnh nhân thuộc ”Trung tâm tiếp đón Aldo Moro”, do Đức Cha Ceccobelli Giám Mục Gubbio tháp tùng, các bệnh nhân Macerata, Tolentino và các bạn trẻ thuộc tổ chức ”Giấc mơ của Giusy”, biết học vác thánh giá của bệnh tật với thái độ thinh lặng và cầu nguyện của thánh Giuse cha nuôi Chúa Giêsu. Sau cùng ngài nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng gia đình trên tình yêu thương gắn bó với Mẹ Maria và với thánh Giuse.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đêm ca nhạc diễn nguyện tôn vinh thánh Giuse tại nhà thờ chính tòa Thanh Hóa
BTT Thanh Hóa
09:52 19/03/2014
Đêm ca nhạc diễn nguyện tôn vinh thánh Giuse tại nhà thờ chính tòa Thanh Hóa

Đêm của tình thông hiệp

Để chuẩn bị điều kiện vật chất cũng như tinh thần cho Đại lễ Thánh Cả Giuse Quan Thầy giáo phận và truyền chức phó tế cho ba thầy đại chủng sinh khóa 9 vào ngày mai 19.03.2014, hôm nay 18.03, rất đông thành phần dân Chúa giáo phận Thanh Hóa đã về với xứ Mẹ Chính Tòa.

Xem Hình

Đây có thể nói là một dịp để quy tụ đại gia đình Công Giáo Thanh Hóa về một mối, để cùng dâng lời nguyện cầu, để cùng cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Bởi lẽ, với giáo phận Thanh Hóa nói riêng và Giáo Hội Việt Nam nói chung, Thánh cả Giuse là người cha vĩ đại, là người thầy tận tâm, là một tấm gương mẫu mực về tinh thần xin vâng và phục vụ. Suốt dọc chiều dài lịch sử của Giáo Hội Việt Nam và với giáo phận Thanh Hóa, Thánh Giuse đã luôn đồng hành, đã ban biết bao phép lạ, đã giúp cho hạt giống đức tin được gieo xuống, triển nở vững vàng trước bão giông.

Với niềm tin và tình yêu vào Đấng bảo trợ của mình, hàng năm, cứ vào ngày 19.03, khắp nơi trên giáo phận tưng bừng không khí của ngày hội. Hơn một nửa số gia trưởng và nam thanh đều nhận Thánh Giuse làm quan thầy. Trong số linh mục đoàn Thanh Hóa có đến hơn 30 cha mang tên thánh Giuse. Vị cha chung của giáo phận cũng lấy mẫu gương Thánh Giuse làm kim chỉ nam cho con đường mục vụ. Hội Dòng Mến Thánh Giá và rất nhiều hội đoàn khác có cùng chung một Đấng bảo trợ nhiệt thành.

Theo lời của vị cha chung giáo phận, tất cả các giáo xứ mừng lễ trọng kính Thánh Giuse vào ngày 17.03.2014. Ngày 18.03, hoàn tất các công việc cho Thánh lễ tạ ơn diễn ra vào sáng ngày 19.03.

Đêm 18.03 là giây phút được nhiều giáo dân mong chờ. Đây là đêm mà đoàn chiên khắp nơi trên quê hương Thanh Hóa về trung tâm giáo phận, dùng lời ca, tiếng hát, điệu múa thay cho lời thiêng dâng lên Thánh Quan Thầy. Ánh sáng rực rỡ, tiếng nhạc réo rắt giòn vang giữa trời phố thị, tiềng kèn, tiếng trống thúc giục lòng người và biết bao thành phần dân Chúa hợp thành một bữa tiệc đầy màu sắc, một bó hoa ngát hương, một bức tranh đẹp tuyệt của tình hiệp thông.

Chủ đề chính của đêm diễn nguyện chính là trọng tâm mà năm “Tân Phúc Âm hóa gia đình” hướng tới – gia đình, tổ ấm nuôi dưỡng đức tin. Những diễn viên không chuyên bước lên vũ đài ánh sáng, giống như vịt con xấu xí thoát khỏi bộ vũ đen để thành thiên nga diễm lệ. Mấy ai biết rằng đó chính là đệ tử Dòng Mến Thánh Giá, là Ứng sinh Tiểu chủng viện Lê Bảo Tịnh, là các em học sinh, là những hiền mẫu quanh năm với ruộng đồng… Không gì hơn bằng tình yêu và tinh thần phục vụ, họ đã vượt qua quãng đường dài, đã trải qua thời gian luyện tập bằng cách tranh thủ thời gian rảnh rỗi…tất cả hợp thành một bó hoa lòng rực rỡ giữa trời đêm.

Một nét đẹp rất Việt Nam, rất giản dị xuyên suốt đêm diễn nguyện. Từ hoạt cảnh Thánh Giuse đón dâu, đến vở chèo Đức Maria thăm bà Elizabet, vở cải lương Người cha nhân hậu, hay tiểu phẩm Chú tiểu xuống núi…tà áo dài thướt tha, áo tứ thân mềm mại, chiếc quạt nan mang gió về, chú Cuội chăn trâu, cánh diều tuổi thơ… Có một cảm giác gần gũi đến mức dường như Chúa đang hiện diện với người dân Việt Nam, với người dân Thanh Hóa. Chúa vẫn ở đây, Ngài luôn ở bên tất cả mọi người.

Thông qua các hoạt cảnh, kịch hay các bài ca, các diễn viên đã gián tiếp truyền Lời Chúa dạy. Đặc biệt là giúp mọi người hiểu rõ hơn nữa về tấm gương của Thánh cả Giuse – người cha của mọi gia đình. Có những tiết mục tạo tiếng cười, những có những tiết mục lắng lòng thổn thức, cảm xúc của người xem hòa cùng sân khấu.

Bên cạnh những điều đó, đêm diễn nguyện mừng Lễ Thánh cả Giuse năm nay còn được mọi người mong chờ vì là “cây nhà lá vườn”. Mỗi giáo hạt có tiết mục mang hương riêng sắc vùng miền của mình: Nga Sơn mang chiếu cói và câu chuyện tình chàng Từ Thức gặp tiên, Sông Mã mang câu hát chèo để nói lên tình thân của Đức Trinh nữ Maria với người chị Elizabet, sông Chu mạnh mẽ với cồng chiêng Tây Nguyên, Mỹ Điện lắng lòng với vở cải lương Người cha nhân hậu, Chính Tòa đơn sơ với tiểu phẩm gia đình Thánh Gia…Khán giả cùng vì vậy mà ngóng chờ các phần biểu diễn, rồi chỉ trỏ, rồi bình phẩm và rồi khen ngợi. Đâu đó có ánh mắt tự hào, ánh mắt khâm phục. Những tràng vỗ tay vang dội chính là món quà dành cho các diễn viên không chuyên vì tinh thần của họ.

Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh – vị chủ chăn thân yêu của giáo phận Thanh Hóa không giấu được niềm vui của mình. Cha cảm thấy hạnh phúc và ấm áp trong đêm diễn nguyện này. Bởi lẽ đây là “đêm của sự quy tụ, đêm của các thành phần đại biểu, đêm của tình thông hiệp giáo phận”. Với Đức Cha Giuse, điều khiến cha vui nhất chính là năm nào cũng được mừng Lễ Quan Thầy với cả giáo phận. Nụ cười của Đức Cha luôn nở suốt đêm diễn và cũng ở lại mãi trong lòng mỗi người tham dự.

Đêm diễn nguyện kết thúc khi đồng hồ điểm 22 giờ. Hi vọng rằng, ngày mai trời sẽ tạnh ráo, nắng sẽ lên làm lấp lánh hơn tấm lòng tri ân của con dân giáo phận Thanh Hóa mừng kính Thánh cả Giuse – Quan Thầy giáo phận…
 
Nữ đan viện Xitô Phước Hải : Phục vụ Chúa Kitô trong mọi người
Trần Chuyên
09:31 19/03/2014
PHỤC VỤ CHÚA KITÔ TRONG MỌI NGƯỜI: NỮ ĐAN VIỆN XITÔ PHƯỚC HẢI

Cổng vào Tu viện (hình1)

Quả là một dấu hiệu tốt lành vào thời điểm này, Mùa Chay Thánh đang bắt đầu. Mùa nối kết lòng sám hối của con người đối với Thiên Chúa.

Theo thuờng lệ, cứ mỗi mùa Chay đến. Tôi lại có dịp theo đòan đi tĩnh tâm vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Dịp Lễ Chúa Biến Hình trên núi. Và chúng tôi cũng muốn theo chân các môn đệ của Chúa. ” Lên núi cầu nguyện” xem ra có vẻ lãng mạn thật đó, nhưng cũng thật là sự quyết tâm của tâm hồn. Từ bỏ mọi sự, gột rửa gió bụi dọc đường trần gian, cũng như gác lại những ý thức và ước muốn không cần thiết trên hành trình cuộc sống. Để tìm đến một sự thinh lặng thực sự.. Đối với chúng ta khi tìm về nguồn cội đức tin sự gặp gỡ giữa tâm linh ta cùng Thiên Chúa trong thinh lặng, thì sự thinh lặng càng dồi dào mối liên kết rất dễ dàng hơn cho một thao thức và khát vọng:Ta đi tìm Chúa!

Hoặc nôm na tâm lý cho là: Càng về nơi thanh vắng, tâm sẽ tịnh hơn. Tâm đã quyết thì dễ bắt rễ sâu trong mạch nguồn của đức tin đó.Đó là lý do mà chúng tôi chọn địa điểm Dòng Nữ ĐanViệt Xitô Phước Hải, Bãi Dâu – Vũng Tàu làm nơi thanh tịnh vắng vẻ cho những mùa tĩnh tâm năm nay.

Sau những ngày ngắn ngủi tĩnh tâm trôi qua và kết thúc. Ngòai việc chúng tôi đã được sự tiếp đón ân cần bằng tất cả tấm lòng huynh đệ của Tu viện. Những giờ rỗi rãnh chúng tôi cũng được hướng dẫn và tìm hiểu về đời sống của cộng đoàn nữ Xi tô này.

Nội vi Nhà nguyện Tu viện (hình 2)

Dòng Nữ Đan Viện Xitô Phước Hải, Bãi Dâu – Vũng Tàu có được lợi thế thiên nhiên: Ở trên núi tĩnh mịch và thanh vắng phù hợp với linh đạo của Dòng Xitô. Một Hội dòng có truyền thống chiêm niệm cầu nguyện –lao động từ lâu đời.

Trước mặt là biển Vũng Tàu, một bức tranh tòan cảnh thật đẹp với đại dương mênh mông biển sóng nhấp nhô như cũng muốn giúp cho nhiều tâm hồn được quyện vào với tình yêu của Chúa khi đứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Nhà Dòng được xây trên đồi cao, vừa là núi cao ngó ra bãi biển. Khung cảnh thật là nên thơ và lý tưởng. Khí hậu ở đây rất trong lành, gió biển thổi vào miên man như hòa điệu với những tâm hồn nữ Xitô hiền hậu và chất phác mà mặn mà tình người.

Phòng khách tu viện (hình3)

Được các Sơ cho biết: Dòng nữ Xitô có nguồn gốc thành lập từ năm 1972. Sau những cánh cửa đời thường, trong thầm lặng Tu viện đã trải qua bao gian khổ sóng gió từ những nữ tu “liễu yếu tơ mềm” để hôm nay viết tiếp những bước chân cũng rất đời đời nhưng vô cùng trân quý. Tu viện được chính thức gia nhập Chi dòng Xitô Thánh Gia và được nâng lên hàng Tự trị (Sui Juris) ngày 05/10/2010.

Hiện nay tổng số nhân sự của Tu viện có 52 người. trong đó có 17 sơ đã khấn trọn đời, 05 sơ đang ở nhà tập, số còn lại là thỉnh sinh đang theo các khoá học. Cũng như các dòng Xitô khác. Quý sơ khấn giữ sống đời chiêm niệm và lao động đời nghèo khó. Mỗi ngày đêm, quý sơ có những giờ kinh cầu nguyện 7 lần cho các nhu cầu của toàn thế giới và của các ân nhân của Ðan Viện và cân đối việc lao công hàng ngày.

Chặng đường Thánh Giá trên núi (hình5)

Chu vi bao quanh Tu viện tòan là núi đồi hiểm trở. Nhưng chúng tôi cũng khám phá ra trên cao là đồi Calvê. Chặng đường 14 đàng thánh giá dẫn lên đỉnh núi cao thật cheo leo. Leo cho cùng chặng 14, ta cũng tưởng chừng có thể ngã với Chúa Giêsu mà thôi! Tuy đó là những bậc thang bằng xi măng! Vì núi thật là cao, muốn leo cho cùng thì cũng tháo đổ mồ hôi. Tuy nhiên đây là một ý tưởng mà chúng ta nên khám phá khi tới đây để tĩnh tâm để biết Chúa vác thánh giá nặng nề thế nào.

Tu viện đã luôn biết khai thác thổ nhưỡng hiện tại để phát triển và tồn tại. Cuộc sống của tu viện dựa vào những ngành nghề lao động tại chỗ, ngoài việc làm nông trồng xòai, trồng chuối (vì là đất núi), trồng Lan. Qúy Sơ còn làm thêm ngành nghề thủ công khác như: Đúc đèn cầy, tạo hoa giả bằng chất liệu từ vỏ Nghiêu, sò, ốc, hến …từ phế thải thổ sản(Biển) địa phương cung cấp. Các sơ đã khéo áp dụng công nghệ rất khoa học và

Khu trồng hoa Lan(hình7)

khéo tay tạo ra những sản phẩm đẹp. Sau khi hòan thành sản phẩm lại nhờ đến các giáo xứ, các cha xứ lân cận giúp điều kiện để dễ dàng bán kiếm tiền sinh nhai cho cộng đòan; vì Vũng Tàu là khu du lịch nổi tiếng trong nước và Quốc tế.

Được sự tín nhiệm và giúp đỡ từ khắp nơi. Cộng với thành quả lao động của mình. Nhà Tĩnh Tâm (hình8)

Tu viện vừa hòan thành xong nhà Tĩnh Tâm dịp cuối năm 2013(đảm bảo an tòan cho mọi lọai thời tiết tại khu vực biển và núi: Gió, áp thấp nhiệt đới…). Như một trung tâm, nơi tiếp đón khách tĩnh tâm và khách hành hương đến Đức Mẹ Bãi Dâu cách Tu viện khỏang 4km.

Đức Mẹ Bãi Dâu (hình 9)

Chúng tôi thật cảm xúc về phong cách tiếp đón ân cần và nơi ăn ở rất lịch sự. Các Sơ cho biết: Đó là sự nỗ lực hết sức mình của tòan thể cộng đòan để thể hiện chiều sâu Linh đạo dòng Xitô khi quý khách viếng thăm Tu viện:

“Phục vụ Chúa Kitô trong Mọi người!

Địa chỉ của tu viện: Nữ Tu M.Timothee Nguyễn Thị Nhẫn, Bề Trên

Đan Viện Xito Thánh Mẫu Phước Hải

54/3/2 Trần Phú, F.5, Bãi dâu, VŨNG TÀU

Tél. 064.3836999 - 01686422836

Email: xitoph@gmail.com

*Pet. Chuyentran

Mùa chay 2014
 
Lễ Bổn Mạng Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly Sydney
Diệp Hải Dung
10:07 19/03/2014
Sáng thứ Tư ngày 19/03/2014 rất đông đủ giáo dân trong Cộng Đồng đã đến Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly Sydney tham dự Lễ mừng kính Thánh Giuse là Quan Thầy của của Trung Tâm.

Hình ảnh

Đúng 10 giờ, quý Cha và mọi người tập trung trước tượng đài Thánh Giuse sốt sắng dâng giờ đền tạ cầu nguyện xin Thánh Cả Giuse cầu bầu và chúc lành cho Gia Đình, Cộng Đồng và Giáo Hội, sau đó kiệu Thánh tượng Thánh Giuse rước vào trong hội trường Trung Tâm. Cha Tuyên úy Trưởng Dương Thanh Liêm ngỏ lời chào mừng tất cả mọi người hôm nay đến Trung Tâm để tham dự Lễ mừng kính Bổn Mạng đồng thời Cha giới thiệu quý Cha Nguyễn Văn Tuyết, Cha Đặng Đình Nên, Cha Nguyễn Thái Hoạch, Cha Nguyễn Ngọc Trường, Cha Vũ Hoàng Anh, Cha Nguyễn Hồng Phong và Cha Nguyễn Quang Thạnh cùng hiệp dâng Thánh lễ mừng kính Thánh Cả Giuse.

Trong bài giảng Cha Dương Thanh Liêm nói về gương nhân đức của Thánh Cả Giuse. Ngài là người công chính, khiêm nhường, chịu đựng và thinh lặng. Thánh Giuse dạy cho chúng ta bài học tĩnh lặng, để có thể lắng nghe Lời Chúa trong một thế giới ồn ào và tràn ngập lời lẽ con người…

Trước khi kết thúc Thánh lễ, ông Hà Pi Liến Phó Chủ tịch CĐCGVN Sydney ngỏ lời cám ơn quý Cha và chúc mừng Bổn Mạng Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly. Cha Tuyên Úy Trưởng Dương Thanh Liêm cũng chuyển lời của hai vị Giám Mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp Giáo phận Vinh và Vincent Nguyễn Văn Bản Giáo phận Ban Mê Thuột đã đến thăm viếng Trung Tâm khen ngợi Cộng Đồng chúng ta tuy ở đất khách quê người nhưng có một nơi Thánh địa như vầy để tĩnh tâm sinh hoạt đó chính là hồng ân Chúa ban. Cha cũng đặc biệt ghi nhớ đến Cha Cố Dominic Nguyễn Văn Đồi, quý Cha Tuyên Úy và Cựu Tuyên Úy, quý ân nhân đã đóng góp công của để xây dựng Trung Tâm Hành Hương Birngelly đã được phát triển cho tới ngày hôm nay và sẽ cho thế hệ nối tiếp trong tương lai.

Thánh lễ kết thúc mọi người cùng ở lại tham dự buổi tiệc liên hoan mừng Bổn Mạng Trung Tâm Tĩnh Huấn Thánh Giuse Bringelly.
 
SVCG Bùi Chu hành hương-tĩnh tâm mùa chay 2014 tại đan viện Xitô Châu Sơn
SVCG Bùi Chu
15:01 19/03/2014
SVCG BÙI CHU - HÀNH HƯƠNG TĨNH TÂM MÙA CHAY 2014

“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)

Một lần nữa Mùa Chay Thánh lại trở về với chúng ta. Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối, cầu nguyện, bố thí, mùa chịu nạn và thương khó. Hành trình 40 ngày chay tịnh là thời gian ân sủng để mỗi Kitô hữu thanh luyện bản thân và canh tân đời sống qua việc sám hối, hòa giải và sống triệt để Tin Mừng. Đây cũng là thời điểm đặc biệt trong năm phụng vụ, qua đó Giáo Hội mời gọi chúng ta sống mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, Đấng đã chết vì tội lỗi chúng ta (1Cr 15,3).“Hằng năm qua bốn mươi ngày của Mùa Chay, Giáo Hội hiệp thông với mầu nhiệm của Chúa Giêsu trên hoang địa” (GLGHCG 540)

Xem Hình

Trong tinh thần đó, các bạn SVCG Bùi Chu đã cùng nhau suy niệm và sống tinh thần Mùa Chay năm nay với lời mời gọi của Đức Thánh Cha qua câu nói của Thánh Phaolo: “Người đã trở nên nghèo để làm cho anh em được giàu có nhờ cái nghèo của Người” (x. 2 Cr 8,9). Thấm nhuần tinh thần Mùa Chay của toàn thể Giáo Hội, thể hiện tình liên đới cách đặc biệt với Giáo phận Mẹ Bùi Chu và cũng để các thành viên có những cảm nghiệm sâu xa hơn, trong hai ngày từ 15 đến 16 tháng 03, Cộng Đoàn SVCG Bùi Chu tại Hà Nội đã tổ chức chương trình hành hương tĩnh tâm Mùa Chay tại Đan viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn.

Hòa cùng những bản Thánh ca du dương và không khí tĩnh mịch chiêm niệm, những con tim hiện diện nơi đây cùng chung một nhịp đập bồi hồi khi được đồng hành cùng Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Cha Linh hướng Gioan Lưu Ngọc Quỳnh C.Ss.R, các Linh mục, Đan sỹ và các bạn sinh viên cùng thinh lặng, suy niệm, ăn năn sám hối Mùa Chay và gặp gỡ Chúa Kitô trong chay tịnh và đau khổ.

Trong bầu không khí của tiết trời trong lành của buổi sáng sớm đã làm cho tâm hồn mỗi người man mác buồn, một nỗi buồn khó diễn tả bằng lời. Ngày hôm nay, nhóm chúng tôi đi tĩnh tâm, bỗng dưng trong lòng tôi nhớ tới câu nói của Chúa Giêsu với các môn đệ sau một ngày mệt nhọc rằng: "Tất cả các con hãy vào nơi thánh vắng mà cầu nguyện".

Sau một thời gian dài hoạt động cùng với những bận rộn, lo lắng của cuộc sống. Hôm nay, Cộng Đoàn SVCG Bùi Chu chúng tôi vâng lời Chúa "vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi cũng như để cầu nguyện và thân thưa với Chúa những tâm tình con thảo với cha hiền, để trải rộng nỗi lòng mình ra với Chúa, để quên đi thực tại để gặp gỡ Chúa để nhận ra ơn gọi mà Chúa đang mời gọi mỗi người trong chúng tôi, và xin ơn bình an của Chúa đến với tâm hồn. .."

Đúng 06h30 giờ sáng, ngày 17/03/2014 đoàn xe xuất phát. Đoàn chúng tôi đi trong bầu khí thinh lặng và sốt sắng. Có lẽ đi đến gặp Chúa cho nên trong lòng ai cũng có chút hồi hộp và chờ mong điều gì đó chăng? Và có lẽ đang trong tâm tình của mùa Chay, nên mọi nỗi mệt mỏi dường như tan biến hết, tất cả đều được dâng lên Thiên Chúa là Cha nhân lành. Lúc 09h30 xe chúng tôi đến mảnh đất thánh Châu Sơn, và trước khung cảnh thanh bình, yên tĩnh mà mỗi người chúng tôi đang nhìn đó chính là Đan Viện Xitô Thánh Mẫu. Đúng là một nơi lý tưởng để cho mỗi thành viên trong Cộng Đoàn thinh lặng và cầu nguyện cùng Chúa. Quả thật "tai nghe không bằng một thấy" ở nơi đây tôi có cảm giác như mình đang ở trên thiên đàng vậy, phong cảnh thật tuyệt vời, không khí trong lành và thoáng mát. Đúng là khác xa với cuộc sống đô thị phồn vinh, ồn ào náo nhiệt.

Trước khi chương trình tĩnh tâm bắt đầu, để 2 ngày tĩnh tâm diễn ra trong sự thinh lặng, yên tĩnh, tránh sự chia trí, mọi người cùng tắt máy điện thoại, gom lại và cất ở phòng của Ban đại diện.

09h45, Đoàn chúng tôi gặp gỡ Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, người mục tử thân thiết và quý mến của SVCG, ngài gặp gỡ chúng tôi với nụ cười nhân hậu hòa cùng ánh mắt yêu thương làm cho không khí thêm ấm áp và thân mật hơn. Mỗi người trong nhóm đều cảm nhận được sự thân mật lan tỏa từ ánh mắt nụ cười của vị mục tử nhân lành.

Sự đón tiếp ấm áp thân tình của Đức Tổng Giuse, Cha Bề Trên, quý Cha cùng quý Thầy đã xóa đi khoảng cách xa xôi Hà Nội – Ninh Bình, các thành viên trong nhóm đã thấy gần gũi hơn với Đan Viện cho dù với đa số đây là lần đầu tiên đến với Đan Viện. Sau quãng thời gian trò chuyện với Đức Tổng Giuse, mọi người về phòng cất đồ, đi tham quan các công trình trong khuân viên Đan Viện và trở lại nhà ăn dùng bữa trưa lúc 11h30. Sau bữa trưa thật ngon miệng, mọi người về phòng nghỉ, lấy lại sức để chuẩn bị cho chương trình chính sẽ bắt đầu ngay đầu giờ chiều.

14h00, cả nhóm cùng quây quần trong Nhà nguyện đơn sơ của Đan Viện, chính thức bắt đầu bước vào buổi tĩnh tâm. Chưa khi nào mọi người thấy mình gần với Chúa đến như vậy, trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ, với những điệu nhạc du dương réo rắt và lời dẫn tĩnh tâm, đã có những thành viên rơi những giọt nước mắt… Bản thân mỗi con người yếu đuối đều có rất nhiều tội lỗi, quan trọng là ta có thời gian nhìn lại, suy ngẫm và sám hối ăn năn. Và khi ấy, những giọt nước mắt thật đáng quý biết bao…

Cha linh hướng Gioan chia sẻ và giảng bài tĩnh tâm 1 trong suốt 3 tiếng. Ai nấy trong nhóm đều cảm thấy hay và thấm thía vô cùng. Đầu tiên, Cha mời gọi các bạn sinh viên thinh lặng và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mỗi người, để Người thánh hóa chúng con và biến đổi chúng con. Sau đó là Cha Gioan đã giúp các bạn sinh viên định hướng chính xác mục đích của chuyến tĩnh tâm lần này là

1. Để được gặp gỡ chính mình, nghiệm lại bản thân mình, hồi tâm, lượng giá những mối tương quan với chính mình và với những người liên quan trong công việc, học tập và sinh hoạt.

Cùng suy niệm về những lời của Thánh Phaolô, “Tôi muốn làm điều lành có sẵn trong tôi (nhân chi sơ tính bản thiện), nhưng rốt cuộc lại làm điều dữ mà tôi không muốn làm.” Tôi bị chia rẽ, bối rối; đây là một cuộc chiến đấu. Vật chất thu hút tôi. Chắc chắn là phải giật sập bức tường ngăn cách này. Có như thế tôi mới tìm gặp chính tôi. Tôi phải gạt qua một bên tính tự cao tự đại của mình, để cho ánh sáng soi đường dẫn lối giúp tôi nhìn thấy những gì tôi phải cải thiện trong tôi, để tôi thấy phải loại bỏ những gì, những gì phải góp nhặt, và những gì phải thay đổi.

2. Để được gặp gỡ và cầu nguyện cùngChúa trong thinh lặng, chiêm niệm và suy tư về mầu nhiệm thương khó Chúa. Việc tôi gặp gỡ chính tôi là nền tảng, là căn bản cho hai cuộc gặp gỡ kế tiếp (gặp gỡ Chúa Kitô, rồi gặp gỡ tha nhân). Việc gặp chính tôi giúp cuộc gặp gỡ thứ hai có thể xảy ra: đó là gặp gỡ Chúa Kitô.

Bài nguyện ngẫm “Dung Nhan Chúa Kitô” ấn định sự nhịp nhàng của những sinh hoạt tại Đan Viện. Chúa Kitô được giới thiệu cho chúng tôi như thể chúng tôi chưa bao giờ nghe nói. Một Chúa Kitô có thật, sống động, riêng tư, thân thiết, và là người anh. Cha Gioan hướng dẫn chúng tôi tìm hiểu Người sâu sắc hơn. Những lời của Thánh Augustine, “Lạy Chúa, con biết chính mình con, và nay con được biết Chúa nữa, ôi lạy Chúa!” khích lệ tôi liên kết cả hai cuộc gặp gỡ. Người ta không thể yêu mến kẻ mà mình không biết.

Tôi là kết quả của tình yêu của Chúa Cha. Tôi là Con của Người. Tôi chẳng bao giờ cô đơn. Giờ đây tôi biết rằng, như trong bài thơ “Những Vết Chân Trên Cát”, “trong những lúc thử thách và khổ đau, khi ấy con chỉ thấy đôi vết chân mà thôi, thì đó là lúc Cha ẳm bồng con trên tay.”

Các Nhiệm Tích là nguồn chuyển đạt tình yêu của Chúa Cha. Và để chứng minh cho tôi, Cha linh hướng đã mời chúng tôi đến trước Mình Thánh Chúa là nơi tôi trút mọi gánh nặng. Sau bài giảng này, nhiều bạn sinh viên xét mình chuẩn bị xưng tội, làm hòa với Chúa và với anh em. Có những lúc, nhiều người đã xưng tội trước đó rồi và đi xưng tội lại sau khi nghe các Phép Bí Tích của Chúa tuyệt vời dường nào!

Tôi đã tìm thấy tôi với Cha tôi, với người anh cả, và với bạn tôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – ba ngôi trong một Chúa. Như vậy đó không phải tôi sống, nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi.

3. Để được Chúa chữa lành và biến đổi. "Người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh." (Mc 6,56). “Kẻ nào biết hối cải những tội lỗi của mình, thì kẻ đó sẽ được tha thứ, và ta, là Chúa, sẽ không còn nhớ tới những tội lỗi đó nữa.” (GLGƯ 58:42).

“Sự hối cải chân thành mang chúng ta trở lại với việc làm điều đúng. Để thật sự hối cải, chúng ta phải nhận ra các tội lỗi của mình và cảm thấy hối hận, hoặc buồn rầu theo ý Chúa và thú nhận các tội lỗi đó với Thượng Đế. Nếu các tội lỗi của chúng ta nghiêm trọng thì chúng ta cũng phải thú nhận những tội lỗi đó với vị lãnh đạo chức tư tế có thẩm quyền của mình. Chúng ta cần phải cầu xin Thượng Đế tha thứ và làm hết khả năng của mình để sửa đổi bất cứ điều tai hại nào mà những hành động của chúng ta có thể đã gây ra. Sự hối cải có nghĩa là thay đổi tâm trí—chúng ta ngừng làm những điều sai trái và bắt đầu làm những điều đúng. Điều đó mang đến cho chúng ta một thái độ mới mẻ đối với Thượng Đế, đối với bản thân và cuộc sống nói chung.”

Khi chúng ta thành công trong việc hoàn tất tiến trình hối cải, kết quả sẽ là sự chữa lành, khuây khỏa và hạnh phúc. Lạy Chúa, lòng con đầy dẫy những ích kỷ, tự kiêu, đam mê… hay có khi lại mặc cảm, chống đối và than van. Xin cho con biết mở lòng để có thể chạm đến Chúa. (Epphata)

4. Để biết ý Chúa muốn trong cuộc đời mỗi con người.“Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể (Tv 119, 14).

Xin cho chúng con biết đón nhận ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Nếu việc thánh hóa bản thân chúng ta xem ra là một nhiệm vụ khó khăn và không thể làm được, là vì ta không có ý tưởng chính xác về bản chất vấn đề. Thực ra, sự thánh thiện chỉ hệ tại một điều là trung thành với ý muốn của Thiên Chúa. Sự trung tín đó nằm ngay trong khả năng của mọi người bằng hành vi đức tin dù tích cực hay thụ động. Sự trung tín đó không gì khác hơn là việc yêu mến đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa gởi đến cho ta trong mỗi thời điểm, cho dù có những tình cảnh xem ra rất éo le và bẽ bàng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (Gb 2, 10).

Thiên Chúa chẳng bao giờ thúc bách ai vượt quá sức, hay vượt quá sự thích hợp của mình. Đời sống chúng ta được hình thành từ vô số những hành động nhỏ bé và chẳng quan trọng gì trước mặt người khác, nhưng Thiên Chúa hoàn toàn thỏa mãn với những điều ấy, vì cuộc sống chúng ta là như vậy. Chỉ cần con người biết khiêm tốn hoàn thành phận vụ của mình, làm mọi việc trong sự trung tín với Chúa, những gì còn lại Chúa sẽ làm nên. Ai cũng muốn suy nghĩ theo ý mình mà quên rằng chân lý của cuộc sống là biết suy nghĩ theo ý Chúa. Ngoài ý của Chúa, mọi sự đều trống rỗng và hư ảo cho dù nó cao trọng trước mặt người đời: “... bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 15).

Sự khôn ngoan của tâm hồn hệ tại ở sự đơn sơ, bằng lòng với công việc của mình trong khuôn khổ và ranh giới của con đường đang tiến bước, không vượt qua giới hạn của nó, cũng không tìm cách so sánh, phỏng đoán hay muốn hiểu biết ý nghĩa lớn nhỏ của từng sự việc, nhưng thỏa mãn với những điều được dành cho mình, cho dù nhỏ nhặt hay tầm thường trước mặt người đời. Vì chính từ những điều đó mà Chúa sẽ khởi sự công trình Ngài nơi ta.

Đừng khinh chê những điều bé nhỏ tầm thường trong bổn phận, vì chính từ đó Chúa làm nên những điều cao cả cho những ai yêu mến Ngài. Chúng ta thường thán phục và chúc tụng những kỳ công của Chúa đã làm nên trong lịch sử hay nơi những người khác, nhưng khi Chúa muốn tiếp tục những kỳ công đó trong tim ta thì ta lại tìm kiếm những điều mà theo mình nghĩ mới là lớn lao. Chẳng có gì lớn lao ngoài thánh ý Chúa trong giây phút này.

Sau khi giúp các bạn sinh viên xác định được đúng các mục đích của chuyến tĩnh tâm lần này, Cha linh hướng Gioan đã chia sẻ tĩnh tâm về bài Tin Mừng “Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ” (Lc 4,1-13) và những cám dỗ đối với sinh viên hôm nay.

Việc đầu tiên Chúa Giêsu làm trước khi thực thi Sứ Mạng Cứu Thế đó là Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa để cầu nguyện và ăn chay 40 đêm ngày và chịu cuộc thử thách, đó là chịu ma quỷ hiện đến cám dỗ đủ cách. Tin Mừng thuật lại: “Chúa Giêsu tràn đầy Thánh Thần” (Lc 4,1). Đây là lúc Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa thống hối tại sông Giorđanô, và vì sự khiêm hạ tột bực ấy, Chúa Thánh Linh đã lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên đầu Ngài, ban cho Ngài Thần Lực, Sức Mạnh Quyền Năng để Chúa Giêsu hoàn tất công cuộc Cứu Thế…Thần Khí là khí giới mạnh nhất, linh hiệu nhất để chống trả với Satan, và mọi mưu chước độc hại của quỷ dữ!

“Chúa Thánh Linh dẫn Chúa Giêsu vào hoang địa ở đó, Ngài bị cám dỗ!”...Khi chúng ta ở một mình, quá rảnh rỗi, sống lẻloi một mình, thì rất nguyhiểm, Satan thường đến cám dỗ! …Chúa Giêsu đã ăn chay suốt 40 ngày và “Ngài không ăn bất cứ chút gì” (Lc 4,2), Chúa vừa hãm mình ăn chay, vừa dành mọi thời giờ trong 40 ngày đêm đó để sống thân thiết với Chúa Cha, nên Ngài càng thêm mạnh mẽ, chiến thắng Satan dễ dàng! Những ai theo gương Chúa Giêsu để hãm dẹp thân xác, không chiều theo những đòi hỏi của nó thì Satan khó lòng thắng được họ!

Cám dỗ thứ nhất về vật chất, về thân xác con người, về sự bất-tín nơi Thiên Chúa, nghi ngờ sự chăm sóc yêu thương của Người: Satan gieo vào tâm trí Chúa Giêsu sự hoài-nghi về tình yêu của Chúa Cha, tại sao lại để cho Ngài bị đói khát như thế? Trước tình cảnh ấy, Satan cũng không tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nên mới nói với Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy biến đá này thành bánh đi!” (Lc 4,3). Quỷ muốn thách thức Chúa xem Chúa có phải thực là Con Thiên Chúa không! Còn nếu Chúa là Con Thiên Chúa thì hãy dùng quyền phép của mình mà tự chăm sóc lấy bản thân, không cần gì Chúa Cha! …Chúng ta cũng có thể bị Satan cám dỗ tương tự, khi nó gieo vào tâm trí chúng ta ý tưởng: Tự mình chúng ta có thể sống và hành động, không cần Thiên Chúa! Không cần sự trợ giúp, và đừng lệthuộc vào Thiên Chúa! Chúng ta hãy khôn ngoan đề phòng kẻo bị sa vào cạm bẫy của quỷ!

Chúa Giêsu tự biết Ngài có Quyền Năng để làm phép lạ, nhưng Ngài không lân la, không để chỗ cho quỷ có dịp tới gần, hơn nữa, Ngài không dùng quyền năng của Ngài để làm phép lạ cho chính mình, mà chỉ dùng quyền ấy cho mục đích Cứu Độ trần gian: Chẳng hạn, Khi Chúa làm phép lạ cho các môn đệ bắt được một mẻ cá lạ lung, là cốt để các ông tin nơi Ngài mà từ bỏ mọi sự bước theo Ngài để tiếp tục loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Cũng thế, khi Chúa biến 5 chiếc bánh và 2 con cá hoá nhiều để nuôi 5 ngàn người…cũng để toàn dân tin Ngài, sống theo giáo lý của Ngài!...Hơn nữa, nếu Chúa nghe lời quỷ mà biến đá thành bánh, thì chứng tỏ Ngài thiếu Niềm Tin nơi sự Quan Phòng Vô Cùng yêu thương của Chúa Cha, nên Chúa đã dung lời Kinh Thánh để trả lời Satan: “ Người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn vì mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Lc 4,4). Lời Kinh Thánh là gươm thần sắc bén, là khiên thuẫn giúp ta chống lại mọi chước quỷ ma, đem lại cho ta Thần Lực đập tan mọi cơn cám dỗ. Ở đây, Chúa Giêsu dùng câu kinh Thánh trong sách Nhị Luật 8,3.

Cám dỗ thứ hai: Bị thua, quỷ cám dỗ Chúa Giêsu về Danh Vọng, và Quyền Lực.Quỷ đem Chúa Giêsu lên nơi cao, cho Ngài xem mọi nước thế gian cùng vinh hoa phú quý của các nước, đồng thời, nó là cha sự dối trá, tên quỷ quyệt siêu-đẳng chuyên lừa dối các linh hồn, đã gian trá nói với Chúa rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực và vinh quang, vì tất cả là của tôi, và tôi có thể cho ai tuỳ ý, nếu ông thờ lạy tôi, tất cả sẽ thuộc về ông” (Lc 4,6-7). Quỷ đã nói gian trá từ căn bản! Quỷ dối trá ở chỗ hắn nói: Mọi quyền lực, vinh quang là của hắn! Thực ra, quỷ chẳng có chi cả! Mọi sự trên trời dưới đất đều do Chúa tạo thành và thuộc về Chúa, Chúa mới là Đấng toàn quyền ban phát mọi Ân Lộc tự nhiên và siêu nhiên cho bất cứ ai Ngài muốn! Hắn biết rằng: Chúa Giêsu đang muốn cứu rỗi toàn thế giới, nên hắn muốn đánh lừa Chúa để đi con đường tắt, không phải vất vả chi cả, chỉ việc sấp mình thờ lạy hắn, thì mọi dân mọi nước sẽ thuộc về Ngài, và như thế, thì Ngài chỉ việc ban hành chỉ thị cho toàn dân, thay đổi cách sống và tôn giáo sẽ dễ dàng biết bao? Thế nhưng, cám dỗ của quỷ sai trái từ căn bản, quỷ kế của hắn đã bị Chúa lột mặt nạ, Chúa trả lời: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một mình Ngài thôi” (Lc 4,8). Để đánh trả mõi cơn cám dỗ, Chúa đã dùng một câu Kinh Thánh để đập tan mưu chước của quỷ. Câu Kinh Thánh Chúa dùng được trích trong sách Nhị Luật 6,13.

Cám dỗ thứ ba: Satan cám dỗ Chúa Giêsu về sự kiêu ngạo:Satan đưa Chúa lên nóc đền thờ Giêrusalem, nơi có rất đông dân thường qua lại, hắn gợi lên trong trí tưởng của Chúa sự cảm phục ca ngợi của dân chúng, nếu Chúa gieo mình xuống ! Satan xúi giục Chúa lòng tự cao và có vẻ tốt đẹp, đó là khi dân đã cảm phục Chúa rồi, thì bảo gì họ sẽ nghe theo! Quỷ bảo Chúa hãy gieo mình xuống, và hắn cũng lấy lời Kinh Thánh, trích trong Thánh Vịnh 91,11 rằng: “Thiên Chúa sẽ ra lệnh cho các Thiên Thần nâng đỡ ông, để chân ông khỏi vấp phải đá”. Điều này quỷ nói rất đúng: đó là Thiên Chúa nâng đỡ các con Ngài thoát khỏi nhiều tai nạn, tuy nhiên, nếu liều lĩnh hoặc vì kiêu căng mà hành động thì không thể áp-dụng câu Thánh Kinh này được! Chúng ta cũng biết rằng: quỷ cũng thông hiểu Kinh Thánh, nhưng nó không yêu mến, không thực hành Lời Chúa, nên Lời Chúa không ích chi cho nó! …Chúa Giêsu trả lời: “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi!” (Lc 4,12). Chúa Giêsu đã trích lời Kinh Thánh trong Sách Nhị Luật 6,16.

“Khi quỷ đã thử thách Chúa đủ cách, nó rút lui để chờ dịp khác” (Lc 4,13). Sau khi Satan bị thua trong mọi cơn cám dỗ, nó xấu hổ, bẽ bàng rút êm để chờ dịp khác! Nó thua keo này, nhưng nó sẽ chờ keo khác, chỉ khi nào chúng ta thở hơi cuối cùng thì chúng mới ngưng hẳn cám dỗ chúng ta !

Ma quỷ rất tinh ranh, chúng thường lợi dụng những yếu đuối của con người để dụ dỗ, lôi kéo và chúng thường dùng nhiều cách để cám dỗ:

1. Quỷ dữ hành động như một con chó:

Thánh Inhaxiô đã viết: “Khi người tập tành trong đàng thiêng liêng thẳng tay chống trả các cơn cám dỗ bằng cách làm điều ngược lại, thì ma quỷ sẽ khiếp đảm và bỏ chạy. Trái lại, nếu người ấy bắt đầu sợ hãi và mất can đảm trước cơn cám dỗ, thì trên mặt đất này không có vật nào hung dữ bằng ma quỷ, để theo đuổi ý định xấu xa của nó” ( LT số 325).

Vâng, ma quỷ như một con chó, nếu ta can đảm chống lại, nó sẽ cúp đuôi bỏ chạy. Ma quỷ chỉ mạnh mẽ khi ta hèn nhát. Do vậy, khi nhận ra những cám dỗ làm điều xấu, chúng ta phải dứt khoát chống trả, phải mau mắn làm theo ý Chúa từ những điều nhỏ nhất. Satan không thể dùng sức lực tàn bạo để khuất phục những ai đã thuộc về Đức Kitô.

2. Quỷ dữ hành động trong bóng tối:

Thánh Inhaxiô còn so sánh ma quỷ với một người tình giả dối: “ luôn tìm cách tránh né, không muốn bị phát hiện. Khi muốn cám dỗ người khác, người ấy muốn những lời mình nói, những việc mình yêu cầu được giữ kín” ( LT số 326)

Khi ma quỷ đã gieo vào lòng chúng ta những điều xấu, chúng ta sẽ cảm thấy bối rối, bất an. Hãy can đảm nói ra những gì làm ta bối rối, bất an với Cha mẹ, Linh mục giải tội, những vị linh hướng…Quỷ sẽ hết lợi dụng ta được. Vì ma quỷ biết rằng nó không thể thành công trong các việc xấu của nó, nếu những sự lứa dối đó bị phát giác.

3. Quỷ luôn tìm chỗ yếu của linh hồn để tấn công

Sau hết, Thánh Inhaxiô ví ma quỷ giống như một nhà Chỉ huy quân sự. Ông ta nghiên cứu tình hình, dò xem những điểm yếu về thể lý và tâm lý của đối phương, rồi tấn công vào “ điểm yếu nhất”. Ma quỷ cũng vậy, nó nghiên cứu cá tính của ta và tìm chỗ yếu nhất. Nếu ta có tính nhút nhát, nó sẽ tìm cách làm ta ra hèn nhát; nếu ta ưa khoe khoang, nó sẽ tha hồ nịnh bợ ta; nếu ta nặng tình cảm, nó sẽ thôi thúc ta nuôi một lòng đạo đức nặng cảm xúc, không có nội dung mà chỉ có hình thức…vì vậy, biết mình và biết những điểm yếu của mình là một điều vô cùng hệ trọng. Một khi ta biết rõ những điểm ấy rồi, ta có thể dâng lên Chúa để Người chữa lành và thế là ma quỷ thua cuộc.

Ma quỷ thường dùng nhiều cách để tấn công chúng ta, nên chúng ta phải can đảm chống lại điều xấu, thành thật nói ra với những người hữu trách những gì làm ta bối rối, và đề cao cảnh giác điểm yếu của mình để được Chúa luôn làm chủ cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải tự trang bị cho mình sức mạnh để thắng cám dỗ bằng việc học hỏi Lời Chúa, siêng năng cầu nguyện và luôn tin tưởng, phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.

“Đối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều biến thành tốt” ( Rm 8,28). Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa về giờ học hôm nay. Xin Chúa giúp chúng con thực hành điều chúng con quyết tâm, để chúng con thắng được những cám dỗ trong cuộc sống chúng con. Và ngay cả khi yếu đuối sa ngã, xin giúp chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa tín trung tha thứ.

Bài giảng tĩnh tâm ấy như tiếp thêm nguồn sinh khí cho từng thành viên trong nhóm nghị lực, can đảm và sức mạnh để đi tiếp cuộc hành trình khám phá ơn gọi và phục vụ tha nhân. Mỗi người trong nhóm được thôi thúc và thêm nguồn hăng say hơn, mỗi người có lẽ đều chung một cảm nghĩ: "Chúng ta cần phải hy sinh, dấn thân, cộng tác và phục vụ nhiều hơn nữa, nghĩ mình cần phải nhỏ bé lại để cho chính lời Chúa lớn lên".

Sau bài giảng, chúng tôi lại thinh lặng và nhìn lên thập giá của Chúa Kitô, mỗi người đều thưa lên với Chúa những tâm tư và ước nguyện của mình; duyệt xét lại bản thân, ăn năn dốc lòng chừa và chuẩn bị lãnh bí tích Hòa Giải. Bây giờ tất cả đều nhận thấy sự thoải mái và nhẹ nhàng, cùng có chung cảm giác phải cố gắng hăng say, yêu mến, và hy sinh nhiều hơn....

17h30, sau giờ kinh chiều tại nhà thờ cùng quý Thầy, chúng tôi đã dùng cơm tối tại nhà ăn Đan Viện và được gặp gỡ các bạn SVCG Thái Bình vừa mới về tới Đan Viện để tĩnh tâm Mùa Chay. Sau bữa ăn, mọi người mỗi người một tay cùng dọn dẹp, nhanh nhanh để chuẩn bị cho chương trình buổi tối hôm đó.

Đúng 18h30, mọi người lại trở về nhà nguyện để chuẩn bị cho Thánh Lễ và giảng tĩnh tâm 2. Và 19h00, Cha linh hướng Gioan đã dâng Thánh lễ tĩnh tâm cho các bạn SVCG Bùi Chu và SVCG Thái Bình. Mở đầu Thánh Lễ, Cha Gioan mời gọi các bạn sinh viên đi theo con đường Giêsu. Con đường đầy những gai góc, khó khăn, trở ngại và thách đố. Cho nên, chúng ta phải tin tưởng, cậy trông, phó thác vào tình yêu thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.

Trong bài giảng lễ, Cha Gioan đã diễn giải ăn chay chính là việc kết hợp với Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, là cách thức chúng ta cùng chịu đóng đinh, cùng chịu vác thập giá với Đức Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta phải ăn chay vì chúng ta thờ ơ, khô khan, nguội lạnh, mải mê chìm ngập trong tội lỗi, đam mê dục vọng xác thịt của mình, không cần đến Thiên Chúa nữa. Cho nên chúng ta phải chay tịnh, hy sinh, hãm mình, cầu nguyện làm mới lại tâm hồn, bỏ con người cũ tội lỗi, yếu đuối ấy đi mà mặc lấy con người mới trong Đức Kitô, đón Chúa đến với chúng ta, chia cơm xẻ áo với những người cùng khốn bên cạnh chúng ta, yêu thương nâng đỡ những con người yếu đuối, lầm đường, lạc lối, mở lối cho họ được trở về nẻo chính đường ngay.

Cha Gioan dâng lời cầu nguyện: “Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ hướng dẫn soi sáng để mỗi người chúng ta trong mùa Chay thánh này thực sự biết thực hành việc chay tịnh, biết sống vì chay tịnh, hãm mình như ý Chúa muốn”.

Kết thúc Thánh lễ, hơn 200 bạn sinh viên đã cùng đi đàng Thánh giá trọng thể xung quanh Đan Viện tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Chặng 14 đàng Thánh giá, chúng con quỳ bên Thánh Giá Chúa trong ngôi thánh đường cổ kính của Đan Viện. Cùng suy niệm mầu nhiệm thương khó của Chúa. Trong những giây phút thiêng liêng đi đàng thánh giá này, chúng con mới cảm nhận được con ở gần Chúa hơn bao giờ hết, "Chúa đến và tự hủy mình ra không" và con mới thấu hiểu được những nỗi thống khổ khôn xiết mà Chúa đã phải trải qua vì tội lỗi của nhân loại.

Sau đó, các bạn sinh viên cùng quy tụ xung quanh bàn thờ trên Gian Cung thánh và cùng tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể. “Con về nơi đây, về bên Chúa trong Bí Tích tình yêu. Kính thờ yêu mến, lòng trào dâng tâm tình tri ân Ngài” và cùng suy niệm những lời cuối cùng của Chúa trên thập giá: “Ta khát” (Ga 19,28b).

“TA KHÁT…”, đó là lời mà Chúa Giêsu đã thốt lên khi Ngài ở trên thập giá cách đây hơn 2000 năm. Chúa đã kiệt sức, mệt mỏi sau những trận roi đòn của quân lính khi Người mang lấy tội lỗi của chúng ta mà treo lên cây thập tự máu, mang xuống ngục tổ tông mà phá tan xiềng xích tử thần. Nhân loại quá thờ ơ trước cái nhìn và lời khẩn khoản của Người: ta khát, mang dấm chua, mật đắng cho ngài. Dù vậy, Người vẫn xin Chúa Cha “tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Vì yêu chúng con, Người đã lập bí tích mà ở với chúng con đêm ngày. Vì yêu con mà Chúa không màng tới sự thờ ơ, vô tâm của nhân loại khi Người kêu lên “ta khát”. Thay vào đó là lời cầu xin tha tội cho chúng con. Tình yêu Chúa dành cho chúng con, những đứa con tội lỗi thật quá cao siêu. Chúng con, những đứa con đang lưu lạc nơi dương gian lắm bon chen và tranh đấu xin nép mình bên Thánh Thể Chúa bé nhỏ đơn sơ để cảm nghiệm những giây phút an bình và kín múc nguồn tình yêu Thánh Thể dồi dào mà vì yêu chúng con, Chúa đã hóa nên tám bánh mọn hèn trong bí tích Thánh Thể.

Thánh vịnh 63 được hát xướng lên cách chậm rãi nhưng rất sốt sắng, như thể mỗi người nhai kỹ và nuốt từng lời thánh vịnh để thờ lạy Thánh Thể và tung hô Chúa.

Kinh Cầu Trái Tim đọc khoan thai. Từng lời ‘Thương xót chúng con’ nghe mà thấm thía, con cảm nhận rõ mình là tội nhân trước một Thiên Chúa uy quyền mà đầy lòng xót thương.

Cùng quỳ gối cầu nguyện bên Thánh Thể Chúa, con đã muốn thốt lên những lời xin lỗi, lời cầu bầu của riêng con. "Con xin lỗi Người vì chỉ những phút giây nhậu nhẹt, vui chơi cùng bạn bè mà con quên tìm về với Chúa mỗi cuối tuần, con xin lỗi Người những lúc con sẵn sàng giấu niềm tin của mình chỉ vì vật chất trước mắt, con xin lỗi Người vì con đã để ham muốn thể xác trỗi dậy,che lấn đi những lời khuyên của Chúa...". Nhiều, nhiều lắm những lời xin lỗi con muốn nói với Người. Nhưng con và các bạn của con đã chẳng thể nói vì giây phút đó ai cũng nghẹn lời khi mà chúng con đã có quá nhiều lỗi lầm và thấy ân hận vì chẳng đáng là con cái của Chúa, "vì con cái sao có thể đưa Người Cha của mình đến chỗ chết".

Con chỉ biết bày tỏ bấy nhiêu thôi sau hai ngày con rời xa thế giới hiện tại để thinh lặng chạy đến cùng Cha trí ái. Con cũng mong Người sẽ dẫn dắt không chỉ riêng Con mà cả những anh chị em của Con đang sống và làm việc xung quanh Con biết trân trọng những gì Chúa đã trao ban và biết đối nhân xử thế sao cho xứng là một Kitô Hữu. Những lời kinh vang xa, vọng về… trong một đêm âm u hoang vắng. Như thể lời cầu đã thâu đến tai Chúa và được trả lời “Ta đã nhận lời các con”.

Sau giờ kinh, Cha Gioan đọc lời cầu nguyện chung: cầu cho Hội Thánh, cầu cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, cầu cho các Đức Giám Mục và Linh mục chúng con, cầu cho các tu sỹ và toàn thể giáo dân, cầu cho thế giới hòa bình, cầu cho muôn người hiệp nhất trong một Đức Kitô…Toàn thể cộng đoàn kính thờ lạy Thánh Thể.

Giờ Chầu kết thúc. Mọi người ra về với niềm vui và nỗi buồn đan xen lẫn lộn. Vui vì thực sự được hiệp thông cùng đông đảo các bạn sinh viên đến từ 3 Giáo Phận chầu Thánh Thể Chúa trong niềm tin vào một Thiên Chúa. Buồn vì sự hiệp thông ấy chỉ diễn ra trong một giờ, sự hiệp thông của những ngày tiếp sau sẽ lại như những mảnh vỡ của một bức tranh được ghép lại mà dâng lên Chúa. Dù sao, trong niềm tin, các bạn sinh viên 3 Giáo Phận đã trải qua một giờ linh thiêng quây quần bên vị Cha chung để cùng cầu nguyện với Chúa. Sự hiệp thông mà ta cảm nhận được rõ ràng, nó gần gũi, nó linh thiêng, nó không giống như khi cầu nguyện đơn lẻ thông thường.

Kết thúc giờ chầu Thánh Thể, tâm tình của chúng con xin được hiệp nhất với nhau trong một chén và một bánh luôn mãi như lời của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế, Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.”(Ep4,3.16)

11h00, đêm đã về khuya, mọi người về phòng nghỉ, khép lại một ngày với nhiều hoạt động thật ý nghĩa và thiêng liêng.

Buổi sáng Chúa Nhật II Mùa Chay bắt đầu với nhóm từ lúc 04h00. Cùng thức dậy và dâng ngày mới cho Chúa, thật hiếm khi có dịp mọi người được hưởng bầu không khí trong lành đến tinh khôi của một buổi sáng sớm tại một ngôi Thánh đường như thế.

04h30, chúng tôi tham dự giờ kinh sáng – nguyện ngẫm cùng quý Cha và quý Thầy tại Thánh đường Đan Viện.

“Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,

cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,

cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,

tự muôn đời và chính hiện nay

luôn mãi đến thiên thu vạn đại. Amen.”

Những bài Thánh vịnh được cất lên với giọng ca thanh thoát, thật tuyệt vời, như những lời ca các Thiên thần đang ca hát vinh quang Chúa trên thiên quốc. 05h30, Thánh lễ sáng Chúa Nhật cùng với quý Cha và quý Thầy Đan Viện cùng đông đảo các bạn sinh viên và một số bà con giáo dân tại ngôi thánh đường cổ kính. Tuy là một Thánh lễ sáng sớm còn khá ngái ngủ, nhưng mọi người đều tham dự vô cùng sốt sắng, cùng dâng ngày mới, tâm hồn lên Thiên Chúa.

07h30, sau khi đã ăn điểm tâm sáng và thu dọn xong, chúng tôi đã đi bộ hành hương về bên chân Mẹ tại ngọn núi phía sau Đan Viện. Trong tâm tình những đứa con thơ, chúng tôi dâng lên Mẹ lời tạ ơn về một năm đã qua và cầu bình an cho những ngày tháng sắp tới. Trong chuyến hành hương này, chúng tôi có tất cả hơn 200 bạn sinh viên, đồng hành với chúng tôi có Đức Tổng Giuse và Cha linh hướng Gioan nữa.

Đoạn đường dốc với hơn ba trăm bậc cấp cao thấp khác nhau từ chân núi lên đến chân Đức Mẹ được chia ra làm mười bốn chặng. Mỗi chặng tương ứng với một chặng đàng Thánh giá Chúa Giêsu. Vừa leo núi, chúng tôi vừa dâng những tâm tình tạ ơn lên Mẹ với những lời đơn sơ: “Lạy Mẹ Maria kính yêu, hôm nay Giáo Hội bước vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Chúng con dành ngày Chay Thánh này để đến bên Mẹ, tạ ơn và dâng lên Mẹ những tâm tư tình cảm, những niềm vui nỗi buồn trong trong Mùa Chay này. Chúng con cảm ơn và xin Mẹnâng đỡ, che chở và cầu bầu cho chúng con trên suốt chặng đường theo Chúa. Giờ đây, chúng con xin cùng bước theo Mẹ qua các Mầu nhiệm của Kinh Mân Côi”.

Phải nhờ Mẹ để có thể đến với Chúa Giêsu được: “Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết chạy đến cùng Mẹ trong những lúc gian nan, thất vọng của chúng con hay những lần chúng con sa ngã, phạm tội, xin bàn tay dịu hiền của Mẹ dẫn dắt chúng con trở về với Chúa Giêsu con Mẹ”.

Sau khi leo hơn ba trăm bậc đá, chúng tôi đã lên đến hang đá Đức Mẹ - nơi xưa nhiều Cha, Thầy đã ẩn tu tránh sự bắt bớ. Trong những phút thinh lặng dưới chân Đức Mẹ, mỗi người chúng tôi nhìn lại những năm tháng đã qua và dâng lên Mẹ những lời cầu nguyện và quyết tâm trong hành trình cuộc đời mới: “Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con biết noi gương Mẹ luôn vâng phục thánh ý Chúa trong tin yêu, cảm mến và cậy trông vào tình yêu quan phòng của Chúa. Xin cho chúng con biết sống yêu thương, dấn thân phục và sống tinh thần nghèo khó để chúng con trở nên chứng nhân cho tình yêu Chúa trong cuộc sống thường ngày”.

Mặc dù các bậc thang lên núi khá trơn trượt do trời mưa nhiều ngày hôm trước, nhưng với tình yêu thương và quý mến, Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt đã không quản mệt mỏi cùng lên núi và giảng tĩnh tâm “Bài giảng trên núi” cho các bạn sinh viên.

Mở đầu “bài giảng trên núi”, Đức Tổng Giuse mời gọi các bạn sinh viên hiểu thấu chủ đề phụng vụ của năm 2014 là “Tân Phúc - Âm - hoá đời sống gia đình”. Trước hết, Đức Tổng nhấn mạnh: chỉ có một Tin Mừng duy nhất của Đức Kitô mà thôi, Tân Phúc - Âm - hoá không phải là rao truyền một Tin Mừng mới, mà là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, rao giảng với một tinh thần nhiệt thành và hăng say hơn, vận dụng phương pháp truyền giáo thích hợp, phù hợp với từng vùng từng địa phương và sử dụng cách diễn giải phù hợp với con người ngày hôm nay để loan báo Tin Mừng.

Để giúp cho các bạn sinh viên thực hiện được điều đó, Đức Tổng chia sẻ về tình trạng khó khăn có nguy cơ khủng hoảng trong đời sống các gia đình, nguyên nhân: gia đình là nạn nhân của một xã hội đầy sự giả dối, bạo lực và vô cảm. Cuối cùng, Đức Tổng đi đến: Gia đình Công Giáo vác thập giá theo Đức Kitô. Và Tin Mừng là phương thế đích thực, là sức mạnh để các gia đình đủ sức vác thập giá, vượt qua thử thách xây dựng được hạnh phúc gia đình.

Những lời chia sẻ mộc mạc của Đức Tổng Giuse thật sự làm chúng con thẩm thấu được nhiều điều, Ngài đã nghe câu nói của ĐTC Phanxicô là giảng không cao siêu, mà mộc mạc cho mọi người cùng hiểu,... Rồi ngài nhấn mạnh: Gia đình phải là một cộng đoàn cầu nguyện, cộng đoàn bảo vệ và phát triển sự sống, cộng đoàn yêu thương và trên hết gia đình phải loan báo và làm chứng cho Tin Mừng giữa lòng thế giới hôm nay.

Gia đình thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng cách đến với anh em lương dân, giới thiệu Chúa cho những người chung quanh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.... dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).

Gia đình cần mạnh dạn loan báo Lời Chúa bằng lòng thương xót. Vì lòng thương xót chính là trọng tâm và căn bản của Tin Mừng Chúa Kitô qua dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” (Lc 10,30-35) và được bổ trợ bằng 3 dụ ngôn:

1, Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Luca 15,11-32)

2, Dụ ngôn “Cuộc phán xét chung” (Mt 25,31-46)

3, Dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó” (Lc 16,19-31)

Trước tiên, dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” (Lc 10,30-35)là một trong những dụ ngôn được nhiều người biết nhất, không chỉ đối với người theo đạo Chúa mà còn đối với người theo tín ngưỡng khác khắp nơi trên thế giới. Nói đến người Samaritanô nhân hậu, người ta nghĩ ngay đến người giàu lòng nhân nghĩa, bác ái, hào hiệp luôn luôn sẵn sàng giúp người khốn cùng, giữa đường lâm nạn đang cần sự giúp đỡ. Gần như mỗi người trong cuộc sống ở thế gian đều có nhu cầu khẩn thiết, đặc biệt là nhu cầu tâm linh cần được cứu rỗi. Bởi đó, dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” đã ảnh hưởng sâu đậm đến hành động, việc làm của rất nhiều người, cả đời lẫn đạo.

Đọc và tìm hiểu dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” dưới ánh sáng của chương trình cứu độ đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, người đọc sẽ thấy rõ bài học khuyên dạy của Chúa: mỗi người chúng ta hãy “chấp nhận giá cứu chuộc của Đấng Cứu Thế” bằng cách hãy tỏ lòng xót thương đối với người đồng loại của mình. Câu chuyện Chúa Giêsu kể không phải là để trả lời câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” nhưng chính là để trả lời cho câu hỏi trước đó, quan trọng hơn: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Nếu người thông luận hiểu được ý Chúa Giêsu và hành động như người Samaritanô trong dụ ngôn thì con đường thể hiện tiềm năng thánh thiêng (divine potential) của ông để trở nên giống như Đấng Cứu Chuộc đã được vạch ra.

Đọc dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu” theo cách này có thể khiến người đọc tự đặt mình vào vị trí các nhân vật trong câu chuyện, rồi xét suy cuộc sống của chính mình. Chắc chắn Chúa Giêsu mong muốn mỗi người tín hữu hãy tự xem mình và hành động như Người Samaritanô nhân hậu giúp người lâm nạn giữa đường cũng như cứu vớt những linh hồn lạc lỏng. Chúa bảo người thông luật Pharisêu: “Hãy đi và cứ làm như vậy để được sống đời đời” (Lc 10,37). Bằng cách này, chúng ta cùng tham gia với Chúa để mang lại sự cứu rỗi và cuộc sống vĩnh hằng cho nhân thế.

Những môn đồ theo Chúa, hàng giáo phẩm, các giáo sĩ, cũng có thể nghĩ mình chính là người chủ quán trọ với trách nhiệm chăm sóc dài hạn để giúp người bị thương tích sớm hồi phục. Chính người chủ quán chấp nhận lời hứa đền bù ơn phúc, phần thưởng từ người Samaritanô.

Hoặc người đọc cũng có thể ví mình như người khách đi đường có nhu cầu cần sự trợ giúp, hay ví mình như các ông tư tế, Lêvi sống vì lề luật và cho lề luật, không có quyền năng chữa lành hay giải quyết vấn đề, có thái độ dửng dưng, làm ngơ trước những khổ đau của người đồng loại. Cũng có thể chúng ta đóng vai kẻ cướp vì đôi khi chúng ta làm phương hại gây tổn thương cho người khác. Nói khác đi, trong suốt cuộc đời của mỗi người tín hữu, lúc này hay lúc khác, chúng ta có thể hành động, đóng vai các nhân vật trong câu chuyện “Người Samaritanô nhân hậu”.

Con người là con-vật-có-xã-hội-tính. Không ai muốn sống một mình, và cũng không ai có thể sống một mình mà không cần đến người khác, ngay cả những người thừa tiền dư bạc. Con người luôn có nhu cầu cần được trợ giúp phần xác và cứu rỗi phần hồn. Cho nên dụ ngôn đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến đời sống tâm linh của hầu hết mọi người.

Trong các giới hạn của đời người như sinh, bịnh, lão, tử...thì dường như “chết” là điều vô lý nhất. Viễn tượng của sự chết làm tê liệt mọi hoạt động của con người. Nếu sau sự chết là hư vô, là hoàn toàn chấm dứt, là không còn gì nữa hết... thì cuộc sống ở thế gian quả là một bi kịch, cực hình: sanh ra, lớn lên, học hành, tranh sống bằng trăm phương ngàn kế, giành giựt chém giết nhau, lừa đảo để thủ lợi, chiến tranh... rồi cuối cùng cũng chết, cũng hết. Nếu chết là sự chấm dứt hoàn toàn về mọi phương diện – vật chất, tinh thần, tâm linh, linh hồn – thì quả thật khó mà tìm ra người hay lý do để “yêu thương người thân cận như chính mình.” Khi con người đi tìm “một đời sống khác” làm đích nhắm cho cuộc sống đời này thì đời sống hiện tại sẽ đổi màu thay sắc khác, sẽ có nhiều ý nghĩa tốt lành, tươi đẹp hơn. Cuộc đời ở thế gian thay vì là tận điểm sẽ trở thành khởi điểm cho một cuộc hành trình về chốn vĩnh cửu đầy ơn phước.

Giải đáp cho câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” để tôi “yêu thương như chính mình” chỉ có nghĩa khi tôi nghĩ cách “phải làm gì để được sự sống đời đời. ” Đó là câu hỏi khẩn thiết và cấp bách nhất của con người. Qua dụ ngôn “Người Samaritanô nhân hậu”, Chúa Giêsu đã hé mở cho chúng ta một chương trình cứu rỗi để có cuộc sống vĩnh hằng. Những tình tiết trong dụ ngôn rất thích hợp, ăn khớp, và nối kết chặt chẽ với nhau để phác họa nên chương trình cứu độ và cuộc sống đời sau. Và đó chính là ẩn ý của Chúa Giêsu khi kể dụ ngôn này cho người thông luật Pharisêu.

Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (Lc 15,11-32)là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu.

1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ

Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.

Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.

Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.

Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.

Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.

Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.

Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.

2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.

Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.

3. Nét thứ ba của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.

Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.

Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.

Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.

Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.

Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.

Dụ ngôn “Cuộc phán xét chung” (Mt 25,31-46).Bài diễn từ đầu tiên của Đức Giêsu bắt đầu bằng phúc lành (5,3-12), bài cuối cùng kết thúc bằng cảnh phán xét cuối cùng. Toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu được gom lại giữa hai giáo huấn quan trọng này, là những giáo huấn nói về những gì chúng ta có thể chờ đợi từ nơi Thiên Chúa và những gì chính chúng ta phải làm. Trong bài nói về phán xét cuối cùng, Đức Giêsu nhấn mạnh đến việc trao tặng nhưng không, tỏ bày lòng từ bi thương xót và sự tốt lành cho người anh em. Đấy là yếu tố chính, lãnh vực chuyên biệt để chúng ta hành động. Tuy nhiên, cũng không được quên những giáo huấn khác của Đức Giêsu. Nhận biết uy quyền của Người và quyền lực của Chúa Cha làm cho chúng ta có khả năng và thúc đẩy chúng ta hành động theo các tiêu chuẩn của Chúa Cha cũng là của Đức Giêsu.

Tác giả Mt tin rằng Hội Thánh Kitô giáo không có một vị trí đặc biệt nào tại cuộc phán xét. Các Kitô hữu cũng bị xét xử bởi Con Người, Đức Chúa của họ, chỉ dựa trên các hành vi yêu thương họ đã làm, y như bất cứ người nào khác. Chính vì thế, họ chẳng có gì để tự mãn.

Dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó” (Lc 16,19-31)có 2 sứ điệp chính: Chúa Giêsu dạy các môn đệ sự cần thiết phải chia sẻ của cải cho những ai túng thiếu và khuyên họ hãy cẩn thận trước những nguy hiểm của sự giàu sang; đồng thời cũng cho thấy rõ một quan niệm về thế giới bên kia như tương lai thực sự của con người.

Ladarô được đưa về thiên đàng, vào cung lòng của Ápraham không phải vì đã sống một cuộc đời nghèo khó, nhưng là do ân sủng của Chúa và niềm tín thác vào Chúa. Chính Ápraham đã từng là một người rất giàu có sung túc, nhưng ông cũng là người có Đức tin mạnh mẽ và tình yêu sống động với Thiên Chúa. Cho dù được cứu độ hoàn toàn do ân sủng (sola gratia) những người nghèo của Thiên Chúa như Ladarô cũng cần phải trả lời cho Tin mừng Luca rằng Thiên Chúa nâng cao người thấp hèn trong cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu (x. Lc 16,31). Cũng vậy, người phú hộ bị kết án không phải vì có của cải dư thừa, giàu sang phú quý, nhưng là vì lơ là, dửng dưng trước lời dạy của Sách Thánh, của Môsê và các Ngôn sứ, không biết sống yêu thương và hiệp thông với Chúa và người lân cận, mà chỉ biết đến bản thân mình mà thôi.

Sứ điệp của dụ ngôn này không phải là lời mời gọi chúng ta trở nên người nghèo vật chất như Ladarô. Sứ điệp đó là gì? Nếu chúng ta là những người giàu về của cải, khả năng, trí tuệ, sức khỏe, ngoại hình, ơn thánh,… biết lắng nghe và làm theo giáo huấn của Tin mừng và Cựu ước, biết quan tâm, chăm sóc, chia sẻ với những người bên cạnh yếu kém hơn chúng ta về thể lý và tinh thần như Ladarô, thì chúng ta sẽ được một chỗ trong bàn tiệc Thiên sai. Nếu chúng ta là người nghèo về mọi mặt, thì xin Chúa cũng cho chúng ta biết sống tinh thần khiêm tốn, phó thác, tin tưởng, ngoan thảo, hiền hòa trước những lời dạy dỗ của Chúa, những vị ngôn sứ, những người thay tiếng nói của Chúa… để một ngày kia, sau khi kết thúc cuộc đời bước theo Chúa, chúng ta được các thiên thần đón về với Đức Kitô, người thầy và người bạn chí thánh của chúng ta, tiến sâu vào cung lòng của Ba Ngôi và tham dự bữa tiệc Thiên quốc chan chứa tình thương đến thiên thu, vạn đại.

Như vậy, qua 4 dụ ngôn trên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực thi lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hàng ngày, làm chứng cho Người bằng việc bác ái, thương xót và phục vụ tha nhân. Lòng thương xót kết nối con tim, xóa tan khoảng cách và hận thù. Từ đó, Đức Tổng Giuse kết luận, Giáo Hội ngày nay phải trở lại đúng với bản chất nguyên thủy của mình, là đồng hành và nâng đỡ mọi người trong Đức Tin và trong truyền thống Kitô giáo. Giáo Hội phải là một bệnh viện dã chiến hằng mau mắn chữa lành mọi lỗi lầm cho người dân. Giáo Hội phải là một người hòa giải luôn đứng ra bênh vực cho người nghèo, cho người bất công và thiệt thòi. Giáo Hội phải là một sứ điệp của trái tim, của sự giản đơn, trở về với căn tính đích thực của mình nơi Đức Kitô. Giáo Hội phải là một Giáo Hội của Emaul, luôn sẵn sàng trò chuyện và tâm sự, đồng hành với người dân khi đêm khuya hay sáng sớm. Giáo Hội Công Giáo phải mạnh mẽ và thăng tiến hơn nữa qua ân sủng của Đức Mẹ, điều mà Giáo Hội Tin lành khước từ.

Những hình ảnh gần gủi người nghèo của Đức Thánh Cha mà Đức Tổng Giuse nhắc đến là những bài học, là những tấm gương cho mỗi người chúng con phải noi theo trong công việc bác ái - một việc mà chúng con cần làm trong sứ mệnh của con cái Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một diễn từ mới đây, đã thẳng thắn nói rõ là thế giới hiện nay đang sống với thảm trạng “tôn thờ tiên bạc” và dửng dưng với bao triệu người nghèo đói ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia Phi Châu.

Đức Thánh Cha phê phán thế giới “tôn thờ tiền bạc”vì ngài thấy rõ sự chênh lệch quá to lớn giữa người quyền thế giầu sang và người nghèo cô thân cô thế ở khắp nơi trên thế giới tục hóa này. Nên khi lên ngôi Giáo Hoàng ngày 13 tháng 3 năm qua (2013), ngài đã chọn danh hiệu “Phanxicô” cho triều đại Giáo Hoàng của mình để nói lên ước muốn sống tình thần nghèo khó của Thánh Phanxicô khó khăn Thành Assisi và nhất là tình thần và đời sống khó nghèo thực sự của Chúa Giêsu Kitô, “Đấng vốn giầu sang phú quí nhưng đã tự ý trở nên khó nghèo vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giầu có.” (2 Cor 8,9)

Như thế, gương khó nghèo của Chúa Kitô mà Đức Thánh Cha muốn thực hành, phải là gương sáng cho mọi thành phần dân Chúa trong Giáo Hội noi theo, đặc biệt là hàng giáo sĩ và tu sĩ là những người có sứ mạng và trách nhiệm rao giảng và sống Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Kitô để nên nhân chứng cho Chúa, “Đấng đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người.” (Mt 20,28).

Đặc biệt trong thư gửi cho các Tân Hồng Y ngày 13 tháng 1 vừa qua (2014), Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh như sau: “Cái mũ đỏ không có ý nghĩa là được thăng thưởng một danh dự hay hào nhoáng bề ngoài, mà chỉ đơn thuần là một hình thức phục vụ đòi hỏi mở rộng tầm nhìn và con tim…do đó, xin quí chu huynh nhận sự bổ nhiệm mới này với lòng khiêm cung, giản dị và vui mừng, nhưng vui mừng không theo cách người đời hay bằng cách mừng vui nào xa lạ với tinh thần của Phúc Âm về sự khắc khổ, tiết độ và khó nghèo.”

Khó nghèo ở đây không có nghĩa là phải đói khát rách rưới, vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ thì mới được chúc phúc. Ngược lại, phải lo cho mình và cho người mình có trách nhiệm coi sóc, được có phương tiện sống cần thiết tối thiểu như nhà ở, cơm ăn áo mặc, phương tiện di chuyển như xe cộ, vì ở Bắc Mỹ và các quốc gia Âu châu, Úc châu thì linh mục phải có xe hơi thì mới làm mục vụ được, vì không thể đi bộ đến thăm bệnh nhân ở tư gia hay ở bệnh viện. Nghĩa là không “lý tưởng thiếu thực tế” để chỉ chú trọng đến đời sống tinh thần mà coi nhẹ hay sao nhãng đời sống vật chất đúng mức cho phù hợp với nhân phẩm.

Nhưng điều quan trọng nhất, là phải thực sự sống tinh thần nghèo khó mà Chúa Kitô đã dạy các môn đệ và dân chúng xưa là “Phúc cho ai có tinh thần (tâm hồn) nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3; Lc 6,20)

Sự nghèo khó mà Chúa muốn dạy ở đây, không có nghĩa là phải đói khát, rách rưới về phần xác như đã nói ở trên, mà chỉ có nghĩa là không được ham mê tiền bạc và của cải vật chất, tiện nghi xa hoa, danh vọng trần thế, đến độ làm nô lệ cho chúng để không chú trọng vào việc mở mang Nước Thiên Chúa trong tâm hồn của chính mình và nơi người khác; cụ thể là các giáo dân được trao phó cho mình phục vụ và săn sóc về mặt thiêng liêng.

Sự thành công của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng không căn cứ ở những giáo đường, nhà xứ, Tòa Giám mục được xây cất sang trọng, lộng lẫy, để khoe khoang với du khách, mà cốt yếu ở chỗ xây dựng được đức tin và lòng yêu mến Chúa vững chắc trong tâm hồn của mọi giáo dân để giúp họ sống đạo có chiều sâu thực sự, chứ không phô trương bề ngoài với số con số đông tân tòng được rửa tội, đi lễ, đi rước ầm ỹ ngoài đường phố, trong khi rất nhiều người vẫn sống thiếu bác ái và công bình với nhau và với người khác.

Mặt khác, người tông đồ lớn nhỏ - nam cũng như nữ- mà ham mê tiền của để đôn đáo chạy đi khắp đó đây, đi ra nước ngoài nhiều hơn là đi thăm con chiên bổn đạo chỉ vì mục đích kiếm tiền cho những nhu cầu bất tận, thì sẽ không bao giờ có thể sống và thực hành tinh thần khó nghèo của Chúa Kitô, Đấng đã sống lang thang như người vô gia cư, đến nỗi có thể nói được về mình là “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20)

Thử hỏi Chúa có đóng kịch “khó nghèo” từ khi sinh ra trong hang bò lừa cho đến khi chết trần trụi trên thập giá hay không? Ai dám nói là có? Nếu vậy, thì Chúa quả thực đã sống khó nghèo trong suốt cuộc đời tại thế để nêu gương nghèo khó trong tâm hồn và trong cuộc sống cho mọi người chúng ta. Nghĩa là các tông đồ của Chúa nói riêng, và toàn thể dân Chúa nói chung, phải thi hành lời Chúa để đi tìm và “tích trữ cho mình những kho tàng ở trên trời nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được” (Mt 6,20)

Nếu chỉ chú trọng đi tìm tiền của và xây dựng nhà cửa cho sang trọng và không xa tránh những cám dỗ về tiền bạc và quan tâm đúng mức đến người nghèo khổ, thì chắc chắn sẽ không thể rao giảng Tin Mừng cách hữu hiệu được. Và cũng không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về tinh thần nghèo khó của Phúc Âm mà Chúa đã nêu gương sáng từ khi Người sinh ra cho đến khi chết đi hoàn toàn trong khó nghèo và đau khổ để cho chúng ta được cứu rỗi và trở nên phú quí sang giầu trên Nước Trời mai sau.

Nói rõ hơn, giảng tinh thần khó nghèo của Chúa cho người khác, mà chính mình lại sống phản chứng bằng cách chạy theo tiền của, dùng những phương tiện di chuyển sang trọng như đi các xe đắt tiền loại Lexus, BMW, Mercedes…, đeo đồng hồ longines, Omega..., làm thân với người giầu, không nhận dâng lễ cho người nghèo có ít tiền xin lễ, mà chỉ nhận lễ có bổng lễ cao..., thì chắc chắn sẽ không thuyết phục được ai tin và sống điều mình rao giảng cho họ, chỉ vì chính mình không sống điều mình rao giảng. Dĩ nhiên đây không phải là cách sống của tất cả mọi linh mục, giám mục nhưng dù chỉ có một thiểu số nhỏ cũng đủ gây tai tiếng cho tập thể nói chung vì “con sâu làm rầu nồi canh” như tục ngữ Việt Nam đã nói.

Tóm lại, Giáo Hội của Chúa phải thực sự nghèo khó theo gương Đấng sáng lập là Chúa Giêsu Kitô, Người đã thực sự sống và chết cách nghèo khó để dạy mọi người chúng ta coi khinh, coi thường sự sang giầu chóng qua ở đời này để đi tìm sự giầu sang đích thực là chính Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc giầu sang vĩnh cửu mà tiền bạc, của cải ở đời này không thể mua hay đổi chác được.

Chỉ có nghèo khó thực sự trong tâm hồn, thì Giáo Hội mới có thể để lách mình ra khỏi mãnh lực của đồng tiền, và của cải vật chất, để chú tâm vào việc thi hành sứ mệnh của mình là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô và chân lý của sự giầu sang đích thực, là chính Thiên Chúa, Đấng đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta hạnh phúc mà “mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người chẳng hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (1 Cr 2,9)

Nghĩa là phải yêu mến Chúa hơn yêu mến tiền của và mọi sự sang trọng phú quí của trần này, thì mới có thể rao giảng Tin Mừng Cứu Độ cách hữu hiệu cho người khác. Nước Thiên Chúa mà Giáo Hội có sứ mệnh mở mang trên trần thế này, không phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm tiền bạc, danh vọng và của cải vật chất hư hèn, mà cho mục đích kiếm tìm hạnh phúc và bình an vinh cửu trên Nước Trời. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nói với anh thanh niên giầu có kia là “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi” (Mc 10,21).

Lời Chúa trên đây phải là đèn soi cho mọi người tín hữu trong Giáo Hội bước đi qua bóng tối của tiền bạc và của cải vật chất, là những quyến rũ đã và đang mê hoặc con người ở khắp nơi, khiến họ say mê đi tìm kiếm và tôn thờ, thay vì tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa là cội nguồn của mọi phú quý giầu sang đích thực mà thôi. Chúa nói: “Ai có tai nghe, thì nghe” (Mt 13,43; Mc 4,23; Lc 8,8).

Rồi hình ảnh Giáo Hội Hàn Quốc mà Đức Tổng nói đến, đánh động con về sứ mệnh truyền giáo của mình. Thực sự chúng con chưa làm được gì, chúng con còn bất toàn chưa xứng đáng được gọi là con Chúa. Bài giảng tĩnh tâm của Đức Tổng Giuse về cái nghèo của Chúa Giêsu đối với các bạn sinh viên qua Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô thực sự đã đánh động và biến đổi tâm hồn chúng con, thôi thúc chúng con hành động để trở nên những người loan báo và làm chứng cho Tin Mừng. “Anh em hãy đi khắp thế gian và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).

Đúng 10h00, Đức Tổng Giuse cùng 2 Cha linh hướng đã đồng tế Thánh lễ Chúa Nhật II Mùa Chay và cũng là Thánh lễ bế mạc 2 ngày tĩnh tâm. Đức Tổng đã chia sẻ về bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay, với bài giảng về “Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabo và tỏ bày vinh quang Chúa cho 3 môn đệ thân tín”.

Bài giảng của Đức Tổng như một cuộc nói chuyện tâm tình, và cũng thật tình cờ, hôm nay có 3 Nhóm SVCG về tĩnh tâm Mùa Chay và cùng hiệp dâng Thánh lễ trên hang Đức Mẹ này như 3 môn đệ xưa được Chúa bày tỏ vinh quang trên núi Tabo. “1 Hôm ấy, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. 2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện. Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu: núi của Bài Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.

Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.

Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.

Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ. Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc. Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha. Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.

Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài. Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được Cha hé mở cho các môn đệ. Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình. Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình. Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.

Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.

Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.

Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục. Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là. Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.

Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ. Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.

Ngày hôm nay, các bạn sinh viên quy tụ về nơi Đan Viện này, để cùng thân thưa với Chúa: “Lạy Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con Cha nữa…”. Lời sám hối của người con sau khi bước những bước lầm lạc rời xa tình yêu thương của người Cha đã đánh thức tâm trí biết bao người. Cho dù người con có tội lỗi thế nào, nhưng cánh tay của người Cha vẫn dang rộng đón con trở về. Nhìn sang một khía cạnh khác, Đức Tổng chia sẻ về vấn đề mỗi người nhìn nhận Thiên Chúa như thế nào trong cuộc sống hiện nay. Liệu bạn có coi Chúa là những ràng buộc, những lễ nghi phép tắc phải tuân theo hay đơn giản là Tình Yêu, là lẽ sống của đời bạn? “Hãy nói cho tôi bạn nghĩ Thiên Chúa là ai, tôi sẽ cho bạn biết bạn là người như thế nào”– Đức Tổng đã mượn lời Thánh Augustino để chốt lại vấn đề của bài giảng trên núi.

Cuối Thánh lễ, một bạn sinh viên đã đại diện cho hơn 200 bạn sinh viên đã chúc mừng Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, quý Cha linh hướng và các anh em nhận Thánh Giuse làm bổn mạng nhân ngày 19/3/2014 sắp tới.

Đáp lại, Đức Tổng mời gọi mọi người quan tâm, cầu nguyện, đồng hành với Cha và với Đan Viện. Đức Tổng cầu chúc cho quý Cha và các bạn SVCG trở nên những con người mới, những gia đình mới như Giáo Hội mong muốn và HĐGMVN mong chờ để chúng ta cùng hợp tác, làm việc với nhau xây dựng Giáo Hội VN, Giáo Hội địa phương, từng giáo xứ của chúng ta ngày càng thêm tốt đẹp hơn trong ân sủng của Đấng Phục sinh. Và chính những buổi tĩnh huấn này giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng thể hơn, rõ ràng hơn, có phương cách thực hiện chi tiết hơn để Phúc - Âm - hoá đời sống gia đình.

Sau Thánh lễ, chúng tôi được chụp ảnh chung với Đức Tổng và Cha linh hướng trên hang đá Đức Mẹ, lưu lại những kỉ niệm quý báu bên Chúa và bên các Ngài. Sau đó, chúng tôi đã cùng tháp tùng các Cha xuống núi về Đan Viện. Cùng tiến bước bên Đức Tổng và Cha linh hướng, cùng nghe và trò chuyện với các Ngài, chúng con như được trở về với tuổi thơ của mình, khi mà được đi bên bố mẹ đến nhà thờ tham dự thánh lễ hay nguyện ngắm Mùa Chay.

11h30, sau chuyến hành hương lên Núi Đức Mẹ, chúng tôi đã được dùng bữa cơm thân mật và cùng trò chuyện với Đức Tổng Giuse tại phòng ăn của Đan Viện. Ngài đã chia sẻ với chúng tôi rất nhiều về những thao thức của Ngài, Ngài luôn cầu nguyện cho mỗi người, mỗi bạn sinh viên của Ngài được bình an, khỏe mạnh và luôn sống trong ân Nghĩa của Chúa.

13h30, sau khi chào chia tay và cám ơn Cha Bề trên Đan Viện tại nhà khách, đoàn chúng tôi trở về Hà Nội, chia tay Đan viện Xitô Châu Sơn ai cũng thấy tâm hồn mình bình an sau khi được lời Chúa hướng dẫn và đã được Chúa tiếp thêm nguồn sinh khí mới. Chuyến hành trình tĩnh tâm Mùa Chay 2014 của Cộng Đoàn SVCG Bùi Chu kết thúc lúc 17h00. Đói và đã thấm mệt, mọi người cùng chia tay nhau trở về nhà. Chắc hẳn, những ngày sau mọi người sẽ nhớ nhau nhiều lắm, nhớ cả những kỉ niệm không thể nào quên của những ngày vừa qua. Ai cũng tự hứa với lòng mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa, hy sinh nhiều hơn nữa để phục vụ Chúa trong anh chị em. Tôi thầm cảm tạ Chúa đã ban cho đoàn chúng tôi trong 2 ngày tĩnh tâm thật tốt đẹp và thân tình. Qua buổi tĩnh tâm đó các thành viên trong nhóm càng thêm hiểu nhau và giúp đỡ nhau hơn trong công việc của nhóm và giúp đỡ anh chị em.

Chúa ơi, con tạ ơn Ngài đã quy tụ chúng con lại trong tình thương của Ngài. Xin Ngài thương ban muôn hồng ân xuống trên Cha linh hướng Gioan cùng tất cả mọi người chúng con. Amen!
 
Lễ thánh Giuse tại giáo phận Phú Cường
Tôma Đỗ Lộc Sơn
20:37 19/03/2014
Lễ thánh Giuse tại giáo phận Phú Cường

9 giờ 30 sáng ngày 19/3/2014 ngày mừng kính Thánh Giuse. Tại nhà Chung giáo phận Phú Cường, đông đảo giáo dân cùng nhiều tu sĩ nam nữ và khoảng 80 linh mục đã cùng với Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước hiệp dâng Thánh lễ mừng kính thánh Giuse bổn mạng của Đức Cha và bổn mạng của nhiều quý cha trong giáo phận. (60 cha).

Xem Hình

“Đoàn con hôm nay dâng lên muôn kinh hỷ hoan mừng cha nhân ái trên nơi cao sang. Người xưa hy sinh bao nhiêu vinh quang của đời ngày nay Thiên Chúa thưởng công nước trời….” Bài hát mừng thánh bổn mạng được cả cộng đoàn thể hiện trầm ấm, cung kính đã làm cho bầu khí trang nghiêm nơi nhà Chung này càng trở nên trang nghiêm hơn.

Bài giảng của Đức Cha đại ý như sau: Mừng kính thánh Giuse không phải chúng ta xin ngài bầu cử cho chúng ta, mà còn học hỏi nơi ngài nhiều nhân đức nữa. Kể sao cho hết các nhân đức ấy. Với con người tội lỗi của chúng ta, có thể chúng ta còn cho ngài là dại dột. Không. Ngài đã sống một cuộc sống hoàn toàn theo thánh ý Chúa, ngài đã đóng góp vào công trình Cứu Chuộc nhân loại của Thiên Chúa. Vì thế ngài đã xứng hưởng ơn cao quý nhất Thiên Chúa trao ban.

Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa qua lời bầu cử của thánh Giuse, ban cho chúng ta luôn biết sống và làm theo Thánh Ý Chúa là: Sống cho Chúa và yêu thương mọi người chung quanh.

Được biết: Thánh Giuse là bổn mạng của nhà Chung giáo phận. Chính gữa tòa nhà 4 tầng là linh tượng thánh Giuse cao to, ngài đã hiện diện nơi đây gần 50 năm, mặc cho sóng to gió lớn. Hàng ngày các chủng sinh kính viếng và dâng lên những bó hoa tươi. Hầu hết các linh mục trong giáo phận đã tưởng thành từ nơi đây. Đó là những ơn lành đã được thánh nhân nguyện giúp.

Tôma Đỗ Lộc Sơn
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Giải đáp phụng vụ: Ai tham dự lễ chủ nhật ở nhà thờ Chính thống giáo, có chu toàn luật buộc dự lễ không?
Nguyễn Trọng Đa
09:01 19/03/2014
Giải đáp phụng vụ: Ai tham dự lễ Chúa Nhật ở nhà thờ Chính thống giáo, có chu toàn luật buộc dự lễ không?

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.

Hỏi: Điều 1248 của Bộ Giáo luật Công Giáo nói rằng ai tham dự Thánh Lễ, cử hành theo lễ nghi Công Giáo, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ. Trên cơ sở đó, thưa cha, liệu việc tham dự một cử hành phụng vụ Thánh của Chính thống giáo có chu toàn luật dự lễ Chúa Nhật không? Kim chỉ nam về Đại kết năm 1970-1971 của Tòa Thánh cho phép việc này một cách đặc biệt, nhưng không có lời nhắc thể này hay thể khác về việc ấy trong Kim chỉ nam hiện tại (năm 1993). - C. Y., Butler, Pennsylvania, Mỹ.


Đáp: Sau đây là toàn văn của điều 1248:

" Ðiều 1248: § 1. Ai tham dự Thánh Lễ, cử hành theo lễ nghi Công Giáo bất cứ ở đâu, hoặc vào chính ngày lễ hay vào chiều ngày trước lễ, thì người ấy đã chu toàn việc buộc dự lễ.

§ 2. Nếu không có tác viên thánh hay vì lý do quan trọng khác khiến cho việc tham dự Thánh Lễ không thể thực hiện được, thì phải hết sức khuyên nhủ giáo dân tham dự phụng vụ Lời Chúa, nếu được cử hành trong nhà thờ xứ hay tại một nơi thánh khác theo như chỉ thị của Giám Mục giáo phận; hoặc dành một thời giờ phải chăng để cầu nguyện, cách riêng tư hay với gia đình, hoặc nếu thuận tiện, với cả liên gia” (Bản dịch Việt ngữ của các Linh Mục Nguyễn Văn Phương, Phan Tấn Thành, Vũ Văn Thiện, Mai Ðức Vinh).

Bởi vì điều 1248 của Bộ Giáo luật hiện nay nói rõ ràng rằng luật dự lễ phải được chu toàn theo lễ nghi Công Giáo, và không nêu ra ngoại lệ nào, một số chuyên viên giáo luật khẳng định rằng điều luật này thực sự xóa bỏ đặc quyền được cấp trong Kim chỉ nam về Đại kết năm 1970, vốn cho phép sự ngoại trừ như trên đây.

Do đó, việc không nhắc đến đặc quyền này, trong "Kim chỉ nam của sự áp dụng các nguyên tắc và qui định về Đại kết” (năm 1993), có thể được giải thích hoặc như là một bãi bỏ dứt khoát đặc quyền, hoặc chỉ đơn giản như là sự công nhận tình trạng vụ việc sau khi Bộ Giáo luật được ban hành.

Bộ Giáo luật của các Giáo Hội Đông Phương có một trình bày tương tự, mặc dù được tổ chức theo một cách khác, để thích ứng với tình hình cụ thể của các Giáo Hội Đông Phương. Do đó, Điều 881.1 viết:

"Các tín hữu Kitô giáo bị ràng buộc bởi nghĩa vụ tham dự các lễ Chúa Nhật và lễ trọng trong Phụng vụ Thánh, hoặc theo các qui định của Giáo Hội 'sui iuris' (tự trị) của họ, trong việc cử hành ngợi ca Thiên Chúa".

Cần lưu ý rằng ở đây không đề cập đến việc tham dự "theo lễ nghi Công Giáo bất cứ ở đâu”. Lý do ở đây có lẽ là các Giáo Hội này bị ràng buộc rất chặt chẽ vào sự tham gia trong truyền thống phụng vụ riêng của họ.

Tuy nhiên, Điều 883.1 không xem xét khả năng của những người đang ở xa nhà họ. Xin mời đọc:

"Về các lễ trọng và ngày sám hối, các tín hữu Kitô giáo đang ở bên ngoài biên giới lãnh thổ của Giáo Hội 'sui iuris' (tự trị) riêng của họ, có thể tuân theo các đầy đủ các qui định hiện hành của nơi mà họ đang cư trú”.

Trong thực tế, điều này có nghĩa như sau:

Một người Công Giáo nghi lễ Latinh có thể chu toàn luật buộc dự lễ, bằng cách tham dự bất kỳ Thánh Lễ Công Giáo nào từ chiều tối thứ Bảy đến trọn ngày Chúa Nhật.

Nhiều chuyên viên giáo luật, chứ không tất cả chuyên viên giáo luật, nói rằng chiều tối thứ Bảy có nghĩa là sau 16 giờ chiều thứ Bảy; một số chuyên viên giáo luật lại nói là sau 12 giờ trưa thứ Bảy. Trong một số giáo phận, Đức Giám Mục đã xác định giờ này bắng sắc lệnh, và đây là một sự thực thi hợp pháp quyền bính của ngài trong một khu vực, vốn chưa được xác định bởi Tòa Thánh.

Người Công Giáo Latinh chu toàn luật buộc dự lễ Chúa Nhật, ngay cả khi phụng vụ được cử hành không phải là của Chúa Nhật tương ứng, thí dụ, nếu người ấy tham dự một lễ cưới, thánh lễ an táng, hoặc thậm chí một Thánh Lễ tối thứ Bảy trong một cộng đoàn tu sĩ, mà theo thói quen là Thánh Lễ ngày thường vào buổi tối.

Người đó cũng có thể tham dự bất kỳ cử hành Phụng vụ Thánh nào của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương, với nỗ lực tôn trọng các truyền thống của mỗi gia đình phụng vụ, liên quan đến các điều như tư thế đứng ngồi, ăn chay và rước lễ.

Người Công Giáo Đông phương, trên lãnh thổ của Giáo Hội mình, nên luôn tham dự nghi lễ riêng của mình là tốt nhất. Bên ngoài lãnh thổ này, người ấy phải cố gắng hết sức để có thể tham dự nghi lễ riêng của Giáo Hội mình. Nếu không, người ấy có thể tham dự bất cứ thánh lễ Công Giáo nào khác.

Ở các nơi mà nhiều quyền tài phán Công Giáo chồng chéo lên nhau, chẳng hạn tại một số khu vực của Ấn Độ và Trung Đông, người Công Giáo thỉnh thoảng tham dự thánh lễ của các nghi lễ khác nhau, như một dấu hiệu của sự hòa hợp và chung đức tin.

Có một hoặc hai gia đình phụng vụ, cổ xưa nhưng nhỏ bé, mà ở đó có một nhánh Công Giáo và một nhánh Chính thống giáo. Ở các nơi bên ngoài quê hương truyền thống, nhưng ở đó có một số lượng đủ các tín hữu, và thiếu hụt trầm trọng các linh mục, Giáo Hội Công Giáo đã đồng ý chia sẻ các linh mục với Chính thống giáo, để đảm bảo việc cử hành liên tục của truyền thống phụng vụ này. Trong trường hợp như thế, cả người Công Giáo và tín hữu Chính thống làm việc thờ phượng chung với nhau.

Nếu không, một người Công Giáo không chu toàn luật buộc dự lễ Chúa Nhật khi tham dự một thánh lễ Chính thống.

Khi một người Công Giáo ở trong một tình huống mà không có Thánh Lễ Công Giáo, luật buộc dự lễ bị ngưng lại, bởi vì không ai bị buộc thực hiện điều bất khả thi. Như chúng ta đã thấy trong Điều 1248.2, Giáo Hội hết sức khuyên nhủ tín hữu thực hiện một số hình thức chọn lựa khác của việc thánh hóa ngày lễ, chẳng hạn, tham dự phụng vụ Lời Chúa. Tuy nhiên, đây là một đề nghị, chứ không phải là một việc buộc.

Khi một người Công Giáo thấy mình ở trong một tình huống mà không có Thánh Lễ Công Giáo, nhưng có một cử hành phụng vụ Chính thống, thì người ấy có thể tham dự việc cử hành này, như là một phương cách chọn lựa để thánh hóa ngày lễ, mặc dù không chu toàn luật buộc dự lễ Chúa Nhật.

Nếu giáo luật của Giáo Hội Chính Thống cho phép, người Công Giáo cũng có thể rước lễ nữa (Điều 844.2 Bộ Giáo luật Latinh; Bộ Giáo luật Đông phương, điều 671.2) .

Khi ấy, một người Công Giáo nên luôn luôn hỏi trước là liệu việc rước lễ là được chăng. Nếu không thể hỏi, do rào cản ngôn ngữ, thì tốt hơn là nên tránh rước lễ, thay vì có nguy cơ làm trái với truyền thống thiêng liêng của các Kitô hữu anh em. (Zenit.org 18-3-2014)

Nguyễn Trọng Đa
 
Sự đáng sợ của nước Mỹ
Đại tướng Lưu Á Châu
10:01 19/03/2014
Sự đáng sợ của nước Mỹ

(Đây là phần lược dịch bài diễn văn của Đại tướng Lưu Á Châu, hiện đang là Chủ nhiệm chính trị lực lượng Không quân của Quân khu Bắc Kinh.)

Trong quá khứ, vì để giúp Trung Hoa thoát khỏi ách thống trị thực dân mà Mỹ đánh bại Nhật, họ có cống hiến lớn đối với tiến bộ văn minh của xã hội Trung Hoa.

Hai nước Trung Hoa - Mỹ không có xung đột vì lợi ích căn bản. Ngày nay, do lợi ích của Mỹ rải khắp toàn cầu nên 2 nước có xung đột. Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tấm lòng đạo đức để bình xét sự vật chứ không thể kích động.

Tôi từng nói rằng đối với Nhật, một nước từng tàn sát mấy chục triệu đồng bào ta, mà chúng ta thường xuyên nói 2 nước "phải đời đời kiếp kiếp hữu hảo với nhau". Thế thì chúng ta có lý do nào để căm ghét nhân dân Mỹ từng giúp ta đánh bại Nhật?

Đâu là chỗ thực sự đáng sợ của nước Mỹ?

Tuy rằng Mỹ có quân đội mạnh nhất thế giới, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới, nhưng tôi cho rằng những cái đó không đáng sợ.

Nghe nói máy bay tàng hình của Mỹ thường xuyên ra vào bầu trời Trung Quốc rất thoải mái, nhưng điều ấy chẳng có gì đáng sợ cả. Cái đáng sợ của họ không phải là những thứ ấy.

Năm 1972, tôi học ở Đại học Vũ Hán, lên lớp giờ chính trị. Một thầy giáo khoa chính trị nói: "Nước Mỹ là đại diện của các nước tư bản mục nát, suy tàn, đã sắp xuống mồ, hết hơi rồi."

Tôi, một sinh viên công nông binh mặc bộ quân phục, đứng ngay lên phản bác:

- "Thưa thầy, em cảm thấy thầy nói không đúng ạ. Tuy rằng nước Mỹ không giống Trung Quốc là mặt trời nhô lên lúc 8- 9 giờ sáng, nhưng Mỹ cũng chẳng phải là mặt trời đang lặn gì gì đó, mà là mặt trời lúc giữa trưa ạ."

Thầy giáo bực mình, tái mét mặt ấp úng nói: "Cái cậu học sinh này, sao dám nói thế hả!" Ông ấy không hỏi tôi tại sao lại nói thế, mà dùng một chữ "dám". Lúc đó tôi thấy hết tâm trạng của ông.

Chính là cái nước tư bản mục ruỗng suy tàn ấy vào thập niên 90 thế kỷ trước đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới nhất trên thế giới. Tôi tốt nghiệp đại học đúng vào lúc bắt đầu cải cách mở cửa.

Tôi lại có một quan điểm: Nước Mỹ là quốc gia do hàng chục triệu con người đều rất yêu nước Mỹ. Hồi ấy rất nhiều người lãnh đạo TC vừa chửi Mỹ vừa gửi con cái mình sang Mỹ. Một sự tương phản lớn!

Vậy thì cái đáng sợ của Mỹ là ở đâu? Tôi cảm thấy có ba điểm.

- Điểm thứ nhất, không thể coi thường cơ chế tinh anh của Mỹ. Chế độ cán bộ, chế độ tranh cử của Mỹ.

Bi kịch của Trung Quốc chúng ta: phần lớn tình hình là người có tư tưởng thì không quyết sách, người quyết sách thì không có tư tưởng. Có đầu óc thì không có chức vụ, có chức vụ thì không có đầu óc.

Nước Mỹ ngược hẳn lại, cơ chế hình tháp của họ đưa được những người tinh anh lên. Nhờ thế,

1 -là họ không mắc sai lầm;
2 -là họ ít mắc sai lầm;
3 -là mắc sai lầm thì có thể nhanh chóng sửa sai. Chúng ta thì mắc sai lầm, thường xuyên mắc sai lầm, mắc sai lầm rồi thì rất khó sửa sai.

Mỹ dùng một hòn đảo Đài Loan nhỏ xíu để kiềm chế Trung Quốc chẵn nửa thế kỷ.

Nước cờ này họ đi thật linh hoạt, thật thần kỳ. Một Đài Loan làm thay đổi hẳn sinh thái chính trị quốc tế.

Điều tôi lo ngại nhất là bộ khung chiến lược phát triển Trung Quốc trong thế kỷ mới sẽ vì vấn đề Đài Loan mà biến dạng. Ngày nay, đối với các dân tộc có thế mạnh thì tính quan trọng của lãnh thổ đã giảm nhiều, đã chuyển từ tìm kiếm lãnh thổ sang tìm kiếm thế mạnh của quốc gia.

Người Mỹ không có yêu cầu lãnh thổ đối với bất cứ quốc gia nào. Nước Mỹ không quan tâm lãnh thổ, toàn bộ những gì họ làm trong thế kỷ XX đều là để tạo thế. Tạo thế là gì? Ngoài sự lớn mạnh về kinh tế thì là lòng dân chứ còn gì nữa! Có lòng dân thì quốc gia có lực ngưng tụ, lãnh thổ mất rồi sẽ có thể lấy lại. Không có lòng dân thì khẳng định đất đai sở hữu sẽ bị mất.

Có nhà lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn một bước. Nước Mỹ hành sự thường nhìn 10 bước. Vì thế cho nên mỗi sự kiện lớn toàn cầu xảy ra sau ngày Thế chiến II chấm dứt đều góp phần làm tăng cường địa vị nước Mỹ. Nếu chúng ta bị họ dắt mũi thì có thể sẽ mất hết mọi con bài chiến lược.

Tôi nhiều lần nói là trung tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển sang châu Á đâu, song điều đó không có nghĩa là Mỹ không bao vây Trung Quốc.

Rất nhiều bạn chỉ thấy Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như rất nhiều người chỉ thấy khoảng cách chênh lệch về KHKT và trang bị vũ khí giữa 2 nước mà chưa nhìn thấy sự mất cân đối nghiêm trọng hơn sự lạc hậu về trang bị trên mặt chiến lược lớn, nhất là trên tầng nấc ngoại giao.

Sau vụ 11/9, Mỹ nhanh chóng chiếm Afghanistan trong vòng 2 tháng, từ phía Tây bao vây Trung Quốc.

Sức ép quân sự của Nhật, Đài Loan, Ấn Độ cũng chẳng bớt đi. Xem ra chúng ta giành được từ vụ 11/9 một số lợi ích trước mắt, song các lợi ích đó không quá 1- 2 năm có thể biến mất. Tôi cho rằng bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một kiểu khác,không phải là quân sự mà là siêu việt quân sự.

Bạn xem đấy, mấy năm gần đây các nước xung quanh Trung Quốc tới tấp thay đổi chế độ xã hội, biến thành cái gọi là quốc gia "dân chủ". Nga, Mông Cổ thay đổi rồi, Kazakhstan thay đổi rồi.

Cộng thêm các nước trước đây như Hàn Quốc, Phillippines, Indonesia, lại cộng thêm vùng Đài Loan.

Đối với Trung Quốc, sự đe doạ này còn ghê gớm hơn đe doạ quân sự. Đe doạ quân sự có thể là hiệu ứng ngắn hạn, còn việc bị cái gọi là các quốc gia “dân chủ” bao vây là hiệu ứng dài hạn.

Điểm thứ hai, sự độ lượng và khoan dung của nước Mỹ. Bạn nên sang châu Âu, sau đó sang Mỹ, bạn sẽ thấy một sự khác biệt lớn: Sáng sớm, các đường phố lớn ở châu Âu chẳng có người nào cả, còn tại Mỹ sáng sớm các phố lớn ngõ nhỏ đều có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày như thế. Tôi có một câu nói: Tập thể dục là một phẩm chất, tập thể dục đại diện cho một kiểu văn hoá khí thế hừng hực đi lên.

Một quốc gia có sức sống hay không, chỉ cần xem có bao nhiêu người tập thể dục là biết.

Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần lót để mặc. Hồi ở Mỹ tôi có mua một chiếc quần cộc cờ sao vạch. Tôi thường xuyên mặc chiếc quần ấy. Tôi mặc nó là để khinh miệt nó, là để trút giận, là một dạng trút sự bực bội và thoả mãn về tâm lý.

Người Mỹ mặc nó là sự trêu chọc bỡn cợt, bản chất khác. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ nước mình ngoài phố.

Đới Húc nói: Nếu một quốc gia có thể đốt cả quốc kỳ của mình thì anh còn có lý do nào đi đốt quốc gia ấy nữa?

Điểm thứ ba, sức mạnh vĩ đại về tinh thần và đạo đức. Đây là điều đáng sợ nhất. Vụ 11/9 là một tai nạn. Khi tai hoạ ập đến, thể xác ngã xuống trước tiên, nhưng linh hồn vẫn đứng. Có dân tộc khi gặp tai nạn thể xác chưa ngã mà linh hồn đã đầu hàng.

Trong vụ 11/9 có xảy ra 3 sự việc đều có thể để chúng ta qua đó nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. Việc thứ nhất, sau khi phần trên toà nhà Thương mại thế giới bị máy bay đâm vào, lửa cháy đùng đùng, tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Khi mọi người ở tầng trên qua cửa thoát hiểm chạy xuống phía dưới, tình hình không rối loạn lắm.

Người ta đi xuống, lính cứu hoả xông lên trên. Họ nhường lối đi cho nhau mà không đâm vào nhau. Khi thấy có đàn bà, trẻ con hoặc người mù tới, mọi người tự động nhường lối đi để họ đi trước. Thậm chí còn nhường đường cho cả một chú chó cảnh. Một dân tộc tinh thần không cứng cáp tới mức nhất định thì dứt khoát không thể có hành vi như vậy. Đứng trước cái chết vẫn bình tĩnh như không, e rằng không phải là thánh nhân thì cũng gần với thánh nhân.

Việc thứ hai, hôm sau ngày 11/9, cả thế giới biết vụ này do bọn khủng bố người A Rập gây ra. Rất nhiều cửa hàng, tiệm ăn của người A Rập bị những người Mỹ tức giận đập phá. Một số thương nhân người A Rập cũng bị tấn công. Vào lúc đó có khá nhiều người Mỹ tự phát tổ chức đến đứng gác trước các cửa hiệu, tiệm ăn của người A Rập hoặc đến các khu người A Rập ở để tuần tra nhằm ngăn chặn xảy ra bi kịch tiếp theo.

Đó là một tinh thần thế nào nhỉ. Chúng ta thì từ xưa đã có truyền thống trả thù. Thành Đô nơi tôi ở, ngày xưa Đặng Ngải [8] sau khi chiếm được Thành Đô, con trai của Bàng Đức [9] giết sạch giá trẻ gái trai gia đình Quan Vũ. Trả thù đẫm máu, lịch sử loang lổ vết máu không bao giờ hết.

Việc thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 bị rơi ở Pennsylvania vốn dĩ bị không tặc dùng để đâm vào Nhà Trắng. Sau đấy hành khách trên máy bay vật lộn với bọn khủng bố nên mới làm máy bay rơi.

Vì lúc ấy họ đã biết tin toà nhà Thương mại thế giới và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào nên họ quyết định không thể không hành động, phải đấu tranh sống chết với bọn khủng bố. Cho dù trong tình hình ấy họ còn làm một chuyện thế này:

Quyết định biểu quyết thông qua có nên chiến đấu với bọn khủng bố hay không?. Trong giờ phút quan hệ tới sự sống chết ấy, họ cũng không cưỡng chế ý chí của mình lên người khác.

Sau khi toàn thể mọi người đồng ý, họ mới đánh bọn không tặc.

Dân chủ là gì; đây tức là dân chủ. Ý tưởng dân chủ đã thấm vào sinh mạng của họ, vào trong máu, trong xương cốt. Một dân tộc như thế mà không hưng thịnh thì ai hưng thịnh. Một dân tộc như thế không thống trị thế giới thì ai có thể thống trị thế giới.
 
Người Phụ Nữ Samaria : Nghĩa Đen? Nghĩa Bóng?
Nguyễn Trung Tây, SVD
20:53 19/03/2014
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
Người Phụ Nữ Samaria (John 4:1-42): Nghĩa Đen? Nghĩa Bóng?


Thật sự ra câu chuyện
về người phụ nữ bên bờ giếng
không đơn giản
như chúng ta có thể đã từng nghĩ...


Câu chuyện bắt đầu xẩy ra vào một buổi trưa khi người phụ nữ xứ Samaria một mình đi tới giếng nước đầu làng. Thật bất ngờ, người phụ nữ nhận ra một người đàn ông Do Thái lạ mặt, dáng vẻ mệt nhọc, đang ngồi nghỉ mệt tại bờ giếng. Bất ngờ này nối tiếp kinh ngạc kia, bởi người đàn ông cất giọng gợi chuyện với người phụ nữ, một điều hiếm khi xảy ra giữa hai giới tính và hai sắc dân của hai nền văn hóa thù nghịch chống đối. Câu chuyện bên bờ giếng bàn về thần học nước hằng sống tiếp nối cho tới khi người đàn ông Do Thái bất chợt đổi hướng câu chuyện. Ông nói với người phu nữ Samaria, “Cô hãy về nhà và gọi chồng cô ra đây”. Người phụ nữ trả lời, “Tôi không có chồng”. Người đàn ông xác nhận, “Đúng, cô nói ‘Tôi không có chồng’ là rất đúng, bởi vì cô đã có năm đời chồng, và người đàn ông cô đang chung sống không phải là chồng cô. Cô nói rất đúng” (John 4:16-17).
Dựa vào hiểu biết căn bản của những lớp Giáo Lý, người Kitô hữu nói chung, và người Kitô hữu Việt Nam nói riêng có những ấn tượng tiêu cực về quá khứ của người phụ nữ xứ Samaria. Họ nghĩ người phụ nữ trong bài Tin Mừng đã hơn một lần thất bại với đời sống hôn nhân; và đặc biệt, vào giây phút gặp gỡ Đức Jesus bên giếng nước, cô ta đang chung sống với một người đàn ông ngoài vòng lễ giáo.
Thật sự ra câu chuyện về người phụ nữ bên bờ giếng không đơn giản như chúng ta có thể đã từng nghĩ. Câu trả lời, “Tôi không có chồng” của người phụ nữ cũng như câu nói, “Đúng, cô nói, ‘Tôi không có chồng’ là rất đúng…” của Đức Jesus đã gây ra những tranh luận giữa các thần học gia. Trường phái Nghĩa Đen tin rằng câu trả lời “Tôi không có chồng” và lời xác nhận của Đức Jesus về tình trạng hôn nhân của người phụ nữ nên được hiểu trong nghĩa đen. Trường phái Nghĩa Bóng thì ngược lại. Họ tin rằng cả hai câu nói này đều phải phân tích và hiểu trong nghĩa bóng.
Nhằm trình bày tới độc giả Kinh Thánh những tranh luận giữa hai Trường phái Nghĩa Đen và Nghĩa Bóng về bài Tin Mừng John, bàn về cuộc hội ngộ của Đức Jesus và người phụ nữ Samaria, trong bài tham khảo này, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích:
(1). Những dữ kiện và những lập luận đã khiến Trường phái Nghĩa Đen tin rằng người phụ nữ Samaria là một người sống ngoài vòng lễ giáo. Và ngược lại, dựa vào những bằng chứng nào, Trường phái Nghĩa Bóng lại tin rằng câu chuyện về người phụ nữ Samaria bên bờ giếng phải được phân tích theo nghĩa bóng?
(2). Bài tiểu luận cũng sẽ phân tích Tin Mừng John 4:1-42 dưới lăng kiếng hòa giải và tâm lý xã hội, qua đó độc giả sẽ nhận ra người phụ nữ bên bờ giếng chính là mẫu gương, một người biết chấp nhận những nghịch cảnh và bất hạnh đã xảy đến trong cuộc đời.

I. Xứ Samaria
Bản Tin Mừng về cuộc hội ngộ bên bờ giếng Jacob nằm trong chương 4 của Tin Mừng John. Chương 1 căn bản bàn về căn tính Ngôi Lời và cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và chứng nhân John Tiền Hô. Chương 2 nối tiếp với Tiệc Cưới Cana. Chương 3 theo sau với cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và Nicodemus vào ban đêm, và căn tính Chú Rể của Đức Jesus (3:29). Tác giả thánh sử bắt đầu chương 4 với bối cảnh chính trị pha lẫn tôn giáo (John 4:1-3). Theo như John, sau khi biết rằng những người Biệt Phái hiểu lầm là Ngài rửa tội cho nhiều người, nhiều hơn cả John Tẩy Giả, Đức Jesus quyết định lên đường, rời bỏ Xứ Judea (Nam Do Thái) quay về lại Xứ Galilee (Bắc Do Thái).
Trên con đường thiên lý, Đức Jesus và các môn đệ đi tới thành phố Saikar. Lúc đó buổi trưa, trời nắng gắt. Mệt mỏi vì con đường thiên lý, Đức Jesus dừng chân tại giếng nước Jacob; trong khi đó, các môn đệ đi vô thành phố mua lương thực. Trong khi đang ngồi nghỉ tại giếng nước, Ngài nhìn thấy một người phụ nữ xứ Samaria đang đi tới bờ giếng nước một mình vào lúc mười hai giờ trưa.
Tương tự như Việt Nam, Do Thái kéo dài từ Bắc xuống Nam, và cũng phân chia ra làm ba miền: Bắc, Trung, và Nam. Xứ Galilee thuộc miền Bắc, Xứ Samaria thuộc miền Trung, Xứ Judea thuộc miền Nam. Người Do Thái vào thời Đức Jesus định cư trên cả hai vùng, Bắc Galilee và Nam Judea. Riêng miền Trung thuộc về người Samaria.

A. Lịch Sử Nước Samaria
Người Samaria nguyên thủy là người Do Thái trộn lẫn với năm sắc dân lân bang: Babylon, Cuthah, Avva, Havath, Sepharvaim (2Các Vua 17:24).
Để hiểu về hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của người Samaria, độc giả Kinh Thánh cũng cần phải hiểu về bối cảnh lịch sử của người Do Thái. Sau khi vua Salômon băng hà năm 930 B.C., đế quốc Do Thái tách ra làm hai vương quốc, Bắc Quốc Israel và Nam Quốc Judea. Vào năm 721 B.C. Bắc Quốc Israel bị đế quốc Assyria tấn công, sau cùng tiêu diệt. Vua Sargon II khi đó lưu đầy phần lớn người Israel sang những thành phố lớn của đế quốc Assyria (2Các Vua 17:6). Ông cũng mang những người dân của năm thành phố lớn trong đế quốc Assyria tới tái định cư tại Bắc Quốc Israel. Bởi thế người Samaria chính là con cháu của một số người Do Thái thuộc Bắc Quốc Israel còn lưu lại trên mảnh đất cũ pha trộn với người của năm sắc dân mới.
Năm 586 B.C., Nam Quốc Judea bị đế quốc Babylon tấn công và tiêu diệt. Tương tự như người Assyria, nhổ cỏ là nhổ tận gốc, vua Babylon cũng lưu đày phần lớn cư dân của Nam Quốc Judea sang Babylon. Thời gian trôi qua, tới phiên đế quốc Babylon sụp đổ dưới vó ngựa Ba Tư. Năm 539 B.C., Hoàng đế Cyrus của đế quốc Ba Tư ký sắc luật cho phép tất cả dân chúng sống trong đế quốc được phép quay trở về lại nguyên quán của mình. Người Do Thái của Nam Quốc Judea quyết định quay về quê hương, tái thiết quốc gia, xây dựng Đền Thờ Jesusralem đã từng bị tiêu diệt vào năm 587 B.C. Người Samaria lúc đó cũng muốn đóng góp vào công cuộc tái xây dựng Đền Thờ, bởi họ nghĩ mình cũng là con cháu của tổ phụ Abraham. Nhưng người Do Thái từ chối lời đề nghị của người Samaria, bởi dân hồi hương Do Thái coi người Samaria là dân tạp chủng, không phải chính gốc Do Thái. Từ đó mầm mống hận thù giữa hai dân tộc bắt đầu nhen nhúm, âm ỉ, cuối cùng bùng cháy vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên, khi người Samaria liên kết với người Syria tấn công người Do Thái. Cuối cùng người Samaria quyết định xây dựng riêng cho mình ngôi đền thờ trên núi Gerizim (Đức Jesus trong bản Tin Mừng, v.21, có nhắc đến ngọn núi Gerizim dù không nhắc đến tên). Căng thẳng giữa hai sắc dân dẫn đến đỉnh điểm vào năm 128 B.C., khi đó thầy Tư Tế John Hyrcanus tấn công và tiêu hủy đền thờ của người Samaria. Sau biến cố đó, người Samaria và người Do Thái tuyệt giao.
Vào thời Đức Jesus, có hai mạch lộ chính nối liền Bắc Galilee và Nam Judea. Con đường ngắn băng ngang qua xứ Samaria. Con đường dài chạy ngang qua xứ Decapolis (Thập Phố), phía đông Do Thái. Vào thế kỷ thứ nhất Công Nguyên, người Do Thái từ Bắc Galilee muốn đi xuống Nam Judea, hoặc ngược lại, thường tránh né không muốn sử dụng con đường ngắn, bởi con đường này dẫn ngang qua xứ Samaria.
Tình trạng căng thẳng giữa người Do Thái và người Samaria cũng được ghi lại trong Luca 9:51-56. Theo như thánh sử Luca, một ngày kia, từ Bắc Galilee, trong khi Đức Jesus đang trên con đường ngắn dẫn về Jerusalem, Ngài và những người môn đệ đặt chân tới một ngôi làng của người Samaria. Nhận ra gốc gác Do Thái của Đức Jesus và các môn đệ, người Samaria từ chối, không tiếp đón Đức Jesus và các môn đệ. Trước thái độ bất thân thiện của người dân Samaria, John và James nổi giận. Hai anh em con ông Zebedee muốn gọi lửa từ trời xuống thiêu đốt cả thôn. Nhưng Đức Jesus trách mắng hai ông, rồi Ngài chọn con đường dài hơn dẫn về phố Jerusalem.
Bởi mối liên hệ thù địch giữa hai sắc dân, người phụ nữ Samaria rất ngạc nhiên bởi người đàn ông ngồi bên bờ giếng mở miệng xin nước uống lại là người Do Thái. Bởi thế, bà ta hỏi ngược lại Đức Jesus,
— Tại sao ông, một người Do Thái, lại hỏi tôi, một người phụ nữ Samaria “Cho tôi xin miếng nước”?

B. Tôn Giáo của Người Samaria
Khi cư dân của năm sắc dân tái định cư trên vùng đất mới, họ mang theo những vị thần của riêng họ tới lãnh thổ Israel. Người Babylon có thần Succoth-Benoth. Người Cuthah có thần Nergal. Người Avva có hai thần, thần Nibhaz và thần Tartak. Người Havath có thần Ashima. Và người Sepharvaim có thần Adrammelech và Anamelech (2Các Vua 17:30). Tổng cộng tất cả là bẩy vị thần. Cho nên ngoài Yahweh Thiên Chúa, người Samaria cũng thờ phượng bẩy vị thần ngoại bang do cha ông của họ đã từng mang tới vùng đất mới (2Các Vua 17:29-33).
Bởi hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt, tôn giáo của người Samaria có những nét tương đồng và dị biệt so với Do Thái giáo, trong khi người Do Thái công nhận 39 cuốn sách Cựu Ước, người Samaria chỉ công nhận Ngũ Thư, 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước, tương truyền do chính tay đại ngôn sứ Moses sáng tác. Trong khi người Do Thái mong chờ Đấng Xức Dầu (Anointed One), hay Messiah, người Samaria mong chờ Ta’heb, Đấng Quay Lại (Returned One). Trong con mắt của người Samaria Đấng Ta’heb là Ngôn sứ có những vai trò tương tự như đại Ngôn sứ Moses; bởi Ngài sẽ giải quyết những dị biệt, bất đồng, và tranh chấp về tôn giáo giữa người Samaria và người Do Thái. Trong khi người Do Thái tin vào Mười Điều Răn, người Samaria tin rằng Yahweh Thiên Chúa đã trao cho ngôn sứ Moses Mười Một Điều Răn. Điều Răn bị người Do Thái “cố tình bỏ quên” là “Ngươi sẽ xây dựng Đền Thờ trên núi Gerizim”. Bởi thế, trong khi người Do Thái tin rằng đền thờ Jerusalem là nơi duy nhất xứng đáng để thờ phượng Yahweh Thiên Chúa, người Samaria tin rằng đền thờ trên núi Gerizim là nơi xứng đáng nhất để thờ phượng Yahweh (1).

II. Giếng Nước Trung Đông
A. Vị Thế của Giếng Nước Trung Đông
Giếng nước trong văn hóa Do Thái có vị thế tương tự như quán nước đầu làng của người Việt Nam. Bên Việt Nam, nhất là những thôn làng ngoài Bắc, nếu muốn tìm kiếm hỏi thăm những người cư ngụ trong làng, người ta ghé vào quán nước đầu làng. Một cách tương tự, khách lữ hành người Do Thái, nếu muốn hỏi thăm tin tức về người thân sinh sống trong làng, người ta dừng bước tại giếng nước. Họ ngồi đợi chờ dân chúng trong thôn xóm ra giếng lấy nước về nhà. Minh họa về điều này, chúng ta có câu truyện trong Sáng Thế Ký về ông quản gia của tổ phụ Abraham đã gặp cô Rebecca vợ tương lai của Isaaic tại giếng nước trong vùng Aram Naharagim (Sáng Thế Ký 24:10-27). Một cách tương tự, tổ phụ Jacob cũng đã từng gặp cô Rachel và đại ngôn sứ Moses cũng đã từng gặp cô Zipporah, vợ tương lai tại giếng nước vùng Haran (Sáng Thế Ký 29:1-14), và Midian (Xuất Hành 2:15-22).
Nhưng thông thường, trừ trường hợp bất ngờ, không bao giờ người trong thôn làng đi ra giếng lấy nước vào buổi trưa và đi một mình. Nước giếng buổi trưa, đặc biệt trong vùng sa mạc, không mát và ngọt như nước giếng vào buổi chiều. Bởi thế, thông thường khi mặt trời dần dần khuất bóng, người ta mới đi ra giếng để lấy nước. Và bao giờ cũng vậy, những người phụ nữ trong thôn thường dẫn nhau đi thành từng đoàn để đề phòng những bất trắc nguy hiểm có thể xảy ra bên bờ giếng. Minh họa về điều này có câu truyện về Moses, sau khi trốn khỏi Ai Cập, ông dừng chân tại một giếng nước đầu làng vùng Midian, Trung Đông. Tại bờ giếng Midian, Moses đã đánh đuổi những người chăn chiên giải cứu bẩy chị em của cô Zippora, vợ tương lai của ông sau này.
Một cách tương tự, giếng nước Trung Đông cũng chính là những trạm dừng chân của khách bộ hành. Khách lữ hành mệt mỏi với con đường thiên lý, có thể ghé vào giếng nước đầu làng nghỉ ngơi. Chi tiết này cũng được tác giả John nhắc đến trong câu chuyện về người phụ nữ Samaria bên bờ giếng. Theo như John, bởi đường xa, Đức Jesus mệt mỏi. Ngài quyết định dừng chân nghỉ ngơi tại giếng nước (4:6).

B. Đức Jesus và Người Phụ Nữ Bên Giếng
Và bất chợt, theo như John 4:4-42, trong khi đang ngồi nghỉ tại giếng nước của thành phố Saikar, Đức Jesus thấy người phụ nữ xứ Samaria đi ra giếng. Ngài nói,
— Cho tôi xin miếng nước.
Người phụ nữ trả lời,
— Tại sao ông, một người Do Thái, lại hỏi tôi, một người phụ nữ Samaria, “Cho tôi xin miếng nước”?
Câu chuyện giữa hai người tiếp tục cho tới khi Đức Jesus nói,
— Cô hãy về, gọi chồng cô ra đây.
Người phụ nữ trả lời,
— Οὐκ ἔχω ἄνδρα (2), Tôi không có chồng.
Đức Jesus tiếp lời,
— Cô nói “Οὐκ ἔχω ἄνδρα” là rất phải, bởi cô đã có năm đời chồng, và người hiện giờ cô đang chung sống không phải chồng của cô. Cô nói đúng (John 4:17).
Trong toàn bản văn, thánh sử John không giải thích tại sao Đức Giêsu đổi hướng câu chuyện, từ thần học nước hằng sống sang đời sống riêng của người phụ nữ (Cô hãy về, gọi chồng cô ra đây). Thánh sử cũng không giải thích câu trả lời, “Tôi không có chồng”, và đặc biệt câu trả lời của Đức Jesus xác nhận câu trả lời của người phụ nữ.

III. “Tôi Không Có Chồng”
A. Nghĩa Đen
Tuy nhiên dựa vào phong tục địa phương, vị thế của giếng nước trong nền văn hóa Trung Đông, và câu trả lời của Đức Jesus, thần học gia của Trường phái Nghĩa Đen tin rằng một trong những nguyên nhân chính khiến người phụ nữ đi ra giếng nước một mình và đi vào buổi trưa là tại vì cô ta tránh né không muốn tiếp xúc với những người hàng xóm bên bờ giếng. Nói một cách ngắn gọn, người đàn bà Samaria chính là một người tội lỗi.
Theo như Trường phái Nghĩa Đen, người phụ nữ Samaria đã có năm đời chồng, và người cô hiện đang chung sống không phải là chồng của cô. Năm người chồng trước của cô hoặc đã qua đời hoặc đã ly dị. Quan hệ giữa cô và người đàn ông thứ sáu, người mà cô đang chung sống là một quan hệ vượt ra ngoài vòng lễ giáo. Bởi vậy khi bị Đức Jesus chất vấn, người đàn bà đã trả lời, “Οὐκ ἔχω ἄνδρα, Tôi không có chồng”. Đặc biệt dựa vào ý nghĩa của hai danh từ, “ἀνήρ, tình nhân” và “ἄνδρα, phu quân” được sử dụng trong bản văn, Charles Giblins khẳng định người đàn bà Samaria chưa bao giờ lập gia đình. Tất cả những mối liên hệ mà cô đã từng có với tất cả sáu người đàn ông vượt ra ngoài cương thường đạo lý. Nói một cách ngắn gọn, người phụ nữ xứ Samaria là một người đã từng sống ngoài vòng lễ giáo.

B. Nghĩa Bóng
Trường phái thứ hai thì ngược lại, họ tin rằng câu nói, “Οὐκ ἔχω ἄνδρα” và câu trả lời của Đức Jesus phải được phân tích theo nghĩa bóng. Dựa vào chữ phu quân trong tiếng cổ Do Thái là Ba’al, cũng là tên của một vị thần mưa nổi tiếng trong Cựu Ước, và dựa vào hình ảnh Yahweh Thiên Chúa là một người chồng trung tín trong sách Ngôn Sứ Hosea, thần học gia của Trường phái Nghĩa Bóng tin rằng năm người chồng của người phụ nữ tượng trưng cho năm vị thần của năm sắc dân đã được những cư dân của năm thành phố mang vào vùng đất mới; riêng người đàn ông thứ sáu, hiện đang chung sống với người phụ nữ Samarita chính là Yahweh Thiên Chúa. Một số thần học gia của Trường phái Nghĩa Bóng tin rằng năm người chồng của người phụ nữ tượng trưng cho Ngũ Thư, năm cuốn sách Kinh Thánh Cựu Ước duy nhất mà người Samaria tin.
Đặc biệt Sandra Schneiders, ngoài hai dữ kiện vừa được trình bày ở trên, đề nghị rằng câu chuyện về cuộc hội kiến giữa Đức Jesus và người phụ nữ Samaria phải được hiểu theo nghĩa bóng liên quan tới hai yếu tố:
(1). Tính lịch sử của Tin Mừng John 4:1-42,
(2). Thần học Giếng Nước trong dòng lịch sử ơn cứu độ.

1. Tính Chất Lịch Sử
Schneiders tin rằng câu chuyện bên bờ giếng John 4:1-42 không phải là một câu chuyện có tính lịch sử, bởi vì Đức Jesus chưa bao giờ đi rao giảng Tin Mừng tới dân ngoại. Và chính Ngài cũng đã từng truyền dậy các môn đệ điều này; thí dụ, trong bản Tin Mừng Matthew 10:5, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã căn dặn, “Các con đừng đi tới các dân ngoại, cũng đừng đi vào thành của người Samaria”. Schneiders tin rằng người đầu tiên mang ánh sáng Tin Mừng tới vùng đất Samaria có lẽ không phải ai khác mà là thầy Sáu Philip (Tông Đồ Công Vụ 9). Bởi vậy, cuộc tao ngộ giữa Đức Jesus và người phụ nữ xứ Samaria bên bờ giếng nước, theo như Schneiders, phải được hiểu và phân tích theo nghĩa bóng.
Schneiders tin rằng cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và người phụ nữ Samaria đã xuất hiện bởi hai nguyên nhân chính:
(1). Đây là một trong những cố gắng của Kitô hữu thời tiên khởi để hợp thức hóa công tác truyền giáo tới người xứ Samaria,
(2). Khẳng định vị thế bình đẳng giữa người Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc Samaria trong những cộng đoàn Kitô thời tiên khởi (3).

2. Thần Học Giếng Nước
Cũng theo Schneiders, trong khi đọc câu chuyện của người phụ nữ bên bờ giếng nước trong câu chuyện của John, độc giả không thể nào gạt bỏ qua một bên những câu chuyện có liên quan tới những giếng nước của tổ phụ Isaac, Jacob, và đại ngôn sứ Moses. Những nhân vật tiên phong và lừng danh của dòng lịch sử ơn cứu độ này cũng đã từng xuất hiện bên giếng nước, và cũng chính tại bối cảnh giếng nước họ đã gặp gỡ hiền thê của họ. Giếng nước Saikar Samaria do đó nhắc nhở độc giả Kinh Thánh giếng nước Aram Naharagim, nơi người hầu cận thân tín của tổ phụ Abraham đã gặp gỡ Rebecca, vợ tương lai của tổ phụ Isaac. Tại giếng nước đầu làng Haran, tổ phụ Jacob hội ngộ Rachael, vợ tương lai và mẹ của Joseph và Benjamin. Giếng nước Saikar cũng nhắc nhở độc giả Kinh Thánh về giếng nước Midian, nơi đó Moses đã giải cứu bẩy người con gái của Reuel thoát khỏi bàn tay của những người chăn chiên (Xuất Hành 2:15-22).
Cho nên, theo như Schneiders, cuộc hội ngộ giữa Đức Jesus và người phụ nữ xứ Samaria đã được tác giả John xây dựng lớp lang và chuẩn bị ít ra trong ba chương.
(1). Trong chương 2, qua câu chuyện tiệc cưới Cana (2:1-11), John đã giới thiệu và minh họa Đức Jesus qua hình ảnh Chú Rể, người đã ban phát rượu thượng hảo hạng cho những tân khách tham dự tiệc cưới;
(2). Trong chương 3, ngôn sứ John Tẩy Giả cũng giới thiệu tới các người môn đệ của ông về căn tính Chú Rể trời cao của Đức Jesus (John 3:25-30).
(3). Trong chương 4, qua câu chuyện bên bờ giếng Jacob, tác giả John đã xếp đặt để Đức Jesus gặp gỡ người phụ nữ Samaria bên bờ giếng, qua đó Chú Rể Jesus có cơ hội chào đón “cô dâu” Samaria vào bàn tiệc cưới Nước Trời.

3. Khó Khăn
Tới ngày hôm nay, cuộc tranh luận giữa hai Trường phái Nghĩa Đen và Nghĩa Bóng vẫn chưa ngã ngũ. Tuy nhiên, Trường phái Nghĩa Bóng gặp một cản trở nhỏ trong khi cố gắng thuyết phục độc giả Kinh Thánh. Đúng là người Samaria là do năm sắc dân khác nhau hòa trộn với dân Do Thái của Bắc Quốc Israel. Năm sắc dân, nhưng họ lại thờ phượng bẩy vị thần. Do đó, rất khó để mà nói là năm người chồng của người phụ nữ chính là năm vị thần mà người Samaria thờ phượng.

IV. Thần Học Hòa Giải
Một chi tiết xuất hiện trong John 4:1-42 mà thông thường độc giả ít chú ý tới trong khi lắng nghe lời đối thoại giữa Đức Jesus và người phụ nữ xứ Samaria. Câu nói “Cô hãy về nhà gọi chồng cô ra đây” phân tích dưới lăng kiếng xã hội là một câu nói hơi đường đột (4).
Titanic là một bộ phim nổi tiếng dài ba tiếng lấy biết bao nhiêu giọt nước mắt của khán giả. Sau khi cứu nhân vật nữ Rose thoát khỏi cảnh hiểm nghèo, sáng hôm sau, Jack Dawson và Rose gặp gỡ nhau. Chuyện qua chuyện lại, bất ngờ Jack nhắc đến vị hôn phu của Rose. Anh chàng Jack hỏi người đẹp Rose,
— Cô có yêu vị hôn phu của cô hay không?
Ngỡ ngàng trước câu hỏi quá đường đột thẳng như ruột ngựa, Rose khó chịu, phản ứng ngay,
— Anh là một người bất lịch sự. Tôi không biết anh. Anh không biết tôi… Anh hỏi tôi một câu anh không nên hỏi. Anh đúng là một người bất lịch sự…
Hai người, Jack và Rose, chỉ mới một lần gặp nhau. Dù rằng chàng thanh niên Jack đã có cử chỉ hào hùng cứu lấy mỹ nhân Rose, nhưng thật sự ra, hai người vẫn không chưa trở thành thân cho lắm để tâm sự hoặc chia xẻ riêng tư.
Chuyện vợ chồng trong nền văn hóa nào cũng là một câu chuyện riêng tư mà một người lịch sự không nên mở miệng hỏi, trừ khi người đối diện tự động nhắc đến. Gặp một người phụ nữ sơ giao trong một bữa tiệc, một người con trai lịch sự không bao giờ hỏi, “Cô đã có chồng chưa? Cô được mấy cháu rồi?". Câu này là một câu hỏi thiếu tế nhị, bởi nó có thể bị người đối diện hiểu lầm.
Khi gặp một người đàn ông và một người phụ nữ đang đứng nói chuyện với nhau nơi đồng không mông quạnh, rất khó cho chúng ta không có những tư tưởng xấu về họ. Chắc chắn chúng ta sẽ không nghĩ là hai người này đang tranh luận hoặc bàn thảo về chuyện tôn giáo, chính trị, hay là họ đang lần hạt Mân Côi chung với nhau.
Thế mà giữa đồng không mông quạnh gần thành phố Saikar, Đức Jesus gợi chuyện với người phụ nữ Samaria. Sau cùng Ngài hỏi người đàn bà sơ giao một câu hỏi về đời sống riêng tư của bà, “Cô về và gọi chồng cô ra đây”.
Trước tình cảnh này, người phụ nữ xứ Samaria có ba chọn lựa.
Thứ nhất, có thể cô ta sẽ nói,
— Ông là một người bất lịch sự. Ông không biết tôi. Tôi không biết ông. Ông hỏi tôi một câu hơi thiếu tế nhị. Tôi từ chối trả lời câu hỏi này bởi ông là một người bất lịch sự.
Thứ hai, người phụ nữ có thể chọn lựa im lặng không nói gì bởi câu hỏi của Đức Jesus hơi đường đột và quá bất ngờ.
Thứ ba, người phụ nữ xứ Samaria chọn lựa trả lời câu hỏi của Ðức Jesus.
Theo như thánh sử John, người phụ nữ xứ Samaria chọn, cái chọn lựa thứ ba, bởi cô nói,
— Tôi không có chồng.
Phân tích dưới lăng kiếng hòa giải, “Tôi không có chồng” là câu nói mà người phụ nữ đang nói với chính cô ta chứ không phải ai khác. Bị chất vấn, bị đặt vấn đề, người thiếu nữ cuối cùng chọn lựa thành thật với chính mình.
(1). Cô chấp nhận có một thời cô đã sống với bóng tối.
(2). Người phụ nữ Samaria hòa giải với chính mình bằng cách thú nhận với cô rằng người đàn ông cô đang sống chung không phải là chồng của mình. Bởi thế cô mới bật miệng nói, “Tôi không có chồng”. Câu nói này, cô ta nói với chính mình.
(3). “Tôi không có chồng” cũng là câu trả lời cho câu hỏi của người khách lạ mặt, câu nói hòa giải với Thiên Chúa qua hình ảnh của Con Một Của Người là Ðức Kitô.
Chỉ trong một câu nói đơn giản, ngắn gọn bốn chữ, “Tôi không có chồng”, người phụ nữ xứ Samaria vô danh đã bước qua liền một lúc ba giai đoạn của Mô Hình Chấp Nhận: Chấp nhận lỗi lầm, Chấp nhận hòa giải với chính mình, và Chấp nhận hòa giải với Thiên Chúa.
Và cuộc đời cô ta đổi thay sau hành động hòa giải này. Người phụ nữ bỏ lại bên bờ giếng bình đựng nước. Chạy về làng, cô gọi những người trong thôn làng ra gặp Đức Jesus. Người trong thôn làng, theo lời mời gọi của cô ta, chạy ra bờ giếng. Họ gặp gỡ người khách lạ bên giếng nước, và họ trở thành những người Kitô hữu. Bỏ lại bên bờ giếng bình đựng nước và chạy về làng gặp người trong thôn xóm là hai hình ảnh tượng trưng cho hành động chấp nhận đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới. Khi người đàn bà đi ra bờ giếng, cô ta mang theo trên người bình đựng nước tượng trưng cho một quá khứ nặng nề đè nặng trên vai. Ði ra giếng, người phụ nữ đi một mình. Khi bỏ lại bình nước bên bờ giếng, người phụ nữ Samaria chấp nhận bỏ lại sau lưng một trang sách cũ. Cô đóng lại trang sách của quá khứ để mở ra trang sách mới. Trong trang sách mới này, cô gặp gỡ những người dân trong làng mà có lẽ có một thời cô tránh né không muốn gặp mặt.
Người phụ nữ Samaria trong câu chuyện của John 4:1-42 đã đi qua cả bốn giai đoạn của Mô Hình Chấp Nhận. Cô là một mẫu người điển hình của con người mới, con người biết chấp nhận những lỗi lầm và hòa giải với một khoảng thời gian của lạc loài với chính mình.

V. Người Phụ Nữ Bên Giếng Nước
Ông Biệt phái Nicodemus trong chương 3 đã đi tìm gặp Đức Jesus vào ban đêm. Và trong suốt câu chuyện, Đức Jesus càng nói, ông Biệt Phái càng trở nên ngớ ngẩn không hiểu điều Ngài đang trình bày. Ngược lại, phụ nữ xứ Samaria đã đến tìm gặp Đức Jesus vào ngay giữa ban ngày. Thoạt tiên người đàn bà không hiểu tư tưởng Đức Jesus muốn trình bày. Nhưng cuối cùng cô đã nhận ra người bên bờ giếng chính là Đấng Mêsia/Ta’heb mà cô đang mong đợi. Cô bỏ lại bên bờ giếng bình nước, và chạy về làng làm chứng nhân cho Tin Mừng mà cô mới vừa gặp gỡ bên bờ giếng. Bởi chứng nhân của cô, tất cả người trong thôn đã chạy tới bờ giếng gặp Đức Jesus, và họ trở thành Kitô hữu.
Trong suốt câu chuyện, người phụ nữ không than van hay oán trách bất cứ một người nào khác cho một khoảng thời gian quá khứ của mình. Thật sự ra người phụ nữ bên bờ giếng biết thứ tha và hòa giải với chính mình. Bởi biết chấp nhận và hòa giải, cô ta đã đóng lại được một trang sách cũ của cuộc đời và mở ra một trang sách mới với niềm tin vào Đức Jesus.
Người phụ nữ bên bờ giếng, theo như Hạnh Các Thánh (thời Trung Cổ), tên Photina. Bà đã rửa tội cho công chúa con gái của hoàng đế Nêrô, sau cùng đã chết tử vì đạo trong ngục thất tại thành phố Carthage của Ai Cập.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD

Chú Thích
[1] Câu nói của người thiếu phụ Samarita, “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng [Yahweh Thiên Chúa] trên núi này [Gêzirim], nhưng các ông lại nói ở thành phố Jerusalem” (4:20), đã phản ảnh Điều Răn Thứ Mười Một mà người Samaria tin.
[2] Tiếng Cổ Hy Lạp, phiên âm tiếng Việt “Úk é-kô án-dra”.
[3] Trong The Revelatory Text, Schneiders viết, “The basic purpose of the Samaritan Woman story in the gospel itself is to legitimate the Samaritan mission and to establish the full equality in the community between Samaritan Christians and Jewish Christians”. Coi Schneiders, The Revelatory Text (New York, NY: HarperCollins Publishers, 1991) 186.
[4] Thần học Hòa Giải bàn dưới lăng kiếng của Trường phái Nghĩa Đen

Thư Mục Tham Khảo
Aston, John. Understanding The Fourth Gospel. New York, NY: Oxford University Press Inc., 1991.
Ball, David. ‘I Am’ in John’s Gospel: Literary Function, Background and Theological Implications. Sheffield, England: Sheffield Academic Press, 1996.
Barrett, C. K. The Gospel Accoding to St. John. 2ed; Westminster, 1978.
Brown, Raymond. E. The Gospel According to John. AB 29, 29A; Garden City, NY: Doubleday, 1970.
Bruce, F. F. The Gospel Of John. Grand Rapids, MI: William B. Eerdmans Publishing Company, 1983.
Farmer, Craig. “Changing Images of the Samaritan Woman in Early Reformed Commentaries on John,” Church History 65 (1996) 365-375.
Giblin, Charles. “What Was Everything He Told Her She Did? (John 4.17-18, 29, 39),” New Testament Studies (1999) 148-152.
Marrow, Stanley. The Gospel Of John: A Reading. Mahwah, NJ: Paulist Press, 1995.
Moloney, Francis. Belief In The Word: Reading the Fourth Gospel: John 1-4. Minneapolis, MN: Augsburg Fortress, 1993.
Neyrey, Jerome. “Jacob Traditions and the Interpretation of John, 4:10-26,” CBQ 41 (1979).
Perkins, Pheme, “The Gospel According to John,” in The New Jerome Biblical Commentary. Ed. Raymond Brown, Joseph Fitzmyer, and Roland Murphy. Englewood Cliffs, NJ: Prentice Hall, 1990. Pp. 942-985.
Pilch, John, “Jesus and the Samaritans,” The Bible Today 40 (2002) 172-177.
Koester, Craig R. Symbolism in the Fourth Gospel: Meaning, Mystery, Community. Minneapolis, MN: Augsburg Fortress, 1995.
Schneiders, Sandra. The Revelatory Text. New York, NY: HarperCollins Publishers. 1991. Pp. 180-199.
Smith, D. Moody. John Among The Gospels: The Relationship in Twentieth-Century Research. Minneapolis, MN: Augsburg Fortress, 1992.
The Women’s Bible Commentary: Expanded Edition. Ed. Carol A. Newsom & Sharon H. Ringe. Louisville, Kentucky: Westminster John Knox Press, 1998.

□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com
 
Thông Báo
Thư Mời tham dự Đại Hội Suy Tôn Lòng Chúa Thương Xót Kỳ 14 tại Long Beach , CA
Lm Nguyễn Quốc Dũng
09:51 19/03/2014
 
Văn Hóa
Hành trang tuổi trẻ : Suy nghĩ về thư Mùa Chay của ĐGM Giuse Đinh Đức Đạo
Tiểu Hành
09:37 19/03/2014
HÀNH TRANG TUỔI TRẺ

Người trẻ là tương lai, là sức mạnh và mầm sống của xã hội và Giáo Hội ngày mai. Nếu mầm sống đó yếu ớt, mầm sống đó mang nhiều thứ sâu bệnh thì liệu rồi tương lai ngày mai có đạt được nhiều điều tươi đẹp hay không? Mỗi người trẻ Công Giáo chúng ta đều đóng góp phần mình vào hành trình lớn lên của thế giới và cách riêng là Giáo Hội. Để cho sự đóng góp của chúng ta như mầm có sức sống, như lời mời gọi của Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo trong Thư Mùa Chay 2014 gửi sinh viên học sinh: “theo gương Chúa Giêsu, tâm hồn các của con phải thấm nhuần tình thương yêu múc nguồn từ chính tình yêu Thiên Chúa”,

Thư Mùa Chay của Đức Cha Giuse có nhiều điểm khiến chúng ta suy nghĩ về đời sống kitô hữu như ý nghĩa Mùa Chay với lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô: Quan tâm đến những lầm than của nhân loại, và nói cách riêng với sinh viên học sinh: làm việc thiện và cố gắng học tập. Với riêng tôi, điểm hút mạnh nhất là giúp mỗi người chúng ta cùng lắng đọng lại tâm hồn mình để nhìn lại mối tương quan tình yêu của mình với Thiên Chúa và với tha nhân là sức mạnh để người trẻ tránh lầm than và cố gắng học tập làm việc thiện.

Vâng! Tâm hồn của chúng ta phải thấm nhuần tình yêu thương nhưng tình yêu thương đó, như Đức Cha nhấn mạnh: phải xuất phát từ chính Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi sự yêu thương trọn hảo. Một tình yêu không bắt nguồn từ chính Đấng là tình yêu thì liệu điều đó có thật sự là tình yêu thương chăng hay chỉ là những sự vụ lợi cá nhân nào đó hoặc chỉ là để tôn vinh chính bản thân mình một cách tinh vi. Hơn nữa, một tình yêu không xuất phát từ chính nguồn thì làm sao tình yêu thương đó tồn tại vững bền.

Là những người trẻ với bao khát vọng, với bao ý chí và nghị lực, một thế giới mới đang mở rộng ra trước mắt chúng ta. Biết bao điều mới mẻ để chúng ta học tập, tìm kiếm, nghiên cứu và trải nghiệm… Chúng ta sẽ đón nhận nó bằng cách nào? Bằng những nỗ lực cố gắng của bản thân hay bằng những mánh khóe lừa lọc, gian trá vốn đang hiện diện trong xã hội như “chuyện thường ngày ở huyện”.

Trong thời đại ngày nay, một xã hội trần tục hóa, người ta dường như quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống, để rồi họ chỉ biết chạy theo những trào lưu hưởng thụ, trào lưu của đồng tiền và của danh vọng. Một ví dụ cụ thể đó là trào lưu “sống thử’. Thực tế đã chứng minh, dường như những đôi bạn trẻ đó đã không đạt đến đích mà họ mong muốn, trái lại còn để lại nhiều hậu quả đáng buồn, tương lai mờ mịt phía trước. Đã có biết bao người lâm vào những con đường sai trái như ĐTC Phanxicô sứ điệp Mùa Chay nói đến sự lầm than mà Đức Cha Giuse nhắc lại cho sinh viên chúng ta. Họ coi thường nhân phẩm, coi thường những khía cạnh đạo đức và xa rời những việc lành phúc đức. Đặc biệt, có những người trẻ, sống theo những trào lưu mà không đi sâu vào đời sống nội tâm – múc từ Nguồn tình yêu. Bên cạnh những bạn trẻ biết chịu khó học tập, tìm tòi nghiên cứu và đạt đến một kết quả tốt đẹp, cũng còn đó biết bao bạn trẻ lâm vào con đường xì ke, ma túy, rượu chè, cờ bạc và lối sống phóng đãng. Cộng thêm với một thời đại thông tin viễn thông “vũ bão” với biết bao phim ảnh đen tối lan rộng, nhiều người trẻ đã đi xa những đạo đức xã hội và đời sống luân lý, lầm ào con đường bê tha.

Các bạn trẻ Công Giáo ơi!

Để như Đức Cha Giuse kêu gọi: “phải thấm nhuần tình thương yêu múc nguồn từ chính tình yêu của Chúa”, chúng ta đến với Chúa Kitô theo lời mời: “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39), và “Hãy Ở Lại Trong Tình yêu Của Thầy” (Ga 15,9-17). Khi được thắm nhuần tình yêu, chúng ta được mời gọi nên những chứng nhân sống động nhất để đem tình yêu Thiên Chúa và Tin mừng của Ngài đến với xã hội. Các bạn là những người có tri thức, là những người dễ dàng giao lưu và tiếp cận được nhiều thành phần trong cuộc sống. Những người bạn ngoài Công Giáo họ sẽ nhìn vào cách cư xử, cách nói năng, cách đi đứng và cách sống của các bạn để nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện trong đời sống. Thật thế, bạn và tôi là chứng nhân Tin mừng.

Xã hội ngày nay, như Đ.T.C Gioan Phaolô khẳng định: “Người ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy”. Là những người mang danh Ki-tô-hữu, giả như chúng ta không làm gương sáng và thậm chí là là sống buông thả, một cách nào đó chúng ta đã không chỉ không góp phần làm cho triều đại Chúa mau đến, mà còn làm cho ánh sáng Thiên Chúa lụi tàn trong thế giới. Điều đó thật quá tệ hại phải không?

Không ai là một hòn đảo giữa một đại dương bao lao rộng lớn. Thành quả của một người dù có lớn lao đến đâu cũng không thể có tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục đến toàn thể, vậy chúng ta hãy liên kết lại, mỗi người một chút, bằng những hy sinh cố gắng. Chúng ta cùng là những nhân chứng yêu thương theo Tin Mừng giữa một xã hôi ồn ào và náo nhiệt này nhé.

Mùa Chay – mùa chúng ta dành thời gian để lắng đọng tâm hồn mình, xem xét lại thời gian qua, chúng ta đã là được những gì, đã cố gắng bản thân hay chưa? Đây cũng là khoảng thời gian giúp chúng ta cầu nguyện, làm những việc thiện như Đức Cha kêu gọi sống Mùa Chay, dâng những hy sinh nhỏ bé lên Cha chúng ta ở trên trời để Cha thánh hóa và ban nhiều ơn lành cho chúng ta. Chúng ta hãy suy nghĩ kỹ để đưa ra những dự tính, hướng đi đúng đắn cho tương lai. Chính mỗi người chúng ta chứ không phải ai khác, và ngay hôm nay chứ không phải ngày mai, hãy tận dụng và phát triển những khả năng hữu ích mà Cha chúng ta đã ban, góp phần mình vào cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu ngay ở giữa thế giới hôm nay...

Ngày 11 tháng 3 năm 2014

Tiểu Hành
 
Vài chia sẻ sau khi đọc thư Mùa Chay của Đức cha chủ tịch Ủy ban giáo dục Công giáo
Minh Tú
09:39 19/03/2014
Lắng nghe lời của Cha: Vài chia sẻ sau khi đọc thư Mùa Chay của Đức Cha chủ tịch Ủy ban giáo dục Công Giáo

“Hãy xé lòng, đừng xé áo… Hãy trở về với ta, nối kết tình cách xa thêm đậm đà...”

Đó là những câu hát hay thường được xướng lên trong các Thánh lễ của Mùa Chay thánh. Bài hát không chỉ dừng lại ở những giai điệu du dương, mà còn mang giá trị kêu gọi mọi người đối diện với lòng mình, hòa giải cùng Thiên Chúa cũng như với anh chị em mình. Và trong tâm tình đó, với sự mong mỏi sẽ có những cuộc biến đổi đời sống nơi các bạn sinh viên học sinh, Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo - Chủ tịch ủy ban Giáo dục Công Giáo đã gửi thư Mùa Chay cho giới trẻ sinh viên, học sinh. Trong thư, ngài tiếp nối Sứ điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi đến các giáo hữu toàn cầu. Qua sứ điệp của Đức Thánh Cha, ngài đặc biệt mời gọi sinh viên học sinh chúng ta hãy trở nên những người môn đệ Chúa Kitô trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng bằng hành động thiện nghĩa cho cuộc đời ngay hôm nay.

Nhìn lại lòng mình, lại một lần nữa sống trong Mùa Chay thánh, cả bạn và tôi chắc rằng sẽ mang những khát khao muốn làm một điều gì đó, ít là sẽ thay đổi bản thân, hầu mong đền bù những lầm lỗi, thiếu sót trong những thời gian qua và sống bác ái, sống sẻ chia với mọi người. Nhưng có lẽ đó cũng chỉ là những ý niệm, những mong muốn… như mọi năm… mà thôi.

Tuy nhiên, mong muốn đó được tiếp sức và cụ thể hóa khi chúng ta được đọc thư Mùa Chay của Đức Cha Giuse. Lời kêu gọi của Đức Cha tựa như một cơn gió nhẹ nhưng đã làm bừng lên ngọn lửa đang leo lét, giúp chúng ta được đánh động và muốn đáp lại lời mời gọi sống yêu thương trong Mùa Chay thánh.

Mở đầu bức thư, Đức Cha Giuse đã đi thẳng vào vấn để chủ chốt trong Mùa Chay thánh; đó là phải hy sinh, làm việc bác ái, cầu nguyện xin Chúa tha tội. Từ đó, chúng ta có thể thăng tiến đời sống của bản thân và góp phần cải thiện đời sống của mọi người quanh ta. Ngài còn hướng chúng ta nhìn về toàn cảnh của Giáo Hội, của xã hội, điều mà Đức Thanh Cha Phanxicô đang thao thức. Đức Cha nối tiếp vị cha chung đang tha thiết khi kêu gọi mỗi người phải mở lòng, mở trí, cảm thông chia sẽ đối với những mảnh đời cơ cực, đói khổ cả về vật chất và tinh thần đang sống quanh ta. Đức Cha Giuse nhấn mạnh: Đức Thánh Cha thể hiện lòng thương cảm với những số phận đó bằng việc ngài suy tư để nhận biết được một thực tế phần lớn con người ngày nay đang rơi vào ba cảnh lầm than là: lầm than vật chất, lầm than luân lý, lầm than thiêng liêng ... Sự khó nghèo của phận người không chỉ dừng lại ở sự thiếu thốn những nhu cầu cơ bản của con người là thiếu ăn, thiếu mặc mà người ta còn bị mất đi nhân phẩm, bị coi thường do vướng vào các tệ nạn xã hội, trụy lạc, mại và mãi dâm, chính cuộc đời họ đang bị lệ thuộc và khống chế bởi tội lỗi. Và đáng thương nhất là sự lầm than về mặt thiêng liêng, họ mất đi nhận thức làm con Thiên Chúa, cuốn vào lối sống sai lầm để chối bỏ Thiên Chúa là nguồn sống cho cuộc đời mình. Qua đó, các ngài cũng cảnh tỉnh chúng ta là những người trẻ đang tiến bước vào đời, dù sống trong bất kì hoàn cảnh nào, cũng có thể bị vướng vào những lầm than này.

Vậy, chúng ta phải làm gì trước sự mời gọi Đức Cha?

“Hãy nhìn vào Chúa Giêsu”, Đức Cha Giuse nhấn mạnh: Ngài đã chối từ danh phận một Thiên Chúa, đã nên như con người, chính là để cho đi sự giàu sang của Con Thiên Chúa cho con người. Còn chúng ta, với ước muốn thay đổi cuộc đời, chúng ta lựa chọn muốn nên như Ngài. Chúng ta cũng phải từ bỏ cái tôi ích kỉ để biết sẻ chia với anh em. Tại sao chúng ta không đến với những người nghèo khó và trải nghiệm cuộc sống trong họ để lắng nghe, để cảm thông và chia sẻ “sự giàu có” khi đón nhận từ Đức Giêsu Kitô vì Ngài là “Đấng giầu có, đã trở nên nghèo khó để chúng ta được trở nên giầu có” (2 Cr 8,9). Để rồi chính những hành động quảng đại đó, chúng ta đáp lại những “lời van xin” không lời nơi các anh em đồng loại. Chính lúc đó, bạn và tôi phần nào sẽ làm nên cuộc sống mới nơi họ, trao cho họ niềm tin vào cuộc sống và niềm tín thác vào Tình yêu Thiên Chúa.

Chúng ta đã được trao ban danh phận làm Con Thiên Chúa – người “giàu có”, nhờ cái chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, chúng ta giờ đây trở nên “giàu có” nhờ Đấng đã nên nghéo khó vì chúng ta. Xin được bày tỏ niềm vinh dự: chúng ta – trở nên con Thiên Chúa - người “giàu có” vì được hứa hẹn kho tàng trên trời và vinh phúc thiên đàng. Chúng ta lãnh nhận hồng ân này một cách nhưng không, chúng ta cũng được kêu mời chia sẻ cũng cùng một cách vô vị lợi với những “người lầm than” đang sống xung quanh chúng ta. Có khi bạn sẽ tự bào chữa: tôi sẽ chia đi như thế nào trong khi tôi chẳng có. Hãy suy xét thật kĩ càng, bạn thật sự rất giàu, bạn giàu có hơn rất nhiều người… bạn và tôi là những người đầy tớ được Thiên Chúa kí gửi rất nhiều “nén bạc” (x. Mt 25,14-30) và Ngài cần bạn trở thành những người đầy tớ trung thành biết làm lời cho Thiên Chúa qua phục vu tha nhân. Chúng ta hãy quảng đại cho đi, và tôi tin tưởng rằng: Thiên Chúa không thua sự quảng đại của chúng ta khi ban biết bao nhieu ơn lành cho chúng ta. Bạn nghĩ sao về điều này ?

Là những người trẻ, chúng ta mang trong tim là những ngọn lửa bé nhỏ, dù nhỏ nhưng là ngọn nồng cháy yêu thương, bác ái, sẻ chia. Chính Chúa sẽ thực hiện, như người đã làm cho ngọn lửa tình yêu Người đến khi ném xuống thế gian này (x. Lc 12,49). Hôm nay, ngọn lửa bùng cháy ấy chính là bạn và tôi được mời gọi trở nên.

Mùa Chay - mùa tình thương chia sẻ, mùa mà chúng ta đang sống lại những giây phút mà Con Thiên Chúa đã trao ban tất cả, kể cả sự sống của Ngài để cho con người được chết đi với tội lỗi và đón nhận một đời sống mới trong ân sủng và tình yêu nơi Thiên Chúa. Sống trong tâm tình Mùa Chay thánh, cùng theo lời mời gọi cua Đức Cha Giuse: Hãy hành động để cải thiện chính mình, góp phần giúp đỡ những người quanh ta. Hãy nhìn về một cuốc sống mới, một “đời sống giàu” trong ân sủng nhờ Đấng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta.

Minh Tú
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Tắm Nắng Đầu Xuân
Dominic Đức Nguyễn
21:23 19/03/2014
HOA TẮM NẮNG ĐẦU XUÂN
Ảnh của Dominic Đức Nguyễn
Rực rỡ vườn xuân những cánh hoa
Xoay nghiêng hứng giọt nắng hiền hoà
Hương bay ngan ngát như mời gọi
Chàng bướm đa tình nhớ ghé qua.
(Trích thơ của Sương Anh)
 
VietCatholic TV
Suy niệm cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô: 13/03 - 19/03/2014 - Câu chuyện về cha Thánh Massimiliano Maria Kolbe
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:47 19/03/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác

Trong buổi đọc kinh Truyền Tin với 60 ngàn tín hữu hành hương trưa Chúa Nhật 16 tháng Ba là Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay, Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người hãy mang sách Phúc Âm nhỏ theo người và đọc mỗi ngày một đoạn. Ngài cũng mời gọi cầu nguyện cho các nạn nhân máy bay của hãng Malaysia bị mất tích.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha đã quảng diễn bài Phúc Âm thuật lại biến cố Chúa Giêsu hiển dung trên núi trước ba môn đệ và ngài mời gọi mọi người cũng hãy “lên núi” gặp gỡ Chúa trong kinh nguyện thinh lặng, và xuống núi, chia sẻ những cảm nghiệm thiêng liêng cũng như giúp đỡ các anh chị em đang gặp khó khăn. Đức Thánh Cha đặc biệt nhấn mạnh rằng khi chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu, chúng ta có Lời ấy trong con tim. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác. Và đó là đời sống Kitô. Đó là một sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa: lắng nghe Chúa Giêsu và trao tặng Ngài cho người khác

Ngài nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Hiển dung. Đây là giai đoạn thứ hai trong hành trình mùa chay: giai đoạn thứ nhất là những cám dỗ trong hoang địa, Chúa Nhật tuần trước; giai đoạn thứ hai là biến cố Hiển dung. Chúa Giêsu “mang theo với ngài Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngài dẫn họ ra một nơi riêng, trên một núi cao” (Mt 17,1). Núi trong Kinh Thánh tượng trưng nơi gần gũi với Thiên Chúa và cuộc gặp gỡ thân mật với Chúa; đó là nơi cầu nguyện, ở trước sự hiện diện của Chúa. Trên núi ấy, Chúa Giêsu tỏ mình cho 3 môn đệ, Ngài hiển dung, sáng láng, rất đẹp; và rồi có ông Môisê và Elia hiện ra, chuyện vãn với Ngài. Khuôn mặt Ngài sáng ngời và áo Ngài trắng tinh đến độ Phêrô ngỡ ngàng, muốn ở lại đó, như thể thời gian ngưng lại. Bất chợt từ trên cao có tiếng Chúa Cha tuyên bố Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, và phán: “Các ngươi hãy nghe lời Ngài” . Lời này rất quan trọng. Chúa Cha đã nói với các Tông đồ và Ngài cũng nói với chúng ta nữa: “Hãy nghe Chúa Giêsu, vì Người là Con Ta yêu dấu”. Trong tuần này, chúng ta hãy giữ lời ấy trong tâm trí: “Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”. Đây không phải là lời Giáo Hoàng nói, nhưng là Thiên Chúa Cha, nói với tất cả mọi người: với tôi, với anh chị em, với tất cả! Lời ấy như một trợ lực để tiến bước trên con đường Mùa Chay. “Các con hãy nghe Chúa Giêsu!”.

Lời mời này của Chúa Cha rất quan trọng. Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở thành những người lắng nghe tiếng Chúa và coi trọng những lời của Ngài. Để lắng nghe Chúa Giêsu, cần đi theo Ngài, như đám đông trong Phúc Âm đã làm, đi theo Chúa trên những nẻo đường xứ Palestine. Chúa Giêsu không có nhà thờ chính tòa hoặc tòa giảng cố định, nhưng Ngài là một bậc thầy lưu động, trình bày giáo huấn dọc theo những con đường ngài đi qua, những nẻo đường không luôn luôn có thể đoán trước, và nhiều khi không dễ dàng. Theo Chúa Giêsu để nghe Ngài. Nhưng chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu trong lời Ngài đã được viết ra, trong Phúc Âm. Tôi hỏi anh chị em: anh chị em mỗi ngày có đọc một đoạn Phúc Âm hay không? Đó là một điều tốt đẹp. Có một cuốn Phúc Âm nhỏ, mang trong mình, trong túi, trong sắc, và đọc một đoạn nhỏ bất kỳ lúc nào trong ngày. Trong đó Chúa Giêsu nói với chúng ta, trong Phúc Âm. Anh chị em hãy nghĩ đến điều đó, không khó đâu, cũng không cần 4 sách Phúc Âm, 1 trong 4 cuốn. Luôn mang Phúc Âm theo người, vì đó là Lời Chúa Giêsu để có thể nghe Ngài.

Đức Thánh Cha nói thêm rằng:

“Từ biến cố Chúa Hiển Dung, tôi muốn nêu lên hai yếu tố ý nghĩa, có thể tóm gọn trong hai từ: đi lên và đi xuống. Chúng ta cần đi ra một nơi riêng, leo lên núi trong một nơi thinh lặng, để tìm lại chính mình và nhận thức rõ hơn tiếng Chúa. Nhưng chúng ta không thể ở lại đó! Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa trong kinh nguyện tái thúc đẩy chúng ta xuống núi, và trở xuống cánh đồng, nơi chúng ta gặp gỡ bao nhiêu anh chị em đang bị vất vả cơ cực, bệnh tật, bất công, dốt nát, nghèo khổ vật chất và tinh thần đè nặng. Chúng ta được mời gọi mang hoa trái kinh nghiệm của chúng ta với Thiên Chúa cho những anh chị em ấy, chia sẻ với họ ân thánh đã nhận được. Đây là điều lạ lùng. Khi chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu, chúng ta có Lời ấy trong con tim, Lời tăng trưởng. Và anh chị em có biết Lời tăng trưởng như thế nào không? Thưa bằng cách trao cho người khác. Lời Chúa Kitô trong chúng ta tăng trưởng khi chúng ta công bố lời ấy, khi chúng ta trao cho người khác. Và đó là đời sống Kitô. Đó là một sứ mạng của toàn thể Giáo Hội, của tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa: lắng nghe Chúa Giêsu và trao tặng Ngài cho người khác. Anh chị em đừng quên điều này: trong tuần này, hãy nghe Chúa Giêsu! Rồi tuần tới Anh chị em sẽ nói với tôi xem anh chị em có làm điều này không: có một cuốn sách Phúc Âm nhỏ trong túi hoặc trong sắc, để đọc một đoạn nhỏ trong ngày”.

Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và phó thác mình cho sự hướng dẫn của Mẹ để tiếp tục hành trình mùa chay này trong đức tin và lòng quảng đại, học cách leo lên hơn nữa bằng kinh nguyện, và đi xuống bằng tình bác ái huynh đệ.

2. Nghĩa vụ của các tín hữu Kitô là gì?

Chiều Chúa Nhật 16 tháng Ba Đức Thánh Cha đã viếng thăm giáo xứ Santa Maria delle Orazione ở hướng đông bắc Rôma, cách Vatican gần 24 cây số. Đây là giáo xứ thứ 5 thuộc giáo phận Roma được Đức Thánh Cha đến viếng thăm. Khi đến đây, ngài gặp gỡ trước tiên là các bệnh nhân và người khuyết tật, rồi gặp các trẻ em, đặc biệt là 150 em sẽ được xưng tội rước lễ lần đầu dịp lễ Phục Sinh sắp tới và 73 em sẽ chịu phép thêm sức, trước khi gặp cộng đoàn Con đường tân dự tòng. Như thường lệ, ngài cũng giải tội cho một số tín hữu rồi cử hành thánh lễ cho các tín hữu.

Nghĩa vụ của các tín hữu Kitô là gì đã là trọng tâm trong bài giảng của Đức Thánh Cha. Dịp này, ngài đặc biệt nhấn mạnh đến việc cần thiết phải có thời gian cho Chúa và Tin Mừng.

Đức Thánh Cha nói:

Trách nhiệm người Kitô hữu phải có là gì? Có lẽ anh chị em sẽ nói là đi Lễ Chúa Nhật là ăn chay kiêng thịt trong Tuần Thánh. Nhưng thực sự ra trách nhiệm đầu tiên của Kitô hữu là phải lắng nghe tình yêu của Thiên Chúa. Phải lắng nghe Chúa Giêsu.

Trích dẫn bài Phúc Âm, ngài khích lệ anh chị em tín hữu hiện diện hãy dưỡng nuôi linh hồn và được. Lắng nghe về Chúa Giêsu trên truyền hình hay trên các đài phát thanh là chưa đủ. Người ta phải dành ra thời gian để trực tiếp đọc Tin Mừng.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng:

"Tôi cũng đề nghị anh chị em phải có cuốn Phúc Âm nhỏ luôn đi với anh chị em, trong túi hoặc xách tay của mình. Và khi bạn có thời gian, có thể khi đi trên xe buýt, bất cứ khi nào có thể ngay cả đôi khi chúng ta phải cố giữ thăng bằng trên xe buýt hay phải căng mắt trông chừng hành lý của mình."

3. Người tín hữu cần có cảm thức xấu hổ vì tội lỗi và một con tim rộng lớn

Để có lòng thương xót với tha nhân, các tín hữu Kitô cần phải có cảm thức xấu hổ vì tội lỗi và một con tim rộng lớn. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong thánh lễ sáng thứ Hai 17 tháng Ba tại nhà nguyện Santa Marta.

Lòng thương xót đem đến hoà bình nên nếu như tất cả mọi người, cá nhân, gia đình, khu phố, có thái độ này, thì hòa bình đã ngự trị từ lâu trên thế giới và trong con tim biết bao nhiêu người chúng ta.

Các tín hữu phải luôn luôn nhớ điều này “Tôi là ai để phán xét người ta?”

Đức Thánh Cha nói:

Đúng là chúng ta không sát hại ai, nhưng với một con tim nhỏ nhoi nhiều việc nhỏ, nhiều tội lỗi vụn vặt hàng ngày chống lại Chúa vẫn tiếp tục diễn ra.

Nếu chúng ta nghĩ được rằng tôi đã làm điều này điều nọ nghịch với Thánh Ý Chúa và chúng ta biết xấu hổ trước mặt Thiên Chúa, thì cảm thức xấu hổ ấy là một hồng ân, là một ân sủng của người tội lỗi"

“Con là kẻ có tội, con xấu hổ trước mặt Chúa và cầu xin Chúa thứ tha"

Thật là đơn giản, nhưng rất khó khăn để nói rằng: “Con là kẻ có tội”.

Hãy làm con tim chúng ta lớn lên. Bản thân tôi là kẻ có tội thì tôi là ai để phán xét người ta? tôi là ai để dèm pha người khác. Tôi là ai khi chính tôi cũng làm những chuyện như thế hay còn tệ hơn thế nữa?

Trái tim chúng ta khi đó sẽ lớn lên. Chúa phán: "Đừng đoán xét, và anh em sẽ không bị xét đoán. Đừng lên án để anh em cũng không bị lên án. Hãy tha thứ và anh em sẽ được thứ tha. Hãy cho đi và anh em sẽ được nhận”

Đây là sự hào phóng của con tim: và những gì anh chị em nhận được sẽ nhiều lắm.

Những người nam nữ có lòng thương xót, có con tim rộng mở, luôn luôn tha thứ cho người khác và suy nghĩ về tội lỗi của mình. Đây là phương thế của lòng thương xót mà chúng ta phải cầu xin. Lòng thương xót đem đến hoà bình nên nếu như tất cả mọi người, cá nhân, gia đình, khu phố, có thái độ này, thì hòa bình đã ngự trị từ lâu trên thế giới và trong con tim biết bao nhiêu người chúng ta. Hãy nhớ rằng “Tôi là ai để phán xét người ta?”. Hãy biết xấu hổ, hãy có con tim lớn dần. Xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng này.

4. Câu chuyện về cha Thánh Massimiliano Maria Kolbe

Ngày 1 tháng Chín năm 1939, Hitler xua quân tấn công vào Ba Lan. Hai ngày sau đó, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới lần thứ Hai bắt đầu.

Hitler đã cho dựng lên vô số những nhà tù trong những phần lãnh thổ do quân Đức chiếm đóng. Kinh hoàng nhất là trại tù Auschwitz ở Ba-Lan nơi 1.1 triệu người đã bị giết trong đó 90% là người Do Thái.

Một ngày cuối tháng 7 năm 1941, nơi khu 14 của trại Auschwitz, một tù nhân đã trốn khỏi trại. Theo luật của trại giam này, cứ một tù nhân vượt ngục thì 10 tù nhân khác trong cùng khu đó phải chết thay. 10 người này sẽ bị bắn bỏ hay bị đưa vào hầm và bị bỏ đói đến chết.

Thế là, 10 tù nhân trong khu 14 bị gọi tên “đền mạng”. Trong bầu khí im lặng hãi-hùng, một tiếng khóc thất vọng não nề vang lên:

- Chúa ơi, con không bao giờ còn được trông thấy mặt vợ và các con của con nữa!

Tiếng khóc não nùng ai oán đó làm bầu không khí vốn đã căng thẳng càng trở nên ghê rợn hơn.

Bổng nhiên, trong đám tù nhân khu 14, một tù nhân rời khỏi hàng ngũ, tiến về phía viên chỉ huy người Đức tên là Fritsch. Fritsch giơ cao họng súng vừa đe dọa vừa quát lớn:

- Đứng lại! Ông muốn gì?

Người tù đáp:

- Tôi tù nhân 16670 muốn chết thay cho một trong các tù nhân bị kết án tử này!

Viên chỉ huy kinh ngạc hất hàm hỏi:

- Tại sao?

Tù nhân vừa giơ tay chỉ vào người đàn ông khóc lóc thảm thiết ban nãy vừa trả lời:

- Bởi vì tôi độc-thân, còn ông ta đã lập gia đình và có con cái!

Viên chỉ huy người Đức hỏi thêm:

- Ông là ai?

Tù nhân khoan thai trả lời:

- Tôi là Linh Mục Công Giáo!

Mọi người im lặng nín thở. Viên chỉ huy người Đức thật sự sững-sờ, lúng-túng. Ông tránh vội cái nhìn như bốc cháy ngọn lửa tình yêu của vị Linh Mục Công Giáo. Ông đáp cộc cốc:

- Được!

Vị Linh Mục Công Giáo đó chính là Cha Massimiliano Maria Kolbe, thuộc dòng Phanxicô Viện-Tu, người Ba Lan.

Cha được thụ phong linh mục năm 1918 và được nhiều người Ba Lan biết đến như là vị tông đồ nhiệt thành, hăng say truyền bá lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria, Vô Nhiễm Nguyên Tội và Vẹn Tuyền Chí Thánh. Lúc sinh thời, có lần Cha Kolbe nói tiên tri:

- Sẽ có một ngày quý vị trông thấy bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm đứng giữa trung tâm thủ đô Mạc Tư Khoa, trên tường thành cao nhất của điện Cẩm-Linh.

Điều đó đã xảy ra, thưa quý vị và anh chị em.

Cha Kolbe cũng đã từng sang Nhật Bản trong 6 năm và thiết lập một nhà dòng, một tờ báo và một chủng viện tại Nagasaki.

Khi chiến tranh bùng nổ cha đã giúp hơn 2000 người Do Thái trốn tránh sự lùng bắt của người Đức. Vì thế, ngày 17 tháng Hai năm 1941, cha bị bắt và ngày 28 tháng Năm bị đưa vào trại Auschwitz.

Trong phòng biệt giam, cha cử hành thánh lễ cho các tù nhân khác, ban các phép bí tích cuối cùng cho họ, an ủi họ sẽ sớm được đoàn tụ với Mẹ Maria trên thiên đàng. Bất cứ khi nào lính canh kiểm tra cũng thấy cha Massimiliano Kolbe quỳ cầu nguyện. Ơn lạ của Đức Mẹ là sau hai tuần bị bỏ đói và không có nước uống, mọi người đều chết hết nhưng ngài vẫn còn sống.

Tối ngày 14 tháng 8 năm 1941, lính canh đã chích carbolic acid cho ngài chết và sáng hôm sau đã thiêu thi thể ngài đúng ngày Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Năm đó ngài được 47 tuổi sau 23 năm linh mục.

Lời nguyện:

Lạy Chúa, khi con tim chúng con đầy ắp những ngẫu tượng của phù hoa, của tự hào, của quyền lực, của tiền bạc, thì chúng con xa Chúa và chúng con khiếp đảm trước cái chết.

Xin làm vơi đi trong chúng con lòng quyến luyến cõi đời này, để con tim chúng con được tự do, để chúng con hiểu rằng cái chết chỉ là sự bắt đầu niềm vui khôn tả và vinh quang của những người theo Chúa Giêsu.

Lòng nhiệt thành yêu mến Chúa và tha nhân đã khiến Thánh Massimiliano Maria Kolbe dám chết thay cho một người lạ mặt chưa hề quen biết.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng nhiệt thành yêu mến tha nhân như thánh Massimiliano Maria Kolbe đã sống và đã thực hiện trong đời mình.

Xin cũng ban cho chúng con lòng sốt sắng gắn bó với Ðức Trinh Nữ Maria vô nhiễm như thánh Massimiliano Maria Kolbe.