Ngày 01-03-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:22 01/03/2009
PHÁN ĐOÁN

N2T


- “Con phải làm thế nào để tha thứ cho người khác ?”

- “Nếu con không kết tội, thì con cũng không cần phải tha thứ.”


(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Không kết tội người khác cho nên không cần phải tha thứ cho người khác, câu trả lời thật chí lý.

Chúa Giê-su dạy chúng ta đừng đoán xét ai cả thì cũng sẽ không bị đoán xét, bởi vì khi đoán xét thì chúng ta cũng chỉ đem cái kiêu ngạo và ích kỷ của mình ra để đoán xét anh chị em mà thôi, do đó mà đoán xét của chúng ta rất là sai lầm.

Có một vài người Ki-tô hữu thích kết tội người khác và thích làm vẻ kẻ cả tha thứ cho người khác, trong lúc mình bị cái xà cột che khuất con mắt tâm hồn.

Cứ vui vẻ tự nhiên và thành thật mà sống với mọi người thì chẳng biết kết tội ai, bởi vì không ai kết tội người thành thật, nhưng chỉ có người dối gian xảo quyệt mới kết tội người thành thật đơn sơ mà thôi.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:25 01/03/2009
N2T


95. Bếu con muốn cho Thiên Chúa thỏa mãn, thì Thiên Chúa cũng sẽ làm cho con thỏa mãn.

(Thánh Cyprianus)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
00:27 01/03/2009
N2T


39. Chín mươi phần trăm trước mặt “có thể” đều là từ “không” mà bắt đầu.

 
Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng
Phanxicô Xaviê
04:21 01/03/2009
HÃY SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG

Chiều thứ tư lễ Tro, 25-2-2009, ĐTC Biển Đức đã chủ sự cuộc rước kiệu sám hối từ nhà thờ thánh Anselmo của dòng Biển Đức tới đền thờ thánh nữ Sabina của dòng Đa Minh và chủ sự thánh lễ tại đền thờ này với nghi thức bỏ tro mở đầu Mùa Chay Thánh. Trong bài giảng, ĐTC đặc biệt quảng diễn lời mời gọi của thánh Phaolô tông đồ trong thư thứ 2 gửi tín hữu Corinto: ”Nhân danh Chúa Kitô, tôi nài xin anh em: hãy hòa giải với Thiên Chúa” (5,2). Lời mời gọi này của Thánh nhân như một lời kích thích hãy nghiêm túc thực thi lời kêu gọi của mùa chay về sự hoán cải. (Nguồn: Vatican)

Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của nó. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc thật. Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc.

Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn xuống dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc lá cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.

Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đi đây đi đó, ông tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.

Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu.. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng: bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: "Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Tôi cũng không muốn cầm tiền của một người hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua thế giới của ông". Nói xong, người hành khất ném cả chiếc ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.

Đã hut xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất.Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này, ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.

Không gì buồn chán bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho người ta chán chường và đau khổ nhất.

Thật vậy, sống thân phận con người là sống chiến đấu không ngừng khi luôn phải chọn lựa. Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người cũng không ngoại lệ. Người đã bị Satan cám dỗ bốn mươi ngày đêm trong hoang mạc.

Khi phải sống một mình trong nơi thanh vắng, theo lẽ thường sự cô độc luôn là cơ hội cho nhiều cơn cám dỗ lôi kéo con người sa ngã. Tuy nhiên theo cách trình bày của Tin Mừng Maccô cho thấy, việc các Thiên Thần hầu hạ Đức Giêsu như là dấu chỉ Người luôn gắn bó mật thiết với Thiên Chúa. Nên Người đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.

Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê được Maccô tóm tắt trong các câu 14-15. Sau biến cố Gioan Tẩy giả bị bắt, kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây được Gioan làm phép rửa cho, nay trở lại Galilê và tại đó, bắt đầu công trình cứu chuộc của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu đó là Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy đến từ Thiên Chúa và nói về Thiên Chúa. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Và Người kêu gọi chúng ta "hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".

Đã chọn lựa thì đòi hỏi phải hy sinh, phải từ bỏ nếp sống cũ, nghĩa là hoán cải để theo Đức Kitô đến cùng. Như lời thánh Phêrô đã nói trong thư thứ nhất: "Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng." (1Pr 3, 21)

Khi đã chọn Đức Giêsu và xin chịu phép rửa tội, Kitô hữu cũng chia sẻ số phận của Chúa. Satan sẽ tấn công tất cả những ai thuộc về Người, như đã từng tấn công, cám dỗ chính Đức Giêsu. Vì vậy, cũng trong bài giàng nhân ngày lễ khai mạc Mùa Chay, ĐTC nói thêm rằng ”Để Chúa Kitô có thể hoàn toàn hiển trị nơi mình, tín hữu đã chịu phép rửa phải trung thành tuân theo các giáo huấn của Chúa; không bao giờ quên tỉnh thức canh chừng, để đối thủ có thể phục hồi những gì hắn đã mất”.

Trong cuộc đời trần thế của mình, nếu mọi Kitô hữu luôn tin tưởng vào Lời Chúa thì sẽ đứng vững, nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì bị sụp đổ và sa ngã như người đàn ông chán đời nọ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó đã sống hòa bình với dã thú và được các Thiên Thần hầu hạ. Xin Chúa cho tất cả mọi người luôn biết gắn bó với Tin Mừng của Chúa là chính Đức Giêsu, để sống thực sự hoán cải, ra sức sửa đổi đời sống mình để ngày càng hiểu biết và tin yêu Chúa Giêsu hơn.
 
Mỗi Ngày Một Câu Kinh Thánh - Từ ngày 01 đến 15.03.2009
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
08:16 01/03/2009
MỖI NGÀY MỘT CÂU KINH THÁNH

Từ ngày 01 đến 15 -03-2009

Ngày 01-03-09: Người nói: Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. (Mc 1, 15)

Câu này gồm 3 ý:1/ Thời kỳ đã mãn. 2/Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. 3/ Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Để thực hành ba điều trên, bạn và tôi cần đọc Lời Chúa để Thánh Thần dẫn dắt.

Ngày 02-03-09: Người bảo họ: Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. (Mc 1, 17)

Khi tôi quyết tâm theo Chúa, thì Ngài sẽ đồng hành với tôi qua sự nhắc nhở của Chúa Thánh Thần, để tôi có một sức mạnh và can đảm.

Ngày 03-03-09: Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mẹ mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền.., mà đi theo Người. (Mc 1, 20)

Các môn đệ đầu tiên là Si-mon, Anrê, Giacôbê và Gioan đã mau mắn bỏ gia đình và nghề nghiệp để theo Chúa Giêsu. Bạn và tôi hăng hái đáp lại tiếng Chúa vào chức vụ đang sắp lãnh nhận hôm nay.

Ngày 04-03-09: Bà Maria thưa với sứ thần: Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng.” (Lc 1, 34)

Mẹ Maria đã hỏi sứ thần do lòng tin, đi tìm chân lý là Thiên Chúa. Tôi cần khiêm tốn, cầu nguyện, dè dặt trong mọi biến cố xảy đến.

Ngày 05-03-09: Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là Thánh, và sẽ được gọi là con Thiên Chúa. (Lc 1, 35)

Đây là tước hiệu nhiệm mâù giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Mẹ Maria yên tâm vì Chúa Thánh Thần tác tạo nên Con Đấng Tối Cao. Xin giúp con biết lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo trong mọi lúc.

Ngày 06-03-09: Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 38)

Thái độ của Mẹ Maria là tin tưởng, lắng nghe, can đảm và phó thác. Xin Mẹ dạy con đọc Lời Chúa hàng ngày để có sự khôn ngoan của Chúa Thánh Linh trong sự vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa.

Ngày 07-03-09: Họ lại hỏi ông Gioan: Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không? Ông nói: Không phải – Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?- Ông đáp: Không. (Ga 1, 21)

Xin giúp con chu toàn ơn Chúa gọi trong nhiệm vụ hiện tại, để con mạnh dạn nói về Chúa và với Chúa nhiều.

Ngày 08-03-09: Ông nói:

Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:

Hãy dọn đường thẳng để Đức Chúa đi. (Ga 1, 23)

Ông Gioan rất khiêm tốn, xưng mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc. Xin giúp con luôn trung thành với Sứ mệnh Chúa đang trao.

Ngày 09-03-09: Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình liền nói: Đây là chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian. (Ga 1,29)

Ông Gioan đã nói chiên lễ Vượt Qua là Đưc Giêsu Kitô. Xin giúp con không làm nộ lệ cho tội lỗi, để cùng chết với Chúa mỗi ngày.

Ngày 10-03-09: Họ cầu nguyện rằng: lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người, xin chỉ cho con thấy Chúa chọn ai…(Cv 1, 23)

Cầu nguyện là hơi thở của mọi Tín hữu có lòng tin tưởng. Con đọc Kinh Thánh với lòng trông cậy và luôn cầu nguyện với Lời Chúa.

Ngày 11-03-09: Trong ngày lễ Ngũ tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát xuất ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. (Cv 2, 1-2)

Cầu nguyện là một phương thế hữu hiệu nhất để Chúa hành động. Xin Chúa giúp con tha thiết cầu nguyện trước mọi quyết định.

Ngày 12-03-09: Rồi họ thấy xuất hiện những hình giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. (Cv 1, 3)

Lưỡi lửa là hình ảnh của Thánh Thần ban ơn ngôn ngữ cho các tông đồ. Xin tẩy rửa miệng lưỡi con để giảng dạy Lời Chúa.

Ngày 13-03-09: Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh của Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do thái, sau là người Hy lạp. (Rom 1, 16)

Sức mạnh của Tin Mừng dành cho mọi người không phân biệt ai. Xin giúp con hăng hái đem Lời Chúa đến với tất cả mọi người.

Ngày 14-03-09: Vì trong Tin Mừng sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin đứa đến đức tin…(Rom 1, 17)

Nhờ Phúc Âm làm cho con người được giao tiếp với Thiên Chúa. Xin giúp con lòng tin, cậy mến trong mọi khó khăn của cuộc sống.

Ngày 15-03-09: Thật vậy, từ trời Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính… (Rom 1, 18)

Phaolô muốn nói về sự nguy hiểm thế giới không có Tin Mừng. Xin cho mọi người biết tìm về Lời Chúa là sự công chính để được sống.

Phó tế: JB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
 
Sự hoán cải của Thánh Phaolô
Jos. Tú Nạc
14:47 01/03/2009
Vào đầu thập niên 1960, Krister Stendahl, một học giả thông thái Kinh Thánh đã cải thiện và đưa ra những gì, và đã trở nên nổi tiếng vì “phép phối cảnh mới về Thánh Phaolô.” Bài báo của ông có tựa đề “Paul and the Introspective Conscience of the West” (“Thánh Phaolô và Sự Tự vấn Lương tâm của Phương Tây” - lần đầu tiên được xuất bản bằng Anh ngữ vào năm 1963).

Học giả Thụy Điển này bắt đầu bằng yêu sách mà những độc giả phương Tây đã phạm sai lầm trầm trọng khi nhận thức về Thánh Phaolô chủ yếu qua thánh Augustine và Martin Luther, việc nhìn nhận sự thay đổi một lương tâm day dứt, kết án tội lỗi bởi Điều Luật. Đối với một lương tâm quảng đại đã an ủi, xoa dịu bởi Đức Ki-tô và món quà lượng thứ của Người.

Thay và đó, bình luận gia Harvard đã thuyết phục chúng ta hãy hiểu Thánh Phaolô như có một nội tâm “tráng kiện” để ông có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng ông “hoàn thiện” trong việc thực thi Điều Luật và không lệ thuộc một cách nhu nhược trong việc tuân thủ Điều Luật (Philippians 3: 6)

Trong ánh sáng của sự cố đầy kịch tính đã diễn ra trên Damascus Road, vì đã được thuật lại ba lần trong Acts của các Tông đồ (chương 9, 22, 26), chúng ta biết rằng Thánh Phaolô đã cân nhắc sự thành tựu huy hoàng của ông như một người Do Thái công chính, nhìn lại quá khứ, được xem như “đồ bỏ” bởi lòng thương cảm với niềm tin nơi Đức Ki-tô như dân Messiah.

Sau đó, Stendahl nhận thức những xác tín của Thánh Phaolô dưới một lăng kính mới, những viẽc đó của Thánh Phaolô được dân Pharasee tin tưởng. Quả thật, lời tuyên bố của Thánh Phaolô “Chúa Ki-tô bước vào thế giới để cứu vớt những người tội lỗi mà trong số đó tôi là người đầu tiên” (1 Timothy 1: 15) phải hiểu như một sự biểu đạt - không phải là ăn năn, mà là sự nhận thức của Thánh Phaolô rằng ông không biết Thiên Chúa với lòng nhân từ của Người bộc lộ cho ông như dân Messiah trung thành của Người.

Khi Thánh Phaolô đưa ra ngụ ý cho hướng đi mới của mình trong cuộc đời, ông đã nói đến sự bộc lộ của Chúa Giêsu trong ông tới Thiên Chúa, chú ý rằng “Thiên Chúa, người đã đặt để tôi riêng trước khi tôi được sinh ra và đã gọi tôi thông qua ân huệ của Người là niềm hạnh phúc để bộc lộ Con của Người cho tôi” (Galatians 1: 15-16)

Điều này là lời tái định hướng hoàn toàn phong cách sống, có thể nói Thánh Phaolô không còn một cuộc sống vị kỷ mà đúng hơn là cho Chúa Ki-tô. “Tôi không còn sống trong tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi. Và cuộc đời tôi giờ đây đang sống trong thể xác, tôi sống bởi đức tin trong Con Thiên Chúa, người mà đã yêu tôi và cho tôi Chính Bản Thân Người (trên cả sự chết)” (Galatians 2: 19b-20).

Sự liên hệ của Stendahl để hiểu về Thánh Phaolô dẫn ông đến căng thẳng với độc giả của mình mà những lá thư cùa Thánh Phaolô cội nguồn - nguyên thủy khi nó dẫn đến sự hiểu biết vấn đề của chúng ta, trong lúc những bài chẳng hạn như trong sách Tông Đồ Công Vụ là nguồn liệu thứ hai.

Trong tác một phẩm sau đó được tái bản, bài viết dựa trên nền tảng của mình, Stendahl tiếp tục đề xuất một số phương thức đối chiếu khác để một lần nữa giải thích về Thánh Phaolô, chú ý rằng các Tông đồ đã sống không chỉ với Dân Ngoại mà còn với cả những người Do Thái, thế nên chúng ta cũng có thể nói chính xác là Thánh Phaolô được “gọi” hơn là “hoán cải,” của việc biện minh hơn là tha thứ, của yếu đuối hơn là tội lỗi, của yêu thương hơn là thẳng thắn, và những việc cụ thể của Thánh Phaolô hơn là tính phổ quát (Thánh Phaolô trong số những người Do Thái và những người Dân Ngoại – Fortress 1976).

Luke cũng nói rõ ràng một nguyên nhân thứ ba về việc xảy ra trên Damascus Road trong Acts 26: 2-23, nơi mà Thánh Phaolô kể lại tiếng gọi của mình để mang ánh sáng đến các quốc gia mà con người sống trong tăm tối của sự hiện diện Hoàng đế Agrippa và Nữ hoàng Bernice vô thần của họ.

Làm thế nào để chúng ta có thể hiểu những gì đã xảy ra khi Thánh Phaolô đối diện việc Thiên Chúa Phuc Sinh? Stendahl muốn nói với chúng ta tránh thuật ngữ “hoán cải” bởi thuật ngữ này đã được Thánh Phaolô dùng để chinh phục những người “quay về” phụng sự “sự sống và Thiên Chúa thật,” Cha của Chúa Jesus, tránh thờ cúng những tà thần.

Ngược lại, sự gặp gỡ bất ngờ của Thánh Phaolô với Chúa Jesus dân Messiah trong nơi trú ngụ cùng những thành viên thuộc nhóm của Chúa Ki-tô đã không dẫn dắt ông để mặc ông trong việc kính thờ và phụng sự Thiên Chúa sớm hơn của mình, nhưng điều đó chỉ ra phương hướng mới – hướng về Chúa Jesus.

Những ai muốn ân cần đón nhận phối cảnh và chứng minh “ơn gọi” của Thánh Phaolô hơn là sự “hoán cải” của ông có thể thực hiên một cách tinh tế như vậy. Tuy nhiên, giáo hội nhìn một cách sâu xa rằng sự thay đổi về vấn đề định hướng từ cái nhìn của Thánh Phaolô với Chúa Ki-tô trên Damascus Road rất uyên thâm và gây ngạc nhiên bất ngờ không kém phần quan trọng đối với lịch sử Ki-tô giáo rằng nó ám chỉ một cách đúng đắn tới điều này đối với sự “hoán cải” của thánh Phaolô ngay cả trong tâm thức hài hòa.

Tương tự, những môn đệ Ki-tô giáo, những người được kêu gọi để Cuộc đời Phục Sinh của chúa Ki-tô tiếp tục biến đổi trong cuộc đời của họ với sự suy lý phong phú, trong một xét đoán ôn hòa đánh giá thẳng thắn điều này như đang diễn biến “hoán cải”.

(Nguồn “The Catholic Register”)
 
Thư Mục Vụ Mùa Chay 2009 giáo phận Lạng Sơn
+ GM Giuse Đặng Đức Ngân
15:00 01/03/2009
Gửi Quý Cha, quý Tu sĩ Nam nữ, quý Chủng sinh
và quý Ông bà anh chị em rất thân mến.

Anh chị em rất thân mến,

Mỗi năm Giáo hội mời gọi chúng ta dành 40 ngày cho việc Ăn chay, Cầu nguyện và sống Bác ái trong hành trình tu đức của mình. Mùa Chay năm nay, chúng ta cùng nhau suy tư tinh thần Sứ Điệp Mùa Chay của Đức Giáo Hoàng Bênênđictô XVI mời gọi: ĂN CHAY để chuẩn bị tâm hồn sốt sắng mừng Đại Lễ Phục Sinh.

* Trước hết, Ăn Chay sẽ giúp chúng ta xa tránh và đền bù tội lỗi. Trong sách Gioen có đoạn “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết kêu van”(Gioen 2,12). Lời của Đức Chúa giúp chúng ta ý thức thân phận mỏng dòn với những yếu đuối của mình đã lỗi phạm với Chúa, với anh em thì việc ăn chay sẽ giúp chúng ta ý thức những thử thách cám dỗ để có thể xa tránh và đền bù tội lỗi. Khi chúng ta ý thức sự thiếu xót lầm lỗi của mình, sẽ giúp chúng ta cố gắng sửa đổi những khiếm khuyết trong đời sống. Chính vì tin vào lời tiên tri Giona loan báo: “Dân Ninivê tin vào Đức Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn tới trẻ nhỏ”(Giona 3,5), dân thành Ninivê đã ăn chay, cầu nguyện, sám hối, sửa mình, thay đổi đời sống và dân thành đã được Chúa tha thứ, là bài học cho mỗi chúng ta. Như vậy, việc ăn chay là khởi đầu cho tâm tình sám hối, ăn năn. Mỗi khi chúng ta ăn chay đích thực, là cố gắng bớt đi một vài thú vui về ăn uống, nhậu nhẹt, những lời nói và việc làm có thể làm thương tổn tinh thần và vật chất của người khác là chúng ta đang cố gắng sống xứng đáng với ơn gọi của người Kitô hữu trong cuộc sống hàng ngày.

* Ăn Chay giúp chúng ta nhận ra thánh ý Thiên Chúa: Đức Thánh Cha đã mời gọi chúng ta: “Việc chay tịnh đích thực, là làm theo thánh ý Cha trên trời, Đấng “nhìn thấy trong nơi bí ẩn và sẽ đền bù cho ngươi” (Mt 6, 18). Chính Chúa Giê su đã làm gương cho chúng ta khi chuẩn bị đi Rao giảng Tin Mừng Nước Chúa, Ngài đã ăn chay 40 đêm ngày trong hoang địa. Sau những ngày chay tịnh, Satan đã tới cám dỗ và Ngài đã phán: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Khi chúng ta thực hành việc ăn chay, còn là dịp để chúng ta làm theo thánh ý Thiên Chúa với tâm tình khiêm hạ, phó thác, cậy trông và hy vọng. Thánh vịnh đã bày tỏ cho chúng ta: “Tuân theo Thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể” (Tv 119, 14). Trong Kinh Thánh, ông bà nguyên tổ đã không vâng theo Thánh ý Thiên Chúa, đã vượt qua lệnh cấm mà lỗi luật Chúa, đã phạm tội. Như vậy, khi chúng ta ăn chay, là dịp để chúng ta thanh thoát tâm hồn mà nhận ra thánh ý Người qua Lời Chúa, qua thánh lễ, qua lời cầu nguyện, qua những liên đới cuộc sống để thực thi thánh ý Người.

* Ăn Chay là thực thi tình bác ái với anh chị em: Đức Thánh Cha đã viết:“Ăn Chay giúp chúng ta nhìn ra hoàn cảnh biết bao người anh chị em chúng ta đang sống. Ăn Chay tự nguyện làm chúng ta lớn lên theo tinh thần của người Samaritanô nhân lành, cúi xuống cứu giúp người anh em đang đau khổ”. Lịch sử của Giáo Hội là lịch sử của Tình yêu thương bác ái, chúng ta thấy chính tình yêu bác ái đã trở nên lời loan báo Tin Mừng hữu hiệu nhất. Chính khi chúng ta bày tỏ tình bác ái với anh chị em mình, là chúng ta đang nhận ra những khó khăn mà anh chị em chúng ta đang gặp. Trong năm vừa qua, nhiều miền trong Giáo phận chúng ta gặp những khó khăn thử thách về thời tiết, lũ lụt và còn những khó khăn khác về đời sống kinh tế. Tuy nhiên, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta mở rộng tâm hồn để nghĩ tới người khác mà sẻ chia, và giúp đỡ. Trong thư Mục vụ Mùa Chay của Tổng Giáo phận Hà-Nội năm nay, Đức Tổng Giám Mục Giuse đã mời gọi Tổng Giáo phận Hà-Nội hãy tiết kiệm để giúp cho Giáo phận chúng ta trong tinh thần hai giáo phận kết nghĩa. Mùa Chay năm nay, xin mời gọi toàn thể Cộng đồng Dân Chúa Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng, cũng thể hiện tình Bác ái bằng những sáng kiến tiết kiệm để góp phần xây dựng Nhà thờ Đồng Đăng đã khởi công, đây chính là việc chia sẻ trong tinh thần chay tịnh đẹp lòng Chúa và liên đới với anh em mình.

Mùa Chay còn là dịp tốt để thực hiện thư Mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt-Nam, trong năm Giáo dục Gia đình Công giáo. Xin mời gọi toàn thể các gia đình trong Giáo phận chúng ta hãy thể hiện tinh thần Mùa Chay bằng các việc cụ thể: hãy bớt đi những thói quen xấu như rượu chè, cờ bạc và cố gắng để bài trừ những tệ nạn nghiện hút dẫn tới những rạn nứt về tình yêu gia đình. Hãy cố gắng làm việc, lao động, học hành để kiến tạo những gia đình bình an và hạnh phúc. Hãy bớt đi những thói quen xấu có thể ngăn cản tình bác ái đối với tha nhân. Hãy biết tha thứ, hòa giải chấp nhận nhau và biết giúp đỡ lẫn nhau trong Đức ái Kitô giáo.

Hy vọng khi chúng ta cùng sống Mùa Chay như vậy, chúng ta sẽ có một Mùa Chay của những cố gắng: phấn đấu sửa những sai sót lầm lỗi của mình; phấn đấu để nhận ra Thánh Ý Chúa; phấn đấu hoàn thiện mình trong đức ái, để sống lời mời gọi của Thánh Phêrô trong thư thứ Nhất của Ngài:“ Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em” (1Phr 1,15).

Xin Đức Mẹ Maria luôn đồng hành, nâng đỡ và cầu bầu cho chúng ta trước Tòa Thiên Chúa Cao Cả.

Xin kính chúc quý Cha, quý Tu sĩ Nam nữ, quý Chủng sinh và quý Ông bà anh chị em một Mùa Chay muôn ơn phúc, và Hồng ân Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô.

Lạng Sơn, ngày 27 tháng 02 năm 2009
Giám mục Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:54 01/03/2009
BÌNH TĨNH

N2T


- “Có cách gì để trắc nghiệm được bình tĩnh của mình không ?”

- “Có rất nhiều cách.”

- “Thử đưa ra một ví dụ.”

- “Chỉ cần tự kiểm điểm (xem xét) mình chút xíu, nội trong một ngày tâm hồn của con dập dềnh nhấp nhô mấy lần.”


(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Con người ta thường hoảng hốt sợ hãi trước những chuyện xảy ra quá bất ngờ, nhất là những vụ án mạng cho người thân, những đe dọa mạng sống trực tiếp, hoặc mất bình tĩnh trước những lời vu không dọa nạt.v.v...

Người có tâm hồn ổn định là người bình tĩnh “phớt lờ” trước những lời đe dọa vu khống, vì họ tin vào sự thật; nhưng người có đức tin mạnh mẽ vào Chúa thì bình tĩnh “phớt lờ” trước cái chết, bởi vì họ tin rằng sống hay chết là ở trong tay của Thiên Chúa, và không một ai cướp đi mạng sống của họ, nếu Chúa không muốn.

Các thánh nam nữ khi còn sống ở thế gian đã làm chứng điều ấy cho chúng ta thấy: các ngài rất bình tĩnh trước những lời vu khống dọa nạt, và càng xác tín hơn về mạng sống của mình là ở nơi Thiên Chúa, dù cho đầu rơi máu đỗ và những cực hình...

Đó chính là sự bình tĩnh đầy công phu của ơn Chúa Thánh Thần ban cho vậy.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:56 01/03/2009
N2T


96. Con người so với thiên thần thì Thiên Chúa thích hơn, bởi vì đối với Thiên Chúa thì thiên thần giống như thức ăn thức uống trong gia đình, mà con người thì như mùi vị dã thú săn bắt được, thật giống như người chăn dê rất vui mừng vì tìm lại được con dê đã mất, vượt qua chín mươi chín con dê không mất.

(Thánh Cyprianus)
 
Mỗi ngày một câu Cách Ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
22:58 01/03/2009
N2T


40. Tin tưởng trực giác của mình thì dù sai cũng do mình gánh chịu, trực giác so với lý trí càng có thể dẫn anh qua cửa sự thật hơn.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Vị TGM Công Giáo đầu tiên được mời vào ghế Thượng Viện Anh Quốc.
Nguyễn Long Thao
00:17 01/03/2009
LONDON, 27 /02/09 -- Tờ Luân Đôn Thời Báo trích dẫn nguồn tin của hãng thông tấn UPI cho biết Đức Hồng Y Giáo Chủ Anh Quốc Cormac Murphy-O'Connor có thể sẽ là vị Giám Mục Công Giáo đầu tiên, kể từ thế kỷ 16, sẽ ngồi vào ghế Thượng Viện Anh (House of Lords).

Tờ Báo nói trên cho biết trong buổi hội kiến với ĐGH Bênêđictô XVI tại điện Vatican trong tuần qua, Thủ Tướng Anh Quốc Gordon Brown đã đưa ra đề nghị xin cho vị Tổng Giám Mục Westminter là Đức Hồng Y Cormac Murphy-O'Connor khi về hưu ở tuổi 76, được ngồi vào ghế dành cho các bậc quý tộc Anh Quốc.

Lời yêu cầu của Thủ Tướng Gordon Brown chắc chắn phải được phép chuẩn đặc biệt của Tòa Thánh vì theo Giáo Luật, các giáo sĩ không được giữ những chức vụ liên quan đến việc thi hành quyền lực chính trị.

Người ta chưa biết lập trường của Tòa Thánh trong vấn đề này. Tuy nhiên giới quan sát tại Vatican cho rằng đề nghị này khó được Tòa Thánh chấp nhận.

Trong khi đó ĐHY Murphy-O'Connor, 76 tuổi đã đến tuổi về hưu và ý định của Ngài là vẫn hoạt động trong Hồng Y Đoàn của Tòa Thánh. Theo dự trù vào trung tuần tháng Ba này Tòa Thánh sẽ loan báo người kế vị giữ chức TGM Westminter.

Tưởng cũng nên nhắc lại, kể từ thế kỷ 16, khi Hoàng Gia Anh quyết định ly khai khỏi Công Giáo lập nên Anh Giáo thì các ghế trong Thượng Nghị Viện Anh chỉ dành cho giới qúy tốc không bao giờ dành cho người Công Giáo.
 
Hồng Y Mahony nói nhiều người đã bắt đầu hành trình Mùa Chay khi cuộc kinh tế khủng hoảng khởi sự
Bùi Hữu Thư
00:55 01/03/2009

Hồng Y Mahony nói nhiều người đã bắt đầu hành trình Mùa Chay khi cuộc kinh tế khủng hoảng khởi sự



LOS ANGELES (CNS)
– Trong điệp văn Mùa Chay hàng năm, Hồng Y Los Angeles Roger M. Mahony cho người Công Giáo hay là cuộc kinh tế khủng hoảng của quốc gia này đã khiến cho nhiều người đã đang cảm nghiệm về Mùa Chay từ lâu rồi.

Ngài nói trong điệp văn được phổ biến ngày 25 tháng 2: "Mùa Chay thực sự đã khởi đầu ngay từ năm 2007 cho hàng ngàn gia đình trong Tổng Giáo Phận Los Angeles, và từ ngày ấy chúng ta đã bước vào một Mùa Chay kéo dài.

Đức Hồng Y Mahony nói hành trình Mùa Chay đã quá dài vì một nền kinh tế ngày càng xuống dốc “ngày này qua ngày khác, hàng triệu việc làm bị cắt bỏ, người ta không thể trả tiền nhà, nên bị mất nhà, và bao người lo sợ không biết ngày mai sẽ ra sao."

Ngài yêu cầu người Công Giáo cố gắng lãnh chịu sự khó khăn hiện tại và xin dâng lời nguyện và những hy sinh cho những ai đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế.

Hồng Y Mahony nói ngài dự định cầu nguyện hàng ngày trong Mùa Chay cho các nhóm người khác nhau chịu thiệt hại vì nền kinh tế hiện hành – như những người thất nghiệp, các gia đình bị mất nhà, các phụ huynh đang vất vả để nuôi sống con cái, những ai mất bảo hiểm sức khỏe và những người già bị giảm tiền hưu trí.

Ngài nói Mùa Chay là lúc “suy niệm sâu xa hơn về đời sống của chúng ta với Chúa, để thiết lập lại những ưu tiên cá nhân theo Phúc Âm, và sống hy sinh nhiều hơn hàng ngày."

Đức Hồng Y ghi nhận, “Trong các năm trước, khi đời sống và sự an toàn về tài chánh của chúng ta có thể tiên đoán dễ dàng hơn, Mùa Chay là thời gian để hy sinh đặc biệt trước khi trở lại cuộc sống bình thường sau Phục Sinh.

Ngài nói, "Nhưng bây giờ chúng ta có một thực tại. Chúng ta đã không chọn lựa cách hy sinh năm nay; chúng đã được chọn lựa cho chúng ta. Và không phải là chỉ hy sinh trong 6 tuần; chúng đã đè nặng trên vai chúng ta trên 75 tuần rồi và không có dấu hiệu nào là sẽ thuyên giảm."

Đức Hồng Y Mahony nói ngài dự tính dùng thời gian Mùa Chay để ôm lấy “những gánh nặng phiền toái mới và những khó khăn bất ngờ ngài đang phải đối phó trên hành trình đức tin và đời sống."

Ngài nói, "Tôi không thể giả dụ rằng các gánh nặng này không hiện diện; và tôi cũng không thể chạy vòng quanh chúng để tránh né. Điều tôi phải làm là nhìn nhận chúng, ôm ấp chúng, và ý thức là tôi không thể nào gánh vác chúng một mình và ‘thánh hóa’ tất cả mọi sự chung quanh tôi."

Ngài nói lời Chúa dùng để xức tro trong Thứ Tư Lễ Tro “hãy xám hối và tin vào Tin Mừng” có một ý nghĩa sâu xa.

Ngài nói, lời kêu gọi xám hối “có nghiã là dẹp qua một bên lòng tự ái và tự tin của tôi, và ý thức rằng con đường đem lại sự sống độc nhất tôi phải đi là khiêm tốn ôm lấy tất cả những gì ở quanh tôi – và hiểu biết sâu xa hơn rằng Thiên Chúa đang còn ở với tôi giữa tất cả những bất toàn và yếu đuối nhiều hơn là khi chỉ có một vài thách đố."

Ngài nói lời khuyên “tin vào Tin Mừng” có nghiã là người Công Giáo phải lắng nghe sứ điệp Phúc Âm trong Mùa Chay và ý thức rằng họ cũng đang đồng hành với Chúa Giêsu trong khi Người “ôm lấy những chống đối, hất hủi và dường như bị bỏ rơi."
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
ĐHY TGM Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Tổng hợp
08:35 01/03/2009
Hồng Y Tổng Giám Mục Phaolô giuse Phạm Đình Tụng:
Kỷ Niệm Khánh Nhật Cửu Tuần (1919-2008) tại Hà Nội


Vài Hàng Tiểu Sử Hồng Y TGM Phaolô

Ngày 10/01/2008 tại Hà Nội, Tổng Giáo Phận Hà Nội đã tồ chức Khánh Nhật Cửu Tuần Hồng Y Tổng Giám Mục Hà Nội. Mở đầu Khánh Nhật Cửu Tuần, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt ngỏ lời mở đầu sau đây:

“Không có niềm vui nào lớn hơn cho con cái khi có được cha mẹ ở bên cạnh. Niềm vui đó hôm nay được thực hiện giữa chúng ta, khi chúng ta được quay quần chunh quanh Đức Hồng Y, người Cha già đáng kính, đáng mến của chúng ta.

Niềm vui đoàn tụ càng lớn lao khi chúng ta được mừng những thành tựu của Đức Hồng Y với 90 tuổi đời, 60 tuổi Linh Mục, 45 tuổi Giám Mục, và 15 tuổi Hồng Y. Đó là những phúc lộc hiếm có trên đời.

Niềm vui của chúng ta có xen lẫn niềm tự hào. Vì trong những năm tháng qua, Đức Hồng Y đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho Chúa, cho Hội Thánh và đã để lại biết bao thành quả mà ngày nay chúng ta đươc hưởng nhờ.

Ngài là tấm gương sáng chói cho chúng ta về đời sống thánh thiện đạo đức, về sự tận tụy phục vụ Chúa và Hội Thánh, về tầm mức nhìn xa trông rộng trong việc đào tạo nhân sự, về sự vui lòng chấp nhận Thánh Ý Chúa và sự khiêm nhường quên mình sâu xa.

Ngài là món quà quí giá Chúa tặng ban cho chúng ta. Qua Ngài biết bao ơn phúc của Chúa đổ tràn trên Tổng Giáo Phận Hà Nội, trên mổi người chúng ta.

Chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa vì Đức Hồng Y và với Đức Hồng Y. Chúng ta tri ấn Đức Hồng Y đã hiến trọn cuộc đời cho Chúa vì chúng ta. Chúng ta cầu nguyện với Ngài và cho Ngài. Xin Chúa ban nhiều sức khỏe, để Đức Hồng Y tiếp tục ở giữa chúng ta như mái nhà che mưa nắng, như tấm gường sáng chói để chúng ta noi theo và như máng chuyển ơn lành của Chúa đến với mọi người.Hà Nội ngày 10 tháng 01 năm 2008. Giuse Ngô Quang Kiệ. Tổng Giám Mục Hà Nội”

Thời Thơ Ấu và Trưởng Thánh (1919-1948)

Cậu Phạm Đình Tụng chào đời ngày 20/5/1919 tại thôn Cầu Mễ, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình thuộc địa phận Hà Nội. Cậu được rửa tôi với tên thánh quan thầy là Phaolô, một vị tông đồ nhiệt thành của giáo hội thưở sơ khai.

Cách nay gần một thế kỷ, Cầu Mễ vốn chỉ là một xóm đạo thôn quê nghèo nàn. Từ đó xuất hiện một cậu bé đơn sơ chất phác trong một gia đình đạo hạnh. Nhưng thân phụ cậu, ông Phêrô Phạm Văn Hiến, có chút học vấn chữ quốc ngữ và thông thạo chữ nho đủ để được Hội Đồng Kỳ Mục bổ nhiệm làm Phó Lý trong làng. Thân Mẫu cậu là bà Anna Nguyễn Thị Bông, vốn chân chất hiền từ chăm lo cho gia đình.

Lớn lên, song thân hiến dâng cậu cho Chúa. Cậu Tụng được gia nhập Tràng Tập và học xong, đỗ bằng Certificat d’Étude Primaire (bằng sơ học), và được chọn học lên trong Tràng La Tinh Hoàng Nguyên, thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông (nay là tỉnh Hà Tây).

Trong những năm học ở Tràng Latinh, cậu là một học trò gương mẫu xuất sắc về nhiều mặt, còn đứng đầu lớp về hạnh kiểm và học vấn…

Mãn Tràng Latinh năm 1940, Thầy Tụng được Bề Trên địa phận triệu tập về học tại Trường Lý Đoán Hà Nội. Đây là trụ sở chủng viện mới được chuyển từ Kẻ Sở về Liễu Giai Hà Nội. Sau hai năm học lý đoán, thầy được bổ về giúp xứ Khoan Vĩ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Sau thời gian đi thức tập mục mụ, thường gọi là đi giúp xứ, thầy được gọi học tiếp lên chương trình lý đoán. Năm 1945, thầy Tụng cùng với các đồng môn phải chia tay trong chuỗi các biến cố chính trị xã hội tháng 8 và 9 năm 1945.

Tháng 9 năm 1948, Tràng Lý Đoàn được mở lại nhưng tại trụ sớ trước kia của trường tập, ngay trong khuôn viên tòa giám mục Hà Nội ở 40 Phó Nhà Chung.Thầy Tụng được về tựu trường và học tiếp.

Thời Làm Linh Mục (1949- 1963)

Ngày 6/6/1949, cùng với năm thầy khác, thầy Tụng được thụ phong Linh Mục. Tân linh mục nhận bài sai phục vụ tại Cô Nhi Viện Têrêxa do LM P Seitz Kim quản nhiệm từ Sơn Tây chuyển về Hà Nội, rồi làm cha phó và chính xứ Hàm Long năm 1950-1955. Linh mục xây dựng và điều hành khu nhà tế bần ở Bạch Mai, rộng khoảng 4000m2, phục vụ những người thiếu thốn từ miền quê nghèo nàm lên sinh sống tại Hà Nội.

Sau khi lực lượng Việt Minh về tiếp quản Hà Nội tháng 10/1955, Linh mục Tụng được chính thức bổ nhiệm trông coi Chủng Viện Gioan Hà Nội với tư cách Giám Đốc. Tiểu Chủng Viện Gioan tọa lạc tại khu Tràng Tập trước đầy, 40 Phố Nhà Chung Hà Nội. Gia đình chủng viện Gioan có tới 200 chủng sinh thuộc các giáo phận Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm và Thanh Hóa.

Lời Chứng Của Một Cựu Chủng Sinh Chủng Viện Gioan: [17] “Người Cha Ân Cần Của Tôi”.

“Tôi là một trong hai “cậu » của cha già Toàn xứ Nội Bài bị bỏ lại sau biến cố 1954, rồi cha già Tất đón tôi lên xứ Yên Mỹ. Đầu năm 1955, cha Quảng sai thầy Sức đi khắp giáo phận chiêu sinh về Tòa Giám Mục Bắc Ninh bồi dưỡng. Niên học 1955-1956, đoàn chúng tôi (12 cậu) được lệnh lên đường đi Chủng Viện. Đi xe lửa ra ga Hàng Cỏ, rồi chúng tôi cuốc bộ vào Nhà Chung Hà Nội. Thầy Triệu đưa chúng tôi vào chủng viện Gioan gặp cha Giám Đốc Phaolô Phạm Đình Tụng.

Lần đầu tiên gặp mặt, Ngài ân cần thăm hỏi, căn dặn, thân hành đưa chúng tôi thăm từ nhà ngủ tới nhà nguyện, nhà ăn, nhà tắm, va hướng dẫn tỉ mỉ các sử dụng. Cử chỉ ân cần ấy đã làm lũ trẻ chúng tôi hết sợ vì dáng vẻ nghiêm nghị của Ngài lúc ban đầu.

Sư ân cần của Ngài với từng người đã khiến mọi chủng sinh chăm chỉ. Riêng tôi, Ngài có vẻ quan tâm hơn, có lẽ vì tôi là Đoàn Trưởng Chủng sinh Bắc Ninh, lại là một Đội Trưởng trong suốt thời gian lưu học. Năm năm trời thấm thoát trôi qua. Hè 1960, chuẩn bị về Trường, chúng tôi nhận được giấy báo “Nhà Trường tạm hoãn”.

Tôi tranh thủ ra gặp Ngài. Ngài động viên chờ đợi. Có lẽ Ngài cũng tiên đoán “tạm hoãn” lâu dài, nên ngài đã quan tâm tới Bắc Ninh. Trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này, mấy anh em chúng tôi (Tòng, An, Duyến, Lễ, Hỷ, Vinh) lại được Ngài ân cần chăm lo dạy dỗ. Càng khó bao nhiêu, Ngài lại càng ân cần bấy nhiêu, từ ổ bánh mì ăn sáng cho tới mỗi người đều có chìa khóa cổng để vào Trường… Sự việc cứ kéo dài ba năm như thế cho tới khi Ngài làm Giám Mục cai quản giáo phận Bắc Ninh.

Thời Làm Giám Mục

Ngày 15/8/1963, linh mục Phaolô Phạm Đình Tụng được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám Mục và thụ phong tại Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội hôm đó với hẩu hiệu: “Chúng Con Tin Ở Tình Yêu Thiên Chúa”.

Tiếp Tục Lời Chứng Của Một Cựu Chủng Sinh: Vẫn Chăm Lo Giáo Dục Các Chủng Sinh

[17]“Về Bắc Ninh, Ngài lại càng ân cần hơn, nhất là khi anh em chủng sinh chúng tôi bị tập trung cải tạo (lớn vào trại giam, bé đi công nhân), hòng làm nhụt chí [18] đời tu của chúng tôi… Nhưng cha Giám Đốc, giờ đây trong cương vị Mục Tử, lại càng tỏ ra ấn cần chăm sóc hơn. Với anh em nhỏ mỗi Chúa Nhật vẫn lặng lẽ hòa vào dòng người về Toà Giám Mục dự lễ để nhận nơi Ngài sự ân cần thăm hỏi, động viên, nhắc nhở. Còn các anh em lớn chúng tôi, tất cả đều đã xa Ngài, vì phải vào tù cùng với bao chủng sinh của các Địa phận khác. Lúc này Ngài lại thể hiện sự ân cần với chúng tôi bằng cách thăm hỏi động viên gia đình. Mỗi dịp gia đình đi thăm nuôi, Ngài đã gửi quà và lời thăm hỏi tới từng anh em chúng tôi.. Riêng tôi ở trại Phong Quang, vì xa lại đang giai đoạn miền Bắc bị bắn phá, nên mỗi năm một lần gia đình lên thăm. Lần nào cũng có quà của Đức Cha Phaolô cho toàn anh em.

Đặc biệt với tôi và qua tôi, Ngài đã gửi một Món Quà vô giá: Mình Thánh Chúa. Đó là món quà không dễ dàng đến được một cách công khai trong nhà tù, và cũng không phải Bề Trên nào cũng thục hiện được với con cái mình khi bị giam giữ. Mẹ tôi là người duy nhất, trước mỗi lần đi thăm tôi, đều về Bắc Ninh gặp Đức Cha, xưng tội, nhận một hộp thuốc “Cảm”. Mỗi lần ra nhận là một lần tôi hồi hộp đến cực độ và đặt ra nhiều phương án. Nhưng 9 năm an toàn tuyệt đối. Chín năm Cha cựu Giám Đốc đã ân cần yêu thương chăm sóc chúng tôi bằng chính Mình Thánh - nguồn sức mạnh tuyệt với cho chúng tôi trong cuộc lưu đầy này. Chúng tôi (cả giáo dân) chia nhau chầu. Riêng Thầy Sức phải xếp cho Thầy chầu trứớc, vì Thầy là sợi giây liên kết nhiệt thành trong anh em. Mặt khác, tôi cũng sợ Thầy vì sốt sắng quá mà để lâu Mình Thánh trong trại, để xảy ra điều bất kính…

Sau khi ra trại năm 1972, tôi về thăm Ngài, đang sơ tán tại Xuân Hòa (K ẻ Roi), Ngài lại ân cần thăm hỏi, chăm lo, dìu dắt tôi, trao tài liệu học hành. Rồi trong dịp ốm nặng, Ngài đã ấn cần dặn dò và đặt tay truyền chức cho bảy anh em linh mục chúng tôi trong một đêm đấy khó khăn về hoàn cảnh cũng như sức khỏe của ngài.

Tuy phải chăm lo cho cả đoàn chiên đông đúc trong toàn giáo phận, Ngài vẫn daành sự chăm sóc cho từng người, trong đó có tôi. Và cũng chính sự ân cần này cộng với gương thánh thiện của Ngài, Ngài đã được nhiều người mến mộ”.

Đoạn hồi ký trên đây quả là một bằng chứng nhãn tiền cho thấy đức tính chịu dựng kiên cường, trung tin trong đức tin của những tín hữu Kitô bị thử thách ghê gớm thế nào. Lòng yêu mến Thánh Thể đã trở thành nguồn sức mạnh vô biên cho các tín hữu chịu đựng lao nhọc cực khổ trong các trại giam vô cớ người có đạo.

Thành Lập Hội Đoàn Công Giáo

Ngày 5/10/1963, Giám Mục Tụng chính thức nhậm chức tại giáo phận Bắc Ninh. Vì diện tích giáo phận rộng lớn lại thiếu linh mục, nên Giám Mục đã có kế hoạch xây dựng hàng ngũthành viên trong Ban Hành Giáo trở nên các tông đồ giáo dâ kín đáo và nhiệt thành. Họ là mạng lưới cộng tác viên mục vụ và truyền giáo tích cực và trung thanh: lo mục vụ, suy tôn Lời Chúa, rửa tội các trẻ em, hướng dẫn học giáo lý, quản lý đất đai và tài sản của giáo xứ.

Ngoài ra Giám Mục xúc tiến thành lập các đoàn thể Công giáo tiến hành như: Huynh Đoàn Đa Minh Giáo Dân, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Ca Đoàn, Giới Trẻ, giáo lý viên, Thiếu Nhi Thánh Thể. Những hội đoàn này trở nên nòng cốt trong mọi sinh hoạt để đọc kinh cầu nguyện, học hỏi và sống Lời Chúa

Sáng Lập Tu Hội

Ngay năm đầu tiên làm Giám Mục Bắc Ninh, Giám Mục Tụng đã thành lập Tu Hội Đức Mẹ Hiệp Nhất, với 20 thành viên ban đầu. Nay số hội viên của Tu Hội đã phát triển đến 213 người.

Linh đạo của Tu Hội rất đơn gián: Noi gương Đức Maria tận hiến cho Thiên Chúa Ba Ngôi, cố gắng cộng tác vào sứ vụ cầu nguyện cho sự thống nhất của Giáo Hội, bằng chính lời cầu nguyện, thực hành việc bác aí từ thiện phục vụ xã hội. Châm ngôn của mọi thành viên bắt nguồn từ tư tưởng Ngài thường nhắc nhở:

“Người phải nổi bật lê, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3: 30). Ngài thường luôn nhắn nhủ các thành viên: “Các con có hiệp nhất yêu thương nhau không? Có sống khó nghèo không? Có sống tinh than phú thác và tự hủy của Chúa Giêsu theo gương Mẹ Maria không?. Muốn làm gì thì làm, các con phải có một đời sống nội tâm thâm sâu với Chúa, phải lấy ý Thiên Chúa là lương thực tuyệt đối cho cuộc sống hằng ngày và cả cuộc đời dâng hiến của chúng con. Cha già rồ,i không làm việc được nữa, các con hãy làm thay cha. Cha phải nhỏ đi còn các con phải lớn lên. Thấy các con trưởng thành, cha vui lắm.”

Hoàn cảnh giáo phận Bắc Ninh những năm 1960 bị và sói xâu xé dê, chiên lành thì không còn bao nhiêu. Với số linh mục ít ỏi già nua bệh tật, giáo phận lâm vào cảnh tiêu điều hoang tàn. Giám mục thấy mình nhỏ bé bất lực và hoàn toàn phú thác vảo Chúa giúp đỡ. Rồi ngài qui tụ những tâm hồn thiện chí hiến mình cho các hoạt động xã hội mục vụ, góp phần vào công cuộc chung của Giáo Hội.

Xu hướng thành lập Tu Hội này vẫn được tiếp tục sau này khi Ngài làm Hồng Y

Làm Tông Đồ Mục Vụ Trong Thời Buổi Khó Khăn

Trong nhiều năm khó khăn tiếp theo, Giám Mục Tụng vẫn kiên trì hoạt động đạo tạo chủng sinh bằng phương pháp hàm thụ. Ngày 16/9/1974, Giám Mục đã âm thầm truyền chức cho bảy thầy phó tế lên chức linh mục.

Ngày 15/8/1988, có tới hơn 30.000 tín đồ đến mừng Ngân Khánh Giám mục của ngài.

Để có người kế thừa đảm lãnh việc mục vụ, quản lý giáo phận, ngày 25/1/1989, ngài tấn phong linh mục Giuse Nguyễn Quang Tuyến làm Giám Mục.

Năm 1983, lễ kỷ niệm một trăm năm giáo phận Bắc Ninh được ngài tổ chức long trọng.

Năm 1992, Các lễ trọng được tổ chức khi nhà thờ chính tòa được 100 tuổi, đồng thời ngài cử hành lể khánh thành Tòa Giám Mục mới và mở năm toàn xá trong giáo phận.

Trong suốt thời gian quản nhiệm giáo phận Bắc Ninh từ 1963 đến 2004, Ngài đã xây dựng lo xây dựng các cơ cấu, tổ chức giáo phận, nhất là cổ vũ tinh thần kiên trì trung thành với đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo của cộng đoàn dân Chúa Bắc Ninh. Trước khi từ giã Bắc Ninh về trấn nhận TGP Hà Nội, ngài tuyên bố:

“Tuy cha rời giáo phận, nhưng tầm hồn cha vẫn luôn ở lại với gia đình Bắc Ninh. Cha luôn cầu nguyện cho các con”.

Tổng Giám Mục Giáo Phận Hà Nội

Ngày 14/8/1994, Tổng Giám Mục Phạm Đình Tụng chính thức nhận trách vụ quản nhiệm TGP Hà Nội. Ngay hôm sau, vì nhu cầu, Linh mục Phaolô Lê Đắc Trọng được tấn phong làm Giám Mục phụ tá trong TGP Hà Nội. Ngày 26/11/1994, Đức Gioan Phaolô II tôn phong tước Hồng Y cho TGM Phaolô Phạm Đình Tụn. Ngày 23/4/1994, Đức Gioan Phaolô II chính thức bổ nhiệm Ngài làm Tổng Giám Mục Hà Nội sau 31 năm rời bỏ Hà Nội đi quản nhiệm giáo phận Bắc Ninh.

Nhiệm vụ đầu tiên là Ngài chú trọng đào tạo nhân sự cho giáo phận Hà Nội. Ngoài ra Ngài còn tổ chức các khóa thường huấn linh mục, cổ vũ ơn gọi và thăm viếng mục vụ nhiều giáo xứ và ban hành nhiều thư chung đến cộng đoàn dân Chúa Hà Nội

Năm 1995, Ngài được bầu làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nhiệm Kỳ VI (1995-1998) trong Đại Hội Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Hà Nội.

Năm 1996, Hồng Y Hà Nội cầm đầu phái đoàn Giám Mục Việt Nam đến triều yết Giáo Hoàng theo chu kỳ chuyến đi Ad Limina cứ bốn năm một lần theo giáo luật.

Năm 1998, Ngài được bổ nhiệm Giám Quản Tông Tòa Giáo Phận Lạng Sơn.

Nhưng v tuổi già sức yếu, nhiều lần Ngài đệ đơn xin Tòa Thánh nghỉ hưu. Ngày 26/4/2003, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chấp nhận đơn xin từ chức của Vị Hồng Y 84 tuổi, và đồng thời bổ nhiệm Giám Mục Ngô Quang Kiệt, quản nhiệm Lạng Sơn, làm Giám Quản Tông Tòa TGP Hà Nội. Ngày 19/2/2005, Giám Mục Ngô Quang Kiệt chính thức được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Hà Nội

Thành Lập Tu Hội Nhà Chúa

HY/TGM Phạm Đình Tụng vốn có sáng kiến thiết lập nhiều tu hội từ khi quản nhiệm giáo phận Bắc Ninh. Ngày 1/8/1996, Tu Hội Anh Em Nhà Chúa được thành lập kế vị Hội Thầy Giảng, mà nay được đổi tên là Tu Đoàn Truyền Tin Hà Nội.

Tu Hội Nhà Chúa qui tu những anh em sống tinh thần Gioan Tẩy Giả: “Hãy dọn đường cho Chúa đến, và hãy lu mờ đi để Chúa nổi bật lên” (Ga 3, 30).

Tu Hội Nhà Chúa đi theo truyền thống Hội Thầy Giảng ngày xưa, có mục đích nâng đở những anh em có ý muốn tận hiến, dấn thân làm việc tông đồ trong các xứ đạo hay các môi trường nghề nghiệp va xã hội của mình

Ngày 24/4/2004, theo thỉnh nguyện thư của TGM Ngô Quang Kiệt, Toà Thánh đã chấp nhận Hiến Pháp của Tu Hội Nhà Chúa, ngày nay mang danh nghĩa Tu Đoàn Truyền Tin Hà Nội Tu Đoàn nhấn mạnh đến lý tưởng Nhập Thể trong lịch sử cứu độ qua tinh thần Truyền Tin và Thăm Viếng.

Một Kết Luận

Ngày 25/01/2008 tại Hà Nội, Việt Nam, Thánh Lễ Mừng Thượng Thọ Ðức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng đã được cử hành trọng thể."Triều đình trọng tước, hương đẳng trọng xỉ" (Ở triều đình quí trọng chức tước, ở nhà quê trọng người rụng răng cao tuổi)

Tổ chức lễ mừng thượng thọ cho các bậc ông bà, cha mẹ là truyền thống hiếu thảo của người Việt Nam. Theo truyền thống tốt đẹp đó, vào hồi 10 giờ ngày 25/01/2008 toàn thể Giáo phận Hà nội nói riêng và Giáo hội tại Việt Nam nói chung hướng về thánh lễ tạ ơn Thiên Chúa để mừng thượng thọ Ðức Hồng Y Phaolo Giuse Phạm Ðình Tụng: 90 năm Hồng ân, 60 năm Linh mục, 45 năm Giám mục và 15 năm Hồng y. Vị chủ tế thánh lễ là Ðức Hồng Y Gioan. B Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám mục Saigòn, cùng đồng tế với ngài có Ðức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, mười Giám Mục đến từ các giáo phận, gần 150 linh mục, quí nam nữ tu sĩ và trên 2,000 bà con giáo dân đến từ nhiều nơi trên tổ quốc...

Trước khi bước vào thánh lễ, cha Gioan Lê Trọng Cung, chánh văn phòng Tòa Tổng giám mục Hà nội đã đọc điện văn của Tòa Thánh chúc mừng Ðức Hồng Y Phaolô Giuse nhân dịp đặc biệt này. Kế đó là điện văn chúc mừng của Ðức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam.

Sau đó là lời mời gọi của Ðức Hồng Y Gioan. B Phạm Minh Mẫn, ngài nói:. ..Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta tỏ lòng hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha trên trời, lòng hiếu thảo đối với Ðức Hồng Y Phaolo Giuse là cha dưới đất, đồng thời chúng ta cũng bày tỏ niềm tin vào Thiên Chúa đã yêu thương và chăm sóc chúng ta... Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một người cha, người thầy đáng kính mà hôm nay ta quy tụ để mừng lễ thượng thọ ngài. Qua ngài, Thiên Chúa đã làm cho sự triển nở của Giáo hội ngay tại thủ đô Hà nội này. Tất cả đều là Hồng ân của Thiên Chúa.

Trong bài giảng, Ðức Cha Giuse Ðặng Ðức Ngân, Giám mục giáo phận Lạng Sơn - Cao Bằng đã bày tỏ lòng tri ân đối với Ðức Hồng Y, một đời tận hiến cho đoàn chiên của mình và đặc biệt là quan tâm đến lĩnh vực đào tạo. Ðức Hồng Y Phaolô Giuse không chỉ là một người cha nhân hậu, một người thầy mẫu mực mà còn là một tài sản quí giá cho nền giáo dục, không phải là phương pháp mà bằng chính đời sống con người của ngài. Hướng lên ngài, chúng ta hãy noi gương ngài để tiếp tục tận hiến công ích cho việc đào tạo của giáo hội ngày hôm nay...

Trước khi kết thúc Thánh lễ, Ðức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục giáo phận Thanh Hóa, phó Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đại diện Giám Mục đoàn Việt Nam mừng chúc Ðức Hồng Y Phaolo Giuse, Cha Laurenxô Chu Văn Minh, giám đốc Ðại chủng viện thánh Giuse Hà nội chúc mừng đại diện linh mục đoàn, và cuối cùng là một đại diện giáo dân dâng những lời vàng ngọc kính chúc thượng thọ Ðức Hồng Y: 90 năm Hồng ân, 60 năm Linh mục, 45 năm Giám mục và 15 năm Hồng Y. Những đóa hoa tươi thắm dâng lên quí Ðức Hồng Y và quí Ðức Cha đồng tế không thể thiếu vì đó là nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Tràng An.

Vì sức khỏe của Ðức Hồng Y nên cha nghĩa tử của ngài là cha Xuyên đã có những lời tri ân Ðức Hồng Y chủ tế, Ðức Tổng Giám mục, quí Ðức Cha, quí cha, quí chủng sinh, tu sĩ nam nữ và toàn thể mọi tín hữu...

Cuối thánh lễ, toàn thể cộng đoàn được lãnh phép lành đặc biệt của quí Ðức Hồng Y và quí Ðức Cha đồng tế. Nguyện chúc Ðức Hồng Y Phaolo Giuse Phạm Ðình Tụng luôn An Khang - Trường Thọ để làm bóng mát cho các thế hệ con cháu vững bước trên lữ hành trần thế. (Theo Đình Sơn) http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/08news/8news019.htm

Đúng năm 2008, HY/TGM Phạm Đình Tụng đã chuẩn bị hành trang đi gần về cõi sau, như qui luật muôn đời của kiếp người, gói ghém trong tinh thần bài thơ của cố nhạc sĩ Văn Cao:

Tôi thả con thuyền giấy,
Thuyền giấy trôi.
Tôi thả chiếc lá,
Chiếc là trôi.
Tôi thả bông hoa,
Bông hoa trôi,



Đấy là hình ảnh một cõi đi về: Vanitas vanitatum, et omnia vanitas. Praeter amare Deum et Illi soli servire (Sách Gương Phúc).

Đỗ Hữu Nghiêm
_______________________________________________________

Gia đình Gioan mừng thọ Đức Hồng Y Giuse Phạm Đình Tụng
VietCatholic 10.01.2007An Hòa

Sáng hôm nay 10.01.2007 Gia đình Gioan đã tổ chức lễ mừng thượng thọ Đức Hồng Y Giuse Phạm Đình Tụng tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Thánh lễ kết thúc bằng một buổi cầu nguyện đông đảo và bất ngờ trên phố Nhà Chung trước Tòa Khâm Sứ.

Gia đình Gioan gồm khoảng 200 thành viên là cựu chủng sinh của Tiểu Chủng viện Gioan Hà Nội, một Tiểu Chủng viện Liên Giáo phận ở Miền Bắc bao gồm: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa.

Chủng viện này được mở trong những năm 1955-1960 do Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng làm Giám Đốc. Năm 1960, Bản quyền Giáo phận Hà Nội đã đóng cửa Tiểu chủng viện này vì nhiều lý do khác nhau. Một trong những lý do căn bản theo lời Đức Hồng Y là để tránh sự can thiệp thô bạo vào việc đào tạo các chủng sinh, nhằm cộng sản hóa các linh mục tương lai.

Các chủng sinh về lại giáo phận của mình. Người lập gia đình, người vẫn giữ lý tưởng tu trì. Có rất nhiều người xuất thân từ Tiểu Chủng viện này đã phải nếm cảnh tù đầy hay bị phiền nhiễu. Đến nay, người trẻ nhất cũng đã 60 tuổi. Ai còn đi tu, nay hầu hết đã làm linh mục. Ai lập gia đình thì hầu hết cũng đã có con cháu.

Trong những thập niên khó khăn vừa qua, cũng như hiện nay, các thành viên Gia đình Gioan, nếu còn tu, thì thường là các linh mục đóng vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo Hội, nếu đã lập gia đình thì thường là những chiến sĩ đạo đức nhiệt thành trong các lãnh vực kinh tế, văn hóa, tông đồ, bác ái, góp phần rất đắc lực trong việc xây dựng Giáo Hội.

Các thành viên trong gia đình Gioan hiện nay cư trú khắp mọi miền đất nước. Hằng năm trong ngày truyền thống các thành viên trong gia đình cùng con cái cháu chắt trong gia đình linh tông và huyết tộc tụ họp về Hà Nội quây quần quanh người cha chung của mình để ôn lại những kỷ niệm ngọt ngào thuở xưa và để hun đúc tinh thần tông đồ. Hiếm có nhóm giáo sĩ và giáo dân nào ở Miền Bắc kính mến Đức Hồng Y cho bằng những thành viên trong Gia đình Gioan.

Năm nay Gia đình Gioan đã tổ chức mừng thượng thọ vị cha chung của mình là Đức Hồng Y Phaolô Phạm Đình Tụng-Vị Giám đốc đầu tiên và cũng là cuối cùng của Tiểu Chủng viện này, nhân dịp ngài 90 năm tuổi đời, 60 năm linh mục, 45 năm giám mục và 15 năm hồng y.

Thánh lễ diễn ra trọng thể tại Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội với sự tham dự của hơn 1000 giáo dân mà hầu hết là các thành viên, con cháu và khách mời của các thành viên Gia đình Gioan.

Thánh lễ do Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục chủ tế. Cùng đồng tế còn có Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục Đà Lạt, Chủ tịch HĐGM VN, Đức Cha FX Nguyễn Văn Sang, Giám mục Thái Bình, Đức cha Giuse Nguyễn Văn Yến, Phó Chủ tịch UB Bác ái Xã hội của HĐGM VN và khoảng 50 linh mục thuộc nhiều Giáo phận khác nhau ở Miền Bắc.

Thánh lễ kết thúc bằng một buổi cầu nguyện bên Tòa Khâm Sứ và một bữa cơm gia đình cùng những tiết mục văn nghệ đặc sắc tại khuôn viên Đại Chủng viện và Trung tâm Mục vụ của Giáo xứ Chính Tòa./.

Vài Niên Biểu Về Quá Trình Phục Vụ của ĐHY Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng

• 20.05.1919 Sinh tại Cầu Mễ, Yên Thắng, Yên Mô, tỉnh Ninh Bình
• 1927-1929 Theo linh mục nghĩa phụ Phêrô Phạm Bá Trực lên học tại Hà Nội
• 1929-1931 Được gọi vào Trường Tập ở 40 Phố Nhà Chung, Hà Nội
• 1931-1940 Được gọi vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Hà Tây
• 1940-1945 Được gọi vào Đại Chủng viện Liễu Giai, Hà Nội
• 1945-1948 Nghỉ học do Đại Chủng viện phải đóng cửa
• 1948-1949 Học thần học tại Học viện Thánh Anphongsô, Hà Nội
• 06.06.1949 Thụ phong linh mục tại Hà Nội
• 1949-1950 Phục vụ tại Cô Nhi Viện Têrêxa Hà Nội
• 1950-1955 Phó xứ Hàm Long & Phụ trách Trung Tâm Bác Ái Bạch Mai
• 1955-1960 Giám đốc Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Hà Nội
• 15.08.1963 Thụ phong Giám mục tại Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội
• 1963-1994 Giám mục Chính Tòa Bắc Ninh
• 1990-1994 Giám quản Giáo phận Hà Nội
• 26.11.2994 Nhận tước Hồng Y tại Rôma
• 1994-2003 Hồng Y- Tổng Giám Mục Hà Nội
• 2003-2008 Nghỉ hưu tại Tòa TGM Hà Nội
• 1995-2001 Chủ tịch HĐGM Việt Nam
• 1998-1999 Giám quản Giáo phận Lạng Sơn
• 1963 Sáng lập Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất
• 1996 Sáng lập Tu hội Anh Em Nhà Chúa nay là Tu Đoàn Truyền Tin Hà Nội

Một Vài Tài Liệu Tham Khảo

Tổng Giáo Phận Hà Nội: Trọn Đời Tin Yêu : Kỷ Niệm Hy/TGM Phaolô Phạm Đìngh Tụng thượng thọ 90 tuổi, 60 năm Linh mục, 45 năm Giám Mục, 15 năm Hồng Y. Hà Nội, 2008, 50 trang, 14x20cm
Văn Phòng TTK H ĐGMVN Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Niên Giám 2005. NXB Tôn Giáo, In lần II, Nhà In Trần Phú, 71-75 Hai Bà Trưng, Quận I, Tp HCM), Hà Nội 2005, 965 trang/
Bùi Đức Sinh: Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam. Quyển III. - (1900-1975). USA, CA, in lần 3, 2001, 550t, 15x25cm
Hồng Nhuệ (Nguyễn Khắc Xuyên), Lược Sử Địa Phận Hà Nội, 1626-1954. Lời tựa, ghi ở Paris ngày 2/9/1994. Lưu hành nội bộ, 576t, 20x29cm + 168t. Ảnh và tư liệu. Nha Trang, 4/3/1999. xviii-628t., 20x29cm
Lê Ngọc Bích: Nhân Vật Công Giáo Việt Nam. Tập IV. Các Vị Giám Mục Một Thời Đã Qua (1933-1995) - http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=295&ict=3210

ĐHY Phạm Đình Tụng: chứng nhân lịch sử của thời đại chúng ta
VietCatholic News (Thứ Năm 24/01/2008 15:22) LM Thanh Bình

Sơ Lược về Quá Trình Hiện Diện và Phục Vụ của ĐHY Phaolô Tụng (1919-2008)

Đức Hồng Y sinh ngày 20.05.1919 trong một gia đình gia giáo và đạo đức tại thôn Cầu Mễ, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thuộc Giáo xứ Quảng Nạp, Giáo phận Phát Diệm. Thân phụ của ngài cụ cố Phêrô Phạm Văn Hiến, một người đạo đức và có học trong làng, còn thân mẫu của ngài là cụ cố Anna Nguyễn Thị Bống vốn là một người hiền lành, giầu lòng hy sinh và bác ái.

ĐGH Gioan Phaolô II trao mũ cho ĐHY Phạm Đình Tụng ngày 26.11.1994

Năm 1925 ngài bắt đầu đi học tiểu học tại trường làng và năm 1927 ngài theo linh mục nghĩa phụ Phêrô Phạm Bá Trực lên học tại Hà Nội.

Năm 1929 ngài được gia nhập Trường thử Hà Nội. Năm 1931, ngài thi đậu bằng sơ học yếu lược và được tuyển vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Hà Tây.

Năm 1940, ngài được gọi vào Đại Chủng viện Liễu Giai, Hà Nội. Sau hai năm học triết học, ngài đi thực tập mục vụ tại Giáo xứ Khoan Vĩ. Mãn hạn thực tập mục vụ, ngài trở lại Đại Chủng viện để tiếp tục chương trình thần học.

Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, đất nước loạn ly, Đại Chủng viện Liễu Giai phải đóng cửa, ngài tạm thời phải dừng việc học tập và tu dưỡng.

Năm 1948, tình hình chính trị xã hội ở Hà Nội tạm ổn định, ngài được gọi về Đại Chủng viện Hà Nội mới được thành lập ở số 40 Nhà Chung để hoàn tất chương trình đào tạo. Hằng ngày ngài cũng các chủng sinh khác sang học thần học tại Học viện Dòng Chúa Cứu Thế ở tu viện Thái Hà Ấp, Hà Nội.

Ngày 06.06.1949, ngài được thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính Toà Hà Nội và được Bản quyền Giáo phận Hà Nội bổ nhiệm về phục vụ tại Cô Nhi viện Têrêxa do Đức cha Paul Seitz - khi ấy hãy còn là linh mục-làm giám đốc.

Năm 1950, ngài được bổ nhiệm làm Phó xứ Hàm Long, Hà Nội. Trong thời gian này ngài thành lập nhà tế bần Bạch Mai nhằm cứu giúp các nạn nhân chiến tranh nghèo khổ từ các vùng nông thôn trôi dạt về Hà Nội.

Mừng thượng thọ tại Hà nội

Năm 1955, ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Hà Nội- Một tiểu chủng viện liên giáo phận với khoảng hơn 200 chủng sinh thuộc hầu hết các giáo phận ở Miền Bắc lúc bấy giờ.

Năm 1960, vì muốn bảo vệ sự độc lập của Giáo Hội trong lãnh vực đào tạo giáo sĩ, vì không muốn các chủng sinh phải giao tiếp với các giáo viên đến từ bên ngoài và học những môn nguy hiểm cho đức tin và cho đời tu mà nhà nước áp đặt trong chương trình, ngài đã cùng các đấng hữu trách quyết định cho các chủng sinh về lại các giáo phận của mình, chấp nhận giải tán tiểu chủng viện.

Năm 1963, ngài được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Tông toà Giáo phận Bắc Ninh và ngài đã thụ phong giám mục tại Nhà thờ Chính toà Hà Nội ngày 15.08.1963. Khẩu hiệu giám mục của ngài là “Tôi tin vào tình yêu Thiên Chúa”. Tại giáo phận đã bị tan nát vì chiến tranh này, trong thiếu thốn, khổ đau, cấm cách và bắt bớ, ngài đã có nhiều sáng kiến độc đáo trong lãnh vực mục vụ để giữ vững đức tin, chăm sóc các tín hữu, bảo vệ và xây dựng Giáo Hội. Ngài cũng đã âm thầm và kín đáo đào tạo và phong chức linh mục cho một số ứng viên mà ngài xét là xứng đáng đồng thời thành lập Nữ Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất Bắc Ninh.

Năm 1990 ngài còn được bổ nhiệm làm Giám quản Tông Toà Giáo phận Hà Nội. Đến ngày 13.04.1994, ngài chính thức được Toà Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Hà Nội và ngày 26.11.1994, ngài được phong Hồng Y. Trong thời gian này ngài còn kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như: Giám đốc Chủng viện Hà Nội (1990-2003), Giám quản Tông Toà Giáo phận Lạng Sơn (1998-1999), Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam (1995-2001).

Ngoài những việc mục vụ thông thường, trong vị thế của mình, ngài đã ra sức tái thiết Đại Chủng viện Hà Nội, tìm cách đối thoại với chính quyền để Giáo hội được độc lập và tự chủ hơn trong việc tuyển chọn chủng sinh, tìm cách cho các linh mục thụ phong âm thầm được ra làm mục vụ công khai, xúc tiến mối liên hệ giữa Toà Thánh và chính quyền Việt Nam, tổ chức và xây dựng nhân sự lãnh đạo cho các giáo phận ở Miền Bắc. Ngài còn sáng lập Nam Tu đoàn Truyền tin và Nữ Tu đoàn Truyền giáo Truyền tin tại Tổng Giáo phận Hà Nội.

Năm 2003, ngài được Toà Thánh chấp thuận cho nghỉ hưu ở tuổi 84 sau khi đã lo liệu cho Tổng Giáo Phận Hà Nội được có người kế vị là Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt. Mặc dù tuổi cao, sức yếu, ngài vẫn sẵn sàng tiếp đón và giúp đỡ mọi người đến với ngài ở Toà Giám Mục trong mức độ có thể được. Ngài cũng tiếp tục quan tâm tới các vấn đề của Giáo hội và xã hội, cầu nguyện và chúc lành cho mọi người.

Ngài là một trong những gương mặt vĩ đại của Giáo Hội Việt Nam, là chứng nhân lịch sử của Giáo Hội ở Miền Bắc trong hơn 70 năm qua. Ngài đã góp phần to lớn và quan trọng trong việc xây dựng Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt là trong các lãnh vực tông đồ, đào tạo, tổ chức nhân sự và quan hệ ngoại giao. Cuộc đời phục vụ của ngài còn để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá trong công cuộc xây dựng Giáo Hội hôm nay.

Tóm tắt cuộc đời ĐHY Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng
VietCatholic News (23 Feb 2009 01:48) - Lm Phêrô Nguyễn Văn Khải DCCT

Đức Hồng Y Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng, sinh ngày 20.05.1919, trong một gia đình Công giáo đạo đức tại thôn Bình Hoà, xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo họ Cầu Mễ, giáo xứ Quảng Nạp, giáo phận Phát Diệm.

Năm 1925 ngài đi học tại trường làng. Năm 1927 ngài được cha nghĩa phụ Phêrô Phạm Bá Trực đưa ra Hà Nội học tại ngôi trường do cha vừa thành lập ở giáo xứ Kẻ Sét.

Thấy ngài ngoan ngoãn, hiền lành, có tư chất thông minh lại ẩn giấu một nghị lực khác người, cha Phạm Bá Trực đã xin cho ngài đi tu và ngài đã trúng tuyển vào Tràng Tập Hà Nội năm 1929.

Năm 1933, ngài là học sinh đầu tiên của Trường Tập Hà Nội thi đậu bằng Certificat d’Étude Primaire và ngài được gọi vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, toạ lạc ở giáo xứ Hoàng Nguyên, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông.

Năm 1939, tốt nghiệp Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, ngài được cử đi phục vụ tại giáo xứ Xuy Xá, thuộc huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông. Trong thời gian này, ngài đã đông viên một số học trò theo ơn gọi tu trì, trong số đó ngày nay có người đã làm linh mục.

Năm 1940, ngài được gọi vào Đại Chủng viện Liễu Giai, Hà Nội và ngài theo học chương trình triết học tại đây cho đến năm 1942.

Năm 1942 ngài được Bề trên Địa phận cử đi giúp xứ Khoan Vĩ, thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, là nơi cha Phêrô Phạm Bá Trực nghĩa phụ của ngài đang làm Chính xứ.

Năm 1943, ngài được trở về Đại Chủng viện Liễu Giai, tiếp tục học thần học. Giữa năm 1945, vì hoàn cảnh đất nước xáo trộn, Đại Chủng viện Liễu Giai phải ngưng hoạt động, các thầy chủng sinh phải tản mác mỗi người một nơi.

Tháng 9 năm 1946, Đại Chủng viện Liễu Giai tái mở cửa, ngài lại trở về Chủng viện. Ba tháng sau, ngày 19.12.1946 chiến tranh bùng nổ, Đại Chủng viện bị tấn công, bị xâm chiếm, việc học của ngài lại bị gián đoạn.

Năm 1948 ngài được Bề trên Giáo phận gửi đi học tiếp chương trình thần học tại Học viện Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội.

Năm 1949 ngài được Bề trên chuyển về học tại Đại Chủng viện của Giáo phận mới mở ở số 40 Nhà Chung.

Ngày 06/06/1949 ngài được truyền chức linh mục tại nhà thờ Chính Toà Hà Nội.

Năm 1949 ngài được chỉ định làm tuyên úy Cô Nhi viện Têrêxa tại Quần Ngựa.

Năm 1950, ngài được bổ nhiệm làm Phó xứ rồi làm Chính xứ Hàm Long thay thế cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê đi làm giám mục Hà Nội. Tại đây, ngoài các việc mục vụ thông thường, ngài còn giúp đỡ các học sinh nghèo tại trường Trần Văn Thưởng và Nhà Bác ái Thánh Vinh Sơn, là hai cơ sở giáo dục và từ thiện của giáo xứ Hàm Long thời bấy giờ.

Năm 1953, ngài thành lập Trung tâm Bái ái-Xã hội Bạch Mai, trên khu đất khoảng 4000 m2, nhằm trợ giúp những người khốn khổ trôi dạt về từ các vùng nông thôn bị đang bị chiến tranh tàn phá.

Năm 1955, ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Hà Nội- Một Liên Tiểu Chủng viện bao gồm khoảng 200 tiểu chủng sinh của các giáo phận Hà Nội, Bùi Chu, Hải Phòng, Bắc Ninh, Phát Diệm, Thái Bình, Thanh Hoá. Trong số này về sau có hơn 60 người làm linh mục, trong đó có 3 vị làm giám mục.

Năm 1960, khi Tiểu Chủng viện này phải giải tán, trong hoàn cảnh khó khăn, ngài được giao trọng trách kín đáo đào tạo quý thầy Đại Chủng sinh của Tổng Giáo phận Hà Nội-những người lúc này, vì hoàn cảnh xã hội, đang phải sống tản mác tại gia đình.

Năm 1963, ngài đựơc Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Bắc Ninh, một địa phận rộng lớn, trống toà từ năm 1954 và có phần lớn diện tích vốn nằm trong vùng kháng chiến của Việt Minh. Giữa những khó khăn trùng trùng điệp điệp, ngài đã chọn cho mình khẩu hiệu: “Chúng con tin ở tình yêu Thiên Chúa” làm hành trang lên đường thi hành sứ vụ.

Năm 1963, ngài đã sáng lập Tu hội Đức Mẹ Hiệp Nhất Bắc Ninh nhằm giúp các chị em tận hiến có điều kiện làm tông đồ tại các xứ đạo và tại các môi trường khác nhau. Ngài cũng kín đáo đào tạo các chủng sinh cho Giáo phận. Năm 1974, ngài đã âm thầm truyền chức linh mục cho 7 thầy bất chấp những nguy hiểm mà chính quyền có thể gây ra cho các tân chức và cho bản thân ngài. Ngài còn trao ban chức thánh cho một số ứng viên của các giáo phận khác ở Miền Bắc, trong đó có cả việc truyền chức giám mục kín đáo cho Đức cha Vinh Sơn Phạm Văn Dụ, Giám mục Lạng Sơn vào năm 1979.

Theo tinh thần của Vatican II, tại giáo phận Bắc Ninh, ngài đã đào tạo tông đồ giáo dân, củng cố các Ban Hành giáo, tổ chức các hội đoàn, quảng bá lòng sùng kính Thánh Tâm và lòng tôn kính Đức Mẹ, canh tân và thích nghi các kinh sách trong Giáo phận. Trong khung cảnh Giáo hội bị cấm cản về phương diện xuất bản và truyền thông, ngài đã soạn thảo Kinh thánh và giáo lý dưới hình thức thơ ca hò vè nhằm phổ biến lời Chúa và giáo lý cách dễ dàng, rộng rãi và hiệu quả cho đông đảo giáo dân.

Trong hơn 30 năm làm Giám mục Bắc Ninh, bằng các sáng kiến mục vụ độc đáo, ngài đã biến Toà Giám Mục trở thành một mái ấm gia đình, nơi chủ chăn và đoàn chiên gặp nhau, cùng nhau chia vui sẻ buồn. Toà Giám Mục cũng trở thành một trung tâm mục vụ, nơi đoàn chiên liên tục được đào tạo và bồi dưỡng đức tin, bất chấp những cấm cản trăm đường của nhà cầm quyền đương thời. Nhờ vậy, qua những thập niên chuyên chính vô sản cách cực đoan, dù thiếu thốn linh mục, giáo dân Bắc Ninh ngày nay vẫn là những người có lòng tin kiên vững, sống đạo đức, nhiệt thành và hết lòng yêu mến Giáo Hội.

Ngày 04.07.1990 Toà Thánh đặt ngài làm Giám quản Tổng Giáo phận Hà Nội, kiêm Giám đốc Đại Chủng viện Hà Nội. Ngày 23.04.1994, vào tuổi 75, thay vì được nghỉ hưu theo Giáo luật, thì Toà Thánh lại đã bổ nhiệm ngài làm Tổng Giám Mục Hà Nội. Đến ngày 26/11/2004 ngài được ĐGH Gioan Phaolô II phong tước Hồng Y tại Rôma. Ngoài ra, ngài sẽ còn nắm các chức vụ quan trọng khác như Chủ tịch HĐGM Việt Nam (1995-2001), Giám quản GP Hưng Hóa (1995), Lạng Sơn (1998), Hải Phòng (1999).

Cùng với việc liên tục thăm viếng, gặp gỡ các thành phần dân Chúa trong Tổng Giáo Phận Hà Nội, ngay khi về làm chủ chăn ở đây, đứng trước tình trạng thiếu thốn nhân sự nghiêm trọng, ngài đã tìm cách gia tăng con số linh mục tu sĩ bằng nhiều cách khác nhau. Ngài đã thu xếp để quý thầy lớn tuổi ở Hà Nội cũng như các giáo phận khác ở Miền Bắc, được theo học các khóa bổ túc, ngắn hạn tại Đại Chủng viện rồi sớm truyền chức linh mục cho quý thầy có điều kiện phục vụ đoàn chiên đông đảo đang đói khát ơn thánh.

Ngài cũng đã nỗ lực cải cách và tái thiết Đại Chủng viện Hà Nội cả về cơ sở vật chất, lẫn về hình thức, nội dung và quy mô đào tạo. Từ đầu những năm 1990, nhờ sự thu xếp của ngài, một số linh mục có khả năng chuyên môn đã có thể từ Miền Nam ra làm giáo sư thỉnh giảng, hoặc giáo sư thường trực tại Đại Chủng viện Hà Nội. Đi xa hơn, trong tư cách Chủ tịch HĐGM Việt Nam, ngài đã đấu tranh để từ năm 1995, các Đại Chủng viện trên cả nước được tuyển sinh 2 năm/ khóa thay vì 6 năm/khóa như trước đó.

Ngài còn nâng đỡ ơn gọi tu trì để đảm bảo nhân sự phục vụ, tạo nên sự đa dạng và phong phú trong Tổng Giáo phận Hà Nội. Nhờ sự hướng dẫn của ngài, từ đầu những năm 1990, Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội hằng năm liên tục tuyển sinh, mở tập viện và khấn dòng. Ngài còn lập ra Tu đoàn Nữ Truyền Tin và Tu đoàn Nam Truyền Tin (1996) nhằm mục đích truyền giáo. Hơn nữa, bất chấp ý muốn của chính quyền, ngài còn duy trì được sự hiện diện của DCCT ở Thái Hà và mở đường cho sự hiện diện của trong Dòng Salesien Don Bosco ở Hà Nội.

Nhằm tính chuyện xây dựng Tổng Giáo Phận Hà Nội lâu dài trong tương lai, từ giữa những năm 1990, ĐHY cũng đã gửi một số linh mục đi du học ngọai quốc. Một số vị đã trở về và đã nắm các trọng trách trong Đại Chủng viện như Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục Lạng Sơn, nguyên Tổng Đại diện và nguyên Giám đốc Đại Chủng viện Hà Nội; Đức cha Lorenxô Chu Văn Minh, Giám mục Phụ tá Tổng Giáo Phận Hà Nội kiêm Giám đốc Đại Chủng viện Hà Nội.

Ngài đặc biệt lưu tâm đến viện trau dồi đời sống đạo đức cho giáo dân, giáo dục thế hệ trẻ và làm việc bác ái xã hội. Trong chiều hướng này, bên cạnh những lời kêu gọi, hướng dẫn giáo dân, ngài còn phục hồi hay thành lập một số đoàn thể trong Tổng Giáo Phận như Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội Dòng ba Phan Sinh, Hội Legio Mariae, Hội Thánh Tâm (1995), Hội Gia đình cùng theo Chúa (2000), Gia đình Thánh Tâm (2003), Hội Sinh viên Công giáo TGP Hà Nội (1998).

Năm 2003, khi Tổng Giáo Phận Hà Nội bắt đầu phục hồi và khi sức khoẻ không còn cho phép ngài phục vụ ở tuổi 84, ngài đã gửi đơn lên Toà Thánh xin nghỉ hưu và được Tòa Thánh chấp thuận vào tháng 4 năm 2003 cùng lúc với việc bổ nhiệm Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm Giám quản Tổng Giáo Phận Hà Nội. Trong 6 năm nghỉ hưu tại Toà Tổng Giám Mục Hà Nội, ngài luôn luôn quan tâm theo dõi hiện tình Giáo Hội Việt Nam và âm thầm cầu nguyện cho mọi người.

Ngày chúa nhật ngày 22.02.2009, lúc 10 h 10’, ngài đã được Chúa gọi về trong tình yêu thương chăm sóc và lời nguyện cầu của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt, của quý cha quý thầy quý soeurs phục vụ tại Toà Tổng Giám Mục, hưởng thọ 90 tuổi, trong đó có 80 năm tu hành, 60 năm linh mục, 46 năm giám mục và 15 năm hồng y.

Trong 90 năm làm con chúa, đặc biệt trong tư cách là mục tử, Đức Hồng Y là một nhà tu hành mẫu mực, là một lãnh tụ tôn giáo khôn ngoan, là một tông đồ nhiệt thành và được đồng nghiệp kính trọng, là một nhà giáo dục đào tạo kiên nhẫn, là một chủ chăn hiền hoà và can đảm luôn tận tâm hy sinh phục vụ đoàn chiên, được đoàn chiên thương mến.

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt viết về ngài nhân dịp mừng thượng thọ cửu tuần của ngài vào năm 2008 rằng: “ …Trong những năm tháng qua, Đức Hồng Y đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho Chúa, cho Hội Thánh và đã để lại biết bao thành quả mà ngày nay chúng ta được hưởng nhờ.

Ngài là tấm gương sáng cho chúng tá về đời sống thánh thiện đạo đức, về sự tận tuỵ phục vụ Chúa và Hội Thánh, về tầm nhìn xa trông rộng trong việc đào tạo nhân sự, về sự vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa và về sự khiêm nhường quên mình sâu xa.

Ngài là món quà quý giá Chúa tặng ban cho chúng ta. Qua ngài, biết bao ơn phúc của Chúa đổ tràn trên Tổng Giáo Phận Hà Nội, trên mỗi người chúng ta”.

Đức Hồng Y đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển Giáo hội Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, quản trị và tông đồ mục vụ. Ngài là cây đại thụ cuối cùng của Giáo hội Miền Bắc đã được Chúa đưa về Trời. Trong tâm tình kính yêu và tri ân ngài sâu xa, chúng ta hiệp lòng hiệp ý dâng lời tạ ơn với ngài và cầu nguyện cho ngài.

Xin xem thêm các bài sau đây:

Hình ảnh nghi thức nhập quan cho Đức Cố Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng 7g00 sáng ngày 23.2.2009 - Giuse Trần Ngọc Huấn (23-Feb-2009 02:57)
“Nó còn giữ đạo không?” - Tiễn biệt Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng - Mai Quốc Ngọc Khôi (22-Feb-2009 22:56)
Cardinal Paul Joseph Pham Đình Tung, Archbishop emeritus of Hà Nội (Viêt Nam) passed way - VietCatholic (22-Feb-2009 17:26)
Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng: Mục tử nhân lành, người Cha kính yêu - Giuse Vũ Văn Được (22-Feb-2009 16:22)
Mấy kỷ niệm về Đức Hồng y Phaolô-Giuse Phạm Đình Tụng - TS Phạm Huy Thông (22-Feb-2009 15:41)
ĐHY Phạm Đình Tụng: một người Thầy, một người Cha - Lm. Đặng Xuân Thành (22-Feb-2009 15:07)
ĐTGM Hà Nội làm phép xác ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng và quàn tại nhà nguyện Fatima tại TGM Hà Nội - Giuse Trần Ngọc Huấn (22-Feb-2009 09:28)
Cáo phó: ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng đã về nhà Cha trên trời - VP Tòa TGM Hà Nội (22-Feb-2009 09:18)
ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng - chứng nhân lịch sử GHVN- đã qua đời - LM Trần Công Nghị (22-Feb-2009 08:51)
Mừng sinh nhật 90 năm ĐHY Giuse-Maria Phạm Đình Tụng - Hà Nội (20-May-2008 12:23)
Vài cảm nhận về con đường dâng hiến trong bậc tu trì - Phan Bích Giang (03-Feb-2008 14:03)
Xuân Công Lý và Hoà Bình - Sa Mạc Hồng (26-Jan-2008 12:37)
Cầu nguyện nưã! Cầu nguyện mãi! - Bs Vũ Linh Huy (26-Jan-2008 12:33)
Christian Unity is a gift of God that must be constantly invoked - Truyền thông Công giáo EWTN (26-Jan-2008 10:46)
Tin khẩn cấp: Chính quyền ra tối hậu thư: 5giờ chiều Chúa Nhật ngày mai phải mang tượng ảnh đi hết, nếu không là biện pháp mạnh! - VietCatholic (26-Jan-2008 09:39)
Chia sẻ của một ngưởi tham gia cầu nguyện tại Tòa Khâm Sứ ngày 26.01.2008 -Hoàng Hoa Phương (26-Jan-2008 09:23)
Video: Ý kiến của người đến tham dự cầu nguyện tại Tòa Khâm Sứ - PV VietCatholic (26-Jan-2008 08:50)
Video: Ý kiến của một cụ già cao tuổi phát biểu tại Tòa Khâm Sứ -PV VietCatholic (26-Jan-2008 08:47)
Video: Chị người Mường đối chất với cán bộ dân vận - PV VietCatholic (26-Jan-2008 08:42)
Video: Giáo dân Hà nội cầu nguyện tại Tòa Khâm Sứ chiều ngày 26.1.2008 - PV VietCatholic (26-Jan-2008 08:13)
 
Tĩnh tâm Linh Mục Đoàn Đà Lạt: mối quan hệ giữa linh mục với các thành phần Dân Chúa khác
+ GM Giuse Nguyễn Chí Linh
18:25 01/03/2009
TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN ĐÀLẠT
Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con” (Ga 17, 9)

TĨNH TÂM THƯỜNG NIÊN TOÀ GIÁM MỤC ĐÀ LẠT
16-22/02/2009

MỞ ĐẦU
LINH MỤC, CHỨNG TỪ SỐNG ĐỘNG
CỦA NGƯỜI RAO TRUYỀN


1. TÂM TÌNH MỞ ĐẦU.

Trọng kính Đức cha Phêrô,
Kính thưa cha Tổng Đại Diện,
Kính thưa quý cha và quý thầy,

Các cha thường nói đùa rằng ba việc khó nhất trên đời là “giảng cho cụ, giải tội cho mụ, bắt ve cho chó”. Hai việc sau không biết có đúng không, nhưng việc đầu tiên quả là chính xác: giảng cho các linh mục không phải là chuyện dễ. Càng khó hơn nữa khi người nghe giảng là người quen, vì tôi biết rất nhiều cha thuộc giáo phận Đàlạt, nhất là những cha cùng thế hệ với tôi….

Nói đến đây, tôi sực nhớ đến một câu chuyện. .. Năm 1991, tôi lên Bảo Lộc dự lễ truyền chức người em linh tông là Cha Điện, chính xứ Thánh Mẫu bây giờ. Lúc đó tôi đang làm thầy. Oái oăm là hôm đó vì không mang theo phù hiệu nên tôi bị trật tự từ chối không cho vào nhà thờ. Trớ trêu là người đuổi tôi lại là một cha đàn anh Giáo Hoàng Học Viện rất quen thuộc. Tôi tự nhủ không hiểu sao ngài lại có thể cư xử lạnh lùng với tôi như thế. Đến giờ ăn, anh em nhận ra nhau, ngài mới thú thật rằng: “Chú mày bây giờ sao mà xấu xa gớm ghiếc đến thế? Anh không nhận ra chú mày là đúng rồi !”. Thưa quý cha, vị đàn anh đó chính là cha Tổng Đại Diện kính yêu của chúng ta.

Mới ngày nào còn bị gọi là “chú mày” đây làm sao tôi dám ngồi mà giảng cho ngài được ? Không chỉ có cha Tổng đại diện. Trong số các cha cĩ mặt, còn rất nhiều đấng bậc thầy, chẳng những là bậc thầy về tri thức, mà còn về linh đạo, tu đức, linh thao; còn rất nhiều bậc đàn anh, nhất là bạn bè đồng môn, đồng sự. Nếu không có một lý do đủ mạnh, chắc chắn tôi chẳng dám...

Nhưng tôi vẫn vâng lời Đức cha Phêrô, vẫn đến đây để giảng...Trước hết, vì Đàlạt là nơi tôi đã sống ba năm cuối cùng của tiểu chủng viện (Đức cha Nha trang gửi lên học trường Adran từ 1968). Đàlạt cũng là nơi tôi sống 5 năm đại học (1970-1975) và bảy năm Giáo Hoàng Học Viện (từ 1970 đến khi giải thể năm 1977). Trở lại Đà lạt, đối với tôi giống như một cuộc hành hương về với cội nguồn tri thức, nơi các vị ân sư đã đầu tư vốn liếng hành trang để tôi vào đời sứ mệnh, nhất là về với với cội nguồn ân nghĩa, vì Đàlạt cũng là xuất phát điểm nhiều cuộc hành trình tiến về Thanh hóa, dẫn đầu là Đức cha cố Batôlômêô Nguyễn sơn Lâm, rồi Đức cha Phêrô Nguyễn văn Nhơn, Đức cha Phaolô Nguyễn văn Đọc, của rất nhiều thế hệ linh mục, chủng sinh, nam nữ tu sĩ. Những chuyến hành trình đó đã hồi sinh giáo phận Thanh hóa sau một chặng đường dài bị thời thế vùi dập. Vì thế, sự có mặt của tôi hôm nay là để thay mặt giáo phận Thanh hoá nói lên lời cám ơn sâu xa chân thành đối với giáo phận Đà lạt.

Như vậy, tôi đến đây là vì tình nghĩa nhiều hơn là vì khả năng chuyên môn, bởi vì thú thật, tôi không có nhiều kinh nghiệm về giảng tĩnh tâm. Mãi đến 1992 tôi mới được chịu chức linh mục. Năm 1993, bề trên Nha trang sai tôi đi làm phó một giáo xứ ở Phan Rang rồi hai năm sau đi du học. Sau khi nhận nhiệm vụ Giám mục Thanh Hoá, tôi mới bắt đầu tập giảng tĩnh tâm...

2. TRƯỚC NGƯỠNG CỬA CUỘC TĨNH TÂM

Tuy nhiên, với số vốn kinh nghiệm ít ỏi đó, tôi đã nhận ra điều này: người giảng tĩnh tâm không phải là nhân vật chính, chỉ là khí cụ Chúa dùng. Khí cụ hay dở, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là tác động của Chúa Thánh Thần – Đấng xử dụng khí cụ – và thái độ đón nhận của người tĩnh tâm. Người giảng tĩnh tâm chỉ là “ngón tay chỉ mặt trăng”, giữ vai trò thứ yếu là cố vấn cho người tĩnh tâm khám phá chân lý của vầng trăng là chính Thiên Chúa.

Về phía người tĩnh tâm, qua kinh nghiệm thu tập được ở một số nơi, tôi có cảm tưởng hầu hết đều có thói quen “khoán trắng” mọi sự cho người giảng và cho ban tổ chức. Chúng ta có cảm tưởng sốt sắng khi nghe bài giảng bùi tai. Chúng ta có cảm tưởng cuộc tĩnh tâm thành công nếu được ăn ngon ngủ kỹ, được ở phòng ốc tiện nghi, vừa ý. Thái độ đó là thái độ thụ động, lệ thuộc ngoại nhân và ngoại cảnh.

Không thể phủ nhận rằng những yếu tố đó góp phần đáng kể vào sự thành công của một cuộc tĩnh tâm. Nhưng đúng ra, chúng chỉ giữ vai trò hổ trợ chứ không quyết định sự thành công. Thành công của cuộc tĩnh tâm lệ thuộc phần lớn vào tinh thần tự nguyện tự giác của người tĩnh tâm. Tĩnh tâm là “vào sa mạc với Chúa” nên người tĩnh tâm cần phải tự nguyện khổ chế, tự nguyện thinh lặng, tự nguyện tiết giảm những nhu cầu bình thường của thế xác vốn “nặng nề”, ngõ hầu tạo điều kiện thuận lợi cho tinh thần được “hăng hái nhiệt thành”

Cuộc tĩnh tâm đúng nghĩa đòi chúng ta phải có thái độ của người “tầm sư học đạo”, nghĩa là tự ý và chủ động đi tìm kiếm “Đấng có lời ban sự sống”, đích thân tiếp xúc với Ngài. Thật ra, Chúa không đòi chúng ta phải làm tất cả. Ngài chỉ đòi chúng ta tỏ thiện chí muốn gặp Ngài. Một khi chúng ta đến được với Ngài rồi, Ngài sẽ làm tất cả mọi sự còn lại. “Hỡi những ai vất vả lao nhọc, hãy đến với ta, ta sẽ bổ sức cho, và tâm hồn anh em sẽ được an nghỉ”.

Cũng rất có thể khi muốn tĩnh tâm cách nghiêm túc, chúng ta lại rơi vào căn bệnh ngược lại. Chúng ta quá chủ động, hay nói cho rõ hơn, chúng ta quá tự tin về kiến thức của mình. Trong thư gửi người chị Céline, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu viết: “Tất cả mọi thứ diễn văn dù hay ho hùng hồn tới đâu cũng không thể làm phát sinh Tình yêu Chúa trong một tâm hồn nếu không có ơn Chúa kích thích bên trong”.

Martin Heidegger, triết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, khi định nghĩa triết học, đã cho rằng người ta thường lẫn lộn “triết học” với “triết lý”. Triết học thuộc lãnh vực kiến thức; triết lý thuộc lãnh vực cuộc sống. Có những người có kiến thức triết học nhưng không phải là triết nhân, không sống triết lý. Tương tự như thế, chúng ta thường lẫn lộn “kiến thức tu đức” với “lòng đạo đức”. “Kỹ thuật nguyện ngắm” khác hẳn với “trao đổi thân mật”. Thiên về kỹ thuật, chúng ta trở thành người lý luận độc thoại “về Chúa” chứ không phải đối thoại “với Chúa”. Nói theo ngôn từ ngữ học, Chúa vẫn chỉ là đại danh từ “ngôi thứ ba”, tức người vắng mặt, chứ không phải là “ngôi thứ hai”, người đang trực tiếp đối thọai với chúng ta.

Bằng mọi giá, cuộc tĩnh tâm phải là một cuộc gặp gỡ sống động và thầm kín giữa chúng ta với Chúa Giêsu. Muốn vậy, chúng ta cần phải tạo được một cõi thinh lặng đủ để cách ly khỏi thế giới đời thường vốn rất ồn ào không cho phép chúng ta thực sự tĩnh tâm.

Một trong những tiến bộ kỳ diệu nhất của khoa học thời đại chúng ta là tin học. Chỉ trong tích tắc, chúng ta có thể liên lạc với người thân ở xa hàng nửa vòng trái đất. Nhưng những kỳ diệu đó đôi khi cũng là một con dao hai lưỡi. Nếu điện thoại giúp chúng ta thông tin dễ dàng, nó cũng quấy nhiễu chúng ta trong những sinh hoạt cần thinh lặng như cuộc tĩnh tâm.

Chúng ta có thể duyệt lại một vài yếu tố đại loại như thế để tự đề ra cho mình những biện pháp giúp chúng ta thực sự lên núi với Chúa trong những ngày đặc biệt này.

3. CHỦ ĐỀ CUỘC TĨNH TÂM

Sau một vài lưu ý có tính cách “vệ sinh môi trường” trên đây, có lẽ điều mà các cha, các thầy đang thắc mắc là chủ đề cuộc tĩnh tâm. Khi nhờ tôi giảng tĩnh tâm, Đức cha Phêrô muốn tôi nói về các mối quan hệ giữa linh mục với các thành phần Dân Chúa khác. Tôi nghĩ rằng đề tài đó cũng rất phù hợp với thư chung 2007 của HĐGMVN bàn về vấn đề giáo dục Kitô giáo. Dành ra cuộc tĩnh tâm này để suy nghĩ về đề tài này cũng là cách chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi của HĐGM cách cụ thể.

Khuôn khổ tuần tĩnh tâm không cho phép chúng ta đề cập đến tất cả mọi góc độ của một đề tài rộng lớn và phức tạp như giáo dục. Vì thế tôi chỉ xin giới hạn nội dung chia xẻ của tôi vào một vài khía cạnh của thư chung như sau:

Hơn ai hết, với tư cách là linh mục, theo ngôn từ của thư chung (2007) số 15, chúng ta phải là những “chứng từ sống động của người rao truyền” Tin Mừng….Mỗi chúng ta vừa là đích điểm vừa là khởi điểm của việc huấn luyện. Chúng ta càng tự rèn luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác”. Giáo dục luôn đi dôi với việc huấn luyện bản thân. Học phải đi trước dạy (Lc 22, 31-33). Chúng ta thường mang não trạng “thầy cả”, có nghĩa là biết mọi sự, dạy dỗ mọi người mà quên đi rằng bài chúng ta dạy phải hiệu quả đối với con người chúng ta trước. “Bao lâu còn là phần tử của Giáo hội lữ hành, chúng ta còn là học trò và còn là thầy dậy đức tin bằng chứng từ cuộc sống của chúng ta” (số 21).

Khi nói về sống đạo thư mục vụ 2006 ở số 4 của HĐGMVN nhấn mạnh rằng linh mục phải đi đầu trong mặt trận sống đạo. Cũng thế trong lãnh vực giáo dục đức tin, linh mục cũng phải là chứng từ sống động của một người đã thành công trong lãnh vực giáo dục bản thân.

Đã nói đến chứng từ là phải nói đến một cái gì rất cụ thể, sống động. Số 32 của thư chung triển khai ý tưởng này như sau: “mục tiêu hàng đầu của giáo dục Kitô giáo là đức tin. Giáo dục đức tin không những là truyền lại cho tín hữu những định tín, nhưng còn giúp cho tín hữu sống đức tin ấy trong cuộc sống cụ thể, vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết’ (Gia 2, 17)”.

Thư chung 2007 số 34 cho rằng: “con người sống trong xã hội không phải là một ốc đảo nhưng liên đới với nhau trong niềm vui cũng như nỗi sầu”. Sứ mệnh giáo dục đức tin của linh mục chúng ta chỉ thành công nếu chúng ta có quan hệ tốt với Chúa và với mọi người. Vì thế trong cụ thể, qua tuần tĩnh tâm này, chúng ta sẽ tuần tự duyệt lại những mối quan hệ chính tạo thành cuộc sống linh mục. Trước hết là mối tương quan của chúng ta đối với bản thân chúng ta, điều mà chúng ta cần phải rà xét lại trước ngưỡng cửa của bất kỳ cuộc tĩnh tâm nào. Mối quan hệ thứ hai có tính căn bản hơn, đó là quan hệ của chúng ta đối với Chúa Giêsu, “suối nguồn Tình yêu” (số 2), “điểm quy chiếu và là chuẩn mực giúp nhận định các giá trị căn bản của Tin Mừng” (thư chung 2006 số 4). Từ đó chúng ta có thêm ánh sáng để nhìn lại các mối tương quan khác đối với bề trên Giáo Hội, với anh em linh mục và với giáo dân.

Mỗi mối tương quan sẽ là một đề tài để chúng ta suy niệm trong tuần tĩnh tâm này. Như vậy, trừ bài mở đầu và bài kết thúc, chúng ta có tất cả năm bài. Dĩ nhiên, còn rất nhiều mối tương khác không kém phần quan trọng, chẳng hạn tương quan với nữ giới, giới trẻ, với chính quyền, với các tôn giáo bạn...nhưng khuôn khổ thời gian không cho phép chúng ta bao quát tất cả.

Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha: “vì họ, con xin thánh hiến chính mình con” (Ga 17, 9). Vì các môn đệ, Chúa Giêsu đã tôi luyện hun đúc bản thân mình để trở thành lợi ích cho các môn đệ. Tôi nghĩ rằng đó cũng là ơn mà chúng ta rất cần trong đời sống linh mục của chúng ta và cách riêng trong tuần tĩnh tâm này. Vì con chiên, chúng ta cũng xin Chúa giúp chúng ta biết mài dũa huấn luyện chính bản thân mình.

Với những lưu ý có tính cách cương lĩnh đó, tôi kính chúc các cha, các thầy một tuần tĩnh tâm đầy dấu ấn thiêng liêng.

------------------------------------------
BÀI II
TƯƠNG QUAN VỚI BẢN THÂN


Sau bài mở đầu có tính cách cương lĩnh cho cuộc tĩnh tâm, chúng ta chính thức bước vào đề tài thứ nhất: mối tương quan của chúng ta với bản thân. Trong bối cảnh năm giáo dục đức tin, thể theo tinh thần của thư chung, mọi sự phải bắt đầu bằng bản thân, đúng như cha ông Việt Nam đã nói “tri kỷ tri nhân bách chiến bách thắng”. Muốn phục vụ đắc lực hơn, chúng ta phải biết mình rõ hơn, phải có một thái độ quan hệ mới mẻ hơn. Chúa Giêsu hoàn toàn có lý khi tuyên bố “sự thật sẽ giải phóng anh em”. Không biết mình đang ở đâu, đang trong tình trạng nào, không biết những thế lực nào đang xiềng xích con người mình, không thấy mình đang bị tệ nạn nào kiềm toả khống chế, chúng ta không thể nào thực hiện được cuộc giải phóng triệt để mà chúng ta hằng mong đợi mỗi lần chúng ta tĩnh tâm. Con người là thước đo vạn vật. Thước không chuẩn thì đo cái gì cũng sai. Nếu chúng ta sai lầm về chính bản thân chúng ta, mọi quan hệ còn lại đương nhiên cũng bị lệch lạc méo mó theo. “Linh tại ngã bất linh tại ngã” là vậy.

Ơn mà chúng ta cần xin trong giờ suy niệm này là phát hiện được con người thật của mình với tất cả những ưu điểm và cả những tật nguyền của nó. Nhờ biết mình cách chính xác, chúng ta hy vọng tìm được những biện pháp cụ thể để cải thiện đời sống. Nói một cách cụ thể hơn, mỗi lần chúng ta tĩnh tâm, đặc biệt là tĩnh tâm thường niên, chúng ta muốn làm lại tất cả. Đề tài này phần nào gợi ý cho chúng ta có một cái nhìn thấu đáo hơn về hiện tình tâm hồn chúng ta để từ đó, chúng ta canh cải cuộc đời chúng ta.

1. CẦN THIẾT PHẢI PHẢN TỈNH

Thật ra khái niệm tương quan với bản thân là một khái niệm triết học, theo đó, vì có khả năng “phản tỉnh”, con người có thể lấy chính mình làm đối tượng tư duy.

Các nhà khoa học cho biết cứ 7 năm, toàn bộ tế bào của con người thay đổi một lần. Chính nhờ sự thay đổi đó mà sự sống luôn luôn mới mẻ từ khi con người là một bào thai cho đến khi nó trưởng thành. Sự sống sẽ ngưng lại nếu không có thay đổi trong cấu tạo thể lý.

Về tinh thần cũng thế, trong mỗi chúng ta luôn luôn có hai cái “ngã”. Một cái “đang là” tức là hiện tình, hiện trạng của chúng ta, và một cái “phải là”, cái mà chúng ta phải vươn tới. Cần phải biết cặn kẽ về cái “đang là” chúng ta mới biết mình phải sống như thế nào để vươn tới cái “phải là”. Con người chúng ta luôn luôn là một công trình dang dở. Chúng ta có một phẩm giá phải kiện toàn. Điều đó chỉ khả thi khi chúng ta luôn luôn cảnh giác về những bất toàn của chúng ta. Số 33 thư chung HĐGMVN về giáo dục viết rằng: “Phẩm giá Kitô hữu luôn là những bài học suốt đời còn tiếp tục, vì tín hữu mãi là khách hành hương. Phẩm giá ấy đang hình thành và sẽ chỉ thành toàn vào ngày cánh chung”. Cuộc chiến khám phá và kiện toàn bản thân là một cuộc chiến liên lỉ và triệt để cho đến khi chúng ta nhắm mắt lìa đời.

Thật ra, đó chỉ là một cách diễn tả khác về khái niệm hoán cải của Thánh Kinh. Hoán cải có nghĩa là nhìn lại mình để phát hiện bất cập rồi từ đó, khắc phục và tái thiết cuộc đời trên một cơ sở mới. Đó là sứ điệp đầu tiên của Gioan Tiền Hô và của Chúa Giêsu. Trong Giáo Hội có nhiều phương pháp tĩnh tâm khác nhau nhưng phương pháp nào cũng bắt đầu bằng hoán cải. Thánh Phaolô khi ngã ngựa, đã phát hiện sai lầm quá khứ nên đã hoán cải và từ đó đã bắt đầu một sứ mệnh hoàn toàn mới. Không có lần hoán cải đó, đã không có Phaolô Tông đồ dân ngoại.

Trước mỗi thánh lễ, linh mục chúng ta đều kêu gọi giáo dân hoán cải. Câu hỏi cần đặt ra là chúng ta kêu gọi giáo dân hoán cải, nhưng chính chúng ta có thực sự hoán cải không. Đó là vấn đề chúng ta cần phải đặt ra lúc khởi đầu cuộc tĩnh tâm này. Cần phải nhìn lại quá khứ để kiểm tra xem mình đã sống đời linh mục thế nào.

2. VỀ VỚI CĂN TÍNH LINH MỤC

Câu hỏi đó đòi chúng ta phải quy chiếu về căn tính linh mục của chúng ta. Để thấy được chúng ta đã trung thành hay không, chúng ta cần phải nắm vững chúng ta phải trung thành với cái gì. “Kim chỉ nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục” ở số 2 định nghĩa rằng: “Do Bí Tích truyền chức, được thể hiện thông qua việc dặt tay và kinh thánh hiến của giám mục, phát sinh nơi con người linh mục một mối dây hữu thể đặc thù nối kết linh mục với Đức Kitô là linh mục tối cao và là Đấng chăn chiên lành”.

Từ ngữ quan trọng nhất trong trích đoạn trên đây là từ ngữ “hữu thể”. Có nghĩa là ấn tích truyền chức biến chúng ta thành một tạo vật mới do tương quan với Đức Kitô. Nói theo ngôn từ của Aristote thì mối quan hệ giữa linh mục và Chúa Kitô có tính cách bản thể chứ không phải là tùy thể. Trong thực tế, để hoán cải, để xét mình, để tìm lại chính mình, chúng ta cần xét xem ơn linh mục đã trở thành bản chất của chúng ta chưa, hay chúng ta xem và sống căn tính linh mục như một tùy thể.

Để đi sâu hơn, chúng ta có thể mượn hai khái niệm của triết gia Gabriel Marcel. “Có” (avoir) và “là” (être). “Là” diễn tả một cái gì thuộc bản thể, “có” là cái gì chúng ta sở hữu. Bản thể đi đôi với sự tồn tại, sở hữu có thể nay còn mai mất. Nhiều khi chúng ta không cố ý nhưng chúng ta sống tựa hồ như ơn bí tích thánh chức chỉ là những gì chúng ta sở hữu. Chức linh mục chỉ là một món trang sức cất ở đâu đó, khi cần mới đem ra sử dụng. Con người hoang dã vẫn còn đó, lấn át mọi sự của chúng ta. Chúng ta đã thụ phong, nhưng chúng chỉ “có chức” linh mục, chưa thực sự “là linh mục”.

3. GIẢI PHÓNG BẢN THÂN.

Xu hướng triết học có ưu thế nhất trong thời cận đại ở phương Tây, đó là hiện tượng luận. Hiện tượng luận cho rằng muốn tri thức chính xác về vạn vật, trước hết cần phải trả lại tự do cho tư duy, nghĩa là phải giải phóng tư duy khỏi mọi thứ ảnh hưởng chi phối nó, chẳng hạn như văn hoá, giáo dục, thành kiến, những cái người ta vẫn gọi là “nếp suy nghĩ”, có thể chi phối hoạt động của trí năng.

Chúng ta có thể lấy một ví dụ y học để minh hoạ. Ở Au Châu, các bác sĩ thường yêu cầu bệnh nhân phải trút bỏ hết quần áo trước khi khám bệnh. Đối với người VN chúng ta thì rất ngượng nhưng đối với người Tây Phương, đó là chuyện bình thường. Nhưng xét cho cùng, điều đó hoàn toàn hợp lý, bởi vì có như vậy việc chẩn bệnh mới đạt độ chính xác cao.

Trong đời sống thiêng liêng của chúng ta cũng thế. Nhiều thứ bóng tối đang bao phủ cuộc đời chúng ta nhưng có thể vì đã quá quen thuộc như quần áo nên chúng ta không còn cảm thấy nhu cầu trút bỏ. Có những căn bệnh trầm kha đang gậm nhắm đục khoét đời linh mục của chúng ta một cách nào đó mà chúng ta không thấy được tác hại của nó. Tất cả những thứ đó giống như những lớp bụi che phủ không cho chúng ta thấy ánh sáng bên ngoài chiếu vào, khiến chúng ta không còn cảm thấy nhu cầu đổi mới, không cho phép chúng ta thấy sự thật phải vươn tới.

Thánh Phêrô đã cảnh giác giáo đoàn của ngài rằng “Anh em hãy tiết độ và tỉnh thức vì ma quỉ thù địch của anh em như sư tử gầm thét lượn quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”. Điều đáng sợ nhất là chúng ta không cảnh giác mà ma quỉ vẫn thường xuyên rình mò và hoạt động liên lỉ. Chúng ta không hề hay biết âm mưu của chúng, không có cảm giác bị chúng xâm chiếm.

Lúc còn nhỏ, tôi rất sợ tấm ảnh chết lành chết dữ trong đó có thằng quỉ đen chùi chũi, có sừng, có đuôi nắm tấm ra giường của người chết dữ để kéo họ xuống hỏa ngục. Tôi cũng nghe các soeurs dạy giáo lý giải thích rằng sở dĩ ta ngủ gục trong nhà thờ là vì có thằng quỉ ngồi trên đầu dùng hai chân đạp xuống mi mắt. Phải nhìn nhận rằng những lối diễn tả như thế cũng có hiệu quả sư phạm là giúp sợ tội nhờ hình ảnh gớm ghiếc về ma quỉ. Nhưng lớn lên, tôi thấy ma quỉ không xấu xí như thế. Ngược lại, chúng đội lốt những nhân vật rất hấp dẫn, khôn khéo dụ dẫm ta lạc vào mê hồn trận của chúng một cách êm ái nhẹ nhàng. Và chính vì thế mà chúng trở thành nguy hiểm nếu chúng ta không đủ cảnh giác như Thánh Phêrô đã lưu ý.

Những tật xấu thâm căn cố đế, những thói quen bệnh hoạn, những mối quan hệ không trong sáng… nhiều khi được che dấu bởi những bức màn rất đẹp đẽ. Tĩnh tâm là dịp để chúng ta đưa ra ánh sáng tất cả sự thật ẩn dấu đàng sau những bức màn đó. Cần phải xem xét thật kỹ để phát hiện những gì thần dữ đang thực hiện cách khéo léo trong tâm hồn chúng ta.

Chúng ta thường có thói quen thực hiện những cuộc tĩnh tâm giống như một thủ tục, một bổn phận. Không làm thì thấy thiếu, nhưng trớ trêu là làm mãi suốt đời cũng không có gì đổi thay. Chả lẽ lần này, chúng ta lại tiếp tục thực hiện thêm một cuộc tĩnh tâm vô hồn như thế?

Kết luận

Tất cả những suy nghĩ trên đây nhắm một mục đích cụ thể: qua cuộc tĩnh tâm này chúng ta phải phát hiện được những bóng tối đang bao phủ đời linh mục chúng ta. “Cẩm nang cho thừa tác vụ và đời sống linh mục” số 53 khuyên rằng: “Như bất kỳ giáo dân tốt lành nào khác, linh mục cũng cần xưng thú tội lỗi mình và những yếu đuối của mình. Người là người đầu tiên biết rằng viẹc thực hành bí tích này cũng cố đức tin và đức mến Chúa yêu người”.

Chúc các cha có được một lần xứng tội thật như các cha vẫn dạy và vẫn mong muốn cho giáo dân làm.

BÀI III
LINH MỤC VÀ CHÚA GIÊSU


Đối với linh mục, mối quan hệ căn bản nhất chính là mối quan hệ với Chúa Giêsu. “Kim chỉ Nam thừa tác vụ và đời sống linh mục số 7 viết rằng, “Linh mục phải ý thức rằng dời sống của mình là một mầu nhiệm hoàn toàn đâm rễ nơi mầu nhiệm Đức Kitô”. Ơn gọi linh mục tự bản chất là một mối quan hệ, quan hệ với Chúa Giêsu, Đấng đã kêu gọi và tuyển chọn linh mục. Nói cách khác, chúng ta chỉ thực sự là linh mục khi chúng ta ở trong mối quan hệ với Chúa Giêsu.

Định nghĩa mối quan hệ đó không phải là chuyện khó vì có rất nhiều sách vở tài liệu bàn về đề tài này. Điều quan trọng đối với chúng ta không phải là định nghĩa quan hệ cho bằng thái độ quan hệ. Làm thế nào để sống mối quan hệ đó trở thành sống động, đó mới là vấn đề chúng ta phải bàn.

Bao nhiêu anh em linh mục đã ra đi, đã ngã xuống biết đâu chỉ vì mối quan hệ với CG không đủ nồng nàn và bền chặt trong đời linh mục của các ngài ? Cũng rất có thể đời linh mục của chúng ta không mấy an vui chỉ vì CG chưa có được vị trí ưu tiên.

Chúng ta hãy dành ra bài suy niệm này để xin CG giúp chúng ta canh tân được mối tương quan của chúng ta với Ngài, để nhờ đó chúng ta sống ơn gọi và sứ mệnh linh mục của chúng ta cách sâu xa hơn.

1. QUAN HỆ ÂN TÌNH.

Để ám chỉ sự kêu gọi của Chúa, tiếng Latin gọi là vocatio. Tiếng Pháp và tiếng Anh cũng dùng chữ vocation, chỉ có nghĩa đơn giản là “sự kêu gọi”. Nội hàm từ ngữ tương đương trong tiếng Việt xem ra phong phú hơn khi có thêm khái niệm “ơn” đi liền với sự kêu gọi. Quả vậy, sự kêu gọi của Chúa tự bản chất là một ơn nhưng không, bởi vì hoàn toàn do hảo tâm của Ngài.

Bản thân tôi đã cảm nghiệm điều đó cách khá rõ ràng khi chịu chức linh mục. Sau khi Giáo Hoàng Học viện giải thể năm 1977, tôi bị trả về gia đình làm ăn sinh sống. Hiện tại gian khổ, tương lai mù mịt. Thời gian chờ đợi chức linh mục là cả một cuộc phiêu lưu vô định vì không biết mình sẽ đi về đâu. Bề trên trong giai đoạn đó cũng bó tay. Nhưng may mắn là cuối cùng tôi cũng được chịu chức linh mục. Lúc đó ai cũng tấm tắc khen tôi kiên trì. Nhưng tôi không hề cảm thấy đó là kết quả sự kiên trì. Tôi ý thức rằng bản thân tôi không thể nào vượt qua một chặng đường chông gai như thế. Tất cả là do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Bao nhiêu anh em lỗi lạc kẻ trước người sau đã ra đi. Chỉ còn lại mình: kém cỏi, mong manh...Tại sao ? Nhờ đâu, nếu không phải là ơn phù trợ của Chúa ?

Nhưng đó không phải là huyền nhiệm ơn gọi của tiêng tôi. Tôi tin rằng hầu hết chúng ta đều cảm nghiệm như thế. Có nghĩa là, chúng ta còn lại đây, trong thiên chức linh mục, là do ơn của Chúa chứ không phải do tài năng hay công trạng của chúng ta. Tại sao Ngài đã chọn chúng ta mà không chọn người khác? Đó là một mầu nhiệm mà theo diễn tả của Chúa Giêsu, “ai có tai mời hiểu được”.

Dù sao, điều chắc chắn là thiên chức linh mục là một hồng ân đặc biệt Chúa chỉ dành riêng cho mỗi người chúng ta. Và đó chính là lý do đời linh mục của chúng ta phải là một đời tri ân. Trong kinh tiền tụng thứ bốn, có câu “lời ca tụng của chúng con không thêm gì cho Chúa”. Thật vậy, chúng ta tạ ơn Chúa không phải vì Chúa cần chúng ta. Chúng ta tạ ơn Người suốt đời vì ơn gọi là lý do khai sinh, lý do tồn tại và lẽ sống đời linh mục chúng ta.

Đức Maria trong kinh Magnificat, đã cho chúng ta một mẫu gương về lòng tri ân. Mẹ luôn cảm thấy tâm hồn chứa chan hạnh phúc vì lúc nào tâm hồn Mẹ cũng dạt dào niềm tri ân, lúc nào Mẹ cũng “hớn hở vui mừng” vì thấy Chúa luôn là vị ân nhân vĩ dại đã ban cho Mẹ và cho Dân Israel “Đấng cứu độ”. Cũng thế, đời linh mục của chúng ta chỉ thực sự bằng yên, hạnh phúc khi chúng ta ý thức mình là kẻ thụ ân, được CG tuyển chọn, yêu thương và đồng hành.

2. QUAN HỆ SỐNG ĐỘNG

Tin Mừng Mc 3, 13-19 kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ với một câu kết rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Ngài kêu gọi họ “để họ ở lại với Người”. Các nhà chú giải cho rằng Tin Mừng Maccô được chia làm hai cuộc hành trình rất rõ rệt: cuộc hành trình thứ nhất từ đoạn 1 đến đọan 8 là cuộc hành trình băng qua Galilê. Đây quả thật là mùa xuân của ơn gọi vì các môn đệ không làm gì hơn là ở bên cạnh Chúa Giêsu.

Điều rất đáng ngạc nhiên là cuộc hành trình thứ nhất này kết thúc bằng câu hỏi “các con bảo thầy là ai?” (Mc 8, 26), có nghĩa là Chúa Giêsu thăm dò sự hiểu biết của các môn đệ về chính Người. Nếu gọi Chúa Giêsu là sư phụ, chúng ta có thể nói được rằng chưa biết đủ về sư phụ, sư phụ sẽ không cho xuống núi. Lời tuyên xưng của Phêrô “Thầy là Đức Ktô” (8, 27) có thể được xem như Phêrô đã “thi đậu” trong cuộc phỏng vấn của Chúa Giêsu: Phêrô có thể xuống núi vì đã đạt trình độ hiểu biết về sư phụ Giêsu.

Cuộc hành trình qua Galilê vừa nhắc đến trên đây kết thúc với việc chữa người hành khất mù tên là Bartimê tại Giêricô. Được chữa lành, anh ta đã vất áo choàng lại, bước theo CG lên Giêrusalem. Dường như Marcô coi Bartimê như biểu tượng của những ai đã nhận thức được hoàn toàn ơn gọi của mình. Trước đó, anh chỉ làm được một việc duy nhất là ngồi bên vệ đường (10, 6). Sau khi nhận ra Chúa anh mới có thể bước theo Ngài (10, 52). Từ bài học về Bartimê, ta có thể kết luận rằng bất cứ ai không nhìn thấy, không nhận ra CG đều không thể đi theo Ngài và bất cứ ai không đi theo Ngài đều không nhận ra Ngài. Lòng tri ân sẽ nồng nàn hơn, cụ thể hơn nếu chúng ta nhận ra sự hiện diện sống động của vị đại ân nhân đã kêu gọi chúng ta.

Một cha bạn truyền giáo ở Kontum đã chia sẻ với tôi kinh nghiệm này: người dân tộc Tây nguyên có cảm thức về linh thánh rất cao. Họ tham dự cử hành phụng có khi đông hàng vạn mà vẫn im phăng phắc từ đầu đến cuối. Có lẽ vì trước khi gia nhập đạo, họ đã quen kính sợ thần rừng thần núi nên họ ý thức dễ dàng hơn về sự vĩ đại của Thiên Chúa.

Ngược lại, hiện nay ở phương Tây, người ta lại nói rất nhiều đến một căn bệnh đức tin, đó là căn bệnh mất cảm thức về linh thánh. Vì thế mà người ta rơi vào chủ nghĩa dửng dưng tôn giáo (indifférentisme religieux), cho rằng đã đến lúc nên loại trừ tôn giáo vì không cần thiết nữa.

Điều đáng báo động là có khi chính linh mục chúng ta cũng bị ảnh hưởng bởi căn bệnh thời đại đó. Tôi vẫn còn nhớ ngày xưa lúc tôi còn bé, một hôm có một vị linh mục, sau khi truyền phép bánh, đã rời cung thánh bước xuống lòng nhà thờ bạt tai một cụ già rồi trở lên truyền phép máu thánh. Lý do chỉ vì cụ già đó cầu nguyện quá to tiếng khi ngài đưa Mình Thánh Chúa lên cao cho giáo dân thờ lạy sau khi truyền phép.

Chính bản thân tôi cũng là nạn nhân những hành vi như thế. Chỉ vì có con kiến lẫn vào, cha xứ đã hắt cả bình rượu vào mặt tôi hôm đó giúp lễ.

Hy vọng rằng chỉ vì nóng tính không kềm chế được, nên các linh mục trong những câu chuyện trên đã có những hành vi như thế. Nhưng cũng rất có thể vì các ngài thiếu ý thức về sự hiện diện linh thiêng của Chúa trên bàn thờ. Nếu cảm nghiệm được sự hiện diện thiêng liêng cao trọng của Chúa chắc chắn các ngài không dám làm như thế.

Đôi khi cách cử hành cẩu thả, lôi thôi của linh mục chúng ta cũng khiến cho giáo dân ngờ vực, không biết các cha có đức tin không. Mới đây tôi nghe một giáo dân đạo đức than phiền rằng “Thưa Đức cha, con thấy cha X lúc mới chịu chức xem ra được lắm. Không hiểu sao bây giờ có vẻ như ngài bị lãnh cảm về thiêng liêng”. Tôi giật mình vì cách dùng từ của người giáo dân này, nhưng một cách nghịch lý, lại thấy chữ “lãnh cảm” thật chính xác. Có thể chúng ta đang bị lãnh cảm thiêng liêng như phát biểu của người giáo dân trên đây.

Vì thế bằng mọi giá, chúng ta phải củng cố lại sự hiện diện của CG trong đời chúng ta, một sự hiện diện phải đủ nồng độ để bảo đảm sự gắn bó của chúng ta với Ngài mọi nơi mọi lúc.

Khi muốn đặt Phêrô làm thủ lãnh nhóm 12, CG không thẩm vấn Phêrô về tay nghề. Chúa chỉ hỏi ông “anh có yêu mến ta không?”. Như vậy điều kiện của CG là tình yêu. Đó cũng là điều kiện Chúa đặt ra cho linh mục chúng ta. Con tim và cuộc đời linh mục phải đầy ắp Chúa Giêsu.

3. XUẤT PHÁT LẠI TỪ ĐỨC KITÔ.

Những ý tưởng trên đây cho chúng ta thấy rằng để đứng vững trong đời linh mục, chúng ta cần phải tạo lại chỗ đứng cho Chúa Giêsu, phải đặt Ngài vào vị trí hàng đầu trong đời sống linh mục. Hay nói theo ngôn từ của Đức Gioan Phaolô II, cần phải « xuất phát lại từ Đức Kitô ».

Một số nơi ở miền Bắc, người giáo dân vẫn còn giữ thói quen đi qua nhà thờ bỏ mũ cúi đầu. Chúa đối với họ Chúa vẫn còn rất gần gũi. Họ chào hỏi Ngài thường xuyên mỗi khi có dịp gặp, đi qua hoặc tưởng nhớ Ngài.

Chắc các cha cũng đã đọc câu chuyện cha Don Camillo. Qua cách phản ứng của nhân vật này, ta dễ có cảm tưởng ngài là người ngớ ngẩn. Nhưng đọc kỹ, chúng ta sẽ đó là một mẫu linh mục sống đức tin rất mạnh mẽ, cụ thể và triệt để: luôn luôn dành chỗ ưu tiên cho Chúa Giêsu trong mọi tình huống cuộc đời, chia xẻ vui buồn với Ngài và xin Ngài chỉ đạo tất cả mọi công việc.

Đó cũng là điều mà trong đời linh mục, chúng ta phải đạt được trong mối quan hệ đối với Chúa Giêsu. Thường chúng ta chỉ giới hạn mối quan hệ đó trong phạm vi cử hành phụng vụ. Nhưng đúng ra nó phải bao trùm cả cuộc sống của chúng ta.

Có lần, lúc tôi còn là một cha phó, có một giáo dân già gần trăm tuổi đã nói với tôi: “thưa cha, con nhớ các cha ngày xưa hay viếng Thánh Thể lắm nhưng sao bây giờ không thấy các cha làm như thế nữa ?” Tôi hơi bất bình tự nhủ: “đâu phải hễ viếng Chúa là phải trình cho cụ đâu”. Nhưng nghĩ lại, tôi cảm thấy xấu hổ vì nhận xét của cụ giáo dân phản ảnh đúng một phần sự thật về các linh mục thời đại.

Trong khoá tu nghiệp dành cho giám mục tân nhiệm cuối tháng 9-2007 tại Roma, có vị đã báo động rằng càng ngày càng thấy các linh muc ít xưng tội. Phải chăng đàng sau những tiêu cực đó, tương quan giữa Chúa Giêsu với linh mục đang trên đà suy thoái ?

Kết luận

Chúng ta hãy mượn lời thánh Phaolô để tự nhắc nhở mình: “Đã đến lúc phải canh tân niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô, Đấng vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi” (Dt 13, 8).

------------------------------------
BÀI IV
LINH MỤC VÀ GIÁM MỤC


Chúng ta đã bàn về mối tương quan với Chúa Giêsu. Đó là một mối tương quan hàng dọc. Hôm nay chúng ta chuyển sang những mối tương quan hàng ngang, nghĩa là giữa con người với nhau, giữa linh mục và các thành phần Dân Chúa khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng mối tương quan của linh mục đối với giám mục.

“Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông”. Đó là lời khẳng định của “Cẩm nang cho thừa tác vụ và đời sống linh mục” (số 21). Đã nói đến linh mục là phải nói đến hiệp thông. Bí tích truyền chức đặt linh mục trong mối quan hệ hữu thể đối với mọi thành phần Dân Chúa, từ Giáo Hoàng cho đến giáo dân. Nhưng chúng ta không có đủ thời gian để bàn tới tất cả mọi đối tượng của thế giới hiệp thông rộng lớn đó. Chúng ta chỉ có thể đề cập đến một vài đối tượng có tính cách chủ lực, trong đó không thể không nhắc đến mối quan hệ của linh mục đối với giám mục.

1. CHIỀU KÍCH GIÁO HỘI HỌC.

Trước hết chúng ta hãy trở về với cơ sở thần học của mối quan hệ giữa giám mục và linh mục.

Khi thụ phong, chúng ta được khai sinh trong chức linh mục, có nghĩa là chúng ta trở thành thành viên của một trật tự mới, trật tự mà Giáo Hội học gọi là Phẩm Trật. Trật tự đó trước hết là một cơ chế, nghĩa là một tổ chức nhân sự y như bao tổ chức trần thế khác.

Nhưng ngoài tính cơ chế, GH do Chúa thiết lập, theo ngôn từ của Thánh Phaolô, còn là một nhiệm thể trong đó, mọi bộ phận và chi thể chỉ hoạt động được trong thế liên kết với nhau và với một đầu não duy nhất. Không thể tách rời linh mục ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội và cách riêng là với giám mục. Mối quan hệ đó là điều kiện bất khả kháng mang tính sinh tồn, chứ không phải là nhiệm ý, muốn thì quan hệ không muốn thì thôi. Nếu diễn tả theo triết học của Gabriel Marcel, chúng ta có thể phát biểu rằng tự bản chất, linh mục “là”quan hệ với giám mục chứ không phải “có” quan hệ với giám mục.

Giám mục là người kế vị các tông đồ, và nhờ tính tông truyền đó, ngài trực tiếp nhận chức linh mục từ Chúa Giêsu. Linh mục là người chỉ thông dự vào chức linh mục viên mãn của giám mục nên linh mục chỉ là linh mục khi hiệp thông với giám mục. Sứ mệnh của linh mục thật ra là sứ mệnh của giám mục, dù giám mục có thế nào đi nữa.

Cũng vì vậy mà truyền thống thần học của Giáo Hội vẫn luôn coi giám mục là nguyên lý hợp nhất cộng đoàn. Trong mỗi thánh lễ, chúng ta đều cầu nguyện cho giám mục giáo phận. Người Việt Nam chúng ta thường cả nể, nhắc đến tất cả các giám mục đang sống trong giáo phận và cho cả các đức cha khách đang có mặt. Nhưng đúng theo phụng vụ, chúng ta chỉ cần nhắc đến một mình vị giám mục đang cai quản giáo phận là đủ. Không phải là xem thường các vị khác, nhưng khi chỉ nhắc đến một vị bản quyền, Giáo Hội muốn nói lên tính duy nhất của cộng đoàn Giáo hội qua một vị thủ lãnh duy nhất.

Qua một vài nét phác hoạ trên đây, chúng ta thấy rằng mối quan hệ giữa linh mục và giám mục là một mối quan hệ có nguồn gốc thần linh, chứ không phải hàng ngang mà thôi.

2. KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY

Đáng buồn là những giá trị đó hiện nay đang bị đe doạ. Do ảnh hưởng của não trạng dân chủ, nhân loại khắp nơi đang trải qua một cuộc khủng hoảng về quyền bính. Khủng hoảng đó lây nhiễm cả vào Giáo Hội. Người ta không chấp nhận quyền bính cách dễ dàng như xưa nữa. Thậm chí có khi người ta nhạo báng chức sắc của Giáo hội một cách trắng trợn sống sượng. Kể cả Đức giáo hoàng người ta cũng không tha.

Không phải ở phương Tây mà thôi. VN của chúng ta cũng đang đi dần vào khủng hoảng. Tôi có một cha thầy cũ thuộc hội thừa sai Paris được chỉ định đi truyền giáo tại Nhatrang. Ngài kể chuyện rằng sau khi chịu chức linh mục, Đức Cha Marcel Piquet Lợi lúc đó là giám mục Nha trang đã ra lệnh cho ngài học văn chương cổ ngữ ở đại học Sorbonne để sang Việt Nam dạy chủng viện. Ngài thưa với Đức Cha: “xin Đức cha cho con qua Nha-trang ngay chứ bây giờ con hơi lớn rồi nên ngại học quá”. Thế là đức cha Piquet đùng đùng nổi giận cảnh cáo rằng: “Ở Việt Nam linh mục vâng lời giám mục chứ không phải nói gì cũng cãi như bên Pháp. Hoặc cha đi học hoặc tôi không nhận cha vào Nha trang nữa”.

Như vậy trong tâm khảm của Đức cha Piquet, ở VN chưa có khủng hoảng. Điều đó có lẽ nay không còn nữa. Chức giám mục tại Việt Nam cũng đang càng lúc càng bị xem thường, nhất là từ khi có mạng lưới internet. Thông tin nhanh là một kỳ diệu của nền văn minh tin học nhưng cũng là con dao hai lưỡi, có khi gây ra thảm kịch, tai vạ. Người chống đối Giáo Hội tha hồ báng bổ, người bất mãn bôi bác lãnh đạo, người tiểu nhân trả thù cách đê tiện, người nông cạn loan tin thất thiệt....Rốt cuộc uy tín của giới lãnh đạo Giáo Hội bị thương tổn, sứt mẻ.

Sau biến cố tháng 04-1975, do tình hình xã hội phức tạp nên Toà thánh thường chọn người trong địa phận làm Giám mục. Giải pháp này vừa tích cực vừa tiêu cực. Tích cực vì vị giám mục nắm vững hiện trường công tác hơn, nhưng tiêu cực vì việc lựa chọn ứng viên không còn giữ được tính độc lập nữa. Nó bị bao nhiêu là yếu tố nhân loại xen vào, tạo ra thảm kịch vạch áo cho người xem lưng và có khi lật đổ nhau cách trắng trợn. Giám mục chỉ còn là thắng lợi hay thất bại của một thế lực hoặc một phe nhóm nào đó.

Do vô tình, chúng ta sa vào nhiều thứ bẫy, bẫy của đối phương, bẫy của kẻ ham danh háo lợi. Cuối cùng chức giám mục và linh mục chẳng còn gì là thiêng thánh nữa. Linh mục không thấy nơi giám mục người Chúa chọn, không thấy đấng kế vị tông đồ nữa, không thấy mình là người phải vâng lời giám mục. Nếu phải vâng lời thì đó chỉ là thế bắt buộc. Hậu quả là hiện tượng nói xấu, kiện cáo giám mục càng ngày càng phổ biến.

3. GIÁM MỤC LÀ AI ĐỐI VỚI TÔI?

Làm thế nào để phục hồi mối quan hệ đúng đắn đối với GM? Tông huấn Pastores dabo vobis nhắc nhở rằng, điều quan trọng không phải là mối quan hệ nhưng là thái độ quan hệ. Muốn quan hệ tốt, chúng ta phải có những ý nghĩ tích cực về GM.

Trước hết, linh mục cần phải tin vào tình thương GM dành cho linh mục. Mỗi lần nhìn các cha xứ từ vùng sâu vùng xa về thành phố, đèo bồng đủ thứ trên một chiếc xe hai bánh, tôi cảm thấy thật bùi ngùi, nghĩ rằng linh mục của mình vất vả lo cho con chiên. Mỗi lần đi qua La vang, dù có vội đến mấy, tôi cũng tìm cách ghé vào thăm Đức Mẹ, gửi gắm địa phận cho Đức Mẹ, nhất là để cầu nguyện cho các linh mục giáo phận được trung thành với ơn gọi. Tôi đặc biệt nhớ đến những linh mục đang gặp khó khăn để xin Đức Mẹ đỡ đần cứu giúp. Mỗi lần xuất ngoại, tôi luôn bận tâm tìm một món quà nào đó để mua cho các cha. Không riêng gì tôi, hầu hết các đức cha đều làm như thế.

Không phải bỗng dưng có thể dành cho linh mục một niềm thương đặc biệt như thế. Phải chăng đó là “ơn bổn phận” (grâce d’état) Chúa ban cho giám mục ? Nếu LM có thể thương yêu cộng tác viên thân cận của mình cách dễ dàng thì GM cũng thế. Còn ai thân cận với giám mục bằng linh mục? Cách thể hiện có thể vụng về nhưng điều chắc chắn là giám mục yêu thương linh mục. Linh mục cần phải tin vào điều đó. Bởi vì có như thế, linh mục mới cảm thấy dễ chịu trong mối quan hệ với ngài và nhờ đó, thông cảm dễ dàng hơn với những bất toàn của ngài, tạo điều kiện thuận lợi hơn để ngài kiện toàn bản thân ngài. “Kinh nghiệm cho thấy giám mục càng lo huấn luyện bản thân mình bao nhiêu, thì càng biết khuyến khích và nâng đỡ việc huấn luyện linh mục đoàn của mình bấy nhiêu” (“Kim chỉ nam linh mục” số 89).

Linh mục cũng như giáo dân VN thường có xu hướng thần thánh hoá GM nên dễ rơi vào khuyết điểm đòi hỏi GM quá sức ngài. Chúng ta muốn giám mục phải là người xuất chúng vạn năng, giải quyết tất cả mọi vấn đề cách hoàn hảo, vừa ý chúng ta mà quên rằng giám mục phải chọn một trong muôn vàn phương án thường là khác với phương án và kế hoạch của chúng ta. Người nào cũng cho phương án mình là tối ưu nhưng trong tư cách lãnh đạo, GM chỉ được quyền chọn một phương án mà thôi. Bất mãn vì GM không làm theo ý mình đó là điều quá đáng.

Đã là giám mục, ai cũng đều muốn vừa lòng càng nhiều người càng tốt. Điều đó thường là bất tòng tâm. Nếu trong xứ đạo đôi khi linh mục chúng ta thấy lúng túng không biết phải quyết định thế nào trong một số công việc thì giám mục đối với linh mục cũng vậy. Đôi khi thoạt nghe thoạt thấy cách làm của giám mục, chúng ta vội phê phán mà quên đi rằng đó là hồ sơ ngài phải xử lý nên ngài nắm vững cặn kẽ, phải xem xét kỹ lưỡng và toàn diện hơn chúng ta, đang khi chúng ta chỉ thấy một góc độ thường là nông cạn và phiếm diện.

Kết luận

Chỉ cần đặt ra câu hỏi nếu là giám mục, liệu tôi có hơn giám mục của tôi không, chúng ta sẽ thấy ngay câu trả lời: chắc chắn là có những điều chính tôi không làm được nếu tôi là giám mục.

Thật ra vấn đề không phải là làm được hay không làm được cho bằng mối quan hệ của linh mục với giám mục có tốt đẹp không.

Chúng ta hãy xác tín rằng giáo phận lý tưởng là giáo phận trong đó linh mục và giám mục yêu thương nhau tận tình theo tinh thần của Chúa Giêsu đấng sáng lập Giáo Hội.

------------------------------------------
BÀI V
HIỆP THÔNG LINH MỤC


Sau mối tương quan với giám mục, mối tương quan ưu tiên thứ hai là mối tương quan giữa linh mục với nhau. Có thể nói được rằng hai mối tương quan này là thước đo sức khỏe của một giáo phận. Các linh mục hiệp thông chặt chẽ với nhau chung quanh giám mục, đó là một bảo đảm vững chắc cho sự hưng thịnh của giáo phận.

Tông Huấn “Pastores dabo vobis” số 17 đã diễn tả tình hiệp thông linh mục giống như tình anh em một nhà: “ Khi được sát nhập vào hàng linh mục, linh mục làm thành một đơn vị có thể định nghĩa như một gia đình thật sự”. Là thành viên của linh mục đoàn hay của cộng đoàn dòng tu, có nghĩa là linh mục có thêm một gia đình mới. Yêu sự nghiệp Chúa, yêu Giáo Hội, yêu giáo phận, linh mục phải luôn sống keo sơn găn bó với nhau. Đó là ơn chúng ta xin trong giờ suy niệm sáng nay. Ước gì tuần tĩnh tâm này là dịp để chúng ta quyết tâm thanh toán tất cả những gì làm suy yếu tình hiệp thông linh mục đoàn giáo phận Đàlạt.

Con xin tiếp cận đề tài hiệp thông linh mục dưới ba tiêu điểm. Tiêu điểm thứ nhất: tầm quan trọng của hiệp thông linh mục; tiêu điểm thứ hai: những biểu hiện phản hiệp thông; tiêu điểm thứ ba: chuyển xứ, tình huống thử thách tình hiệp thông.

1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA HIỆP THÔNG LINH MỤC

Thật ra, hiểu theo nghĩa sự liên đới giữa con người với nhau, tình hiệp thông không phải là một giá trị biệt loại của Kitô giáo. Tất cả mọi nền văn hóa đều đề cao tình hiệp thông liên đới. Nhưng thực tế cho chúng ta thấy rằng tình liên đới, tình hữu nghị, tình đoàn kết xã hội hoặc chính trị thường rất mong manh vì thường được xây dựng trên tương quan sức mạnh và tư lợi. Đó là điểm khác biệt giữa tình liên đới chính trị xã hội với tình liên đới Giáo hội. Đó cũng là lý do tại sao tình liên đới trong Giáo Hội mang tên là tình hiệp thông.

GH hữu hình cần đến một cơ chế chặt chẽ, nghĩa là cũng cần đến tình liên đới để hoạt động hữu hiệu. Nhưng tình hiệp thông không phải chỉ là nhu cầu của cơ chế. Ý nghĩa căn bản của tình hiệp thông hệ tại ở chỗ nó được xây dựng trên lệnh truyền, trên lời trăn trối sau cùng của Chúa Giêsu. Khi làm di chúc, người ta thường nghĩ đến việc phân chia tài sản vật chất cho người thân. Nhưng Chúa Giêsu không hề nhắc đến gia đình huyết tộc. Chủ thể thừa kế của Ngài chỉ là linh tộc của Ngài, những đứa con tinh thần, những ai Ngài đã chọn để kế tục sự nghiệp cứu thế của Ngài.

Nội dung di chúc của ngài không phải là của cải thế gian. Đối tượng chính trong bản di chúc của Ngài là tình hiệp thông: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu”. Đó cũng là lời kêu cứu tha thiết nhất Ngài dâng lên Chúa Cha. “Xin cho họ nên một như Cha Con ta là một”. Không phải chỉ là một lời khuyên, một câu nói suông. Di chúc đó đã đi kèm với hành động: Đêm hôm đó ngài đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đã gọi môn đệ là bạn hữu, nghĩa là nâng họ lên tầm quan hệ đồng đẳng và đã khẳng định đó là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng cho bạn hữu”.

Hiệp thông là ước nguyện sau cùng của Chúa Giêsu và từ đó, là nguyện ước của mọi thành phần dân Chúa. Giáo dân rất muốn thấy các linh mục yêu thương nhau. Càng thấy các cha quảng đại với nhau họ càng quý, càng hài lòng. Họ cũng rất vui khi các cha hiện diện bên cạnh nhau. Không hiệp thông với nhau chúng ta phụ lòng giáo dân biết bao ?

Không chỉ giáo dân mà thôi. Người bên lương và thậm chí cán bộ nhà nước cũng cảm nhận được nét đẹp đó. Sau lễ truyền chức linh mục của tôi, có một cha hỏi ông trưởng ban tôn giáo xem ông có cảm tưởng thế nào khi tham dự, ông trả lời rằng ông thích nhất là cử chỉ ôm hôn nhau của các linh mục.

Có một bản thăm dò đã khá lâu cho thấy rằng đoạn Thánh Kinh được linh mục ưa thích nhất đó là lời nguyện hiến tế của Giêsu trong Phúc Am Gioan. Không có gì đáng ngạc nhiên bởi vì qua hình tượng của các tông đồ, các linh mục cảm thấy mình được Chúa Giêsu quan tâm cách đặc biệt, nhất là qua đó Chúa Giêsu phản chiếu được sự hiệp thông mà ai trong chúng ta cũng đều mơ ước. Thánh Phaolô kể lại rằng chính vào giờ phút bị phản bội, “trong đêm bị trao nộp, Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra trao cho cho các môn đệ mà nói: tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn”. Diễn tả một cách mộc mạc, ta có thể nói rằng lúc bị chơi xấu nhất là lúc chúa đã chơi đẹp nhất. Nghiền nát cuộc đời thành tấm bánh nuôi tình hiệp thông, ngay cả khi bị phản bội. Đó là bài học mà bằng mọi giá linh mục phải thực thi trong đời mình. Đối tượng hàng đầu chính là anh em linh mục của mình.

2. KỲ THỊ: KẺ THÙ CỦA HIỆP THÔNG

Nói đến hiệp thông là nói đến phản hiệp thông. Thủ phạm số một phá hủy hiệp thông là kỳ thị. Kỳ thị có nghĩa là không chấp nhận, là tẩy chay sự khác biệt. Thật ra Chúa sinh ra chúng ta không ai giống ai. Chúng ta rất khác nhau về gốc gác, khả năng, hoàn cảnh….v.v… Vấn đề là con người có thái độ nào đối với những khác biệt đó. Ở các nước tiên tiến phương Tây, người ta xem sự khác biệt là yếu tố làm cho xã hội con người được phong phú. Nguyên tắc của họ là “năng lực trên hết”, bất luận anh thuộc mầu da tầng lớp nào. Nguyên tắc đó giúp vượt qua được sự khác biệt, tính ích kỷ hẹp hòi, tận dụng được chất xám của mọi thành phần ưu tú và nhờ đó đạt được sự tiến bộ tối đa.

Ngược lại trong nhiều nước hậu tiến người ta lại xem sự khác biệt là một mối đe dọa. Và có lẽ vì vậy mà họ trở thành hậu tiến. Vì phe nó phái kia khác mình nên đe dọa sự tồn tại của mình nên cần phải loại trừ họ để độc chiếm quyền lợi. Xem ra người Việt Nam cũng lâm vào cách suy nghĩ hẹp hòi này. Xã hội VN đầy dẫy những hình thức phân biệt bạnt thù, lý lịch, công trạng, đặc quyền, ưu tiên...

Trong giới công giáo chúng ta cũng chẳng khá hơn. Đủ mọi thứ kỳ thị đang gặm nhắm và làm suy yếu Giáo Hội. Hình thức kỳ thị thường gặp nhất là tinh thần cục bộ địa phương. Có một thầy chịu chức linh mục khi tuổi đã cao. Có người hỏi tại sao muộn màng thế. Thầy ấy trả lời rằng: “tôi gốc địa phận X, nhưng ở ngay trong biệt khu địa phận Y nên chẳng ai đệ bạt. Vì thế mà chịu chức muộn màng”.

Những biệt khu như vậy nhan nhản khắp nơi trong giáo hội VN. Điều đáng buồn là linh mục thường kỳ thị hơn giáo dân. Tình trạng đau lòng đó đòi chúng ta phải can đảm mổ xẻ.

Xét cho cùng kỳ thị là một điều không có cơ sở tồn tại. Đa số các cháu Việt nam sinh ra và lớn lên ở hải ngoại thích là công dân nước tiên tiến hơn là công dân Việt nam. Điều đó có nghĩa là khái niệm “địa phương” hay “đồng hương” là những khái niệm rất tương đối. Chỗ nào con người hạnh phúc, chỗ đó là quê hương. Thật là vô lý nếu ranh giới địa dư trở thành nguyên nhân chia cách lòng người. Trên thế giới người ta đang có xu hướng xoá đi ranh giới quốc gia để tiến tới một căn cước mang tính rộng lớn hơn ở cấp lục địa. Cộng đồng kinh tế Au châu, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, cộng đồng các nước Đông Nam á là những ví dụ điển hình. Cùng là người VN, cùng thuộc về một Giáo Hội, lẽ nào chúng ta lại “phân biệt chủng tộc” chỉ vì chúng ta sinh ra ở những tỉnh và địa phương khác nhau? Lần nào ở Pháp có biểu tình phản đối dân nhập cư, người ta cũng thấy biểu ngữ “tất cả chúng ta đều là nhập cư”.

Kỳ thị về trình độ cũng phi lý như thế. Mọi người chúng ta vào đời đều trần truồng như ông Gióp. Giỏi hay dở, giầu hay nghèo đâu phải tự chúng ta tạo ra. Tất cả vốn liếng chúng ta có được đều là do Chúa ban. Vậy chúng ta dựa vào đâu để khinh miệt người thua kém chúng ta?

Kỳ thị thế hệ, già than phiền trẻ, trẻ than phiền già cũng là kẻ thù của tình liên đới linh mục. Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ già. Nếu chúng ta không tập quen với những suy nghĩ hài hoà thế hệ, chúng ta cũng sẽ làm phân tán sức mạnh của linh mục đoàn.

Tắt một lời, tất cả mọi thứ kỳ thị đều không có lý do tồn tại và tự nó là phản Tin Mừng. Ở sâu xa vấn đề những người có chủ trương kỳ thị là những người muốn độc chiếm một cái gì đó. Kỳ thị chỉ là cái cớ để loại trừ người này người nọ vì sợ họ chiếm mất chỗ mình muốn hoặc đe dọa nguồn lợi mình toan tính.

3. CHUYỂN XỨ VÀ HIỆP THÔNG LINH MỤC

Chỉ nói về những tiêu cực mà thôi là thiếu công bằng. Tôi đã thấy một cha nọ, gia đình đã đi Mỹ trọn gói, chỉ một mình ngài ở lại VN. Tiền bạc ngài rất dồi dào vì được cả dòng họ ở hải ngoại yểm trợ. Nhưng ngài đã dùng tất cả những nguồn tài trợ đó vào việc xây dựng giáo xứ do ngài coi sóc. Ngày được lệnh đổi xứ, ngài chỉ mang theo vừa đúng một chiếc cartable. Cha kế nhiệm ngài xúc động quá, đã gom một số đồ đạc ngài để lại chở về xứ mới cho ngài. Ngài từ chối và yêu cầu cha kế nhiệm đưa về cho nhà chung.

Những mẫu gương thoát tục như vậy không phải là hiếm. Chúng ta có quyền kiêu hãnh và chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã dùng sức mạnh Thánh Thần để cấu tạo những linh mục đáng khâm phục như thế. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng đã xảy ra những chuyện đau lòng tiêu cực khi linh mục chuyển xứ.

Trước hết có thể vì chúng ta quá gắn bó với của cải thế gian nên vô tình chúng ta trọng của hơn trọng người. Lúc còn làm thầy, tôi đã chứng kiến trường hợp một cha sau khi về xứ mới, đã trở lại xứ cũ lấy cái xích chó và cả cái bát nhôm móp méo cho chó ăn. Ngài nói nửa đùa nửa thật rằng con chó nó bị ghẻ nên ngài để lại nhưng cái xích thì ngài bảo ngài cần để xích con chó mới. Cha xứ mới cười méo mó đành phát biểu rằng vâng cha cần gì cha cứ việc lấy. Không cố ý nhưng vô tình cha xứ cũ đã xem trọng cái xích chó mà quên cả tế nhị với người anh em linh mục. Vì đặt nặng vấn đề tiền bạc nên nhiều khi cha không màng gì cha đến sau mình.

Một hình thức lỗi hiệp thông nữa cũng thường gặp là các cha hay chứng tỏ “trước và sau mình chẳng ai bằng mình”. Vì nghĩ như vậy nên xảy ra cảnh các cha đi bêu riếu nói xấu nhau, cha cũ cứ về xứ cũ để nghe ngóng và chê bai cha xứ mới; cha xứ mới tìm cách khai tử những gì cha cũ làm.

Hãy nêu cao tinh thần hiệp thông mỗi lần đổi xứ. Phải quan niệm đổi xứ là dịp làm lại cuộc đời, chia xẻ gia sản giáo phận với anh em linh mục, chia xẻ tài năng với anh chị em giáo dân, nhất là để trắc nghiệm tinh thần thoát tục, lòng can đảm của linh mục.

Ở Au châu, vì thiếu linh mục giáo quyền không có giải pháp nào khác hơn là gom nhiều xứ lại và đặt dưới sự điều hành của một cộng đoàn linh mục lo cho cả vùng. Người ta khám phá ra tằng linh mục triều không thể ở được với nhau.

Kết luận.

Giáo Hội VN được khai sinh từ một sự hợp tác quốc tế. Đọc lại lịch sử chúng ta thấy các nhà thừa sai thuộc nhiều quốc tịch và hội dòng khác nhau làm việc bên cạnh nhau một cách hài hòa. Chúng ta phải sống tình hiệp thông linh mục thế nào để xứng đáng với di sản đó ?

------------------------------------------
BÀI VI
LINH MỤC VÀ GIÁO DÂN


Sau cuộc tĩnh tâm, chúng ta lại trở về với đời thường của chúng ta. Đối với đa số các cha, trở về đời thường có nghĩa là trở về với giáo dân. Có thể nói được rằng giáo dân chính là cuộc đời, là bổn phận, là gia đình thiết thân nhất của linh mục. Xét cho cùng thì chúng ta làm linh mục là vì giáo dân, cho giáo dân và với giáo dân. Vì thế, thành hay bại đời linh mục phần lớn tùy thuộc cách ứng xử của linh mục đối với giáo dân.

Pastores dabo vobis số 22-23 đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau: “Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh mục-Mục Tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình toàn thể cộng đoàn và từng thành viên”.

Trích đoạn trên đây là một định nghĩa tuyệt vời về mối quan hệ của linh mục đối với giáo dân. Dựa vào chuẩn mực được đề ra, chúng ta hãy duyệt lại thái độ của chúng ta đối với giáo dân để nhận ra ưu khuyết điểm, với hy vọng trở về sau cuộc tĩnh tâm này, chúng ta tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong việc phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Trong giờ suy niệm này, chúng ta hãy xin Chúa tạo cho chúng ta biết yêu thương con chiên với một quả tim của người mục tử nhân lành.

Chúng ta hãy dựa vào gợi ý của trích đoạn Pastores Dabo vobis trên đây để tiếp cận đề tài dưới ba tiêu đề: 1/ cách đối xử của LM đối với giáo dân; 2/ Cách cử hành của linh mục và 3/ Chuẩn mực quan hệ với giáo dân.

1. SỐNG VÌ CỘNG ĐOÀN

Hiện hữu vì đoàn chiên có nghĩa là linh mục phải cống hiến đời mình cho đoàn chiên. Chức linh mục của chúng ta được gọi là chức linh mục thừa tác. Điều đó có nghĩa là, theo thứ tự thời gian, cộng đồng tín hữu có trước linh mục. Có Dân Chúa rồi mới đặt thừa tác viên để phục vụ. Có giáo xứ rồi Giám mục mới sai người làm quản xứ về. Trong thực tế, linh mục chúng ta thường hành động ngược lại. Chúng ta xử với giáo dân như chúng ta là những người sinh ra họ.

Một trong những điều Việt Kiều hay than phiền nhất là linh mục Việt nam quá quan liêu. Không thể vơ đũa cả nắm rằng linh mục nào cũng quan liêu. Cũng không thể lấy lối sống của linh mục Tây Phương làm mẫu mực cho linh mục Việt Nam được. Nhưng ngược lại cũng không thể phủ nhận rằng nhiều linh mục Việt nam có lối đối xử quan liêu, nghĩa là như một vị quan, coi giáo dân như thần dân của nhà độc tài.

Không những với con chiên, nhiều linh mục còn có thái độ hống hách với cả người bên lương. Một số người có chuyện cần gặp linh mục nhưng chỉ để cho xong việc, rồi không bao giờ trở lại vì quá ngao ngán thái độ độc đoán, khiếm nhã của linh mục. Hệ lụy thật nghiêm trọng: có khi hộ cấm luôn người nhà có đạo không được đến nhà thờ nữa. Giáo dân thì không đến nỗi nào vì họ chịu mãi cũng quen, nhưng người bên lương mất hết thiện cảm và không bao giờ nghĩ đến chuyện theo đạo nữa. Hoá ra, thay vì truyền đạo, linh mục lại làm mất đạo.

Tài chánh cũng là một trong những lý do khiến linh mục làm cho giáo dân buồn phiền. Tại một số giáo xứ, mỗi lần có đại lễ, giáo dân lại ngao ngán vì thảm cảnh cha bổ nhân danh. Đa số giáo dân Việt nam còn rất nghèo. Nông dân đồng bằng sông Hồng Bắc Việt mỗi ngày bình quân không kiếm nổi một ngàn đồng. Họ khổ từ chỗ ăn chỗ ở cho đến chỗ đi cầu. Nhưng họ rất thương linh mục, sẵn sàng nhường hết những ngọt bùi ưu đãi cho chúng ta. Thế mà nhiều khi lối cư xử của linh mục đối với họ lại quá vô tình. Biết đâu, tuy không cố ý, nhưng chúng ta làm “nghề” linh mục nhiều hơn là mục tử đối với con chiên ?

2. “VÌ CỘNG ĐOÀN MÀ CẦU NGUYỆN”.

Ngoài lối cư xử đời thường, linh mục còn phải thể hiện vai trò mục tử khi cử hành phụng vụ, hay nói theo lời trích Pastores dabo vobis trên đây, linh mục phải “vì đoàn chiên mà cầu nguyện”. Trong Tông Thư Dies Domini về Ngày chủ Nhật ở số 1, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Lời thánh vịnh 118 câu 24: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” thật rất xứng hợp với Thánh lễ chủ nhật”. Có nghĩa là phải biến ngày chủ nhật thành một ngày vui cho giáo dân.

Mỗi tuần giáo dân đi lễ có một lần, có khi từ rất xa. Thế mà nhiều khi chỉ gặp được “bộ mặt hình sự” của linh mục. Giáo dân giống như những chiếc bình tích điện: gặp được linh mục, họ như được dịp “xạc” lại bình để có nhiên liệu tiếp tục con đường.

Ngày chủ nhật phải là ngày linh mục tặng quà tinh thần cho giáo dân: một nụ cười, một ánh mắt yêu thương, một lời nói khích lệ là những món quà đơn sơ nhưng rất ý nghĩa của linh mục tặng cho giáo dân. Hãy làm một cái gì đó, hãy chuẩn bị một cái gì đó cho giáo dân mỗi lần chúng ta tiếp xúc với họ. Đức cha Hòa rất kiên trì với việc chụp hình với giáo dân. Có thể nói đó là một nhân đức. Có lần tôi hỏi làm sao đức cha có thể kiên trì ngồi chụp hình với hàng trăm người như thế. Ngài trả lời rằng không đích thân đến thăm học tại gia đình được thì chụp hình là cách để hiện diện bên cạnh họ.

Nhiều linh mục chẳng những không có một cử chỉ yêu thương nào cho giáo dân mà còn làm cho ngày chủ nhật của họ mất vui. Có cha cau có gắt gỏng từ đầu lễ đến cuối lễ, có khi gạt cả micro và sách lễ xuống đất, biến bàn thờ thành nơi nạt nộ khủng bố giáo dân làm cho ngày chủ nhật của họ trở thành căng thẳng nặng nề. Bài giảng lễ thì lòng thòng và chủ yếu là mắng mỏ, hăm doạ, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nói mãi không kết được khiến cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng. Nhất là nếu chúng ta không có lợi khẩu, chúng ta làm khổ giáo dân, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên.

Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn lên đầu giáo dân. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ đê bêu diếu bôi bác.

Khi thấy giáo dân đi lễ không chịu vào nhà thờ, chúng ta bực bội vì nghĩ rằng họ vô kỷ luật nhưng biết đâu ở sâu xa vấn đề, họ chán linh mục quá nên không muốn đến gần. Có một cha đuổi thanh niên vô nhà thờ. Có đứa nói nó tin Chúa nhưng không vô nhà thờ vì không thích cha.

Phải làm thế nào để mỗi lần nghĩ đến linh mục ngày chủ nhật hay lúc dâng thánh lễ, người giáo dân cảm thấy hứng thú vì nhớ lại thái độ tình nghĩa vui vẻ của linh mục, nhất là làm cho họ cảm thấy lời giảng của linh mục thực sự đem lại cho họ một sức sống mới.

3. MỤC TỬ NHƯ LÒNG CHÚA MONG ƯỚC.

“Yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô”. Tôi nghĩ rằng đây là bí quyết để linh mục huấn luyện con tim mục tử của mình có được sự nhạy cảm của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn đám đông không người chăn dắt mà chạnh lòng thương. Phải đạt cho tới trình độ hễ nhìn thấy dân là thương. Theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, đám đông luôn là một đàn chiên bơ vơ. Họ cần đến mục tử chăn dắt họ, họ cần đến linh mục. Nếu không tạo được một con tim mục tử, tự khắc chúng ta sẽ biến mình thành một tên Pharisiêu đã bị Chúa Giêsu lên án là chất lên vai người khác những gánh nặng mà chính mình không vác được.

“Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào”. Đó là điều Chúa Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống tại thế của ngài. Đó cũng là điều bằng mọi giá chúng ta phải đạt được trong đời linh mục của chúng ta. Sự có mặt của vị linh mục trong đời giáo dân có khi đã đục khoét những lỗ hổng quá lớn. Cần phải làm thế nào để sự có mặt của linh mục trong đời giáo dân là một cái gì tích cực: làm cho họ được sống và được sống dồi dào hơn.

Có thể nói không quá đáng rằng phải thương giáo dân mới là cha xứ. Không thương dân không phải là linh mục, không phải là cha xứ. Người giáo dân sẵn sàng châm chước cho linh mục ngay cả khi các ngài mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng, miễn là họ thấy linh mục yêu thương họ.

Kết luận

Yêu thương giáo dân phải là một phản xạ tự động của linh mục. Đó là cách hiệu quả nhất để chúng ta thể hiện tinh thần của Chúa Giêsu cứu thế.

----------------------------------------------

BÀI VII
LM VÀ HẠNH PHÚC


Như một lời cầu chúc sau cùng trước khi chia tay, tôi muốn kết thúc những chia xẻ của tôi trong mấy ngày qua bằng một tâm tình lạc quan: mong cho các cha tìm thấy hạnh phúc trong đời linh mục.

Có một bản tình ca ngoại quốc đã được dịch ra Việt Ngữ. Tôi không nhớ tựa đề bài hát nhưng nhớ một câu này: « Đời không có em đời chẳng còn chi để gọi là đời ». Chắc các cha thấy buồn cười vì câu hát nặng mùi cải lương. Nhưng tôi muốn mượn câu hát đó để minh hoạ một điều tương tự: đời linh mục không có hạnh phúc thì chẳng còn chi để gọi là đời linh mục nữa. Nhất là khi với tư cách là linh mục, chúng ta là những người rao giảng tám mối phúc thật. Là linh mục, chúng ta phải là chứng nhân của hạnh phúc, của niềm vui Phục Sinh. Không thể thể hiện điều đó, nếu chính linh mục không tìm thấy hạnh phúc trong đời mình.

Nhưng hạnh phúc là một khái niệm rất tương đối. Tùy theo quan điểm, người ta định nghĩa hạnh phúc rất khác nhau. Vậy khi nói linh mục phải hạnh phúc, chúng ta phải hiểu hạnh phúc đó theo nghĩa nào?

Để minh họa câu trả lời, tôi xin đặt khái niệm hạnh phúc trong mối tương quan của nó với bốn khái niệm khác: 1/ Hạnh phúc và trách nhiệm; 2/ Hạnh phúc và gian lao; 3/ Hạnh phúc và hiệp thông; 4/ Hạnh phúc và khôn ngoan.

1. HẠNH PHÚC VÀ TRÁCH NHIỆM.

Hạnh phúc chính là vấn nạn đầu tiên của giáo lý công giáo, theo đó, khát vọng sâu xa nhất của con người là khát vọng hạnh phúc. Các tôn giáo được sáng lập thật ra là để cống hiến cho con người những con đường hạnh phúc khác nhau. Chọn Kitô giáo có nghĩa là chúng ta tin rằng đó là bí quyết hạnh phúc tối ưu mà con người tìm kiếm. Điểm độc đáo của Kitô giáo là không quan niệm hạnh phúc như một thứ may mắn hay như một món quà gói sẵn. Hạnh phúc theo nghĩa Kitô giáo là viên ngọc quý giấu trong ruộng phải khổ công đào bới, là đồng bạc mất phải đi tìm mới thấy, là cánh cửa phải gõ mới mở. Con người có thể đạt được hạnh phúc đích thật nếu nó biết nỗ lực tìm kiếm. Điều đó đặt ra vấn đề trách nhiệm đối với hạnh phúc.

Có thể nói được rằng nếu đời là một chuỗi trách nhiệm thì trách nhiệm lớn nhất là trách nhiệm đối với hạnh phúc. Tất cả mọi trách nhiệm còn lại đều qui về trách nhiệm hạnh phúc bởi vì đó là mục tiêu tối hậu mà con người đeo đuổi. Trách nhiệm đối với hạnh phúc là trách nhiệm lớn nhất vì chính nó quyết định ý nghĩa cuộc đời. Nói cách khác, đời đáng sống hay không đáng sống, điều đó hoàn toàn lệ thuộc ta có hạnh phúc không.

Theo cách suy nghĩ ở trên, đời linh mục không hạnh phúc, không phải chỉ là chuyện đáng buồn mà thôi nhưng còn là lỗi trách nhiệm. Lỗi trách nhiệm đối với bản thân vì một cách nào đó, khi không tạo được hạnh phúc, chúng ta đánh mất đời mình. Lỗi trách nhiệm đối với Chúa vì chúng ta không sinh lời cho số vốn Chúa trao, vì chúng ta không lấy Chúa làm làm gia nghiệp, làm niềm vui đích thật. Lỗi trách nhiệm đối với Giáo hội vì chúng ta không thể hiện được niềm vui hiền thê của Giáo Hội đối với Đức Kitô là Đức Lang Quân. Lỗi trách nhiệm đối với giáo dân vì không có hạnh phúc, chúng ta sẽ buồn. Mà chúng ta buồn thì cộng đoàn, giáo dân và tha nhân cũng buồn theo.

Như vậy trách nhiệm xây dựng hạnh phúc bản thân gắn liền và kéo theo trách nhiệm đối với hạnh phúc của mọi đối tượng mà chúng ta có tương quan.

2. HẠNH PHÚC VÀ GIAN LAO

Dĩ nhiên hạnh phúc và niềm vui chúng ta đề cập ở đây không chỉ là hạnh phúc và niềm vui bề ngoài thoáng chốc. Niềm vui chúng ta tìm kiếm phải là niềm vui thánh thiện, niềm vui mà Chúa Giêsu đã hứa là “không ai lấy mất được” (Ga 16, 22), hay như niềm vui giữa gian lao ba chìm bảy nổi chín lênh đênh như của Phaolô “Tâm hồn tôi chan chứa niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Co 7, 4).

Không phải Phaolô mới có niềm vui đó. Rất nhiều người cũng đã khám phá niềm vui của Phaolô. Có một cha cựu tuyên úy quân đội, trong trại cải tạo, thường xuyên bị kết tội vi phạm kỷ luật vì lén lút làm lễ và phân phát Mình Thánh Chúa cho anh em bạn tù. Sau nhiều lần bị cảnh cáo và trừng trị ngài vẫn tiếp tục vi phạm. Một hôm viên ban giám thị đã hăm dọa ngài. “Anh mà cứ như thế thì đừng hòng ra khỏi đây”. Thật đáng ngạc nhiên, ngài nhoẻn miệng cười rạng rỡ, đáp lại rằng: “thưa cán bộ, nếu thế thì còn gì bằng. Tôi chỉ muốn xin ở lại đây thôi. Ở đây rất nhiều người đang cần tôi ”.

Đúng là thế gian không thể cướp đi những loại niềm vui như thế. Thứ niềm vui chỉ có Chúa mới có thể ban tặng. Đạt được những giấc mơ trần thế, chiếm hữu được một đối tượng tình cảm, đôi khi chúng ta ngỡ mình đang hạnh phúc. Nhưng rồi những gì diễn ra sau đó cho chúng ta cái kinh nghiệm chua chát rằng thời gian là một tên cướp sẽ tước đoạt tất cả những gì thuộc về thế gian giả trá phù du. Chúng ta chợt khám phá ra rằng đó chỉ là những thứ hạnh phúc hão huyền, thoáng chốc. Hạnh phúc thật đòi chúng ta phải trả giá, như niềm vui Phục sinh phải đánh đổi bằng cái chết ngày thứ sáu tuần Thánh.

Đã có lúc trong vườn cây dầu, Chúa Giêsu thốt lên “Xin cất chén này xa con” nhưng ngay tức khắc ngài đã thêm vào “nhưng xin đừng theo ý con một xin vâng ý cha”. Ngài đã chấp nhận thương đau để niềm vui được nên trọn. Đó cũng chính là thứ niềm vui Chúa hứa cho môn đệ, cho chúng ta: “Bây giờ anh em buồn phiền nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng”.

Trong thông điệp Mùa Chay năm 2006, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI, gọi Mùa chay là “một cuộc hành hương nội tâm về với Đấng nguồn mạch lòng thương xót. Qua cuộc hành hương này, Thiên Chúa đồng hành với chúng ta xuyên qua sa mạc sự nghèo hèn của chúng ta, nâng đỡ chúng ta trên con đường tiến về niềm vui phục sinh”. Niềm vui Phục sinh sẽ cho chúng ta sức mạnh vượt qua gian nan thử thách. Chắc chắn rằng cuộc đời của chúng ta không phải lúc nào cũng êm ả bằng phẳng. Đôi lúc hay có khi thường xuyên nó là một sa mạc mùa chay. Nhưng đó là cái giá chúng ta phải trả để có được hạnh phúc lâu dài. Đó là điều chắc chắn vì Chúa đã hứa như thế: “Can đảm lên, thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

3. HẠNH PHÚC VÀ HIỆP THÔNG

Hạnh phúc và niềm vui theo nghĩa của Chúa Giêsu không phải là hạnh phúc của người đơn độc. Ngài gắn liền hạnh phúc của Ngài với Cha Ngài và gắn lièn hạnh phúc của môn đệ với hạnh phúc của Ngài. “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy như Thầy đã giữ các điều răn của cha thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em.” (Ga 15, 10-11). Linh mục và nói chung là Kitô hữu, chỉ thực sự hạnh phúc khi đang ở trong Chúa và đang ở với anh em.

Đang ở trong Chúa có nghĩa là đang ở trong tình trạng ơn thánh, đang bình an trong tâm hồn. Khi tôi khuyên một người anh em đang có ý định từ bỏ đời sống linh mục để ra đi, người anh em đó đã nói rằng “con yếu đuối quá, con không làm sao chỗi dậy được. Xin Đức cha thông cảm. Con không chịu nỗi cái mặc cảm mình nhơ bẩn mỗi lần con làm lễ”. Ít lâu sau tôi nghe tin ngài đã ra đi….Đó là một bi kịch đời linh mục. Hạnh phúc của người anh em linh mục đó đã chắp cánh bay xa chỉ vì ngài không giữ được sự bình an tâm hồn, hay nói theo đề tài hôm nay ngài không giữ được mối giây hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ngoài Thiên Chúa, hạnh phúc đời linh mục còn gắn liền với anh em. Thánh Augustin có một tư tưởng xem ra rất cực đoan, ngài cho rằng công việc của linh mục sẽ trở thành vô ích nếu không cộng tác với giám mục và anh em linh mục. Khi hiệp thông với Giáo Hội, linh mục hòa mình vào đời sống Giáo Hội và khi hòa mình vào đời sống Giáo Hội, linh mục thống nhất được chính đời sống của mình. Ngài lập luận rằng sự hiệp thông Giáo hội và hiệp thông linh mục dẫn đến hiệp thông Ba ngôi, suối nguồn mọi niềm vui. Như vậy đối với thánh Augustinô, sự hiệp thông với Ba ngôi bắt đầu từ hiệp thông đối với anh em linh mục. Trong bài nói về hiệp thông linh mục, chúng ta đã nói về sự cần thiết của nó. Hôm nay chúng ta thấy một khía cạnh khác: hiệp thông linh mục là điều kiện hạnh phúc. Sắc lệnh về đời sống và tác vụ linh mục số 11 viết rằng: “Nhờ hiệp thông với Giáo Hội và linh mục, linh mục kết hợp với ba Ngôi Thiên Chúa và cuộc đời họ luôn tràn trề ơn an ủi và chan chứa niềm vui”.

Như vậy, niềm vui là kết quả của tình liên đới, của tinh thần phục vụ cộng đoàn: “Kìa xem anh em sống chung một nhà, bao là êm ái bao là niềm vui”. Có nhiều người tỏ vẻ ái ngại khi hỏi thăm về Giáo Hội miền Bắc. Nhưng với riêng tôi, làm việc ở Bắc cũng có niềm vui riêng của nó. Vui vì giữa khó khăn thiếu thốn, tôi đã chia xẻ được tình anh em một nhà với con cái trong giáo phận mình. Thật ra, niềm vui như thế không phải chỉ ở ngoài Bắc mới tìm thấy. Bất kỳ ai và bất kỳ đâu, chúng ta vẫn có thể tìm được hạnh phúc nếu chúng ta thấy mọi người đều là thân nhân, hay nói theo ngôn từ chúng ta đang dùng, hiệp thông hóa hiện trường, gia đình hóa mọi người.

Có một ông cố hội thừa sai Paris (MEP) què chân, kể lại rằng ngài được gửi đến một nơi không có nhà thờ lẫn nhà xứ ở Thái Lan. Khó khăn lắm ngài mới thực hiện được một ngôi nhà sàn để làm nơi tập trung dân công giáo trong vùng. Ngày khánh thành ngài mừng quá, đi lại lần hạt tạ ơn Đức Mẹ ở balcon lầu I. Vì mệt, bước thấp bước cao nên ngài ngã nhào xuống đất gãy chân. Nhưng ngài không hề buồn. Mỗi lần nhìn cái chân què ngài lập tức tưởng tượng hàng ngàn người đang ở trong ngôi nhà chung mà ngài đã tạo ra và cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui.

Ngay cả trong trường hợp thất vọng như hai môn đệ làng Emmaus Chúa vẫn tạo điều kiện để họ tìm lại niềm vui đã mất, gặp lại Đấng rừng rực sức sống. Đó cũng là điều chúng ta phấn đấu để thực hiện trong đời linh mục của chúng ta. Luôn luôn ở trong vòng tay của anh em, của tha nhân, luôn luôn ôm trọn mọi người trong trái tim mình. Đó là một bảo đảm chắc chắn cho niềm vui và hạnh phúc.

4. HẠNH PHÚC VÀ KHÔN NGOAN

May mắn cho chúng ta là hạnh phúc đời linh mục khả thi hơn là trong đời hôn nhân. Trong đời hôn nhân người ta không thể chủ động được cách thiết kế hạnh phúc. Có một đêm một người vợ trẻ ôm con hớt hải chạy vào gặp tôi lúc đó đang làm cha phó. Đó là một người vợ khốn khổ chồng say rượu về khuya đòi hỏi đủ thứ chuyện. Chị ta bảo rằng con chờ tới sáng sẽ làm đơn xin ly dị. Dĩ nhiên là tôi phải khuyên chị đừng làm như thế. Nhưng tôi cũng nghĩ chị bất hạnh vì chồng chị không có thiện chí và vô tình làm hỏng đời chị.

Ngược lại, linh mục có thể một mình chủ động hạnh phúc đời mình, không bị ai quấy nhiễu, không bị người chung sống phá đám. Vấn đề còn lại là làm thế nào để thiết kế, kiến tạo và xây dựng hạnh phúc. Nếu biết tìm kiếm, chúng ta sẽ thấy lúc nào Chúa cũng có những món quà để sẵn đâu đó cho chúng ta. Một trong những điều con ớn nhất là nhà vệ sinh công cộng ở VN. Ghê tởm đến độ không dám nhìn. Nhưng có nhu cầu thì cũng phải chịu đựng thôi. Thế rồi một hôm vào mùa Chay, tôi bỗng khám phá ra ý tưởng này: mình phạm đủ thứ tội nên xứng đáng ngửi cái mùi khủng khiếp đó mà đền tội. Từ đó tôi cảm thấy chấp nhận cách dễ dàng mỗi khi có dịp phải vào những nơi như thế. Đó là bằng chứng cho thấy hoàn cảnh dù bi đát ta vẫn có thể tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.

Tôi rất thích làm lễ cho thiếu nhi. Nhất là khi thấy hàng ngàn con mắt long lanh sinh động giống như gà công nghiệp đang nhìn hau háu lên bàn thờ. Thế mà có một bài hát mang tên “những đôi mắt mang hình viên đạn”. Cũng là những con mắt, cũng là những cái nhìn, nhưng có người thấy ở đó sự ngây thơ, trong trắng, có người lại thấy rực lửa hận thù. Thế mới biết là vui buồn ở tại lòng ta, đúng y như Nguyễn Du đã quan sát: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ai đó cũng đã nói “một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn”. Chúng ta cũng có thể nói được rằng “một vị linh mục buồn là một vị linh mục đáng buồn”.

Cần phải giải phóng mình khỏi những nỗi buồn không cần thiết, những suy nghĩ tối tăm bi quan, tập nhìn thực tại bằng một cái nhìn lạc quan, khoan thứ. Mất tiền nếu cứ tiếc mãi, ta sẽ không vui. Chỉ cần nghĩ cách đơn giản rằng tiền cũng giống như râu, cạo đi nó sẽ mọc lại thôi, chắc chắn chúng ta sẽ lại vui.

Xét cho cùng, sống không hạnh phúc cũng là một thứ dại dột. Dại bởi vì nạn nhân số một chính là bản thân mình. Tôi thấy có một cha bàn tay sưng vù như ổ bánh mì. Hỏi thì ngài nói thật là vì giận một chú giúp lễ, tát nó một cái, nó né sang một bên thế là cha đánh phải cột. Thấy tay cha sưng nó sợ quá bỏ về nhà không ở với cha nữa. Hóa ra gậy ông lại đập lưng ông. Giá như cha đừng hung dữ quá như vậy thì cha đâu đến nỗi chuốc vạ vào thân. Đời chúng ta nhiều khi mất vui đi là thế, chẳng những chúng ta không đi tìm hạnh phúc mà lại làm sứt mẻ hạnh phúc. Rốt cuộc, trên con đường truy tầm hạnh phúc, kẻ thù lớn lao nhất vẫn là bản thân mình.

Kết luận

Theo suy nghĩ đó, Chúa Giêsu là người khôn ngoan nhất. Đủ mọi thứ hình tội trên đường khổ nạn. Thế mà, trước khi trút hơi thở cuối cùng, trong đau đớn tột cùng, ngài đã xin Chúa Cha tha cho quân dữ vì họ không biết việc họ làm. Thế là mãn nguyện an tâm nhắm mắt. Các thánh cũng vậy. Các ngài là những người khôn ngoan đã biết tìm cho mình một con đường hạnh phúc riêng. Niềm vui của thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu là con đường thơ ấu thiêng liêng. Của thánh Vinh Sơn là người nghèo, của thánh Phanxicô Assisi là sự phó thác.

Chúng ta cũng có thể làm y như các thánh. Hãy tìm cho mình một đam mê thánh thiện. Chắc chắn hạnh phúc sẽ đến. Cũng vì thế mà Chúa Giêsu đã đề xuất đến tám con đường mà giáo lý gọi là tám mối phúc thật.

Một linh mục đạt đạo là một linh mục hạnh phúc. Sứ điệp cuối cùng tôi xin thân ái gửi đến quí cha là: BẰNG MỌI GIÁ, ĐỜI LINH MỤC CHÚNG TA PHẢI HẠNH PHÚC. Xin Chúa chúc lành và giúp quý cha thành công.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Một vụ cưỡng chế và một chế độ chính trị
Hoàng Quân
16:31 01/03/2009
MỘT VỤ CƯỠNG CHẾ VÀ MỘT CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ

Chuyện cưỡng chế thi hành án dân sự ở văn phòng luật sư Pháp Quyền ngày 26/2/2009 sảy ra giữa ban ngày ban mặt ngay tại một thành phố là trung tâm tài chính thương mại lớn nhất Việt Nam. Nhân viên của văn phòng luật sư Pháp Quyền cũng đã ghi nhận được hình ảnh lời nói, biên bản giấy tờ làm việc của cán bộ cộng sản, và cho công bố rộng rãi trên internet. Qui định của pháp luật cộng sản về cưỡng chế thi hành án dân sự là như thế nào, trong trường hợp cưỡng chế thi hành án này nó được tuân thủ như thế nào, đã có nhiều bài viết, nhiều nhận định minh bạch có viện dẫn rất chính xác… Có lẽ một người chỉ cần đọc thông viết thạo cũng có thể tự tìm hiểu về luật pháp để đi đến kết luận chính xác về một vụ cưỡng chế trong hàng triệu vụ cưỡng chế của nhà nước cộng sản kể từ khi nó xuất hiện trong lịch sử nhân loại này.

Trong bài này, người viết chỉ phân tích một khía cạnh của vấn đề: Hành vi cưỡng chế đặt trong một chế độ chính trị - Tại sao cán bộ cơ quan công quyền cộng sản lại hành động như thế ? Nó có lường trước hậu quả của sự việc không ? Những thủ đoạn tiếp theo của nó là thế nào? Kết cục của các hành động này sẽ đi đến đâu?

Trong xã hội loài người, từ khi có nhà nước là đã có cưỡng chế. Con người chấp nhận hay buộc phải chấp nhận hành động cưỡng chế của nhà nước dù muốn hay không. Nhà nước có cả một bộ máy dùng để cưỡng chế - cưỡng chế như một trong những biện pháp để điều hành xã hội. Cưỡng chế trong mọi chế độ chính trị đều nhân danh nhà nước. Nhưng hành vi cưỡng chế cụ thể lại được giao cho cá nhân. Cho nên trong thực tế đã có không ít trường hợp nó bị cá nhân lợi dụng vào các mục đích riêng để tư lợi. Ngay bộ máy nhà nước cộng sản được họ gọi là bộ máy chuyên chính vô sản, dùng để thực hiện các hành vi chuyên chính (Đàn áp, giết chóc) với kẻ thù, nhưng trong thực tế nó bị các cá nhân lợi dụng dùng để đàn áp chính những người đồng chí cộng sản từng vào sinh ra tử với nhau (xin tìm hiểu thêm về những thâm cung bí sử ám sát giết chóc, bỏ tù lẫn nhau trong bộ máy nhà nước cộng sản từ 1945-nay, đã được chính các ông trùm cộng sản tiết lộ). Chính vì thế, người ta mới phải xây dựng một hệ thống pháp luật để ngăn chặn những hành vi lợi dụng quyền lực nhà nước này… Cộng sản đương nhiên cũng phải xây dựng hệ thống pháp luật (trên giấy) theo hướng này. Nếu không xã hội sẽ hỗn loạn.

Nhưng với vụ cưỡng chế thi hành án tại văn phòng luật sư Pháp Quyền, cộng sản ngang nhiên chà đạp lên luật pháp của chính nó một cách không cần che dấu… Thậm chí nó để cho cả người phó văn phòng này - Từng là sĩ quan an ninh điều tra – Ghi được hình ảnh lời nói… Để có những việc làm chà đạp lên luật pháp này, cộng sản cho ra đời những “đội hành động” siêu quyền lực, hành động theo các chỉ thị bằng mồm từ quan chức đảng (Xin lưu ý là quan chức đảng cộng sản chứ không phải chính quyền – Trong những trường hợp này bắt buộc phải xin chỉ thị của cấp uỷ viên bộ chính trị)…

Những đội hành động ngoài luật pháp này rất hữu dụng cho những ý đồ thanh tóan giết chóc của chính trị gia cộng sản. Nhưng vì ngoài luật nó sẽ trở nên khó kiểm soát, thậm chí mất kiểm soát… Đến một ngày này đó, những chính trị gia ban hành các chủ trương này cũng có thể là nạn nhân của các “tổ công tác” này… Võ Văn Kiệt là người ký nghị định cho phép lực lượng an ninh quân đội (Tổng cục 2) có quyền ám sát cả những cán bộ đảng viên cao cấp của cộng sản nếu có dấu hiệu gây nguy hiểm cho chế độ cộng sản… Đương nhiên như thế không loại trừ cả ông ta… Ngay sau khi có nghị định này, người ta chứng kiến nhiều cái chết đột ngột, thậm chí cả tổng cục trưởng tổng cục 2 siêu quyền lực này cũng bị ai đó bắn chết cùng với con trai sau có vài tháng nghỉ hưu… Đúng là từ thủ phạm biến thành nạn nhân… Dùng lệ để hãm hại người, rồi bị chính tay chân lợi dụng tiền lệ đó để thủ tiêu mà không biết từ ai ra lệnh… Đó là hậu quả tất yếu của một xã hội vô luật pháp. Ngụy luật pháp. Luật pháp man rợ…

Trong vụ việc cưỡng chế thi hành án dân sự tại văn phòng luật sư Pháp Quyền, có sự hiện diện của người phó văn phòng là bà Tạ Phong Tần – Một cựu sĩ quan an ninh của công an cộng sản. Tôi rất khâm phục sự đoạn tuyệt với cơ quan an ninh cộng sản và quay ngược lại bảo vệ công lý bảo vệ dân lành của bà này. Nhưng có lẽ trước đây khi còn trong cơ quan an ninh điều tra, bà Tần không thể nghĩ được sẽ có ngày bà là nạn nhân của sự chà đạp luật pháp một cách trắng trợn như thế… Trong quá trình công tác tại cơ quan an ninh điều tra, có lẽ bà Tần chưa từng được tham gia, hay chứng kiến sự chà đạp luật pháp một cách công khai hống hách như thế. Nếu có những việc làm chà đạp luật pháp đi chăng nữa, cơ quan anh ninh điều tra sẽ nguỵ trang một cách khéo léo, rồi che trước chắn sau chứ không bày ra như bán hàng thế này … Điều này cho thấy ai cũng có thể là nạn nhân của luật pháp cộng sản có lúc thì bị che đậy lấp liếm, nhưng có lúc thì công nhiên… Cộng sản không do dự “ngồi sổm” lên công luận, kể cả công luận quốc tế.

Nhưng tại sao cộng sản không dùng các biện pháp khác, hay dùng các thủ đoạn che dấu hành vi để dư luận nghi nghi hoặc hoặc ??? dễ bề biện minh lừa bịp dư luận khi bị chỉ trích - Luật lệ Việt Nam từ sau 1945 và 1975 đều do cộng sản nhào nặn cơ mà ??? Có thể đây là một thủ pháp của công an cộng sản nhằm dằn mặt những người nắm rõ luật pháp (Luật sư) dằn mặt những người đã từng là sĩ quan công an, biết rõ mọi thủ đoạn của đám công an lưu manh cộng sản này (bà Tạ Phong Tần). Ngay sau khi vụ việc cưỡng chế hoàn thành, người dân trong khu vực được nghe câu nói “úp mở” từ mồm kẻ mặc thường phục, ngồi bên kia đường điều khiển tay chân: “Chúng mày thích nói chuyện luật à – Tao bước qua luật cho chúng mày thấy.”

Không phải từ vụ việc này, mà gần đây nhất là vụ việc Thái Hà + Toà Khâm Sứ, đã có rất nhiều phân tích, nhiều lời kêu gọi cộng sản lắng nghe người dân, tôn trọng và đối thoại… Sau khi vụ việc cưỡng chế quái gở này được công khai trên internet, lại có rất nhiều phân tích phải trái, đúng sai, lợi hại… Nhưng không ích gì - khi kẻ gian đuối lý, nó sẽ hung hãn trong hành động, vì không thể biện minh cho hành vi của mình, nó buộc phải bất chấp tất cả miễn sao giành được chiến thắng trước đối phương, dù chiến thắng chỉ có tính chất tức thời cũng được… Cộng sản từng dùng chiến thuật biển người - nướng quân miễn sao giành được một quả đồi; Cộng sản từng buộc bộ đội, binh sĩ của mình mặc áo thường dân bất ngờ tấn công vào ngày mùng một tết, giết cả thường dân, trẻ em phụ nữ… Miễn sao mở được đường máu, chiếm được một góc phố… Làm sao có thể nói chuyện phải trái với cộng sản???

Về những cuộc đàm phán với cộng sản trong quá khứ: Trong chiến tranh thì các vần đề đàn phán, ngoại giao, thương thuyết chủ yếu dựa trên thế thắng thua ngoài mặt trận… Kẻ đang đà thắng trận dễ nhầm tưởng sự thắng trận với chân lý. Nhưng nhiều trường hợp thắng trận không đồng nghĩa với có chính nghĩa. Nhưng trong thời bình, xã hôi dân sự, mọi vấn đề trở lại với các chân lý vĩnh cửu của nhân loại. Chỉ ai có chính nghĩa, người đó mới có thể tồn tại trong hoà bình. Kẻ tội phạm cướp, giết, làm gì có chính nghĩa nên rất sợ nói chuyện đúng sai phải quấy… Nó chỉ muốn “Khép lại quá khứ” – “Không xem xét lại chính sách về nhà đất về cải tạo XHCN…” – “không nói chuyện lịch sử…” Tất cả những người cộng sản nằm trong số này. Lối hành sử của cả việt cộng và trung cộng vào ngày 17/2/2009 vừa qua thêm một minh chứng.

Điều này lý giải tại sao trong thời bình cộng sản rất sợ đối thoại với người công chính, chỉ khi không còn con đường nào khác chúng mới chịu ngồi vào bàn thương lượng (Xem thêm về cuộc thương lượng bàn tròn lịch sử của cộng sản Balan với công đoàn đoàn kết năm 1989 dẫn đến sự cáo chúng của chủ nghĩa cộng sản ở đông Âu). Khi buộc phải ngồi thương lượng chúng thường ăn nói lòng vòng rất mất thời gian… Thực chất là nhằm thăm dò đối tượng và tìm cách thoả thuận trong bí mật. Chúng chỉ muốn thương lượng trong bóng tối, và rất sợ các chi tiết đàm phán bị tiết lộ… Đó là bản chất của kẻ ăn cắp tìm cách tiêu thụ của gian…

Có thể nói, trong vụ việc cưỡng chế thi hành án dân sự tại văn phòng luật sư Pháp Quyền cộng sản biết và lường trước hậu quả của hành vi. Nhưng vì không có chính nghĩa, nó buộc phải hành động trong manh động, hành động theo lối làm lấy được, bất chấp tất cả. Hành vi này của cộng sản giống như hành vi của một tên trộm cắp móc túi, khi bị phát hiện thì giật lấy tài sản bằng được, khi bị truy đuổi thì quay sang hành hung – Lúc đầu là trộm, sau đó là cướp. Hành vi hung bạo sẽ tăng dần tuỳ theo mức độ bị phát hiện, bị lộ mặt lưu manh…

Cho nên, văn phòng luật sư Pháp Quyền và những người công chính hãy chuẩn bị đón nhận những hành động hung hăng gấp bội của cộng sản khi vụ việc bị cả thế giới chú ý… Nhưng chỉ cần run sợ thôi, cộng sản sẽ ăn thịt, đừng mơ nó chùn tay vì mình xuống thang… Đây không chỉ đơn thuần là một cuộc cưỡng chế thi hành án dân sự, mà là vấn đề sống còn của người dân lương thiện, sống còn của một chế độ chính trị vô luân và phi lý nhất trong lịch sử nhân loại. Lịch sử sẽ ghi nhân những hành động chính nghĩa bất khuất của văn phòng luật sư Pháp Quyền. Lịch sử cũng sẽ ghi chép và phán xử những thủ đoạn đê hèn cùng danh tánh những tên cộng sản ác ôn hung hăng tấn công đàn áp người công chính.

Xung đột giữa văn phòng luật sư Pháp Quyền, cùng dân lành lương thiện với bộ máy nhà nước nguỵ quyền lực nhân dân của cộng sản, chỉ như những giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước… Chứ không phải tất cả nguyên nhân gây ra sự phản kháng làm lung lay chế độ ngụy quyền cộng sản việt nam. Cộng sản đã ngộ nhận, hoặc cố tình không hiểu. Nó ngộ nhận giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước với toàn bộ li nước.

Không phải hành vi của công đoàn đoàn kết Balan buộc cộng sản phải ngồi vào bàn đàm phán, hoặc hành vi đòi lại tài sản đòi lại công lý của Công Giáo, hay hành vi của văn phòng luật sư Pháp Quyền bất chấp nguy hiểm đứng ra bênh vực lẽ phải… Là nguyên nhân có thể gây đột biến dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản. Nó chỉ là giọt nước cuối cùng mà thôi.

Nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm chế độ cộng sản sớm muộn gì cũng sẽ sụp đổ là nền móng của chế độ này được xây dựng trên nền một học thuyết mà từ lý thuyết gia đã ngộ nhận chân lý. Tiếp đến các chính trị gia chuyên giả nhân lừa bịp. Và cuối cùng cả bộ máy nhà nước chuyên dùng bạo lực bất nhân để đạt được mọi ý đồ của mình, không quan tâm đến công bằng lẽ phải... Thậm chí không đếm xỉa đến cam kết quốc tế đã ký kết… Những tên cộng sản chức vụ rất to cũng có thể bị tên cộng sản chức vụ nhỏ vô hiệu hoá chỉ thị. Những tên cộng sản có chức vụ nhỏ cũng có lúc quyền lực rất to… Tóm lại nhà nước cộng sản là một nhà nước hỗn loạn, hỗn loạn ngay trong bộ máy của nó, hỗn loạn vì cộng sản điều hành nhà nước chủ yếu bằng lệ, bằng những chỉ thị nói mồm.

Kết cục của những hành vi thi hành án dân sự bằng lộng quyền của đám ngụy quyền cộng sản này sẽ đi về đâu? xin hãy nhìn lại lịch sử! Đã có lúc nhân loại tưởng như cộng sản dùng sảo thuật học thuyết chính trị, với cái gọi là chuyên chính vô sản để che lấp mặt trời. Nhưng thực tiễn lịch sử đã chứng minh ngược lại:

TÀ THUYẾT CỘNG SẢN ĐÃ PHÁ SẢN – BÀN TAY NHUỐM MÁU CỦA CỘNG SẢN KHÔNG THỂ CHE LẤP MẶT TRỜI – CẢ HỆ THỐNG CỘNG SẢN KHÉT TIẾNG SỤP ĐỔ KHÔNG KÈN KHÔNG TRỐNG KHÔNG MỘT GIỌT NƯỚC MẮT CỦA NGƯỜI DÂN – DĂM BA CÁI NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN SỐNG SÓT VẪN CHỨNG NÀO TẬT ẤY GIAN SẢO TÀN ÁC NHƯNG CỘNG SẢN CÁO CHUNG SẼ LÀ TẤT YẾU CỦA LỊCH SỬ.

Tặng Luật Sư Lê Trần Luật, chị Tạ Phong Tần cùng toàn thể anh chị em văn phòng luật sư Pháp Quyền.