Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:41 14/03/2019
58. HUÊNH HOANG ÁO MỚI
Có một người thích khoe khoang.
Một hôm anh ta mặc một cái áo mới và dẫn chú tiểu đồng đi ra khỏi nhà, chỉ e người khác không nhìn thấy cái áo mới của mình, nên anh ta nhún hai vai lên cao lắc tới lắc lui trên đường đi.
Qua một lúc lâu bèn hỏi tiểu đồng:
- “Có người nào nhìn thấy cái áo đẹp của ta không ?”
Tiểu đồng trả lời:
- “Không có ai thấy.”
Anh ta cảm thấy hai vai nhún cao đã hết sức rồi, bèn lập tức để hai vai lại bình thường và nói:
- “Nếu không có người thấy thì để ta bỏ hai cái vai xuống nghỉ một chút đã.”
(Tiếu phủ)
Suy tư 58:
Không ai thích mặc áo quần mới cho bằng trẻ em và các cô gái.
Trẻ em thích mặc áo quần mới vì tính đơn sơ hồn nhiên, các cô gái thích mặc áo quần mới là vì có tính làm đỏm làm dáng.
Có những người Ki-tô hữu giặt áo quần ngay khi vấy chút bụi bặm, nhưng cái áo Rửa Tội thì để ngâm trong bùn đen tội lỗi mà không chịu đi giặt ngay, tức là không chịu sám hối và đi xưng tội.
Có người một ngày thay áo mới hai ba bận, nhưng một năm cũng không thèm thay áo mới tâm hồn khi nó vướng đầy bụi bặm của tội lỗi.
Có người bịt mũi xua tay khi thấy người ăn mày áo quần rách rưới ngồi bên vệ đường, nhưng tâm hồn của mình thì quá thối tha nhơ bẩn bởi tội kiêu căng và dục vọng mà không chịu tẩy sạch...
Ai cũng thích mặc áo quần mới nhưng không phải ai cũng thích đổi mới tâm hồn của mình; ai cũng muốn thay áo cũ nhưng ít có người thay đổi cuộc sống của mình cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm của Đức Chúa Giê-su dạy !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một người thích khoe khoang.
Một hôm anh ta mặc một cái áo mới và dẫn chú tiểu đồng đi ra khỏi nhà, chỉ e người khác không nhìn thấy cái áo mới của mình, nên anh ta nhún hai vai lên cao lắc tới lắc lui trên đường đi.
Qua một lúc lâu bèn hỏi tiểu đồng:
- “Có người nào nhìn thấy cái áo đẹp của ta không ?”
Tiểu đồng trả lời:
- “Không có ai thấy.”
Anh ta cảm thấy hai vai nhún cao đã hết sức rồi, bèn lập tức để hai vai lại bình thường và nói:
- “Nếu không có người thấy thì để ta bỏ hai cái vai xuống nghỉ một chút đã.”
(Tiếu phủ)
Suy tư 58:
Không ai thích mặc áo quần mới cho bằng trẻ em và các cô gái.
Trẻ em thích mặc áo quần mới vì tính đơn sơ hồn nhiên, các cô gái thích mặc áo quần mới là vì có tính làm đỏm làm dáng.
Có những người Ki-tô hữu giặt áo quần ngay khi vấy chút bụi bặm, nhưng cái áo Rửa Tội thì để ngâm trong bùn đen tội lỗi mà không chịu đi giặt ngay, tức là không chịu sám hối và đi xưng tội.
Có người một ngày thay áo mới hai ba bận, nhưng một năm cũng không thèm thay áo mới tâm hồn khi nó vướng đầy bụi bặm của tội lỗi.
Có người bịt mũi xua tay khi thấy người ăn mày áo quần rách rưới ngồi bên vệ đường, nhưng tâm hồn của mình thì quá thối tha nhơ bẩn bởi tội kiêu căng và dục vọng mà không chịu tẩy sạch...
Ai cũng thích mặc áo quần mới nhưng không phải ai cũng thích đổi mới tâm hồn của mình; ai cũng muốn thay áo cũ nhưng ít có người thay đổi cuộc sống của mình cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm của Đức Chúa Giê-su dạy !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
07:43 14/03/2019
109. Đức hạnh anh to lớn như thế nào, thì trước mặt Thiên Chúa cũng lớn như thế, chứ không phải trước mặt người ta.
(Thánh John Berchmans)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Vinh Quang Và Sự Tự Hiến
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
08:35 14/03/2019
Chúa Nhật II Mùa Chay C
Sự thường khi nghe nói đến hai từ vinh quang, người ta dễ liên tưởng đến hai từ quyền lực. Bởi chưng, chuyện như nhãn tiền, đó là khi có quyền lực thì vinh quang ào tới, nhất là do bởi “thói đời” thích khúm núm, quỵ lụy, tâng bốc, tung hô người có lực, có quyền.
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A, B, C, các bài tin mừng Giáo Hội dọn cho đoàn tín hữu đều tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Và chúng ta dễ nhận ra hữu ý của việc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang cho ba môn đệ thân tín, đó là để động viên tinh thần các vị trước khi Người lên Giêrusalem chịu tử nạn. Nội dung cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môsê và Êlia chính là “cuộc xuất hành Chúa Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem”. Chúa Giêsu trước đó cũng đã công khai tiên báo cuộc khổ nạn Người sẽ chịu do bởi các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư gây ra và Người mời gọi những ai muốn theo Người thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo (x.Lc 9,22-26).
Vinh quang được xem là tình trạng có giá trị tinh thần cao, đáng được tôn kính và ái mộ. Tuy nhiên cũng cần phân biệt vinh quang thật và vinh quang giả hiệu. Vinh quang thật thì lâu bền vì được dệt xây bằng những hành vi tốt đẹp, chính đáng và cao cả. Trái lại vinh quang giả hiệu lại chóng qua và nhất thời, vì nó thường được xây dựng trên bạo lực hoặc những mưu đồ bất chính…Như thế chúng ta có thể nói rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có vinh quang đích thật. Nhân loại chúng ta có được vinh quang là nhờ thông dự phần nào đó vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chúa Kitô tỏ vinh quang để rồi tự hiến dâng mạng sống vì người mình yêu. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhìn thấy vinh quang của Thầy chí thánh, một cách như bị thúc bách, Phêrô đã cất tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Dường như Phêrô quên mất chính mình cũng như hai bạn đồng môn. Lịch sử minh chứng cho ta hay những tâm hồn nào càng kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì luôn quảng đại trao ban chính mình cho tha nhân. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này nơi những con người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Giêsu, Mẹ Maria hiện ra đó đây theo dòng lịch sử. Có thể nói rằng tất thảy đều thay đổi cách diệu lạ, đều sống tự hiến cách phi thường. Và đây cũng là một trong những tiêu chí mà Giáo Hội dùng để kiếm tra các hiện tượng cho rằng Chúa, Mẹ hiện ra với người này, người kia. Hãy xem đời sống của những người ấy có đổi thay cách tích cực không, nghĩa là họ có quảng đại hiến thân vì tha nhân hơn không?
Mặt khác, chính khi tự hiến vì yêu thương thì vinh quang được hiển lộ. “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Khi Giuđa ra đi để thực hiện âm mưu nộp Thầy thì đó “là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi Đức Kitô tự nguyện khước từ vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa, trở nên giống phàm nhân, mặc lấy thân nô lệ và hạ mình vâng lời chịu chết vì chúng ta thì được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,6-11).
Nhân loại xưa lẫn nay đều vinh danh những con người biết xả thân tự hiến vì đồng loại. Đó là các bậc vĩ nhân, là các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những thánh nhân. Cần thừa nhận rằng vẫn có đó nhiều vinh quang giả tạo, nhất thời. Đó là những vinh quang vắng bóng sự tự hiến. Tìm kiếm vinh quang mà không biết hiến thân thì chỉ là ảo vọng. Trái lại nếu chúng ta chủ ý tự hiến để kiếm tìm vinh quang thì nhiều khi cũng gặp thất bại, nếu sự tự hiến ấy thiếu trong sáng trong ý hướng kiếm tìm. Như thế có thể nói vinh quang không phải là một tình trạng đến sau nhưng chính là ánh sáng huy hoàng của sự tự hiến. Đến đây chúng ta mới hiểu được vì sao “vinh quang của ta chính là thập giá Chúa Kitô”. Chúa Kitô đã được viên đại đội trưởng thi hành án nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” ngay phút giây Người tắt thở trên cây thập giá (Lc 23,47). Và mầu nhiệm Phục Sinh không phải là sự vinh quang đến sau nhưng là một sự chứng thực cái vinh quang đã có nơi mầu nhiệm Tử Nạn.
Dưới cái nhìn đức tin, được vào vinh quang, dù lớn hay bé, tất thảy đều để hiến thân vì hạnh phúc tha nhân và qua đó làm rạng danh Thiên Chúa. Vinh quang ấy có thể là một thánh chức, có thể là một thừa tác vụ hay một bậc sống…Các Đức Giáo Hoàng khi được Hồng Y đoàn bầu vào vai trò vị trí kế vị thánh Phêrô hẳn nhiên đều ý thức là để làm tôi tớ các tôi tớ như Đức Kitô đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Điều cần lưu ý đó là đừng quá mong chờ vinh quang sẽ đến trong thời gian tại thế, sau khi chúng ta hiến thân vì tha nhân. Ước gì chúng ta không chỉ tin mà còn cảm nhận sự thật này đó là sự vinh quang đã có ngay trong chính hành vi tự hiến của chúng ta. Việc Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Người trước khi chịu khổ hình không chỉ để động viên các môn đệ vững tin bước theo Người lên Giêrusalem mà còn khẳng định rằng chính khi người chịu khổ hình là Người được vinh quang. Thấy được hay cảm được sự vinh quang ngay trong sự tự hiến thì chắc chắn chúng ta sẽ can đảm bước theo Chúa Kitô để sống yêu thương cho đến cùng.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Sự thường khi nghe nói đến hai từ vinh quang, người ta dễ liên tưởng đến hai từ quyền lực. Bởi chưng, chuyện như nhãn tiền, đó là khi có quyền lực thì vinh quang ào tới, nhất là do bởi “thói đời” thích khúm núm, quỵ lụy, tâng bốc, tung hô người có lực, có quyền.
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A, B, C, các bài tin mừng Giáo Hội dọn cho đoàn tín hữu đều tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Và chúng ta dễ nhận ra hữu ý của việc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang cho ba môn đệ thân tín, đó là để động viên tinh thần các vị trước khi Người lên Giêrusalem chịu tử nạn. Nội dung cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môsê và Êlia chính là “cuộc xuất hành Chúa Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem”. Chúa Giêsu trước đó cũng đã công khai tiên báo cuộc khổ nạn Người sẽ chịu do bởi các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư gây ra và Người mời gọi những ai muốn theo Người thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo (x.Lc 9,22-26).
Vinh quang được xem là tình trạng có giá trị tinh thần cao, đáng được tôn kính và ái mộ. Tuy nhiên cũng cần phân biệt vinh quang thật và vinh quang giả hiệu. Vinh quang thật thì lâu bền vì được dệt xây bằng những hành vi tốt đẹp, chính đáng và cao cả. Trái lại vinh quang giả hiệu lại chóng qua và nhất thời, vì nó thường được xây dựng trên bạo lực hoặc những mưu đồ bất chính…Như thế chúng ta có thể nói rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có vinh quang đích thật. Nhân loại chúng ta có được vinh quang là nhờ thông dự phần nào đó vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chúa Kitô tỏ vinh quang để rồi tự hiến dâng mạng sống vì người mình yêu. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhìn thấy vinh quang của Thầy chí thánh, một cách như bị thúc bách, Phêrô đã cất tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9,33). Dường như Phêrô quên mất chính mình cũng như hai bạn đồng môn. Lịch sử minh chứng cho ta hay những tâm hồn nào càng kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì luôn quảng đại trao ban chính mình cho tha nhân. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này nơi những con người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Giêsu, Mẹ Maria hiện ra đó đây theo dòng lịch sử. Có thể nói rằng tất thảy đều thay đổi cách diệu lạ, đều sống tự hiến cách phi thường. Và đây cũng là một trong những tiêu chí mà Giáo Hội dùng để kiếm tra các hiện tượng cho rằng Chúa, Mẹ hiện ra với người này, người kia. Hãy xem đời sống của những người ấy có đổi thay cách tích cực không, nghĩa là họ có quảng đại hiến thân vì tha nhân hơn không?
Mặt khác, chính khi tự hiến vì yêu thương thì vinh quang được hiển lộ. “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,28). Khi Giuđa ra đi để thực hiện âm mưu nộp Thầy thì đó “là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi Đức Kitô tự nguyện khước từ vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa, trở nên giống phàm nhân, mặc lấy thân nô lệ và hạ mình vâng lời chịu chết vì chúng ta thì được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,6-11).
Nhân loại xưa lẫn nay đều vinh danh những con người biết xả thân tự hiến vì đồng loại. Đó là các bậc vĩ nhân, là các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những thánh nhân. Cần thừa nhận rằng vẫn có đó nhiều vinh quang giả tạo, nhất thời. Đó là những vinh quang vắng bóng sự tự hiến. Tìm kiếm vinh quang mà không biết hiến thân thì chỉ là ảo vọng. Trái lại nếu chúng ta chủ ý tự hiến để kiếm tìm vinh quang thì nhiều khi cũng gặp thất bại, nếu sự tự hiến ấy thiếu trong sáng trong ý hướng kiếm tìm. Như thế có thể nói vinh quang không phải là một tình trạng đến sau nhưng chính là ánh sáng huy hoàng của sự tự hiến. Đến đây chúng ta mới hiểu được vì sao “vinh quang của ta chính là thập giá Chúa Kitô”. Chúa Kitô đã được viên đại đội trưởng thi hành án nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” ngay phút giây Người tắt thở trên cây thập giá (Lc 23,47). Và mầu nhiệm Phục Sinh không phải là sự vinh quang đến sau nhưng là một sự chứng thực cái vinh quang đã có nơi mầu nhiệm Tử Nạn.
Dưới cái nhìn đức tin, được vào vinh quang, dù lớn hay bé, tất thảy đều để hiến thân vì hạnh phúc tha nhân và qua đó làm rạng danh Thiên Chúa. Vinh quang ấy có thể là một thánh chức, có thể là một thừa tác vụ hay một bậc sống…Các Đức Giáo Hoàng khi được Hồng Y đoàn bầu vào vai trò vị trí kế vị thánh Phêrô hẳn nhiên đều ý thức là để làm tôi tớ các tôi tớ như Đức Kitô đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Điều cần lưu ý đó là đừng quá mong chờ vinh quang sẽ đến trong thời gian tại thế, sau khi chúng ta hiến thân vì tha nhân. Ước gì chúng ta không chỉ tin mà còn cảm nhận sự thật này đó là sự vinh quang đã có ngay trong chính hành vi tự hiến của chúng ta. Việc Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Người trước khi chịu khổ hình không chỉ để động viên các môn đệ vững tin bước theo Người lên Giêrusalem mà còn khẳng định rằng chính khi người chịu khổ hình là Người được vinh quang. Thấy được hay cảm được sự vinh quang ngay trong sự tự hiến thì chắc chắn chúng ta sẽ can đảm bước theo Chúa Kitô để sống yêu thương cho đến cùng.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Dẫn Nhập & Lời Nguyện Chủ Nhật Thứ II Mùa Chay C 17.3.2019
Lm Francis Lý văn Ca
14:19 14/03/2019
Đầu Lễ: Anh Chị Em thân mến,
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần vừa qua, chúng ta sẽ chứng kiến cảnh Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, với bản tính con người yếu đuối, nhưng với trợ lực của Thánh Linh, Chúa Giêsu đã chiến thắng. Dựa vào bài Tin Mừng của tuần qua, chúng ta đã cầu xin Chúa ban ơn sức mạnh để chiến thắng ba địch thù: Thế gian, Xác thịt và Ma Quỷ. Trong Chúa Nhật hôm nay, chúng ta thấy con người của Đức Kitô đã biến đổi uy nghi sáng chói trên núi Tabôrê để cho các tông đồ tin Người là Đấng Thiên Sai.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ lực để tin tưởng một cách tuyệt đối vào Đấng Thiên Sai, Đấng đã đến trần gian thiết lập Nước Trời và chúng ta là những thần dân trong nước của Ngài.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta cùng hiệp tiếng với ca đoàn bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Abraham được Thiên Chúa tuyển chọn và hứa ban cho ông một miêu duệ đông đảo như sao trời cát biển và một miền đất chảy sửa và mật làm gia nghiệp riêng mình. Ông đã phó thác trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Điều nầy làm đẹp lòng Thiên Chúa.
TRƯỚC BÀI II:
Cuộc sống đời nầy, luôn hướng mọi hành vi về đời sau, đó là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở trong lá thư chúng ta sắp nghe sau đây.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Hình ảnh Đức Kitô biến hình trên núi hôm nay, một phần vinh quang của người tín hữu mai ngày trên thiên quốc. Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn để được hiểu biết trọn vẹn đời sống mai sau là tuyệt đích đời mình.
Lời Nguyện Giáo Dân.
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đã lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa cũng như sẽ áp dụng chính Lời Chúa vào cuộc sống thực tế. Giờ đây, chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha, những lời cầu xin cho Cộng Đoàn dân Chúa, cá nhân hay gia đình với những ý nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Xin ban cho Ngài được bình an và đầy khôn ngoan và uước gì qua những chuyến tông du mục vụ của ngài, nối kết được sự hiệp nhất với những Giáo Hội Kitô Giáo Anh Em. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin cho cộng đoàn giáo xứ của chúng ta luôn biết tìm hiểu và học hỏi Lời Chúa, để đời sống thiêng liêng được tăng trưởng nhờ ơn thánh Chúa tác động. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho việc cử hành bí tích tình thương mà Đức Kitô đã để lại như một giao ước ngàn đời của tình yêu Thiên Chúa, đem lại cho chúng ta lòng yêu mến Thánh Thể, yêu mến Nhà Chúa, yêu mến Anh Chị Em cùng quây quần chia sẻ Bánh Thánh Thể trong những ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin cho giới trẻ ơn sức mạnh để họ tìm gặp Chúa trong thế giới hôm nay. Với bầu nhiệt huyết hăng say, họ sẽ đem tuổi xuân biến đổi thế giới nầy thêm tươi trẻ, yêu thương và hòa bình. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho chúng ta biết tìm đến thăm viếng, ủi an, săn sóc những người già nua tuổi tác, những bệnh nhân trong Mùa Chay Thánh. Xin cho chúng ta cũng biết ủi an những ai đang buồn phiền, cô đơn... Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
6. Xin cho các tín hữu của Chúa đã qua đời, được an nghỉ trong Nhà Chúa muôn đời. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Cha, Cha đã khuyến khích các tông đồ, vâng nghe lời Đức Kitô, Người Con Chí Ái của Cha. Chúng con lắng nghe lời Ngài trong Phúc Âm, xin nhậm những lời nguyện cầu của chúng con dâng lên Chúa trong thánh lễ hôm nay. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần vừa qua, chúng ta sẽ chứng kiến cảnh Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, với bản tính con người yếu đuối, nhưng với trợ lực của Thánh Linh, Chúa Giêsu đã chiến thắng. Dựa vào bài Tin Mừng của tuần qua, chúng ta đã cầu xin Chúa ban ơn sức mạnh để chiến thắng ba địch thù: Thế gian, Xác thịt và Ma Quỷ. Trong Chúa Nhật hôm nay, chúng ta thấy con người của Đức Kitô đã biến đổi uy nghi sáng chói trên núi Tabôrê để cho các tông đồ tin Người là Đấng Thiên Sai.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ lực để tin tưởng một cách tuyệt đối vào Đấng Thiên Sai, Đấng đã đến trần gian thiết lập Nước Trời và chúng ta là những thần dân trong nước của Ngài.
Với những tư tưởng chuẩn bị, giờ đây, chúng ta cùng hiệp tiếng với ca đoàn bắt đầu thánh lễ với bài ca nhập lễ sau đây:
TRƯỚC BÀI I:
Abraham được Thiên Chúa tuyển chọn và hứa ban cho ông một miêu duệ đông đảo như sao trời cát biển và một miền đất chảy sửa và mật làm gia nghiệp riêng mình. Ông đã phó thác trọn niềm tin vào Thiên Chúa. Điều nầy làm đẹp lòng Thiên Chúa.
TRƯỚC BÀI II:
Cuộc sống đời nầy, luôn hướng mọi hành vi về đời sau, đó là điều mà thánh Phaolô nhắc nhở trong lá thư chúng ta sắp nghe sau đây.
TRƯỚC BÀI PÂ:
Hình ảnh Đức Kitô biến hình trên núi hôm nay, một phần vinh quang của người tín hữu mai ngày trên thiên quốc. Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn để được hiểu biết trọn vẹn đời sống mai sau là tuyệt đích đời mình.
Lời Nguyện Giáo Dân.
Linh mục: Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta đã lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa cũng như sẽ áp dụng chính Lời Chúa vào cuộc sống thực tế. Giờ đây, chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha, những lời cầu xin cho Cộng Đoàn dân Chúa, cá nhân hay gia đình với những ý nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Xin ban cho Ngài được bình an và đầy khôn ngoan và uước gì qua những chuyến tông du mục vụ của ngài, nối kết được sự hiệp nhất với những Giáo Hội Kitô Giáo Anh Em. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2. Xin cho cộng đoàn giáo xứ của chúng ta luôn biết tìm hiểu và học hỏi Lời Chúa, để đời sống thiêng liêng được tăng trưởng nhờ ơn thánh Chúa tác động. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
3. Xin cho việc cử hành bí tích tình thương mà Đức Kitô đã để lại như một giao ước ngàn đời của tình yêu Thiên Chúa, đem lại cho chúng ta lòng yêu mến Thánh Thể, yêu mến Nhà Chúa, yêu mến Anh Chị Em cùng quây quần chia sẻ Bánh Thánh Thể trong những ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
4. Xin cho giới trẻ ơn sức mạnh để họ tìm gặp Chúa trong thế giới hôm nay. Với bầu nhiệt huyết hăng say, họ sẽ đem tuổi xuân biến đổi thế giới nầy thêm tươi trẻ, yêu thương và hòa bình. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
5. Xin cho chúng ta biết tìm đến thăm viếng, ủi an, săn sóc những người già nua tuổi tác, những bệnh nhân trong Mùa Chay Thánh. Xin cho chúng ta cũng biết ủi an những ai đang buồn phiền, cô đơn... Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
6. Xin cho các tín hữu của Chúa đã qua đời, được an nghỉ trong Nhà Chúa muôn đời. Chúng ta cầu xin Chúa.
Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Linh mục:
Lạy Cha, Cha đã khuyến khích các tông đồ, vâng nghe lời Đức Kitô, Người Con Chí Ái của Cha. Chúng con lắng nghe lời Ngài trong Phúc Âm, xin nhậm những lời nguyện cầu của chúng con dâng lên Chúa trong thánh lễ hôm nay. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Amen.
Bài Giảng Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm C: Tôn vinh Thiên Chúa nơi Thân xác
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
14:54 14/03/2019
Chúa Nhật II MÙA CHAY
Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác
St 15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9,28b-36
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay kể lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín là “Phêrô, Giacôbê và Gioan” (Lc 9,28). Đây là lần duy nhất Chúa Giêsu biến hình trước mặt các môn đệ: “Dung mạo người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29). Chúng ta tìm hiểu ý nghĩa biến cố này.
1- Ý nghĩa của biến cố biến hình
Biến cố biến hình có một ý nghĩa thần học liên hệ tới mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Biến hình xác nhận biến cố nhập thể. Khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người, vinh quang của thiên tính bị ẩn dấu. Việc Chúa Giêsu biến hình là hé mở phần nào vinh quang của thiên tính cho các môn đệ. Biến hình giúp họ chuẩn bị đón nhận cuộc tử nạn sắp diễn ra. Biến hình còn báo trước vinh quang phục sinh và minh chứng rằng Chúa Giêsu hoàn tất lề luật (Môsê) và lời các tiên tri (Êlia).
Nhưng không chỉ dừng lại những điều này, biến cố này còn là một kinh nghiệm tuyệt vời về niềm vui và hạnh phúc khi vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa được tỏ lộ. Trong ngày đó, Chúa Giêsu tràn đầy niềm hạnh phúc, Người xuất thần. Ánh sáng là dấu chỉ của tất cả điều này. Ánh sáng phát xuất từ chính Người. Chúa Giêsu tỏa sáng như một luồng sáng. Niềm vui, tình yêu Ba Ngôi lan tỏa trong Người. Lời Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con Ta yêu dấu.” Đám mây bao phủ trên núi là biểu tượng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần vốn là “niềm vui thỏa” trong Ba Ngôi.
2- Ý nghĩa của thân xác
Cũng như tất cả những biến cố trong đời Chúa Giêsu, biến hình là một mầu nhiệm liên quan đến vận mệnh của chúng ta. Thánh Phaolô trong bài đọc II cung cấp cho chúng ta chìa khóa để áp dụng biến cố này với chúng ta. Ngài nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,2-21).
Theo ý nghĩa này, biến cố biến hình là một cửa sổ mở ra cho tương lai chúng ta; nó báo trước cho chúng ta biết rằng một ngày kia thân xác hay hư nát của chúng ta sẽ được biến đổi thành ánh sáng vinh hiển nên giống với thân xác vinh hiển của Chúa; nó còn là một luồng sáng chiếu vào đời sống hiện tại, giúp chúng ta hiểu rằng thân xác này là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự. Vì thế, biến hình cũng là cơ hội để suy tư về giá trị của thân xác.
Đối với Kinh Thánh, thân xác không phải là một yếu tố tùy phụ hay tách biệt nơi con người; thân xác là toàn bộ con người. Thân xác được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng, được Người biến đổi (x. St 1,17tt); thân xác được Ngôi Lời đảm nhận trong mầu nhiệm nhập thể và được Chúa Thánh Thần thánh hóa trong bí tích Rửa Tội.
Theo Kinh Thánh, con người lộng lẫy và rạng ngời nhờ thân xác. Thánh vịnh gia cảm tác: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139,13-14). Quả thật, trong tất cả công trình của Thiên Chúa, không có gì đẹp hơn thân xác con người. Thân xác được tiền định để chia sẻ vinh quang đời đời với linh hồn. Charles Péguy cho rằng: “Thân xác và linh hồn cùng chia sẻ vinh quang đời đời hoặc phải chịu cảnh trầm luân vĩnh cửu.” Không như lạc giáo Manikê và Ngộ Đạo thuyết cho rằng cứu độ là loại bỏ thân xác để chỉ lấy linh hồn, Kitô giáo loan báo ơn cứu độ bao gồm cả thân xác và linh hồn.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội bị thống trị bởi nền văn hóa tôn thờ thân xác. Thân xác con người, đặc biệt thân xác phụ nữ bị coi như một món hàng, như trò chơi tình dục. Người ta không còn tôn trọng thân xác trong mối liên hệ với linh hồn, với nhân vị và phẩm giá con người. Cả những ý tưởng về cái đẹp cũng được quan niệm rất nghèo nàn. Người ta chăm sóc vẻ đẹp bên ngoài, mà ít chú ý và trau dồi vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp của tâm hồn.
3- Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta
Biến hình còn là thông điệp về cái đẹp. Nhà thần học Chính Thống, Pavel Evdokimov viết một cuốn sách có tựa đề “Thần học về cái đẹp,” khi phân tích bức Icône Chúa biến hình trên núi Tabor và lời các môn đệ: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là tốt!” Ông cho rằng: Chúa Giêsu chiếu tỏa vẻ đẹp của Người. Vẻ đẹp đó đến từ bên trong, được diễn tả ra bên ngoài nhờ thân xác.
Biến hình theo ý nghĩa này là một thông điệp đặc biệt gửi tới mọi người hôm nay. Như thánh Phaolô yêu cầu các Kitô hữu sơ khai: “Vậy anh em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác của anh em” (1 Cr 6,19).
Đối với đời sống hôn nhân, anh chị em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình khi anh chị em biết làm cho thân xác trở nên quà tặng tình yêu cho nhau và là phương tiện để kết hợp nên một với người phối ngẫu trong hôn nhân.
Đối với đời sống tu trì, anh chị em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình khi biến thân xác thành quà tặng trực tiếp và “hy lễ sống động” cho Thiên Chúa để phục vụ anh chị em đồng loại.
Đối với mọi người, chúng ta vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình cả trong lĩnh vực nghệ thuật, lao động và tất cả mọi hoạt động con người.
Đối với các bạn trẻ, một phương thế để vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình là sống đoan trang, tiết hạnh. Đó là chọn lựa sống theo Tin Mừng, can đảm đi ngược lại với não trạng và lối sống chỉ biết dùng thân xác để thỏa mãn thú vui, quyến rũ người khác.
Mùa Chay là hành trình thanh luyện để giúp mỗi người chúng ta trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Biến cố hiển dung minh chứng rằng: càng gần gũi với Thiên Chúa con người càng được biến đổi trở nên sáng láng. Môsê sau khi tiếp xúc với Thiên Chúa, mặt ông trở nên sáng chói. Đức Giêsu biến hình sau khi Người đã cầu nguyện. Người gặp gỡ Chúa Cha, dung nhan Người trở nên chói lòa. Nhiều vị thánh cũng trải qua những kinh nghiệm như thế. Nếu chúng ta biết dìm mình trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, toàn bộ con người cũng sẽ được biến đổi, nên sáng chói nhờ ánh sáng Thiên Chúa.
Một cách gần gũi nhất, Chúa Giêsu tiếp tục biến hình cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, bánh và rượu biến hình thành Mình và Máu Người. Thay vì làm ba lều, chúng ta hãy biến tâm hồn chúng ta thành “lều” cho Chúa Giêsu Thánh Thể cư ngụ, nhờ đó chúng ta sẽ được biến đổi và tràn ngập niềm vui. Amen!
Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác
St 15,5-12.17-18; Pl 3,17-4,1; Lc 9,28b-36
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay kể lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín là “Phêrô, Giacôbê và Gioan” (Lc 9,28). Đây là lần duy nhất Chúa Giêsu biến hình trước mặt các môn đệ: “Dung mạo người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa” (Lc 9,29). Chúng ta tìm hiểu ý nghĩa biến cố này.
1- Ý nghĩa của biến cố biến hình
Biến cố biến hình có một ý nghĩa thần học liên hệ tới mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Biến hình xác nhận biến cố nhập thể. Khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người, vinh quang của thiên tính bị ẩn dấu. Việc Chúa Giêsu biến hình là hé mở phần nào vinh quang của thiên tính cho các môn đệ. Biến hình giúp họ chuẩn bị đón nhận cuộc tử nạn sắp diễn ra. Biến hình còn báo trước vinh quang phục sinh và minh chứng rằng Chúa Giêsu hoàn tất lề luật (Môsê) và lời các tiên tri (Êlia).
Nhưng không chỉ dừng lại những điều này, biến cố này còn là một kinh nghiệm tuyệt vời về niềm vui và hạnh phúc khi vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa được tỏ lộ. Trong ngày đó, Chúa Giêsu tràn đầy niềm hạnh phúc, Người xuất thần. Ánh sáng là dấu chỉ của tất cả điều này. Ánh sáng phát xuất từ chính Người. Chúa Giêsu tỏa sáng như một luồng sáng. Niềm vui, tình yêu Ba Ngôi lan tỏa trong Người. Lời Chúa Cha xác nhận: “Đây là Con Ta yêu dấu.” Đám mây bao phủ trên núi là biểu tượng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần vốn là “niềm vui thỏa” trong Ba Ngôi.
2- Ý nghĩa của thân xác
Cũng như tất cả những biến cố trong đời Chúa Giêsu, biến hình là một mầu nhiệm liên quan đến vận mệnh của chúng ta. Thánh Phaolô trong bài đọc II cung cấp cho chúng ta chìa khóa để áp dụng biến cố này với chúng ta. Ngài nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,2-21).
Theo ý nghĩa này, biến cố biến hình là một cửa sổ mở ra cho tương lai chúng ta; nó báo trước cho chúng ta biết rằng một ngày kia thân xác hay hư nát của chúng ta sẽ được biến đổi thành ánh sáng vinh hiển nên giống với thân xác vinh hiển của Chúa; nó còn là một luồng sáng chiếu vào đời sống hiện tại, giúp chúng ta hiểu rằng thân xác này là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự. Vì thế, biến hình cũng là cơ hội để suy tư về giá trị của thân xác.
Đối với Kinh Thánh, thân xác không phải là một yếu tố tùy phụ hay tách biệt nơi con người; thân xác là toàn bộ con người. Thân xác được Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng, được Người biến đổi (x. St 1,17tt); thân xác được Ngôi Lời đảm nhận trong mầu nhiệm nhập thể và được Chúa Thánh Thần thánh hóa trong bí tích Rửa Tội.
Theo Kinh Thánh, con người lộng lẫy và rạng ngời nhờ thân xác. Thánh vịnh gia cảm tác: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139,13-14). Quả thật, trong tất cả công trình của Thiên Chúa, không có gì đẹp hơn thân xác con người. Thân xác được tiền định để chia sẻ vinh quang đời đời với linh hồn. Charles Péguy cho rằng: “Thân xác và linh hồn cùng chia sẻ vinh quang đời đời hoặc phải chịu cảnh trầm luân vĩnh cửu.” Không như lạc giáo Manikê và Ngộ Đạo thuyết cho rằng cứu độ là loại bỏ thân xác để chỉ lấy linh hồn, Kitô giáo loan báo ơn cứu độ bao gồm cả thân xác và linh hồn.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một xã hội bị thống trị bởi nền văn hóa tôn thờ thân xác. Thân xác con người, đặc biệt thân xác phụ nữ bị coi như một món hàng, như trò chơi tình dục. Người ta không còn tôn trọng thân xác trong mối liên hệ với linh hồn, với nhân vị và phẩm giá con người. Cả những ý tưởng về cái đẹp cũng được quan niệm rất nghèo nàn. Người ta chăm sóc vẻ đẹp bên ngoài, mà ít chú ý và trau dồi vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp của tâm hồn.
3- Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác chúng ta
Biến hình còn là thông điệp về cái đẹp. Nhà thần học Chính Thống, Pavel Evdokimov viết một cuốn sách có tựa đề “Thần học về cái đẹp,” khi phân tích bức Icône Chúa biến hình trên núi Tabor và lời các môn đệ: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là tốt!” Ông cho rằng: Chúa Giêsu chiếu tỏa vẻ đẹp của Người. Vẻ đẹp đó đến từ bên trong, được diễn tả ra bên ngoài nhờ thân xác.
Biến hình theo ý nghĩa này là một thông điệp đặc biệt gửi tới mọi người hôm nay. Như thánh Phaolô yêu cầu các Kitô hữu sơ khai: “Vậy anh em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác của anh em” (1 Cr 6,19).
Đối với đời sống hôn nhân, anh chị em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình khi anh chị em biết làm cho thân xác trở nên quà tặng tình yêu cho nhau và là phương tiện để kết hợp nên một với người phối ngẫu trong hôn nhân.
Đối với đời sống tu trì, anh chị em hãy vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình khi biến thân xác thành quà tặng trực tiếp và “hy lễ sống động” cho Thiên Chúa để phục vụ anh chị em đồng loại.
Đối với mọi người, chúng ta vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình cả trong lĩnh vực nghệ thuật, lao động và tất cả mọi hoạt động con người.
Đối với các bạn trẻ, một phương thế để vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình là sống đoan trang, tiết hạnh. Đó là chọn lựa sống theo Tin Mừng, can đảm đi ngược lại với não trạng và lối sống chỉ biết dùng thân xác để thỏa mãn thú vui, quyến rũ người khác.
Mùa Chay là hành trình thanh luyện để giúp mỗi người chúng ta trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Biến cố hiển dung minh chứng rằng: càng gần gũi với Thiên Chúa con người càng được biến đổi trở nên sáng láng. Môsê sau khi tiếp xúc với Thiên Chúa, mặt ông trở nên sáng chói. Đức Giêsu biến hình sau khi Người đã cầu nguyện. Người gặp gỡ Chúa Cha, dung nhan Người trở nên chói lòa. Nhiều vị thánh cũng trải qua những kinh nghiệm như thế. Nếu chúng ta biết dìm mình trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, toàn bộ con người cũng sẽ được biến đổi, nên sáng chói nhờ ánh sáng Thiên Chúa.
Một cách gần gũi nhất, Chúa Giêsu tiếp tục biến hình cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Sau khi truyền phép, bánh và rượu biến hình thành Mình và Máu Người. Thay vì làm ba lều, chúng ta hãy biến tâm hồn chúng ta thành “lều” cho Chúa Giêsu Thánh Thể cư ngụ, nhờ đó chúng ta sẽ được biến đổi và tràn ngập niềm vui. Amen!
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đại nghịch bất đạo – Giáo dân xúm lại đánh trọng thương Giám Mục của mình
Đặng Tự Do
06:52 14/03/2019
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Sau các vụ cáo gian các Hồng Y tại Úc và tại Pháp, hôm 10 tháng Ba, người ta phải chứng kiến thêm một cảnh đại nghịch bất đạo khác khi hàng trăm giáo dân xúm lại đánh trọng thương một Giám Mục khiến ngài phải đi nằm nhà thương.
Thông tấn xã UCANews cho biết Đức Cha Jerome Dhas Varuvel, Giám Mục giáo phận Kuzhithurai, Ấn Độ đã bị một nhóm khoảng 130 người Công Giáo trong đó có cả các phụ nữ đánh tới tấp khiến ngài phải đi nhà thương cấp cứu.
Đức Cha Jerome Dhas Varuvel đã rời bệnh viện ngày 12 tháng 3, hai ngày sau cuộc tấn công. Nhưng một người bảo vệ đi chung với ngài vẫn còn phải nằm trong nhà thương.
Cha Russel Raj, chưởng ấn của giáo phận Kuzhithurai, cho UCANews biết người bảo vệ ngài đã bị thương nghiêm trọng khi cố gắng bảo vệ Đức Giám Mục.
Cha Augustine Ponnaian, phụ trách tài chính của giáo phận, cũng bị tấn công nhưng chỉ bị thương nhẹ và không cần nhập viện.
Cảnh sát đã ra lệnh truy nã 58 người Công Giáo, trong đó có 16 phụ nữ, và cáo buộc họ phạm tội nghiêm trọng như bạo loạn có vũ khí, đe dọa, và sử dụng vũ khí có thể gây ra cái chết.
Cảnh sát đã bắt được hai người và đang tìm kiếm 56 người khác, là những người đang trốn tránh để khỏi bị bắt.
“Đây là một cuộc tấn công có kế hoạch nhắm vào Đức Giám Mục,” Cha Ponnaian nói với UCANews hôm 13 tháng 3.
Các giáo dân này đã đợi bên ngoài Tòa Giám Mục khi ngài trở về sau một cuộc họp để thảo luận về vấn đề đất đai. Họ vây quanh ngài khi ngài vừa về đến cổng Tòa Giám Mục và buộc ngài phải giải quyết vấn đề ngay lập tức.
Cuộc tranh chấp đất đai bắt đầu từ năm 1965 khi giáo phận Kuzhithurai, được hình thành bốn năm trước đó từ giáo phận Kottar. Người Công Giáo ở hai giáo xứ đã tranh chấp quyền sở hữu một mảnh đất ở làng Appattuvilai.
Ngày 5 tháng Năm, 2018, Đức Cha Varuvel ban hành sắc lệnh giải quyết tranh chấp giữa giáo xứ Thánh Antôn và giáo xứ Thánh Giuse. Một số giáo dân giáo xứ Thánh Antôn cho rằng sắc lệnh của Đức Cha Varuvel thiên vị giáo xứ Thánh Giuse, và từ chối chấp nhận sắc lệnh này. Họ muốn Đức Cha Varuvel rút lại sắc lệnh đã ký.
Cha chưởng ấn Raj cho biết quyết định của Đức Cha Varuvel không phải là quyết định của cá nhân ngài nhưng tuân theo các khuyến nghị của một ủy ban bao gồm các luật sư, những chuyên gia giáo dân và 14 người đại diện của hai giáo xứ, mỗi giáo xứ có 7 người đại diện.
Nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra kể từ khi sắc lệnh được ban hành, và Đức Cha Varuvel yêu cầu những người chống đối đưa ra các bằng chứng cụ thể để chứng minh cho lập luận của mình.
“Cho đến nay, họ đã không đưa ra được chứng cứ nào, nhưng họ muốn đảo ngược quyết định có lợi cho họ,” Cha Ponnaian nói.
“Đức Cha Varuvel cũng cho phép họ thách thức quyết định của ngài tại tòa án dân sự nhưng họ từ chối lời đề nghị của ngài,” Cha Ponnaian nói thêm.
Cha chưởng ấn Raj nói rằng giáo phận không muốn ai bị tù tội trong trường hợp này. Tuy nhiên, giáo phận muốn cảnh sát có hành động đối với hai người chủ chốt đã dàn dựng các vụ biểu tình và xúi giục mọi người tấn công Đức Cha Varuvel một cách tàn bạo.
Source:Catholic Herald Bishop hospitalised after parishioners attack him
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Sau các vụ cáo gian các Hồng Y tại Úc và tại Pháp, hôm 10 tháng Ba, người ta phải chứng kiến thêm một cảnh đại nghịch bất đạo khác khi hàng trăm giáo dân xúm lại đánh trọng thương một Giám Mục khiến ngài phải đi nằm nhà thương.
Thông tấn xã UCANews cho biết Đức Cha Jerome Dhas Varuvel, Giám Mục giáo phận Kuzhithurai, Ấn Độ đã bị một nhóm khoảng 130 người Công Giáo trong đó có cả các phụ nữ đánh tới tấp khiến ngài phải đi nhà thương cấp cứu.
Đức Cha Jerome Dhas Varuvel đã rời bệnh viện ngày 12 tháng 3, hai ngày sau cuộc tấn công. Nhưng một người bảo vệ đi chung với ngài vẫn còn phải nằm trong nhà thương.
Cha Russel Raj, chưởng ấn của giáo phận Kuzhithurai, cho UCANews biết người bảo vệ ngài đã bị thương nghiêm trọng khi cố gắng bảo vệ Đức Giám Mục.
Cha Augustine Ponnaian, phụ trách tài chính của giáo phận, cũng bị tấn công nhưng chỉ bị thương nhẹ và không cần nhập viện.
Cảnh sát đã ra lệnh truy nã 58 người Công Giáo, trong đó có 16 phụ nữ, và cáo buộc họ phạm tội nghiêm trọng như bạo loạn có vũ khí, đe dọa, và sử dụng vũ khí có thể gây ra cái chết.
Cảnh sát đã bắt được hai người và đang tìm kiếm 56 người khác, là những người đang trốn tránh để khỏi bị bắt.
“Đây là một cuộc tấn công có kế hoạch nhắm vào Đức Giám Mục,” Cha Ponnaian nói với UCANews hôm 13 tháng 3.
Các giáo dân này đã đợi bên ngoài Tòa Giám Mục khi ngài trở về sau một cuộc họp để thảo luận về vấn đề đất đai. Họ vây quanh ngài khi ngài vừa về đến cổng Tòa Giám Mục và buộc ngài phải giải quyết vấn đề ngay lập tức.
Cuộc tranh chấp đất đai bắt đầu từ năm 1965 khi giáo phận Kuzhithurai, được hình thành bốn năm trước đó từ giáo phận Kottar. Người Công Giáo ở hai giáo xứ đã tranh chấp quyền sở hữu một mảnh đất ở làng Appattuvilai.
Ngày 5 tháng Năm, 2018, Đức Cha Varuvel ban hành sắc lệnh giải quyết tranh chấp giữa giáo xứ Thánh Antôn và giáo xứ Thánh Giuse. Một số giáo dân giáo xứ Thánh Antôn cho rằng sắc lệnh của Đức Cha Varuvel thiên vị giáo xứ Thánh Giuse, và từ chối chấp nhận sắc lệnh này. Họ muốn Đức Cha Varuvel rút lại sắc lệnh đã ký.
Cha chưởng ấn Raj cho biết quyết định của Đức Cha Varuvel không phải là quyết định của cá nhân ngài nhưng tuân theo các khuyến nghị của một ủy ban bao gồm các luật sư, những chuyên gia giáo dân và 14 người đại diện của hai giáo xứ, mỗi giáo xứ có 7 người đại diện.
Nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra kể từ khi sắc lệnh được ban hành, và Đức Cha Varuvel yêu cầu những người chống đối đưa ra các bằng chứng cụ thể để chứng minh cho lập luận của mình.
“Cho đến nay, họ đã không đưa ra được chứng cứ nào, nhưng họ muốn đảo ngược quyết định có lợi cho họ,” Cha Ponnaian nói.
“Đức Cha Varuvel cũng cho phép họ thách thức quyết định của ngài tại tòa án dân sự nhưng họ từ chối lời đề nghị của ngài,” Cha Ponnaian nói thêm.
Cha chưởng ấn Raj nói rằng giáo phận không muốn ai bị tù tội trong trường hợp này. Tuy nhiên, giáo phận muốn cảnh sát có hành động đối với hai người chủ chốt đã dàn dựng các vụ biểu tình và xúi giục mọi người tấn công Đức Cha Varuvel một cách tàn bạo.
Source:Catholic Herald
Nguyên chủ tịch National Civic Council Australia: ĐHY Pell thực sự bị bách hại vì niềm tin tôn giáo
Đặng Tự Do
17:22 14/03/2019
Ký giả Edward Petin của tờ National Catholic Register thuộc hệ thống truyền hình EWTN đã có một cuộc phỏng vấn với ông Peter Westmore, nguyên là chủ tịch National Civic Council Australia, là người có cơ hội tham dự cả hai phiên tòa xét xử Đức Hồng Y George Pell.
Edward Petin đã tường trình cuộc phỏng vấn này trong bài “Cardinal Pell Trial Observer Calls Guilty Verdict ‘Incomprehensible’” - “ Quan sát viên tham dự phiên tòa của Đức Hồng Y Pell gọi bản án kết tội là ‘không thể hiểu nổi’”.
Nguyên bản tiếng Anh ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ:
Peter Westmore, người có mặt tại phiên tòa đầu tiên vào tháng 9 năm ngoái và phiên tái thẩm sau đó vào tháng 11, nói với EWTN's News Nightly vào ngày 13 tháng Ba rằng sau khi đã nghe “tất cả các bằng chứng” ông đã tự hỏi “làm sao bồi thẩm đoàn lại có thể đi đến phán quyết này là việc vô cùng khó hiểu.”
“Nhiều người Úc khác cũng nói như vậy,” ông Westmore, cựu chủ tịch Hội đồng Dân sự Quốc gia tại Úc, một nhóm vận động hành lang Kitô giáo, cho biết như trên.
“Thật không thể tin được một phán quyết như thế đã được đưa ra. Do đó, tôi nghĩ rằng bản án này là tuyệt đối bất công vì Đức Hồng Y Pell không phạm vào tội ác mà người ta cáo buộc cho ngài.”
Vị Hồng Y người Úc 77 tuổi đã bị kết án vào hôm thứ Tư với một bản án lên đến sáu năm tù sau khi bị kết án vào tháng 12 về cái gọi là tội lạm dụng tình dục hai thiếu niên trong dàn hợp xướng vào năm 1996. Ngài chỉ có thể nộp đơn xin giảm án sau khi thụ án ít nhất ba năm và tám tháng.
Đức Hồng Y đã phản đối mạnh mẽ những cáo buộc và kiên quyết khẳng định sự vô tội của mình và sau khi bản án được tuyên ra đã ngay lập tức nộp đơn kháng cáo. Tòa sẽ xét đơn kháng cáo của ngài vào tháng Sáu.
Westmore lưu ý rằng bản án là “nhẹ nhàng” vì nếu tính chung tất cả 5 tội danh mà chánh án Peter Kidd tuyên phạt thì phải đến 50 năm tù. Điều này cho thấy trong thâm tâm của các viên chức tư pháp, người ta biết rõ ngài vô tội.
Thật vậy, Westmore lưu ý rằng lại tại cả hai phiên tòa, khoảng 25 nhân chứng đã xuất hiện trong tiến trình xét xử và, trừ ra người khiếu nại, không một người trong số họ đã ủng hộ bất cứ điểm nào trong cáo buộc chống lại Đức Hồng Y Pell.
Westmore đã phản đối nhận xét của Chánh án Peter Kidd khi tuyên án rằng Đức Hồng Y đã thể hiện “một sự kiêu ngạo đáng kinh ngạc” trước tòa. Ông nói: “Hành vi của Đức Hồng Y Pell không có gì sai trái. Nhưng chính cái bản án ấy là sai.” [Kết án bất công như thế mà còn bắt người ta phải cúi đầu tâm phục khẩu phục thì quả là quá đáng.]
Cựu chủ tịch Hội đồng Dân sự Quốc gia tại Úc cũng nhấn mạnh đến các tác động tiêu cực của việc đưa tin trên các phương tiện truyền thông đối với các phiên tòa tại Úc trong vài năm qua, là điều mà ông tin rằng “không thể tránh khỏi” trong bản án này.
“Đây là một phiên tòa được xét xử bởi các phương tiện truyền thông,” ông nói. “Chính ông chánh án Kidd cũng phải nhìn nhận có một cuộc săn phù thủy chống lại Đức Hồng Y Pell, là điều chắc chắn có ảnh hưởng đến sự cân nhắc của bồi thẩm đoàn, theo quan điểm của tôi.”
Bàn về phiên tòa kháng cáo của Đức Hồng Y, ông Westmore đã nêu ra những khác biệt với phiên tái thẩm và nói rằng các luật sư bào chữa phải chỉ ra những lỗi nghiêm trọng, bởi thẩm phán Peter Kidd hay của bồi thẩm đoàn. Nhóm luật sư bào chữa phải chỉ ra rằng “đây rõ ràng là một vụ hoài thai công lý. Tôi tin rằng hiển nhiên là như thế. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu những thẩm phán đó, những người sẽ quyết định vụ việc, có tin như thế hay không. Chúng ta sẽ phải chờ xem.”
Khi được hỏi về tình trạng của Đức Hồng Y Pell khi đứng trước bản án này, Westmore cho biết ngài “bàng hoàng”, và ông cảm nhận rõ ràng áp lực mà Đức Hồng Y phải chịu trước một bản án bất công như thế. Nhưng ông nói thêm rằng Đức Hồng Y đã chịu đựng sự vu cáo này “một cách dũng cảm và thanh thản.”
Khi được trò chuyện với Đức Hồng Y, ông Westmore đã ca ngợi Đức Hồng Y về sự điềm tĩnh của ngài, Đức Hồng Y nói ngài có thể làm được như vậy là nhờ các thông điệp hỗ trợ và những lời cầu nguyện của nhiều người.
Theo Tiến sĩ George Weigel, một người bạn thâm niên của Đức Hồng Y Pell, ngài đang bị giam giữ đơn độc, được cho mang theo một số sách báo đọc và được tiếp một vài khách thăm viếng trong một tuần, nhưng ngài bị cấm cử hành Thánh lễ trong phòng giam với lý do tù nhân không được phép chủ sự các nghi lễ tôn giáo trong các nhà tù ở bang Victoria và rượu vang không được phép đưa vào trong các phòng giam.
“Theo một nghĩa nào đó, ngài đang trải qua một hình thức tử đạo, phải vác thập giá vì đức tin của mình,” ông Peter Westmore nói.
Cựu chủ tịch Hội đồng Dân sự Quốc gia tại Úc tin rằng Đức Hồng Y đã bị đánh tàn bạo trên các phương tiện truyền thông vì ngài là một người ủng hộ thẳng thắn và mạnh mẽ cho các truyền thống chính thống trong Giáo Hội Công Giáo, và là người cổ suý cho một vai trò mạnh mẽ của các tín hữu Kitô như một lực lượng văn minh trong xã hội chúng ta.
Source:National Catholic Register Cardinal Pell Trial Observer Calls Guilty Verdict ‘Incomprehensible’
Edward Petin đã tường trình cuộc phỏng vấn này trong bài “Cardinal Pell Trial Observer Calls Guilty Verdict ‘Incomprehensible’” - “ Quan sát viên tham dự phiên tòa của Đức Hồng Y Pell gọi bản án kết tội là ‘không thể hiểu nổi’”.
Nguyên bản tiếng Anh ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ:
Peter Westmore, người có mặt tại phiên tòa đầu tiên vào tháng 9 năm ngoái và phiên tái thẩm sau đó vào tháng 11, nói với EWTN's News Nightly vào ngày 13 tháng Ba rằng sau khi đã nghe “tất cả các bằng chứng” ông đã tự hỏi “làm sao bồi thẩm đoàn lại có thể đi đến phán quyết này là việc vô cùng khó hiểu.”
“Nhiều người Úc khác cũng nói như vậy,” ông Westmore, cựu chủ tịch Hội đồng Dân sự Quốc gia tại Úc, một nhóm vận động hành lang Kitô giáo, cho biết như trên.
“Thật không thể tin được một phán quyết như thế đã được đưa ra. Do đó, tôi nghĩ rằng bản án này là tuyệt đối bất công vì Đức Hồng Y Pell không phạm vào tội ác mà người ta cáo buộc cho ngài.”
Vị Hồng Y người Úc 77 tuổi đã bị kết án vào hôm thứ Tư với một bản án lên đến sáu năm tù sau khi bị kết án vào tháng 12 về cái gọi là tội lạm dụng tình dục hai thiếu niên trong dàn hợp xướng vào năm 1996. Ngài chỉ có thể nộp đơn xin giảm án sau khi thụ án ít nhất ba năm và tám tháng.
Đức Hồng Y đã phản đối mạnh mẽ những cáo buộc và kiên quyết khẳng định sự vô tội của mình và sau khi bản án được tuyên ra đã ngay lập tức nộp đơn kháng cáo. Tòa sẽ xét đơn kháng cáo của ngài vào tháng Sáu.
Westmore lưu ý rằng bản án là “nhẹ nhàng” vì nếu tính chung tất cả 5 tội danh mà chánh án Peter Kidd tuyên phạt thì phải đến 50 năm tù. Điều này cho thấy trong thâm tâm của các viên chức tư pháp, người ta biết rõ ngài vô tội.
Thật vậy, Westmore lưu ý rằng lại tại cả hai phiên tòa, khoảng 25 nhân chứng đã xuất hiện trong tiến trình xét xử và, trừ ra người khiếu nại, không một người trong số họ đã ủng hộ bất cứ điểm nào trong cáo buộc chống lại Đức Hồng Y Pell.
Westmore đã phản đối nhận xét của Chánh án Peter Kidd khi tuyên án rằng Đức Hồng Y đã thể hiện “một sự kiêu ngạo đáng kinh ngạc” trước tòa. Ông nói: “Hành vi của Đức Hồng Y Pell không có gì sai trái. Nhưng chính cái bản án ấy là sai.” [Kết án bất công như thế mà còn bắt người ta phải cúi đầu tâm phục khẩu phục thì quả là quá đáng.]
Cựu chủ tịch Hội đồng Dân sự Quốc gia tại Úc cũng nhấn mạnh đến các tác động tiêu cực của việc đưa tin trên các phương tiện truyền thông đối với các phiên tòa tại Úc trong vài năm qua, là điều mà ông tin rằng “không thể tránh khỏi” trong bản án này.
“Đây là một phiên tòa được xét xử bởi các phương tiện truyền thông,” ông nói. “Chính ông chánh án Kidd cũng phải nhìn nhận có một cuộc săn phù thủy chống lại Đức Hồng Y Pell, là điều chắc chắn có ảnh hưởng đến sự cân nhắc của bồi thẩm đoàn, theo quan điểm của tôi.”
Bàn về phiên tòa kháng cáo của Đức Hồng Y, ông Westmore đã nêu ra những khác biệt với phiên tái thẩm và nói rằng các luật sư bào chữa phải chỉ ra những lỗi nghiêm trọng, bởi thẩm phán Peter Kidd hay của bồi thẩm đoàn. Nhóm luật sư bào chữa phải chỉ ra rằng “đây rõ ràng là một vụ hoài thai công lý. Tôi tin rằng hiển nhiên là như thế. Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu những thẩm phán đó, những người sẽ quyết định vụ việc, có tin như thế hay không. Chúng ta sẽ phải chờ xem.”
Khi được hỏi về tình trạng của Đức Hồng Y Pell khi đứng trước bản án này, Westmore cho biết ngài “bàng hoàng”, và ông cảm nhận rõ ràng áp lực mà Đức Hồng Y phải chịu trước một bản án bất công như thế. Nhưng ông nói thêm rằng Đức Hồng Y đã chịu đựng sự vu cáo này “một cách dũng cảm và thanh thản.”
Khi được trò chuyện với Đức Hồng Y, ông Westmore đã ca ngợi Đức Hồng Y về sự điềm tĩnh của ngài, Đức Hồng Y nói ngài có thể làm được như vậy là nhờ các thông điệp hỗ trợ và những lời cầu nguyện của nhiều người.
Theo Tiến sĩ George Weigel, một người bạn thâm niên của Đức Hồng Y Pell, ngài đang bị giam giữ đơn độc, được cho mang theo một số sách báo đọc và được tiếp một vài khách thăm viếng trong một tuần, nhưng ngài bị cấm cử hành Thánh lễ trong phòng giam với lý do tù nhân không được phép chủ sự các nghi lễ tôn giáo trong các nhà tù ở bang Victoria và rượu vang không được phép đưa vào trong các phòng giam.
“Theo một nghĩa nào đó, ngài đang trải qua một hình thức tử đạo, phải vác thập giá vì đức tin của mình,” ông Peter Westmore nói.
Cựu chủ tịch Hội đồng Dân sự Quốc gia tại Úc tin rằng Đức Hồng Y đã bị đánh tàn bạo trên các phương tiện truyền thông vì ngài là một người ủng hộ thẳng thắn và mạnh mẽ cho các truyền thống chính thống trong Giáo Hội Công Giáo, và là người cổ suý cho một vai trò mạnh mẽ của các tín hữu Kitô như một lực lượng văn minh trong xã hội chúng ta.
Source:National Catholic Register
Alaska – Cánh Đồng Truyền Giáo Bao La
Chủng sinh Antôn Võ Thanh Lãm/ Nguyễn Văn Vĩnh
17:46 14/03/2019
Alaska – Cánh Đồng Truyền Giáo Bao La
Tiểu bang Alaska, miền đất phía bắc của Hoa Kỳ, được mệnh danh “Biên Giới Cuối Cùng” (The Last Frontier) có diện tích gần 600,000 miles vuông (khoảng 970.000 km2), lớn gấp 2.5 lần tiểu bang Texas và khoảng 1/5 diện tích của 48 tiểu bang đất liền của Hoa Kỳ. Nằm giữa Canada và Nga, Alaska có 3 địa phận: Giáo phận Fairbanks, Tổng giáo phận Anchorage, và Giáo phận Juneau.
Xem Hình
Về diện tích đất đai, Fairbanks là địa phận rộng lớn nhất Hoa Kỳ với hơn 409.049 miles vuông (khoảng 660.000 km2) và chiếm khoảng 2/3 diện tích tiểu bang. Hiện có khoảng 13.500 người Công Giáo trong tổng số 167.500 người trong toàn giáo phận. Hơn một nữa dân số là người thổ dân Eskimos và Athabaskans. Trong lãnh thổ của Giáo phận Fairbanks còn có nhiều sắc tộc và tôn giáo khác nhau. Ở vùng này, nhiệt độ lạnh nhất vào mùa đông có khi thấp từ -60F đến -80F (khoảng từ -54C đến -70C) và hầu như tuyết bao phủ toàn diện tích nơi đây. Cả địa phận chỉ có khoảng 8 giáo xứ là có thể tự túc, số còn lại 38 giáo xứ - giáo điểm phải nhờ sự giúp đỡ của các địa phận khác và Bộ Truyền Giáo của Toà Thánh. Mặc dầu có tất cả 46 giáo xứ nhưng cả địa phận chỉ có 20 linh mục và Đức Giám Mục Chad Zielinski. Về phương tiện đi lại 75% phải sử dụng máy bay, thuyền hoặc xe máy trượt tuyết (snowmachines).
Sáng sớm Chúa Nhật I Mùa Chay, chúng tôi đến Alaska để có những trải nghiệm về cuộc sống hằng ngày và đời sống đức tin của người dân cũng như để cảm nghiệm về sứ vụ phục vụ Giáo hội của các linh mục nơi đây. Những ngày ở làng Galena là những khoảnh khắc trải nghiệm đặc biệt. Ở đây có một xứ đạo thánh John Berchmans đang được Cha Thịnh, OFM dòng Phanxicô phục vụ với khoảng 250 giáo dân trong tổng số 500 người đang sinh sống nơi đây. Cha Thịnh là linh mục Việt Nam đầu tiên phục vụ cho giáo phận Fairbanks và ngài cũng là người Việt Nam duy nhất ở làng Galena. Hiện nay cha đang coi sóc ba giáo xứ ở ba làng cách biệt nhau: từ làng Galena đến Koyukuk khoảng 80 km, từ Koyukuk đến Nulato khoảng 57 km. Từ làng này tới làng khác phải sử dụng máy bay hoặc thuyền (vào mùa hè) hoặc xe máy trượt tuyết vào mùa đông khi dòng sông Yukon đóng băng. Người dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề đánh cá hoặc săn bắt thú rừng hoặc làm áo, mũ, giày… bằng da và lông thú.
Về đời sống đức tin, Đức Giám Mục Chad nói: “đạo Công Giáo đến Alaska vào những năm 1800. Những tín hữu đầu tiên là những người nước Nga vì trước đây Alaska thuộc lãnh thổ của nước Nga trước khi Mỹ mua lại.” Mặc dù đạo Công Giáo đã đến vùng đất này từ thế kỷ 17 nhưng nay số linh mục, tu sĩ phục vụ ở đây rất thiếu. Chẳng hạn như vùng Interior Villages có tới tám giáo xứ nhưng chỉ có hai linh mục dòng Phanxico đang phục vụ. Cha Joseph Hemmer, OFM (91 tuổi, ngài đã phục vụ những vùng này hơn 30 năm) và Cha Phaolo Trần Văn Thịnh, OFM. Các tín hữu nơi đây họ không sống đức tin cách mãnh liệt và vì thiếu linh mục nên họ không có cơ hội để tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích cách thường xuyên. Các làng Galena, Kaltag, Koyukuk, Nulato và Ruby chỉ gặp linh mục mỗi tháng một lần. Các làng khác Tanana, Huslia và McGrath chỉ được gặp linh mục ba tháng một lần. Chính vì thiếu mục tử chăn dắt nên đời sống tâm linh của giáo dân bị xao nhãng.
Những khó khăn của việc mục vụ: vì điều kiện thời tiết thất thường, đường xá đi lại phức tạp và nguy hiểm nên việc đi dâng lễ tại các giáo xứ gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu nhân sự cho việc giáo dục đức tin. Thiếu cơ sở vật chất để phục vụ việc thờ phượng Thiên Chúa và xây dựng đời sống đức tin cho giáo dân như nhà thờ, nhà xứ, các phòng học giáo lý,…Đặc biệt là do ảnh hưởng của phong tục, tập quán của người bản địa nên công việc truyền giáo không được thuận lợi. Những người trẻ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tục hóa cho nên đời sống đức tin của họ ngày càng bị mai một.
Cha Thịnh mong muốn có nhiều thợ gặt lành nghề, có nhiệt huyết tới vùng đất này để góp phần vào sứ vụ truyền giáo, ngài nói: “Hiện tại vùng đất này lúa đã chín và chỉ cần thợ gặt, đã có ‘chín mươi chín con chiên’ và thiếu chủ chăn.” Do vậy giáo dân ở đây đang rất cần các linh mục và tu sĩ đến đây cũng cố và nuôi dưỡng đức tin cho họ. Lời mời gọi của Chúa Giê-su: “Hãy chèo ra chổ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4) hôm nay vẫn còn vang vọng và mời gọi những ai có tâm huyết cho sứ vụ xây dựng Nước Chúa và đem Tin mừng cho cách đồng truyền giáo tại giáo phận Fairbanks và tiểu bang Alaska.
(Một vài chia sẻ về kinh nghiệm mục vụ của Cha Phaolô Trần Văn Thịnh, OFM và đời sống của người dân tại Giáo xứ Thánh John Berchmans, Giáo phận Fairbanks, Alaska.)
Xem Video
https://www.youtube.com/watch?v=Ruwph_4YEbI
(Trang web của Giáo phận Fairbanks: http://dioceseoffairbanks.org/joomla/)
Chủng sinh Antôn Võ Thanh Lãm
Chủng sinh Phalô Nguyễn Văn Vinh
Tiểu bang Alaska, miền đất phía bắc của Hoa Kỳ, được mệnh danh “Biên Giới Cuối Cùng” (The Last Frontier) có diện tích gần 600,000 miles vuông (khoảng 970.000 km2), lớn gấp 2.5 lần tiểu bang Texas và khoảng 1/5 diện tích của 48 tiểu bang đất liền của Hoa Kỳ. Nằm giữa Canada và Nga, Alaska có 3 địa phận: Giáo phận Fairbanks, Tổng giáo phận Anchorage, và Giáo phận Juneau.
Xem Hình
Về diện tích đất đai, Fairbanks là địa phận rộng lớn nhất Hoa Kỳ với hơn 409.049 miles vuông (khoảng 660.000 km2) và chiếm khoảng 2/3 diện tích tiểu bang. Hiện có khoảng 13.500 người Công Giáo trong tổng số 167.500 người trong toàn giáo phận. Hơn một nữa dân số là người thổ dân Eskimos và Athabaskans. Trong lãnh thổ của Giáo phận Fairbanks còn có nhiều sắc tộc và tôn giáo khác nhau. Ở vùng này, nhiệt độ lạnh nhất vào mùa đông có khi thấp từ -60F đến -80F (khoảng từ -54C đến -70C) và hầu như tuyết bao phủ toàn diện tích nơi đây. Cả địa phận chỉ có khoảng 8 giáo xứ là có thể tự túc, số còn lại 38 giáo xứ - giáo điểm phải nhờ sự giúp đỡ của các địa phận khác và Bộ Truyền Giáo của Toà Thánh. Mặc dầu có tất cả 46 giáo xứ nhưng cả địa phận chỉ có 20 linh mục và Đức Giám Mục Chad Zielinski. Về phương tiện đi lại 75% phải sử dụng máy bay, thuyền hoặc xe máy trượt tuyết (snowmachines).
Về đời sống đức tin, Đức Giám Mục Chad nói: “đạo Công Giáo đến Alaska vào những năm 1800. Những tín hữu đầu tiên là những người nước Nga vì trước đây Alaska thuộc lãnh thổ của nước Nga trước khi Mỹ mua lại.” Mặc dù đạo Công Giáo đã đến vùng đất này từ thế kỷ 17 nhưng nay số linh mục, tu sĩ phục vụ ở đây rất thiếu. Chẳng hạn như vùng Interior Villages có tới tám giáo xứ nhưng chỉ có hai linh mục dòng Phanxico đang phục vụ. Cha Joseph Hemmer, OFM (91 tuổi, ngài đã phục vụ những vùng này hơn 30 năm) và Cha Phaolo Trần Văn Thịnh, OFM. Các tín hữu nơi đây họ không sống đức tin cách mãnh liệt và vì thiếu linh mục nên họ không có cơ hội để tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích cách thường xuyên. Các làng Galena, Kaltag, Koyukuk, Nulato và Ruby chỉ gặp linh mục mỗi tháng một lần. Các làng khác Tanana, Huslia và McGrath chỉ được gặp linh mục ba tháng một lần. Chính vì thiếu mục tử chăn dắt nên đời sống tâm linh của giáo dân bị xao nhãng.
Những khó khăn của việc mục vụ: vì điều kiện thời tiết thất thường, đường xá đi lại phức tạp và nguy hiểm nên việc đi dâng lễ tại các giáo xứ gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu nhân sự cho việc giáo dục đức tin. Thiếu cơ sở vật chất để phục vụ việc thờ phượng Thiên Chúa và xây dựng đời sống đức tin cho giáo dân như nhà thờ, nhà xứ, các phòng học giáo lý,…Đặc biệt là do ảnh hưởng của phong tục, tập quán của người bản địa nên công việc truyền giáo không được thuận lợi. Những người trẻ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tục hóa cho nên đời sống đức tin của họ ngày càng bị mai một.
Cha Thịnh mong muốn có nhiều thợ gặt lành nghề, có nhiệt huyết tới vùng đất này để góp phần vào sứ vụ truyền giáo, ngài nói: “Hiện tại vùng đất này lúa đã chín và chỉ cần thợ gặt, đã có ‘chín mươi chín con chiên’ và thiếu chủ chăn.” Do vậy giáo dân ở đây đang rất cần các linh mục và tu sĩ đến đây cũng cố và nuôi dưỡng đức tin cho họ. Lời mời gọi của Chúa Giê-su: “Hãy chèo ra chổ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4) hôm nay vẫn còn vang vọng và mời gọi những ai có tâm huyết cho sứ vụ xây dựng Nước Chúa và đem Tin mừng cho cách đồng truyền giáo tại giáo phận Fairbanks và tiểu bang Alaska.
(Một vài chia sẻ về kinh nghiệm mục vụ của Cha Phaolô Trần Văn Thịnh, OFM và đời sống của người dân tại Giáo xứ Thánh John Berchmans, Giáo phận Fairbanks, Alaska.)
Xem Video
https://www.youtube.com/watch?v=Ruwph_4YEbI
(Trang web của Giáo phận Fairbanks: http://dioceseoffairbanks.org/joomla/)
Chủng sinh Antôn Võ Thanh Lãm
Chủng sinh Phalô Nguyễn Văn Vinh
Tiến sĩ George Weigel: Bản án dành cho Đức Hồng Y Pell là một trò hề bôi bác công lý
Đặng Tự Do
18:58 14/03/2019
Tiến sĩ George Weigel, người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và hiện là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, nơi ông giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban William E. Simon về Các Nghiên cứu Công Giáo.
Trước một quyết định thể hiện rõ lòng thù hận đối với Đức Hồng Y George Pell, tòa án tại Melbourne đã quyết định truyền hình trực tiếp buổi đọc phán quyết kết tội Đức Hồng Y vào ngày thứ Tư 13 tháng Ba, như một hình thức lăng mạ công khai ngài. Tiến sĩ George Weigel đã có bài nhận định đăng trên tờ First Things với nhan đề: Our Dreyfus Case, mà chúng tôi đã dịch sang Việt Ngữ.
Sau biến cố này, Tiến sĩ George Weigel đã có thêm một bài nhận định khác đăng trên tờ First Things với nhan đề: “The Holy See and Cardinal Pell” – “Tòa Thánh và Đức Hồng Y Pell”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ.
The Holy See and Cardinal Pell - Tòa Thánh và Đức Hồng Y Pell.
George Weigel
Đức Hồng Y George Pell bị kết án vào tháng 12 năm 2018 về tội “lạm dụng tình dục trong quá khứ”, là một trò hề của tòa án, xảy ra được một phần nhờ vào bầu không khí bài Công Giáo cuồng loạn trong công luận tại quốc gia này – đó là một bầu khí hôi tanh đã có hệ quả hủy diệt khả năng Đức Hồng Y có được một phiên tòa công bằng. Làm thế nào ta có thể giải thích tại sao 12 bồi thẩm, sau khi đã được nghe các cáo buộc không bằng không chứng, và đã được thuyết trình về các phản biện đầy thuyết phục, không ai bác bỏ vào đâu được trước tòa, cho thấy tội ác không thể xảy ra, lại có thể đảo ngược hoàn toàn phán quyết tha bổng áp đảo 10-2 của bồi thẩm đoàn trong phiên tòa xét xử đầu tiên vào tháng Chín năm ngoái?
Đức Hồng Y Pell thừa biết, từ kinh nghiệm cá nhân đầy gian nan của ngài, rằng bầu không khí chống Công Giáo ở Úc đã trở nên mạnh mẽ như thế nào. Là thành viên của Hồng Y đoàn và là quan chức cấp cao của Vatican, Đức Hồng Y Pell có quyền công dân Vatican và có hộ chiếu ngoại giao của Vatican; ngài có thể ở lại Rôma, chính quyền Úc không thể chạm tới. Tuy nhiên, ngài đã quyết định tự nguyện trình diện trước hệ thống tư pháp hình sự của đất nước mình. Ngài biết mình vô tội; ngài quyết tâm bảo vệ danh dự của mình và của Giáo hội; và ngài tin vào sự chính trực của tòa án Úc. Và thế là ngài trở về quê hương.
Hoàn toàn hợp lý để nói rằng hệ thống tư pháp Úc đã kỳ thị một trong những người con nổi tiếng nhất của nước Úc, là người đã đặt niềm tin vào hệ thống tư pháp này. Cảnh sát đã thực hiện một cuộc săn lùng cố tìm cho ra một manh mối nào đó để kết án ngài, trước khi có bất cứ một ai đưa ra một cáo buộc nào chống lại Đức Hồng Y. (Ta cần phải thắc mắc, ai là kẻ khởi động chuyện này? Và tại sao?) Một phiên điều trần sơ bộ đã chuyển các cáo buộc này ra xét xử trong một phiên tòa, mặc dù thẩm phán phiên tòa nói rằng, nếu bà là một bồi thẩm, bà sẽ không bỏ phiếu kết tội trong hàng loạt những cáo buộc. Phiên tòa đầu tiên đã chứng minh Đức Hồng Y vô tội, và phiên tòa xét xử lại đã đưa ra một bản án phi lý không được hỗ trợ bởi bất cứ bằng chứng nào có thể được chứng thực hay cách nào đó có thể tin nổi. Lệnh bịt miệng truyền thông được áp đặt đối với cả hai phiên tòa, mặc dù được biện giải là nhằm làm giảm bầu không khí ồn ào xung quanh vụ án, nhưng thực tế chỉ nhằm tránh cho các viên chức tư pháp khởi tố vụ án này phải bảo vệ trước công luận các cáo buộc quái lạ và đầy tai tiếng của mình.
Thế là vào đầu tháng 3, Đức Hồng Y phải ngồi tù, trong một phòng biệt giam, chỉ được cho phép một vài khách thăm viếng trong một tuần, cũng như một nửa tá sách và tạp chí. Nhưng ngài không được phép cử hành Thánh lễ trong phòng giam của mình, với lý do kỳ lạ là các tù nhân không được phép chủ sự các nghi lễ tôn giáo trong các nhà tù ở bang Victoria và rượu vang không được phép đưa vào trong các phòng giam.
Trước tất cả những điều này, thật khó có thể hiểu nổi tại sao, một ngày sau khi bản án được tuyên bố công khai, phát ngôn viên báo chí lâm thời của Vatican, Alessandro Gisotti, đã nhắc lại câu thần chú đã trở thành thói quen trong những lời bình luận của Vatican về vụ án Đức Hồng Y Pell: “Tòa thánh”, Gisotti nói, “có sự tôn trọng tối đa đối với các cơ quan tư pháp của Úc.”
Tại sao lại nói điều này? Chính là hệ thống tư pháp Úc (và bầu khí đánh hội đồng ở Melbourne và các nơi khác) đang được xét xử ngày hôm nay tại tòa án công luận toàn cầu. Không cần phải nịnh hót vô cớ như vậy. Ông Gisotti có thể, và nên, nói rằng Tòa Thánh đang chờ đợi với sự quan tâm và quan ngại kết quả của tiến trình kháng cáo, và hy vọng rằng công lý sẽ được thực hiện. Chấm hết. Ngừng hẳn. Đừng nịnh hót. Trên hết, không nên có bất cứ gợi ý nào cho thấy Tòa Thánh tin rằng cảnh sát và cơ quan tư pháp Úc đã thực hiện công việc của họ một cách công bằng, vô tư và đáng được tôn trọng cho đến nay.
Ngay sau nhận xét của ông Gisotti, lại có thông báo rằng Bộ Giáo lý Đức tin đang bắt đầu tiến trình điều tra giáo luật riêng của mình về vụ án Đức Hồng Y Pell. Về lý thuyết, và ta hy vọng trong thực tế, cuộc điều tra Bộ Giáo Lý Đức Tin có thể hữu ích. Nếu được thực hiện một cách hợp lý, tiến trình ấy sẽ trả lại sự trong sạch cho Đức Hồng Y Pell trước các cáo buộc phi lý nhằm kết tội ngài, bởi vì không có bằng chứng nào cho thấy Đức Hồng Y có thể lạm dụng hai thiếu niên trong dàn hợp xướng, mà trái lại có hàng loạt các bằng chứng hoàn toàn đáng thuyết phục rằng cái gọi là tội ác ấy không thể xảy ra trong các trường hợp được cho là đã xảy ra. Vì vậy, công lý cần phải được đưa ra bởi Tòa Thánh, bất kể kết quả cuối cùng ở Úc.
Vì lợi ích của một người bạn cũ, nhưng cũng vì danh tiếng của nước Úc trên thế giới, tôi hy vọng rằng tiến trình kháng cáo, bắt đầu vào đầu tháng 6, sẽ minh oan cho Đức Hồng Y Pell, người đã đặt niềm tin của mình vào những người đồng hương và vào hệ thống tư pháp Úc. Tuy nhiên, hệ thống tư pháp Úc ngày nay nên được xem xét kỹ lưỡng nhất bởi những người có đầu óc công bằng. Tòa Thánh cần lưu ý về điều đó, và nên chống lại mọi cám dỗ để đưa ra một nhận định thiếu chín chắn và chắc chắn là quá sớm đối với “các cơ quan tư pháp của Úc”.
Source:First Things The Holy See and Cardinal Pell
Trước một quyết định thể hiện rõ lòng thù hận đối với Đức Hồng Y George Pell, tòa án tại Melbourne đã quyết định truyền hình trực tiếp buổi đọc phán quyết kết tội Đức Hồng Y vào ngày thứ Tư 13 tháng Ba, như một hình thức lăng mạ công khai ngài. Tiến sĩ George Weigel đã có bài nhận định đăng trên tờ First Things với nhan đề: Our Dreyfus Case, mà chúng tôi đã dịch sang Việt Ngữ.
Sau biến cố này, Tiến sĩ George Weigel đã có thêm một bài nhận định khác đăng trên tờ First Things với nhan đề: “The Holy See and Cardinal Pell” – “Tòa Thánh và Đức Hồng Y Pell”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem ở đây. Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ.
The Holy See and Cardinal Pell - Tòa Thánh và Đức Hồng Y Pell.
George Weigel
Đức Hồng Y George Pell bị kết án vào tháng 12 năm 2018 về tội “lạm dụng tình dục trong quá khứ”, là một trò hề của tòa án, xảy ra được một phần nhờ vào bầu không khí bài Công Giáo cuồng loạn trong công luận tại quốc gia này – đó là một bầu khí hôi tanh đã có hệ quả hủy diệt khả năng Đức Hồng Y có được một phiên tòa công bằng. Làm thế nào ta có thể giải thích tại sao 12 bồi thẩm, sau khi đã được nghe các cáo buộc không bằng không chứng, và đã được thuyết trình về các phản biện đầy thuyết phục, không ai bác bỏ vào đâu được trước tòa, cho thấy tội ác không thể xảy ra, lại có thể đảo ngược hoàn toàn phán quyết tha bổng áp đảo 10-2 của bồi thẩm đoàn trong phiên tòa xét xử đầu tiên vào tháng Chín năm ngoái?
Đức Hồng Y Pell thừa biết, từ kinh nghiệm cá nhân đầy gian nan của ngài, rằng bầu không khí chống Công Giáo ở Úc đã trở nên mạnh mẽ như thế nào. Là thành viên của Hồng Y đoàn và là quan chức cấp cao của Vatican, Đức Hồng Y Pell có quyền công dân Vatican và có hộ chiếu ngoại giao của Vatican; ngài có thể ở lại Rôma, chính quyền Úc không thể chạm tới. Tuy nhiên, ngài đã quyết định tự nguyện trình diện trước hệ thống tư pháp hình sự của đất nước mình. Ngài biết mình vô tội; ngài quyết tâm bảo vệ danh dự của mình và của Giáo hội; và ngài tin vào sự chính trực của tòa án Úc. Và thế là ngài trở về quê hương.
Hoàn toàn hợp lý để nói rằng hệ thống tư pháp Úc đã kỳ thị một trong những người con nổi tiếng nhất của nước Úc, là người đã đặt niềm tin vào hệ thống tư pháp này. Cảnh sát đã thực hiện một cuộc săn lùng cố tìm cho ra một manh mối nào đó để kết án ngài, trước khi có bất cứ một ai đưa ra một cáo buộc nào chống lại Đức Hồng Y. (Ta cần phải thắc mắc, ai là kẻ khởi động chuyện này? Và tại sao?) Một phiên điều trần sơ bộ đã chuyển các cáo buộc này ra xét xử trong một phiên tòa, mặc dù thẩm phán phiên tòa nói rằng, nếu bà là một bồi thẩm, bà sẽ không bỏ phiếu kết tội trong hàng loạt những cáo buộc. Phiên tòa đầu tiên đã chứng minh Đức Hồng Y vô tội, và phiên tòa xét xử lại đã đưa ra một bản án phi lý không được hỗ trợ bởi bất cứ bằng chứng nào có thể được chứng thực hay cách nào đó có thể tin nổi. Lệnh bịt miệng truyền thông được áp đặt đối với cả hai phiên tòa, mặc dù được biện giải là nhằm làm giảm bầu không khí ồn ào xung quanh vụ án, nhưng thực tế chỉ nhằm tránh cho các viên chức tư pháp khởi tố vụ án này phải bảo vệ trước công luận các cáo buộc quái lạ và đầy tai tiếng của mình.
Thế là vào đầu tháng 3, Đức Hồng Y phải ngồi tù, trong một phòng biệt giam, chỉ được cho phép một vài khách thăm viếng trong một tuần, cũng như một nửa tá sách và tạp chí. Nhưng ngài không được phép cử hành Thánh lễ trong phòng giam của mình, với lý do kỳ lạ là các tù nhân không được phép chủ sự các nghi lễ tôn giáo trong các nhà tù ở bang Victoria và rượu vang không được phép đưa vào trong các phòng giam.
Trước tất cả những điều này, thật khó có thể hiểu nổi tại sao, một ngày sau khi bản án được tuyên bố công khai, phát ngôn viên báo chí lâm thời của Vatican, Alessandro Gisotti, đã nhắc lại câu thần chú đã trở thành thói quen trong những lời bình luận của Vatican về vụ án Đức Hồng Y Pell: “Tòa thánh”, Gisotti nói, “có sự tôn trọng tối đa đối với các cơ quan tư pháp của Úc.”
Tại sao lại nói điều này? Chính là hệ thống tư pháp Úc (và bầu khí đánh hội đồng ở Melbourne và các nơi khác) đang được xét xử ngày hôm nay tại tòa án công luận toàn cầu. Không cần phải nịnh hót vô cớ như vậy. Ông Gisotti có thể, và nên, nói rằng Tòa Thánh đang chờ đợi với sự quan tâm và quan ngại kết quả của tiến trình kháng cáo, và hy vọng rằng công lý sẽ được thực hiện. Chấm hết. Ngừng hẳn. Đừng nịnh hót. Trên hết, không nên có bất cứ gợi ý nào cho thấy Tòa Thánh tin rằng cảnh sát và cơ quan tư pháp Úc đã thực hiện công việc của họ một cách công bằng, vô tư và đáng được tôn trọng cho đến nay.
Ngay sau nhận xét của ông Gisotti, lại có thông báo rằng Bộ Giáo lý Đức tin đang bắt đầu tiến trình điều tra giáo luật riêng của mình về vụ án Đức Hồng Y Pell. Về lý thuyết, và ta hy vọng trong thực tế, cuộc điều tra Bộ Giáo Lý Đức Tin có thể hữu ích. Nếu được thực hiện một cách hợp lý, tiến trình ấy sẽ trả lại sự trong sạch cho Đức Hồng Y Pell trước các cáo buộc phi lý nhằm kết tội ngài, bởi vì không có bằng chứng nào cho thấy Đức Hồng Y có thể lạm dụng hai thiếu niên trong dàn hợp xướng, mà trái lại có hàng loạt các bằng chứng hoàn toàn đáng thuyết phục rằng cái gọi là tội ác ấy không thể xảy ra trong các trường hợp được cho là đã xảy ra. Vì vậy, công lý cần phải được đưa ra bởi Tòa Thánh, bất kể kết quả cuối cùng ở Úc.
Vì lợi ích của một người bạn cũ, nhưng cũng vì danh tiếng của nước Úc trên thế giới, tôi hy vọng rằng tiến trình kháng cáo, bắt đầu vào đầu tháng 6, sẽ minh oan cho Đức Hồng Y Pell, người đã đặt niềm tin của mình vào những người đồng hương và vào hệ thống tư pháp Úc. Tuy nhiên, hệ thống tư pháp Úc ngày nay nên được xem xét kỹ lưỡng nhất bởi những người có đầu óc công bằng. Tòa Thánh cần lưu ý về điều đó, và nên chống lại mọi cám dỗ để đưa ra một nhận định thiếu chín chắn và chắc chắn là quá sớm đối với “các cơ quan tư pháp của Úc”.
Source:First Things
Đức Hồng Y Godfried Danneels, một nhà lãnh đạo Giáo Hội có khuynh hướng “cấp tiến” đã qua đời ở tuổi 85
Anthony Nguyễn
20:00 14/03/2019
Đức Hồng Y Godfried Danneels, người Bỉ, trong nhiều năm là một trong những nhân vật thống trị Công Giáo Âu Châu, đã qua đời ở tuổi 85.
Một tuyên bố trên trang web của Giáo hội Bỉ cho biết: “Đức Hồng Y Jozef De Kesel, tổng giám mục Mechelen-Brussels và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Bỉ, có một nhiệm vụ đau buồn là thông báo với các bạn rằng Đức Hồng Y Godfried Danneels, tổng giám mục của Mechelen đã qua đời sáng nay, thứ Năm ngày 14 tháng 3 năm 2019, tại quê nhà của ngài ở Mechelen.”
Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ lời chia buồn sâu sắc nhất của ngài, mô tả Đức Hồng Y Danneels là một mục tử nhiệt thành của Hội Thánh, là người đã hăng say tận tụy phục vụ Giáo hội.
Đức Hồng Y De Kesel, là vị đứng ra lo liệu lễ tang, và chủ tế trong thánh lễ an táng tại Nhà thờ St. Rombouts, Mechelen, cho biết Giáo Hội tại Bỉ rất biết ơn sự phục vụ của Đức Hồng Y Danneels.
Đức Hồng Y Danneels sinh ngày 4 tháng Sáu, năm 1933. Ngài được thụ phong linh mục ngày 17 tháng 8 năm 1957, và đã thăng tiến rất nhanh trong hàng giáo phẩm tại Bỉ. Ngài trở thành giám mục vào năm 1977 ở tuổi 44 và được vinh thăng Hồng Y sáu năm sau đó. Là vị giám mục Công Giáo cao cấp nhất ở Bỉ, Đức Hồng Y Danneels đã phải đáp ứng với tình trạng thế tục hóa nhanh chóng ở đất nước này. Ngài đặc biệt hoảng hốt trước sự gia tăng của trào lưu chết êm dịu, mà ngài gọi là “sự tăng trưởng ung thư” mặt ý thức hệ trong thời hậu Kitô giáo. Nhưng mặt khác, ngài lại tỏ ra cấp tiến và trở thành một gương mặt gây tranh cãi khi chấp thuận việc hợp pháp hóa các kết hiệp đồng tính, miễn là những kết hiệp này không được coi là hôn nhân.
Là một nhân vật nổi bật trong cuộc sống công cộng tại Bỉ, ngài được bầu là một trong 100 người Bỉ vĩ đại nhất mọi thời đại bởi những người xem chương trình truyền hình nói tiếng Pháp.
Tuy nhiên, hình ảnh của Đức Hồng Y Danneels bị bôi bẩn trong những năm cuối cùng của đời ngài bởi cuộc khủng hoảng lạm dụng. Trong một vụ gài bẫy tai hại, một người đến nói với ngài là anh ta đã từng bị lạm dụng tính dục bởi Đức Cha Roger Vangheluwe, là chú ruột của ngài. Đức Hồng Y đã khuyên người ấy nên im lặng chờ cho đến khi Đức Cha Roger Vangheluwe nghỉ hưu. Tất cả cuộc trò chuyện của Đức Hồng Y với người này bị bí mật thu âm và đưa cho các phương tiện truyền thông.
Tuy là chú nhưng Đức Cha Roger Vangheluwe trẻ hơn Đức Hồng Y Danneels ba tuổi. Trong thư từ chức gởi lên Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16, Đức Cha Roger Vangheluwe nhìn nhận tội lạm dụng tính dục một người cháu trai của mình, chứ không phải là tên gài bẫy Đức Hồng Y. Trong cuộc họp báo vào ngày 23 tháng Tư, 2010, Đức Tổng Giám Mục Andre Joseph Leonard đã cho biết như trên. Cuộc họp báo là nhằm làm sáng tỏ rằng Giáo Hội tại Bỉ minh bạch trước tai tiếng này, mặc dù Đức Cha Roger Vangheluwe không bị truy tố trước pháp luật..
Nhà thần học Roger Mettepenningen đã mô tả vị Hồng Y quá cố là “một tượng đài trong lịch sử Giáo Hội tại Bỉ”.
Như thế, tính đến này 14 tháng Ba, 2019, Hồng Y đoàn hiện nay có 222 vị, trong đó có 122 vị dưới 80 tuổi, nghĩa là có quyền bầu cử trong Cơ Mật Viện bầu Giáo Hoàng.
Source:Kerk Net Kardinaal Godfried Danneels overleden
Một tuyên bố trên trang web của Giáo hội Bỉ cho biết: “Đức Hồng Y Jozef De Kesel, tổng giám mục Mechelen-Brussels và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Bỉ, có một nhiệm vụ đau buồn là thông báo với các bạn rằng Đức Hồng Y Godfried Danneels, tổng giám mục của Mechelen đã qua đời sáng nay, thứ Năm ngày 14 tháng 3 năm 2019, tại quê nhà của ngài ở Mechelen.”
Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ lời chia buồn sâu sắc nhất của ngài, mô tả Đức Hồng Y Danneels là một mục tử nhiệt thành của Hội Thánh, là người đã hăng say tận tụy phục vụ Giáo hội.
Đức Hồng Y De Kesel, là vị đứng ra lo liệu lễ tang, và chủ tế trong thánh lễ an táng tại Nhà thờ St. Rombouts, Mechelen, cho biết Giáo Hội tại Bỉ rất biết ơn sự phục vụ của Đức Hồng Y Danneels.
Đức Hồng Y Danneels sinh ngày 4 tháng Sáu, năm 1933. Ngài được thụ phong linh mục ngày 17 tháng 8 năm 1957, và đã thăng tiến rất nhanh trong hàng giáo phẩm tại Bỉ. Ngài trở thành giám mục vào năm 1977 ở tuổi 44 và được vinh thăng Hồng Y sáu năm sau đó. Là vị giám mục Công Giáo cao cấp nhất ở Bỉ, Đức Hồng Y Danneels đã phải đáp ứng với tình trạng thế tục hóa nhanh chóng ở đất nước này. Ngài đặc biệt hoảng hốt trước sự gia tăng của trào lưu chết êm dịu, mà ngài gọi là “sự tăng trưởng ung thư” mặt ý thức hệ trong thời hậu Kitô giáo. Nhưng mặt khác, ngài lại tỏ ra cấp tiến và trở thành một gương mặt gây tranh cãi khi chấp thuận việc hợp pháp hóa các kết hiệp đồng tính, miễn là những kết hiệp này không được coi là hôn nhân.
Là một nhân vật nổi bật trong cuộc sống công cộng tại Bỉ, ngài được bầu là một trong 100 người Bỉ vĩ đại nhất mọi thời đại bởi những người xem chương trình truyền hình nói tiếng Pháp.
Tuy nhiên, hình ảnh của Đức Hồng Y Danneels bị bôi bẩn trong những năm cuối cùng của đời ngài bởi cuộc khủng hoảng lạm dụng. Trong một vụ gài bẫy tai hại, một người đến nói với ngài là anh ta đã từng bị lạm dụng tính dục bởi Đức Cha Roger Vangheluwe, là chú ruột của ngài. Đức Hồng Y đã khuyên người ấy nên im lặng chờ cho đến khi Đức Cha Roger Vangheluwe nghỉ hưu. Tất cả cuộc trò chuyện của Đức Hồng Y với người này bị bí mật thu âm và đưa cho các phương tiện truyền thông.
Tuy là chú nhưng Đức Cha Roger Vangheluwe trẻ hơn Đức Hồng Y Danneels ba tuổi. Trong thư từ chức gởi lên Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16, Đức Cha Roger Vangheluwe nhìn nhận tội lạm dụng tính dục một người cháu trai của mình, chứ không phải là tên gài bẫy Đức Hồng Y. Trong cuộc họp báo vào ngày 23 tháng Tư, 2010, Đức Tổng Giám Mục Andre Joseph Leonard đã cho biết như trên. Cuộc họp báo là nhằm làm sáng tỏ rằng Giáo Hội tại Bỉ minh bạch trước tai tiếng này, mặc dù Đức Cha Roger Vangheluwe không bị truy tố trước pháp luật..
Nhà thần học Roger Mettepenningen đã mô tả vị Hồng Y quá cố là “một tượng đài trong lịch sử Giáo Hội tại Bỉ”.
Như thế, tính đến này 14 tháng Ba, 2019, Hồng Y đoàn hiện nay có 222 vị, trong đó có 122 vị dưới 80 tuổi, nghĩa là có quyền bầu cử trong Cơ Mật Viện bầu Giáo Hoàng.
Source:Kerk Net
Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn kiên nhẫn lặp lại lời mời Đức Thánh Cha thăm đảo quốc này
Anthony Nguyễn
22:14 14/03/2019
Trong điện văn chúc mừng 6 năm triều Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô, Nữ Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn (Tsai Ing-wen, 蔡英文) đã kiên nhẫn lặp lại lời mời Đức Thánh Cha thăm đảo quốc này.
Đây là lần thứ ba, Nữ Tổng thống đưa ra lời mời này. Tháng 9 năm 2017, Tổng thống Thái Anh Văn đã chính thức mời Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm đất nước cô qua Đức Hồng Y Peter Turkson, lúc đó đang có mặt tại Đài Loan để tham dự Đại hội Quốc tế về mục vụ cho các nhân viên hàng hải và những người du hành bằng đường biển.
Lần thứ hai, Nữ Tổng thống đưa ra lời mời Đức Thánh Cha là vào đúng dịp này, nhân kỷ niệm năm thứ 5 Đức Thánh Cha được bầu vào ngôi Giáo Hoàng.
Tính chung, đến nay chính phủ Đài Loan đã lặp lại lời mời Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm đất nước này đến 4 lần. Lần sau cùng là theo sau việc Vatican ký một thỏa thuận tạm thời với bọn cầm quyền Bắc Kinh về việc bổ nhiệm Giám Mục vào tháng 9 năm ngoái, 2018.
Phó tổng thống Trần Kiến Nhân (Chen Chien-jen - 陳建仁) đã đưa ra lời mời Đức Thánh Cha trong một buổi triều yết Đức Giáo Hoàng dành cho ông trước lễ tuyên thánh cho Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và 6 vị Chân Phước khác hôm Chúa Nhật 14 tháng 10.
Trong cuộc gặp gỡ với các phóng viên báo chí sau lễ Tuyên Thánh, phó tổng thống Trần Kiến Nhân cho biết Đức Giáo Hoàng nói với ông rằng “ngài sẽ cầu nguyện cho Đài Loan” và yêu cầu vị phó tổng thống chuyển lời chào thăm của ngài đến Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn.
Được hỏi về triển vọng Đức Giáo Hoàng đến thăm đảo quốc này, phó tổng thống Trần Kiến Nhân nói rằng Đức Giáo Hoàng đã mỉm cười trước lời mời đến thăm Đài Loan. Phó tổng thống Trần Kiến Nhân là một người Công Giáo và đã từng viếng thăm Vatican nhiều lần. Lần cuối là vào dịp tuyên thánh Mẹ Têrêsa thành Calcutta vào năm 2016.
Đáp lại những tin tức này tổng thống Thái Anh Văn viết trên Facebook của mình “Tôi muốn cảm ơn Đức Giáo Hoàng vì những lời chào và phước lành của Ngài”.
“Chúng tôi sẽ sử dụng các hành động tích cực và cụ thể để tiếp tục hỗ trợ Đức Giáo Hoàng và Vatican trong việc truyền bá các giá trị chung của tự do, công lý, hòa bình và sự chăm sóc cho mọi chân trời góc bể trên thế giới này”, cô nói.
Tuy nhiên, một gáo nước lạnh đã được tạt vào thiện chí của chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Thật vậy, ngày 18 tháng 10, năm ngoái 2018, ông Greg Burke, lúc ấy là giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, đưa ra một tuyên bố toàn văn như sau:
Nhiều phái đoàn khác nhau đã tham dự Lễ Tuyên Thánh của Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và sáu vị Chân Phước khác, bao gồm cả một đoàn từ Đài Loan, do Phó Tổng thống Trần Kiến Nhân dẫn đầu.
Trước Thánh lễ, các trưởng phái đoàn đã chào thăm xã giao ngắn gọn với Đức Thánh Cha Phanxicô, theo như thông lệ trong những dịp như vậy.
Trong bối cảnh này, hoàn toàn thuần túy tôn giáo, Phó Tổng thống Trần Kiến Nhân đã nhắc lại lời mời Đức Giáo Hoàng đến thăm Đài Loan.
Về vấn đề này, tôi có thể nói rằng một chuyến viếng thăm như vậy của Đức Thánh Cha hiện nay chưa được hoạch định.
Source:Holy See Press Office Declaration of the Director of the Holy See Press Office, Greg Burke, 18.10.2018
Đây là lần thứ ba, Nữ Tổng thống đưa ra lời mời này. Tháng 9 năm 2017, Tổng thống Thái Anh Văn đã chính thức mời Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm đất nước cô qua Đức Hồng Y Peter Turkson, lúc đó đang có mặt tại Đài Loan để tham dự Đại hội Quốc tế về mục vụ cho các nhân viên hàng hải và những người du hành bằng đường biển.
Lần thứ hai, Nữ Tổng thống đưa ra lời mời Đức Thánh Cha là vào đúng dịp này, nhân kỷ niệm năm thứ 5 Đức Thánh Cha được bầu vào ngôi Giáo Hoàng.
Tính chung, đến nay chính phủ Đài Loan đã lặp lại lời mời Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm đất nước này đến 4 lần. Lần sau cùng là theo sau việc Vatican ký một thỏa thuận tạm thời với bọn cầm quyền Bắc Kinh về việc bổ nhiệm Giám Mục vào tháng 9 năm ngoái, 2018.
Phó tổng thống Trần Kiến Nhân (Chen Chien-jen - 陳建仁) đã đưa ra lời mời Đức Thánh Cha trong một buổi triều yết Đức Giáo Hoàng dành cho ông trước lễ tuyên thánh cho Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và 6 vị Chân Phước khác hôm Chúa Nhật 14 tháng 10.
Trong cuộc gặp gỡ với các phóng viên báo chí sau lễ Tuyên Thánh, phó tổng thống Trần Kiến Nhân cho biết Đức Giáo Hoàng nói với ông rằng “ngài sẽ cầu nguyện cho Đài Loan” và yêu cầu vị phó tổng thống chuyển lời chào thăm của ngài đến Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn.
Được hỏi về triển vọng Đức Giáo Hoàng đến thăm đảo quốc này, phó tổng thống Trần Kiến Nhân nói rằng Đức Giáo Hoàng đã mỉm cười trước lời mời đến thăm Đài Loan. Phó tổng thống Trần Kiến Nhân là một người Công Giáo và đã từng viếng thăm Vatican nhiều lần. Lần cuối là vào dịp tuyên thánh Mẹ Têrêsa thành Calcutta vào năm 2016.
Đáp lại những tin tức này tổng thống Thái Anh Văn viết trên Facebook của mình “Tôi muốn cảm ơn Đức Giáo Hoàng vì những lời chào và phước lành của Ngài”.
“Chúng tôi sẽ sử dụng các hành động tích cực và cụ thể để tiếp tục hỗ trợ Đức Giáo Hoàng và Vatican trong việc truyền bá các giá trị chung của tự do, công lý, hòa bình và sự chăm sóc cho mọi chân trời góc bể trên thế giới này”, cô nói.
Tuy nhiên, một gáo nước lạnh đã được tạt vào thiện chí của chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Thật vậy, ngày 18 tháng 10, năm ngoái 2018, ông Greg Burke, lúc ấy là giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, đưa ra một tuyên bố toàn văn như sau:
Nhiều phái đoàn khác nhau đã tham dự Lễ Tuyên Thánh của Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục và sáu vị Chân Phước khác, bao gồm cả một đoàn từ Đài Loan, do Phó Tổng thống Trần Kiến Nhân dẫn đầu.
Trước Thánh lễ, các trưởng phái đoàn đã chào thăm xã giao ngắn gọn với Đức Thánh Cha Phanxicô, theo như thông lệ trong những dịp như vậy.
Trong bối cảnh này, hoàn toàn thuần túy tôn giáo, Phó Tổng thống Trần Kiến Nhân đã nhắc lại lời mời Đức Giáo Hoàng đến thăm Đài Loan.
Về vấn đề này, tôi có thể nói rằng một chuyến viếng thăm như vậy của Đức Thánh Cha hiện nay chưa được hoạch định.
Source:Holy See Press Office
Sáng kiến 24 giờ cho Chúa năm nay được tổ chức vào ngày 29/3/2019 với chủ đề “Tôi cũng không lên án chị đâu”
Đặng Tự Do
22:51 14/03/2019
Trong thông báo đưa ra hôm 8 tháng Ba, Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng cho biết như sau:
Vào ngày Thứ Sáu, 29 tháng Ba năm 2019, lúc 17:00, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự Phụng Vụ Thống Hối khai mạc truyền thống 24 giờ cho Chúa, là một sáng kiến của Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng diễn ra hàng năm vào Thứ Sáu và Thứ Bảy trước Chúa Nhật thứ Tư Mùa Chay.
Năm nay là năm thứ sáu, và chủ đề cho chương trình 24 giờ cho Chúa năm nay được trích từ Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Tôi cũng không lên án chị đâu”. (Ga 8:11). Cử hành này sẽ được đánh dấu bởi việc Chầu Thánh Thể, suy tư cá nhân và lời mời hoán cải cá nhân. Chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng hình ảnh của Chúa Giêsu, không giống như đám đông tập hợp để phán xét và lên án người phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài đưa ra lòng thương xót vô hạn như một cơ hội cho ân sủng và cuộc sống mới.
Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng): “Bí tích Hòa giải cần được tái khám phá và được đặt ở vị trí trung tâm trong đời sống Kitô hữu. Một dịp thuận lợi cho việc này có thể là sáng kiến 24 giờ cho Chúa, một cử hành được tổ chức vào gần Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay. Sáng kiến này, đã có tại nhiều giáo phận, có giá trị mục vụ rất lớn trong việc khuyến khích một kinh nghiệm nhiệt thành hơn về Bí tích Hòa giải.”
Sáng kiến 24 giờ cho Chúa mời gọi cả thế giới đắm mình trong lòng thương xót vô biên của Chúa. Phụng Vụ Thống Hối cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Đền Thờ Thánh Phêrô sẽ bắt đầu sáng kiến tuyệt vời này. Từ khi bắt đầu ở Rôma, sáng kiến này giờ đây đã là một phần thiết yếu trong Mùa Chay tại các giáo phận trên khắp thế giới với mong muốn kết hợp thiêng liêng với Đức Thánh Cha nhằm đưa ra tất cả khả năng cho một kinh nghiệm cá vị về lòng thương xót Chúa.
Trên trang web của Hội đồng Giáo hoàng này, có một cuốn sách nhỏ hướng dẫn việc cử hành sáng kiến 24 giờ cho Chúa bằng các ngôn ngữ sau: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Ba Lan.
Tương tự, các Giáo phận, Giáo xứ, Cộng đồng Tôn giáo, Đền thờ, Phong trào, Hiệp hội Giáo dân và các nhóm quảng bá Truyền giáo thể sử dụng mẫu đơn chuyên dụng trên trang web để báo cáo các sáng kiến của chính họ trong bối cảnh 24 giờ cho Chúa.
Những ai muốn tham gia Phụng Vụ Thống Hối tại Đền Thờ Thánh Phêrô do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự vào ngày Thứ Sáu, 29 tháng 3 năm 2019, lúc 17:00, có thể lấy vé tham dự miễn phí từ Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng bằng cách điền vào mẫu trên trang web chính thức: www.pcpne.va
Source:Catholic Herald 24 hours for the Lord
Vào ngày Thứ Sáu, 29 tháng Ba năm 2019, lúc 17:00, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ chủ sự Phụng Vụ Thống Hối khai mạc truyền thống 24 giờ cho Chúa, là một sáng kiến của Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng diễn ra hàng năm vào Thứ Sáu và Thứ Bảy trước Chúa Nhật thứ Tư Mùa Chay.
Năm nay là năm thứ sáu, và chủ đề cho chương trình 24 giờ cho Chúa năm nay được trích từ Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Tôi cũng không lên án chị đâu”. (Ga 8:11). Cử hành này sẽ được đánh dấu bởi việc Chầu Thánh Thể, suy tư cá nhân và lời mời hoán cải cá nhân. Chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng hình ảnh của Chúa Giêsu, không giống như đám đông tập hợp để phán xét và lên án người phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài đưa ra lòng thương xót vô hạn như một cơ hội cho ân sủng và cuộc sống mới.
Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong Tông Thư Misericordia et Misera (Lòng Thương Xót và Nỗi Khốn Cùng): “Bí tích Hòa giải cần được tái khám phá và được đặt ở vị trí trung tâm trong đời sống Kitô hữu. Một dịp thuận lợi cho việc này có thể là sáng kiến 24 giờ cho Chúa, một cử hành được tổ chức vào gần Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay. Sáng kiến này, đã có tại nhiều giáo phận, có giá trị mục vụ rất lớn trong việc khuyến khích một kinh nghiệm nhiệt thành hơn về Bí tích Hòa giải.”
Sáng kiến 24 giờ cho Chúa mời gọi cả thế giới đắm mình trong lòng thương xót vô biên của Chúa. Phụng Vụ Thống Hối cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô tại Đền Thờ Thánh Phêrô sẽ bắt đầu sáng kiến tuyệt vời này. Từ khi bắt đầu ở Rôma, sáng kiến này giờ đây đã là một phần thiết yếu trong Mùa Chay tại các giáo phận trên khắp thế giới với mong muốn kết hợp thiêng liêng với Đức Thánh Cha nhằm đưa ra tất cả khả năng cho một kinh nghiệm cá vị về lòng thương xót Chúa.
Trên trang web của Hội đồng Giáo hoàng này, có một cuốn sách nhỏ hướng dẫn việc cử hành sáng kiến 24 giờ cho Chúa bằng các ngôn ngữ sau: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Ba Lan.
Tương tự, các Giáo phận, Giáo xứ, Cộng đồng Tôn giáo, Đền thờ, Phong trào, Hiệp hội Giáo dân và các nhóm quảng bá Truyền giáo thể sử dụng mẫu đơn chuyên dụng trên trang web để báo cáo các sáng kiến của chính họ trong bối cảnh 24 giờ cho Chúa.
Những ai muốn tham gia Phụng Vụ Thống Hối tại Đền Thờ Thánh Phêrô do Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự vào ngày Thứ Sáu, 29 tháng 3 năm 2019, lúc 17:00, có thể lấy vé tham dự miễn phí từ Hội Đồng Tòa Thánh Tái Truyền Giảng Tin Mừng bằng cách điền vào mẫu trên trang web chính thức: www.pcpne.va
Source:Catholic Herald
Đức Hồng Y Raymond Leo Burke khánh thành trang Web cá nhân của ngài
Đặng Tự Do
23:39 14/03/2019
Đức Hồng Y Raymond Leo Burke, một trong 4 vị Hồng Y đã ký vào dubia (những điểm hồ nghi cần làm rõ), cho biết ngài thấy một nhu cầu khẩn thiết phải có một trang web riêng của mình để bảo vệ giáo lý truyền thống. Vì thế, ngài đã thành lập một trang web tại địa chỉ: https://cardinalburke.com/
Trong lời nói đầu, Đức Hồng Y viết:
“Chào mừng anh chị em đến với trang web cá nhân của tôi. Tôi rất vui được giao tiếp với anh chị em. Tôi hy vọng rằng chuyến viếng thăm của anh chị em sẽ là một nguồn động viên cho anh chị em. Về phần tôi, trang web này là một phương tiện để thực hiện đầy đủ hơn nhiệm vụ của tôi với tư cách là một Giám mục và là một Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo Rôma, đặc biệt trong việc giảng dạy giáo lý và kỷ luật của Giáo hội. Cách riêng, tôi hy vọng rằng chuyến thăm của anh chị em sẽ truyền cảm hứng cho anh chị em để cầu nguyện cho tôi. Xin vui lòng cho tôi biết những ý định đặc biệt mà anh chị em muốn tôi nhớ đến trong lời cầu nguyện. Cầu xin Chúa ban phép lành cho anh chị em và gia đình.”
Sinh năm 1948 tại Richland Center, Wisconsin, thầy Raymond Leo Burke đã theo học tại các chủng viện La Crosse, Wisconsin, Washington DC và Rôma, nơi ngài được Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục phong chức linh mục vào năm 1975. Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Giám mục vào năm 1995. Ngài đã phục vụ gần chín năm với tư cách là Giám mục của La Crosse, nơi ngài đã thành lập Đền thờ Đức Mẹ Guadalupe, và hơn bốn năm làm Tổng Giám mục St. Louis.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nâng lên hàng Hồng Y vào năm 2010. Đức Hồng Y Burke đã viết và thuyết trình rộng rãi về giáo luật Công Giáo, Bí tích Thánh Thể, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, lòng sùng kính Đức Mẹ Guadalupe và sự thánh thiêng của mạng sống con người. Ngài từng là Chánh Toà Ân Giải Tối Cao từ năm 2008 đến năm 2014.
Source:Cardinal Raymond Burke Cardinal Raymond Burke Web site
Trong lời nói đầu, Đức Hồng Y viết:
“Chào mừng anh chị em đến với trang web cá nhân của tôi. Tôi rất vui được giao tiếp với anh chị em. Tôi hy vọng rằng chuyến viếng thăm của anh chị em sẽ là một nguồn động viên cho anh chị em. Về phần tôi, trang web này là một phương tiện để thực hiện đầy đủ hơn nhiệm vụ của tôi với tư cách là một Giám mục và là một Hồng Y trong Giáo Hội Công Giáo Rôma, đặc biệt trong việc giảng dạy giáo lý và kỷ luật của Giáo hội. Cách riêng, tôi hy vọng rằng chuyến thăm của anh chị em sẽ truyền cảm hứng cho anh chị em để cầu nguyện cho tôi. Xin vui lòng cho tôi biết những ý định đặc biệt mà anh chị em muốn tôi nhớ đến trong lời cầu nguyện. Cầu xin Chúa ban phép lành cho anh chị em và gia đình.”
Sinh năm 1948 tại Richland Center, Wisconsin, thầy Raymond Leo Burke đã theo học tại các chủng viện La Crosse, Wisconsin, Washington DC và Rôma, nơi ngài được Thánh Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục phong chức linh mục vào năm 1975. Ngài được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Giám mục vào năm 1995. Ngài đã phục vụ gần chín năm với tư cách là Giám mục của La Crosse, nơi ngài đã thành lập Đền thờ Đức Mẹ Guadalupe, và hơn bốn năm làm Tổng Giám mục St. Louis.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI nâng lên hàng Hồng Y vào năm 2010. Đức Hồng Y Burke đã viết và thuyết trình rộng rãi về giáo luật Công Giáo, Bí tích Thánh Thể, lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, lòng sùng kính Đức Mẹ Guadalupe và sự thánh thiêng của mạng sống con người. Ngài từng là Chánh Toà Ân Giải Tối Cao từ năm 2008 đến năm 2014.
Source:Cardinal Raymond Burke
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh Lễ giỗ Cha Fx. Trương Bửu Diệp lần thứ 73 tại Nam Úc
Jos. Vĩnh SA
14:02 14/03/2019
LỄ GIỖ NĂM THỨ 73 CHA FX TRƯƠNG BỬU DIỆP TẠI NAM ÚC
Hôm nay thật sự là một ngày hội lớn đối với tất cả những ai yêu mến Cha Diệp tại Nam Úc, ngày giỗ Cha Trương Bửu Diệp. Năm nay Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp Nam Úc đã tổ chức lễ giỗ Cha đúng vào ngày 12/3, ngày mà 73 năm trước Cha Diệp đã bị thảm sát, ngài đã chết thay cho đoàn chiên của mình. Thánh lễ đồng tế được tổ chức trọng thể vào lúc 6 giờ 30 chiều, thứ Ba 12/3/2019 tại thánh đường Thánh Maximilian Kolbe, Ottoway, Nam Úc.
Từ xa, đoàn người tấp nập quy tụ về nhà thờ giáo xứ Ottoway nam Úc đã nhìn thấy tấm biểu ngữ dài màu xanh dương đậm với dòng chữ trắng nổi bật "Lễ Giỗ Cha FX Trương Bửu Diệp lần 73" được treo trước cổng nhà thờ như mời gọi, chào mừng mọi người đến tham dự thánh lễ.
Thật không ngờ, dòng người đông đảo các tín hữu và những người ái mộ cha Diệp đến từ nhiều vùng khác nhau trong số đó có cả những người thuộc các sắc tộc bạn và những người không cùng tôn giáo đã lần lượt quy tụ về ngôi thánh đường này để cùng tham dự thánh lễ giỗ tối nay. Hơn 500 người đã vào ngồi kín các hàng ghế trong nhà thờ, kể cả phần trên lầu, một số người phải đứng phía sau và ngoài nhà thờ. Thật là một hình ảnh cảm động gợi nhớ đến hình ảnh từng chục ngàn người nối đuôi nhau cũng trong thời điểm này hướng về Tắc Sậy vào ngày giỗ cha tại quê nhà nơi có phần mộ của cha Diệp và cũng chính nơi đây Cha Diệp đã gắn bó gần như trọn đời mục tử cho đến lúc hy sinh chết thay cho đoàn chiên của mình.
XEM VIDEO LỄ GIỖ
VIDEO PHỎNG VẤN CHA TUYÊN CỰU CÁO THỈNH VIÊN
Sau phần giới thiệu ngắn gọn về ý lễ Giỗ nhắc nhở cộng đoàn tưởng nhớ đến Cha Diệp và hiệp ý tạ ơn, cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh Cha Diệp đang được tiến triển thuận lợi tại Roma là bài ca nhập lễ vang vọng sen kẽ với tiếng chiêng trống điểm liên hồi qua nghi thức rước tượng cha Diệp từ phía cuối thánh đường, cùng với đoàn đồng tế tiến lên gian cung thánh.
Khi tượng cha Diệp đã được an vuị trên bàn thờ cạnh gian cung thánh với hoa nến đèn mọi người sốt sáng cùng với quý cha hiệp dâng thánh lễ.Mở đầu là phần chào mừng cộng đoàn và giới thiệu quý cha đồng tế do cha Phaolô Nguyễn Công Trứ đến từ Melbourne chủ tế gồm: Cha Phêrô Trần Thế Tuyên cựu cáo thỉnh viên đến từ đến từ Hoa Kỳ, Cha Phêrô Trần Trọng Mỹ, nhà thờ chánh tòa Tổng Giáo Phận Adelaide và Cha Marek P’Tak chánh xư, giáo xứ Ottoway. Thánh lễ được diễn ra với đông đảo quý tín hữu tham dự khiến cho ngày lễ giỗ cha năm nay trở nên sinh động và sốt sáng.Sau bài tin mừng theo thánh Matthêu, là phần chia sẻ của Cha Phêrô Trần Thế Tuyên, nguyên cáo thỉnh viên án tuyên thánh Cha Diệp giai đoạn giáo phận và cũng là người thọ ơn Cha Diệp. Cảm nghĩ đầu tiên của Cha là ngạc nhiên trước sự tham dự đông đảo của cộng đoàn, vì hôm nay là ngày thứ ba trong tuần chứ không phải là ngày cuối tuần. Điều đó chứng tỏ lòng mộ mến và tin tưởng cha Diệp của người Công Giáo cũng như lương dân tại Nam Úc ngày càng trở nên đông đảo và hiệu qủa hơn. Trong phần chia sẻ Lời Chúa, Cha Tuyên đã nói về đức hạnh nổi bật của Cha Trương Bửu Diệp, đó là lòng nhân ái, yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Cha Phêrô đã nhắc lại đức hạnh của Thánh Tử Đạo Maximilian Kolbe, người Ba Lan, đã xin chết thay cho một người tù. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào nhà tù thăm hỏi người tù đã bắn mình và còn xin tha tội cho anh ta. Tất cả đều họa lại tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đã chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Trong phần chia sẻ về tiến trình tuyên thánh Cha Diệp giai đoạn II tại Rôma đã có nhiều tiến triển đáng khích lệ, khi ủy ban tuyên thánh công bố các cuộc điều tra và hồ sơ cấp giáo phận gởi về tòa thánh có giá trị đầy đủ để làm cơ sở cho những bước tiếp theo.
Thánh lễ được tiếp nối với những lời nguyện giáo dân cầu cho các mục tử trong Hội Thánh biết nhiệt thành phục vụ tha nhân, cầu cho những người đang đau khổ thất vọng được bình an và cũng cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh Cha Diệp được thuận lợi nhân dịp lễ giỗ lần thứ 73 cúa Cha.
Trước khi thánh lễ kết thúc, ông Nguyễn Ngọc Cường, hội trưởng Hội AMCTBD Nam Úc đã có đôi lời cảm ơn bằng cả 2 ngôn ngữ Việt Anh đến quý Cha đồng tế, quý cộng đoàn đã hiệp thông cầu nguyện nhân lễ giỗ thứ 73 Cha Diệp.
Nhân dịp này ông hội trưởng cũng đã thay mặt cho Hội Ái mộ cha Diệp Nam Úc và những người ái mộ cha Diệp chúc mừng sinh nhật và tặng qùa lưu niệm đến Cha Phaolô Nguyễn Công Trứ và mừng trễ kỷ niệm Ngân Khánh 25 linh mục Cha Phêrô Trần Thế Tuyên cùng với niềm cảm mến và biết ơn. Hội cũng đã gởi những món qùa lưu niệm đến quý cha đồng tế trong thánh lễ giỗ long trọng này. Ông hội trưởng không quên cảm ơn tất cả những ân nhân đã đóng góp công của trong việc tổ chức cho ngày lễ giỗ cha Diệp lần thứ 73 và nhất là những lời cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh cha sớm có kết qủa của toàn thề cộng đoàn hiên diện. Trong dịp này ông hội trưởng cũng đã thông báo đến cộng đoàn một tin vui đặc biệt từ nay, được sự cho phép của Tổng Giáo Phận Adelaide và Cha chánh xứ Ottoway, tượng Cha Diệp sẽ được đặt bên gian cung thánh trong các thánh lễ và những giờ cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh Cha Diệp. Thay mặt ban tổ chức ông hội trưởng cũng đã trân trọng kính mới quý cha và cộng đoàn, sau thánh lễ, bớt chút thì giờ sang hội trường Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, phía sau nhà thờ để thắp hương trước bàn thờ cha Diệp, dự tiệc giỗ do Hội khoản đãi.
Tại hội trường Thánh giáo Hoang Gioan Phaolô 2 bàn thờ được trưng bày với tượng cha Diệp có lọng che với câu đối "SỐNG CHO THA NHÂN - CHẾT VÌ TÍN HỮU", cùng với nến đèn, hương hoa trông thật lộng lẫy.
Sau lời chào mừng của ông hội trưởng là phần giời thiệu Kỷ Yếu năm thứ 5 với nhiều hình ảnh in màu trên giấy cứng láng, trải dài hơn 4 năm sinh hoạt Hội Ái Mộ Cha Diệp Nam Úc. Tiếp đến là phần quý cha và cộng đoàn lần lượt tiến lên dâng hương trước bàn thờ cha Diệp. Hoà quyện bên khói hương nghi ngút là những bài hát ca tụng công đức và gương sáng cha Diệp của ca đoàn Saint Patrick đã giúp cho bầu khí ngày giỗ thêm phần linh hoạt và đáng ghi nhớ.
Phần văn nghệ phụ diễn trong tiệc giỗ cha do ca đoàn Saint Patrick và anh em Hội AMCTBD phụ trách với những ca khúc thật tâm tình như "Tình Cha Trương Bửu Diệp, xin Cha chuyển cầu, Sống và Chết, Tông Đồ Bác Ái, Chúa Chiên Lành...". Những ca khúc mang lại những giây phút lắng đọng tưởng nhớ đến Cha Diệp đã nhận được những tràng vỗ tay tán thưởng. Mọi người vừa thưởng thức chương trình văn nghệ vừa trò chuyện trong lúc dùng bữa ăn tối với những món ăn ngon miệng do Hội và nhiều ân nhân tự nguyện đóng góp.
Sau cùng là phần cắt bánh mừng lễ giỗ để mọi người cùng thưởng thức. Quý Cha và ông Hội trưởng cùng cắt chiếc bánh trang trí đẹp mắt với ảnh Cha Diệp và hàng chữ lễ giỗ thứ 73 để đánh dấu một ngày mang nhiều ý nghĩa đối với những người con thương kính Cha Diệp.
Chương trình lễ giỗ năm thứ 73 Cha Trương Bửu Diệp đã diễn ra thật long trọng nhưng không kém phần vui tươi trong tinh thần con cái hướng về Cha và hiệp thông hy vọng Cha sớm được tôn vinh vào hàng ngũ các Thánh trên Thiên Quốc. (Vietcatholic – Adelaide)
Hôm nay thật sự là một ngày hội lớn đối với tất cả những ai yêu mến Cha Diệp tại Nam Úc, ngày giỗ Cha Trương Bửu Diệp. Năm nay Hội Ái Mộ Cha Trương Bửu Diệp Nam Úc đã tổ chức lễ giỗ Cha đúng vào ngày 12/3, ngày mà 73 năm trước Cha Diệp đã bị thảm sát, ngài đã chết thay cho đoàn chiên của mình. Thánh lễ đồng tế được tổ chức trọng thể vào lúc 6 giờ 30 chiều, thứ Ba 12/3/2019 tại thánh đường Thánh Maximilian Kolbe, Ottoway, Nam Úc.
Từ xa, đoàn người tấp nập quy tụ về nhà thờ giáo xứ Ottoway nam Úc đã nhìn thấy tấm biểu ngữ dài màu xanh dương đậm với dòng chữ trắng nổi bật "Lễ Giỗ Cha FX Trương Bửu Diệp lần 73" được treo trước cổng nhà thờ như mời gọi, chào mừng mọi người đến tham dự thánh lễ.
Thật không ngờ, dòng người đông đảo các tín hữu và những người ái mộ cha Diệp đến từ nhiều vùng khác nhau trong số đó có cả những người thuộc các sắc tộc bạn và những người không cùng tôn giáo đã lần lượt quy tụ về ngôi thánh đường này để cùng tham dự thánh lễ giỗ tối nay. Hơn 500 người đã vào ngồi kín các hàng ghế trong nhà thờ, kể cả phần trên lầu, một số người phải đứng phía sau và ngoài nhà thờ. Thật là một hình ảnh cảm động gợi nhớ đến hình ảnh từng chục ngàn người nối đuôi nhau cũng trong thời điểm này hướng về Tắc Sậy vào ngày giỗ cha tại quê nhà nơi có phần mộ của cha Diệp và cũng chính nơi đây Cha Diệp đã gắn bó gần như trọn đời mục tử cho đến lúc hy sinh chết thay cho đoàn chiên của mình.
XEM VIDEO LỄ GIỖ
VIDEO PHỎNG VẤN CHA TUYÊN CỰU CÁO THỈNH VIÊN
Sau phần giới thiệu ngắn gọn về ý lễ Giỗ nhắc nhở cộng đoàn tưởng nhớ đến Cha Diệp và hiệp ý tạ ơn, cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh Cha Diệp đang được tiến triển thuận lợi tại Roma là bài ca nhập lễ vang vọng sen kẽ với tiếng chiêng trống điểm liên hồi qua nghi thức rước tượng cha Diệp từ phía cuối thánh đường, cùng với đoàn đồng tế tiến lên gian cung thánh.
Khi tượng cha Diệp đã được an vuị trên bàn thờ cạnh gian cung thánh với hoa nến đèn mọi người sốt sáng cùng với quý cha hiệp dâng thánh lễ.Mở đầu là phần chào mừng cộng đoàn và giới thiệu quý cha đồng tế do cha Phaolô Nguyễn Công Trứ đến từ Melbourne chủ tế gồm: Cha Phêrô Trần Thế Tuyên cựu cáo thỉnh viên đến từ đến từ Hoa Kỳ, Cha Phêrô Trần Trọng Mỹ, nhà thờ chánh tòa Tổng Giáo Phận Adelaide và Cha Marek P’Tak chánh xư, giáo xứ Ottoway. Thánh lễ được diễn ra với đông đảo quý tín hữu tham dự khiến cho ngày lễ giỗ cha năm nay trở nên sinh động và sốt sáng.Sau bài tin mừng theo thánh Matthêu, là phần chia sẻ của Cha Phêrô Trần Thế Tuyên, nguyên cáo thỉnh viên án tuyên thánh Cha Diệp giai đoạn giáo phận và cũng là người thọ ơn Cha Diệp. Cảm nghĩ đầu tiên của Cha là ngạc nhiên trước sự tham dự đông đảo của cộng đoàn, vì hôm nay là ngày thứ ba trong tuần chứ không phải là ngày cuối tuần. Điều đó chứng tỏ lòng mộ mến và tin tưởng cha Diệp của người Công Giáo cũng như lương dân tại Nam Úc ngày càng trở nên đông đảo và hiệu qủa hơn. Trong phần chia sẻ Lời Chúa, Cha Tuyên đã nói về đức hạnh nổi bật của Cha Trương Bửu Diệp, đó là lòng nhân ái, yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Cha Phêrô đã nhắc lại đức hạnh của Thánh Tử Đạo Maximilian Kolbe, người Ba Lan, đã xin chết thay cho một người tù. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào nhà tù thăm hỏi người tù đã bắn mình và còn xin tha tội cho anh ta. Tất cả đều họa lại tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đã chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Trong phần chia sẻ về tiến trình tuyên thánh Cha Diệp giai đoạn II tại Rôma đã có nhiều tiến triển đáng khích lệ, khi ủy ban tuyên thánh công bố các cuộc điều tra và hồ sơ cấp giáo phận gởi về tòa thánh có giá trị đầy đủ để làm cơ sở cho những bước tiếp theo.
Thánh lễ được tiếp nối với những lời nguyện giáo dân cầu cho các mục tử trong Hội Thánh biết nhiệt thành phục vụ tha nhân, cầu cho những người đang đau khổ thất vọng được bình an và cũng cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh Cha Diệp được thuận lợi nhân dịp lễ giỗ lần thứ 73 cúa Cha.
Trước khi thánh lễ kết thúc, ông Nguyễn Ngọc Cường, hội trưởng Hội AMCTBD Nam Úc đã có đôi lời cảm ơn bằng cả 2 ngôn ngữ Việt Anh đến quý Cha đồng tế, quý cộng đoàn đã hiệp thông cầu nguyện nhân lễ giỗ thứ 73 Cha Diệp.
Nhân dịp này ông hội trưởng cũng đã thay mặt cho Hội Ái mộ cha Diệp Nam Úc và những người ái mộ cha Diệp chúc mừng sinh nhật và tặng qùa lưu niệm đến Cha Phaolô Nguyễn Công Trứ và mừng trễ kỷ niệm Ngân Khánh 25 linh mục Cha Phêrô Trần Thế Tuyên cùng với niềm cảm mến và biết ơn. Hội cũng đã gởi những món qùa lưu niệm đến quý cha đồng tế trong thánh lễ giỗ long trọng này. Ông hội trưởng không quên cảm ơn tất cả những ân nhân đã đóng góp công của trong việc tổ chức cho ngày lễ giỗ cha Diệp lần thứ 73 và nhất là những lời cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh cha sớm có kết qủa của toàn thề cộng đoàn hiên diện. Trong dịp này ông hội trưởng cũng đã thông báo đến cộng đoàn một tin vui đặc biệt từ nay, được sự cho phép của Tổng Giáo Phận Adelaide và Cha chánh xứ Ottoway, tượng Cha Diệp sẽ được đặt bên gian cung thánh trong các thánh lễ và những giờ cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh Cha Diệp. Thay mặt ban tổ chức ông hội trưởng cũng đã trân trọng kính mới quý cha và cộng đoàn, sau thánh lễ, bớt chút thì giờ sang hội trường Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, phía sau nhà thờ để thắp hương trước bàn thờ cha Diệp, dự tiệc giỗ do Hội khoản đãi.
Tại hội trường Thánh giáo Hoang Gioan Phaolô 2 bàn thờ được trưng bày với tượng cha Diệp có lọng che với câu đối "SỐNG CHO THA NHÂN - CHẾT VÌ TÍN HỮU", cùng với nến đèn, hương hoa trông thật lộng lẫy.
Sau lời chào mừng của ông hội trưởng là phần giời thiệu Kỷ Yếu năm thứ 5 với nhiều hình ảnh in màu trên giấy cứng láng, trải dài hơn 4 năm sinh hoạt Hội Ái Mộ Cha Diệp Nam Úc. Tiếp đến là phần quý cha và cộng đoàn lần lượt tiến lên dâng hương trước bàn thờ cha Diệp. Hoà quyện bên khói hương nghi ngút là những bài hát ca tụng công đức và gương sáng cha Diệp của ca đoàn Saint Patrick đã giúp cho bầu khí ngày giỗ thêm phần linh hoạt và đáng ghi nhớ.
Phần văn nghệ phụ diễn trong tiệc giỗ cha do ca đoàn Saint Patrick và anh em Hội AMCTBD phụ trách với những ca khúc thật tâm tình như "Tình Cha Trương Bửu Diệp, xin Cha chuyển cầu, Sống và Chết, Tông Đồ Bác Ái, Chúa Chiên Lành...". Những ca khúc mang lại những giây phút lắng đọng tưởng nhớ đến Cha Diệp đã nhận được những tràng vỗ tay tán thưởng. Mọi người vừa thưởng thức chương trình văn nghệ vừa trò chuyện trong lúc dùng bữa ăn tối với những món ăn ngon miệng do Hội và nhiều ân nhân tự nguyện đóng góp.
Sau cùng là phần cắt bánh mừng lễ giỗ để mọi người cùng thưởng thức. Quý Cha và ông Hội trưởng cùng cắt chiếc bánh trang trí đẹp mắt với ảnh Cha Diệp và hàng chữ lễ giỗ thứ 73 để đánh dấu một ngày mang nhiều ý nghĩa đối với những người con thương kính Cha Diệp.
Chương trình lễ giỗ năm thứ 73 Cha Trương Bửu Diệp đã diễn ra thật long trọng nhưng không kém phần vui tươi trong tinh thần con cái hướng về Cha và hiệp thông hy vọng Cha sớm được tôn vinh vào hàng ngũ các Thánh trên Thiên Quốc. (Vietcatholic – Adelaide)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Dan Hitchens: Hỏa ngục là tín điều bị công kích mạnh nhất ngày nay. Nhưng cẩn thận nhé, hỏa ngục thật sự tồn tại đấy.
Đặng Tự Do
03:40 14/03/2019
Dan Hitchens, thần học gia, phó tổng biên tập tờ Catholic Herald, nhận xét rằng giáo lý về hỏa ngục là một trong những tín điều bị công kích mạnh nhất ngày nay. Thật thế, hôm 5 tháng Ba, một ngày trước thứ Tư Lễ Tro, Vinson Cickyham tấn công tín điều này trên tờ New York Times, và khuyên người Công Giáo nên từ bỏ tín điều đó đi vì, theo Cickyham, nó “ngăn con người đến với đức tin vào một Thiên Chúa yêu thương”.
Một cuộc tấn công khác đã diễn ra vào đúng ngày thứ Năm Tuần Thánh năm ngoái 2018.
Eugenio Scalfari, 93 tuổi, một người vô thần, đồng sáng lập nhật báo La Repubblica, tuyên bố hôm thứ Năm Tuần Thánh rằng hai ngày trước đó Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông ta rằng linh hồn của những kẻ tội lỗi đơn giản là “biến mất” khi chết, và “Không có địa ngục, chỉ có sự biến mất của linh hồn.”
Tin giả này là đầu đề của báo chí trên khắp thế giới và được truyền đi hầu như trên tất cả các phương tiện truyền thông thế giới.
Đức Hồng Y Raymond Leo Burke nói với tờ La Nuova Bussola Quotidiana “Điều đã xảy ra trong cuộc đàm thoại mới nhất dành cho Eugenio Scalfari trong Tuần Thánh và được công bố vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh là vượt quá khả năng có thể châm chước được”.
Ngài nhận xét thêm rằng:
“Một kẻ vô thần khét tiếng cho rằng mình đang tuyên bố một cuộc cách mạng trong giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, nhân danh Đức Giáo Hoàng, phủ nhận sự bất tử của linh hồn con người và sự tồn tại của địa ngục, là một tai hoạ sâu sắc không chỉ cho nhiều người Công Giáo mà còn cho nhiều người lương dân tôn trọng Giáo Hội Công Giáo và các giáo lý của Giáo Hội, ngay cả khi họ không cùng quan điểm như thế.”
Theo Đức Hồng Y ngày mà Scalfari chọn để công bố bài báo - Thứ Năm Tuần Thánh – là đặc biệt xúc phạm vì nó là “một trong những ngày thánh thiêng nhất trong năm”.
Trở lại cuộc tấn công mới nhất trên tờ New York Times, để trả lời cho ý kiến của Cickyham, Dan Hitchens có bài Making Sense of Hell – “Làm rõ ý nghĩa của Hỏa Ngục” đăng trên tờ FirstThings.
Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ toàn văn bài viết này.
Making sense of Hell - Làm rõ ý nghĩa của Hỏa Ngục
Dan Hitchens
Án phạt đời đời chưa bao giờ là một tín điều được nồng nhiệt phổ biến, nhưng trái lại ngày nay đó là tín lý dường như đang bị đả phá mạnh nhất vào lúc này. Những nhà trí thức nổi danh như Stephen Greenblatt lắc đầu, nhếch mép trước giáo huấn này. Các nhà thần học lập dị nặn óc nghĩ ra những lập luận chống lại tín điều ấy. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Giáo hội khi được hỏi về điều này, thường trả lời với sự mơ hồ và bối rối. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi Vinson Cickyham trên tờ New York Times gần đây chuyển hướng sang vặn hỏi người Công Giáo: “Những tín hữu hiện đại nào là những người không muốn phá bỏ rào cản tàn bạo, cũ kỹ này ngăn con người đến với đức tin vào một Thiên Chúa yêu thương? Loại thần nào lại vẽ ra một ranh giới cứng rắn như vậy giữa bạn bè và kẻ thù của ông ta, và giữ trong lòng mình một mối hận thù vĩnh cửu như thế? Chắc chắn sự từ bỏ khái niệm về hỏa ngục, ngay cả ý tưởng quên đi khái niệm ấy, cũng mang đến một chút nhẹ nhõm.”
Phản ứng ngay tức khắc của tôi là thông cảm với quan điểm của Cickyham, và chúng ta không nên đơn giản là bỏ ngoài tai những lời bình luận như vậy. Nhưng những lý lẽ đó cần được thử thách. Khi một phản ứng cảm xúc không thể đưa ra được một nền tảng luận lý mà nó dựa trên; khi nó liên quan đến một cái gì đó không biết đến nơi đến chốn; và khi những hệ quả của nó khó lòng có thể bảo vệ được thì an toàn nhất, chúng ta phải kết luận rằng cảm xúc ấy là sai lệch.
Chúng ta hãy bắt đầu với nền tảng luận lý. Tội lỗi đáng bị trừng phạt. May mắn là khi còn sống, chúng ta luôn có thể quay lại với lòng thương xót Chúa. Tuy nhiên, các triết gia nói với chúng ta rằng khi chết, linh hồn không còn có thể thay đổi những hướng đi của nó. Trước khi chết, chúng ta có thể đi hướng này hướng khác theo các cảm xúc và thói quen của chúng ta. Nhưng khi linh hồn bị tách ra khỏi cơ thể, khả năng thay đổi này kết thúc và chúng ta chỉ còn lại một định hướng duy nhất. Nếu chúng ta đã hướng về Thiên Chúa trước khi chết, chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc. Ngược lại, nếu chúng ta đã chọn một hướng khác, chúng ta trong tình trạng đang mắc tội trọng, và hình phạt công bằng chúng ta phải chịu cứ tiếp tục như thế bao lâu chúng ta từ chối Thiên Chúa, và đó là mãi mãi vì chúng ta đã mất khả năng thay đổi. Cư dân địa ngục cứ tiếp tục quyết định số phận của mình như thế. Thánh Anphongsô Đệ Ligouriô viết: “Những kẻ bị lên án là những kẻ cố chấp trong tội lỗi của mình, đến nỗi cho dù Chúa có ban ân xá, lòng thù ghét Ngài sẽ khiến họ từ chối.”
Những nỗ lực để tìm ra sơ hở trong lý luận này, theo như tôi thấy, chưa hề thành công: Những độc giả quan tâm có thể tìm thấy một loạt các lời bác bỏ ở đây. Phản bác thực sự, tôi nghĩ, nặng về trực giác hơn là lý luận: người ta nói cho dù một số hình phạt là cần thiết đi nữa, địa ngục có phải là quá đáng hay không?
Nhưng ở đây, chúng ta thấy sự giản lược để nói theo kiểu “chắc chắn là…” về những điều chúng ta chưa hề nắm bắt được: ví dụ như sự ghê tởm của tội lỗi. Hầu hết chúng ta, nếu được yêu cầu ước tính tội lỗi của mình tồi tệ đến mức nào, sẽ nói rằng mặc dù chúng ta đã không luôn sống xứng đáng, nhưng chúng ta đã không làm tổn thương bất cứ ai, và nói cho cùng trong cái cuộc sống khó khăn này, nói chung thì chúng ta cũng là những người kha khá tốt, chứ không đến nỗi tệ. Chúng ta sẽ không đoán nổi, tình trạng của chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta chưa hề biết rằng Chúa đã đến trái đất này, chịu sỉ nhục và chịu tra tấn đến chết vì tội lỗi của chúng ta. Chúng ta có thực sự có chút manh mối nào về mức độ nghiêm trọng của những tội lỗi chúng ta đã phạm hay không? Tương tự như vậy, không ai trong chúng ta đã từng thấy một linh hồn trong tình trạng tội lỗi sẽ như thế nào sau khi chết, khi nhịp đập thôi thúc hướng đến những điều tốt đẹp của nó đã biến mất và không còn gì ngoài mong muốn xấu xa. Trong trường hợp như thế, tôi dựa vào cơ sở nào mà dám có ý kiến về thế nào là một hình phạt công bằng? Làm thế thì có khác gì bình luận về triển vọng Olympic của đội tuyển bóng rổ quốc gia Azerbaijan mà chưa từng google xem cái đội ấy chơi như thế nào và chưa từng biết gì về bóng rổ? Tôi nghi ngờ hầu hết những trực giác của chúng ta về sự nghiêm trọng của tội lỗi thậm chí còn tệ hại hơn khi ta suy đoán về bóng rổ mà chẳng biết gì về môn chơi ấy.
May mắn thay, chúng ta không hoàn toàn mù tịt về sự nghiêm trọng của tội lỗi, bởi vì chúng ta có sự hướng dẫn của Giáo hội. Không chỉ là những tuyên bố huấn giáo có thẩm quyền, mặc dù điều đó là quá đủ rồi, nhưng bên cạnh đó chúng ta còn có cơ man những thể hiện khôn ngoan của Giáo Hội trong suốt 2000 năm: đó là cách giải thích tiêu chuẩn của rất nhiều, rất nhiều câu trong Cựu Ước và Tân Ước; những bài giảng của các thánh, với những cảnh báo khủng khiếp của các ngài về đời sau; lời cầu nguyện từ ngàn xưa trong các Thánh lễ cầu xin cho chúng ta “thoát khỏi án phạt đời đời”; các nhà thần bí, kể cả những vị trong thế kỷ 20, đã từng nhìn thấy những thứ gần như khiến họ chết khiếp đi vì sợ hãi; các bức tranh như Địa Ngục của Dante và Ngày Phán Xét Cuối Cùng của Michelangelo.
Và rồi chúng ta có Thánh Thomas More. Trong phiên tòa xét xử mình, ngài đã nói rằng nếu ngài không nói sự thật thì “hãy cầu nguyện cho tôi để tôi không bao giờ phải đối diện với Chúa”. Chúng ta cũng có những trẻ Fatima, là những mục đồng đã thực hiện việc đền tội để giúp các linh hồn mồ côi, và để phát động một trong những việc sùng kính vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Chúng ta cũng có lời chứng của những nhà trừ quỷ, là những vị trong tiến trình giải phóng con người khỏi bị quỷ ám, đã nói chuyện với ma quỷ về kiếp sau. Bên cạnh đó, còn có vô số những người nam nữ thánh thiện đã đi rao giảng và chăm sóc người bệnh và dành phần lớn đời mình cho tình yêu; không phải hoàn toàn thì ít nhất một phần, bởi vì họ sợ những gì họ có thể phải nghe trong Ngày phán xét. Rồi còn cơ man những người nam nữ bình thường là những người đã buộc mình phải đi đến tòa giải tội, không hoàn toàn thì ít nhất cũng một phần bởi vì họ tin rằng họ cần được giải cứu khẩn cấp. Nếu Đạo Công Giáo là công việc của Chúa Thánh Thần, thì đây chắc chắn là một trong những sự thật mà Ngài muốn dẫn dắt chúng ta đến.
Ngay cả những người không theo đạo Công Giáo cũng sẽ phải đồng ý với những lời Chúa Giêsu đã rao giảng về chủ đề này, là những lời có lẽ Chúa đã chọn lọc để bẻ gãy tất cả các cố gắng xuyên tạc về hỏa ngục mà các học giả hiện đại ưa thích. Ngài nói, nhiều lần, về ngọn lửa không bao giờ tàn lụi. Thật khó để xuyên tạc điều này và gọi đó là ngọn lửa tình yêu của Chúa, bởi vì Ngài đã phán cùng những kẻ bị nguyền rủa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25:41), và Ngài còn mô tả theo nghĩa đen sự tuyệt vọng của địa ngục: “hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25:30) Chúa của chúng ta không có vẻ gì là đang đề cập đến một quá trình thanh luyện khó khăn nhưng cuối cùng sẽ có chút ánh sáng nào đó cuối đường hầm. Không đó là đời đời! Ngài có vẻ như đang cảnh báo về một số phận còn tệ hại hơn cả cái chết. Từ bỏ tín điều về địa ngục thì chung cuộc bạn sẽ phải xem Chúa Giêsu như thể một người không biết mình đang nói về cái gì. Đối với bất kỳ Kitô hữu nào, đó là một kết luận không thể chấp nhận được.
Có phải niềm tin vào địa ngục là một rào cản đối với niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương hay không? Rõ ràng là không, bởi vì các vị thánh, những người có cuộc sống tràn ngập tình yêu của Thiên Chúa và người lân cận, đã nhìn thấy thực tại địa ngục rõ ràng hơn bất cứ ai. Có lẽ điều này không quá ngạc nhiên: Nó có ý nghĩa rằng những người thực sự hiểu rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cũng hiểu một cách sâu sắc hậu quả của việc từ chối Lòng Thương Xót ấy là những gì.
Source:First Things. Making Sense of Hell
Một cuộc tấn công khác đã diễn ra vào đúng ngày thứ Năm Tuần Thánh năm ngoái 2018.
Eugenio Scalfari, 93 tuổi, một người vô thần, đồng sáng lập nhật báo La Repubblica, tuyên bố hôm thứ Năm Tuần Thánh rằng hai ngày trước đó Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong một cuộc phỏng vấn dành cho ông ta rằng linh hồn của những kẻ tội lỗi đơn giản là “biến mất” khi chết, và “Không có địa ngục, chỉ có sự biến mất của linh hồn.”
Tin giả này là đầu đề của báo chí trên khắp thế giới và được truyền đi hầu như trên tất cả các phương tiện truyền thông thế giới.
Đức Hồng Y Raymond Leo Burke nói với tờ La Nuova Bussola Quotidiana “Điều đã xảy ra trong cuộc đàm thoại mới nhất dành cho Eugenio Scalfari trong Tuần Thánh và được công bố vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh là vượt quá khả năng có thể châm chước được”.
Ngài nhận xét thêm rằng:
“Một kẻ vô thần khét tiếng cho rằng mình đang tuyên bố một cuộc cách mạng trong giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo, nhân danh Đức Giáo Hoàng, phủ nhận sự bất tử của linh hồn con người và sự tồn tại của địa ngục, là một tai hoạ sâu sắc không chỉ cho nhiều người Công Giáo mà còn cho nhiều người lương dân tôn trọng Giáo Hội Công Giáo và các giáo lý của Giáo Hội, ngay cả khi họ không cùng quan điểm như thế.”
Theo Đức Hồng Y ngày mà Scalfari chọn để công bố bài báo - Thứ Năm Tuần Thánh – là đặc biệt xúc phạm vì nó là “một trong những ngày thánh thiêng nhất trong năm”.
Trở lại cuộc tấn công mới nhất trên tờ New York Times, để trả lời cho ý kiến của Cickyham, Dan Hitchens có bài Making Sense of Hell – “Làm rõ ý nghĩa của Hỏa Ngục” đăng trên tờ FirstThings.
Dưới đây là bản dịch sang Việt ngữ toàn văn bài viết này.
Making sense of Hell - Làm rõ ý nghĩa của Hỏa Ngục
Dan Hitchens
Án phạt đời đời chưa bao giờ là một tín điều được nồng nhiệt phổ biến, nhưng trái lại ngày nay đó là tín lý dường như đang bị đả phá mạnh nhất vào lúc này. Những nhà trí thức nổi danh như Stephen Greenblatt lắc đầu, nhếch mép trước giáo huấn này. Các nhà thần học lập dị nặn óc nghĩ ra những lập luận chống lại tín điều ấy. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Giáo hội khi được hỏi về điều này, thường trả lời với sự mơ hồ và bối rối. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi Vinson Cickyham trên tờ New York Times gần đây chuyển hướng sang vặn hỏi người Công Giáo: “Những tín hữu hiện đại nào là những người không muốn phá bỏ rào cản tàn bạo, cũ kỹ này ngăn con người đến với đức tin vào một Thiên Chúa yêu thương? Loại thần nào lại vẽ ra một ranh giới cứng rắn như vậy giữa bạn bè và kẻ thù của ông ta, và giữ trong lòng mình một mối hận thù vĩnh cửu như thế? Chắc chắn sự từ bỏ khái niệm về hỏa ngục, ngay cả ý tưởng quên đi khái niệm ấy, cũng mang đến một chút nhẹ nhõm.”
Phản ứng ngay tức khắc của tôi là thông cảm với quan điểm của Cickyham, và chúng ta không nên đơn giản là bỏ ngoài tai những lời bình luận như vậy. Nhưng những lý lẽ đó cần được thử thách. Khi một phản ứng cảm xúc không thể đưa ra được một nền tảng luận lý mà nó dựa trên; khi nó liên quan đến một cái gì đó không biết đến nơi đến chốn; và khi những hệ quả của nó khó lòng có thể bảo vệ được thì an toàn nhất, chúng ta phải kết luận rằng cảm xúc ấy là sai lệch.
Chúng ta hãy bắt đầu với nền tảng luận lý. Tội lỗi đáng bị trừng phạt. May mắn là khi còn sống, chúng ta luôn có thể quay lại với lòng thương xót Chúa. Tuy nhiên, các triết gia nói với chúng ta rằng khi chết, linh hồn không còn có thể thay đổi những hướng đi của nó. Trước khi chết, chúng ta có thể đi hướng này hướng khác theo các cảm xúc và thói quen của chúng ta. Nhưng khi linh hồn bị tách ra khỏi cơ thể, khả năng thay đổi này kết thúc và chúng ta chỉ còn lại một định hướng duy nhất. Nếu chúng ta đã hướng về Thiên Chúa trước khi chết, chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc. Ngược lại, nếu chúng ta đã chọn một hướng khác, chúng ta trong tình trạng đang mắc tội trọng, và hình phạt công bằng chúng ta phải chịu cứ tiếp tục như thế bao lâu chúng ta từ chối Thiên Chúa, và đó là mãi mãi vì chúng ta đã mất khả năng thay đổi. Cư dân địa ngục cứ tiếp tục quyết định số phận của mình như thế. Thánh Anphongsô Đệ Ligouriô viết: “Những kẻ bị lên án là những kẻ cố chấp trong tội lỗi của mình, đến nỗi cho dù Chúa có ban ân xá, lòng thù ghét Ngài sẽ khiến họ từ chối.”
Những nỗ lực để tìm ra sơ hở trong lý luận này, theo như tôi thấy, chưa hề thành công: Những độc giả quan tâm có thể tìm thấy một loạt các lời bác bỏ ở đây. Phản bác thực sự, tôi nghĩ, nặng về trực giác hơn là lý luận: người ta nói cho dù một số hình phạt là cần thiết đi nữa, địa ngục có phải là quá đáng hay không?
Nhưng ở đây, chúng ta thấy sự giản lược để nói theo kiểu “chắc chắn là…” về những điều chúng ta chưa hề nắm bắt được: ví dụ như sự ghê tởm của tội lỗi. Hầu hết chúng ta, nếu được yêu cầu ước tính tội lỗi của mình tồi tệ đến mức nào, sẽ nói rằng mặc dù chúng ta đã không luôn sống xứng đáng, nhưng chúng ta đã không làm tổn thương bất cứ ai, và nói cho cùng trong cái cuộc sống khó khăn này, nói chung thì chúng ta cũng là những người kha khá tốt, chứ không đến nỗi tệ. Chúng ta sẽ không đoán nổi, tình trạng của chúng ta sẽ ra sao nếu chúng ta chưa hề biết rằng Chúa đã đến trái đất này, chịu sỉ nhục và chịu tra tấn đến chết vì tội lỗi của chúng ta. Chúng ta có thực sự có chút manh mối nào về mức độ nghiêm trọng của những tội lỗi chúng ta đã phạm hay không? Tương tự như vậy, không ai trong chúng ta đã từng thấy một linh hồn trong tình trạng tội lỗi sẽ như thế nào sau khi chết, khi nhịp đập thôi thúc hướng đến những điều tốt đẹp của nó đã biến mất và không còn gì ngoài mong muốn xấu xa. Trong trường hợp như thế, tôi dựa vào cơ sở nào mà dám có ý kiến về thế nào là một hình phạt công bằng? Làm thế thì có khác gì bình luận về triển vọng Olympic của đội tuyển bóng rổ quốc gia Azerbaijan mà chưa từng google xem cái đội ấy chơi như thế nào và chưa từng biết gì về bóng rổ? Tôi nghi ngờ hầu hết những trực giác của chúng ta về sự nghiêm trọng của tội lỗi thậm chí còn tệ hại hơn khi ta suy đoán về bóng rổ mà chẳng biết gì về môn chơi ấy.
May mắn thay, chúng ta không hoàn toàn mù tịt về sự nghiêm trọng của tội lỗi, bởi vì chúng ta có sự hướng dẫn của Giáo hội. Không chỉ là những tuyên bố huấn giáo có thẩm quyền, mặc dù điều đó là quá đủ rồi, nhưng bên cạnh đó chúng ta còn có cơ man những thể hiện khôn ngoan của Giáo Hội trong suốt 2000 năm: đó là cách giải thích tiêu chuẩn của rất nhiều, rất nhiều câu trong Cựu Ước và Tân Ước; những bài giảng của các thánh, với những cảnh báo khủng khiếp của các ngài về đời sau; lời cầu nguyện từ ngàn xưa trong các Thánh lễ cầu xin cho chúng ta “thoát khỏi án phạt đời đời”; các nhà thần bí, kể cả những vị trong thế kỷ 20, đã từng nhìn thấy những thứ gần như khiến họ chết khiếp đi vì sợ hãi; các bức tranh như Địa Ngục của Dante và Ngày Phán Xét Cuối Cùng của Michelangelo.
Và rồi chúng ta có Thánh Thomas More. Trong phiên tòa xét xử mình, ngài đã nói rằng nếu ngài không nói sự thật thì “hãy cầu nguyện cho tôi để tôi không bao giờ phải đối diện với Chúa”. Chúng ta cũng có những trẻ Fatima, là những mục đồng đã thực hiện việc đền tội để giúp các linh hồn mồ côi, và để phát động một trong những việc sùng kính vĩ đại nhất trong thế kỷ 20. Chúng ta cũng có lời chứng của những nhà trừ quỷ, là những vị trong tiến trình giải phóng con người khỏi bị quỷ ám, đã nói chuyện với ma quỷ về kiếp sau. Bên cạnh đó, còn có vô số những người nam nữ thánh thiện đã đi rao giảng và chăm sóc người bệnh và dành phần lớn đời mình cho tình yêu; không phải hoàn toàn thì ít nhất một phần, bởi vì họ sợ những gì họ có thể phải nghe trong Ngày phán xét. Rồi còn cơ man những người nam nữ bình thường là những người đã buộc mình phải đi đến tòa giải tội, không hoàn toàn thì ít nhất cũng một phần bởi vì họ tin rằng họ cần được giải cứu khẩn cấp. Nếu Đạo Công Giáo là công việc của Chúa Thánh Thần, thì đây chắc chắn là một trong những sự thật mà Ngài muốn dẫn dắt chúng ta đến.
Ngay cả những người không theo đạo Công Giáo cũng sẽ phải đồng ý với những lời Chúa Giêsu đã rao giảng về chủ đề này, là những lời có lẽ Chúa đã chọn lọc để bẻ gãy tất cả các cố gắng xuyên tạc về hỏa ngục mà các học giả hiện đại ưa thích. Ngài nói, nhiều lần, về ngọn lửa không bao giờ tàn lụi. Thật khó để xuyên tạc điều này và gọi đó là ngọn lửa tình yêu của Chúa, bởi vì Ngài đã phán cùng những kẻ bị nguyền rủa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25:41), và Ngài còn mô tả theo nghĩa đen sự tuyệt vọng của địa ngục: “hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.” (Mt 25:30) Chúa của chúng ta không có vẻ gì là đang đề cập đến một quá trình thanh luyện khó khăn nhưng cuối cùng sẽ có chút ánh sáng nào đó cuối đường hầm. Không đó là đời đời! Ngài có vẻ như đang cảnh báo về một số phận còn tệ hại hơn cả cái chết. Từ bỏ tín điều về địa ngục thì chung cuộc bạn sẽ phải xem Chúa Giêsu như thể một người không biết mình đang nói về cái gì. Đối với bất kỳ Kitô hữu nào, đó là một kết luận không thể chấp nhận được.
Có phải niềm tin vào địa ngục là một rào cản đối với niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương hay không? Rõ ràng là không, bởi vì các vị thánh, những người có cuộc sống tràn ngập tình yêu của Thiên Chúa và người lân cận, đã nhìn thấy thực tại địa ngục rõ ràng hơn bất cứ ai. Có lẽ điều này không quá ngạc nhiên: Nó có ý nghĩa rằng những người thực sự hiểu rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cũng hiểu một cách sâu sắc hậu quả của việc từ chối Lòng Thương Xót ấy là những gì.
Source:First Things.
Ý Niệm Linh Hứng trong Thánh Kinh: các cách tiếp cận
Vũ Văn An
19:30 14/03/2019
V. Các cách tiếp cận hiện nay đối với linh hứng
(I) Nơi người Thệ Phản
(A). Thuyết hộ trợ (concursive):
B.B Warfield (The Inspiration and Authority of the Bible [London, 1951]) và J.I. Packer (Fundamentalism and the Word of God [London, 1958]) là các phát ngôn viên rành rõi. Packer sử dụng “hành động hộ trợ” để mô tả vai trò Chúa Thánh Thần trong việc soạn thảo Thánh Kinh. Diễn trình nguyên nhân/hậu quả và học lý sáng thế/quan phòng là những cách khác nhau để nói về sự hiện hữu của vũ trụ thể lý thế nào, thì linh hứng và sự soạn tác của phàm nhân cũng là hai cách khác nhau để nói về sự hiện hữu của Sách Thánh như thế. Có cả cách hiểu thần học và nhân bản về cùng một hiện tượng vật chất; chúng không hiện hữu trên cùng một bình diện. Sáng thế/quan phòng là một tuyên bố thần học rằng vũ trụ bắt nguồn từ Thiên Chúa thế nào, thì linh hứng cũng là một tuyên bố thần học rằng Thánh Kinh bắt nguồn từ Thiên Chúa như thế. Học lý không cung cấp cho tín hữu Kitô một giải thích về việc linh hứng đã xẩy ra thế nào nhiều hơn là học lý sáng thế/quan phòng cung cấp một giải thích về việc sáng thế đã xẩy ra thế nào.
I.H. Marshall giải thích hành động hộ trợ như sau:
“Trên bình diện nhân bản, chúng ta có thể mô tả siệc soạn thảo ra nó (Thánh Kinh) theo các diễn trình bằng lời và bằng chữ viết đa dạng đứng đàng sau nó – một thu thập các tín liệu từ các nhân chứng, sử dụng các nguồn thành văn, viết ra và biên tập các tín liệu này, soạn các chữ bộc phát, bắt đầu viết các sứ điệp tiên tri, thu thập các tài liệu lại với nhau, v.v... Tuy nhiên, cùng một lúc, trên bình diện Thiên Chúa, chúng ta có thể quả quyết rằng Chúa Thánh Thần, Đấng từng bay là là trên mặt nước lúc Sáng Thế (St 1:2) rất tích cực trong toan bộ diễn trình này đến nỗi Thánh Kinh có thể được coi vừa như lời con người vừa như lời Thiên Chúa. Hành động của Chúa Thánh Thần này có thể được mô tả là “hộ trợ” với các hoạt động phàm nhân nhờ đó, Thánh Kinh đã được viết ra” (Biblical Inspiration 42).
(B). Tác phong theo sau (consequent behavior): Giới bác học Thệ Phản bảo thủ đã sản sinh phần lớn các trước tác gần đây về linh hứng; các nhà Thệ Phản cấp tiến thì trên thực tế thường âm thầm bác bỏ linh hứng. Đóng góp độc đáo là của W.J. Abraham (Divine Inspiration); ông là một nhà Tin Lành dựa nhiều vào chữ “inspire” của tiếng Anh hơn là dựa vào chính Sách Thánh hay ý niệm không sai lạc. Một thầy giáo tuyệt vời gây hứng cho học trò đến độ họ được dẫn tới tác phong bắt chước theo (gồm cả việc viết bản văn). Cũng thế, Thiên Chúa, qua hành vi mặc khải và cứu rỗi, linh hứng cho các tác giả Thánh Kinh đến độ họ được dẫn tới tác phong làm theo, nhất là trong việc viết các sách Thánh Kinh.
(C). Tân chính thống (neo-orthodoxy): Các quan điểm về linh hứng của K. Barth (1886-1968) đã được chấp nhận bởi nhiều tư tưởng gia chính dòng Thệ Phản. Barth dành một vị trí độc đáo cho Thánh Kinh bao lâu nó làm chứng cho hành vi mặc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng chủ yếu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Linh hứng không phải là một phẩm tính của chính bản văn Thánh Kinh, nhưng là một khẳng định về một khả năng của Thiên Chúa trong việc dùng Thánh Kinh để thông đạt mặc khải cho con người, cả như những các nhân lẫn như các nhóm.
(II). Nơi Người Công Giáo Rôma
Tính hiện thực là đặc điểm của các trước Công Giáo gần đây về linh hứng. Thành phần cấu tạo ra cái hiểu của Vatican II về các bản văn Thánh Kinh là việc đánh giá cao phẩm tính nhân bản của chúng và các diễn trình sản xuất ra chúng. Các bản văn này, vốn là “lời Thiên Chúa”, cũng là lời lẽ của con người. Một số phương pháp luận giải thích khác nhau chỉ nhằm làm nổi bật tính người của Sách Thánh. Với tính người này như khởi điểm, các học thuyết Công Giáo gần đây về linh hứng đã tập chú vào một trong bốn khía cạnh sau đây:
(A). Các lý thuyết tâm lý học: Học giả gây ảnh hưởng P. Benoit vốn phân biệt linh hứng viết (scriptural Inspiration) tức linh hứng dẫn các tác giả đến chỗ sản sinh ra bản văn, với linh hứng thần kịch-lịch sử (dramatic-historical) tức xẩy ra trong các biến cố của lịch sử cứu rỗi) và linh hứng tiên tri-tông đồ (prophetic-apostolic) tức diễn ra trong việc công bố bằng lời các biến cố vừa nói. Sử dụng các phạm trù Thomist (một số bị bỏ trong các trước tác về sau) và là người thừa kế di sản của Lagrange, Benoit biến tâm thức (psyche) con người thành nguồn cứ liệu (locus) của linh hứng. Theo luận lý học, tiếp theo sự mặc khải mà nó vốn có liên hệ, linh hứng là một thúc đẩy (impulse) phải viết và cho ra đời một cuốn sách. Các vấn đề nào được lồng vào là tùy phán đoán của tác giả cũng như việc chúng phải được phát biểu và sắp xếp ra sao. Trong suốt diễn trình này, Thiên Chúa luôn hành động như nguyên nhân nguyên khởi của công trình sách thánh. (Benoit chủ yếu nhấn mạnh tới các tác giả cá thể của sách thánh).
(B). Các lý thuyết xã hội: Khoa phê bình hình thức vốn chứng minh rằng, tới một phạm vi khá lớn, không thể chỉ coi các sách Thánh Kinh như là sản phẩm văn chương của các tác giả cô lập nhau, giống như các sách hiện đại. Các người viết cá thể đều là thành viên của các cộng đồng đức tin, những cộng đồng không phải chỉ có ảnh hưởng qua loa trong việc hình thành chính nền văn chương Thánh Kinh. Đây là trọng điểm của nhiều lý thuyết xã hội đa dạng về linh hứng; các lý thuyết này lấy lại quan điểm thuở đầu coi tác giả như một viên chức của cộng đồng, dựa vào truyền thống và trước tác của cộng đồng này để xây dựng cộng đồng. J. Barr, một người phê phán chủ nghĩa cực đoan, viết:
“Nếu quả có linh hứng, thì nó phải trải dài suốt diễn trình sản xuất dẫn tới bản văn sau cùng. Do đó, linh hứng không được kết chặt vào một số nhỏ những người ngoại hạng... Nó phải trải dài trên một số đông hơn những con người vô danh... Phải coi nó thuộc về cộng đồng như một toàn thể nhiều hơn” (Holy Scripture: Canon, Authority, Criticism [Phl, 1983]).
Trong các giới Công Giáo Rôma, các lý thuyết xã hội về linh hứng chủ yếu liên hệ tới các tên tuổi như J.L. McKenzie (CBQ 24 [1962] 115-24), D.J. McCarthy và K. Rahner.
Cách tiếp cận phê bình hình thức nhấn mạnh tính liên thuộc giữa tác giả Sách Thánh và cộng đoàn của họ và các nhà phê bình hình thức có tính triệt để hơn giản lược “tác giả” hầu như vào vai trò một thư ký vô danh. Điều này đã dẫn tới việc bãi bỏ trên thực tế các lý thuyết tâm lý học về linh hứng. Nếu văn chương Thánh Kinh là biểu thức phức tạp của đức tin cộng đồng, thì linh hứng phức tạp hơn ảnh hưởng của Thiên Chúa đối với tác giả rất nhiều. Cách thế bất đồng trong việc nhìn vào việc soạn tác Sách Thánh này gần như đã dập tắt các cuộc thảo luận về linh hứng nơi các học giả và thần học gia Thánh Kinh trong các Giáo Hội chính dòng. May mắn thay, việc xuất hiện của khoa phê bình soạn tác (redaction criticism) đã chỉnh sửa một số bất cập của phương thức (chỉ) phê bình hình thức. Người viết sản xuất bản sách thánh sau cùng, dù chịu ảnh hưởng và dựa vào các người đi trước và cộng đồng, vẫn là một tác giả và thần học gia theo đúng nghĩa của nó.
(C). Các cách tiếp cận văn chương: Một số cách tiếp cận đối với việc nghiên cứu Thánh Kinh, tức các cách tiếp cận văn chương và cấu trúc, nhấn mạnh tới chính thực tại bản văn, do dó, mở đường cho một hình thức lên lý thuyết về linh hứng dựa vào bản văn. Mặc dù bản văn được hưởng một sự tự chủ nào đó về ngữ nghĩa (semantic), hai hoạt động nhân bản chủ yếu có liên quan tới bản văn: việc viết (và viết lại) và việc đọc (một hình thức viết trong trí). Tín lý linh hứng quả quyết rằng Chúa Thánh Thần chịu trách nhiệm đối với bản văn Thánh Kinh hiểu như một bản văn, nghĩa là liên quan đến cả hai chiều kích nhân bản vừa nói. Về việc viết, Chúa Thánh Thần hành động trong diễn trình dài nhờ đó một bản văn Thánh Kinh được sản xuất ra trong cộng đồng đức tin (nghĩa là bao gồm việc phát biểu truyền thống, các bản văn chưa đầy đủ, các bản thảo ban đầu, và việc viết lại). Về việc đọc, linh hứng được kể là thuộc tính của bản văn Thánh Kinh chính vì có một cộng đồng đức tin, dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, sẽ đọc và đồng nhất với bản văn Thánh Kinh này. Hiểu như thế, lý thuyết văn chương về linh hứng phản ảnh ý nghĩa tích cực của theopneustos ở 2Tm 3:16 và nhấn mạnh tới các chiều kích linh hứng từng được Calvin và Barth làm nổi bật.
Các chiều kích khác của bản văn cũng quan trọng cho việc hiểu đầy đủ về linh hứng, thí dụ ba chức năng căn bản của ngôn ngữ: thông tri, phát biểu và gây ấn tượng. Thánh kinh thông tri cho người đọc bằng cách cung cấp kiến thức và thông đạt sự thật, nhưng đây mới chỉ là một trong các chức năng của nó. Nó cũng phát biểu một điều gì đó về thực tại năng động của Thiên Chúa và gây ảnh hưởng hay ấn tượng nơi người nhận việc thông đạt ngôn ngữ nhiều cách khác nhau. Chúa Thánh Thần linh hứng can dự vào toàn bộ 3 chức năng ngôn ngữ này. Thực vậy, đóng góp lớn lao nhất của phương thức văn chương vào việc hiểu linh hứng có thể là việc họ nhấn mạnh tới toàn bộ thực tại bản văn.
Một chiều kích khác của bản văn mà việc phân tích bản văn làm ta chú ý tới là sự kiện này: bản văn “là việc sản xuất ý nghĩa” (R. Barthes). Các bản văn thường rút một phần ý nghĩa của chúng từ đơn vị bản văn lớn hơn mà chúng vốn thuộc về. Một câu nói cá thể của Chúa Giêsu là một phần của Sách Tin Mừng, sách này lại là một phần của Tân Ước, mà Tân Ước lại là một thành phần của Thánh Kinh. Thực tại này làm dội lại học lý cổ truyền chủ trương linh hứng “của các sách cả Cựu lẫn Tân Ước trong tính toàn thể của chúng gồm mọi phần” (Vatican II ở trên). Thánh kinh như một toàn bộ được linh hứng, và như một hệ luận, các phần của nó cũng được linh hứng. Truyền thống không quả quyết rằng vì các câu cá thể của Thánh Kinh được linh hứng, mà Thánh Kinh được coi là được linh hứng. (Việc tập chú vào việc linh hứng của một bản văn riêng rẽ có thể phát sinh một loại cực đoan). Cái hiểu tổng thể (holistic) này về bản văn ảnh hưởng lớn tới cái hiểu thỏa đáng về ý niệm sự thật Thánh Kinh. Tính không sai lầm phải được liên kết với quan điểm toàn bộ của một chủ đề.
Nhiều nhân tố được việc phân tích bản văn gần đây làm nổi bật đã hỗ trợ quan điểm của G. Turner cho rằng tín lý linh hứng dành cho Thánh Kinh đặc tính “nền văn chương của Đấng Bào Chữa” (paracletic litterature) tức nền văn chương của Chúa Thánh Thần. Ông giải thích (“Biblical Inspiration”, 427): “Thánh kinh như paraclete là Đấng Bào Chữa theo nghĩa là chứng tá cho Chúa Giêsu Kitô. Nó thường được dùng như một loại huấn đạo viên; chắc chắn đây là người phù trợ, người an ủi và người khuyến khích”.
(D). Các khía cạnh giáo hội
Các lý thuyết khác về linh hứng tập chú vào mối tương quan giữa Sách Thánh và Giáo Hội, vì linh hứng là “đặc sủng truyền thông bằng chữ viết lời của Thiên Chúa như là yếu tố cấu tạo nên Giáo Hội” (Collins, Introduction, 345). Các lý thuyết có tính giáo hội và thần học về linh hứng sẽ không có nếu không có loại suy với các lý thuyết sau đó về linh hứng. Rahner từng viết:
“Vì Thánh Kinh là một điều có tính dẫn khởi (derivative), nó cần được hiểu từ bản chất yếu tính của Giáo Hội, một bản chất vốn là sự thường hằng (permanence) có tính cánh chung và bất phản hội của Chúa Giêsu Kitô trong lịch sử... Như thế, Người (Thiên Chúa) là đấng linh hứng và tác giả của Thánh Kinh, mặc dù việc linh hứng Thánh Kinh ‘chỉ’ là một khoảnh khắc bên trong tác quyền nguyên ủy (primordial) của Thiên Chúa đối với Giáo Hội” (Foundations of Christian Faith [NY, 1978] 371, 375).
Quan điểm của Rahner đặt tác quyền của Thiên Chúa đối với Thánh Kinh vào bối cảnh một sự hiểu biết rộng rãi hơn và chính xác hơn về “tác quyền” nhưng cách tiếp cận của ngài đã bị chỉ trích bởi nhiều người đề xuất thuyết linh hứng soạn thảo; họ cho rằng ngài tập chú quá độc chiếm vào Chúa Giêsu, Đấng mà Sách Thánh làm chứng cho.
VI. Các hệ luận của tín lý linh hứng
(I). Giáo Hội sử dụng Thánh Kinh.
Hệ luận hay hệ quả đầu tiên của việc Chúa ThánhThần linh hứng Thánh Kinh là: nó có thế giá đối với các Kitô hữu và Giáo Hội. Về phương diện lịch sử, điều đó đã được thừa nhận qua việc lập ra qui điển Thánh Kinh, nghĩa là, bộ sách được Giáo Hội coi là chính thức. Thế giá Thánh Kinh cũng được phản ảnh qua việc sử dụng Thánh Kinh trong việc thờ phượng bằng phụng vụ, như là nguồn và qui phạm cho các công trình thần học, và cho lòng đạo đức bản thân và việc phát triển thiêng liêng của các Kitô hữu cá thể.
(II). Lời Chúa.
Hệ luận quan trọng thứ hai là Sách Thánh là lời của Thiên Chúa. Công thức truyền thống này, bề ngoài có vẻ đơn giản, nhưng thực sự hết sức phức tạp và hàm ý nhiều nghĩa. Một số người Tin Lành Thệ phản chủ trương một sự đồng nhất gần như thể lý giữa Sách Thánh và những lời thực sự được Thiên Chúa nói ra; họ coi là không thỏa đáng quan điểm cho rằng Sách Thánh chỉ chứng thực cho lời Thiên Chúa. Các Kitô hữu khác thì quả quyết rằng Thánh Kinh là lời Thiên Chúa trong khi vẫn chủ trương rằng Thiên Chúa không bao giờ thông đạt bằng lời cả (dù là lời bên trong; xem R.E. Brown, The Critical Meaning of the Bible [NY, 1981] 1-44). Một số nhà thần học Thệ Phản quả quyết rằng lời Thiên Chúa là một thực tại năng động; thành thử, Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa tuyệt hảo (Barth nghĩ thế). Sách Thánh quả thực là lời Thiên Chúa khi nó trở thành sống động trong việc công bố và rao giảng (Bultmann nghĩ thế).
Đức Hồng Y C. Martini đã phân biệt một cách hữu ích một vài nghĩa khác nhau của kiểu nói “lời Thiên Chúa”. Trong căn bản (nhất là như ý niệm Ba Ngôi), nó gợi ý về tính có thể truyền đạt (communicability) nơi Thiên Chúa. Do đó, nó có ý nói đến (1) các biến cố trong lịch sử cứu rỗi vì chữ Hípri dābār có nghĩa “lời, biến cố, thực tại”; (2) sứ điệp bằng lời nói của các sứ giả Thiên Chúa, nhất là các tiên tri và Chúa Giêsu; (3) con người Chúa Giêsu, Đấng là Ngôi Lời của Thiên Chúa (nhất là Ga 1:1); (4) lời rao giảng của Kitô giáo; (5)sứ điệp chung của Thiên Chúa gửi nhân loại; (6) Thánh Kinh. (Xem La Parola di Dio alle Origin della Chiesa [Rome, 1980] 56-58).
Dù đã thành qui điển nhờ được sử dụng từ lâu, “lời Thiên Chúa” không nên được sử dụng để nói về Sách Thánh nếu không có sự suy nghĩ thêm của khoa chú giải. Đúng là nó làm nổi bật các nguồn gốc thần thiêng của thông đạt Thánh Kinh và diễn tả thực tại và sức mạnh của nó. Tuy nhiên, “lời Thiên Chúa” trong hai truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo hoàn toàn khác với các sấm ngôn thần linh của các tôn giáo Hy Lạp và Cận Đông xưa: nó nhằm không những ban bố sự thật mà còn khuyến khích, an ủi, thách thức, v.v... Vì, trong thực tại viết duy nhất của chúng, các lời lẽ chứa đựng trong Thánh Kinh là lời lẽ của con người, nên “lời Thiên Chúa” nhất thiết là ngôn ngữ loại suy. Một khoảng cách phải được duy trì về phương diện ý niệm giữa việc phát biểu viết và việc tự thông đạt của Thiên Chúa xét trong yếu tính của nó, kể cả trường hợp các tiên tri. Về phương diện thần học, sẽ bớt hàm hồ hơn khi quả quyết rằng Sách Thánh làm chứng cho lời Thiên Chúa.
(III). Sự thật của Thánh Kinh
Mặc dù một số lý thuyết Thệ Phản bảo thủ về linh hứng biến sự thật của Thánh Kinh (tính không sai lầm hay vô ngộ của nó) thành điểm cơ bản của linh hứng Thánh Kinh. I.H. Marshall, một tác giả Tin Lành, đã ghi nhận một số vấn đề thích đáng:
“1.Trước nhất, Thánh Kinh sử dụng ngôn ngữ nhiều cách khác nhau... 2. Như thế, có sự kiện này: vấn đề sự thật có lẽ được giải đáp nhiều cách khác nhau, ở nhiều bình diện hiểu biết khác nhau... 3. Cách hiểu Thánh Kinh như là “sự thật phát xuất từ Thiên Chúa cũng có thể dẫn đến việc không đánh giá được các đoạn trong đó Thiên Chúa không nói với con người... 4. Một câu hỏi khác về sự thật của Thánh Kinh có thể là ‘thật đối với ai?’”
Ông kết luận “ý niệm ‘sự thật’ là một ý niệm phức tạp, và ta không dễ áp dụng nó vào mọi phần của Thánh Kinh” (Biblical Inspiration 54-57).
Việc tập trung vào tính không sai lầm có khuynh hướng rút gọn cuộc thảo luận thần học về linh hứng vào ý niệm được dẫn nhập lần đầu tiên vào cuộc thảo luận thần học thế kỷ 19. Hạn từ “không sai lầm (inerrancy) chưa bao giờ xuất hiện trong một bản văn công đồng (dù được tìm thấy trong các thông điệp giáo hoàng và trong sơ đồ nguyên thủy về linh hứng nhưng bị Vatican II bác bỏ. Tại Công đồng này, Đức Hồng Y Koenig cho thấy một số “sai lầm” trong các bản văn Thánh Kinh, những sai lầm ngài coi là “thiếu độ chính xác liên quan đến các vấn đề lịch sử và khoa học” (Commentary on the Documents of Vatican II [ed. H. Vorgrimler, NY 1969] 3, 205). Thực vậy, chính các Sách Thánh chưa bao giờ cho rằng mình không sai lầm. Sau cùng, các suy tư thần học nghiêm túc về bản chất của “sự thật” và “sai lầm” của Thánh Kinh phải xem xét trọn vẹn hình thức văn chương và bình diện và chức năng ngôn ngữ.
Ấy thế nhưng, có nhiều điều hữu ích từ một suy tư tích cực về sự thật Thánh Kinh, một sự thật cuối cùng là sự thật cứu rỗi. Các Kitô hữu thuộc các bối cảnh khác nhau nên có khả năng thỏa thuận và chấp nhận ngôn từ của Vatican II về giáo huấn của Thánh Kinh không sai lầm rằng sự thật mà Thiên Chúa muốn đặt vào các trước tác thánh là vì phần rỗi của chúng ta, một thỏa hiệp giữa những người muốn quả quyết sự thật của Thánh Kinh một cách tuyệt đối và những người có khuynh hướng sơ truyền (kerygmatic) tức những người quan niệm toàn bộ thực tại Thánh Kinh trong bối cảnh lịch sử cứu rỗi. Viễn kiến sơ truyền vốn được Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh hỗ trợ qua “Huấn Thị về Sự Thật Lịch Sử của Các Sách Tin Mừng”: “Rõ ràng học lý và đời sống của Chúa Giêsu không phải được tường trình chỉ nhằm mục đích được tưởng niệm, nhưng còn để được 'rao giảng'".. Còn về “sự thật” theo nghĩa Thánh Kinh, “ ‘sự thật’ (emeth) của Thiên Chúa chủ yếu liên hệ chặt chẽ với lòng tín trung của Người” (Loretz, Truth 83-84). Từ viễn kiến này, phản đề không hẳn là sai lầm, mà là lừa đảo hay bất trung. Sự thật của Sách Thánh hệ không hẳn ở điều này các đoạn văn của nó không sai lầm, nhưng đúng hơn hệ ở điều này: qua các đoạn văn ấy Thiên Chúa tỏ lòng trung thành của Người cho Dân Người, đem họ vào kết hợp yêu thương với Người.
(IV) Tương lai của việc lên lý thuyết về linh hứng
Liệu có còn hợp pháp chăng việc lên lý thuyết về linh hứng Thánh Kinh? Loretz đã hỏi thế trong Das Ende der Inspirations-theologie. Một cách còn triệt để hơn nữa, hai nhà chú giải anh em ruột A.T. và R.P.C. Hanson của Thệ Phản từng tuyên bố: “học lý xưa về sự linh hứng và tính không sai lầm của Thánh Kinh không những là điều bất khả đối với những người thông minh thời nay, mà còn tượng trưng cho một sự sái quậy, lạc đường trong học lý Kitô Giáo, bất chấp việc trong quá khứ, Chúa Thánh Thần đã có các sử dụng sinh ơn ích ra sao, Đấng vẫn thường biến các sai lầm nhân bản thành các mục đích tốt lành” (Reasonable Belief: A Survey of the Christian Faith [Oxford, 1980] 42).
Cả khi chúng ta bác bỏ luận điểm trên, coi nó như một phản ứng quá đáng, Đức Hồng Y C. Martini (Parola 42) đã nhận xét rất đúng rằng trong Giáo Hội, hiện đang thiếu (và đang rất ước ao) một khảo luận đầy đủ về linh hứng. Bất cứ khảo luận thỏa đáng nào về linh hứng cũng nên bắt đầu với chính thực tại Thánh Kinh. Vì sự hiểu biết về Thánh Kinh vẫn còn “đang diễn tiến”, thì sự hiểu biết về linh hứng nhất thiết cũng phải “đang diễn tiến” như vậy.
Kỳ sau: VII. Một số cập nhật
(I) Nơi người Thệ Phản
(A). Thuyết hộ trợ (concursive):
B.B Warfield (The Inspiration and Authority of the Bible [London, 1951]) và J.I. Packer (Fundamentalism and the Word of God [London, 1958]) là các phát ngôn viên rành rõi. Packer sử dụng “hành động hộ trợ” để mô tả vai trò Chúa Thánh Thần trong việc soạn thảo Thánh Kinh. Diễn trình nguyên nhân/hậu quả và học lý sáng thế/quan phòng là những cách khác nhau để nói về sự hiện hữu của vũ trụ thể lý thế nào, thì linh hứng và sự soạn tác của phàm nhân cũng là hai cách khác nhau để nói về sự hiện hữu của Sách Thánh như thế. Có cả cách hiểu thần học và nhân bản về cùng một hiện tượng vật chất; chúng không hiện hữu trên cùng một bình diện. Sáng thế/quan phòng là một tuyên bố thần học rằng vũ trụ bắt nguồn từ Thiên Chúa thế nào, thì linh hứng cũng là một tuyên bố thần học rằng Thánh Kinh bắt nguồn từ Thiên Chúa như thế. Học lý không cung cấp cho tín hữu Kitô một giải thích về việc linh hứng đã xẩy ra thế nào nhiều hơn là học lý sáng thế/quan phòng cung cấp một giải thích về việc sáng thế đã xẩy ra thế nào.
I.H. Marshall giải thích hành động hộ trợ như sau:
“Trên bình diện nhân bản, chúng ta có thể mô tả siệc soạn thảo ra nó (Thánh Kinh) theo các diễn trình bằng lời và bằng chữ viết đa dạng đứng đàng sau nó – một thu thập các tín liệu từ các nhân chứng, sử dụng các nguồn thành văn, viết ra và biên tập các tín liệu này, soạn các chữ bộc phát, bắt đầu viết các sứ điệp tiên tri, thu thập các tài liệu lại với nhau, v.v... Tuy nhiên, cùng một lúc, trên bình diện Thiên Chúa, chúng ta có thể quả quyết rằng Chúa Thánh Thần, Đấng từng bay là là trên mặt nước lúc Sáng Thế (St 1:2) rất tích cực trong toan bộ diễn trình này đến nỗi Thánh Kinh có thể được coi vừa như lời con người vừa như lời Thiên Chúa. Hành động của Chúa Thánh Thần này có thể được mô tả là “hộ trợ” với các hoạt động phàm nhân nhờ đó, Thánh Kinh đã được viết ra” (Biblical Inspiration 42).
(B). Tác phong theo sau (consequent behavior): Giới bác học Thệ Phản bảo thủ đã sản sinh phần lớn các trước tác gần đây về linh hứng; các nhà Thệ Phản cấp tiến thì trên thực tế thường âm thầm bác bỏ linh hứng. Đóng góp độc đáo là của W.J. Abraham (Divine Inspiration); ông là một nhà Tin Lành dựa nhiều vào chữ “inspire” của tiếng Anh hơn là dựa vào chính Sách Thánh hay ý niệm không sai lạc. Một thầy giáo tuyệt vời gây hứng cho học trò đến độ họ được dẫn tới tác phong bắt chước theo (gồm cả việc viết bản văn). Cũng thế, Thiên Chúa, qua hành vi mặc khải và cứu rỗi, linh hứng cho các tác giả Thánh Kinh đến độ họ được dẫn tới tác phong làm theo, nhất là trong việc viết các sách Thánh Kinh.
(C). Tân chính thống (neo-orthodoxy): Các quan điểm về linh hứng của K. Barth (1886-1968) đã được chấp nhận bởi nhiều tư tưởng gia chính dòng Thệ Phản. Barth dành một vị trí độc đáo cho Thánh Kinh bao lâu nó làm chứng cho hành vi mặc khải của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng chủ yếu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Linh hứng không phải là một phẩm tính của chính bản văn Thánh Kinh, nhưng là một khẳng định về một khả năng của Thiên Chúa trong việc dùng Thánh Kinh để thông đạt mặc khải cho con người, cả như những các nhân lẫn như các nhóm.
(II). Nơi Người Công Giáo Rôma
Tính hiện thực là đặc điểm của các trước Công Giáo gần đây về linh hứng. Thành phần cấu tạo ra cái hiểu của Vatican II về các bản văn Thánh Kinh là việc đánh giá cao phẩm tính nhân bản của chúng và các diễn trình sản xuất ra chúng. Các bản văn này, vốn là “lời Thiên Chúa”, cũng là lời lẽ của con người. Một số phương pháp luận giải thích khác nhau chỉ nhằm làm nổi bật tính người của Sách Thánh. Với tính người này như khởi điểm, các học thuyết Công Giáo gần đây về linh hứng đã tập chú vào một trong bốn khía cạnh sau đây:
(A). Các lý thuyết tâm lý học: Học giả gây ảnh hưởng P. Benoit vốn phân biệt linh hứng viết (scriptural Inspiration) tức linh hứng dẫn các tác giả đến chỗ sản sinh ra bản văn, với linh hứng thần kịch-lịch sử (dramatic-historical) tức xẩy ra trong các biến cố của lịch sử cứu rỗi) và linh hứng tiên tri-tông đồ (prophetic-apostolic) tức diễn ra trong việc công bố bằng lời các biến cố vừa nói. Sử dụng các phạm trù Thomist (một số bị bỏ trong các trước tác về sau) và là người thừa kế di sản của Lagrange, Benoit biến tâm thức (psyche) con người thành nguồn cứ liệu (locus) của linh hứng. Theo luận lý học, tiếp theo sự mặc khải mà nó vốn có liên hệ, linh hứng là một thúc đẩy (impulse) phải viết và cho ra đời một cuốn sách. Các vấn đề nào được lồng vào là tùy phán đoán của tác giả cũng như việc chúng phải được phát biểu và sắp xếp ra sao. Trong suốt diễn trình này, Thiên Chúa luôn hành động như nguyên nhân nguyên khởi của công trình sách thánh. (Benoit chủ yếu nhấn mạnh tới các tác giả cá thể của sách thánh).
(B). Các lý thuyết xã hội: Khoa phê bình hình thức vốn chứng minh rằng, tới một phạm vi khá lớn, không thể chỉ coi các sách Thánh Kinh như là sản phẩm văn chương của các tác giả cô lập nhau, giống như các sách hiện đại. Các người viết cá thể đều là thành viên của các cộng đồng đức tin, những cộng đồng không phải chỉ có ảnh hưởng qua loa trong việc hình thành chính nền văn chương Thánh Kinh. Đây là trọng điểm của nhiều lý thuyết xã hội đa dạng về linh hứng; các lý thuyết này lấy lại quan điểm thuở đầu coi tác giả như một viên chức của cộng đồng, dựa vào truyền thống và trước tác của cộng đồng này để xây dựng cộng đồng. J. Barr, một người phê phán chủ nghĩa cực đoan, viết:
“Nếu quả có linh hứng, thì nó phải trải dài suốt diễn trình sản xuất dẫn tới bản văn sau cùng. Do đó, linh hứng không được kết chặt vào một số nhỏ những người ngoại hạng... Nó phải trải dài trên một số đông hơn những con người vô danh... Phải coi nó thuộc về cộng đồng như một toàn thể nhiều hơn” (Holy Scripture: Canon, Authority, Criticism [Phl, 1983]).
Trong các giới Công Giáo Rôma, các lý thuyết xã hội về linh hứng chủ yếu liên hệ tới các tên tuổi như J.L. McKenzie (CBQ 24 [1962] 115-24), D.J. McCarthy và K. Rahner.
Cách tiếp cận phê bình hình thức nhấn mạnh tính liên thuộc giữa tác giả Sách Thánh và cộng đoàn của họ và các nhà phê bình hình thức có tính triệt để hơn giản lược “tác giả” hầu như vào vai trò một thư ký vô danh. Điều này đã dẫn tới việc bãi bỏ trên thực tế các lý thuyết tâm lý học về linh hứng. Nếu văn chương Thánh Kinh là biểu thức phức tạp của đức tin cộng đồng, thì linh hứng phức tạp hơn ảnh hưởng của Thiên Chúa đối với tác giả rất nhiều. Cách thế bất đồng trong việc nhìn vào việc soạn tác Sách Thánh này gần như đã dập tắt các cuộc thảo luận về linh hứng nơi các học giả và thần học gia Thánh Kinh trong các Giáo Hội chính dòng. May mắn thay, việc xuất hiện của khoa phê bình soạn tác (redaction criticism) đã chỉnh sửa một số bất cập của phương thức (chỉ) phê bình hình thức. Người viết sản xuất bản sách thánh sau cùng, dù chịu ảnh hưởng và dựa vào các người đi trước và cộng đồng, vẫn là một tác giả và thần học gia theo đúng nghĩa của nó.
(C). Các cách tiếp cận văn chương: Một số cách tiếp cận đối với việc nghiên cứu Thánh Kinh, tức các cách tiếp cận văn chương và cấu trúc, nhấn mạnh tới chính thực tại bản văn, do dó, mở đường cho một hình thức lên lý thuyết về linh hứng dựa vào bản văn. Mặc dù bản văn được hưởng một sự tự chủ nào đó về ngữ nghĩa (semantic), hai hoạt động nhân bản chủ yếu có liên quan tới bản văn: việc viết (và viết lại) và việc đọc (một hình thức viết trong trí). Tín lý linh hứng quả quyết rằng Chúa Thánh Thần chịu trách nhiệm đối với bản văn Thánh Kinh hiểu như một bản văn, nghĩa là liên quan đến cả hai chiều kích nhân bản vừa nói. Về việc viết, Chúa Thánh Thần hành động trong diễn trình dài nhờ đó một bản văn Thánh Kinh được sản xuất ra trong cộng đồng đức tin (nghĩa là bao gồm việc phát biểu truyền thống, các bản văn chưa đầy đủ, các bản thảo ban đầu, và việc viết lại). Về việc đọc, linh hứng được kể là thuộc tính của bản văn Thánh Kinh chính vì có một cộng đồng đức tin, dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, sẽ đọc và đồng nhất với bản văn Thánh Kinh này. Hiểu như thế, lý thuyết văn chương về linh hứng phản ảnh ý nghĩa tích cực của theopneustos ở 2Tm 3:16 và nhấn mạnh tới các chiều kích linh hứng từng được Calvin và Barth làm nổi bật.
Các chiều kích khác của bản văn cũng quan trọng cho việc hiểu đầy đủ về linh hứng, thí dụ ba chức năng căn bản của ngôn ngữ: thông tri, phát biểu và gây ấn tượng. Thánh kinh thông tri cho người đọc bằng cách cung cấp kiến thức và thông đạt sự thật, nhưng đây mới chỉ là một trong các chức năng của nó. Nó cũng phát biểu một điều gì đó về thực tại năng động của Thiên Chúa và gây ảnh hưởng hay ấn tượng nơi người nhận việc thông đạt ngôn ngữ nhiều cách khác nhau. Chúa Thánh Thần linh hứng can dự vào toàn bộ 3 chức năng ngôn ngữ này. Thực vậy, đóng góp lớn lao nhất của phương thức văn chương vào việc hiểu linh hứng có thể là việc họ nhấn mạnh tới toàn bộ thực tại bản văn.
Một chiều kích khác của bản văn mà việc phân tích bản văn làm ta chú ý tới là sự kiện này: bản văn “là việc sản xuất ý nghĩa” (R. Barthes). Các bản văn thường rút một phần ý nghĩa của chúng từ đơn vị bản văn lớn hơn mà chúng vốn thuộc về. Một câu nói cá thể của Chúa Giêsu là một phần của Sách Tin Mừng, sách này lại là một phần của Tân Ước, mà Tân Ước lại là một thành phần của Thánh Kinh. Thực tại này làm dội lại học lý cổ truyền chủ trương linh hứng “của các sách cả Cựu lẫn Tân Ước trong tính toàn thể của chúng gồm mọi phần” (Vatican II ở trên). Thánh kinh như một toàn bộ được linh hứng, và như một hệ luận, các phần của nó cũng được linh hứng. Truyền thống không quả quyết rằng vì các câu cá thể của Thánh Kinh được linh hứng, mà Thánh Kinh được coi là được linh hứng. (Việc tập chú vào việc linh hứng của một bản văn riêng rẽ có thể phát sinh một loại cực đoan). Cái hiểu tổng thể (holistic) này về bản văn ảnh hưởng lớn tới cái hiểu thỏa đáng về ý niệm sự thật Thánh Kinh. Tính không sai lầm phải được liên kết với quan điểm toàn bộ của một chủ đề.
Nhiều nhân tố được việc phân tích bản văn gần đây làm nổi bật đã hỗ trợ quan điểm của G. Turner cho rằng tín lý linh hứng dành cho Thánh Kinh đặc tính “nền văn chương của Đấng Bào Chữa” (paracletic litterature) tức nền văn chương của Chúa Thánh Thần. Ông giải thích (“Biblical Inspiration”, 427): “Thánh kinh như paraclete là Đấng Bào Chữa theo nghĩa là chứng tá cho Chúa Giêsu Kitô. Nó thường được dùng như một loại huấn đạo viên; chắc chắn đây là người phù trợ, người an ủi và người khuyến khích”.
(D). Các khía cạnh giáo hội
Các lý thuyết khác về linh hứng tập chú vào mối tương quan giữa Sách Thánh và Giáo Hội, vì linh hứng là “đặc sủng truyền thông bằng chữ viết lời của Thiên Chúa như là yếu tố cấu tạo nên Giáo Hội” (Collins, Introduction, 345). Các lý thuyết có tính giáo hội và thần học về linh hứng sẽ không có nếu không có loại suy với các lý thuyết sau đó về linh hứng. Rahner từng viết:
“Vì Thánh Kinh là một điều có tính dẫn khởi (derivative), nó cần được hiểu từ bản chất yếu tính của Giáo Hội, một bản chất vốn là sự thường hằng (permanence) có tính cánh chung và bất phản hội của Chúa Giêsu Kitô trong lịch sử... Như thế, Người (Thiên Chúa) là đấng linh hứng và tác giả của Thánh Kinh, mặc dù việc linh hứng Thánh Kinh ‘chỉ’ là một khoảnh khắc bên trong tác quyền nguyên ủy (primordial) của Thiên Chúa đối với Giáo Hội” (Foundations of Christian Faith [NY, 1978] 371, 375).
Quan điểm của Rahner đặt tác quyền của Thiên Chúa đối với Thánh Kinh vào bối cảnh một sự hiểu biết rộng rãi hơn và chính xác hơn về “tác quyền” nhưng cách tiếp cận của ngài đã bị chỉ trích bởi nhiều người đề xuất thuyết linh hứng soạn thảo; họ cho rằng ngài tập chú quá độc chiếm vào Chúa Giêsu, Đấng mà Sách Thánh làm chứng cho.
VI. Các hệ luận của tín lý linh hứng
(I). Giáo Hội sử dụng Thánh Kinh.
Hệ luận hay hệ quả đầu tiên của việc Chúa ThánhThần linh hứng Thánh Kinh là: nó có thế giá đối với các Kitô hữu và Giáo Hội. Về phương diện lịch sử, điều đó đã được thừa nhận qua việc lập ra qui điển Thánh Kinh, nghĩa là, bộ sách được Giáo Hội coi là chính thức. Thế giá Thánh Kinh cũng được phản ảnh qua việc sử dụng Thánh Kinh trong việc thờ phượng bằng phụng vụ, như là nguồn và qui phạm cho các công trình thần học, và cho lòng đạo đức bản thân và việc phát triển thiêng liêng của các Kitô hữu cá thể.
(II). Lời Chúa.
Hệ luận quan trọng thứ hai là Sách Thánh là lời của Thiên Chúa. Công thức truyền thống này, bề ngoài có vẻ đơn giản, nhưng thực sự hết sức phức tạp và hàm ý nhiều nghĩa. Một số người Tin Lành Thệ phản chủ trương một sự đồng nhất gần như thể lý giữa Sách Thánh và những lời thực sự được Thiên Chúa nói ra; họ coi là không thỏa đáng quan điểm cho rằng Sách Thánh chỉ chứng thực cho lời Thiên Chúa. Các Kitô hữu khác thì quả quyết rằng Thánh Kinh là lời Thiên Chúa trong khi vẫn chủ trương rằng Thiên Chúa không bao giờ thông đạt bằng lời cả (dù là lời bên trong; xem R.E. Brown, The Critical Meaning of the Bible [NY, 1981] 1-44). Một số nhà thần học Thệ Phản quả quyết rằng lời Thiên Chúa là một thực tại năng động; thành thử, Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa tuyệt hảo (Barth nghĩ thế). Sách Thánh quả thực là lời Thiên Chúa khi nó trở thành sống động trong việc công bố và rao giảng (Bultmann nghĩ thế).
Đức Hồng Y C. Martini đã phân biệt một cách hữu ích một vài nghĩa khác nhau của kiểu nói “lời Thiên Chúa”. Trong căn bản (nhất là như ý niệm Ba Ngôi), nó gợi ý về tính có thể truyền đạt (communicability) nơi Thiên Chúa. Do đó, nó có ý nói đến (1) các biến cố trong lịch sử cứu rỗi vì chữ Hípri dābār có nghĩa “lời, biến cố, thực tại”; (2) sứ điệp bằng lời nói của các sứ giả Thiên Chúa, nhất là các tiên tri và Chúa Giêsu; (3) con người Chúa Giêsu, Đấng là Ngôi Lời của Thiên Chúa (nhất là Ga 1:1); (4) lời rao giảng của Kitô giáo; (5)sứ điệp chung của Thiên Chúa gửi nhân loại; (6) Thánh Kinh. (Xem La Parola di Dio alle Origin della Chiesa [Rome, 1980] 56-58).
Dù đã thành qui điển nhờ được sử dụng từ lâu, “lời Thiên Chúa” không nên được sử dụng để nói về Sách Thánh nếu không có sự suy nghĩ thêm của khoa chú giải. Đúng là nó làm nổi bật các nguồn gốc thần thiêng của thông đạt Thánh Kinh và diễn tả thực tại và sức mạnh của nó. Tuy nhiên, “lời Thiên Chúa” trong hai truyền thống Do thái giáo và Kitô giáo hoàn toàn khác với các sấm ngôn thần linh của các tôn giáo Hy Lạp và Cận Đông xưa: nó nhằm không những ban bố sự thật mà còn khuyến khích, an ủi, thách thức, v.v... Vì, trong thực tại viết duy nhất của chúng, các lời lẽ chứa đựng trong Thánh Kinh là lời lẽ của con người, nên “lời Thiên Chúa” nhất thiết là ngôn ngữ loại suy. Một khoảng cách phải được duy trì về phương diện ý niệm giữa việc phát biểu viết và việc tự thông đạt của Thiên Chúa xét trong yếu tính của nó, kể cả trường hợp các tiên tri. Về phương diện thần học, sẽ bớt hàm hồ hơn khi quả quyết rằng Sách Thánh làm chứng cho lời Thiên Chúa.
(III). Sự thật của Thánh Kinh
Mặc dù một số lý thuyết Thệ Phản bảo thủ về linh hứng biến sự thật của Thánh Kinh (tính không sai lầm hay vô ngộ của nó) thành điểm cơ bản của linh hứng Thánh Kinh. I.H. Marshall, một tác giả Tin Lành, đã ghi nhận một số vấn đề thích đáng:
“1.Trước nhất, Thánh Kinh sử dụng ngôn ngữ nhiều cách khác nhau... 2. Như thế, có sự kiện này: vấn đề sự thật có lẽ được giải đáp nhiều cách khác nhau, ở nhiều bình diện hiểu biết khác nhau... 3. Cách hiểu Thánh Kinh như là “sự thật phát xuất từ Thiên Chúa cũng có thể dẫn đến việc không đánh giá được các đoạn trong đó Thiên Chúa không nói với con người... 4. Một câu hỏi khác về sự thật của Thánh Kinh có thể là ‘thật đối với ai?’”
Ông kết luận “ý niệm ‘sự thật’ là một ý niệm phức tạp, và ta không dễ áp dụng nó vào mọi phần của Thánh Kinh” (Biblical Inspiration 54-57).
Việc tập trung vào tính không sai lầm có khuynh hướng rút gọn cuộc thảo luận thần học về linh hứng vào ý niệm được dẫn nhập lần đầu tiên vào cuộc thảo luận thần học thế kỷ 19. Hạn từ “không sai lầm (inerrancy) chưa bao giờ xuất hiện trong một bản văn công đồng (dù được tìm thấy trong các thông điệp giáo hoàng và trong sơ đồ nguyên thủy về linh hứng nhưng bị Vatican II bác bỏ. Tại Công đồng này, Đức Hồng Y Koenig cho thấy một số “sai lầm” trong các bản văn Thánh Kinh, những sai lầm ngài coi là “thiếu độ chính xác liên quan đến các vấn đề lịch sử và khoa học” (Commentary on the Documents of Vatican II [ed. H. Vorgrimler, NY 1969] 3, 205). Thực vậy, chính các Sách Thánh chưa bao giờ cho rằng mình không sai lầm. Sau cùng, các suy tư thần học nghiêm túc về bản chất của “sự thật” và “sai lầm” của Thánh Kinh phải xem xét trọn vẹn hình thức văn chương và bình diện và chức năng ngôn ngữ.
Ấy thế nhưng, có nhiều điều hữu ích từ một suy tư tích cực về sự thật Thánh Kinh, một sự thật cuối cùng là sự thật cứu rỗi. Các Kitô hữu thuộc các bối cảnh khác nhau nên có khả năng thỏa thuận và chấp nhận ngôn từ của Vatican II về giáo huấn của Thánh Kinh không sai lầm rằng sự thật mà Thiên Chúa muốn đặt vào các trước tác thánh là vì phần rỗi của chúng ta, một thỏa hiệp giữa những người muốn quả quyết sự thật của Thánh Kinh một cách tuyệt đối và những người có khuynh hướng sơ truyền (kerygmatic) tức những người quan niệm toàn bộ thực tại Thánh Kinh trong bối cảnh lịch sử cứu rỗi. Viễn kiến sơ truyền vốn được Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh hỗ trợ qua “Huấn Thị về Sự Thật Lịch Sử của Các Sách Tin Mừng”: “Rõ ràng học lý và đời sống của Chúa Giêsu không phải được tường trình chỉ nhằm mục đích được tưởng niệm, nhưng còn để được 'rao giảng'".. Còn về “sự thật” theo nghĩa Thánh Kinh, “ ‘sự thật’ (emeth) của Thiên Chúa chủ yếu liên hệ chặt chẽ với lòng tín trung của Người” (Loretz, Truth 83-84). Từ viễn kiến này, phản đề không hẳn là sai lầm, mà là lừa đảo hay bất trung. Sự thật của Sách Thánh hệ không hẳn ở điều này các đoạn văn của nó không sai lầm, nhưng đúng hơn hệ ở điều này: qua các đoạn văn ấy Thiên Chúa tỏ lòng trung thành của Người cho Dân Người, đem họ vào kết hợp yêu thương với Người.
(IV) Tương lai của việc lên lý thuyết về linh hứng
Liệu có còn hợp pháp chăng việc lên lý thuyết về linh hứng Thánh Kinh? Loretz đã hỏi thế trong Das Ende der Inspirations-theologie. Một cách còn triệt để hơn nữa, hai nhà chú giải anh em ruột A.T. và R.P.C. Hanson của Thệ Phản từng tuyên bố: “học lý xưa về sự linh hứng và tính không sai lầm của Thánh Kinh không những là điều bất khả đối với những người thông minh thời nay, mà còn tượng trưng cho một sự sái quậy, lạc đường trong học lý Kitô Giáo, bất chấp việc trong quá khứ, Chúa Thánh Thần đã có các sử dụng sinh ơn ích ra sao, Đấng vẫn thường biến các sai lầm nhân bản thành các mục đích tốt lành” (Reasonable Belief: A Survey of the Christian Faith [Oxford, 1980] 42).
Cả khi chúng ta bác bỏ luận điểm trên, coi nó như một phản ứng quá đáng, Đức Hồng Y C. Martini (Parola 42) đã nhận xét rất đúng rằng trong Giáo Hội, hiện đang thiếu (và đang rất ước ao) một khảo luận đầy đủ về linh hứng. Bất cứ khảo luận thỏa đáng nào về linh hứng cũng nên bắt đầu với chính thực tại Thánh Kinh. Vì sự hiểu biết về Thánh Kinh vẫn còn “đang diễn tiến”, thì sự hiểu biết về linh hứng nhất thiết cũng phải “đang diễn tiến” như vậy.
Kỳ sau: VII. Một số cập nhật
Thông Báo
Tất cả những người Công Giáo trên thế giới xin hãy ký thỉnh nguyện thư kháng cáo cho ĐHY George Pell
VietCatholic Network
16:05 14/03/2019
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Đức Hồng Y Gerhard Müller, nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin nói với tờ National Catholic Register rằng việc khởi tố Đức Hồng Y Pell và giam giữ ngài là “một sự chà đạp công lý nghiêm trọng”, xuất phát từ lòng thù hận đức tin, dựa trên những cáo buộc “vô bằng, vô cớ” và “hoàn toàn không thể nào tin được”.
Theo Đức Hồng Y Müller, vụ khởi tố Đức Hồng Y Pell là sản phẩm của “một nền công lý băng hoại” bị lèo lái bởi các thế lực thù ghét Giáo Hội Công Giáo.
Kết luận của tòa án ở Melbourne “hoàn toàn đi ngược lại tất cả lý trí và công lý”. Cái công lý của đám đông đang hò hét hiện nay, theo Đức Hồng Y, giống như hiểu biết về công lý vào thời vua Henry VIII.
Hơn thế nữa, trong một quyết định thể hiện rõ lòng thù hận đối với Đức Hồng Y George Pell, tòa án tại Melbourne đã quyết định truyền hình trực tiếp buổi đọc phán quyết kết tội Đức Hồng Y vào ngày thứ Tư 13 tháng Ba, như một hình thức lăng mạ công khai ngài. Đó là lần đầu tiên một phiên tòa như thế được trực tiếp truyền hình tại Úc.
Chúng ta không thể chấp nhận một hình thức bách hại tôn giáo trắng trợn như thế ngay trong một xã hội dân chủ.
Thực hiện đúng các nguyên tắc dân chủ, và thực thi tình liên đới của các tín hữu trong Hội Thánh, chúng ta cực lực phản đối bản án này và ký vào thỉnh nguyện thư sau xin kháng cáo cho Đức Hồng Y George Pell. Ai ký cũng được, không cần phải là công dân Úc. Xin nhấn vào đây.
Muốn hiểu thêm về bản án của Đức Hồng Y Pell, xin nhấn vào đây.
Xin chân thành cám ơn.
Ghi chú: Nếu click vào không được thì copy địa chỉ này rồi dán (paste) vào trong browser: http://tinyurl.com/yxow7q9f
Đức Hồng Y Gerhard Müller, nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin nói với tờ National Catholic Register rằng việc khởi tố Đức Hồng Y Pell và giam giữ ngài là “một sự chà đạp công lý nghiêm trọng”, xuất phát từ lòng thù hận đức tin, dựa trên những cáo buộc “vô bằng, vô cớ” và “hoàn toàn không thể nào tin được”.
Theo Đức Hồng Y Müller, vụ khởi tố Đức Hồng Y Pell là sản phẩm của “một nền công lý băng hoại” bị lèo lái bởi các thế lực thù ghét Giáo Hội Công Giáo.
Kết luận của tòa án ở Melbourne “hoàn toàn đi ngược lại tất cả lý trí và công lý”. Cái công lý của đám đông đang hò hét hiện nay, theo Đức Hồng Y, giống như hiểu biết về công lý vào thời vua Henry VIII.
Hơn thế nữa, trong một quyết định thể hiện rõ lòng thù hận đối với Đức Hồng Y George Pell, tòa án tại Melbourne đã quyết định truyền hình trực tiếp buổi đọc phán quyết kết tội Đức Hồng Y vào ngày thứ Tư 13 tháng Ba, như một hình thức lăng mạ công khai ngài. Đó là lần đầu tiên một phiên tòa như thế được trực tiếp truyền hình tại Úc.
Chúng ta không thể chấp nhận một hình thức bách hại tôn giáo trắng trợn như thế ngay trong một xã hội dân chủ.
Thực hiện đúng các nguyên tắc dân chủ, và thực thi tình liên đới của các tín hữu trong Hội Thánh, chúng ta cực lực phản đối bản án này và ký vào thỉnh nguyện thư sau xin kháng cáo cho Đức Hồng Y George Pell. Ai ký cũng được, không cần phải là công dân Úc. Xin nhấn vào đây.
Muốn hiểu thêm về bản án của Đức Hồng Y Pell, xin nhấn vào đây.
Xin chân thành cám ơn.
Ghi chú: Nếu click vào không được thì copy địa chỉ này rồi dán (paste) vào trong browser: http://tinyurl.com/yxow7q9f
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Chớm Xuân Hoa Cười
Thérésa Nguyễn
21:04 14/03/2019
CHỚM XUÂN HOA CƯỜI
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Tạ ơn mưa nắng Chúa ban
Cuối đông hoa đã hân hoan dạt dào.
(tn)
Ảnh của Thérésa Nguyễn
Tạ ơn mưa nắng Chúa ban
Cuối đông hoa đã hân hoan dạt dào.
(tn)
VietCatholic TV
Quyết định của tòa án lăng mạ công khai Đức Hồng Y George Pell sẽ là một chấn thương lâu dài
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
05:14 14/03/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đúng 10 giờ sáng thứ Tư 13 tháng Ba, 2019, giờ địa phương Melboune, chánh án Peter Kidd đã bắt đầu phiên toà lên án Đức Hồng Y Pell với một bài thuyết trình trước khi lên án kéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ nhằm biện hộ cho một bản án bất công và phi lý.
Đức Hồng Y bị kêu án “sáu năm tù vì lạm dụng 2 bé trai trong thập niên 1990”. Trong đó, hết 3 năm 8 tháng không được nạp đơn xin ân xá.
Và dù biết có thể ngài không sống đủ thời gian ngồi tù, Kidd vẫn kêu bản án trên. Thực vậy, ông ta bảo: “Tôi ý thức rõ thời gian ngồi tù mà tôi sắp sửa áp đặt lên ông mang theo nó một khả thể có thật, khác hẳn lý thuyết, đó là ông có thể không sống để được thả ra khỏi nhà tù”.
Cuộc trực tiếp truyền hình của Đài Số 7 chủ yếu chiếu chánh án Kidd đọc bài thuyết trình của ông ta, thỉnh thoảng lại chiếu bên cạnh một số hình ảnh “thời sự” liên quan đến Đức Hồng Y Pell, các người biểu tình ở bên ngoài, phần lớn là chống lại Đức Hồng Y. Chỉ có hai người đứng cầu nguyện nghiêm chỉnh, một người cầm tràng hạt. Không thấy chiếu quang cảnh bên trong tòa án, kể cả hình ảnh Đức Hồng Y Pell tại tòa. Rất đông các linh mục hiện diện trong phiên tòa này.
Đức Hồng Y Pell được tường thuật đứng với hai tay để sau lưng khi chánh án đọc to bản án và không phản ứng gì. Một trong những người ủng hộ ngài lấy tay ôm mặt khóc khi bản án được đọc to, trong khi một người đàn bà khác an ủi bà này. Phòng tòa án im lặng suốt buổi lên án, kể cả lúc chánh án Kidd đọc án tù, và hầu như mọi người trong phòng đều quay đầu nhìn Đức Hồng Y trước vành móng ngựa. Ngài dùng gậy rời khỏi phiên tòa dưới sự hộ tống của 4 nhân viên gác nhà tù. Không ai nói gì và ngài cũng không chào hỏi ai.
Chánh án Kidd bào chữa việc cho trực tiếp truyền hình phiên kêu án Đức Hồng Y Pell. Y bác bỏ lập luận của luật sư bênh vực rằng quyết định cho trực tiếp truyền hình các nhận định lúc kêu án tạo thành một hình phạt phụ trội nhằm lăng mạ công khai Đức Hồng Y Pell.
Chúng tôi xin lập lại ở đây nhận định của Đức Hồng Y Gerhard Müller, nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin. Ngài nói với tờ National Catholic Register rằng việc khởi tố Đức Hồng Y Pell và giam giữ ngài là “một sự chà đạp công lý nghiêm trọng”, xuất phát từ lòng thù hận đức tin, dựa trên những cáo buộc “vô bằng, vô cớ” và “hoàn toàn không thể nào tin được”. Đây là một bản án bất công, vô lý và cần được gọi đích danh là một sự bách hại tôn giáo.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Tiến sĩ George Weigel, người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và hiện là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, nơi ông giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban William E. Simon về Các Nghiên cứu Công Giáo, có bài nhận định về biến cố này đăng trên tờ First Things với nhan đề: Our Dreyfus Case
Mở đầu bài viết, Tiến sĩ George Weigel thuật lại rằng:
Tháng 12 năm 1894, Đại úy Alfred Dreyfus của Quân đội Pháp bị kết tội phản quốc với lý do ông đã trao bí mật quân sự cho kẻ thù truyền kiếp của nước Pháp là nước Đức. Cáo buộc này là sai; Dreyfus, một người Do Thái, đã bị gài bẫy. Phiên tòa của ông bị bao vây bởi sự cuồng loạn của đám đông, và những người không nắm bắt được sự thật nhảy mừng hả hê khi Dreyfus bị kết án tù chung thân trên hòn đảo Quỷ Sứ ở Guiana thuộc Pháp, mà nỗi kinh hoàng khi phải sống tại đây được ghi lại một cách sống động trong bộ phim Papillon.
Vụ Dreyfus đã làm sôi động chính trị Pháp hàng thế hệ, chia rẽ quốc gia này thành “Dreyfusards” - những người ủng hộ Dreyfus và những người chống Dreyfus. Mùi hôi thối của chủ nghĩa bài Do Thái vần vũ trên tất cả chuyện này. Một người Công Giáo đã không chịu khuất phục trước tâm lý bài Do Thái ngàn đời tại Âu Châu là Đức Giáo Hoàng Lêô XIII. Ngài đã nói với chủ bút của báo Figaro ở Paris rằng những đau khổ của Dreyfus nhắc nhở ngài về Đồi Canvê. Năm 1906, những người Dreyfusards thấy người đàn ông được họ ủng hộ được minh oan, nhưng những vết thương trong xã hội Pháp do vụ Dreyfus gây ra vẫn mở và còn mưng mủ rất lâu sau khi Dreyfus trở lại quân đội và được vinh danh trong Thế chiến thứ Nhất.
Phán quyết kết án Đức Hồng Y George Pell vào tháng 12 năm 2018 về “các cáo buộc lạm dụng tình dục trong lịch sử” là một câu chuyện Dreyfus thời nay.
Kể từ khi những cáo buộc đó được đặt ra cách đây một năm rưỡi, một bầu không khí cuồng loạn trong công luận, được thúc đẩy bởi chủ nghĩa bài Công Giáo siêu thế tục, đã vây quanh vụ án. Sự thù hằn đó đã được tăng cường bởi cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục trên toàn cầu, bất chấp thực tế rằng Đức Hồng Y Pell là giám mục hàng đầu của Úc chống lại lạm dụng tình dục. Không thể tin được rằng bầu không khí cuồng loạn của đám đông giống như trong trường hợp Dreyfus lại không có chút ảnh hưởng méo mó nào đối với hai phiên tòa của Đức Hồng Y Pell. Mặc dù các phiên tòa được tổ chức dưới lệnh cấm tường trình trên các phương tiện truyền thông của Úc, sự bất hợp lý và nọc độc, gây nên bởi sự thiên vị của giới truyền thông, đã hoàn thành công việc của chúng trước đó rồi.
Phiên tòa xét xử đầu tiên vào mùa thu năm ngoái đã kết thúc với một bồi thẩm đoàn đã bỏ phiếu 10-2, trong đó 10 người quyết định rằng Đức Hồng Y vô tội và chỉ có 2 người quyết liệt cho rằng Đức Hồng Y là có tội (đại diện bồi thẩm đoàn đã khóc khi báo cáo về sự bế tắc không làm sao thuyết phục được sự đồng thuận của 2 người kia). Phiên tòa thứ hai, thật đáng kinh ngạc, đã kết thúc với bản án 12-0 để kết tội ngài: mặc dù cáo buộc của nguyên cáo chẳng được bất kỳ ai ủng hộ trước tòa [có đến 20 người tuyên thệ trước tòa rằng cáo buộc chống lại Đức Hồng Y là không thể nào xảy ra và chính bà mẹ của người được cho là nạn nhân thứ hai tuyên thệ rằng con bà đã nói với bà trước khi chết rằng anh ta chưa bao giờ bị bất cứ ai lạm dụng tính dục]; và bất chấp thực tế là cảnh sát đã không có bất cứ chứng minh nào thu được từ hiện trường được cho là nơi tội phạm đã xảy ra; và các luật sư bào chữa cho Đức Hồng Y đã chỉ ra mười điểm vô lý trong cáo buộc của nguyên cáo, là những điều không thể nào xảy ra trong một không gian được kiểm soát cẩn thận của nhà thờ chính tòa St. Patrick của Melbourne.
Có những điểm khác biệt rõ ràng giữa vụ Đại Úy Dreyfus và vụ án Đức Hồng Y Pell: Dreyfus bị tấn công bởi những kẻ bảo hoàng và bài Do Thái, trong khi các cuộc tấn công vào Đức Hồng Y George Pell trong một phần tư thế kỷ qua, chủ yếu, là từ những người theo chủ nghĩa thế tục hiếu chiến. Tuy nhiên, lòng hận thù vô biên của những người theo chủ nghĩa bảo hoàng Pháp và những người bài Do Thái đối với tín hữu Do Thái Giáo Alfred Dreyfus, lại rất giống với lòng thù ghét cay nghiệt của những người cấp tiến thế tục đối với Đức Hồng Y George Pell. Dreyfus là hiện thân của nỗi sợ hãi và lòng thù hận của những người Pháp bảo hoàng vẫn đang chiến đấu chống lại Cách mạng Pháp; còn Đức Hồng Y Pell là hiện thân của những gì văn hóa và chính trị ở Úc lo sợ và thù ghét: đó là đạo lý và luân lý Kitô chính thống, bao gồm việc bảo vệ mạnh mẽ quyền sống từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên và dấn thân để hôn nhân có thể được hiểu một cách đúng đắn. Hơn thế nữa, Đức Hồng Y Pell đã chồng chất thêm lòng thù hận trong mắt các kẻ thù của mình khi không ngại tham gia vào các cuộc tranh luận công khai bất tận, trong đó ngài thách thức các xu hướng chính trị về mọi thứ, từ biến đổi khí hậu đến Chủ nghĩa Vô thần mới.
Đối với những người chống Dreyfus, Đại úy Alfred Dreyfus không có chỗ đứng trong Quân đội Pháp và không thể tham gia vào một xã hội Pháp đã được sắp đặt theo đúng trật tự; vì vậy anh ta phải bị tiêu diệt. Đối với những kẻ đã tạo ra một bầu không khí thù hận trong công luận ở Úc để lật được quyết định tha bổng 10-2 thành một bản án nhất trí kết tội đối với các tội danh vô bằng vô chứng, Đức Hồng Y George Pell phải bị hủy diệt, để cuộc cách mạng về tự do trong lối sống của Úc và chủ nghĩa cấp tiến chính trị có thể được tiến hành mà không bị cản trở.
Đức Hồng Y Pell đang phải ngồi tù và ngài sẽ kháng cáo bản án không chính đáng và bất công này. Bất cứ ai quan tâm đến công lý, dù là tín hữu của một tôn giáo hay là người không có niềm tin tôn giáo, đều phải hy vọng rằng hội đồng xét xử phúc thẩm kết luận rằng bản án của Đức Hồng Y Pell là một điều mà luật pháp Úc gọi là phán quyết không an toàn, vì bồi thẩm đoàn không thể đưa ra kết luận hợp lý dựa trên các bằng chứng đáng tin cậy.
Tuy nhiên, ngay cả khi công lý được thực thi và Đức Hồng Y Pell được trả tự do, Úc và phần còn lại của phương Tây, sẽ phải suy nghĩ rất lâu về việc tại sao có thể xảy ra một chuyện bi thảm như thế này, như trong trường hợp của nước Pháp sau khi xảy ra vụ Dreyfus.