Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:06 20/02/2011
SỢ VỢ
Có một người bị vợ đánh cho chịu không thấu bèn chui trốn dưới gầm giường. Vợ vẫn không chịu ngừng tay, lớn tiếng nói: “Mau chui ra đây !”
Người chồng núp dưới gầm giường chậm rãi thư thả nói:
- “Đại trượng phu nói không chui ra là không chui ra !”
Suy tư:
Đã là đại trượng phu thì nhất định làm một người chồng tốt, đã là đại trượng phu thì chắc chắn không để vợ ăn hiếp, đã là đại trượng phu thì nhất định không bị vợ đánh cho đến nổi phải chui dưới gầm giường…
Có một vài người Ki-tô hữu vỗ ngực xưng mình là người Công Giáo, nhưng cuộc sống của họ không như là một Ki-tô hữu, họ không coi trọng thánh lễ là trung tâm cuộc sống tâm linh của mình, họ không coi gia đình là nơi hạnh phúc nhất mà mình phải xây dựng, họ cũng không tha thiết đến tương lai của con cái mình là những món quà tặng đẹp nhất mà Thiên Chúa ban cho họ. Do đó mà họ trở thành những kẻ yếu hèn khi trốn tránh bổn phận làm chồng làm cha của mình trong gia đình, để tìm vui thú ích kỷ trong rượu chè cờ bạc...
Đại trượng phu là người biết coi trọng lễ nghĩa, bao gồm nghĩa phu thê, cũng có nghĩa là biết làm người chồng tốt trong gia đình, biết quan tâm đến gia đình của mình, nuôi dạy con cái trở thành người tốt có ích cho xã hội.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có một người bị vợ đánh cho chịu không thấu bèn chui trốn dưới gầm giường. Vợ vẫn không chịu ngừng tay, lớn tiếng nói: “Mau chui ra đây !”
Người chồng núp dưới gầm giường chậm rãi thư thả nói:
- “Đại trượng phu nói không chui ra là không chui ra !”
Suy tư:
Đã là đại trượng phu thì nhất định làm một người chồng tốt, đã là đại trượng phu thì chắc chắn không để vợ ăn hiếp, đã là đại trượng phu thì nhất định không bị vợ đánh cho đến nổi phải chui dưới gầm giường…
Có một vài người Ki-tô hữu vỗ ngực xưng mình là người Công Giáo, nhưng cuộc sống của họ không như là một Ki-tô hữu, họ không coi trọng thánh lễ là trung tâm cuộc sống tâm linh của mình, họ không coi gia đình là nơi hạnh phúc nhất mà mình phải xây dựng, họ cũng không tha thiết đến tương lai của con cái mình là những món quà tặng đẹp nhất mà Thiên Chúa ban cho họ. Do đó mà họ trở thành những kẻ yếu hèn khi trốn tránh bổn phận làm chồng làm cha của mình trong gia đình, để tìm vui thú ích kỷ trong rượu chè cờ bạc...
Đại trượng phu là người biết coi trọng lễ nghĩa, bao gồm nghĩa phu thê, cũng có nghĩa là biết làm người chồng tốt trong gia đình, biết quan tâm đến gia đình của mình, nuôi dạy con cái trở thành người tốt có ích cho xã hội.
--------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:08 20/02/2011
N2T |
30. Nếu con người tận tâm với mình, thành thực thống hối, bất luận là lúc nào, hoặc là được tha tội, hoặc là cầu ơn, đều có thể đến trước tòa Thiên Chúa.
(sách Gương Chúa Giê-su)Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Báo chí Công Giáo có gì khác với báo chí thế tục?
Vũ Văn An
00:28 20/02/2011
Tháng 10 năm 2010 vừa qua, tại Hội Nghị Báo Chí Thế Giới do Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã hội tổ chức tại Rôma với chủ đề “Hiệp Thông Giáo Hội Và Tranh Cãi”, John Thavis, trưởng văn phòng của Catholic News Service (CNS) tại Rôma, có đọc một bài tham luận nhấn mạnh đến điểm đặc trưng của báo chí Công Giáo.
Theo ông, việc các nhà truyền thông Công Giáo phải xử lý ra sao trước những vụ gây tranh cãi không phải là vấn đề lý thuyết: vụ khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ là một trường hợp điển hình có tính cổ điển cho thấy ngành truyền thông Công Giáo đã phản ứng ra sao đối với các tin tức xấu xẩy ra bên trong Giáo Hội. Các biến cố ấy quả rất đau lòng đối với người Công Giáo. Sự kiện đau lòng đã đành mà cách người ta đưa tin về các biến cố ấy cũng hết sức đau lòng. Tuy nhiên, không một ai trong ngành báo chí Công Giáo tỏ ra “hộ giáo” đối với những người phạm tội hay các giám mục thiếu khả năng. Nhưng cùng một lúc, không ai trong số họ lại không cảm thấy có một sự bất công trong lối tường thuật chính dòng đối với nhiều nét phức tạp của vấn đề.
Thavis, vì thế, muốn tập chú vào hai điều: thứ nhất, báo chí Công Giáo nói tiếng Anh đã tường thuật ra sao về gương mù lạm dụng tình dục trong 20 năm qua; và thứ hai, một vài dị biệt có tính đặc trưng giữa báo chí Công Giáo và báo chí thế tục khi xử lý vấn đề này.
Theo một nghĩa nào đó, đối với ngành truyền thông Công Giáo Mỹ, năm vừa qua là một năm nhàm chán (déja vu). Năm 2002, gương mù giáo sĩ lạm dụng tình dục đã nổ bùng trên diễn đàn công một cách vũ bão. Boston lúc ấy là tâm điểm. Nhưng chẳng bao lâu sau, các trường hợp lạm dụng trong quá khứ được khui ra tại nhiều giáo phận khác (giống như ta đang thấy hiện nay tại Âu Châu). Nhưng đó vẫn chưa phải là trọn câu truyện. Những tiết lộ của năm 2002 xem ra chỉ là những nhắc lại của cùng những tiết lộ tại Mỹ kể từ đầu thập niên 1990. Thực vậy, năm 1993, các chủ bút của ấn bản khách hàng của CNS chọn việc giáo sĩ lạm dụng tình dục làm chủ đề đứng đầu cho cả năm. Nên nhớ năm 1993 là năm các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục được tường thuật công khai; cũng là năm, các vụ kiện trước tòa đe dọa sẽ làm nhiều giáo phận khốn đốn về tài chánh; và cũng là năm nhiều giáo phận ở Mỹ đưa ra chính sách để ngăn ngừa loại lạm dụng này và để xử lý nó.
Thavis nghĩ ngành truyền thông Công Giáo, từ lúc ấy, tức cách nay 20 năm, đã bắt đầu diễn trình học hỏi rồi. Nhưng ta cần phải trung thực ở đây. Vì đã lâu lắm rồi, ngành truyền thông cấp giáo phận rất ngần ngại tường thuật các vụ lạm dụng tình dục, phần lớn vì các vị giám mục không muốn thấy những tường thuật đó trên báo chí của mình. Và điều này khiến ta phải nêu một số câu hỏi nghiêm chỉnh: Việc gì xẩy ra khi giám mục là người xuất bản tờ báo, hay trực tiếp quản trị các phương tiện truyền thông khác của giáo phận? Nếu bạn là một nhà truyền thông chuyên nghiệp và là một người Công Giáo trung thành với Giáo Hội, thì việc bạn cam kết đối với tính ưu việt của báo chí kết cục sẽ ra sao?
Trong nhiều năm qua, chúng ta vốn được nghe nhiều tuyên bố trong Giáo Hội về nhu cầu phải có những truyền thông rõ ràng và cởi mở: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng Giáo Hội phải là “một nhà kiếng”. Gần đây, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cho rằng cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đòi phải có sự trong sáng và “tuyệt đối thành thực” trong Giáo Hội. Dưới ánh sáng các tuyên bố ấy, có lẽ các nhà truyền thông Công Giáo nên xét lương tâm mình và tự hỏi: chính ta có tuân thủ và, trong một số trường hợp, có làm cho các vị giám mục tuân thủ những tiêu chuẩn cao đẹp đó chưa? Hay ta cũng là thành phần của vấn đề nốt?
Tường thuật việc lạm dụng tình dục trong 20 năm qua là việc dễ dàng đối với CNS. Họ đã cho chạy cả hàng trăm câu truyện về chủ đề này trong thập niên 1990 và hàng trăm câu truyện khác trong thập niên qua. Được như thế, là vì: tuy họ giữ liên hệ với hội đồng giám mục Mỹ, nhưng họ độc lập về phương diện xã luận (editorially) và các khách hàng báo chí của họ chờ mong họ cung cấp mọi tin tức, dù là xấu hay tốt, miễn là có ảnh hưởng tới Giáo Hội Công Giáo. Thavis nghĩ rằng các biến cố của năm 2002 bắt đầu thay đổi khuôn thước tường thuật các tin tức Công Giáo liên quan đến tai tiếng lạm dụng tình dục. Trước nhất, vì nhiều người trong giới báo chí Công Giáo có chung cảm thức bất bình đối với các tiết lộ. Nên nhớ rằng cùng vào thời gian này, Vatican và chính đức giáo hoàng đã công khai lên tiếng kết án các vụ lạm dụng này. Dĩ nhiên, tỏ bày sự bất bình đối với các vụ lạm dụng tình dục vị thành niên là việc khá đơn giản. Nhưng thẩm định việc các giám mục xử lý chúng ra sao, cần phải làm gì đối với những người vi phạm, phải đưa ra chính sách bảo vệ nào là việc khó khăn hơn nhiều. Nhưng dần dần, ngành truyền thông Công Giáo, trong năm 2002, đã mỗi ngày một tham gia nhiều hơn vào cuộc tranh luận này. Lúc đó và cả bây giờ, trong giới báo chí Công Giáo, đã có những tiếng nói phê phán về cung cách phản ứng của hàng giáo phẩm. Chỉ xin đơn cử trường hợp Russell Shaw, một nhà báo Công Giáo kỳ cựu, đã có thời là phát ngôn viên của các giám mục Mỹ và là cố vấn cho Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội. Ông từng nói rằng nền văn hóa giáo sĩ trị và việc giữ bí mật không cần thiết trong Giáo Hội là những nguyên nhân chính góp phần vào tai tiếng lạm dụng tình dục. Tám năm trước đây cũng là lúc nhiều “bloggers” Công Giáo xuất hiện và họ góp tiếng nói vào các vấn đề cũng như các chỉ trích của quần chúng đối với tai tiếng lạm dụng tình dục. Vì họ không bị trói buộc vào các định chế hiện hữu như giáo phận hay dòng tu, nên họ viết và nói tự do hơn. Họ thường ngang bướng (opiniated) và tín liệu của họ không luôn luôn chính xác, nhưng họ đóng góp khá lớn vào cảm thức cho rằng đây là cuộc đàm luận thực sự giữa người Công Giáo với nhau chứ không còn là việc đóng cửa dạy nhau như trước. Việc chấp nhận các qui tắc về lạm dụng tình dục năm 2002 chính là tập chú của cuộc đàm luận này. Người ta nhớ không có chủ đề nào đã được khảo sát và tranh luận thấu đáo trong ngành truyền thông Công Giáo Mỹ như thế. Ít khi bạn thấy các phóng viên và “bloggers” Công Giáo dám nói tới những điểm tế vi của giáo luật, trừ trường hợp này. Có người cho rằng người Công Giáo và giới truyền thông Công Giáo Mỹ cảm thấy Vatican có hơi căng thẳng về vấn đề này. Điều ấy thấy rõ sau khi Đức Hồng Y Castrillon Hoyos, trong một cuộc họp báo tại Vatican, tuyên bố rằng lạm dụng tình dục là vấn đề chủ yếu chỉ có trong thế giới nói tiếng Anh. Câu tuyên bố này khiến nhiều nhà báo Công Giáo Mỹ phản ứng, cho rằng nó cho thấy Vatican không nắm được vấn đề. Thực ra, theo Thavis, Vatican dần dần hiểu ra và Đức Hồng Y Castrillon chỉ là tiếng nói thiểu số. Khi Vatican chấp thuận các qui tắc của Mỹ về lạm dụng tình dục, thì việc này quả đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc xử lý cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục. Năm 2003, việc này còn khiến Vatican đưa ra thêm một số qui tắc nữa. Và mới năm rồi, khi nhiều điều khoản này trở thành luật chung của cả Giáo Hội, thì đây quả là một dấu chỉ cho thấy Vatican đã thay đổi như thế nào trong phạm vi này.
Thavis đưa ra một điển hình về sự thay đổi trên: năm 2001, CNS loan tin Đức Gioan Phaolô II ban hành tự sắc “Sacramentorum sanctitatis tutela” trao các vụ lạm dụng tình dục cho Bộ Giáo Lý Đức Tin phụ trách, và ấn định các thủ tục khắt khe mới để xử lý các người vi phạm. Để làm được việc đó, cơ quan này mất cả hàng tuần lễ, tìm cách moi tin từ các chức sắc của Vatican. Đây đâu phải là “một tin xấu”; rõ ràng là “một tin tốt”, cho người ta thấy Vatican đã hành động, đã coi các tội phạm này một cách nghiêm túc. Ai cũng tưởng Vatican muốn cả thế giới biết tin này. Nhưng thực ra, theo Thavis, không phải như vậy. Vatican không muốn như thế. Nay, tình thế đã khác hẳn. Vì ai cũng biết: Vatican đã phổ biến rất nhiều tín liệu, chính sách và thủ tục về các trường hợp lạm dụng tình dục đến nỗi ít có nhà báo nào biết hết. Có cả một trang mạng của Vatican về các vấn đề này. Vatican ngày nay đã đóng vai chủ động trong lãnh vực này.
Về phương diện thông tin, báo chí, đây quả là những chiến thắng khó khăn mới có. Như nhiều người biết: trong ít tháng cuối năm 2010, việc tái xuất hiện tai tiếng lạm dụng tình dục đã được cả hai ngành truyền thông Công Giáo và thế tục tường thuật cặn kẽ. Nhưng, theo Thavis, khác với những lần trước, lần này giới truyền thông Công Giáo có chung với các giám mục và Vatican cùng một nỗi thất vọng đối với phương cách giới truyền thông thế tục tường thuật vấn đề này. Ở đây, ta thấy nhiều nét khác biệt rõ rệt trong cung cách tường thuật của giới truyền thông Công Giáo, những nét ta thường thấy thiếu nơi các nhà báo thế tục:
1. Ngữ cảnh: Vì giới truyền thông Công Giáo nay đã quen thuộc với những gì xẩy ra năm 1993 hay 2002, nên họ biết rõ Giáo Hội đã đáp ứng bằng nhiều biện pháp và chương trình rất tích cực.
2. Khung thời gian: Truyền thông Công Giáo biết rõ phần lớn các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục đã xẩy ra cách nay hàng mấy thập niên; rất ít trường hợp xẩy ra lúc này. Đây là điều mà phần lớn các độc giả báo chí vẫn chưa hiểu rõ.
3. Công bằng: Thavis nghĩ rằng đã và hiện vẫn còn não trạng “à, bắt quả tang nhé” (gotcha mentality, xem(1)) nơi nhiều người: họ chỉ muốn cố gắng đổ lỗi cho Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI về loại tai tiếng này. Các nhà báo Công Giáo không nghĩ vậy, họ biết rằng điều ấy không đúng, vì vị giáo hoàng hiện tại đã từng đưa ra nhiều biện pháp để xử lý vấn đề này lúc còn đứng đầu Bộ Giáo Lý Đức Tin. Trong phạm vi này cũng như trong nhiều phạm vi khác, Ngài luôn luôn có phương pháp, đầy quyết tâm và nhẫn nại. Nhiều nhà phê bình còn cho là ngài quá nhẫn nại và đắn đo (deliberate) là đàng khác. Nhưng có điều chắc chắn là ngài đang đi đúng hướng. Hình ảnh tô vẽ ngài như kiến trúc sư của việc che dấu chỉ là một biếm họa không hơn không kém.
4. Viễn ảnh: Truyền thông Công Giáo, nói chung, luôn cưỡng lại khuynh hướng không ngừng khua môi gõ mõ một câu truyện lớn mà gần như loại bỏ mọi chuyện khác. Trong nửa năm 2010, nếu đọc các tờ báo lớn của Mỹ, bạn sẽ thấy: hễ nói tới Vatican là hầu như họ chỉ nhắc tới vụ tai tiếng lạm dụng tình dục. Đây là nét đặc trưng của não trạng truyền tin cáp (cable news mentality) hiện đang thống trị các phòng tin tức: một câu truyện lớn được dựng lên, rồi được nuôi sống hàng ngày, giống một con thú. Câu truyện chủ yếu không bao giờ bị tra vấn. Các chi tiết, những điểm tế nhị và các tín liệu lưỡng nghĩa đều bị gạt qua một bên. Câu truyện lớn cần được tiếp diễn, đó là “sách phúc âm” của tân truyền thông đại chúng, mà người ta nghĩ phần lớn vì lý do kinh tế. May mắn một điều, báo chí Công Giáo đã cưỡng lại được thứ phúc âm ấy và giữ được viễn ảnh khi tường thuật việc lạm dụng tình dục như một thất bại đau lòng, chứ không phải như khía cạnh duy nhất, hay ngay cả chính yếu, trong sinh hoạt Giáo Hội hiện nay.
Có điều, theo Thavis, dù có viễn ảnh, có ngữ cảnh và công bằng khi tường thuật các vụ lạm dụng tình dục, nhưng các nhà truyền thông Công Giáo ít có tác dụng bên ngoài số độc giả có giới hạn của họ. Họ cảm thấy thất vọng trước cung cách giới truyền thông thế tục đối xử với Giáo Hội, nhưng nỗi thất vọng này thường lại chỉ được diễn dịch thành một cuộc thảo luận đóng kín giữa họ với nhau mà thôi. Và liều mình họ sẽ rơi vào não trạng “mèo khen mèo dài đuôi” (self-congratulatory). Họ cần tự hỏi: làm thế nào để thông đạt thực sự với thế giới hiện đại, với thế giới rộng lớn bên ngoài kia, nghĩa là bên kia biên giới giáo hội của mình?
Điểm cuối cùng được Thavis nhấn mạnh là: về phương diện hiệp thông và tranh cãi, báo chí Công Giáo khác biệt vì nó chia sẻ sứ mệnh của Giáo Hội: tức việc truyền bá Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Họ muốn nói lên sự thật và muốn làm việc ấy một cách công bằng và trọn vẹn. Có một số tin tức tốt và một số tin tức xấu, nhưng chúng đều là những điều độc giả cần biết để cố gắng được cứu rỗi. Họ cần biết có những ông thánh đang xây dựng Giáo Hội nhưng cũng có những kẻ tội lỗi đang phá hoại Giáo Hội ấy.
Ghi chú
(1) Não trạng “à, bắt quả tang nhé” ( gotcha mentality) chỉ loại người luôn sẵn sàng cho bạn biết bạn đã làm sai điều gì hay có thể đã sai điều gì, họ coi việc bắt lỗi người khác tự nó là một cùng đích. Đối với não trạng này, khách quan tính hay sự thật không quan trọng, có chăng nữa, cũng chỉ là thứ yếu. Người có não trạng này muốn cảm thấy mình luôn ở thế thượng phong. Muốn thế, hay nhất là chứng tỏ người khác thấp kém, sai lầm.
Theo ông, việc các nhà truyền thông Công Giáo phải xử lý ra sao trước những vụ gây tranh cãi không phải là vấn đề lý thuyết: vụ khủng hoảng lạm dụng tình dục của giáo sĩ là một trường hợp điển hình có tính cổ điển cho thấy ngành truyền thông Công Giáo đã phản ứng ra sao đối với các tin tức xấu xẩy ra bên trong Giáo Hội. Các biến cố ấy quả rất đau lòng đối với người Công Giáo. Sự kiện đau lòng đã đành mà cách người ta đưa tin về các biến cố ấy cũng hết sức đau lòng. Tuy nhiên, không một ai trong ngành báo chí Công Giáo tỏ ra “hộ giáo” đối với những người phạm tội hay các giám mục thiếu khả năng. Nhưng cùng một lúc, không ai trong số họ lại không cảm thấy có một sự bất công trong lối tường thuật chính dòng đối với nhiều nét phức tạp của vấn đề.
Thavis, vì thế, muốn tập chú vào hai điều: thứ nhất, báo chí Công Giáo nói tiếng Anh đã tường thuật ra sao về gương mù lạm dụng tình dục trong 20 năm qua; và thứ hai, một vài dị biệt có tính đặc trưng giữa báo chí Công Giáo và báo chí thế tục khi xử lý vấn đề này.
Theo một nghĩa nào đó, đối với ngành truyền thông Công Giáo Mỹ, năm vừa qua là một năm nhàm chán (déja vu). Năm 2002, gương mù giáo sĩ lạm dụng tình dục đã nổ bùng trên diễn đàn công một cách vũ bão. Boston lúc ấy là tâm điểm. Nhưng chẳng bao lâu sau, các trường hợp lạm dụng trong quá khứ được khui ra tại nhiều giáo phận khác (giống như ta đang thấy hiện nay tại Âu Châu). Nhưng đó vẫn chưa phải là trọn câu truyện. Những tiết lộ của năm 2002 xem ra chỉ là những nhắc lại của cùng những tiết lộ tại Mỹ kể từ đầu thập niên 1990. Thực vậy, năm 1993, các chủ bút của ấn bản khách hàng của CNS chọn việc giáo sĩ lạm dụng tình dục làm chủ đề đứng đầu cho cả năm. Nên nhớ năm 1993 là năm các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục được tường thuật công khai; cũng là năm, các vụ kiện trước tòa đe dọa sẽ làm nhiều giáo phận khốn đốn về tài chánh; và cũng là năm nhiều giáo phận ở Mỹ đưa ra chính sách để ngăn ngừa loại lạm dụng này và để xử lý nó.
Thavis nghĩ ngành truyền thông Công Giáo, từ lúc ấy, tức cách nay 20 năm, đã bắt đầu diễn trình học hỏi rồi. Nhưng ta cần phải trung thực ở đây. Vì đã lâu lắm rồi, ngành truyền thông cấp giáo phận rất ngần ngại tường thuật các vụ lạm dụng tình dục, phần lớn vì các vị giám mục không muốn thấy những tường thuật đó trên báo chí của mình. Và điều này khiến ta phải nêu một số câu hỏi nghiêm chỉnh: Việc gì xẩy ra khi giám mục là người xuất bản tờ báo, hay trực tiếp quản trị các phương tiện truyền thông khác của giáo phận? Nếu bạn là một nhà truyền thông chuyên nghiệp và là một người Công Giáo trung thành với Giáo Hội, thì việc bạn cam kết đối với tính ưu việt của báo chí kết cục sẽ ra sao?
Trong nhiều năm qua, chúng ta vốn được nghe nhiều tuyên bố trong Giáo Hội về nhu cầu phải có những truyền thông rõ ràng và cởi mở: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng Giáo Hội phải là “một nhà kiếng”. Gần đây, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cho rằng cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đòi phải có sự trong sáng và “tuyệt đối thành thực” trong Giáo Hội. Dưới ánh sáng các tuyên bố ấy, có lẽ các nhà truyền thông Công Giáo nên xét lương tâm mình và tự hỏi: chính ta có tuân thủ và, trong một số trường hợp, có làm cho các vị giám mục tuân thủ những tiêu chuẩn cao đẹp đó chưa? Hay ta cũng là thành phần của vấn đề nốt?
Tường thuật việc lạm dụng tình dục trong 20 năm qua là việc dễ dàng đối với CNS. Họ đã cho chạy cả hàng trăm câu truyện về chủ đề này trong thập niên 1990 và hàng trăm câu truyện khác trong thập niên qua. Được như thế, là vì: tuy họ giữ liên hệ với hội đồng giám mục Mỹ, nhưng họ độc lập về phương diện xã luận (editorially) và các khách hàng báo chí của họ chờ mong họ cung cấp mọi tin tức, dù là xấu hay tốt, miễn là có ảnh hưởng tới Giáo Hội Công Giáo. Thavis nghĩ rằng các biến cố của năm 2002 bắt đầu thay đổi khuôn thước tường thuật các tin tức Công Giáo liên quan đến tai tiếng lạm dụng tình dục. Trước nhất, vì nhiều người trong giới báo chí Công Giáo có chung cảm thức bất bình đối với các tiết lộ. Nên nhớ rằng cùng vào thời gian này, Vatican và chính đức giáo hoàng đã công khai lên tiếng kết án các vụ lạm dụng này. Dĩ nhiên, tỏ bày sự bất bình đối với các vụ lạm dụng tình dục vị thành niên là việc khá đơn giản. Nhưng thẩm định việc các giám mục xử lý chúng ra sao, cần phải làm gì đối với những người vi phạm, phải đưa ra chính sách bảo vệ nào là việc khó khăn hơn nhiều. Nhưng dần dần, ngành truyền thông Công Giáo, trong năm 2002, đã mỗi ngày một tham gia nhiều hơn vào cuộc tranh luận này. Lúc đó và cả bây giờ, trong giới báo chí Công Giáo, đã có những tiếng nói phê phán về cung cách phản ứng của hàng giáo phẩm. Chỉ xin đơn cử trường hợp Russell Shaw, một nhà báo Công Giáo kỳ cựu, đã có thời là phát ngôn viên của các giám mục Mỹ và là cố vấn cho Hội Đồng Giáo Hoàng Về Truyền Thông Xã Hội. Ông từng nói rằng nền văn hóa giáo sĩ trị và việc giữ bí mật không cần thiết trong Giáo Hội là những nguyên nhân chính góp phần vào tai tiếng lạm dụng tình dục. Tám năm trước đây cũng là lúc nhiều “bloggers” Công Giáo xuất hiện và họ góp tiếng nói vào các vấn đề cũng như các chỉ trích của quần chúng đối với tai tiếng lạm dụng tình dục. Vì họ không bị trói buộc vào các định chế hiện hữu như giáo phận hay dòng tu, nên họ viết và nói tự do hơn. Họ thường ngang bướng (opiniated) và tín liệu của họ không luôn luôn chính xác, nhưng họ đóng góp khá lớn vào cảm thức cho rằng đây là cuộc đàm luận thực sự giữa người Công Giáo với nhau chứ không còn là việc đóng cửa dạy nhau như trước. Việc chấp nhận các qui tắc về lạm dụng tình dục năm 2002 chính là tập chú của cuộc đàm luận này. Người ta nhớ không có chủ đề nào đã được khảo sát và tranh luận thấu đáo trong ngành truyền thông Công Giáo Mỹ như thế. Ít khi bạn thấy các phóng viên và “bloggers” Công Giáo dám nói tới những điểm tế vi của giáo luật, trừ trường hợp này. Có người cho rằng người Công Giáo và giới truyền thông Công Giáo Mỹ cảm thấy Vatican có hơi căng thẳng về vấn đề này. Điều ấy thấy rõ sau khi Đức Hồng Y Castrillon Hoyos, trong một cuộc họp báo tại Vatican, tuyên bố rằng lạm dụng tình dục là vấn đề chủ yếu chỉ có trong thế giới nói tiếng Anh. Câu tuyên bố này khiến nhiều nhà báo Công Giáo Mỹ phản ứng, cho rằng nó cho thấy Vatican không nắm được vấn đề. Thực ra, theo Thavis, Vatican dần dần hiểu ra và Đức Hồng Y Castrillon chỉ là tiếng nói thiểu số. Khi Vatican chấp thuận các qui tắc của Mỹ về lạm dụng tình dục, thì việc này quả đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc xử lý cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục. Năm 2003, việc này còn khiến Vatican đưa ra thêm một số qui tắc nữa. Và mới năm rồi, khi nhiều điều khoản này trở thành luật chung của cả Giáo Hội, thì đây quả là một dấu chỉ cho thấy Vatican đã thay đổi như thế nào trong phạm vi này.
Thavis đưa ra một điển hình về sự thay đổi trên: năm 2001, CNS loan tin Đức Gioan Phaolô II ban hành tự sắc “Sacramentorum sanctitatis tutela” trao các vụ lạm dụng tình dục cho Bộ Giáo Lý Đức Tin phụ trách, và ấn định các thủ tục khắt khe mới để xử lý các người vi phạm. Để làm được việc đó, cơ quan này mất cả hàng tuần lễ, tìm cách moi tin từ các chức sắc của Vatican. Đây đâu phải là “một tin xấu”; rõ ràng là “một tin tốt”, cho người ta thấy Vatican đã hành động, đã coi các tội phạm này một cách nghiêm túc. Ai cũng tưởng Vatican muốn cả thế giới biết tin này. Nhưng thực ra, theo Thavis, không phải như vậy. Vatican không muốn như thế. Nay, tình thế đã khác hẳn. Vì ai cũng biết: Vatican đã phổ biến rất nhiều tín liệu, chính sách và thủ tục về các trường hợp lạm dụng tình dục đến nỗi ít có nhà báo nào biết hết. Có cả một trang mạng của Vatican về các vấn đề này. Vatican ngày nay đã đóng vai chủ động trong lãnh vực này.
Về phương diện thông tin, báo chí, đây quả là những chiến thắng khó khăn mới có. Như nhiều người biết: trong ít tháng cuối năm 2010, việc tái xuất hiện tai tiếng lạm dụng tình dục đã được cả hai ngành truyền thông Công Giáo và thế tục tường thuật cặn kẽ. Nhưng, theo Thavis, khác với những lần trước, lần này giới truyền thông Công Giáo có chung với các giám mục và Vatican cùng một nỗi thất vọng đối với phương cách giới truyền thông thế tục tường thuật vấn đề này. Ở đây, ta thấy nhiều nét khác biệt rõ rệt trong cung cách tường thuật của giới truyền thông Công Giáo, những nét ta thường thấy thiếu nơi các nhà báo thế tục:
1. Ngữ cảnh: Vì giới truyền thông Công Giáo nay đã quen thuộc với những gì xẩy ra năm 1993 hay 2002, nên họ biết rõ Giáo Hội đã đáp ứng bằng nhiều biện pháp và chương trình rất tích cực.
2. Khung thời gian: Truyền thông Công Giáo biết rõ phần lớn các vụ giáo sĩ lạm dụng tình dục đã xẩy ra cách nay hàng mấy thập niên; rất ít trường hợp xẩy ra lúc này. Đây là điều mà phần lớn các độc giả báo chí vẫn chưa hiểu rõ.
3. Công bằng: Thavis nghĩ rằng đã và hiện vẫn còn não trạng “à, bắt quả tang nhé” (gotcha mentality, xem(1)) nơi nhiều người: họ chỉ muốn cố gắng đổ lỗi cho Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI về loại tai tiếng này. Các nhà báo Công Giáo không nghĩ vậy, họ biết rằng điều ấy không đúng, vì vị giáo hoàng hiện tại đã từng đưa ra nhiều biện pháp để xử lý vấn đề này lúc còn đứng đầu Bộ Giáo Lý Đức Tin. Trong phạm vi này cũng như trong nhiều phạm vi khác, Ngài luôn luôn có phương pháp, đầy quyết tâm và nhẫn nại. Nhiều nhà phê bình còn cho là ngài quá nhẫn nại và đắn đo (deliberate) là đàng khác. Nhưng có điều chắc chắn là ngài đang đi đúng hướng. Hình ảnh tô vẽ ngài như kiến trúc sư của việc che dấu chỉ là một biếm họa không hơn không kém.
4. Viễn ảnh: Truyền thông Công Giáo, nói chung, luôn cưỡng lại khuynh hướng không ngừng khua môi gõ mõ một câu truyện lớn mà gần như loại bỏ mọi chuyện khác. Trong nửa năm 2010, nếu đọc các tờ báo lớn của Mỹ, bạn sẽ thấy: hễ nói tới Vatican là hầu như họ chỉ nhắc tới vụ tai tiếng lạm dụng tình dục. Đây là nét đặc trưng của não trạng truyền tin cáp (cable news mentality) hiện đang thống trị các phòng tin tức: một câu truyện lớn được dựng lên, rồi được nuôi sống hàng ngày, giống một con thú. Câu truyện chủ yếu không bao giờ bị tra vấn. Các chi tiết, những điểm tế nhị và các tín liệu lưỡng nghĩa đều bị gạt qua một bên. Câu truyện lớn cần được tiếp diễn, đó là “sách phúc âm” của tân truyền thông đại chúng, mà người ta nghĩ phần lớn vì lý do kinh tế. May mắn một điều, báo chí Công Giáo đã cưỡng lại được thứ phúc âm ấy và giữ được viễn ảnh khi tường thuật việc lạm dụng tình dục như một thất bại đau lòng, chứ không phải như khía cạnh duy nhất, hay ngay cả chính yếu, trong sinh hoạt Giáo Hội hiện nay.
Có điều, theo Thavis, dù có viễn ảnh, có ngữ cảnh và công bằng khi tường thuật các vụ lạm dụng tình dục, nhưng các nhà truyền thông Công Giáo ít có tác dụng bên ngoài số độc giả có giới hạn của họ. Họ cảm thấy thất vọng trước cung cách giới truyền thông thế tục đối xử với Giáo Hội, nhưng nỗi thất vọng này thường lại chỉ được diễn dịch thành một cuộc thảo luận đóng kín giữa họ với nhau mà thôi. Và liều mình họ sẽ rơi vào não trạng “mèo khen mèo dài đuôi” (self-congratulatory). Họ cần tự hỏi: làm thế nào để thông đạt thực sự với thế giới hiện đại, với thế giới rộng lớn bên ngoài kia, nghĩa là bên kia biên giới giáo hội của mình?
Điểm cuối cùng được Thavis nhấn mạnh là: về phương diện hiệp thông và tranh cãi, báo chí Công Giáo khác biệt vì nó chia sẻ sứ mệnh của Giáo Hội: tức việc truyền bá Tin Mừng bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Họ muốn nói lên sự thật và muốn làm việc ấy một cách công bằng và trọn vẹn. Có một số tin tức tốt và một số tin tức xấu, nhưng chúng đều là những điều độc giả cần biết để cố gắng được cứu rỗi. Họ cần biết có những ông thánh đang xây dựng Giáo Hội nhưng cũng có những kẻ tội lỗi đang phá hoại Giáo Hội ấy.
Ghi chú
(1) Não trạng “à, bắt quả tang nhé” ( gotcha mentality) chỉ loại người luôn sẵn sàng cho bạn biết bạn đã làm sai điều gì hay có thể đã sai điều gì, họ coi việc bắt lỗi người khác tự nó là một cùng đích. Đối với não trạng này, khách quan tính hay sự thật không quan trọng, có chăng nữa, cũng chỉ là thứ yếu. Người có não trạng này muốn cảm thấy mình luôn ở thế thượng phong. Muốn thế, hay nhất là chứng tỏ người khác thấp kém, sai lầm.
Các chuyên gia về Trung Đông coi cuộc cách mạng tại Ai Cập là một trong nhiều “dấu chỉ của mùa xuân”
Bùi Hữu Thư
07:12 20/02/2011
ARLINGTON, Va. (CNS) – Một chuyên gia về Trung Đông nói với các tham dự viên trong một diễn đàn Công Giáo về hòa bình và công lý ngày 12 tháng 2 vừa qua: Sự thành công của một cuộc cách mạng bất bạo động tại Ai Cập là một trong rất nhiều “dấu chỉ của một mùa xuân trong tiết đông giá lạnh tại Bắc Phi Châu.”
Linh mục Dòng Tên Drew Christiansen, chủ bút tuần báo America và cựu giám đốc Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình Quốc Tế của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, là diễn giả chính tại Diễn Đàn về Hòa Bình được Giáo Phận Arlington tổ chức hàng năm, và năm nay tại nhà thờ Thánh Charles Borromeo tại Arlington.
Cha Christiansen đặt câu hỏi: "Tôi nghĩ rằng cuộc cách mạng bất bạo động đã xẩy ra tại Ai Cập là một điều đáng quý. Và ngoài sự mong đợi của nhiều người. Trong 18 ngày tại một quốc gia 80 triệu dân, làm sao để cho việc này có thể xẩy ra?”
"Những ai đã rao giảng rằng không thể nào tìm thấy được hiện tượng bất bạo động trong thế giới Hồi giáo, đã được chứng tỏ rằng họ đã sai lầm.” Khi bàn về các dấu chỉ của niềm hy vọng, cha Christiansen đã đề cao các phúc trình về sự hợp tác giữa các kitô hữu và người Hồi giáo trong cuộc cách mạng. Đặc biệt là một bức hình cho thấy các kitô hữu nắm tay nhau thành vòng tròn xung quanh những người Hồi giáo đang cầu nguyện đã được đăng tải và lan tràn rất nhanh trên mạng lưới toàn cầu.
Ngài nói: Điều gì sẽ xẩy ra cho Ai Cập? “Chỉ là điều dự đoán của bất cứ một ai.” Đây sẽ là một ván bài chờ đợi, với niềm hy vọng là quốc gia này sẽ có được một chính phủ dân chủ có trách nhiệm.
Vị linh muc này chú trọng trong bài nói chuyện về tự do tôn giáo tại các quốc gia Trung Đông khác, và vai trò của Hoa Kỳ đang đóng và đã đóng trong qúa khứ tại đây.
Cha Christiansen nói: Chính sách của Hoa Kỳ tại Tung Đông đã là một “sự thảm hại” đối với các kitô hữu tại Trung Đông. Hoa kỳ đã không trợ giúp các kitô hữu này khi họ chạy trốn khỏi Iraq sau những vụ bạo động và đàn áp bởi các quân khủng bố Hồi giáo, kể cả việc nổ bom tại nhà thờ chánh tòa Công Giáo Syria tại Baghdad làm thiệt mạng gần 60 người d8ang tụ tập để tham dự Thánh Lễ.
Linh mục Dòng Tên Drew Christiansen, chủ bút tuần báo America và cựu giám đốc Văn Phòng Công Lý và Hòa Bình Quốc Tế của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, là diễn giả chính tại Diễn Đàn về Hòa Bình được Giáo Phận Arlington tổ chức hàng năm, và năm nay tại nhà thờ Thánh Charles Borromeo tại Arlington.
Cha Christiansen đặt câu hỏi: "Tôi nghĩ rằng cuộc cách mạng bất bạo động đã xẩy ra tại Ai Cập là một điều đáng quý. Và ngoài sự mong đợi của nhiều người. Trong 18 ngày tại một quốc gia 80 triệu dân, làm sao để cho việc này có thể xẩy ra?”
"Những ai đã rao giảng rằng không thể nào tìm thấy được hiện tượng bất bạo động trong thế giới Hồi giáo, đã được chứng tỏ rằng họ đã sai lầm.” Khi bàn về các dấu chỉ của niềm hy vọng, cha Christiansen đã đề cao các phúc trình về sự hợp tác giữa các kitô hữu và người Hồi giáo trong cuộc cách mạng. Đặc biệt là một bức hình cho thấy các kitô hữu nắm tay nhau thành vòng tròn xung quanh những người Hồi giáo đang cầu nguyện đã được đăng tải và lan tràn rất nhanh trên mạng lưới toàn cầu.
Ngài nói: Điều gì sẽ xẩy ra cho Ai Cập? “Chỉ là điều dự đoán của bất cứ một ai.” Đây sẽ là một ván bài chờ đợi, với niềm hy vọng là quốc gia này sẽ có được một chính phủ dân chủ có trách nhiệm.
Vị linh muc này chú trọng trong bài nói chuyện về tự do tôn giáo tại các quốc gia Trung Đông khác, và vai trò của Hoa Kỳ đang đóng và đã đóng trong qúa khứ tại đây.
Cha Christiansen nói: Chính sách của Hoa Kỳ tại Tung Đông đã là một “sự thảm hại” đối với các kitô hữu tại Trung Đông. Hoa kỳ đã không trợ giúp các kitô hữu này khi họ chạy trốn khỏi Iraq sau những vụ bạo động và đàn áp bởi các quân khủng bố Hồi giáo, kể cả việc nổ bom tại nhà thờ chánh tòa Công Giáo Syria tại Baghdad làm thiệt mạng gần 60 người d8ang tụ tập để tham dự Thánh Lễ.
Tajikistan: chính quyền cấm bán phim hoạt họa về Chúa Giêsu
Tiền Hô
12:21 20/02/2011
Dushanbe, 18 Tháng Hai 2011 (AsiaNews) - Ủy ban Tôn giáo của Tajikistan ra lệnh cấm buôn bán phim hoạt họa về Chúa Giêsu Kitô tại Khorog - trung tâm hành chính của vùng tự trị Badakhshan-Gorno, đài BBC tiếng Ba Tư cho biết.
Tuyên bố nói rằng, các phim hoạt họa đó cổ xúy cho một tôn giáo ngoại bang, ủy ban này đã thu giữ 20 cuốn phim hoạt họa từ những người buôn bán. Nó sau đó xác nhận với hãng tin Interfax về việc họ đã tịch thu các băng đĩa này tại Khorog nhưng không bình luận gì.
Phim hoạt họa này đã được dịch ra tiếng Shughni, một ngôn ngữ được khoảng 250.000 người Pamir Tajik sử dụng, chủ yếu là người Hồi giáo Ismaili, một nhánh của Hồi giáo Shia. Hầu hết người Tajikistan (85%) là người Hồi giáo nhánh Sunni.
Theo một Luật Tôn giáo mới được thông qua tại Tajikistan vào năm 2009, cải đạo từ Hồi giáo sang tôn giáo khác là trái pháp luật. Tuy nhiên, lại có hơn 80 tổ chức tôn giáo, hầu hết thuộc Kitô giáo, đang hoạt động trong quốc gia này.
* Tajikistan là một quốc gia vùng trung Á, giáp với Afghanistan về phía nam, Uzbekistan về phía tây, Kyrgyzstan về phía bắc, và Trung Quốc về phía đông. Trước đây, Tajikistan là một trong 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô.
Tuyên bố nói rằng, các phim hoạt họa đó cổ xúy cho một tôn giáo ngoại bang, ủy ban này đã thu giữ 20 cuốn phim hoạt họa từ những người buôn bán. Nó sau đó xác nhận với hãng tin Interfax về việc họ đã tịch thu các băng đĩa này tại Khorog nhưng không bình luận gì.
Phim hoạt họa này đã được dịch ra tiếng Shughni, một ngôn ngữ được khoảng 250.000 người Pamir Tajik sử dụng, chủ yếu là người Hồi giáo Ismaili, một nhánh của Hồi giáo Shia. Hầu hết người Tajikistan (85%) là người Hồi giáo nhánh Sunni.
Theo một Luật Tôn giáo mới được thông qua tại Tajikistan vào năm 2009, cải đạo từ Hồi giáo sang tôn giáo khác là trái pháp luật. Tuy nhiên, lại có hơn 80 tổ chức tôn giáo, hầu hết thuộc Kitô giáo, đang hoạt động trong quốc gia này.
* Tajikistan là một quốc gia vùng trung Á, giáp với Afghanistan về phía nam, Uzbekistan về phía tây, Kyrgyzstan về phía bắc, và Trung Quốc về phía đông. Trước đây, Tajikistan là một trong 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô.
Đức Thánh Cha nói: có một khởi đầu mới cho những ai tiếp nhận Chúa Kitô
Bùi Hữu Thư
20:41 20/02/2011
Vatican, ngày 20 tháng 2, 2011 / 12:09 pm (CNA/EWTN News).- Chúa nhật vừa qua Đức Thánh Cha Benedict XVI nói: “Một đời sống mới được thúc đẩy bởi tình yêu và hướng về vĩnh cửu" có thể có được qua việc bắt chước Chúa Kitô.
Trước kinh Truyền Tin truyền thống buổi trưa tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 20 tháng 2, Đức Thánh Cha nói vể các bài đọc trong Thánh Lễ hôm này. Ngài nói các bài đọc “nói … về Thánh Ý Chúa muốn làm cho con người tham dự vào đời sống của Người.”
Đức Thánh Cha nói: Những lời, “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh,” trong sách Lêvi là một lời mời gọi người dân được chọn phải trung thành trong giao ước với Chúa. Những lời này cũng “lập nên lề luật xã hội cho điều răn ‘ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.”
"Vậy, nếu ta nghe lời Chúa Giêsu … chúng ta cũng thấy được cùng một lời mời gọi, cùng một mục đích táo bạo này. Thực vậy, Chúa nói, ‘hãy hoàn thiện, đúng như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện’.”
Đức Thánh Cha hỏi: "Nhưng ai có thể trở nên hoàn thiện?” “Sự hoàn thiện của chúng ta là ở chỗ biết sống như những người con cái của Chúa và hoàn tất cụ thể Thánh Ý Người.”
Ngài giải thích: Con người đáp ứng tình phụ tử của Thiên Chúa bằng cách ca ngợi và tôn vinh Người qua cách ăn ở thánh thiện.
Đức Thánh Cha hỏi: "Chúng ta có thể bắt chước Giêsu cách nào?”
Ngài cho chúng ta câu trả lời trong phần kế tiếp của Bài Giảng Trên Núi của Giêsu trong Phúc Âm Mát-thêu. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con, như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên Trời.”
Đức Thánh Cha Benedict giải thích rằng “ai tiếp nhận Chúa Kitô vào đời sống mình và yêu Người hết lòng thì có thể có được một khởi đầu mới. Người này có thể hoàn thành Thánh Ý Thiên Chúa, và thực hiện một hình thức mới cho đời sống được thúc đẩy bởi tình yêu và hướng về vĩnh cửu."
Sau đó Đức Thánh Cha trích dẫn Thánh Phaolô, khi ngài hỏi dân Thành Côrintô trong thư thứ nhất, “Anh em có biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa không, và Thần Khí của Thiên Chúa đang ngự trong anh em? "
Đức Thánh Cha nói, "Nếu chúng ta thực sự hiểu biết thực tại này và để cho đời sống chúng ta hoàn toàn được biến cải bằng thực tại ấy, thì chứng nhân của chúng ta trở nên rõ rệt, hùng mạnh và hiệu quả."
Ngài tiếp, toàn thể đời sống con người được kết hợp với tình yêu Thiên Chúa và “sự huy hoàng của linh hồn người ấy” phản ánh trong tất cả cuộc đời người này mãi mãi.
Đức Thánh Cha nói, tính yêu, trích dẫn từ cuốn sách “Bắt Chước Chúa Kitô” là một “điều to tát,” một điều tốt giúp cho mọi gánh nặng trở nên nhẹ nhàng, ban cho con người sự bình thản trong những lúc khó khăn và giúp cho người này vượt lên trên những gì là trần thế. Và ngài nói, “sự yên hàn chỉ đến được từ Thiên Chúa mà thôi, và chỉ trong Chúa ta mới tìm được sự yên tĩnh nghỉ ngơi."
Sau đó Đức Thánh Cha nhắc đến ngày 22 tháng 2, ngày lễ kính lập tông tòa Thánh Phêrô. Ngài nói về Phêrô, “Chúa Kitô đã trao cho Phêrô trách vụ là thầy và chủ chăn để hướng dẫn con đường thiêng liêng cho dân Chúa, để cho họ có thể nâng mình lên tới Thiên Đàng."
Ngài kết luận bằng một lời kêu gọi “tất cả các chủ chăn phải hội nhập ‘lối sống mới này’, lối sống đã được Chúa Giêsu khai mào và được các Thánh Tông Đồ noi theo."
Và, ngài cầu xin Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, “dậy chúng ta biết yêu thương nhau và chấp nhận nhau như những người anh chị em, con cái của Cha trên Trời.”
Trước kinh Truyền Tin truyền thống buổi trưa tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 20 tháng 2, Đức Thánh Cha nói vể các bài đọc trong Thánh Lễ hôm này. Ngài nói các bài đọc “nói … về Thánh Ý Chúa muốn làm cho con người tham dự vào đời sống của Người.”
Đức Thánh Cha nói: Những lời, “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh,” trong sách Lêvi là một lời mời gọi người dân được chọn phải trung thành trong giao ước với Chúa. Những lời này cũng “lập nên lề luật xã hội cho điều răn ‘ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.”
"Vậy, nếu ta nghe lời Chúa Giêsu … chúng ta cũng thấy được cùng một lời mời gọi, cùng một mục đích táo bạo này. Thực vậy, Chúa nói, ‘hãy hoàn thiện, đúng như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện’.”
Đức Thánh Cha hỏi: "Nhưng ai có thể trở nên hoàn thiện?” “Sự hoàn thiện của chúng ta là ở chỗ biết sống như những người con cái của Chúa và hoàn tất cụ thể Thánh Ý Người.”
Ngài giải thích: Con người đáp ứng tình phụ tử của Thiên Chúa bằng cách ca ngợi và tôn vinh Người qua cách ăn ở thánh thiện.
Đức Thánh Cha hỏi: "Chúng ta có thể bắt chước Giêsu cách nào?”
Ngài cho chúng ta câu trả lời trong phần kế tiếp của Bài Giảng Trên Núi của Giêsu trong Phúc Âm Mát-thêu. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con, như vậy các con mới được trở nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên Trời.”
Đức Thánh Cha Benedict giải thích rằng “ai tiếp nhận Chúa Kitô vào đời sống mình và yêu Người hết lòng thì có thể có được một khởi đầu mới. Người này có thể hoàn thành Thánh Ý Thiên Chúa, và thực hiện một hình thức mới cho đời sống được thúc đẩy bởi tình yêu và hướng về vĩnh cửu."
Sau đó Đức Thánh Cha trích dẫn Thánh Phaolô, khi ngài hỏi dân Thành Côrintô trong thư thứ nhất, “Anh em có biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa không, và Thần Khí của Thiên Chúa đang ngự trong anh em? "
Đức Thánh Cha nói, "Nếu chúng ta thực sự hiểu biết thực tại này và để cho đời sống chúng ta hoàn toàn được biến cải bằng thực tại ấy, thì chứng nhân của chúng ta trở nên rõ rệt, hùng mạnh và hiệu quả."
Ngài tiếp, toàn thể đời sống con người được kết hợp với tình yêu Thiên Chúa và “sự huy hoàng của linh hồn người ấy” phản ánh trong tất cả cuộc đời người này mãi mãi.
Đức Thánh Cha nói, tính yêu, trích dẫn từ cuốn sách “Bắt Chước Chúa Kitô” là một “điều to tát,” một điều tốt giúp cho mọi gánh nặng trở nên nhẹ nhàng, ban cho con người sự bình thản trong những lúc khó khăn và giúp cho người này vượt lên trên những gì là trần thế. Và ngài nói, “sự yên hàn chỉ đến được từ Thiên Chúa mà thôi, và chỉ trong Chúa ta mới tìm được sự yên tĩnh nghỉ ngơi."
Sau đó Đức Thánh Cha nhắc đến ngày 22 tháng 2, ngày lễ kính lập tông tòa Thánh Phêrô. Ngài nói về Phêrô, “Chúa Kitô đã trao cho Phêrô trách vụ là thầy và chủ chăn để hướng dẫn con đường thiêng liêng cho dân Chúa, để cho họ có thể nâng mình lên tới Thiên Đàng."
Ngài kết luận bằng một lời kêu gọi “tất cả các chủ chăn phải hội nhập ‘lối sống mới này’, lối sống đã được Chúa Giêsu khai mào và được các Thánh Tông Đồ noi theo."
Và, ngài cầu xin Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Giáo Hội, “dậy chúng ta biết yêu thương nhau và chấp nhận nhau như những người anh chị em, con cái của Cha trên Trời.”
Niên Giám Giáo Hội 2011: tín hữu Công giáo tăng thêm 15 triệu người
Tiền Hô
12:22 20/02/2011
Vatican, 19 Tháng Hai 2011 (CNA) - Theo số liệu mới nhất của Giáo Hội, số tín hữu Công giáo trên thế giới tiếp tục tăng thêm hàng triệu người. Mặc dù số người rửa tội theo Công Giáo gia tăng, nhưng các nhà lãnh đạo Giáo Hội nói rằng, ngoại trừ Á Châu và Phi Châu, "cuộc khủng hoảng" về ơn gọi vào đời sống tu trì vẫn còn trên toàn thế giới.
Niên Giám Giáo Hội năm 2011 đã được trình lên Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI vào sáng ngày 19 Tháng Hai, bởi một phái đoàn dẫn đầu là Đức Hồng Y Tarcisio Bertone - Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và các thành viên của Văn phòng Thống kê Trung ương của Giáo Hội.
Cuốn niên giám này chứa thông tin về tất cả các khu vực, tổ chức, dòng tu, học viện văn hóa và cơ cấu của Giáo Hội trên toàn thế giới. Một số thông tin của các giáo phận và các tổ chức giáo hội khác lấy từ thời điểm năm 2010, nhưng trọng tâm vẫn là thống kê từ năm 2008-2009.
Nổi bật trong quyển niên giám lần này là con số người Công giáo mới được rửa tội trong thời gian hai năm gần đây.
Trong khoảng 2.956 khu vực tổ chức giáo quyền của giáo hội trên thế giới, số lượng tín hữu đã tăng thêm 15 triệu người từ năm 2008. Tổng số người Công giáo còn sống trên toàn cầu trong năm 2009 đạt 1.181.000.000 (hơn một tỷ mốt).
Bắc và Nam Mỹ Châu chiếm gần một nửa con số này. Người Công giáo Âu Châu chiếm khoảng 24%, Phi Châu khoảng độ 15% và Á Châu mới chỉ hơn 10%. Số còn lại, nhỏ hơn 1% là Úc Châu.
Báo cáo của Vatican không nêu cụ thể số lượng tăng trưởng của từng châu lục.
Niên giám cũng cho thấy, số lượng các giám mục và linh mục đã tăng tỷ lệ thuận với số người Công giáo trên toàn thế giới với 1,3% trong giai đoạn từ 2008 - 2009. Trong năm 2009, đã có 5.065 giám mục và 410.593 linh mục.
Các số liệu cũng cho thấy, có một sự gia tăng đều đặn các linh mục trên tất cả các châu lục, ngoại trừ Âu Châu. Châu lục này đã giảm cả về số linh mục dòng và triều trong hai năm qua khiến Giáo Hội gọi đây là một điều đáng buồn. Số tu sĩ đã khấn trên toàn thế giới giảm gần 10.000 người, xuống còn 729.371.
Vatican kết luận, "Vì vậy, cuộc khủng hoảng vẫn còn, mặc dù Phi Châu và Á Châu đang tăng trưởng".
Số phó tế cũng tăng hơn 1.000 người trên toàn thế giới, tổng cộng 38.155. Chủng sinh vẫn đang gia tăng số lượng đáng kể ở Phi Châu và Á Châu nhưng giảm sút tại Âu Châu và Bắc và Nam Mỹ Châu.
Hiện Nhà Xuất Bản Vatican vẫn chưa phát hành quyển Niên giám 2011 ra cho công chúng, nhưng nó sẽ được phát hành sớm.
Theo truyền thống, Đức Giáo Hoàng sẽ nhận ba ấn bản đầu tiên của niên giám cuốn trong vải trắng. Với công chúng sẽ là màu đỏ, điều này đã dẫn đến tên phổ biến của nó - "Sách Đỏ về Giáo Hội".
Theo thông báo của Văn phòng báo chí Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng đã cảm ơn phái đoàn và tất cả những đóng góp cho công trình này, cho thấy những số liệu mà quyển niên giám chứa đựng rất "đáng được quan tâm".
Niên Giám Giáo Hội năm 2011 đã được trình lên Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI vào sáng ngày 19 Tháng Hai, bởi một phái đoàn dẫn đầu là Đức Hồng Y Tarcisio Bertone - Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và các thành viên của Văn phòng Thống kê Trung ương của Giáo Hội.
Cuốn niên giám này chứa thông tin về tất cả các khu vực, tổ chức, dòng tu, học viện văn hóa và cơ cấu của Giáo Hội trên toàn thế giới. Một số thông tin của các giáo phận và các tổ chức giáo hội khác lấy từ thời điểm năm 2010, nhưng trọng tâm vẫn là thống kê từ năm 2008-2009.
Nổi bật trong quyển niên giám lần này là con số người Công giáo mới được rửa tội trong thời gian hai năm gần đây.
Trong khoảng 2.956 khu vực tổ chức giáo quyền của giáo hội trên thế giới, số lượng tín hữu đã tăng thêm 15 triệu người từ năm 2008. Tổng số người Công giáo còn sống trên toàn cầu trong năm 2009 đạt 1.181.000.000 (hơn một tỷ mốt).
Bắc và Nam Mỹ Châu chiếm gần một nửa con số này. Người Công giáo Âu Châu chiếm khoảng 24%, Phi Châu khoảng độ 15% và Á Châu mới chỉ hơn 10%. Số còn lại, nhỏ hơn 1% là Úc Châu.
Báo cáo của Vatican không nêu cụ thể số lượng tăng trưởng của từng châu lục.
Niên giám cũng cho thấy, số lượng các giám mục và linh mục đã tăng tỷ lệ thuận với số người Công giáo trên toàn thế giới với 1,3% trong giai đoạn từ 2008 - 2009. Trong năm 2009, đã có 5.065 giám mục và 410.593 linh mục.
Các số liệu cũng cho thấy, có một sự gia tăng đều đặn các linh mục trên tất cả các châu lục, ngoại trừ Âu Châu. Châu lục này đã giảm cả về số linh mục dòng và triều trong hai năm qua khiến Giáo Hội gọi đây là một điều đáng buồn. Số tu sĩ đã khấn trên toàn thế giới giảm gần 10.000 người, xuống còn 729.371.
Vatican kết luận, "Vì vậy, cuộc khủng hoảng vẫn còn, mặc dù Phi Châu và Á Châu đang tăng trưởng".
Số phó tế cũng tăng hơn 1.000 người trên toàn thế giới, tổng cộng 38.155. Chủng sinh vẫn đang gia tăng số lượng đáng kể ở Phi Châu và Á Châu nhưng giảm sút tại Âu Châu và Bắc và Nam Mỹ Châu.
Hiện Nhà Xuất Bản Vatican vẫn chưa phát hành quyển Niên giám 2011 ra cho công chúng, nhưng nó sẽ được phát hành sớm.
Theo truyền thống, Đức Giáo Hoàng sẽ nhận ba ấn bản đầu tiên của niên giám cuốn trong vải trắng. Với công chúng sẽ là màu đỏ, điều này đã dẫn đến tên phổ biến của nó - "Sách Đỏ về Giáo Hội".
Theo thông báo của Văn phòng báo chí Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng đã cảm ơn phái đoàn và tất cả những đóng góp cho công trình này, cho thấy những số liệu mà quyển niên giám chứa đựng rất "đáng được quan tâm".
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tuyên hứa Dự Trưởng TNTT tại giáo xứ Tân Hội giáo phận Nha Trang
Antôn Minh Dũng
12:37 20/02/2011
NHA TRANG - Sau gần ba tháng được huấn luyện, đào tạo, tại giáo xứ cũng như tại các Hội Trại Giao Lưu, trong thánh lễ Chúa Nhật ngày 20/02/2011, hơn 20 em của giáo xứ Tân Hội giáo phận Nha Trang đã long trọng tuyên hứa và nhận khăn để trở thành Dự Trưởng của Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể.
Xem hình ảnh
Để chuẩn bị cho Nghi Thức Tuyên Hứa và Trao Khăn, các em đã được Cha Quản Xứ kiêm Tuyên Úy Gioakim Trần Minh Kông, Thầy Sáu Trợ Úy Simon Bùi Anh Tuấn, Hội Đồng Giáo Xứ và Ban Giáo Lý giáo xứ hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để các em tham dự Hội Trại Hiệp Nhất - Yêu Thương tại khuôn viên nhà xứ.
Tham dự Hội Trại còn có các Anh Chị Huynh Trưởng và các em thuộc các Xứ Đoàn Phan Rang, Cầu Bảo, Hòn Thiên.
Đêm Lửa Thiêng Thánh Thể và Trò Chơi Lớn Về Đất Hứa đã góp phần giúp các em có thêm xác tín trong ước nguyện dấn thân phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh và giúp đỡ các em thiếu nhi trong giáo xứ.
Xem hình ảnh
Để chuẩn bị cho Nghi Thức Tuyên Hứa và Trao Khăn, các em đã được Cha Quản Xứ kiêm Tuyên Úy Gioakim Trần Minh Kông, Thầy Sáu Trợ Úy Simon Bùi Anh Tuấn, Hội Đồng Giáo Xứ và Ban Giáo Lý giáo xứ hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện để các em tham dự Hội Trại Hiệp Nhất - Yêu Thương tại khuôn viên nhà xứ.
Tham dự Hội Trại còn có các Anh Chị Huynh Trưởng và các em thuộc các Xứ Đoàn Phan Rang, Cầu Bảo, Hòn Thiên.
Đêm Lửa Thiêng Thánh Thể và Trò Chơi Lớn Về Đất Hứa đã góp phần giúp các em có thêm xác tín trong ước nguyện dấn thân phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh và giúp đỡ các em thiếu nhi trong giáo xứ.
Chức năng của Thánh nhạc
L.m. An-rê Đỗ xuân Quế o.p.
14:31 20/02/2011
Mấy năm gần đây, thánh nhạc hay được bàn tới trong các cuộc họp định kỳ của UBTNTQ. Thánh nhạc được bàn tới, nhưng xem ra sự hiểu biết về bộ môn này chưa được đồng đều và thuần nhất từ trên xuống dưới. Có những người hiểu thánh nhạc chỉ như là những bài hát về Chúa, Đức Mẹ và các thánh để hát trong nhà thờ. Hát thế nào cũng được, miễn là có ca đoàn và đàn trống cho tưng bừng là đủ.
Từ sự hiểu biết như thế, thật không lạ gì trong nhiều nhà thờ ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài có người Viêt Nam, phần đông người ta ưa thích loại nhạc này. Nhiều linh mục quản xứ nghĩ rằng thời buổi nào kỷ cương nấy. Thời bây giờ trẻ trung mới mẻ, nhạc như vậy mới hấp dẫn và lôi cuốn người trẻ đến nhà thờ. Có thể là như thế. Nhưng họ đến nhà thờ để nghe đàn hát cho vui thôi, chứ chưa chắc vì lòng tin hay mộ mến đạo, trong khi nhà thờ là nơi giáo dục đức tin, người ta đến để tôn vinh thờ phượng Chúa và thánh hóa tâm hồn mình. Đó chính là chức năng của thánh nhạc. Mà vì không hiểu như thế nên mới xẩy ra nhiều ngộ nhận.
1.Tôn vinh ca tụng
Mục đích chính của thánh nhạc là tôn vinh, ca tụng Chúa bằng lời ca tiếng hát và âm thanh nhạc cụ. Chúa là đối tượng chính. Loài người không thể dùng lời lẽ nào hay hơn, ý nghĩa hơn là lời mạc khải, tức lời Kinh thánh, mà tiêu biểu là thánh vịnh và phụng vụ để làm công việc này. Những lời đó kết hợp với âm nhạc là hình thức thông dụng, từ bao đời nay Hội thánh vẫn dùng để ca ngợi tôn vinh Chúa. Mà vì Chúa là Đấng tuyệt vời cao cả, xứng muôn lời ca tụng nên lời ca và âm nhạc cũng phải cố hết sức để đạt tới một trình độ cao đẹp và xứng đáng chừng nào có thể. Chính vì vậy mà âm nhạc phải hay, phải đẹp và thánh thiện, lại phổ quát, khiến ở đây hay nơi nào khác, bao giờ cũng vẫn thấy hay. Do đó, người ta không thể theo cảm tính thích hay không thích vì những lý do cá nhân mà phê bình hay thẩm định thánh nhạc được. Thánh nhạc là loại âm nhạc riêng dựa trên những nguyên tắc và luật lệ rõ ràng theo chức năng đã được Hội thánh xác định qua các giáo huấn như:
* Lời ca phải phù họp với giáo lý công giáo, nhất là lấy ra từ Kinh thánh và các nguồn phụng vụ (HCPV số 21)
* Bài hát càng gắn liền với với cử hành phụng vụ bao nhiêu càng thánh thiện bấy nhiêu (HCPV số 112c)
* Thánh nhạc là loại âm nhạc được sáng tác để thờ phượng Thiên Chúa nên phải biểu lộ sự thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuât cao (HTTN 4a).
* Thánh nhạc khác với nhạc đời ở chỗ khi hát lên lời ca phải được nghe và hiểu rõ ràng, chứ không bị dòng nhạc át đi (x HTTN 5b; 26; 51; 64)
* Bài hát bằng tiếng nước nào phải phù hợp với tâm tình và ngôn ngữ của dân nước ấy (HCPV 119; 129)
Riêng về điểm cuối cùng này, Hội thánh đã có huấn thị số 5 khuyến khích việc hội nhập văn hóa. Hiện nay có nỗ lưc và khuynh hướng đưa nhạc dân tộc và những làn điệu dân ca vào trong thánh nhạc. Chúng ta đã có những cung kinh, cung ngắm. cung sách. Những thứ này một thời thịnh hành nhưng sau bị quên lãng và xếp vào loại ‘các món đồ cổ’. Vậy nay là lúc phải phục hồi và sử dụng lại những cung điệu đó với tất cả tâm tình và kiểu cách thích hợp, vì là gia sản của cha ông để lại, thay vì đưa những điệu cò lả, quan họ Bắc Ninh. Lý con sáo, ngựa ô v.v… vào, vì những thứ này không phải là nhạc để dùng trong nhà thờ. Có chăng là nghiên cứu, tìm hiểu, chắt lọc lấy phần tinh hoa của những thứ đó cho nhuần nhuyễn, rối mới đem vào các hình thể thánh nhạc hay ca khúc.
* Thánh nhạc cấm không được đặt lời đạo vào các bài hát đời để hát trong nhà thờ hay đem vào các bài như Wedding, One day, Ơn nghĩa sinh thành của Dương Thiệu Tước, Lòng mẹ của Y Vân trong các lễ cưới hay lễ cầu hồn. Cùng lắm là hát ở nhà trước bàn thờ tổ tiên. Lý do là vì những bài hát đó không được sáng tác để hát trong nhà thờ và cũng không thuộc loại thánh nhạc.
Như trên đã nói, để tôn vinh Thiên Chúa, loài người không có lời lẽ hay cách nào cân xứng, vì Chúa muôn trùng cao cả và trổi vượt hơn mọi thọ tạo. Bởi vậy chỉ có cách là đem cả tấm lòng thành khẩn ra mà cử hành.
“Nên nhớ rằng tính long trọng đích thật của một buổi lễ cử hành phụng vụ không tùy thuộc ở hình thức ca hát cầu kỳ hay phô diễn các lễ nghi cho bằng dựa vào phong cách cử hành cách xứng đáng, trang nghiêm và đạo đức.’ (ANTPV số 9; 11)
2. Thánh hóa các tín hữu
Chức năng thứ hai của thánh nhạc là thánh hóa các tín hữu, nghĩa là dùng lời ca tiếng hát đưa tâm hồn họ lên cùng Chúa, làm cho họ cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành, đầy yêu thương và thành tín. Qua ý nghĩa của lời ca và nét đẹp của âm nhạc, họ như được cuốn hút bởi một động lực siêu nhiên làm cho họ say sưa phấn khởi muốn kết hợp cùng Chúa. Mục đích và nhiệm vụ của thánh nhạc là như thế. Vì vậy, mối bận tâm lớn của thánh nhạc là khi ca hát phải có cái gì khơi dậy lòng tin cho người nghe, để người ta tín vào và yêu mến Chúa nhiều hơn. Vì thế, loại âm nhạc kém nghệ thuạt, không có nội dung và không hội đủ những điều kiện của thánh nhạc thì không được dùng trong việc thờ phượng. Nói như thế thì xem ra có vẻ quá đòi hỏi.Mà đòi hỏi thật, tuy Hội thánh nhìn nhận moi loại nhạc, miễn là nhạc đó hợp với phụng vụ và mỗi phần đoạn trong thánh lễ, lại không ngăn trở việc cầu nguyện, tôn vinh Chúa.
Nếu hiểu đúng như thế thì tự nhiên ai cũng sẽ rất cẩn thận khi ca hát và sẽ ca hát như thánh Âu-tinh dạy, để thánh hóa tâm hồn mình và tâm hồn người khác ‘Hãy hát ra tiếng, hãy hát từ cõi lòng, hãy hát bằng miệng, hãy hát bằng tất cả cuộc sống. Hát lên một bài ca mới, ngợi khen Người trong cộng đoàn những kẻ hiếu trung. Lời ngợi khen Đấng phải được hát mừng, chính là con người ca hát. Hãy sống như điều bạn hát. Bạn sẽ là lời ngợi khen Thiên Chúa, nếu bạn sống tốt lành.’ (Sách Bài dọc Kinh sách Mùa Phục sinh, Tuần III, ngày thứ ba trang 155).
Kết luận
Trên đây là mấy lời nhắc lại vắn tắt về chức năng của thánh nhạc. Sở dĩ phải nhắc lại, vì nhiều người hình như chỉ để ý đến những gì khác mà ít để ý đến điều quan trọng này, bởi nếu không đặt trọng tâm vào đó, người ta sẽ hiểu biết, cảm nhận và phê bình thánh nhạc ở mặt ngoài thôi, chứ không tại phần căn bản. Thánh nhạc liên quan đến việc thờ phượng và là thành phần hoàn chỉnh của việc thờ phượng. Vì thế, cần phải hiểu cho đúng mới thờ phượng tốt được.
Từ sự hiểu biết như thế, thật không lạ gì trong nhiều nhà thờ ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài có người Viêt Nam, phần đông người ta ưa thích loại nhạc này. Nhiều linh mục quản xứ nghĩ rằng thời buổi nào kỷ cương nấy. Thời bây giờ trẻ trung mới mẻ, nhạc như vậy mới hấp dẫn và lôi cuốn người trẻ đến nhà thờ. Có thể là như thế. Nhưng họ đến nhà thờ để nghe đàn hát cho vui thôi, chứ chưa chắc vì lòng tin hay mộ mến đạo, trong khi nhà thờ là nơi giáo dục đức tin, người ta đến để tôn vinh thờ phượng Chúa và thánh hóa tâm hồn mình. Đó chính là chức năng của thánh nhạc. Mà vì không hiểu như thế nên mới xẩy ra nhiều ngộ nhận.
1.Tôn vinh ca tụng
Mục đích chính của thánh nhạc là tôn vinh, ca tụng Chúa bằng lời ca tiếng hát và âm thanh nhạc cụ. Chúa là đối tượng chính. Loài người không thể dùng lời lẽ nào hay hơn, ý nghĩa hơn là lời mạc khải, tức lời Kinh thánh, mà tiêu biểu là thánh vịnh và phụng vụ để làm công việc này. Những lời đó kết hợp với âm nhạc là hình thức thông dụng, từ bao đời nay Hội thánh vẫn dùng để ca ngợi tôn vinh Chúa. Mà vì Chúa là Đấng tuyệt vời cao cả, xứng muôn lời ca tụng nên lời ca và âm nhạc cũng phải cố hết sức để đạt tới một trình độ cao đẹp và xứng đáng chừng nào có thể. Chính vì vậy mà âm nhạc phải hay, phải đẹp và thánh thiện, lại phổ quát, khiến ở đây hay nơi nào khác, bao giờ cũng vẫn thấy hay. Do đó, người ta không thể theo cảm tính thích hay không thích vì những lý do cá nhân mà phê bình hay thẩm định thánh nhạc được. Thánh nhạc là loại âm nhạc riêng dựa trên những nguyên tắc và luật lệ rõ ràng theo chức năng đã được Hội thánh xác định qua các giáo huấn như:
* Lời ca phải phù họp với giáo lý công giáo, nhất là lấy ra từ Kinh thánh và các nguồn phụng vụ (HCPV số 21)
* Bài hát càng gắn liền với với cử hành phụng vụ bao nhiêu càng thánh thiện bấy nhiêu (HCPV số 112c)
* Thánh nhạc là loại âm nhạc được sáng tác để thờ phượng Thiên Chúa nên phải biểu lộ sự thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuât cao (HTTN 4a).
* Thánh nhạc khác với nhạc đời ở chỗ khi hát lên lời ca phải được nghe và hiểu rõ ràng, chứ không bị dòng nhạc át đi (x HTTN 5b; 26; 51; 64)
* Bài hát bằng tiếng nước nào phải phù hợp với tâm tình và ngôn ngữ của dân nước ấy (HCPV 119; 129)
Riêng về điểm cuối cùng này, Hội thánh đã có huấn thị số 5 khuyến khích việc hội nhập văn hóa. Hiện nay có nỗ lưc và khuynh hướng đưa nhạc dân tộc và những làn điệu dân ca vào trong thánh nhạc. Chúng ta đã có những cung kinh, cung ngắm. cung sách. Những thứ này một thời thịnh hành nhưng sau bị quên lãng và xếp vào loại ‘các món đồ cổ’. Vậy nay là lúc phải phục hồi và sử dụng lại những cung điệu đó với tất cả tâm tình và kiểu cách thích hợp, vì là gia sản của cha ông để lại, thay vì đưa những điệu cò lả, quan họ Bắc Ninh. Lý con sáo, ngựa ô v.v… vào, vì những thứ này không phải là nhạc để dùng trong nhà thờ. Có chăng là nghiên cứu, tìm hiểu, chắt lọc lấy phần tinh hoa của những thứ đó cho nhuần nhuyễn, rối mới đem vào các hình thể thánh nhạc hay ca khúc.
* Thánh nhạc cấm không được đặt lời đạo vào các bài hát đời để hát trong nhà thờ hay đem vào các bài như Wedding, One day, Ơn nghĩa sinh thành của Dương Thiệu Tước, Lòng mẹ của Y Vân trong các lễ cưới hay lễ cầu hồn. Cùng lắm là hát ở nhà trước bàn thờ tổ tiên. Lý do là vì những bài hát đó không được sáng tác để hát trong nhà thờ và cũng không thuộc loại thánh nhạc.
Như trên đã nói, để tôn vinh Thiên Chúa, loài người không có lời lẽ hay cách nào cân xứng, vì Chúa muôn trùng cao cả và trổi vượt hơn mọi thọ tạo. Bởi vậy chỉ có cách là đem cả tấm lòng thành khẩn ra mà cử hành.
“Nên nhớ rằng tính long trọng đích thật của một buổi lễ cử hành phụng vụ không tùy thuộc ở hình thức ca hát cầu kỳ hay phô diễn các lễ nghi cho bằng dựa vào phong cách cử hành cách xứng đáng, trang nghiêm và đạo đức.’ (ANTPV số 9; 11)
2. Thánh hóa các tín hữu
Chức năng thứ hai của thánh nhạc là thánh hóa các tín hữu, nghĩa là dùng lời ca tiếng hát đưa tâm hồn họ lên cùng Chúa, làm cho họ cảm nghiệm được rằng Thiên Chúa là Đấng tốt lành, đầy yêu thương và thành tín. Qua ý nghĩa của lời ca và nét đẹp của âm nhạc, họ như được cuốn hút bởi một động lực siêu nhiên làm cho họ say sưa phấn khởi muốn kết hợp cùng Chúa. Mục đích và nhiệm vụ của thánh nhạc là như thế. Vì vậy, mối bận tâm lớn của thánh nhạc là khi ca hát phải có cái gì khơi dậy lòng tin cho người nghe, để người ta tín vào và yêu mến Chúa nhiều hơn. Vì thế, loại âm nhạc kém nghệ thuạt, không có nội dung và không hội đủ những điều kiện của thánh nhạc thì không được dùng trong việc thờ phượng. Nói như thế thì xem ra có vẻ quá đòi hỏi.Mà đòi hỏi thật, tuy Hội thánh nhìn nhận moi loại nhạc, miễn là nhạc đó hợp với phụng vụ và mỗi phần đoạn trong thánh lễ, lại không ngăn trở việc cầu nguyện, tôn vinh Chúa.
Nếu hiểu đúng như thế thì tự nhiên ai cũng sẽ rất cẩn thận khi ca hát và sẽ ca hát như thánh Âu-tinh dạy, để thánh hóa tâm hồn mình và tâm hồn người khác ‘Hãy hát ra tiếng, hãy hát từ cõi lòng, hãy hát bằng miệng, hãy hát bằng tất cả cuộc sống. Hát lên một bài ca mới, ngợi khen Người trong cộng đoàn những kẻ hiếu trung. Lời ngợi khen Đấng phải được hát mừng, chính là con người ca hát. Hãy sống như điều bạn hát. Bạn sẽ là lời ngợi khen Thiên Chúa, nếu bạn sống tốt lành.’ (Sách Bài dọc Kinh sách Mùa Phục sinh, Tuần III, ngày thứ ba trang 155).
Kết luận
Trên đây là mấy lời nhắc lại vắn tắt về chức năng của thánh nhạc. Sở dĩ phải nhắc lại, vì nhiều người hình như chỉ để ý đến những gì khác mà ít để ý đến điều quan trọng này, bởi nếu không đặt trọng tâm vào đó, người ta sẽ hiểu biết, cảm nhận và phê bình thánh nhạc ở mặt ngoài thôi, chứ không tại phần căn bản. Thánh nhạc liên quan đến việc thờ phượng và là thành phần hoàn chỉnh của việc thờ phượng. Vì thế, cần phải hiểu cho đúng mới thờ phượng tốt được.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hội Đồng Qúy Chức: Chương II: Diễn tiến lịch sử công trình tổ chức hội đồng quý chức họ đạo Việt Nam
Lm. Mai Đức Vinh
22:51 20/02/2011
HỘI ĐỒNG QÚY CHỨC
CHƯƠNG II:
DIỄN TIẾN LỊCH SỬ
CÔNG TRÌNH TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG QUÍ CHỨC
HỌ ĐẠO VIỆT NAM
Trong chương này chúng tôi sẽ trình bày bốn mục chính:
I. Được thành lập nhưng chưa được thừa nhận hợp pháp bởi giáo quyền.
II. Được thừa nhận hợp pháp bởi giáo quyền nhưng tổ chức còn non kém.
III. Không những được tổ chức mà còn được định chế hóa
IV. Được thích ứng theo định chế Công Giáo Tiến Hành
MỤC I
ĐƯỢC THÀNH LẬP NHƯNG CHƯA ĐƯỢC
THỪA NHẬN HỢP PHÁP BỞI GIÁO QUYỀN
(1553-1670)
I. MỘT SÁNG KIẾN HỮU HIỆU
Ngay từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, những giáo sĩ truyền giáo, nhất là các cha dòng Tên, kế đó là các vị Thừa sai Paris và các cha dòng Đaminh, cùng theo một phương pháp chung: để bổ túc sự thiếu sót giáo sĩ cho công cuộc truyền giáo tại Tonkin (Bắc Kỳ, Bắc Việt, Bắc Bộ Việt Nam) và tại Cochinchine (Nam Kỳ, Nam Việt, Nam Bộ Việt Nam) các ngài tổ chức các hình thức cộng tác viên bậc giáo dân. Có những cộng tác viên các ngài gọi là các thầy giảng: những người này sống theo sát các ngài, quản gia nhà cửa các ngài, sẵn sàng đi những nơi các ngài sai phái đến để dạy giáo lý, ban phép rửa tội, an ủi bệnh nhân, nói chung là làm tất cả những gì không đòi hỏi phải có chức năng linh mục. Những người khác các ngài gọi là quí chức, được chọn từ những gia trưởng có học thức và có lòng nhiệt thành nhất trong mỗi họ đạo. Các quí chức hoạt động tại chỗ trong phạm vi họ đạo của họ, và cũng như các thầy giảng, họ đảm đương tất cả những gì có thể làm trong việc giúp đỡ các cha điều hành xứ đạo và truyền giáo cho lương dân (1).
Chính hình thức cộng tác viên thứ hai này – những quí chức – là đối tượng của công việc khai triển của chúng tôi. Những khi cha xứ vắng mặt, những quí chức thay thế ngài điều hành giáo dân, dạy giáo lý, chủ xướng kinh hạt. Trong thời buổi bách hại, họ là mối dây liên lạc giữa giáo dân và cha xứ. Họ bảo vệ giáo dân trước chính quyền. Rất nhiều quí chức đã hy sinh mạng sống vì đức tin, cho tương lai của họ đạo, hoặc cho mạng sống của chính cha xứ. Chính vì thế người ta gọi họ là những «ông trùm của cộng đoàn tín hữu, là trái tim hay linh hồn của cộng đoàn giáo dân, cánh tay mặt của cha thừa sai, cộng tác viên thân tín và quý trọng của những giáo sĩ thừa sai, hội trưởng của tiểu Giáo Hội địa phương». Để nói lên cụ thể công trình những quí chức đã thực hiện trong thời đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, chúng ta hân hạnh nêu lên dưới đây mấy trường hợp lịch sử.
II. NHỮNG TRƯỜNG HỢP LỊCH SỬ
1) Ba vị quí chức đầu tiên của họ đạo Cửa-Bạng.
Vào năm 1627, cha Alexandre de Rhodes và cha Pedro Marquez, rời Nam Kỳ để đến Bắc Kỳ. Ngày 19 tháng 3, lễ thánh Giuse, các ngài dạt vào Cửa-Bạng (hiện nay là xứ Ba-Làng thuộc giáo phận Thanh Hóa). Sau ít ngày thuyết giảng, các cha rửa tội cho 32 người dân làng thuộc mọi thành phần xã hội, có những người là dân làng Cửa Bạng, và những người khác là dân làng lân cận, các cha chọn lựa 3 vị có ảnh hưởng nhất trong số những vị tân giáo hữu (tân tòng) này để bổ nhiệm họ làm quí chức của họ đạo mới. Ba vị này một là thầy đồ, vị kia là một thân hào và vị thứ ba là một thầy pháp. Thầy đồ là người có học thức nhất trong làng, sau khi đã nhận phép rửa tội ông trở thành môn đệ của Chúa Kitô, và trở thành thầy giáo giảng dạy những điều chân thực của tân đạo giáo cho dân làng. Ông được cha Alexandre de Rhodes trao cho một cuốn kinh nhật tụng để học hỏi và sau đó dạy lại cho những người khác. Thầy pháp xưa kia là người tin thờ mê tín và ma thuật, từ khi lãnh nhận đức tin công giáo ông từ bỏ tất cả và trở thành một giáo hữu đạo đức và một quí chức nhiệt thành. Ông luôn luôn có mặt trong những buổi hội họp của cộng đoàn họ đạo. Thân hào là người thường mang nặng mê tín nhưng nhờ nghe theo giảng thuyết của các cha, ông chấp nhận đức tin và trở thành người giáo hữu tốt lành. Nhà của ông được dâng cho các cha làm nơi lưu trú, nơi hội họp thường nhật của giáo dân để học giáo lý hay cầu nguyện. Ngày chúa nhật, ngôi nhà của ông được dùng như là «ngôi chùa» của cộng đoàn tín hữu (2).
2) Quí chức đầu tiên của họ đạo An Vực và Văn Nô.
Tại làng An Vực, các cha đã rửa tội cho khoảng 200 người, trong số đó có cụ Gioankim là người có học thức và đạo hạnh nhất. Cụ là người đầu tiên trong làng được lãnh nhận phép rửa tội. Sau khi lãnh nhận phép rửa tội, cụ cộng tác đắc lực với các thừa sai trong việc giáo huấn đức tin cho dân làng. Cụ rất sung sướng và hãnh diện về công việc tông đồ của cụ. Bởi vì, như lời cụ nói: «Trước kia tôi giảng dạy điều sai lạc, nhưng nay tôi giảng dạy sự chân thật». Hơn thế, cụ còn dâng hiến ngôi nhà của cụ cho các cha trú ngụ, và thửa đất của cụ để xây cất nhà thờ họ đạo. Đó là ngôi thánh đường đầu tiên tại Bắc Kỳ được các cha dòng Tên làm phép một cách trọng thể.
Ảnh hưởng truyền giáo của cụ Gioankim và những tân giáo hữu làng An-Vực đem đức tin đến cho nhiều người dân làng Văn-Nô lân cận. Trong số những tân giáo hữu của làng này, các cha đã chọn hai người đức hạnh, giàu có và học thức là các ông Giuse, vốn là thầy pháp của làng, và ông Simon là thầy giáo trường làng. Hai ông này đuợc các cha bổ nhiệm làm ông trùm họ đạo Văn-Nô, được lãnh nhận những tập kinh sách để học hỏi và truyền dạy cho người khác, luân phiên nhau điều hành các buổi hội họp ngày chủ nhật của cộng đoàn tín hữu. Hai vị là linh hồn của họ đạo (3).
3) Những quí chức đầu tiên còn vô danh ở Nam Kỳ
Về tình hình công cuộc truyền giáo ở Nam Kỳ trong những năm 1630-1639, cha Nguyễn-Hồng viết: «Trong thời buổi bách hại, các linh mục thừa sai không thể tự do giảng đạo và thăm viếng giáo dân, vì thế các ngài đã bổ nhiệm những quí chức đạo đức cho mỗi cộng đoàn tín hữu. Những người này thay mặt các ngài điều hành xứ đạo, bảo vệ đức tin tín hữu và loan truyền Phúc Âm cho lương dân. Nhờ sự cộng tác của họ, năm 1631 các cha đã rửa tội cho 540 người và vài trăm người khác trong năm 1632» (4)
4) Ông Bà Phanxicô ở một họ đạo tỉnh Quảng-Bình
Theo cha Alexandre de Rhodes, ông Phanxicô là quan võ trong đạo quân triều đình, và vợ ông là một bà phù thủy nổi tiếng. Nhưng sau khi được rửa tội, cả hai vợ chồng trở thành những «cổ động viên nhiệt huyết của Phúc Âm». Hơn nữa, hai vợ chồng rất có lòng sùng kính Đức Mẹ Đồng Trinh. Nhờ những hoạt động tông đồ của ông bà, hàng trăm người đã theo đạo và họp thành một cộng đoàn tín hữu mà ông Phanxicô là ông trùm tận tụy cho đến hơi thở cuối cùng (5).
5) Lòng nhiệt thành và can đảm của những quí chức ở Quảng Nam
Ở Quảng Nam, vào năm 1644, cộng đoàn tín hữu không chút nao núng trước những bách hại ghê sợ của quan triều. Bà trùm Mai đệ Liên cất giấu ở nhà bà một cây thánh giá từng được đặt trong nhà thờ. Quân lính bắt giam bà, đánh đòn tra tấn bà ròng rã ba ngày đêm, nhưng bà nhất quyết không khai, sau cùng bà được thả ra: đức tin đã vinh thắng.
Ông Antôn Tê, vị quí chức giàu có và là người thành lập cộng đoàn tín hữu, nghe tin cuộc bách hại gần kề, ông hội họp giáo dân và khích lệ họ giữ vững niềm tin tôn giáo. Ông xin họ trao lại cho ông cất giữ nơi an toàn tất cả những Cây Thánh Giá, và ông sẵn sàng trả tiền phạt nếu bị quân lính bắt phạt. Ông làm như thế để không một giáo dân nào chối bỏ đức tin vì sợ hãi (6).
6) Những ông trùm các họ đạo tỉnh Quy Nhơn
Ở Quy Nhơn, được biết cuộc bách hại sắp tràn tới, các ông trùm họ đạo chuẩn bị tinh thần cho giáo dân, khích lệ họ giữ vững đức tin, can đảm đối đầu với những trận đàn áp. Ông Ngữ, người đại diện của những quí chức tỉnh Quy Nhơn, vội vã tìm đến thỉnh ý cha Alexandre de Rhodes. Cuối cùng, ông Ngữ và năm người quí chức khác đã được vinh dự tử đạo (7).
Cũng ở Quy Nhơn, quí chức Antoninô đã khéo léo bảo vệ cộng đoàn tín hữu trước cuộc đàn áp, đồng thời còn rửa tội được 140 trẻ em và người lớn, dạy giáo lý cho 20 người khác trong khi chờ chuyến viếng thăm của cha Alexandre de Rhodes (8).
Cha Alexandre de Rhodes còn thuật lại rằng: năm 1644, ngài đã cử hành lễ Giáng Sinh tại nhà ông Nicolas Hảo mặc dù có những biện pháp đàn áp lục soát của quan triều. Ông Hảo là quí chức cộng đoàn tín hữu, được quí trọng không những bởi giáo dân mà còn cả lương dân nữa. Ông là người chính trực, lương thiện và giàu có. Ông chân thành giúp đỡ các vị thừa sai bằng lòng ân cần tiếp rước, bằng tiền bạc dâng cúng và bằng sự phục vụ của ông. Ông phục vụ cộng đoàn tín hữu bằng cách củng cố đức tin cho những người đã được rửa tội, và dẫn dắt những người lương dân vào đạo Công Giáo. Vào lễ Giáng Sinh 1644, ông đã xin cha rửa tội cho 22 người dự tòng (9).
7) Hai quí chức tử vì đạo ở Quảng-Bình
Cuộc bách hại lâu dài bởi quan Thượng gây bao khốn khổ cho giáo dân. Vào năm 1646, hai quí chức cộng đoàn tín hữu ở Quảng Bình bị bắt và điệu ra trước quan triều. Đó là các ông Augustinô và Simon. Cả hai ông bị tố cáo là đã giúp đỡ các vị thừa sai, bảo vệ giáo dân và đưa nhiều lương dân vào đạo Công Giáo. Đó là sự thực, bởi vì hai ông đã dốc toàn sức lực kiến tạo họ đạo và làm sáng danh Thiên Chúa. Cùng với bốn tín hữu, hai ông bị khảo cung và tra tấn tàn bạo nhiều lần, nhưng tất cả đều giữ vững đức tin… Chính vì thế, quan triều tức giận và hạ lệnh chém đầu. Họ đi tới nơi hành quyết một cách can đảm. Ông Simon nhiệt thành khuyên nhủ những tín hữu hiện diện tại pháp trường can đảm giữ vững đức tin, sau đó ông tuyên bố trước lương dân rằng các ông bị tử hình chỉ vì mang tội là người theo đạo Công Giáo. Ông Augustinô bị chặt đầu và ông Simon chết bởi những đòn trượng (10).
8) Hai văn bản lịch sử
Để kết luận, chúng ta đan cử nơi đây một trích thư của cha Deydier viết cho ban giám đốc chủng viện Thừa Sai Hải Ngoại ngày 28.7.1668, và một bản tường trình khác về tình hình truyền giáo năm 1680. Cả hai bản văn xác nhận rõ ràng: hàng ngũ quí chức được tổ chức một cách thực tế từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
«Từ khi tôi làm xong công việc sắp đặt mọi sự cho được tốt đẹp nhất, tôi đã có thể thiết dựng 5 ngôi thánh đường trong thành phố vương đô này, và đặt 6 vị (quí chức) nhiệt thành và học thức nhất trong các tín hữu tại mỗi thánh đường, vì tôi muốn đi khắp các làng để rao giảng Tin Mừng…» (11).
«…Trong mỗi thánh đường, từ hàng ngũ giáo dân người ta chọn ra một người có đời sống gương mẫu và không mấy bị câu thúc bởi công kia việc nọ để giúp việc nhà thờ, hội họp giáo dân, xướng kinh hạt những ngày chủ nhật và ngày lễ, đọc sách thiêng liêng, giảng dạy, thông báo lịch hàng tuần những ngày lễ hay chay tịnh, thăm viếng bệnh nhân, sắp xếp cho vị linh mục đến ban bí tích xức dầu nếu là bệnh nặng, thu nhận tiền bạc dâng cúng của tín hữu để mua nhang đèn và những gì cần thiết cho nhà thờ...” (12).
MỤC II
ĐƯỢC THỪA NHẬN HỢP PHÁP BỞI GIÁO QUYỀN
NHƯNG CÒN NON KÉM VỀ TỔ CHỨC
(1670- 1885)
I. BỞI HAI CÔNG NGHỊ MIỀN ĐẦU TIÊN
Chúng ta vừa nói ở trên, vào năm 1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai giáo phận (Vicariats apostoliques: đại diện tông tòa, chuẩn giáo phận) đầu tiên tại Việt Nam. Đó là giáo phận Bắc Kỳ (Tonkin) với đức cha Pallu là vị giám mục đầu tiên, và giáo phận Nam Kỳ (Cochinchine) với đức cha Lambert de la Motte. Nhưng vì bận việc Giáo Hội ở Âu Châu, đức cha Pallu đã trao quyền giám quản tông tòa của ngài cho đức cha Lambert de la Motte. Một trong những công trình đáng ghi nhớ mà đức cha Lambert de la Motte đã thực hiện là triệu tập công nghị cho giáo phận Bắc Kỳ vào năm 1670, và cho giáo phận Nam Kỳ vào năm 1672. Mỗi công nghị đều đã đề ra những nghị quyết quan trọng liên quan tới việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức của họ đạo.
1) Công nghị Bắc Kỳ vào năm 1670
Công nghị miền đầu tiên đã đề ra những nghị quyết cụ thể về việc tổ chức các Hội Đồng Quí Chức của họ đạo Việt Nam chính là công nghị Bắc Kỳ năm 1670. Công nghị này được triệu tập ngày 14.2 tại tỉnh Nam Định, dưới quyền chủ tọa của đức cha Pierre Lambert de la Motte. Văn bản chính thức của công nghị, được duyệt y bởi đức giáo hoàng Clément X ngày 13.12.1673, gồm có 34 điều trong đó điều 7 và điều 21 nói về các quí chức:
Điều 7: Nơi nào có đông tín hữu, thì mỗi họ đạo sẽ cắt cử những người đức hạnh nhất trong họ đạo để chăm lo việc hội họp kinh nguyện, việc rao lịch, giúp giáo dân giữ cẩn thận các ngày kiêng thịt và quan tâm đến những người khác.
Điều 21: Những linh mục quản nhiệm, các thầy giảng và quí chức phải khích lệ giáo dân sống đức khó khăn, năng nguyện gẫm, ít ra theo lịch các ngày kiêng thịt, đặc biệt trong những ngày đó, suy ngắm về sự thương khó và sự chết của Chúa Giêsu Kitô (13).
2) Công nghị Nam Kỳ vào năm 1672
Hai năm sau công nghị Bắc Kỳ, từ ngày 26-10 đến ngày 18-11-1672, công nghị Nam Kỳ được triệu tập tại thành phố Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam khi đó trực thuộc miền truyền giáo Nam Kỳ. Công nghị này cũng do đức cha Lambert de la Motte, vị giám quản đầu tiên của giáo phận Nam Kỳ (1659-1679), chủ tọa. Công nghị đã chú trọng đến đời sống tín hữu, sự tổ chức những giáo sở và những họ đạo. Chính vì thế, bên cạnh những nghị quyết về hôn nhân, ban hành các bí tích, còn có những nghị quyết liên quan đến định chế của quí chức họ đạo, những nghị quyết về những bổn phận của quý chức. Chúng ta có thể lược tóm như sau:
Cần thiết phải chọn lựa những quí chức cho những họ đạo tương đối đông đảo. Quí chức phải là những tín hữu đức hạnh và khôn ngoan.
Nhiệm vụ của quí chức trong những khi vị linh mục và các thầy giảng vắng mặt là chăm lo trước tiên những buổi cầu nguyện, rao lịch những ngày kiêng thịt, dạy giáo lý, thăm viếng bệnh nhân, rửa tội cho trẻ em và người lớn, tuy nhiên chỉ rửa tội cho người lớn sau khi biết rõ tình trạng hôn phối của họ, quản lý sổ hôn phối và sổ tử, giúp đỡ tín hữu sống Phúc Âm.
Như thế, vai trò và nhiệm vụ của quí chức đã được thừa nhận và qui định bởi giáo quyền. Họ không chỉ là những tín hữu đức hạnh, mà còn là những cộng tác viên của linh mục, những ông trùm của họ đạo. Trong thời buổi cấm cách, trong lúc thiếu vắng linh mục, họ là những người thay thế để củng cố và làm vươn tiến sinh hoạt họ đạo về mặt thiêng liêng, luân lý đạo đức cũng như về mặt vật chất (14).
II. NHỮNG HY SINH QUẢNG ĐẠI CỦA QUÍ CHỨC TRONG THỜI CẤM ĐẠO
Lịch sử xác nhận rằng từ năm 1670 đến năm 1884, nghĩa là từ công nghị Bắc Kỳ cho đến cuốn “Chức Sở Mục Lệ” được đức cha Colombert ấn hành, giáo dân trải qua nhiều cuộc bách hại khắc nghiệt. Nhưng chính trong những thời kỳ khó khăn nhất này của lịch sử kitô giáo việt nam, chúng ta nhận ra sự cộng tác quảng đại và can đảm của quí chức vào thừa tác vụ của linh mục, hay đúng hơn, vào công cuộc truyền giáo, vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Không thể nêu lên tất cả những trường hợp lịch sử, chúng ta đành chỉ kể đến một vài trường hợp tiêu biểu nhất.
1) Bắt giam toàn bộ quí chức công giáo
Năm 1859: Vào khoảng trung tuần tháng 10.1859, chiếu theo các sắc lệnh của vua, quan triều tiến hành bắt giam những quí chức các họ đạo. Trên toàn quốc, những quí chức trên năm mươi tuổi bị lùng bắt. Nhà tù chẳng mấy chốc trở nên đầy ứ. Những tù nhân bất hạnh này không được vua cho cơm ăn, nên các thừa sai phải chu cấp cho họ.
Những cuộc bắt giam hàng loạt này đã làm sụp đổ cơ cấu tổ chức và gây hoảng loạn trong các họ đạo. Người ta khiếp sợ nghĩ đến những hành quyết sắp ập xuống trên những tù nhân này. Tiếng đồn về một cuộc tàn sát tận tuyệt đã loan truyền khắp các tỉnh thành.
Năm 1861: Tiếp đó, vào năm 1861, quan triều thi hành sắc lệnh phát vãng toàn diện: Những quí chức bị bắt giam cầm từ hai năm nay và tất cả giáo dân trai tráng đều vắng bóng, trong các làng chỉ còn những người già cả, tàn tật,đàn bà, con nít và một vài người bần cùng, vì bị quên sót hay được ân huệ.
Lúc này, quan triều lùng bắt khắp nơi. Rút kinh nghiệm, họ bắt giam cả những tín hữu đã bỏ đạo, bởi vì, theo nhà vua: “Chúng không thành thực bỏ đạo và vẫn mê muội với giáo thuyết sai lạc của chúng”. Vào tháng 5.1860, đức cha Lefebvre viết về tình hình ở Sài Gòn: “Những cuộc bắt bớ tại khắp nơi gia tăng gấp đôi cường độ. Chưa từng bao giờ trong vòng một năm lại có nhiều người tuyên xưng đạo và nhiều người tử vì đạo đến như vậy. Hiện tại, tôi đang có 396 tín hữu bị rên xiết dưới gông cùm và xiềng xích ngục tù! Con số này còn gia tăng trong suốt các năm 1860 và 1861 với sự bắt giam những quí chức của các họ đạo thuộc giáo phận” (15).
Nới rộng nhà tù: Cũng trong thời ấy, 1659-1661, về phía Bắc Sài Gòn, Giáo Hội Chúa Kitô tại một quận của tỉnh Biên Hòa đã khai sanh đông đảo các vị tử đạo. Tại đây, những quí chức của các họ đạo Tân Triêu, Mỹ Hội, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một và vùng phụ cận, bị giam giữ trong một ngục thành mà có ngay con số tín hữu tù nhân đếm được tới 600 người. Rốt cuộc, khi không thể chứa thêm, quan triều có một phương cách khá đơn giản để nới rộng nhà tù, đó là đem đi chặt đầu những người bị bắt giam (16).
Theo cha L. H. Louvet, con số quí chức bị bắt giam trên toàn quốc lúc đó lên tới khoảng mười ngàn người. Hơn một nửa trong số đó đã chết vì đức tin, có những người bị chém đầu theo án xử thường lệ, có những người bị thiêu sống tập thể, bị chôn sống, bị cột đá ném xuống sông hay xuống biển. Một số rất đông, nhất là ở Bắc Kỳ, bị bỏ chết đói. Đàng khác, trên hai ngàn họ đạo bị phá hủy, động sản và bất động sản, ruộng nương, nhà cửa, vườn tược đều bị tịch thu cấp cho lương dân lân cận (17).
2) Một vài dẫn chứng đặc biệt
Vào năm 1647, tại tỉnh Quảng Bình, sáu tín hữu bị bắt giam, hai người trong số đó bị tử hình: Một người là Alexis, quan võ trong đạo quân triều đình. Người kia là ông trùm họ đạo, tên là Augustinô (18).
Ngày 9.1.1665, Chúa Hiền Vương cho quân lùng bắt giáo dân họ đạo Dinh Cát, trong số đó có ông trùm Têphanô và sáu người đàn anh trong họ bị lên án chặt đầu (19).
Ngày 9.12.1888, tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Cái Mơn bị một toán quân xâm nhập. Sau khi cướp phá, chúng tra gông cùm các ông trùm trưởng, nữ tu bề trên Matta Lành và nữ tu Elisabeth Ngộ, rồi dẫn điệu họ về Vĩnh Long. Đồng thời, chúng bắt giam 5 người trong số những quí chức của các họ đạo vùng Cái Môn. Một trong những quí chức, ông Gioan Hoan, là trùm của họ đạo và lý trưởng của làng, ông đã tuyên chứng một đức tin bất khuất (20).
Vào năm 1859: Vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 1.1859, họ đạo Dầu Nước, vùng phía Tây miền truyền giáo, bị một toán ít ra là ba trăm quân lính xâm nhập giữa đêm khuya. Họ đạo này bị tố lên quan triều tỉnh Châu Đốc về tội chứa chấp một giáo sĩ thừa sai Âu Châu, một linh mục Việt Nam, có một tu viện và một thánh đường xinh đẹp. Vị thừa sai nói đây không ai khác là cha M. Pernot, trở về làm giám đốc chủng viện ở Paris vào cuối năm 1860. Sự tận tâm của ông trùm Lý Phụng đã đưa cha M. Pernot vượt thoát. Nhưng khi trở về, ông Lý Phụng bị quân hầu bắt trói. Ngày 13.7.1859, ông Lý Phụng và cha Quy bị kết án tử hình. Ngày 13.2.1879, cả hai vị được đức giáo hoàng Léon XIII tuyên phong bậc Đáng Kính, (21) đức giáo hoàng Piô X suy tôn bậc Chân Phước, ngày 02.05.1909 và đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc Hiển Thánh ngày 19.06.1988.
MỤC III
KHÔNG NHỮNG ĐƯỢC TỔ CHỨC
MÀ CÒN ĐƯỢC ĐỊNH CHẾ HÓA
(1884-1934)
I. CHA COLOMBERT ẤN HÀNH CUỐN “CHỨC SỞ MỤC LỆ”
1) Cha Colombert, giám mục Sài-Gòn
Cha Colombert thuộc giáo phận Laval, ngài sinh ngày 20.3.1838, chịu chức linh mục ngày 30.5.1863. Sau khi chịu chức, cha được các bề trên phái đi thừa sai ở Sài Gòn. Trước tiên ngài được gửi đến Mạc Bắc để học tiếng Việt dưới sự hướng dẫn của một linh mục Việt Nam. Sau chín tháng, vào đầu năm 1864, cha được bổ làm phụ trách giáo xứ Cái Nhum, một họ đạo lớn trong tỉnh Vĩnh Long. Năm sau, cha Colombert được đức cha Miche giáo phận Sài Gòn gọi về làm bí thư riêng của ngài và làm quản lý nhà chung. Ngài giữ hai chức vụ này cho tới năm1872, khi được bổ nhiệm làm giám mục. Năm ấy ngài mới 35 tuổi, ngài hăng say phục vụ giáo phận cho đến mãn đời. Đức cha Colombert được nghỉ yên trong Chúa vào năm 1895 (22).
Ba công trình chính mà cha Colombert đã thực hiện cho giáo phận của ngài là: Tái thiết hai chủng viện (23), xây cất nhà thờ chính toà (24), và tiếp tục công trình tổ chức các họ đạo và Hội Đồng Quí Chức (25). Công trình thứ ba này được khởi sự bởi đức cha Lefebvre (1861-1865) và đức cha Michel (1865-1872), và được tiếp tục đẩy mạnh bởi đức cha Colombert. Theo cha L. Louvet, sau thời bách hại dai dẳng và chiến tranh loạn lạc, tình trạng các họ đạo thật bi thảm: chính vì vậy, nói trắng ra là tất cả đều phải làm lại từ đầu. Phải trấn an những người tân tòng, thiết lập lại các họ đạo bị phân tán đến phân nửa hoặc đến ba phần tư, tái lập việc thờ phượng cộng đồng từ ròng rã năm năm bị gián đoạn khắp nơi, xây dựng các nhà thờ tạm thời, các nhà xứ, các tu viện cho hàng trăm nữ tu phải tạm trú ở gia đình họ...
2) Cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ của đức cha Colombert
Sáng kiến đặc biệt nhất của đức cha Colombert trong việc tổ chức lại các họ đạo chính là việc ấn hành vào năm 1884 cuốn “Chức Sở Mục Lệ”. Đứng về phương diện lịch sử và mục vụ, đây là một tài liệu rất quan trọng. Người ta có thể nói rằng bản Qui Luật này rất thực tế, chính xác và đầy đủ ít nhất là đối với thời đó. Bản Qui Luật nói rõ tất cả những gì liên quan đến vai trò và mục đích của Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo, cũng như tất cả những gì quí chức phải làm để cộng tác với linh mục trong việc điều hành một họ đạo và việc truyền giáo cho lương dân. Bản Qui Luật thu tập tất cả những ứng dụng truyền thống của việc tổ chức hàng ngũ quí chức trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam và hệ thống hóa thành những điều lệ rõ ràng. Cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert còn là một khuôn thước mẫu mực cho mọi sáng kiến tái tổ chức cơ cấu mục vụ của những họ đạo Việt Nam vào sau thời kỳ cấm cách.
Hơn nữa, cho tới năm 1953, đức cha Ngô Đình Thục, giám mục giáo phận Vĩnh Long, trong chương trình tái tổ chức những họ đạo trong giáo phận của ngài, ngài cũng chỉ ứng dụng cho Hội Đồng Quí Chức của mỗi họ đạo chính bản Chức Sở Mục Lệ được biên soạn bởi đức cha Colombert với một vài tu chính nhỏ (26).
Nói tóm lại, với cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert sọan, Hội Đồng Quí Chức của họ đạo tại Việt Nam thật sự là một thực thể có tổ chức và có định chế. Trở thành một Hiệp hội trong phong trào Công Giáo Tiến Hành với danh hiệu “Hội Đồng Quí Chức“.
3) Trình bày tổng quát cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’
Ấn bản đầu tiên của cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ không còn tìm thấy. Dù vậy, chúng ta có một bản văn đáng tin là trung thực, được in trong cuốn “Thiên Chúa Thánh Giáo Nhựt Khóa Chúa Nhựt Pháp” từ trang 629 đến trang 660, Sài Gòn 1898 (27). Đây là cuốn sách Kinh Nguyện mà mỗi một quí chức đều phải có. Mỗi quí chức đến nhà thờ luôn luôn có trong tay cuốn sách này, nhất là vào phiên của mình chủ xướng kinh nguyện cộng đoàn. Theo bản văn này, cấu trúc cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ gồm có ‘TỰA’ tức là phần dẫn nhập và 70 điều nằm trong 5 ĐOẠN. Chúng ta phân tích sơ lược như sau: (28)
CHỨC SỞ MỤC LỆ, TỰA: Trang mở đầu xác nhận, theo truyền thống và một cách thực dụng, việc tổ chức cơ cấu những quí chức đã có ngay từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam; trình bày những lý do đưa đến sự biên soạn và ấn hành cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’; nói đến bổn phận của các chức sở phải đọc cho kỹ và giữ cho đúng những điều viết trong cuốn Chức Sở Mục Lệ, và đến phần thưởng đời đời dành cho những người tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên.
ĐOẠN THỨ NHỨT: ‘Nói về sự bầu cử chức sở là có ý nào’, nghĩa là ‘nói về ý nghĩa của sự chọn lựa những quí chức của họ đạo’ (Đ.1-4): Khi xưa Chúa Kitô chọn 72 môn đệ, ngày nay theo gương Ngài, các bề trên trong Giáo Hội cũng tuyển chọn các quí chức (Đ.1); trước hết để các linh mục có những cộng tác viên và giáo dân có những gương mẫu (Đ.2). Mặc dù những quí chức không thể chờ đợi gì về những mối lợi lộc vật chất bởi phẩm chức của họ, họ biết rằng sự quan trọng của những gì là siêu nhiên vượt hơn những gì là thế tục, phẩm chức của họ đáng được quí trọng hơn tất cả những phẩm chức thế tục (Đ.3). Vậy thì, những người tham dự vào phẩm chức của họ đạo có thể là những chức sắc của thôn làng hay của những chức vị phần đời khác (Đ.4).
ĐOẠN THỨ HAI: “Nói về sự bầu cử chức sở cùng số chức sở trong mỗi họ là bao nhiêu” (Đ.5-12): Quí chức được phân biệt ra nhiều cấp bậc: trong họ đạo lớn thì có các ông Trùm phủ, Trùm nhất, Trùm nhì; trong họ đạo nhỏ thì có các ông Câu nhứt, Câu nhì; trong mỗi họ đạo lớn hay nhỏ đều có Biện việc, Biện sở và Giáp. Các ông biện phụ tá ông trùm và ông câu; còn ông giáp là người đặc trách một khu hay một xóm (Đ.5). Mỗi chức sở (quí chức) phải được bầu cử bởi giáo dân hay bởi những thành viên của Hội Đồng Quí Chức, sau đó phải được cha xứ tán thành. Quí chức cấp cao còn được đức giám mục cấp bằng (Đ.6). Để là ứng viên, thứ nhứt phải ‘có công làm giáp một ít năm’; thứ hai ‘phải đặng chừng 30 tuổi’; thứ ba, ‘cách ăn nết ở phải hiền từ đức hạnh, danh thơm tiếng tốt’; thứ bốn, phải thông hiểu lẽ đạo cho đặng dạy dỗ người ta những điều cần kíp’; thứ năm, phải ‘giữ đạo cho chín chắn’; thứ sáu, ‘phải biết đọc cùng biết viết chữ quốc ngữ hay là chữ nôm’ (Đ.7). Các chức sở đã được đức giám mục cấp bằng thì chỉ có thể bị truất chức bởi đức giám mục (Đ.8); Người làm giáp thì cha xứ có quyền chọn và cấp bằng, nên ngài cũng có quyền cất chức khi có lý do chính đáng. Người làm giáp ít nhất phải đủ hai mươi lăm tuổi (Đ.9). Sĩ số quí chức tùy thuộc tầm quan trọng của mỗi họ đạo: Họ đạo trên một ngàn giáo dân, có thể đặt hai ông trùm, hai ông câu và mười hai ông biện tùy theo trong họ đạo có nhiều xóm hay ít xóm; còn họ đạo có dưới một ngàn giáo dân và có cha sở, thì chỉ cần đặt một ông trùm, hai ông câu và chín ông biện; còn những họ đạo không có cha sở thì phải có một ông câu và bốn ông biện. Riêng số ông giáp thì tùy cha bổn sở (Đ.10). Họ nào muốn thêm sỉ số các chức sở như đã ấn định thì phải xin phép đức giám mục (Đ.11). Hiện nay họ đạo nào quá sỉ số các chức sở, thì cứ giữ nguyên, nhưng khi một chức sở qua đời thì không được thay thế (Đ.12).
ĐOẠN THỨ BA: “Nói về chức phận mỗi một người trong hàng chức sở” (Đ.13-18):
Chức phận trùm phủ: chức trùm phủ dành cho người có công nghiệp đối với họ đạo hay với nhà chung. Người có chức trùm phủ được đức giám mục đặt cử nên là bậc đàn anh trên hết các chức sở của họ đạo và trong cả giáo phận (Đ.13).
Chức phận ông Trùm họ (trùm nhất): Ông là người đứng đầu cả họ, cả Hội Đồng Qúi Chức trong họ, dưới quyền của cha sở. Ông phải làm gương tốt cho mọi người (Đ.14); Ông chủ sự đọc kinh trong nhà thờ và các buổi hội qúy chức trong họ (Đ.15), lo giữ bầu khí hoà thuận trong họ, phân xử các vụ xích mích, và trình lên cha sở mọi công việc (Đ.16). Nhiệm kỳ của trùm nhất là mãn đời, khi ông đau yếu thì trùm nhì thay thế (Đ.17). Khi ông qua đời, phải đợi đủ ba tháng mới bầu ông trùm thay thế và xin đức giám mục phát bằng bầu cử (Đ.18). Ông trùm nhì được quyền làm các việc như trùm nhất, khi ông này vắng mặt hay đau yếu (Đ.19).
Chức phận câu họ: Trong họ lớn thì câu họ (trùm nhì) có phận vụ như vừa nói trên, còn trong họ nhỏ thì chức vụ câu cũng giống chức trùm nhất (Đ.20). Vừa khi bầu cử xong, cha sở phải xin đức giám mục cấp bằng cho câu họ (Đ.21). Nhiệm vụ đặc biệt của câu họ là lo quán xuyến của cải trong họ, vườn và ruộng nhà chung, nhất là việc thu tiền cho mướn ruộng đất (Đ.22). Ông còn phải quan tâm việc giữ sạch sẽ bên trong bên ngoài nhà thờ và đất thánh (Đ.23). Tóm lại, câu họ (trùm nhì) được đặt lên là để giúp đỡ câu nhứt (trùm nhứt) nên có quyền lợi và phận vụ như trùm nhứt (Đ. 24).
Chức phận Biện việc: Tức ủy viên tài chánh, là người làm việc trực tiếp dưới quyền cha sở hay ông trùm nhất để lo việc xuất phát (chi tiêu) của nhà thờ (Đ.25). Ông được các chức sở trong họ bầu lên với nhiệm kỳ một năm (Đ.26). Ông biện việc phải lo sắm sửa các đồ thờ phượng trong nhà thờ, lo việc chi tiêu và tiền còn lại nộp về cha sở (Đ. 27). Ông phải làm sổ sách nghiêm chỉnh và trình sổ với các chức sở và cha sở vào ngày lễ hai thánh Phêrô và Phaolô mỗi năm (Đ.28). Ông phải làm việc dưới quyền cha sở và mỗi lần nhóm họp, chính ông phải mời các chức sở tới (Đ.29).
Chức phận Biện sở: Mỗi họ đạo chia ra nhiều xóm và mỗi xóm có một biện sở trách nhiệm (Đ.30). Biện sở như ‘con mắt của cha sở’ để lo toan mọi việc trong xóm, phải trình ngài mọi vụ việc, nhất là khi có gương xấu xảy ra (Đ.31). Do đó phải làm gương tốt và giữ đạo sốt sắng (Đ.32). Cụ thể là phải đi dự các giờ phụng tự trong nhà thờ, như nghe giảng, học sách phần, đọc kinh, dâng lễ, siêng năng đọc kinh sáng tối (Đ.33). Khi cha sở muốn gặp ai, biện sở phải tìm người đó đến. Phải luôn nhớ mình là người thay mặt cha sở và bổn đạo trước mặt Chúa (Đ.34).
Biện sở phải học biết cách rửa tội để khi cần kíp thì rửa tội, khi có trẻ em sinh ra đã ba ngày hay người lớn cần rửa tội thì trình cha sở (Đ.35), phải cắt nghĩa cho cha mẹ và người đỡ đầu biết những việc họ phải làm (Đ.36); lại phải giúp đỡ và liên hệ với những ‘mụ bà’ hay ‘phô ông làm thầy thuốc’ thường đi rửa tội cho trẻ em ngoại giáo (Đ.37 và 39-40). Biện sở phải sốt sắng dạy giáo lý cho bổn đạo và truyền giáo cho lương dân; nếu cần phải giúp họ có cơm ăn áo mặc, nhà ở, cả sau khi họ đã chịu phép rửa tội. Do đó cần đi dự các giờ giáo lý cha sở dạy (Đ.38). Biện sở phải làm sổ những người xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh, những trẻ em Rước lễ lần đầu, chịu Phép xức trán, những thanh niên chưa rước lễ hay chưa chịu xức trán, những cặp vợ chồng rối, những người mới nhập họ (Đ.41). Biện sở phải quan tâm nhắc nhở những cha mẹ lơ là trong việc giáo dục con cái, bỏ bê việc dạy kinh bổn cho con cái, hay có con đã lớn mà chưa xưng tội hoặc chưa chịu xức trán; cũng phải nhắc nhở cho các vú bõ nhớ phận vụ của họ (Đ.42).
Khi có người đau yếu, biện sở phải năng thăm viếng, rước linh mục về ban phép Xức dầu cho họ (Đ.43). Khi linh mục kiệu Mình Thánh đến, biện sở phải lo bày bàn thờ, cùng đọc kinh với những người thân cận gia đình, giúp bệnh nhân dọn mình… (Đ.44). Khi bệnh nhân qua đời, biện việc lo tránh các tục dị đoan, mà theo sách Tử Hầu giúp gia đình tổ chức lễ an táng đúng theo phép Hội Thánh. Sau đây là những việc không được làm trong việc tống táng: - phải chôn xác nội trong ba ngày, - không được tổ chức ăn uống linh đình, - không đốt pháo, chơi nhạc, - không được cầu hồn chung trong tư gia, mà phải tổ chức ở nhà thờ họ, - phải ăn mặc chỉnh tề, không khóc lóc, không ăn trầu hút thuốc trong khi cử hành lễ an táng, - không om xòm, nhưng thinh lặng, đọc kinh cầu nguyện và tỏ lòng cung kính (Đ.45). Riêng việc cưới hỏi, biện việc phải nhắc người ta giữ đủ ba lễ: lễ bỏ trầu cau, lễ hỏi và lễ cưới, và dĩ nhiên lễ bỏ trầu cau ít trọng hơn lễ hỏi và lễ hỏi ít trọng hơn lễ cưới. Nếu thấy có một bên đòi hỏi quá lẽ công bằng, biện việc phải khuyên răn, bằng không được thì phải trình cha sở. Việc làm dâu sau ngày cưới cũng vậy (Đ.46). Gần ngày cưới, đôi bạn và cha mẹ phải được biện sở dẫn tới cha sở để xin rao ba lần và để dọn mình xưng tội và làm phép cưới chứ không trì hoãn (Đ.47). Ngày lễ cưới, biện sở phải lo chuẩn bị bàn thờ, nhẫn, nến cho đôi bạn. Sau ngày lễ phải lo sổ sách cẩn thận và đem nộp tờ hôn thú cho làng xã (Đ.48). Biện sở phải nhắc cho hai gia đình biết: lễ ở nhà thờ, tại gia đình và việc đưa dâu về nhà chồng phải làm xong trong một ngày, và phải coi bí tích hôn phối trọng hơn việc cưới đời. Trong bữa tiệc cưới, lẽ thường biện việc được mời tới dự, ông phải lo tránh mọi hình thức dị đoan (Đ.49). Bây giờ không còn được cử hành hôn phối trước mặt mấy chức việc làm chứng nữa, trừ khi hoàn cảnh không thể mời được linh mục (Đ.50).
Biện việc lại lo cho trong họ tránh khỏi gương xấu: vì cảnh rối vợ rối chồng, vì người chồng có vợ bé, vì vợ chồng chia rẽ nhau, cảnh cờ bạc, nghiện ngập, cho vay ăn lãi nặng, làm việc xác ngày chúa nhật, vì bỏ bê con cái. Nếu khuyên răn không được, phải trình lên cha sở (Đ.51). Biện sở phải quan tâm giúp đỡ những người già yếu, khó nghèo, những kẻ bị sa cơ, thất thế… Bằng trong họ không ai giúp được thì phải trình cha sở (Đ.52).
Thi hành phận vụ như vậy, biện sở vừa phải nhiệt tâm vừa phải khiêm tốn, không kiêu căng và hằng nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Ai làm lớn phải trở nên bé nhỏ, và phục vụ mọi người” (Mt 10,43-44). Phục vụ như vậy, bây giờ biện sở được vui trong lòng và ngày sau sẽ được thưởng bội hậu (Đ. 53).
Chức phận người làm Giáp: Giáp là phó biện, chuẩn bị để nhập hàng chức sở. Cha sở chọn và cấp bằng cho Giáp (Đ.54). Biện sở có quyền đề nghị thêm ông giáp giúp đỡ mình (Đ.55). Phận vụ của ông giáp là phụ tá biện sở. Vì thế trong các buổi hội chức sở, giáp có thể tham dự mà không có quyền bàn luận (Đ.56).
ĐOẠN THỨ BỐN: “Nói về những quyền lợi riêng trong hàng chức sở”: Danh tánh và ngày được thăng cấp của một quí chức phải được ghi chú trong một sổ bộ đặc biệt (Đ.57); Tại nhà thờ, quí chức được ngồi ở hàng ghế giữa, người làm giáp quỳ trên hết và ông trùm quỳ sau hết (Đ.58): khi không có cha sở, các chức sở được quyền rao lịch, đọc thông báo và chủ xướng kinh hạt (Đ.59). Các chức sở hội chung với cha sở để bàn tính mọi công việc trong họ (Đ.60). Các chức sở thay phiên nhau đi dự cấm phòng do đức giám mục tổ chức (Đ.61). Khi chức sở qua đời, họ đạo sẽ lo việc mai táng (Đ.62), riêng ông trùm sẽ được họ đạo xin cho ba lễ và ông giáp được một lễ (Đ.63). Hàng năm vào tháng các Đẳng, họ đạo xin một lễ cầu cho các chức sở đã qua đời (Đ.64).
ĐOẠN THỨ NĂM: “Nói về những người xin thôi làm chức sở cùng những người phải cất chức”: Khi một chức sở muốn xin thôi làm việc, phải thưa mọi lẽ với cha sở để ngài trình lên đức giám mục và tìm người thay thế. Chỉ khi được đức giám mục chấp nhận và nộp bằng lại cho ngài, lúc ấy mới chính thức thôi việc. Trường hợp một chức sở đi qua họ đạo khác thì không còn là chức sở nữa, trừ khi được đức giám mục nhận cho làm chức sở trong họ đạo mới tới (Đ.65). Chỉ các chức sở xin thôi làm việc cách chính đáng mới có thể được phục nhiệm bởi đức giám mục (Đ.66).
Những người kể sau đây không được làm việc họ đạo: - Người hám quyền chức mà không lo bổn phận – Người bỏ Mùa Phục Sinh – Người rối vợ hay mê đắm dục tình – Người kiện việc đạo ra tòa đời – Người không vâng lời cha sở hay ông trùm trong vụ việc quan trọng – người làm nhục cách nặng hay đánh đập một chức sở – Người nghiện rượu, cờ bạc, thuốc phiện – Người kiện tụng trái lẽ công bằng - Người cho vay ăn lãi quá đáng, hay đồng lõa với đảng cướp (Đ.67). Một chức sở vấp phải những lỗi lầm trên đây, cha sở và hàng chức sở phải khuyên nhủ và cảnh cáo đôi ba lần trước, nếu chức sở đó không nghe và sửa mình, thì cha sở và hàng chức sở phải cách chức họ (Đ.68). Nếu chức sở làm điều lỗi nặng và công khai, thì sau khi đã hối cải, còn phải xin lỗi công khai là tùy tiện, nghĩa là phải lạy tạ lỗi họ đạo và hàng chức sở (Đ.69).
Sau cùng, mỗi năm một lần, vào dịp lễ thánh Phêrô và Phao lô, các quí chức phải được học tập về cuốn Chức Sở Mục Lệ này (Đ.70).
Như chúng ta đã nói ở trên, cuốn Chức Sở Mục Lệ được soạn thảo và ban hành bởi đức cha Colombert là một văn bản rất quan trọng. Chúng ta có thể thêm rằng những thư chung của các vị giám mục kế vị, về căn bản, không đem thêm điều gì mới vào những điều đã được đức cha Colombert trình bày. Tỷ dụ, trong một thư chung năm 1954 về Công Giáo Tiến Hành, đức cha Isidore Dumortier đã chép lại nguyên văn những điều 3 và điều 38 của cuốn Chức Sở Mục Lệ để nêu lên mục đích của Công Giáo Tiến Hành và mối tương quan của tổ chức này với thừa tác vụ của linh mục. Sau cùng ngài kết luận: “những điều khoản của cuốn Chức Sở Mục Lệ được soạn ra đã 50 năm nay cho quí chức, hầu như cũng được soạn cho cả những thành viên của Công Giáo Tiến Hành. Vậy, để thiết lập trong mỗi họ đạo những cơ cấu Công Giáo Tiến Hành theo nguyện vọng của đức giáo hoàng, các linh mục chỉ cần nhấn mạnh cho quí chức về lòng nhiệt thành lớn lao đối với phần rỗi của các linh hồn, nhắc nhủ họ tuân giữ những điều được ghi trong cuốn Chức Sở Mục Lệ. Việc đọc lại vài điều của cuốn Chức Sở Mục Lệ trong mỗi buổi họp các quí chức là điều rất ích lợi” (29).
II. THƯ CHUNG NĂM 1899 CỦA ĐỨC CHA P. M. GENDREAU
1) Cảm hứng từ cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert
Tầm quan trọng của cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert soạn thảo, còn giữ một chỗ ngồi rất độc đáo trong thư chung nói riêng về việc tổ chức các Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo của đức cha Pierre Marie Gendreau (đức cha Đông), giám mục giáo phận Hà Nội. Trong cùng một đường hướng tái tổ chức những cộng đoàn tín hữu sau thời kỳ bách hại, vào năm 1899, tức là 15 năm sau khi phát hành cuốn Chức Sở Mục Lệ tại Nam Kỳ, đức cha P.M. Gendreau đã gửi đến các cha xứ một thư chung quan trọng. Trong thư chung này, ngài vạch ra những qui luật chính cho sự tái tổ chức Hội đồng Quí Chức. Đem so sánh thư chung của đức cha P.M. Gendreau với cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert soạn, chúng ta thấy rõ rằng:
Cơ cấu tổ chức: Toàn bộ phương thức tổ chức Hội Đồng Quí Chức là đồng nhất cho giáo phận Bắc Kỳ cũng như cho giáo phận Nam Kỳ.
Mấy khác biệt: Chỉ có sự khác biệt về sĩ số và danh xưng của mỗi thành viên Hội đồng Quí chức. Tỷ dụ, người đứng đầu của họ đạo ở Bắc Kỳ được gọi là «Chánh trương», ở Nam Kỳ là «Trùm nhất». Người đứng đầu họ đạo nhỏ (họ nhánh, họ lẻ) ở Bắc Kỳ được gọi là «Trùm họ», ở Nam Kỳ là «Biện sở» v.v…
Lược tóm thư chung: Cấu trúc trình bày trong thư chung không được hợp lý và chi tiết bằng trong cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert. Với tựa đề là «bản Qui Luật của Hội Đồng Quí Chức», thư chung của đức cha P.M. Gendreau, sau phần dẫn nhập ngắn, gồm có 15 số, được lược tóm như sau:
+ Phần dẫn nhập: Tất cả các họ đạo đều phải có những quí chức để giúp đỡ linh mục trong việc phụng tự, ban bí tích, lo cho phần rỗi các linh hồn để có thể hy vọng một trật tự bền bỉ và vững chắc trong sinh hoạt cộng đoàn tín hữu vì vinh danh của đạo giáo và vì phần ích thiêng liêng của giáo dân. Vì thế, luôn luôn theo truyền thống có sự đặt định các người phụ trách những họ đạo chính, họ đạo nhỏ hay khu xóm. Một truyền thống đầy lợi ích cần được các họ đạo thực hiện.
+ Số 1: Những thành viên hội đồng quí chức
+ Số 2: Nhiệm vụ của mỗi thành viên
+ Số 3: Sự chọn lựa quí chức
+ Số 4: Phương thức bầu cử quí chức
+ Số 5: Quyền hưởng tuần phòng
+ Số 6: Quyền tiên chỉ
+ Số 7: Cuộc đầu phiếu và những đặc quyền
+ Số 8: Sự đóng góp nêu danh
+ Số 9: Những qui định về sự đóng góp
+ Số 10: Tài sản của họ đạo
+ Số 11: Những khoản chi của họ đạo
+ Số 12: Những việc đạo đức, cấm phòng
+ Số 13: Mời linh mục viếng kẻ liệt
+ Số 14: Những lễ tang
+ Số 15: khi có linh mục lưu trú ở cộng đoàn tín hữu
2) Một vài điểm mới
Mặc dù chịu ảnh hưởng rõ rệt bản văn của đức cha Colombert, thư chung của đức cha P.M. Gendreau cũng có vài điểm mới, tỷ như sự đóng góp nêu danh, sự luân phiên phụ trách những bữa ăn v.v... Đó là vì ở Bắc Kỳ có những tập quán mà ở Nam Kỳ không có. Đàng khác, thư chung của đức cha P.M. Gendreau đã đánh dấu một bước tiến lớn trong diễn tiến lịch sử của Hội Đồng Quí Chức ở Bắc Kỳ, giống như bước tiến quan trọng mà bản văn của đức cha Colombert đã chứng tỏ ở Nam Kỳ. Hơn nữa, thư chung của đức giám mục Hà Nội sẽ được bổ túc bởi những nghị quyết của Công Nghị đầu tiên giáo phận Bắc Kỳ vào năm 1900 (30).
III. CÔNG NGHỊ MIỀN ĐẦU TIÊN GIÁO PHẬN BẮC KỲ
Công nghị này được tiến hành từ ngày 10.2.1900 đến ngày 6.3.1900 tại giáo phận Hải Phòng (Tonkin Oriental), dưới sự chủ tọa của đức cha Joseph Terres (Hiên), cùng với sự tham dự của sáu vị giám mục miền Bắc Kỳ và bảy cha chính của bảy giáo phận (31). Công nghị đã đưa ra nhiều nghị quyết liên quan đến sự cộng tác của giáo dân, nhất là sự cộng tác của quí chức đối với linh mục như được diễn thuật dưới đây.
«Trong mỗi họ đạo phải có hai quí chức, được bầu ra bởi chính giáo dân trong họ đạo và được cha xứ tán thành. Họ là những người có danh thơm và hạnh kiểm tốt để nhân danh và thay thế linh mục chăm sóc họ đạo, bảo tồn và quản trị nhà thờ và những tài sản: Họ chăm lo mọi sinh hoạt của họ đạo cho tốt đẹp: quán xuyến các lớp giáo lý, phân xử những tranh tụng nhỏ giữa các giáo dân, nhắc nhủ giáo dân tuân giữ luật lệ trong họ đạo, điều khiển những buổi cầu nguyện chung trong nhà thờ ít ra là vào những ngày chủ nhật và lễ trọng, đọc thông báo và rao lịch phụng vụ, nhắc nhở ngày giữ chay và kiêng thịt… nhất là khi các thày giảng vắng mặt,ân cần viếng thăm các bệnh nhân trong họ đạo và kịp báo cho linh mục trường hợp có người bệnh nặng để ngài đến ban các bí tích cho bệnh nhân. Về phía cha xứ, ngài phải yểm trợ tối đa những quí chức thuộc quyền. Quí chức có bổn phận báo cho linh mục biết những sự lạm dụng nếu có trong cộng đoàn, thông tin về những đôi bạn sắp thành hôn, những tranh tụng và cãi lộn giữa các gia đình tín hữu, tắt một lời, về tất cả những gì phải làm cho đời sống của họ đạo được tốt đẹp mọi bề» (32).
Đàng khác, Công Nghị muốn các cha xứ bổ nhiệm một vài quí chức (nam hay nữ, đạo đức, học thức) làm phận sự người quản giáo chuyên lo cho các trẻ em nghiêm trang và sốt sắng trong nhà thờ, dạy chúng về giáo lý và cách cầu nguyện (33); một vài quí chức khác lo việc quản trị tài sản của cộng đoàn tín hữu và của nhà thờ (34); chọn lựa và huấn luyện người (nam hay nữ) lo việc rửa tội khi khẩn cấp (35). Tuyệt đối, cha xứ không được đánh phạt giáo dân bằng roi hay xử phạt họ theo kiểu cách ngoài đời (36).
IV. CÔNG NGHỊ MIỀN LẦN THỨ HAI GIÁO PHẬN BẮC KỲ
Vào năm 1912, dưới sự chủ tọa của cha P.M. Gendreau, giám mục Hà Nội (Tonkin occidental), công nghị miền lần thứ hai tụ họp tại Kẻ Sơ. Hầu như tất cả các vị giám mục những giáo phận Bắc Kỳ đều tham dự. Công nghị này không có mục đích đặc biệt nào khác là bổ túc những nghị quyết của công nghị năm 1900. Bản văn chính thức cho thấy không có điều gì mới, cũng một cấu trúc và cũng những đề mục như trong bản văn của công nghị đầu tiên (37). Và trong đề mục sau cùng «De cura christianorum» mới nói một chút về các Quí Chức. Cấm các cha xứ không được bãi nhiệm ông chánh trương của giáo xứ (38), không được thành lập những họ đạo mới, không được phân chia giáo xứ thành những họ lẻ khi không có giấy phép của đức giám mục (39).
Không ai có thể phủ nhận những cố gắng đáng kể của các giám mục ở Việt Nam trong sự tổ chức lại những cộng đoàn tín hữu sau thời kỳ bách hại. Nhờ những cố gắng này mà vai trò, sự tuyển chọn, những nhiệm vụ cũng như quyền lợi của các quí chức được qui định rõ rệt và được định chế hóa. Tuy nhiên, những cố gắng này còn hạn định trong mỗi giáo phận hay đúng hơn là trong mỗi miền, Bắc Kỳ hoặc Nam Kỳ. Trong khi tôn trọng những sáng kiến riêng của mỗi miền, người ta chờ đợi một chỉ thị chung thực thi trên toàn quốc, hay đúng hơn, áp dụng cho toàn thể Giáo Hội Việt Nam, liên quan đến mọi phương diện đời sống Giáo Hội và cách riêng, cho việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức trong các họ đạo. Nguyện vọng này sẽ được thực hiện bởi Công đồng Đông Dương (Indochine) năm 1934, dự kiến thích nghi sự tổ chức Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo theo cơ cấu của Công Giáo Tiến Hành.
MỤC IV
ĐƯỢC THÍCH ỨNG THEO
ĐỊNH CHẾ CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH
(1934 - 1953 )
I. CÔNG ĐỒNG ĐÔNG DƯƠNG
1) Công nghị quan trọng nhất tại Việt Nam
Công đồng Đông Dương năm 1934 là công nghị quan trọng nhất được cử hành tại Việt Nam. Công đồng hội tại Hà Nội, thủ đô của Bắc Kỳ, từ ngày 17.11.1934 đến ngày 6.12.1934. Công đồng được triệu tập và chủ tọa bởi đức tổng giám mục Columban M. Dreyer O.P., Khâm sứ Tòa Thánh. Tất cả các giám mục Việt Nam, Cao Miên và Lào hiện diện cùng một số đông linh mục. Công đồng hoạt động qua 5 ủy ban chuyên đề. Liên quan mật thiết đến công việc khảo cứu của chúng ta là ủy ban thứ tư, vốn đã nghiên cứu về tình trạng các giáo phận, công việc thuyết giảng, công việc dạy giáo lý, các trường học và Công Giáo Tiến Hành.
Bản văn Công đồng cho thấy nhiều nghị quyết liên quan đến Hội Đồng Quí Chức của họ đạo. Cần thiết phải nhận ra rằng chủ đích của Công đồng là thích ứng việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức vào định chế Công Giáo Tiến Hành được gợi ý bởi đức giáo hoàng Piô XI (40). Lẽ tự nhiên, đó là một sáng kiến mục vụ lớn, vừa hữu lý vừa lợi ích; và là một sự canh tân thích đáng trong đường hướng làm cho sự cộng tác của giáo dân vào sứ vụ của linh mục được hữu hiệu hơn trong một xã hội tân tiến. Nhưng các nghị phụ công đồng đã tỏ ra thận trọng bằng cách giữ lại cấu trúc căn bản và truyền thống của các họ đạo. Chính vì thế, chúng ta không ngạc nhiên nhận thấy rằng những bản văn của Công đồng Đông Dương cũng như những thư chung của các giám mục hay những cuốn Chỉ Nam của mấy giáo phận luôn ăn khớp với nhau, tất cả đều lặp đi lặp lại những gì đã hiện hữu từ lâu trong đời sống họ đạo ở Việt Nam. Sự thực là chỉ có một vài thay đổi trong những điều chi tiết, ngoài ra toàn bộ cơ cấu của họ đạo và của Hội Đồng Quí Chức được giữ nguyên. Và đó lại thêm một lý do cho phép công việc khảo cứu của chúng tôi mở rộng đến năm 1953, năm mà cuốn Chức Sở Mục Lệ, được soạn thảo vào năm 1884 bởi cha Colombert, được nhuận sắc và ấn hành lại bởi đức cha Ngô đình Thục, giám mục giáo phận Vĩnh Long.
2) Những nghị quyết Công đồng Đông Dương
Công đồng dành chương VII của tập IV (41) để trình bày về đề tài «Hội đoàn Công Giáo Tiến Hành và những Hiệp hội giáo dân». Với tựa đề đó, chương này được chia làm 4 mục:
Mục I: «De natura Actionis Catholicae et de obligatione eam instituendi» (Bản chất Công Giáo Tiến Hành và bổn phận phải thiết lập), gồm 11 điều (Đ.356-366) với những điểm chính sau đây:
Mục đích của Công Giáo Tiến Hành: Qua hoạt động của Công Giáo Tiến Hành, những tín hữu nam cũng như nữ, nhất là giới trẻ, bằng cầu nguyện cũnh như bằng lời nói và việc làm, góp phần vào sự thăng tiến xã hội, sự thịnh vượng của tổ quốc, quan tâm quảng bá những huấn thị thánh thiện và lành mạnh của Phúc Âm, cộng tác với các giám mục và linh mục trong việc loan truyền đức tin và phát huy những điều thiện hảo của đức bác ái Kitô giáo dành cho tha nhân và cho xã hội (Đ.358).
Thích ứng cơ cấu của Hội Đồng Quí Chức vào việc tổ chức Công Giáo Tiến Hành. Tại các nước của chúng ta, thể chế cũ của Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo có thể được vận dụng vào việc tổ chức Công Giáo Tiến Hành (Đ.363). Thực vậy, những thể chế cũ đó rất hiệu lực trong việc giúp các thừa sai quản trị họ đạo về phương diện thiêng liêng cũng như thế tục, chúng có thể cũng lợi ích cho công trình củng cố đức tin người tín hữu và truyền bá đức tin cho lương dân, vốn là hai mục tiêu của Công Giáo Tiến Hành (Đ.364). Nếu những quí chức được tuyển chọn kỹ lưỡng, nghĩa là được huấn luyện, sống cương trực, công chính, đức hạnh và đạo đức, họ sẽ là thành phần ưu tú của cộng đoàn tín hữu, là hạt nhân cho sự hình thành Công Giáo Tiến Hành (Đ.365).
Mục II: « De Consociationibus Fidelium auxiliaribus Actionis Catholicae» (Những hiệp hội giáo dân trợ giúp Công Giáo Tiến Hành gồm 10 điều (Đ.367-376), những điểm mà chúng ta chú ý nhất là:
Mời gọi giáo dân tham gia những hiệp hội được Giáo Hội chấp nhận: «Để chuẩn bị cho các nước của chúng ta có 684) khi gia nhập hoạt động trong những hiệp hội được Giáo Hội thành lập hay chấp nhận (Đ.367). Vậy thì, Giáo Hội không nhìn nhận bất cứ một hiệp hội tín hữu nào mà một định chế Công Giáo Tiến Hành hùng mạnh, chúng ta phấn khích trước tiên mọi tín hữu, với điều kiện họ là những tín hữu công giáo đích thực như tên gọi, gia nhập các hiệp hội khác nhau tùy theo tuổi tác và hoàn cảnh xã hội của họ. Thực vậy, họ xứng đáng được khen ngợi (theo khoản không được thành lập hay ít ra được công nhận bởi giáo quyền hợp pháp, sau khi qui chế của hiệp hội được cứu xét bởi Tòa Thánh hay bởi bản quyền địa phương (Đ.368).
Những hiệp hội chính là: Tông đồ cầu nguyện (Đ.371), Nghĩa binh Thánh Thể (Đ.372), hội Con Đức Mẹ, hội Thánh Anna (Đ.373), hội Kinh Mân Côi, hội Thánh Thể, hội Thánh Tâm (Đ.374), Dòng ba Phan Sinh, Dòng ba Đa Minh (Đ.375).
Mục III: «De Actione Catholica proprie dicta ejusque organisatione» (Về sự tổ chức Công Giáo Tiến Hành đích thực) có 20 khoản (Đ.377-396), sau đây là những điều chính:
Thành lập các trung tâm giáo phận và xứ đạo «…Sau khi soạn thảo những qui chế, mỗi giáo phận phải lập nên và chỉ đạo một ủy ban giáo phận đặc trách cổ võ cho Công Giáo Tiến Hành trong khắp giáo phận. Cũng vậy, trong mỗi xứ đạo, một ủy ban giáo xứ được tuyển mộ từ những tín hữu xứng đáng nhất để phối hợp với cha xứ phụ trách những hoạt động của Công Giáo Tiến Hành trong xứ đạo. Tất cả những ủy ban vừa nói trên sẽ được hướng dẫn bởi một linh mục do giáo quyền liên hệ chỉ định (Đ.377)».
Chú trọng đặc biệt đến giới trẻ: «Phải thành lập một hiệp hội thanh thiếu niên công giáo trong các vùng công giáo, rất cần thiết và ích lợi cho đạo giáo và đất nước (Đ.378)».
Những tiêu chuẩn thu nạp: Trong các hội đoàn công giáo, nhất là các hội đoàn của giới trẻ, có thể thu nạp như là hội viên thường cả những người trẻ ngoài công giáo, nhưng phải khôn ngoan chọn lựa giữa những học sinh có hạnh kiểm tốt trong các trường học công giáo (Đ.379).
Mục tiêu sinh hoạt: Phải có những buổi hội hàng tháng để các hội viên học hỏi giáo lý, đào sâu đức tin, hun đúc lòng nhiệt thành tông đồ và thấm nhuần về mục đích của hội đoàn (Đ.380). Cần có linh mục hướng dẫn về đời sống đạo đức của hội viên (Đ.381), Nên tổ chức đại hội theo khuôn khổ từng hạt hay cả giáo phận, như đại hội Thánh Thể, đại hội Thánh Mẫu (Đ.382). Đặc biệt trong thành phố nên tổ chức các câu lạc bộ cho người trẻ để giúp họ hiểu và dấn thân vào hoạt động Công Giáo Tiến Hành (Đ.383). Lại cần có những hội Công Giáo Tiến Hành dành riêng cho nữ giới (Đ.384). Kêu gọi giáo dân nam nữ đoàn viên Công Giáo Tiến Hành tình nguyện dạy giáo lý phụ tá các linh mục và thày giảng (Đ.385), nhất là lấy lời cầu nguyện, lời nói và việc làm giúp việc truyền giáo (Đ.386).
Những hiệp hội truyền giáo: Hội Thánh Phêrô (c.387), Hội cầu nguyện cho các nước Đông Phương trở lại đạo (c.388), Hội thánh Vinh Sơn, Hội Từ Thiện (c.392).
Dưới sự chỉ đạo của hàng giáo phẩm: Nói vắn tắt, trong tất cả lãnh vực tôn giáo, dân sự và xã hội, Công Giáo Tiến Hành hoạt động cộng tác với và dưới sự chỉ đạo của hàng giáo phẩm (c.394).
Công Giáo Tiến Hành và vấn đề chính trị: Phải tuyệt đối tách rời khỏi Công Giáo Tiến Hành những vấn đề chính trị và đảng phái chính trị. Tuy nhiên, với tư cách riêng là người công dân, tín hữu công giáo được tự do gia nhập đảng phái chính trị nào có bản chất lương thiện và chính đáng, không có xu hướng lật đổ trật tự xã hội (c.395).
Soạn thảo quy chế: Một ủy ban sẽ được thiết lập để soạn thảo các quy chế Công Giáo Tiến Hành thích ứng cho từng quốc gia (Đ. 396).
Điều IV: «De libris et diaris etc» (Về sách báo và tài liệu… ) gồm 6 điều (Đ.397-402) trình bày cho chúng ta sự cần thiết và hiệu lực của việc phát hành sách báo công giáo (Đ.397-400), nhất là sách Kinh Thánh (Đ.401); nguyện vọng lập những thư viện (Đ.401), và một ủy ban đặc biệt phụ trách thẩm định giá trị sách báo đời và quảng bá nền văn hóa lành mạnh (Đ.402).
Trước khi xác định phần này, chúng ta phải nói thêm rằng, do tình hình chính trị và kinh tế của xứ sở đương thời gặp vô vàn khó khăn, những nghị quyết của Công Đồng Đông Dương (Indochine) không được thực hiện một cách có hiệu quả, mặc dù được lặp đi lặp lại trong những cuốn Chỉ Nam ấn hành tại Việt Nam từ sau Công Đồng. Điều này có nghĩa là dù được thích ứng theo Công Giáo Tiến Hành, định chế của xứ đạo và của Hội Đồng Quí Chức vẫn được giữ nguyên vẹn.
II. NHỮNG CUỐN CHỈ NAM CỦA CÁC GIÁO PHẬN
Để thể hiện những quyết nghị của Công Đồng Đông Dương (1934), bốn giáo phận đã cho ấn hành cuốn Chỉ Nam (Directoire): Sài Gòn, Quy Nhơn, Hà Nội và Huế (DSG, DQN…) (42). Nhưng chỉ trong ba cuốn Chỉ Nam của ba giáo phận Quy Nhơn, Huế và Hà Nội việc tổ chức họ đạo và Hội Đồng Quí Chức được đề cập đến một cách kỹ lưỡng. Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Sài Gòn vẫn theo sát cuốn Chức Sở Mục Lệ ấn hành bởi cha Colombert năm 1884 (43). Vả lại, Những cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế (1940) và giáo phận Quy Nhơn (1942) hầu như có chung một bố cục, chung một văn từ, và chung những danh mục, ngoại trừ sự khác biệt về các số ghi (44). Chính vì thế, chúng ta sẽ trình bày chung cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế và cuốn Chỉ Nam của giáo phận Quy Nhơn, sau đó mới trình bày cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội.
1) Hai cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế và Quy Nhơn
Trước tiên, cả hai cuốn xác định rằng «Đời sống công giáo trong mỗi một họ đạo hay trong mỗi giáo xứ được diễn tiến dưới sự điều khiển của cha xứ và những quí chức cùng với sự tình nguyện cộng tác của mọi thành viên họ đạo» (45). Chung chung, việc tổ chức hàng quí chức lấy lại bản văn trong cuốn Chức Sở Mục Lệ của giáo phận Sài Gòn, như lời tuyên bố rõ ràng sau đây: Những nghĩa vụ chính yếu của giáo dân và của quí chức được ghi tóm trong hai cuốn «Giáo Hữu Mục Lệ và Chức Sở Mục Lệ» phải được đọc lên trong họ đạo hai lần mỗi năm, vào dịp lễ Giáng Sinh và lễ các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô» (46). Hai cuốn Chỉ Nam này dành mục VI để qui định «Việc tổ chức các họ đạo». Mục này gồm 5 phần. Phần 1: «Quí chức của họ đạo» (Les Notables des Chrétientés), đề cập đến:
a) Mục đích và danh xưng các quí chức: Cha xứ là người trách nhiệm về sự vận hành tốt của xứ đạo. Ngài được giúp đỡ bởi Hội Đồng Quí Chức gồm những chức năng trùm cả, câu I, II, III…, biện sở, biện I, II, III… biện phái hay giáp. Sĩ số quí chức thay đổi tùy theo tầm quan trọng và những nhu cầu của xứ đạo và họ đạo (47).
b) Việc bổ nhiệm các quí chức: Cha xứ có thể đề cử những ứng viên trùm cả, câu I…; Ban chức sở (Ban chức việc) có thể đề cử những ứng viên ‘biện phái hay giáp’. Nhưng tốt hơn là tất cả những ứng viên được bầu lên qua cuộc đầu phiếu của giáo dân (48).
c) Những điều kiện cần thiết: Nếu không thực thi tốt những nhiệm vụ thuộc phẩm tước thấp, không ai có thể được bổ nhiệm vào một phẩm tước cao hơn. Phải chú trọng đến đời sống đạo đức, lòng nhiệt thành, trí thông minh và khả năng của những người nhắm chừng có thể bổ nhiệm (49).
d) Nghĩa vụ chính của quí chức: Quí chức là những người trung gian giữa cha xứ và giáo dân trong các dịp hôn phối, rửa tội, giúp bệnh nhân, tang lễ. v.v… Họ điều khiển kinh nguyện cộng đoàn, đôn đốc giáo dân giữ giới răn Chúa, luật Giáo Hội. Cách riêng, trong những họ đạo không có linh mục, họ dạy kinh nguyện và giáo lý cho trẻ em, giữ trật tự trong nhà thờ và xứ đạo, quản trị tài sản của giáo sở, của họ đạo… tất cả những việc trên được chu toàn trong sự đồng thuận hoàn toàn với cha xứ (50).
e) Nghĩa vụ truyền giáo: Bằng gương sáng hoặc bằng lời khuyên, quí chức phải ra sức đem những người đồng hương lương dân trở về sum họp với cộng đoàn tin vào Thiên Chúa thật (51).
g) Chỗ ngồi danh dự của quí chức: Trong nhà thờ và trong những buổi hội của họ đạo, quí chức được xếp ngồi vào hàng ghế danh dự. Những chỗ danh dự cũng dành cho những người đã được đức giám mục cấp bằng, và cả những người, tùy theo địa phương, được bằng khen của chính quyền dân sự (52).
Sau cùng, chúng ta phải ghi nhận rằng, để trung thành áp dụng những nghị quyết của Công Đồng Đông Dương, hai cuốn Chỉ Nam đã thích ứng việc tổ chức Ban Chức Sở hay Hội Đồng Quí Chức vào định chế Công Giáo Tiến Hành qua lời tuyên nhận: Mọi quí chức có thể làm cán bộ cho Công Giáo Tiến Hành, bởi lẽ, định chế mới không hủy bỏ các thể chế cũ của quí chức, nhưng thích ứng chúng theo mục đích đề ra bởi đức giáo hoàng: mỗi người hoạt động tông đồ trong môi trường của mình bằng cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng hành động tế nhị và khôn ngoan đối với những người xung quanh mình và đối với bạn bè không công giáo (53).
2) Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội
Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội (54) dành Điều IV của Đoạn I phần II, nói «Về luật phép hàng xứ và các họ cùng khoán lệ», nghĩa là nói về những gì liên quan đến Ban Hàng Xứ (Ban Chức Việc hay Hội Đồng Quí Chức) và xứ đạo hay họ đạo. Vậy có ba điểm sau đây cần trình bày:
a) Hội đồng quí chức của xứ đạo đạo
Mỗi xứ đạo được coi như một hiệp hội lớn, một đại gia đình. Chính vì thế, xứ đạo cần có những qui luật phù hợp theo luật đạo và luật đời mà mọi giáo hữu đều phải tuân giữ. Vậy từ lâu nay, lý do thúc đẩy các Bề Trên trong Giáo Hội thiết lập trong mỗi xứ đạo một cơ cấu nền tảng gọi là «Hội Hàng Phủ» (Ban hàng phủ, Ban phủ xứ, Ban hàng xứ, Ban chức việc) chính là để hội này ‘làm tay chân cha xứ’, giúp đỡ cha xứ trong công việc quản trị xứ đạo ‘cùng chăm riêng việc truyền giáo, việc Tiến hành Công giáo’. Vậy ‘xứ nào chưa có Hội Hàng Phủ, dù xứ đạo mới ở miền thượng du hay dưới đồng bằng, thì cha xứ phải thu xếp dần mà tổ chức theo lề lối chung của địa phận’ (Đ.149).
Cơ cấu tổ chức: Trên nguyên tắc, Hội Hàng Phủ thường gồm 2 ủy ban: ủy ban Trị sự và ủy ban Cố vấn (có nơi gọi là Tư vấn), nhưng ban Tư vấn có thể bãi bỏ, bởi vì trong thực tế, đa số các giáo xứ đều không áp dụng. Chúng ta tóm lược những nét lớn của hai ban này:
Ban Trị sự (55)
+ Những thành viên: Ban Trị sự gồm có chánh trương, một phó trương, thơ ký, thủ quỹ, trương phiên (nhiều ít tùy mỗi xứ), các trùm họ và quản giáo của các họ đạo.
+ Nhiệm vụ: - Chánh trương: phục tùng cha xứ, trông coi các việc trong xứ, giữ sổ sách, lo trật tự, đạt giấy mời hội Hàng phủ với dấu ấn và chữ ký của cha xứ. - Phó trương: phụ tá chánh trương trong mọi việc, thay thế chánh trương khi ông vắng mặt. - Thủ quỹ: thừa lệnh cha xứ coi sóc của công hàng xứ. - thơ ký: Biên chép sổ sách (Điều lệ Hàng phủ, Công bản, Chi thu, Kế toán vào dịp lễ Phục Sinh và lễ Các Thánh, Nhân danh) Sổ luôn có hai bản và phải được cha xứ duyệt y. - Trương phiên: phụ tá chánh trương. - Trùm: làm đầu một họ và đại biểu trong Hội Hàng phủ. - Quản giáo: coi trẻ em trong họ, lo trật tự khuôn phép trong họ, ngồi ‘tọa thí kinh bổn’.
+ Tư cách và đức tính: Những ứng viên ban Trị sự phải có lòng đạo đức, có tiếng tốt, có học thức, khôn ngoan, công tâm, mẫn cán, trực tính, hòa nhã, không sinh sự, có thế giá trong dân (như trong hàng tổng lý). - Phải đứng tuổi (hàng chánh trương phải trên 40, hàng trương phiên, thủ quỹ trên 30 tuổi, quản giáo từ 25 dĩ thượng). Tránh những người khô khan, mang tai tiếng, hay gây sự, trộm cướp, rối rắm, nghiện hút, kiện cáo, chống đối giáo sĩ, đừng nể vì giầu sang. Trường hợp một người trong Ban hàng phủ mà sinh xấu ra như trên, thì phải khuyên răn đôi lần; bằng họ không sửa mình thì phải cất chức, không được bồi hoàn quyền lợi.
+ Bầu cử: Khi có đủ lý do thì đề cử lên, khỏi phải bầu phiếu. Bình thường phải bầu phiếu kín những chức vị thuộc ban Trị sự. Ai nhiều phiếu thì đắc cử; hai người đồng phiếu, thì ai nhiều tuổi sẽ đắc cử. Người trúng cử phải được cha xứ châu phê và đệ lên đức giám mục xin ngài chấp nhận và ban bằng, lúc đó mới thành. Đơn từ chức hay cách chức của một thành viên trong ban trị sự phải được cha xứ và cha tổng quản (cha chính địa phận) ký nhận. Còn đơn của Trùm hay Quản giáo thì chỉ cha xứ ký nhận là đủ.
+ Vị tân cử khao vọng: Mỗi quí chức tân cử vào ban Trị sự có thể tổ chức một tiệc khao trong ngày nhận nhiệm vụ và nộp một số tiền gây quỹ Ban Hàng Phủ: Chánh trương 20§, thơ ký, thủ quỹ, trương phiên 12§, trùm họ 6§, quản giáo 4§.
+ Hạn khóa: Nhiệm kỳ của một thành viên ban Trị sự là 6 năm.
+ Những đặc quyền thiêng liêng: Mỗi năm, cha xứ phải tổ chức cho quí chức một cuộc cấm phòng độ ba hay bốn ngày. Hơn nữa, sau một nhiệm kỳ 6 năm không bị điều gì chê trách thì khi qua đời, các ông chánh trương và phó trương được một lễ hát; các ông thư ký, thủ quỹ, trùm họ được hai lễ đọc; các vị quí chức khác được một lễ đọc.
+ Tính sổ: Mỗi năm hai lần, vào dịp lễ Phục Sinh và lễ Các Thánh, thủ quỹ phải đệ trình sổ sách cho Hội Đồng Quí Chức. Hội Đồng Quí Chức thảo luận ngân sách cho năm sau.
Ban Cố vấn:
+ Những người được mời: Các ‘chức sắc kỳ dịch’ tức các nhân sĩ dân sự, được ban Trị sự mời vào Ban Cố Vấn để tham khảo ý kiến về những công việc của giáo xứ.
+ Địa vị: Trong các buổi hội hay đình đám thì: Chánh phó tổng và các phẩm hàm ngồi ngang hàng với chánh phó trương. - Lý trưởng, chánh hương hội ngồi ngang hàng với thơ ký, thủ quỹ và trương phiên. - Phó lý, phó hội thơ ký, thủ quỹ hàng xã… ngồi ngang hàng với trùm và quản giáo.
+ Vọng: Vị tân cử của Ban Cố Vấn phải nộp 1§ ‘tiền nhập hội’ và có thể tổ chức một tiệc khao vọng theo những qui định của giáo xứ (56).
b) Hội đồng quý chức của họ đạo
Mỗi xứ đạo gồm nhiều họ đạo và mỗi họ đạo là tiềm thể của một xứ đạo mới. Tùy theo sự quan trọng của mình, mỗi họ đạo sẽ có số người đại diện đông hay ít tham gia vào Hội đồng Quý Chức xứ. Ngoài ra, mỗi họ đạo phải được tổ chức chặt chẽ và điều khiển nghiêm trang bởi một hội đồng mà người lãnh đão không ai khác hơn là người lãnh đạo của họ đạo. Thành phần của Hội Đồng quý chức họ đạo gồm có người đứng đầu là Trùm Họ, Biện Sở, Biện Nhất, người phụ tá là Trùm Phó, Biện Nhì, Biện Hai, người coi an ninh là “Thu Khoán”, Biện Ba, nhiều Trưởng Khu và Quản Giáo. Sau cùng, tất cả những điều mà cuốn Chỉ Nam đã ấn định cho Ban Trị Sự xứ đạo, đều có thể ứng dụng cho Hội Đống Quý Chức họ đạo (57).
c) Nội quy của họ đạo
Trước tiên, cuốn Chỉ Nam xác định rằng tất cả những nội quy của họ đạo đằu phải được giáo quyền duyệt y. Hội Đồng Quý Chức và ngay cả linh mục đều không có quyền lập định bất cứ một luật lệ nào mà không có phép của giám mục. Sau đó, cuốn Nội Quy phân biệt hai loại luật lệ của họ đạo: Thứ nhất là những luật lệ cải tổ, đặc biệt nhằm canh tân những tập quán liên quan đến tang chế và hôn nhân; Thứ hai là những luật hình sự, được thiết lập để tuyệt đối ngăn cấm những tội phạm về tôn giáo hay xã hội, tỷ như những tội phãm về phong hóa, những lạm dụng rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập ma túy,... Các chức việc đều phải lo sao để giáo dân tuân giữ cẩn mật tất cả nội quy của họ đạo (58).
Trên đây là phác họa tổng quát lịch sử Giáo Hội Việt Nam từ năm 1533 đến năm 1953. Trong dòng thời gian này, lịch sử của Hội Đồng Quí Chức các họ đạo tại Việt Nam đã dần dần được thể hiện. Hy vọng rằng, mặc dù đơn giản, việc trình bày của chúng tôi tạm đủ nói lên những nét chính của khuôn khổ lịch sử trong đó Hội Đồng Quí Chức được hình thành, vươn tiến, tuyên chứng đức tin, cộng tác với linh mục trong công cuộc truyền giáo bằng lời nói, bằng hoạt động, bằng đời sống, và ngay cả bằng máu đào. Và sau khi có một cái nhìn tổng thể về tổ chức Hội Đồng Quí Chức trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, chúng tôi sẽ trình bày trong chương tiếp theo về thực thể của họ đạo Việt Nam, vốn được xem là đơn vị căn bản của giáo phận, và nhất là được xem như một môi trường đặc biệt cho sự hình thành và cho mọi hoạt động của Hội Đồng Quí Chức.
-------------------------------------------
Chú thích
(I) MIRANI J. DELLE MISSIONI DE’PADRI DELLA COMPAGNIA DI GIESU NELLA PROVINCIA DEL GIAPPONE E PARTICOLARMENTE DI TUNKINO, tr. 188,264-265; LOUVET L. COCHINCHINE RELIGIEUSE, tr. 356-357; PHAN PHAT HUON, VIET NAM GIAO SU, tr. 122-123
(2) NGUYÊN HÔNG, LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO Ở VIỆT NAM, I. tr. 99-100
(3) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 105-107
(4) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 150-151
(5) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 167-168
(6) NGUYÊN HÔNG, sd. Itr.. 180-181
(7) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 181-183
(8) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 184
(9) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 185-186
(10) SACCANO M. RELATION DES PROGRES DE LA FOI AU ROYAUME DE LA COCHINCHINE DES ANNEE 1636 ET 1647, Paris 1653 tr. 89-109
(11) LAUNAY A. HISTOIRE DE LA MISSION DU TONKIN I, tr.53
(12) LAUNAY A. sd.I, tr. 273
(13) LAUNAY A. sd. I, tr. 94, 97.
(14) LAUNAY A. HISTOIRE DE LA MISSION DE LA COCHINCHINE I, tr.. 107-108.
(15) LOUVET L. sd. I, tr. 268-284.
(16) LOUVET L. sd. I, tr. 290-294
(17) LOUVET L. sd. I, tr. 293
(18) LOUVET L. sd. I, tr. 242
(19) LOUVET L. sd.. I, tr. 271
(20) LOUVET L. sd. I, tr. 286-289
(21) LOUVET L. sd. I, tr. 285
(22) LOUVET L. NOTICE NECROLOGIQUE SUR MGR COLOMBERT, tr.8 ss
(23) Xem. LOUVET L. LA COCHINCHINE RELIGIEUSE I, tr.337-348; Mgr DEPIERRE sd. tr. 34-38
(24) - nt
(25) - nt
(26) Bản văn nhuận sắc và ấn hành bởi cha Ngô đình Thục trước hết giữ nguyên soạn văn, đoạn dẫn nhập, 5 chương và 70 điều, sau đó thêm vào một phụ lục gồm 2 khoản: 1) Quí chức hội, có 8 điều. 2) Tài chánh của Hội đồng quí chức, có 4 điều.
(27) THIÊN-CHÚA-THÁNH-GIÁO NHỰT-KHÓA CHÚA-NHỰT-PHÁP Imprimerie de la Mission tr. 629-660, Sài-Gòn 1898
(28) Xin xem chú thích (26)
(29) NKDP (1934) s.1286 tr.147
(30) In: SÁCH THUẬT LẠI CÁC THƯ CHUNG ĐỊA PHẬN ĐÀNG NGOÀI II, Ké Sở 1924 tr. 185-206
(31) AD tr. 11-13
(32) AD tit IV cap III nn. I et II, tr. 111-112
(33) AD tit IV cap IV n.2/I tr. 113
(34) AD tit II cap unicum tr. 64-72
(35) AD tit III cap I n.II, tr. 75
(36) AD tit IV cap III n. III, tr. 112
(37) ACTA ET DECRETA SECUNDAE REGIONALIS TUNQUINENSIS, habitae in pago Ké So, A.D. 1912 in tại Kẻ Sở 1914 chia ra: Titulus “De personis” tr. 1-13, tit. II “De Rebus” tr. 35-38 tit III “Sacramentis” tr. 39-54; tit. IV «De cura christianorum» tr. 54-64
(38) AD tit IV cap I n.16 tr. 57
(39) AD tit IV cap I n.4 tr. 54
(40) AD, S.P. Pius XI: “Nulla Dies sine circulo “ ad promotores Actionis Catholicae, Romae 4 mars 1928, trg. PCI tr.. 113 note (I)
(41) PCI tr.. 107-117
(42) Những giáo phận khác không có cuốn Chỉ Nam. Nhưng, một cách thực dụng, tất cả các giáo phận Bắc Kỳ xử dụng cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà-Nội, giáo phận Vinh dùng Chỉ Nam của giáo phận Huế.
(43) Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Sàii Gòn và Cao Miên (Le Directoire de COCHINCHINE OCCIDENTALE et de KAMPUCHIA) được in lần đầu tiên «để thực nghiệm» dưới đề tựa «Dự án tập quán cho sứ vụ Sài-Gòn», Hồng-Kông 1901. Bản văn này không còn tìm thấy. Nhưng chắc chắn là nó được nhuận sắc và ấn hành dưới tựa đề «Directoire» vào năm 1904. Hiện nay, chúng ta có một ấn bản của lần in thứ hai vào năm 1922, Sài Gòn, nhà in Tân Định.
(44) CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN HUẾ, 1940, nhà in Huế; CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN QUI NHƠN, 1942, nhà in Quy Nhơn. Hai huấn thị này có chung một cấu trúc. Tỷ dụ, Mục VI «Sự tổ chức những cộng đoàn tín hữu» được chia thành: Chương I «Những quí chức cộng đoàn tín hữu» (DH.93-103, DQN.112-117); Chương II «Hiệp hội thanh niên thanh nữ» (DH.104-105, DQN.118-120); Chương III «Đối xử trong trường hợp bất hòa» (DH 106-108, DQN.121-123); Chương IV «Dâng lễ và cầu nguyện cho những linh mục và ân nhân quá vãng» (DH.109-111, DQN.124-128); Chương V «Những bổn phận giáo dân trong cộng đoàn tín hữu» (DH.112-115, DQN.129-132).
(45) DH.113, DQN. 130
(46) DH.114, DQN.131
(47) DH.99, DQN.113
(48) DH.99-100, DQN.113-114
(49) DH.101, DQN.115
(44) CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN HUẾ, 1940, nhà in Huế; CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN QUI NHƠN, 1942, nhà in Quy Nhơn. Hai huấn thị này có chung một cấu trúc. Tỷ dụ, Mục VI «Sự tổ chức những cộng đoàn tín hữu» được chia thành: Chương I «Những quí chức cộng đoàn tín hữu» (DH.93-103, DQN.112-117); Chương II «Hiệp hội thanh niên thanh nữ» (DH.104-105, DQN.118-120); Chương III «Đối xử trong trường hợp bất hòa» (DH.106-108, DQN.121-123); Chương IV «Dâng lễ và cầu nguyện cho những linh mục và ân nhân quá vãng» (DH.109-111, DQN.124-128); Chương V «Những bổn phận giáo dân trong cộng đoàn tín hữu» (DH. 112-115, DQN.129-132).
(45) DH.113, DQN.130
(46) DH.114, DQN.131
(47) DH.99, DQN.113
(48) DH.99-100, DQN.113-114
(49) DH.101, DQN.115
(50) DH., DQN.
(51) DH.103, DQN.117
(52) DH.103, 222 DQN.117, 250
(53) DH.102, DQN.116
(54) CUỐN CHỈ NAM CỦA GIÁO PHẬN HÀ-NỘI có ấn bản đầu tiên vào năm 1941, dưới triều giám mục Fr Chaize, với tựa đề la tinh: «DIRECTORIUM VICARIATUS APOSTOLICI DE HANOI» phụ đề việt ngữ là «Luật chung địa phận Hà Nội» Nhà in Trung Hoa, Hà Nội.
(55) DHN.150
(56) DHN.152-153
(57)DHN. 151
(58) DHN. 154-157
CHƯƠNG II:
DIỄN TIẾN LỊCH SỬ
CÔNG TRÌNH TỔ CHỨC
HỘI ĐỒNG QUÍ CHỨC
HỌ ĐẠO VIỆT NAM
Trong chương này chúng tôi sẽ trình bày bốn mục chính:
I. Được thành lập nhưng chưa được thừa nhận hợp pháp bởi giáo quyền.
II. Được thừa nhận hợp pháp bởi giáo quyền nhưng tổ chức còn non kém.
III. Không những được tổ chức mà còn được định chế hóa
IV. Được thích ứng theo định chế Công Giáo Tiến Hành
MỤC I
ĐƯỢC THÀNH LẬP NHƯNG CHƯA ĐƯỢC
THỪA NHẬN HỢP PHÁP BỞI GIÁO QUYỀN
(1553-1670)
I. MỘT SÁNG KIẾN HỮU HIỆU
Ngay từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, những giáo sĩ truyền giáo, nhất là các cha dòng Tên, kế đó là các vị Thừa sai Paris và các cha dòng Đaminh, cùng theo một phương pháp chung: để bổ túc sự thiếu sót giáo sĩ cho công cuộc truyền giáo tại Tonkin (Bắc Kỳ, Bắc Việt, Bắc Bộ Việt Nam) và tại Cochinchine (Nam Kỳ, Nam Việt, Nam Bộ Việt Nam) các ngài tổ chức các hình thức cộng tác viên bậc giáo dân. Có những cộng tác viên các ngài gọi là các thầy giảng: những người này sống theo sát các ngài, quản gia nhà cửa các ngài, sẵn sàng đi những nơi các ngài sai phái đến để dạy giáo lý, ban phép rửa tội, an ủi bệnh nhân, nói chung là làm tất cả những gì không đòi hỏi phải có chức năng linh mục. Những người khác các ngài gọi là quí chức, được chọn từ những gia trưởng có học thức và có lòng nhiệt thành nhất trong mỗi họ đạo. Các quí chức hoạt động tại chỗ trong phạm vi họ đạo của họ, và cũng như các thầy giảng, họ đảm đương tất cả những gì có thể làm trong việc giúp đỡ các cha điều hành xứ đạo và truyền giáo cho lương dân (1).
Chính hình thức cộng tác viên thứ hai này – những quí chức – là đối tượng của công việc khai triển của chúng tôi. Những khi cha xứ vắng mặt, những quí chức thay thế ngài điều hành giáo dân, dạy giáo lý, chủ xướng kinh hạt. Trong thời buổi bách hại, họ là mối dây liên lạc giữa giáo dân và cha xứ. Họ bảo vệ giáo dân trước chính quyền. Rất nhiều quí chức đã hy sinh mạng sống vì đức tin, cho tương lai của họ đạo, hoặc cho mạng sống của chính cha xứ. Chính vì thế người ta gọi họ là những «ông trùm của cộng đoàn tín hữu, là trái tim hay linh hồn của cộng đoàn giáo dân, cánh tay mặt của cha thừa sai, cộng tác viên thân tín và quý trọng của những giáo sĩ thừa sai, hội trưởng của tiểu Giáo Hội địa phương». Để nói lên cụ thể công trình những quí chức đã thực hiện trong thời đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, chúng ta hân hạnh nêu lên dưới đây mấy trường hợp lịch sử.
II. NHỮNG TRƯỜNG HỢP LỊCH SỬ
1) Ba vị quí chức đầu tiên của họ đạo Cửa-Bạng.
Vào năm 1627, cha Alexandre de Rhodes và cha Pedro Marquez, rời Nam Kỳ để đến Bắc Kỳ. Ngày 19 tháng 3, lễ thánh Giuse, các ngài dạt vào Cửa-Bạng (hiện nay là xứ Ba-Làng thuộc giáo phận Thanh Hóa). Sau ít ngày thuyết giảng, các cha rửa tội cho 32 người dân làng thuộc mọi thành phần xã hội, có những người là dân làng Cửa Bạng, và những người khác là dân làng lân cận, các cha chọn lựa 3 vị có ảnh hưởng nhất trong số những vị tân giáo hữu (tân tòng) này để bổ nhiệm họ làm quí chức của họ đạo mới. Ba vị này một là thầy đồ, vị kia là một thân hào và vị thứ ba là một thầy pháp. Thầy đồ là người có học thức nhất trong làng, sau khi đã nhận phép rửa tội ông trở thành môn đệ của Chúa Kitô, và trở thành thầy giáo giảng dạy những điều chân thực của tân đạo giáo cho dân làng. Ông được cha Alexandre de Rhodes trao cho một cuốn kinh nhật tụng để học hỏi và sau đó dạy lại cho những người khác. Thầy pháp xưa kia là người tin thờ mê tín và ma thuật, từ khi lãnh nhận đức tin công giáo ông từ bỏ tất cả và trở thành một giáo hữu đạo đức và một quí chức nhiệt thành. Ông luôn luôn có mặt trong những buổi hội họp của cộng đoàn họ đạo. Thân hào là người thường mang nặng mê tín nhưng nhờ nghe theo giảng thuyết của các cha, ông chấp nhận đức tin và trở thành người giáo hữu tốt lành. Nhà của ông được dâng cho các cha làm nơi lưu trú, nơi hội họp thường nhật của giáo dân để học giáo lý hay cầu nguyện. Ngày chúa nhật, ngôi nhà của ông được dùng như là «ngôi chùa» của cộng đoàn tín hữu (2).
2) Quí chức đầu tiên của họ đạo An Vực và Văn Nô.
Tại làng An Vực, các cha đã rửa tội cho khoảng 200 người, trong số đó có cụ Gioankim là người có học thức và đạo hạnh nhất. Cụ là người đầu tiên trong làng được lãnh nhận phép rửa tội. Sau khi lãnh nhận phép rửa tội, cụ cộng tác đắc lực với các thừa sai trong việc giáo huấn đức tin cho dân làng. Cụ rất sung sướng và hãnh diện về công việc tông đồ của cụ. Bởi vì, như lời cụ nói: «Trước kia tôi giảng dạy điều sai lạc, nhưng nay tôi giảng dạy sự chân thật». Hơn thế, cụ còn dâng hiến ngôi nhà của cụ cho các cha trú ngụ, và thửa đất của cụ để xây cất nhà thờ họ đạo. Đó là ngôi thánh đường đầu tiên tại Bắc Kỳ được các cha dòng Tên làm phép một cách trọng thể.
Ảnh hưởng truyền giáo của cụ Gioankim và những tân giáo hữu làng An-Vực đem đức tin đến cho nhiều người dân làng Văn-Nô lân cận. Trong số những tân giáo hữu của làng này, các cha đã chọn hai người đức hạnh, giàu có và học thức là các ông Giuse, vốn là thầy pháp của làng, và ông Simon là thầy giáo trường làng. Hai ông này đuợc các cha bổ nhiệm làm ông trùm họ đạo Văn-Nô, được lãnh nhận những tập kinh sách để học hỏi và truyền dạy cho người khác, luân phiên nhau điều hành các buổi hội họp ngày chủ nhật của cộng đoàn tín hữu. Hai vị là linh hồn của họ đạo (3).
3) Những quí chức đầu tiên còn vô danh ở Nam Kỳ
Về tình hình công cuộc truyền giáo ở Nam Kỳ trong những năm 1630-1639, cha Nguyễn-Hồng viết: «Trong thời buổi bách hại, các linh mục thừa sai không thể tự do giảng đạo và thăm viếng giáo dân, vì thế các ngài đã bổ nhiệm những quí chức đạo đức cho mỗi cộng đoàn tín hữu. Những người này thay mặt các ngài điều hành xứ đạo, bảo vệ đức tin tín hữu và loan truyền Phúc Âm cho lương dân. Nhờ sự cộng tác của họ, năm 1631 các cha đã rửa tội cho 540 người và vài trăm người khác trong năm 1632» (4)
4) Ông Bà Phanxicô ở một họ đạo tỉnh Quảng-Bình
Theo cha Alexandre de Rhodes, ông Phanxicô là quan võ trong đạo quân triều đình, và vợ ông là một bà phù thủy nổi tiếng. Nhưng sau khi được rửa tội, cả hai vợ chồng trở thành những «cổ động viên nhiệt huyết của Phúc Âm». Hơn nữa, hai vợ chồng rất có lòng sùng kính Đức Mẹ Đồng Trinh. Nhờ những hoạt động tông đồ của ông bà, hàng trăm người đã theo đạo và họp thành một cộng đoàn tín hữu mà ông Phanxicô là ông trùm tận tụy cho đến hơi thở cuối cùng (5).
5) Lòng nhiệt thành và can đảm của những quí chức ở Quảng Nam
Ở Quảng Nam, vào năm 1644, cộng đoàn tín hữu không chút nao núng trước những bách hại ghê sợ của quan triều. Bà trùm Mai đệ Liên cất giấu ở nhà bà một cây thánh giá từng được đặt trong nhà thờ. Quân lính bắt giam bà, đánh đòn tra tấn bà ròng rã ba ngày đêm, nhưng bà nhất quyết không khai, sau cùng bà được thả ra: đức tin đã vinh thắng.
Ông Antôn Tê, vị quí chức giàu có và là người thành lập cộng đoàn tín hữu, nghe tin cuộc bách hại gần kề, ông hội họp giáo dân và khích lệ họ giữ vững niềm tin tôn giáo. Ông xin họ trao lại cho ông cất giữ nơi an toàn tất cả những Cây Thánh Giá, và ông sẵn sàng trả tiền phạt nếu bị quân lính bắt phạt. Ông làm như thế để không một giáo dân nào chối bỏ đức tin vì sợ hãi (6).
6) Những ông trùm các họ đạo tỉnh Quy Nhơn
Ở Quy Nhơn, được biết cuộc bách hại sắp tràn tới, các ông trùm họ đạo chuẩn bị tinh thần cho giáo dân, khích lệ họ giữ vững đức tin, can đảm đối đầu với những trận đàn áp. Ông Ngữ, người đại diện của những quí chức tỉnh Quy Nhơn, vội vã tìm đến thỉnh ý cha Alexandre de Rhodes. Cuối cùng, ông Ngữ và năm người quí chức khác đã được vinh dự tử đạo (7).
Cũng ở Quy Nhơn, quí chức Antoninô đã khéo léo bảo vệ cộng đoàn tín hữu trước cuộc đàn áp, đồng thời còn rửa tội được 140 trẻ em và người lớn, dạy giáo lý cho 20 người khác trong khi chờ chuyến viếng thăm của cha Alexandre de Rhodes (8).
Cha Alexandre de Rhodes còn thuật lại rằng: năm 1644, ngài đã cử hành lễ Giáng Sinh tại nhà ông Nicolas Hảo mặc dù có những biện pháp đàn áp lục soát của quan triều. Ông Hảo là quí chức cộng đoàn tín hữu, được quí trọng không những bởi giáo dân mà còn cả lương dân nữa. Ông là người chính trực, lương thiện và giàu có. Ông chân thành giúp đỡ các vị thừa sai bằng lòng ân cần tiếp rước, bằng tiền bạc dâng cúng và bằng sự phục vụ của ông. Ông phục vụ cộng đoàn tín hữu bằng cách củng cố đức tin cho những người đã được rửa tội, và dẫn dắt những người lương dân vào đạo Công Giáo. Vào lễ Giáng Sinh 1644, ông đã xin cha rửa tội cho 22 người dự tòng (9).
7) Hai quí chức tử vì đạo ở Quảng-Bình
Cuộc bách hại lâu dài bởi quan Thượng gây bao khốn khổ cho giáo dân. Vào năm 1646, hai quí chức cộng đoàn tín hữu ở Quảng Bình bị bắt và điệu ra trước quan triều. Đó là các ông Augustinô và Simon. Cả hai ông bị tố cáo là đã giúp đỡ các vị thừa sai, bảo vệ giáo dân và đưa nhiều lương dân vào đạo Công Giáo. Đó là sự thực, bởi vì hai ông đã dốc toàn sức lực kiến tạo họ đạo và làm sáng danh Thiên Chúa. Cùng với bốn tín hữu, hai ông bị khảo cung và tra tấn tàn bạo nhiều lần, nhưng tất cả đều giữ vững đức tin… Chính vì thế, quan triều tức giận và hạ lệnh chém đầu. Họ đi tới nơi hành quyết một cách can đảm. Ông Simon nhiệt thành khuyên nhủ những tín hữu hiện diện tại pháp trường can đảm giữ vững đức tin, sau đó ông tuyên bố trước lương dân rằng các ông bị tử hình chỉ vì mang tội là người theo đạo Công Giáo. Ông Augustinô bị chặt đầu và ông Simon chết bởi những đòn trượng (10).
8) Hai văn bản lịch sử
Để kết luận, chúng ta đan cử nơi đây một trích thư của cha Deydier viết cho ban giám đốc chủng viện Thừa Sai Hải Ngoại ngày 28.7.1668, và một bản tường trình khác về tình hình truyền giáo năm 1680. Cả hai bản văn xác nhận rõ ràng: hàng ngũ quí chức được tổ chức một cách thực tế từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
«Từ khi tôi làm xong công việc sắp đặt mọi sự cho được tốt đẹp nhất, tôi đã có thể thiết dựng 5 ngôi thánh đường trong thành phố vương đô này, và đặt 6 vị (quí chức) nhiệt thành và học thức nhất trong các tín hữu tại mỗi thánh đường, vì tôi muốn đi khắp các làng để rao giảng Tin Mừng…» (11).
«…Trong mỗi thánh đường, từ hàng ngũ giáo dân người ta chọn ra một người có đời sống gương mẫu và không mấy bị câu thúc bởi công kia việc nọ để giúp việc nhà thờ, hội họp giáo dân, xướng kinh hạt những ngày chủ nhật và ngày lễ, đọc sách thiêng liêng, giảng dạy, thông báo lịch hàng tuần những ngày lễ hay chay tịnh, thăm viếng bệnh nhân, sắp xếp cho vị linh mục đến ban bí tích xức dầu nếu là bệnh nặng, thu nhận tiền bạc dâng cúng của tín hữu để mua nhang đèn và những gì cần thiết cho nhà thờ...” (12).
MỤC II
ĐƯỢC THỪA NHẬN HỢP PHÁP BỞI GIÁO QUYỀN
NHƯNG CÒN NON KÉM VỀ TỔ CHỨC
(1670- 1885)
I. BỞI HAI CÔNG NGHỊ MIỀN ĐẦU TIÊN
Chúng ta vừa nói ở trên, vào năm 1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai giáo phận (Vicariats apostoliques: đại diện tông tòa, chuẩn giáo phận) đầu tiên tại Việt Nam. Đó là giáo phận Bắc Kỳ (Tonkin) với đức cha Pallu là vị giám mục đầu tiên, và giáo phận Nam Kỳ (Cochinchine) với đức cha Lambert de la Motte. Nhưng vì bận việc Giáo Hội ở Âu Châu, đức cha Pallu đã trao quyền giám quản tông tòa của ngài cho đức cha Lambert de la Motte. Một trong những công trình đáng ghi nhớ mà đức cha Lambert de la Motte đã thực hiện là triệu tập công nghị cho giáo phận Bắc Kỳ vào năm 1670, và cho giáo phận Nam Kỳ vào năm 1672. Mỗi công nghị đều đã đề ra những nghị quyết quan trọng liên quan tới việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức của họ đạo.
1) Công nghị Bắc Kỳ vào năm 1670
Công nghị miền đầu tiên đã đề ra những nghị quyết cụ thể về việc tổ chức các Hội Đồng Quí Chức của họ đạo Việt Nam chính là công nghị Bắc Kỳ năm 1670. Công nghị này được triệu tập ngày 14.2 tại tỉnh Nam Định, dưới quyền chủ tọa của đức cha Pierre Lambert de la Motte. Văn bản chính thức của công nghị, được duyệt y bởi đức giáo hoàng Clément X ngày 13.12.1673, gồm có 34 điều trong đó điều 7 và điều 21 nói về các quí chức:
Điều 7: Nơi nào có đông tín hữu, thì mỗi họ đạo sẽ cắt cử những người đức hạnh nhất trong họ đạo để chăm lo việc hội họp kinh nguyện, việc rao lịch, giúp giáo dân giữ cẩn thận các ngày kiêng thịt và quan tâm đến những người khác.
Điều 21: Những linh mục quản nhiệm, các thầy giảng và quí chức phải khích lệ giáo dân sống đức khó khăn, năng nguyện gẫm, ít ra theo lịch các ngày kiêng thịt, đặc biệt trong những ngày đó, suy ngắm về sự thương khó và sự chết của Chúa Giêsu Kitô (13).
2) Công nghị Nam Kỳ vào năm 1672
Hai năm sau công nghị Bắc Kỳ, từ ngày 26-10 đến ngày 18-11-1672, công nghị Nam Kỳ được triệu tập tại thành phố Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam khi đó trực thuộc miền truyền giáo Nam Kỳ. Công nghị này cũng do đức cha Lambert de la Motte, vị giám quản đầu tiên của giáo phận Nam Kỳ (1659-1679), chủ tọa. Công nghị đã chú trọng đến đời sống tín hữu, sự tổ chức những giáo sở và những họ đạo. Chính vì thế, bên cạnh những nghị quyết về hôn nhân, ban hành các bí tích, còn có những nghị quyết liên quan đến định chế của quí chức họ đạo, những nghị quyết về những bổn phận của quý chức. Chúng ta có thể lược tóm như sau:
Cần thiết phải chọn lựa những quí chức cho những họ đạo tương đối đông đảo. Quí chức phải là những tín hữu đức hạnh và khôn ngoan.
Nhiệm vụ của quí chức trong những khi vị linh mục và các thầy giảng vắng mặt là chăm lo trước tiên những buổi cầu nguyện, rao lịch những ngày kiêng thịt, dạy giáo lý, thăm viếng bệnh nhân, rửa tội cho trẻ em và người lớn, tuy nhiên chỉ rửa tội cho người lớn sau khi biết rõ tình trạng hôn phối của họ, quản lý sổ hôn phối và sổ tử, giúp đỡ tín hữu sống Phúc Âm.
Như thế, vai trò và nhiệm vụ của quí chức đã được thừa nhận và qui định bởi giáo quyền. Họ không chỉ là những tín hữu đức hạnh, mà còn là những cộng tác viên của linh mục, những ông trùm của họ đạo. Trong thời buổi cấm cách, trong lúc thiếu vắng linh mục, họ là những người thay thế để củng cố và làm vươn tiến sinh hoạt họ đạo về mặt thiêng liêng, luân lý đạo đức cũng như về mặt vật chất (14).
II. NHỮNG HY SINH QUẢNG ĐẠI CỦA QUÍ CHỨC TRONG THỜI CẤM ĐẠO
Lịch sử xác nhận rằng từ năm 1670 đến năm 1884, nghĩa là từ công nghị Bắc Kỳ cho đến cuốn “Chức Sở Mục Lệ” được đức cha Colombert ấn hành, giáo dân trải qua nhiều cuộc bách hại khắc nghiệt. Nhưng chính trong những thời kỳ khó khăn nhất này của lịch sử kitô giáo việt nam, chúng ta nhận ra sự cộng tác quảng đại và can đảm của quí chức vào thừa tác vụ của linh mục, hay đúng hơn, vào công cuộc truyền giáo, vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Không thể nêu lên tất cả những trường hợp lịch sử, chúng ta đành chỉ kể đến một vài trường hợp tiêu biểu nhất.
1) Bắt giam toàn bộ quí chức công giáo
Năm 1859: Vào khoảng trung tuần tháng 10.1859, chiếu theo các sắc lệnh của vua, quan triều tiến hành bắt giam những quí chức các họ đạo. Trên toàn quốc, những quí chức trên năm mươi tuổi bị lùng bắt. Nhà tù chẳng mấy chốc trở nên đầy ứ. Những tù nhân bất hạnh này không được vua cho cơm ăn, nên các thừa sai phải chu cấp cho họ.
Những cuộc bắt giam hàng loạt này đã làm sụp đổ cơ cấu tổ chức và gây hoảng loạn trong các họ đạo. Người ta khiếp sợ nghĩ đến những hành quyết sắp ập xuống trên những tù nhân này. Tiếng đồn về một cuộc tàn sát tận tuyệt đã loan truyền khắp các tỉnh thành.
Năm 1861: Tiếp đó, vào năm 1861, quan triều thi hành sắc lệnh phát vãng toàn diện: Những quí chức bị bắt giam cầm từ hai năm nay và tất cả giáo dân trai tráng đều vắng bóng, trong các làng chỉ còn những người già cả, tàn tật,đàn bà, con nít và một vài người bần cùng, vì bị quên sót hay được ân huệ.
Lúc này, quan triều lùng bắt khắp nơi. Rút kinh nghiệm, họ bắt giam cả những tín hữu đã bỏ đạo, bởi vì, theo nhà vua: “Chúng không thành thực bỏ đạo và vẫn mê muội với giáo thuyết sai lạc của chúng”. Vào tháng 5.1860, đức cha Lefebvre viết về tình hình ở Sài Gòn: “Những cuộc bắt bớ tại khắp nơi gia tăng gấp đôi cường độ. Chưa từng bao giờ trong vòng một năm lại có nhiều người tuyên xưng đạo và nhiều người tử vì đạo đến như vậy. Hiện tại, tôi đang có 396 tín hữu bị rên xiết dưới gông cùm và xiềng xích ngục tù! Con số này còn gia tăng trong suốt các năm 1860 và 1861 với sự bắt giam những quí chức của các họ đạo thuộc giáo phận” (15).
Nới rộng nhà tù: Cũng trong thời ấy, 1659-1661, về phía Bắc Sài Gòn, Giáo Hội Chúa Kitô tại một quận của tỉnh Biên Hòa đã khai sanh đông đảo các vị tử đạo. Tại đây, những quí chức của các họ đạo Tân Triêu, Mỹ Hội, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một và vùng phụ cận, bị giam giữ trong một ngục thành mà có ngay con số tín hữu tù nhân đếm được tới 600 người. Rốt cuộc, khi không thể chứa thêm, quan triều có một phương cách khá đơn giản để nới rộng nhà tù, đó là đem đi chặt đầu những người bị bắt giam (16).
Theo cha L. H. Louvet, con số quí chức bị bắt giam trên toàn quốc lúc đó lên tới khoảng mười ngàn người. Hơn một nửa trong số đó đã chết vì đức tin, có những người bị chém đầu theo án xử thường lệ, có những người bị thiêu sống tập thể, bị chôn sống, bị cột đá ném xuống sông hay xuống biển. Một số rất đông, nhất là ở Bắc Kỳ, bị bỏ chết đói. Đàng khác, trên hai ngàn họ đạo bị phá hủy, động sản và bất động sản, ruộng nương, nhà cửa, vườn tược đều bị tịch thu cấp cho lương dân lân cận (17).
2) Một vài dẫn chứng đặc biệt
Vào năm 1647, tại tỉnh Quảng Bình, sáu tín hữu bị bắt giam, hai người trong số đó bị tử hình: Một người là Alexis, quan võ trong đạo quân triều đình. Người kia là ông trùm họ đạo, tên là Augustinô (18).
Ngày 9.1.1665, Chúa Hiền Vương cho quân lùng bắt giáo dân họ đạo Dinh Cát, trong số đó có ông trùm Têphanô và sáu người đàn anh trong họ bị lên án chặt đầu (19).
Ngày 9.12.1888, tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Cái Mơn bị một toán quân xâm nhập. Sau khi cướp phá, chúng tra gông cùm các ông trùm trưởng, nữ tu bề trên Matta Lành và nữ tu Elisabeth Ngộ, rồi dẫn điệu họ về Vĩnh Long. Đồng thời, chúng bắt giam 5 người trong số những quí chức của các họ đạo vùng Cái Môn. Một trong những quí chức, ông Gioan Hoan, là trùm của họ đạo và lý trưởng của làng, ông đã tuyên chứng một đức tin bất khuất (20).
Vào năm 1859: Vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 1.1859, họ đạo Dầu Nước, vùng phía Tây miền truyền giáo, bị một toán ít ra là ba trăm quân lính xâm nhập giữa đêm khuya. Họ đạo này bị tố lên quan triều tỉnh Châu Đốc về tội chứa chấp một giáo sĩ thừa sai Âu Châu, một linh mục Việt Nam, có một tu viện và một thánh đường xinh đẹp. Vị thừa sai nói đây không ai khác là cha M. Pernot, trở về làm giám đốc chủng viện ở Paris vào cuối năm 1860. Sự tận tâm của ông trùm Lý Phụng đã đưa cha M. Pernot vượt thoát. Nhưng khi trở về, ông Lý Phụng bị quân hầu bắt trói. Ngày 13.7.1859, ông Lý Phụng và cha Quy bị kết án tử hình. Ngày 13.2.1879, cả hai vị được đức giáo hoàng Léon XIII tuyên phong bậc Đáng Kính, (21) đức giáo hoàng Piô X suy tôn bậc Chân Phước, ngày 02.05.1909 và đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc Hiển Thánh ngày 19.06.1988.
MỤC III
KHÔNG NHỮNG ĐƯỢC TỔ CHỨC
MÀ CÒN ĐƯỢC ĐỊNH CHẾ HÓA
(1884-1934)
I. CHA COLOMBERT ẤN HÀNH CUỐN “CHỨC SỞ MỤC LỆ”
1) Cha Colombert, giám mục Sài-Gòn
Cha Colombert thuộc giáo phận Laval, ngài sinh ngày 20.3.1838, chịu chức linh mục ngày 30.5.1863. Sau khi chịu chức, cha được các bề trên phái đi thừa sai ở Sài Gòn. Trước tiên ngài được gửi đến Mạc Bắc để học tiếng Việt dưới sự hướng dẫn của một linh mục Việt Nam. Sau chín tháng, vào đầu năm 1864, cha được bổ làm phụ trách giáo xứ Cái Nhum, một họ đạo lớn trong tỉnh Vĩnh Long. Năm sau, cha Colombert được đức cha Miche giáo phận Sài Gòn gọi về làm bí thư riêng của ngài và làm quản lý nhà chung. Ngài giữ hai chức vụ này cho tới năm1872, khi được bổ nhiệm làm giám mục. Năm ấy ngài mới 35 tuổi, ngài hăng say phục vụ giáo phận cho đến mãn đời. Đức cha Colombert được nghỉ yên trong Chúa vào năm 1895 (22).
Ba công trình chính mà cha Colombert đã thực hiện cho giáo phận của ngài là: Tái thiết hai chủng viện (23), xây cất nhà thờ chính toà (24), và tiếp tục công trình tổ chức các họ đạo và Hội Đồng Quí Chức (25). Công trình thứ ba này được khởi sự bởi đức cha Lefebvre (1861-1865) và đức cha Michel (1865-1872), và được tiếp tục đẩy mạnh bởi đức cha Colombert. Theo cha L. Louvet, sau thời bách hại dai dẳng và chiến tranh loạn lạc, tình trạng các họ đạo thật bi thảm: chính vì vậy, nói trắng ra là tất cả đều phải làm lại từ đầu. Phải trấn an những người tân tòng, thiết lập lại các họ đạo bị phân tán đến phân nửa hoặc đến ba phần tư, tái lập việc thờ phượng cộng đồng từ ròng rã năm năm bị gián đoạn khắp nơi, xây dựng các nhà thờ tạm thời, các nhà xứ, các tu viện cho hàng trăm nữ tu phải tạm trú ở gia đình họ...
2) Cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ của đức cha Colombert
Sáng kiến đặc biệt nhất của đức cha Colombert trong việc tổ chức lại các họ đạo chính là việc ấn hành vào năm 1884 cuốn “Chức Sở Mục Lệ”. Đứng về phương diện lịch sử và mục vụ, đây là một tài liệu rất quan trọng. Người ta có thể nói rằng bản Qui Luật này rất thực tế, chính xác và đầy đủ ít nhất là đối với thời đó. Bản Qui Luật nói rõ tất cả những gì liên quan đến vai trò và mục đích của Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo, cũng như tất cả những gì quí chức phải làm để cộng tác với linh mục trong việc điều hành một họ đạo và việc truyền giáo cho lương dân. Bản Qui Luật thu tập tất cả những ứng dụng truyền thống của việc tổ chức hàng ngũ quí chức trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam và hệ thống hóa thành những điều lệ rõ ràng. Cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert còn là một khuôn thước mẫu mực cho mọi sáng kiến tái tổ chức cơ cấu mục vụ của những họ đạo Việt Nam vào sau thời kỳ cấm cách.
Hơn nữa, cho tới năm 1953, đức cha Ngô Đình Thục, giám mục giáo phận Vĩnh Long, trong chương trình tái tổ chức những họ đạo trong giáo phận của ngài, ngài cũng chỉ ứng dụng cho Hội Đồng Quí Chức của mỗi họ đạo chính bản Chức Sở Mục Lệ được biên soạn bởi đức cha Colombert với một vài tu chính nhỏ (26).
Nói tóm lại, với cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert sọan, Hội Đồng Quí Chức của họ đạo tại Việt Nam thật sự là một thực thể có tổ chức và có định chế. Trở thành một Hiệp hội trong phong trào Công Giáo Tiến Hành với danh hiệu “Hội Đồng Quí Chức“.
3) Trình bày tổng quát cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’
Ấn bản đầu tiên của cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ không còn tìm thấy. Dù vậy, chúng ta có một bản văn đáng tin là trung thực, được in trong cuốn “Thiên Chúa Thánh Giáo Nhựt Khóa Chúa Nhựt Pháp” từ trang 629 đến trang 660, Sài Gòn 1898 (27). Đây là cuốn sách Kinh Nguyện mà mỗi một quí chức đều phải có. Mỗi quí chức đến nhà thờ luôn luôn có trong tay cuốn sách này, nhất là vào phiên của mình chủ xướng kinh nguyện cộng đoàn. Theo bản văn này, cấu trúc cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ gồm có ‘TỰA’ tức là phần dẫn nhập và 70 điều nằm trong 5 ĐOẠN. Chúng ta phân tích sơ lược như sau: (28)
CHỨC SỞ MỤC LỆ, TỰA: Trang mở đầu xác nhận, theo truyền thống và một cách thực dụng, việc tổ chức cơ cấu những quí chức đã có ngay từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam; trình bày những lý do đưa đến sự biên soạn và ấn hành cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’; nói đến bổn phận của các chức sở phải đọc cho kỹ và giữ cho đúng những điều viết trong cuốn Chức Sở Mục Lệ, và đến phần thưởng đời đời dành cho những người tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên.
ĐOẠN THỨ NHỨT: ‘Nói về sự bầu cử chức sở là có ý nào’, nghĩa là ‘nói về ý nghĩa của sự chọn lựa những quí chức của họ đạo’ (Đ.1-4): Khi xưa Chúa Kitô chọn 72 môn đệ, ngày nay theo gương Ngài, các bề trên trong Giáo Hội cũng tuyển chọn các quí chức (Đ.1); trước hết để các linh mục có những cộng tác viên và giáo dân có những gương mẫu (Đ.2). Mặc dù những quí chức không thể chờ đợi gì về những mối lợi lộc vật chất bởi phẩm chức của họ, họ biết rằng sự quan trọng của những gì là siêu nhiên vượt hơn những gì là thế tục, phẩm chức của họ đáng được quí trọng hơn tất cả những phẩm chức thế tục (Đ.3). Vậy thì, những người tham dự vào phẩm chức của họ đạo có thể là những chức sắc của thôn làng hay của những chức vị phần đời khác (Đ.4).
ĐOẠN THỨ HAI: “Nói về sự bầu cử chức sở cùng số chức sở trong mỗi họ là bao nhiêu” (Đ.5-12): Quí chức được phân biệt ra nhiều cấp bậc: trong họ đạo lớn thì có các ông Trùm phủ, Trùm nhất, Trùm nhì; trong họ đạo nhỏ thì có các ông Câu nhứt, Câu nhì; trong mỗi họ đạo lớn hay nhỏ đều có Biện việc, Biện sở và Giáp. Các ông biện phụ tá ông trùm và ông câu; còn ông giáp là người đặc trách một khu hay một xóm (Đ.5). Mỗi chức sở (quí chức) phải được bầu cử bởi giáo dân hay bởi những thành viên của Hội Đồng Quí Chức, sau đó phải được cha xứ tán thành. Quí chức cấp cao còn được đức giám mục cấp bằng (Đ.6). Để là ứng viên, thứ nhứt phải ‘có công làm giáp một ít năm’; thứ hai ‘phải đặng chừng 30 tuổi’; thứ ba, ‘cách ăn nết ở phải hiền từ đức hạnh, danh thơm tiếng tốt’; thứ bốn, phải thông hiểu lẽ đạo cho đặng dạy dỗ người ta những điều cần kíp’; thứ năm, phải ‘giữ đạo cho chín chắn’; thứ sáu, ‘phải biết đọc cùng biết viết chữ quốc ngữ hay là chữ nôm’ (Đ.7). Các chức sở đã được đức giám mục cấp bằng thì chỉ có thể bị truất chức bởi đức giám mục (Đ.8); Người làm giáp thì cha xứ có quyền chọn và cấp bằng, nên ngài cũng có quyền cất chức khi có lý do chính đáng. Người làm giáp ít nhất phải đủ hai mươi lăm tuổi (Đ.9). Sĩ số quí chức tùy thuộc tầm quan trọng của mỗi họ đạo: Họ đạo trên một ngàn giáo dân, có thể đặt hai ông trùm, hai ông câu và mười hai ông biện tùy theo trong họ đạo có nhiều xóm hay ít xóm; còn họ đạo có dưới một ngàn giáo dân và có cha sở, thì chỉ cần đặt một ông trùm, hai ông câu và chín ông biện; còn những họ đạo không có cha sở thì phải có một ông câu và bốn ông biện. Riêng số ông giáp thì tùy cha bổn sở (Đ.10). Họ nào muốn thêm sỉ số các chức sở như đã ấn định thì phải xin phép đức giám mục (Đ.11). Hiện nay họ đạo nào quá sỉ số các chức sở, thì cứ giữ nguyên, nhưng khi một chức sở qua đời thì không được thay thế (Đ.12).
ĐOẠN THỨ BA: “Nói về chức phận mỗi một người trong hàng chức sở” (Đ.13-18):
Chức phận trùm phủ: chức trùm phủ dành cho người có công nghiệp đối với họ đạo hay với nhà chung. Người có chức trùm phủ được đức giám mục đặt cử nên là bậc đàn anh trên hết các chức sở của họ đạo và trong cả giáo phận (Đ.13).
Chức phận ông Trùm họ (trùm nhất): Ông là người đứng đầu cả họ, cả Hội Đồng Qúi Chức trong họ, dưới quyền của cha sở. Ông phải làm gương tốt cho mọi người (Đ.14); Ông chủ sự đọc kinh trong nhà thờ và các buổi hội qúy chức trong họ (Đ.15), lo giữ bầu khí hoà thuận trong họ, phân xử các vụ xích mích, và trình lên cha sở mọi công việc (Đ.16). Nhiệm kỳ của trùm nhất là mãn đời, khi ông đau yếu thì trùm nhì thay thế (Đ.17). Khi ông qua đời, phải đợi đủ ba tháng mới bầu ông trùm thay thế và xin đức giám mục phát bằng bầu cử (Đ.18). Ông trùm nhì được quyền làm các việc như trùm nhất, khi ông này vắng mặt hay đau yếu (Đ.19).
Chức phận câu họ: Trong họ lớn thì câu họ (trùm nhì) có phận vụ như vừa nói trên, còn trong họ nhỏ thì chức vụ câu cũng giống chức trùm nhất (Đ.20). Vừa khi bầu cử xong, cha sở phải xin đức giám mục cấp bằng cho câu họ (Đ.21). Nhiệm vụ đặc biệt của câu họ là lo quán xuyến của cải trong họ, vườn và ruộng nhà chung, nhất là việc thu tiền cho mướn ruộng đất (Đ.22). Ông còn phải quan tâm việc giữ sạch sẽ bên trong bên ngoài nhà thờ và đất thánh (Đ.23). Tóm lại, câu họ (trùm nhì) được đặt lên là để giúp đỡ câu nhứt (trùm nhứt) nên có quyền lợi và phận vụ như trùm nhứt (Đ. 24).
Chức phận Biện việc: Tức ủy viên tài chánh, là người làm việc trực tiếp dưới quyền cha sở hay ông trùm nhất để lo việc xuất phát (chi tiêu) của nhà thờ (Đ.25). Ông được các chức sở trong họ bầu lên với nhiệm kỳ một năm (Đ.26). Ông biện việc phải lo sắm sửa các đồ thờ phượng trong nhà thờ, lo việc chi tiêu và tiền còn lại nộp về cha sở (Đ. 27). Ông phải làm sổ sách nghiêm chỉnh và trình sổ với các chức sở và cha sở vào ngày lễ hai thánh Phêrô và Phaolô mỗi năm (Đ.28). Ông phải làm việc dưới quyền cha sở và mỗi lần nhóm họp, chính ông phải mời các chức sở tới (Đ.29).
Chức phận Biện sở: Mỗi họ đạo chia ra nhiều xóm và mỗi xóm có một biện sở trách nhiệm (Đ.30). Biện sở như ‘con mắt của cha sở’ để lo toan mọi việc trong xóm, phải trình ngài mọi vụ việc, nhất là khi có gương xấu xảy ra (Đ.31). Do đó phải làm gương tốt và giữ đạo sốt sắng (Đ.32). Cụ thể là phải đi dự các giờ phụng tự trong nhà thờ, như nghe giảng, học sách phần, đọc kinh, dâng lễ, siêng năng đọc kinh sáng tối (Đ.33). Khi cha sở muốn gặp ai, biện sở phải tìm người đó đến. Phải luôn nhớ mình là người thay mặt cha sở và bổn đạo trước mặt Chúa (Đ.34).
Biện sở phải học biết cách rửa tội để khi cần kíp thì rửa tội, khi có trẻ em sinh ra đã ba ngày hay người lớn cần rửa tội thì trình cha sở (Đ.35), phải cắt nghĩa cho cha mẹ và người đỡ đầu biết những việc họ phải làm (Đ.36); lại phải giúp đỡ và liên hệ với những ‘mụ bà’ hay ‘phô ông làm thầy thuốc’ thường đi rửa tội cho trẻ em ngoại giáo (Đ.37 và 39-40). Biện sở phải sốt sắng dạy giáo lý cho bổn đạo và truyền giáo cho lương dân; nếu cần phải giúp họ có cơm ăn áo mặc, nhà ở, cả sau khi họ đã chịu phép rửa tội. Do đó cần đi dự các giờ giáo lý cha sở dạy (Đ.38). Biện sở phải làm sổ những người xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh, những trẻ em Rước lễ lần đầu, chịu Phép xức trán, những thanh niên chưa rước lễ hay chưa chịu xức trán, những cặp vợ chồng rối, những người mới nhập họ (Đ.41). Biện sở phải quan tâm nhắc nhở những cha mẹ lơ là trong việc giáo dục con cái, bỏ bê việc dạy kinh bổn cho con cái, hay có con đã lớn mà chưa xưng tội hoặc chưa chịu xức trán; cũng phải nhắc nhở cho các vú bõ nhớ phận vụ của họ (Đ.42).
Khi có người đau yếu, biện sở phải năng thăm viếng, rước linh mục về ban phép Xức dầu cho họ (Đ.43). Khi linh mục kiệu Mình Thánh đến, biện sở phải lo bày bàn thờ, cùng đọc kinh với những người thân cận gia đình, giúp bệnh nhân dọn mình… (Đ.44). Khi bệnh nhân qua đời, biện việc lo tránh các tục dị đoan, mà theo sách Tử Hầu giúp gia đình tổ chức lễ an táng đúng theo phép Hội Thánh. Sau đây là những việc không được làm trong việc tống táng: - phải chôn xác nội trong ba ngày, - không được tổ chức ăn uống linh đình, - không đốt pháo, chơi nhạc, - không được cầu hồn chung trong tư gia, mà phải tổ chức ở nhà thờ họ, - phải ăn mặc chỉnh tề, không khóc lóc, không ăn trầu hút thuốc trong khi cử hành lễ an táng, - không om xòm, nhưng thinh lặng, đọc kinh cầu nguyện và tỏ lòng cung kính (Đ.45). Riêng việc cưới hỏi, biện việc phải nhắc người ta giữ đủ ba lễ: lễ bỏ trầu cau, lễ hỏi và lễ cưới, và dĩ nhiên lễ bỏ trầu cau ít trọng hơn lễ hỏi và lễ hỏi ít trọng hơn lễ cưới. Nếu thấy có một bên đòi hỏi quá lẽ công bằng, biện việc phải khuyên răn, bằng không được thì phải trình cha sở. Việc làm dâu sau ngày cưới cũng vậy (Đ.46). Gần ngày cưới, đôi bạn và cha mẹ phải được biện sở dẫn tới cha sở để xin rao ba lần và để dọn mình xưng tội và làm phép cưới chứ không trì hoãn (Đ.47). Ngày lễ cưới, biện sở phải lo chuẩn bị bàn thờ, nhẫn, nến cho đôi bạn. Sau ngày lễ phải lo sổ sách cẩn thận và đem nộp tờ hôn thú cho làng xã (Đ.48). Biện sở phải nhắc cho hai gia đình biết: lễ ở nhà thờ, tại gia đình và việc đưa dâu về nhà chồng phải làm xong trong một ngày, và phải coi bí tích hôn phối trọng hơn việc cưới đời. Trong bữa tiệc cưới, lẽ thường biện việc được mời tới dự, ông phải lo tránh mọi hình thức dị đoan (Đ.49). Bây giờ không còn được cử hành hôn phối trước mặt mấy chức việc làm chứng nữa, trừ khi hoàn cảnh không thể mời được linh mục (Đ.50).
Biện việc lại lo cho trong họ tránh khỏi gương xấu: vì cảnh rối vợ rối chồng, vì người chồng có vợ bé, vì vợ chồng chia rẽ nhau, cảnh cờ bạc, nghiện ngập, cho vay ăn lãi nặng, làm việc xác ngày chúa nhật, vì bỏ bê con cái. Nếu khuyên răn không được, phải trình lên cha sở (Đ.51). Biện sở phải quan tâm giúp đỡ những người già yếu, khó nghèo, những kẻ bị sa cơ, thất thế… Bằng trong họ không ai giúp được thì phải trình cha sở (Đ.52).
Thi hành phận vụ như vậy, biện sở vừa phải nhiệt tâm vừa phải khiêm tốn, không kiêu căng và hằng nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Ai làm lớn phải trở nên bé nhỏ, và phục vụ mọi người” (Mt 10,43-44). Phục vụ như vậy, bây giờ biện sở được vui trong lòng và ngày sau sẽ được thưởng bội hậu (Đ. 53).
Chức phận người làm Giáp: Giáp là phó biện, chuẩn bị để nhập hàng chức sở. Cha sở chọn và cấp bằng cho Giáp (Đ.54). Biện sở có quyền đề nghị thêm ông giáp giúp đỡ mình (Đ.55). Phận vụ của ông giáp là phụ tá biện sở. Vì thế trong các buổi hội chức sở, giáp có thể tham dự mà không có quyền bàn luận (Đ.56).
ĐOẠN THỨ BỐN: “Nói về những quyền lợi riêng trong hàng chức sở”: Danh tánh và ngày được thăng cấp của một quí chức phải được ghi chú trong một sổ bộ đặc biệt (Đ.57); Tại nhà thờ, quí chức được ngồi ở hàng ghế giữa, người làm giáp quỳ trên hết và ông trùm quỳ sau hết (Đ.58): khi không có cha sở, các chức sở được quyền rao lịch, đọc thông báo và chủ xướng kinh hạt (Đ.59). Các chức sở hội chung với cha sở để bàn tính mọi công việc trong họ (Đ.60). Các chức sở thay phiên nhau đi dự cấm phòng do đức giám mục tổ chức (Đ.61). Khi chức sở qua đời, họ đạo sẽ lo việc mai táng (Đ.62), riêng ông trùm sẽ được họ đạo xin cho ba lễ và ông giáp được một lễ (Đ.63). Hàng năm vào tháng các Đẳng, họ đạo xin một lễ cầu cho các chức sở đã qua đời (Đ.64).
ĐOẠN THỨ NĂM: “Nói về những người xin thôi làm chức sở cùng những người phải cất chức”: Khi một chức sở muốn xin thôi làm việc, phải thưa mọi lẽ với cha sở để ngài trình lên đức giám mục và tìm người thay thế. Chỉ khi được đức giám mục chấp nhận và nộp bằng lại cho ngài, lúc ấy mới chính thức thôi việc. Trường hợp một chức sở đi qua họ đạo khác thì không còn là chức sở nữa, trừ khi được đức giám mục nhận cho làm chức sở trong họ đạo mới tới (Đ.65). Chỉ các chức sở xin thôi làm việc cách chính đáng mới có thể được phục nhiệm bởi đức giám mục (Đ.66).
Những người kể sau đây không được làm việc họ đạo: - Người hám quyền chức mà không lo bổn phận – Người bỏ Mùa Phục Sinh – Người rối vợ hay mê đắm dục tình – Người kiện việc đạo ra tòa đời – Người không vâng lời cha sở hay ông trùm trong vụ việc quan trọng – người làm nhục cách nặng hay đánh đập một chức sở – Người nghiện rượu, cờ bạc, thuốc phiện – Người kiện tụng trái lẽ công bằng - Người cho vay ăn lãi quá đáng, hay đồng lõa với đảng cướp (Đ.67). Một chức sở vấp phải những lỗi lầm trên đây, cha sở và hàng chức sở phải khuyên nhủ và cảnh cáo đôi ba lần trước, nếu chức sở đó không nghe và sửa mình, thì cha sở và hàng chức sở phải cách chức họ (Đ.68). Nếu chức sở làm điều lỗi nặng và công khai, thì sau khi đã hối cải, còn phải xin lỗi công khai là tùy tiện, nghĩa là phải lạy tạ lỗi họ đạo và hàng chức sở (Đ.69).
Sau cùng, mỗi năm một lần, vào dịp lễ thánh Phêrô và Phao lô, các quí chức phải được học tập về cuốn Chức Sở Mục Lệ này (Đ.70).
Như chúng ta đã nói ở trên, cuốn Chức Sở Mục Lệ được soạn thảo và ban hành bởi đức cha Colombert là một văn bản rất quan trọng. Chúng ta có thể thêm rằng những thư chung của các vị giám mục kế vị, về căn bản, không đem thêm điều gì mới vào những điều đã được đức cha Colombert trình bày. Tỷ dụ, trong một thư chung năm 1954 về Công Giáo Tiến Hành, đức cha Isidore Dumortier đã chép lại nguyên văn những điều 3 và điều 38 của cuốn Chức Sở Mục Lệ để nêu lên mục đích của Công Giáo Tiến Hành và mối tương quan của tổ chức này với thừa tác vụ của linh mục. Sau cùng ngài kết luận: “những điều khoản của cuốn Chức Sở Mục Lệ được soạn ra đã 50 năm nay cho quí chức, hầu như cũng được soạn cho cả những thành viên của Công Giáo Tiến Hành. Vậy, để thiết lập trong mỗi họ đạo những cơ cấu Công Giáo Tiến Hành theo nguyện vọng của đức giáo hoàng, các linh mục chỉ cần nhấn mạnh cho quí chức về lòng nhiệt thành lớn lao đối với phần rỗi của các linh hồn, nhắc nhủ họ tuân giữ những điều được ghi trong cuốn Chức Sở Mục Lệ. Việc đọc lại vài điều của cuốn Chức Sở Mục Lệ trong mỗi buổi họp các quí chức là điều rất ích lợi” (29).
II. THƯ CHUNG NĂM 1899 CỦA ĐỨC CHA P. M. GENDREAU
1) Cảm hứng từ cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert
Tầm quan trọng của cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert soạn thảo, còn giữ một chỗ ngồi rất độc đáo trong thư chung nói riêng về việc tổ chức các Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo của đức cha Pierre Marie Gendreau (đức cha Đông), giám mục giáo phận Hà Nội. Trong cùng một đường hướng tái tổ chức những cộng đoàn tín hữu sau thời kỳ bách hại, vào năm 1899, tức là 15 năm sau khi phát hành cuốn Chức Sở Mục Lệ tại Nam Kỳ, đức cha P.M. Gendreau đã gửi đến các cha xứ một thư chung quan trọng. Trong thư chung này, ngài vạch ra những qui luật chính cho sự tái tổ chức Hội đồng Quí Chức. Đem so sánh thư chung của đức cha P.M. Gendreau với cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert soạn, chúng ta thấy rõ rằng:
Cơ cấu tổ chức: Toàn bộ phương thức tổ chức Hội Đồng Quí Chức là đồng nhất cho giáo phận Bắc Kỳ cũng như cho giáo phận Nam Kỳ.
Mấy khác biệt: Chỉ có sự khác biệt về sĩ số và danh xưng của mỗi thành viên Hội đồng Quí chức. Tỷ dụ, người đứng đầu của họ đạo ở Bắc Kỳ được gọi là «Chánh trương», ở Nam Kỳ là «Trùm nhất». Người đứng đầu họ đạo nhỏ (họ nhánh, họ lẻ) ở Bắc Kỳ được gọi là «Trùm họ», ở Nam Kỳ là «Biện sở» v.v…
Lược tóm thư chung: Cấu trúc trình bày trong thư chung không được hợp lý và chi tiết bằng trong cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert. Với tựa đề là «bản Qui Luật của Hội Đồng Quí Chức», thư chung của đức cha P.M. Gendreau, sau phần dẫn nhập ngắn, gồm có 15 số, được lược tóm như sau:
+ Phần dẫn nhập: Tất cả các họ đạo đều phải có những quí chức để giúp đỡ linh mục trong việc phụng tự, ban bí tích, lo cho phần rỗi các linh hồn để có thể hy vọng một trật tự bền bỉ và vững chắc trong sinh hoạt cộng đoàn tín hữu vì vinh danh của đạo giáo và vì phần ích thiêng liêng của giáo dân. Vì thế, luôn luôn theo truyền thống có sự đặt định các người phụ trách những họ đạo chính, họ đạo nhỏ hay khu xóm. Một truyền thống đầy lợi ích cần được các họ đạo thực hiện.
+ Số 1: Những thành viên hội đồng quí chức
+ Số 2: Nhiệm vụ của mỗi thành viên
+ Số 3: Sự chọn lựa quí chức
+ Số 4: Phương thức bầu cử quí chức
+ Số 5: Quyền hưởng tuần phòng
+ Số 6: Quyền tiên chỉ
+ Số 7: Cuộc đầu phiếu và những đặc quyền
+ Số 8: Sự đóng góp nêu danh
+ Số 9: Những qui định về sự đóng góp
+ Số 10: Tài sản của họ đạo
+ Số 11: Những khoản chi của họ đạo
+ Số 12: Những việc đạo đức, cấm phòng
+ Số 13: Mời linh mục viếng kẻ liệt
+ Số 14: Những lễ tang
+ Số 15: khi có linh mục lưu trú ở cộng đoàn tín hữu
2) Một vài điểm mới
Mặc dù chịu ảnh hưởng rõ rệt bản văn của đức cha Colombert, thư chung của đức cha P.M. Gendreau cũng có vài điểm mới, tỷ như sự đóng góp nêu danh, sự luân phiên phụ trách những bữa ăn v.v... Đó là vì ở Bắc Kỳ có những tập quán mà ở Nam Kỳ không có. Đàng khác, thư chung của đức cha P.M. Gendreau đã đánh dấu một bước tiến lớn trong diễn tiến lịch sử của Hội Đồng Quí Chức ở Bắc Kỳ, giống như bước tiến quan trọng mà bản văn của đức cha Colombert đã chứng tỏ ở Nam Kỳ. Hơn nữa, thư chung của đức giám mục Hà Nội sẽ được bổ túc bởi những nghị quyết của Công Nghị đầu tiên giáo phận Bắc Kỳ vào năm 1900 (30).
III. CÔNG NGHỊ MIỀN ĐẦU TIÊN GIÁO PHẬN BẮC KỲ
Công nghị này được tiến hành từ ngày 10.2.1900 đến ngày 6.3.1900 tại giáo phận Hải Phòng (Tonkin Oriental), dưới sự chủ tọa của đức cha Joseph Terres (Hiên), cùng với sự tham dự của sáu vị giám mục miền Bắc Kỳ và bảy cha chính của bảy giáo phận (31). Công nghị đã đưa ra nhiều nghị quyết liên quan đến sự cộng tác của giáo dân, nhất là sự cộng tác của quí chức đối với linh mục như được diễn thuật dưới đây.
«Trong mỗi họ đạo phải có hai quí chức, được bầu ra bởi chính giáo dân trong họ đạo và được cha xứ tán thành. Họ là những người có danh thơm và hạnh kiểm tốt để nhân danh và thay thế linh mục chăm sóc họ đạo, bảo tồn và quản trị nhà thờ và những tài sản: Họ chăm lo mọi sinh hoạt của họ đạo cho tốt đẹp: quán xuyến các lớp giáo lý, phân xử những tranh tụng nhỏ giữa các giáo dân, nhắc nhủ giáo dân tuân giữ luật lệ trong họ đạo, điều khiển những buổi cầu nguyện chung trong nhà thờ ít ra là vào những ngày chủ nhật và lễ trọng, đọc thông báo và rao lịch phụng vụ, nhắc nhở ngày giữ chay và kiêng thịt… nhất là khi các thày giảng vắng mặt,ân cần viếng thăm các bệnh nhân trong họ đạo và kịp báo cho linh mục trường hợp có người bệnh nặng để ngài đến ban các bí tích cho bệnh nhân. Về phía cha xứ, ngài phải yểm trợ tối đa những quí chức thuộc quyền. Quí chức có bổn phận báo cho linh mục biết những sự lạm dụng nếu có trong cộng đoàn, thông tin về những đôi bạn sắp thành hôn, những tranh tụng và cãi lộn giữa các gia đình tín hữu, tắt một lời, về tất cả những gì phải làm cho đời sống của họ đạo được tốt đẹp mọi bề» (32).
Đàng khác, Công Nghị muốn các cha xứ bổ nhiệm một vài quí chức (nam hay nữ, đạo đức, học thức) làm phận sự người quản giáo chuyên lo cho các trẻ em nghiêm trang và sốt sắng trong nhà thờ, dạy chúng về giáo lý và cách cầu nguyện (33); một vài quí chức khác lo việc quản trị tài sản của cộng đoàn tín hữu và của nhà thờ (34); chọn lựa và huấn luyện người (nam hay nữ) lo việc rửa tội khi khẩn cấp (35). Tuyệt đối, cha xứ không được đánh phạt giáo dân bằng roi hay xử phạt họ theo kiểu cách ngoài đời (36).
IV. CÔNG NGHỊ MIỀN LẦN THỨ HAI GIÁO PHẬN BẮC KỲ
Vào năm 1912, dưới sự chủ tọa của cha P.M. Gendreau, giám mục Hà Nội (Tonkin occidental), công nghị miền lần thứ hai tụ họp tại Kẻ Sơ. Hầu như tất cả các vị giám mục những giáo phận Bắc Kỳ đều tham dự. Công nghị này không có mục đích đặc biệt nào khác là bổ túc những nghị quyết của công nghị năm 1900. Bản văn chính thức cho thấy không có điều gì mới, cũng một cấu trúc và cũng những đề mục như trong bản văn của công nghị đầu tiên (37). Và trong đề mục sau cùng «De cura christianorum» mới nói một chút về các Quí Chức. Cấm các cha xứ không được bãi nhiệm ông chánh trương của giáo xứ (38), không được thành lập những họ đạo mới, không được phân chia giáo xứ thành những họ lẻ khi không có giấy phép của đức giám mục (39).
Không ai có thể phủ nhận những cố gắng đáng kể của các giám mục ở Việt Nam trong sự tổ chức lại những cộng đoàn tín hữu sau thời kỳ bách hại. Nhờ những cố gắng này mà vai trò, sự tuyển chọn, những nhiệm vụ cũng như quyền lợi của các quí chức được qui định rõ rệt và được định chế hóa. Tuy nhiên, những cố gắng này còn hạn định trong mỗi giáo phận hay đúng hơn là trong mỗi miền, Bắc Kỳ hoặc Nam Kỳ. Trong khi tôn trọng những sáng kiến riêng của mỗi miền, người ta chờ đợi một chỉ thị chung thực thi trên toàn quốc, hay đúng hơn, áp dụng cho toàn thể Giáo Hội Việt Nam, liên quan đến mọi phương diện đời sống Giáo Hội và cách riêng, cho việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức trong các họ đạo. Nguyện vọng này sẽ được thực hiện bởi Công đồng Đông Dương (Indochine) năm 1934, dự kiến thích nghi sự tổ chức Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo theo cơ cấu của Công Giáo Tiến Hành.
MỤC IV
ĐƯỢC THÍCH ỨNG THEO
ĐỊNH CHẾ CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH
(1934 - 1953 )
I. CÔNG ĐỒNG ĐÔNG DƯƠNG
1) Công nghị quan trọng nhất tại Việt Nam
Công đồng Đông Dương năm 1934 là công nghị quan trọng nhất được cử hành tại Việt Nam. Công đồng hội tại Hà Nội, thủ đô của Bắc Kỳ, từ ngày 17.11.1934 đến ngày 6.12.1934. Công đồng được triệu tập và chủ tọa bởi đức tổng giám mục Columban M. Dreyer O.P., Khâm sứ Tòa Thánh. Tất cả các giám mục Việt Nam, Cao Miên và Lào hiện diện cùng một số đông linh mục. Công đồng hoạt động qua 5 ủy ban chuyên đề. Liên quan mật thiết đến công việc khảo cứu của chúng ta là ủy ban thứ tư, vốn đã nghiên cứu về tình trạng các giáo phận, công việc thuyết giảng, công việc dạy giáo lý, các trường học và Công Giáo Tiến Hành.
Bản văn Công đồng cho thấy nhiều nghị quyết liên quan đến Hội Đồng Quí Chức của họ đạo. Cần thiết phải nhận ra rằng chủ đích của Công đồng là thích ứng việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức vào định chế Công Giáo Tiến Hành được gợi ý bởi đức giáo hoàng Piô XI (40). Lẽ tự nhiên, đó là một sáng kiến mục vụ lớn, vừa hữu lý vừa lợi ích; và là một sự canh tân thích đáng trong đường hướng làm cho sự cộng tác của giáo dân vào sứ vụ của linh mục được hữu hiệu hơn trong một xã hội tân tiến. Nhưng các nghị phụ công đồng đã tỏ ra thận trọng bằng cách giữ lại cấu trúc căn bản và truyền thống của các họ đạo. Chính vì thế, chúng ta không ngạc nhiên nhận thấy rằng những bản văn của Công đồng Đông Dương cũng như những thư chung của các giám mục hay những cuốn Chỉ Nam của mấy giáo phận luôn ăn khớp với nhau, tất cả đều lặp đi lặp lại những gì đã hiện hữu từ lâu trong đời sống họ đạo ở Việt Nam. Sự thực là chỉ có một vài thay đổi trong những điều chi tiết, ngoài ra toàn bộ cơ cấu của họ đạo và của Hội Đồng Quí Chức được giữ nguyên. Và đó lại thêm một lý do cho phép công việc khảo cứu của chúng tôi mở rộng đến năm 1953, năm mà cuốn Chức Sở Mục Lệ, được soạn thảo vào năm 1884 bởi cha Colombert, được nhuận sắc và ấn hành lại bởi đức cha Ngô đình Thục, giám mục giáo phận Vĩnh Long.
2) Những nghị quyết Công đồng Đông Dương
Công đồng dành chương VII của tập IV (41) để trình bày về đề tài «Hội đoàn Công Giáo Tiến Hành và những Hiệp hội giáo dân». Với tựa đề đó, chương này được chia làm 4 mục:
Mục I: «De natura Actionis Catholicae et de obligatione eam instituendi» (Bản chất Công Giáo Tiến Hành và bổn phận phải thiết lập), gồm 11 điều (Đ.356-366) với những điểm chính sau đây:
Mục đích của Công Giáo Tiến Hành: Qua hoạt động của Công Giáo Tiến Hành, những tín hữu nam cũng như nữ, nhất là giới trẻ, bằng cầu nguyện cũnh như bằng lời nói và việc làm, góp phần vào sự thăng tiến xã hội, sự thịnh vượng của tổ quốc, quan tâm quảng bá những huấn thị thánh thiện và lành mạnh của Phúc Âm, cộng tác với các giám mục và linh mục trong việc loan truyền đức tin và phát huy những điều thiện hảo của đức bác ái Kitô giáo dành cho tha nhân và cho xã hội (Đ.358).
Thích ứng cơ cấu của Hội Đồng Quí Chức vào việc tổ chức Công Giáo Tiến Hành. Tại các nước của chúng ta, thể chế cũ của Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo có thể được vận dụng vào việc tổ chức Công Giáo Tiến Hành (Đ.363). Thực vậy, những thể chế cũ đó rất hiệu lực trong việc giúp các thừa sai quản trị họ đạo về phương diện thiêng liêng cũng như thế tục, chúng có thể cũng lợi ích cho công trình củng cố đức tin người tín hữu và truyền bá đức tin cho lương dân, vốn là hai mục tiêu của Công Giáo Tiến Hành (Đ.364). Nếu những quí chức được tuyển chọn kỹ lưỡng, nghĩa là được huấn luyện, sống cương trực, công chính, đức hạnh và đạo đức, họ sẽ là thành phần ưu tú của cộng đoàn tín hữu, là hạt nhân cho sự hình thành Công Giáo Tiến Hành (Đ.365).
Mục II: « De Consociationibus Fidelium auxiliaribus Actionis Catholicae» (Những hiệp hội giáo dân trợ giúp Công Giáo Tiến Hành gồm 10 điều (Đ.367-376), những điểm mà chúng ta chú ý nhất là:
Mời gọi giáo dân tham gia những hiệp hội được Giáo Hội chấp nhận: «Để chuẩn bị cho các nước của chúng ta có 684) khi gia nhập hoạt động trong những hiệp hội được Giáo Hội thành lập hay chấp nhận (Đ.367). Vậy thì, Giáo Hội không nhìn nhận bất cứ một hiệp hội tín hữu nào mà một định chế Công Giáo Tiến Hành hùng mạnh, chúng ta phấn khích trước tiên mọi tín hữu, với điều kiện họ là những tín hữu công giáo đích thực như tên gọi, gia nhập các hiệp hội khác nhau tùy theo tuổi tác và hoàn cảnh xã hội của họ. Thực vậy, họ xứng đáng được khen ngợi (theo khoản không được thành lập hay ít ra được công nhận bởi giáo quyền hợp pháp, sau khi qui chế của hiệp hội được cứu xét bởi Tòa Thánh hay bởi bản quyền địa phương (Đ.368).
Những hiệp hội chính là: Tông đồ cầu nguyện (Đ.371), Nghĩa binh Thánh Thể (Đ.372), hội Con Đức Mẹ, hội Thánh Anna (Đ.373), hội Kinh Mân Côi, hội Thánh Thể, hội Thánh Tâm (Đ.374), Dòng ba Phan Sinh, Dòng ba Đa Minh (Đ.375).
Mục III: «De Actione Catholica proprie dicta ejusque organisatione» (Về sự tổ chức Công Giáo Tiến Hành đích thực) có 20 khoản (Đ.377-396), sau đây là những điều chính:
Thành lập các trung tâm giáo phận và xứ đạo «…Sau khi soạn thảo những qui chế, mỗi giáo phận phải lập nên và chỉ đạo một ủy ban giáo phận đặc trách cổ võ cho Công Giáo Tiến Hành trong khắp giáo phận. Cũng vậy, trong mỗi xứ đạo, một ủy ban giáo xứ được tuyển mộ từ những tín hữu xứng đáng nhất để phối hợp với cha xứ phụ trách những hoạt động của Công Giáo Tiến Hành trong xứ đạo. Tất cả những ủy ban vừa nói trên sẽ được hướng dẫn bởi một linh mục do giáo quyền liên hệ chỉ định (Đ.377)».
Chú trọng đặc biệt đến giới trẻ: «Phải thành lập một hiệp hội thanh thiếu niên công giáo trong các vùng công giáo, rất cần thiết và ích lợi cho đạo giáo và đất nước (Đ.378)».
Những tiêu chuẩn thu nạp: Trong các hội đoàn công giáo, nhất là các hội đoàn của giới trẻ, có thể thu nạp như là hội viên thường cả những người trẻ ngoài công giáo, nhưng phải khôn ngoan chọn lựa giữa những học sinh có hạnh kiểm tốt trong các trường học công giáo (Đ.379).
Mục tiêu sinh hoạt: Phải có những buổi hội hàng tháng để các hội viên học hỏi giáo lý, đào sâu đức tin, hun đúc lòng nhiệt thành tông đồ và thấm nhuần về mục đích của hội đoàn (Đ.380). Cần có linh mục hướng dẫn về đời sống đạo đức của hội viên (Đ.381), Nên tổ chức đại hội theo khuôn khổ từng hạt hay cả giáo phận, như đại hội Thánh Thể, đại hội Thánh Mẫu (Đ.382). Đặc biệt trong thành phố nên tổ chức các câu lạc bộ cho người trẻ để giúp họ hiểu và dấn thân vào hoạt động Công Giáo Tiến Hành (Đ.383). Lại cần có những hội Công Giáo Tiến Hành dành riêng cho nữ giới (Đ.384). Kêu gọi giáo dân nam nữ đoàn viên Công Giáo Tiến Hành tình nguyện dạy giáo lý phụ tá các linh mục và thày giảng (Đ.385), nhất là lấy lời cầu nguyện, lời nói và việc làm giúp việc truyền giáo (Đ.386).
Những hiệp hội truyền giáo: Hội Thánh Phêrô (c.387), Hội cầu nguyện cho các nước Đông Phương trở lại đạo (c.388), Hội thánh Vinh Sơn, Hội Từ Thiện (c.392).
Dưới sự chỉ đạo của hàng giáo phẩm: Nói vắn tắt, trong tất cả lãnh vực tôn giáo, dân sự và xã hội, Công Giáo Tiến Hành hoạt động cộng tác với và dưới sự chỉ đạo của hàng giáo phẩm (c.394).
Công Giáo Tiến Hành và vấn đề chính trị: Phải tuyệt đối tách rời khỏi Công Giáo Tiến Hành những vấn đề chính trị và đảng phái chính trị. Tuy nhiên, với tư cách riêng là người công dân, tín hữu công giáo được tự do gia nhập đảng phái chính trị nào có bản chất lương thiện và chính đáng, không có xu hướng lật đổ trật tự xã hội (c.395).
Soạn thảo quy chế: Một ủy ban sẽ được thiết lập để soạn thảo các quy chế Công Giáo Tiến Hành thích ứng cho từng quốc gia (Đ. 396).
Điều IV: «De libris et diaris etc» (Về sách báo và tài liệu… ) gồm 6 điều (Đ.397-402) trình bày cho chúng ta sự cần thiết và hiệu lực của việc phát hành sách báo công giáo (Đ.397-400), nhất là sách Kinh Thánh (Đ.401); nguyện vọng lập những thư viện (Đ.401), và một ủy ban đặc biệt phụ trách thẩm định giá trị sách báo đời và quảng bá nền văn hóa lành mạnh (Đ.402).
Trước khi xác định phần này, chúng ta phải nói thêm rằng, do tình hình chính trị và kinh tế của xứ sở đương thời gặp vô vàn khó khăn, những nghị quyết của Công Đồng Đông Dương (Indochine) không được thực hiện một cách có hiệu quả, mặc dù được lặp đi lặp lại trong những cuốn Chỉ Nam ấn hành tại Việt Nam từ sau Công Đồng. Điều này có nghĩa là dù được thích ứng theo Công Giáo Tiến Hành, định chế của xứ đạo và của Hội Đồng Quí Chức vẫn được giữ nguyên vẹn.
II. NHỮNG CUỐN CHỈ NAM CỦA CÁC GIÁO PHẬN
Để thể hiện những quyết nghị của Công Đồng Đông Dương (1934), bốn giáo phận đã cho ấn hành cuốn Chỉ Nam (Directoire): Sài Gòn, Quy Nhơn, Hà Nội và Huế (DSG, DQN…) (42). Nhưng chỉ trong ba cuốn Chỉ Nam của ba giáo phận Quy Nhơn, Huế và Hà Nội việc tổ chức họ đạo và Hội Đồng Quí Chức được đề cập đến một cách kỹ lưỡng. Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Sài Gòn vẫn theo sát cuốn Chức Sở Mục Lệ ấn hành bởi cha Colombert năm 1884 (43). Vả lại, Những cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế (1940) và giáo phận Quy Nhơn (1942) hầu như có chung một bố cục, chung một văn từ, và chung những danh mục, ngoại trừ sự khác biệt về các số ghi (44). Chính vì thế, chúng ta sẽ trình bày chung cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế và cuốn Chỉ Nam của giáo phận Quy Nhơn, sau đó mới trình bày cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội.
1) Hai cuốn Chỉ Nam của giáo phận Huế và Quy Nhơn
Trước tiên, cả hai cuốn xác định rằng «Đời sống công giáo trong mỗi một họ đạo hay trong mỗi giáo xứ được diễn tiến dưới sự điều khiển của cha xứ và những quí chức cùng với sự tình nguyện cộng tác của mọi thành viên họ đạo» (45). Chung chung, việc tổ chức hàng quí chức lấy lại bản văn trong cuốn Chức Sở Mục Lệ của giáo phận Sài Gòn, như lời tuyên bố rõ ràng sau đây: Những nghĩa vụ chính yếu của giáo dân và của quí chức được ghi tóm trong hai cuốn «Giáo Hữu Mục Lệ và Chức Sở Mục Lệ» phải được đọc lên trong họ đạo hai lần mỗi năm, vào dịp lễ Giáng Sinh và lễ các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô» (46). Hai cuốn Chỉ Nam này dành mục VI để qui định «Việc tổ chức các họ đạo». Mục này gồm 5 phần. Phần 1: «Quí chức của họ đạo» (Les Notables des Chrétientés), đề cập đến:
a) Mục đích và danh xưng các quí chức: Cha xứ là người trách nhiệm về sự vận hành tốt của xứ đạo. Ngài được giúp đỡ bởi Hội Đồng Quí Chức gồm những chức năng trùm cả, câu I, II, III…, biện sở, biện I, II, III… biện phái hay giáp. Sĩ số quí chức thay đổi tùy theo tầm quan trọng và những nhu cầu của xứ đạo và họ đạo (47).
b) Việc bổ nhiệm các quí chức: Cha xứ có thể đề cử những ứng viên trùm cả, câu I…; Ban chức sở (Ban chức việc) có thể đề cử những ứng viên ‘biện phái hay giáp’. Nhưng tốt hơn là tất cả những ứng viên được bầu lên qua cuộc đầu phiếu của giáo dân (48).
c) Những điều kiện cần thiết: Nếu không thực thi tốt những nhiệm vụ thuộc phẩm tước thấp, không ai có thể được bổ nhiệm vào một phẩm tước cao hơn. Phải chú trọng đến đời sống đạo đức, lòng nhiệt thành, trí thông minh và khả năng của những người nhắm chừng có thể bổ nhiệm (49).
d) Nghĩa vụ chính của quí chức: Quí chức là những người trung gian giữa cha xứ và giáo dân trong các dịp hôn phối, rửa tội, giúp bệnh nhân, tang lễ. v.v… Họ điều khiển kinh nguyện cộng đoàn, đôn đốc giáo dân giữ giới răn Chúa, luật Giáo Hội. Cách riêng, trong những họ đạo không có linh mục, họ dạy kinh nguyện và giáo lý cho trẻ em, giữ trật tự trong nhà thờ và xứ đạo, quản trị tài sản của giáo sở, của họ đạo… tất cả những việc trên được chu toàn trong sự đồng thuận hoàn toàn với cha xứ (50).
e) Nghĩa vụ truyền giáo: Bằng gương sáng hoặc bằng lời khuyên, quí chức phải ra sức đem những người đồng hương lương dân trở về sum họp với cộng đoàn tin vào Thiên Chúa thật (51).
g) Chỗ ngồi danh dự của quí chức: Trong nhà thờ và trong những buổi hội của họ đạo, quí chức được xếp ngồi vào hàng ghế danh dự. Những chỗ danh dự cũng dành cho những người đã được đức giám mục cấp bằng, và cả những người, tùy theo địa phương, được bằng khen của chính quyền dân sự (52).
Sau cùng, chúng ta phải ghi nhận rằng, để trung thành áp dụng những nghị quyết của Công Đồng Đông Dương, hai cuốn Chỉ Nam đã thích ứng việc tổ chức Ban Chức Sở hay Hội Đồng Quí Chức vào định chế Công Giáo Tiến Hành qua lời tuyên nhận: Mọi quí chức có thể làm cán bộ cho Công Giáo Tiến Hành, bởi lẽ, định chế mới không hủy bỏ các thể chế cũ của quí chức, nhưng thích ứng chúng theo mục đích đề ra bởi đức giáo hoàng: mỗi người hoạt động tông đồ trong môi trường của mình bằng cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng hành động tế nhị và khôn ngoan đối với những người xung quanh mình và đối với bạn bè không công giáo (53).
2) Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội
Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà Nội (54) dành Điều IV của Đoạn I phần II, nói «Về luật phép hàng xứ và các họ cùng khoán lệ», nghĩa là nói về những gì liên quan đến Ban Hàng Xứ (Ban Chức Việc hay Hội Đồng Quí Chức) và xứ đạo hay họ đạo. Vậy có ba điểm sau đây cần trình bày:
a) Hội đồng quí chức của xứ đạo đạo
Mỗi xứ đạo được coi như một hiệp hội lớn, một đại gia đình. Chính vì thế, xứ đạo cần có những qui luật phù hợp theo luật đạo và luật đời mà mọi giáo hữu đều phải tuân giữ. Vậy từ lâu nay, lý do thúc đẩy các Bề Trên trong Giáo Hội thiết lập trong mỗi xứ đạo một cơ cấu nền tảng gọi là «Hội Hàng Phủ» (Ban hàng phủ, Ban phủ xứ, Ban hàng xứ, Ban chức việc) chính là để hội này ‘làm tay chân cha xứ’, giúp đỡ cha xứ trong công việc quản trị xứ đạo ‘cùng chăm riêng việc truyền giáo, việc Tiến hành Công giáo’. Vậy ‘xứ nào chưa có Hội Hàng Phủ, dù xứ đạo mới ở miền thượng du hay dưới đồng bằng, thì cha xứ phải thu xếp dần mà tổ chức theo lề lối chung của địa phận’ (Đ.149).
Cơ cấu tổ chức: Trên nguyên tắc, Hội Hàng Phủ thường gồm 2 ủy ban: ủy ban Trị sự và ủy ban Cố vấn (có nơi gọi là Tư vấn), nhưng ban Tư vấn có thể bãi bỏ, bởi vì trong thực tế, đa số các giáo xứ đều không áp dụng. Chúng ta tóm lược những nét lớn của hai ban này:
Ban Trị sự (55)
+ Những thành viên: Ban Trị sự gồm có chánh trương, một phó trương, thơ ký, thủ quỹ, trương phiên (nhiều ít tùy mỗi xứ), các trùm họ và quản giáo của các họ đạo.
+ Nhiệm vụ: - Chánh trương: phục tùng cha xứ, trông coi các việc trong xứ, giữ sổ sách, lo trật tự, đạt giấy mời hội Hàng phủ với dấu ấn và chữ ký của cha xứ. - Phó trương: phụ tá chánh trương trong mọi việc, thay thế chánh trương khi ông vắng mặt. - Thủ quỹ: thừa lệnh cha xứ coi sóc của công hàng xứ. - thơ ký: Biên chép sổ sách (Điều lệ Hàng phủ, Công bản, Chi thu, Kế toán vào dịp lễ Phục Sinh và lễ Các Thánh, Nhân danh) Sổ luôn có hai bản và phải được cha xứ duyệt y. - Trương phiên: phụ tá chánh trương. - Trùm: làm đầu một họ và đại biểu trong Hội Hàng phủ. - Quản giáo: coi trẻ em trong họ, lo trật tự khuôn phép trong họ, ngồi ‘tọa thí kinh bổn’.
+ Tư cách và đức tính: Những ứng viên ban Trị sự phải có lòng đạo đức, có tiếng tốt, có học thức, khôn ngoan, công tâm, mẫn cán, trực tính, hòa nhã, không sinh sự, có thế giá trong dân (như trong hàng tổng lý). - Phải đứng tuổi (hàng chánh trương phải trên 40, hàng trương phiên, thủ quỹ trên 30 tuổi, quản giáo từ 25 dĩ thượng). Tránh những người khô khan, mang tai tiếng, hay gây sự, trộm cướp, rối rắm, nghiện hút, kiện cáo, chống đối giáo sĩ, đừng nể vì giầu sang. Trường hợp một người trong Ban hàng phủ mà sinh xấu ra như trên, thì phải khuyên răn đôi lần; bằng họ không sửa mình thì phải cất chức, không được bồi hoàn quyền lợi.
+ Bầu cử: Khi có đủ lý do thì đề cử lên, khỏi phải bầu phiếu. Bình thường phải bầu phiếu kín những chức vị thuộc ban Trị sự. Ai nhiều phiếu thì đắc cử; hai người đồng phiếu, thì ai nhiều tuổi sẽ đắc cử. Người trúng cử phải được cha xứ châu phê và đệ lên đức giám mục xin ngài chấp nhận và ban bằng, lúc đó mới thành. Đơn từ chức hay cách chức của một thành viên trong ban trị sự phải được cha xứ và cha tổng quản (cha chính địa phận) ký nhận. Còn đơn của Trùm hay Quản giáo thì chỉ cha xứ ký nhận là đủ.
+ Vị tân cử khao vọng: Mỗi quí chức tân cử vào ban Trị sự có thể tổ chức một tiệc khao trong ngày nhận nhiệm vụ và nộp một số tiền gây quỹ Ban Hàng Phủ: Chánh trương 20§, thơ ký, thủ quỹ, trương phiên 12§, trùm họ 6§, quản giáo 4§.
+ Hạn khóa: Nhiệm kỳ của một thành viên ban Trị sự là 6 năm.
+ Những đặc quyền thiêng liêng: Mỗi năm, cha xứ phải tổ chức cho quí chức một cuộc cấm phòng độ ba hay bốn ngày. Hơn nữa, sau một nhiệm kỳ 6 năm không bị điều gì chê trách thì khi qua đời, các ông chánh trương và phó trương được một lễ hát; các ông thư ký, thủ quỹ, trùm họ được hai lễ đọc; các vị quí chức khác được một lễ đọc.
+ Tính sổ: Mỗi năm hai lần, vào dịp lễ Phục Sinh và lễ Các Thánh, thủ quỹ phải đệ trình sổ sách cho Hội Đồng Quí Chức. Hội Đồng Quí Chức thảo luận ngân sách cho năm sau.
Ban Cố vấn:
+ Những người được mời: Các ‘chức sắc kỳ dịch’ tức các nhân sĩ dân sự, được ban Trị sự mời vào Ban Cố Vấn để tham khảo ý kiến về những công việc của giáo xứ.
+ Địa vị: Trong các buổi hội hay đình đám thì: Chánh phó tổng và các phẩm hàm ngồi ngang hàng với chánh phó trương. - Lý trưởng, chánh hương hội ngồi ngang hàng với thơ ký, thủ quỹ và trương phiên. - Phó lý, phó hội thơ ký, thủ quỹ hàng xã… ngồi ngang hàng với trùm và quản giáo.
+ Vọng: Vị tân cử của Ban Cố Vấn phải nộp 1§ ‘tiền nhập hội’ và có thể tổ chức một tiệc khao vọng theo những qui định của giáo xứ (56).
b) Hội đồng quý chức của họ đạo
Mỗi xứ đạo gồm nhiều họ đạo và mỗi họ đạo là tiềm thể của một xứ đạo mới. Tùy theo sự quan trọng của mình, mỗi họ đạo sẽ có số người đại diện đông hay ít tham gia vào Hội đồng Quý Chức xứ. Ngoài ra, mỗi họ đạo phải được tổ chức chặt chẽ và điều khiển nghiêm trang bởi một hội đồng mà người lãnh đão không ai khác hơn là người lãnh đạo của họ đạo. Thành phần của Hội Đồng quý chức họ đạo gồm có người đứng đầu là Trùm Họ, Biện Sở, Biện Nhất, người phụ tá là Trùm Phó, Biện Nhì, Biện Hai, người coi an ninh là “Thu Khoán”, Biện Ba, nhiều Trưởng Khu và Quản Giáo. Sau cùng, tất cả những điều mà cuốn Chỉ Nam đã ấn định cho Ban Trị Sự xứ đạo, đều có thể ứng dụng cho Hội Đống Quý Chức họ đạo (57).
c) Nội quy của họ đạo
Trước tiên, cuốn Chỉ Nam xác định rằng tất cả những nội quy của họ đạo đằu phải được giáo quyền duyệt y. Hội Đồng Quý Chức và ngay cả linh mục đều không có quyền lập định bất cứ một luật lệ nào mà không có phép của giám mục. Sau đó, cuốn Nội Quy phân biệt hai loại luật lệ của họ đạo: Thứ nhất là những luật lệ cải tổ, đặc biệt nhằm canh tân những tập quán liên quan đến tang chế và hôn nhân; Thứ hai là những luật hình sự, được thiết lập để tuyệt đối ngăn cấm những tội phạm về tôn giáo hay xã hội, tỷ như những tội phãm về phong hóa, những lạm dụng rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập ma túy,... Các chức việc đều phải lo sao để giáo dân tuân giữ cẩn mật tất cả nội quy của họ đạo (58).
Trên đây là phác họa tổng quát lịch sử Giáo Hội Việt Nam từ năm 1533 đến năm 1953. Trong dòng thời gian này, lịch sử của Hội Đồng Quí Chức các họ đạo tại Việt Nam đã dần dần được thể hiện. Hy vọng rằng, mặc dù đơn giản, việc trình bày của chúng tôi tạm đủ nói lên những nét chính của khuôn khổ lịch sử trong đó Hội Đồng Quí Chức được hình thành, vươn tiến, tuyên chứng đức tin, cộng tác với linh mục trong công cuộc truyền giáo bằng lời nói, bằng hoạt động, bằng đời sống, và ngay cả bằng máu đào. Và sau khi có một cái nhìn tổng thể về tổ chức Hội Đồng Quí Chức trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, chúng tôi sẽ trình bày trong chương tiếp theo về thực thể của họ đạo Việt Nam, vốn được xem là đơn vị căn bản của giáo phận, và nhất là được xem như một môi trường đặc biệt cho sự hình thành và cho mọi hoạt động của Hội Đồng Quí Chức.
-------------------------------------------
Chú thích
(I) MIRANI J. DELLE MISSIONI DE’PADRI DELLA COMPAGNIA DI GIESU NELLA PROVINCIA DEL GIAPPONE E PARTICOLARMENTE DI TUNKINO, tr. 188,264-265; LOUVET L. COCHINCHINE RELIGIEUSE, tr. 356-357; PHAN PHAT HUON, VIET NAM GIAO SU, tr. 122-123
(2) NGUYÊN HÔNG, LỊCH SỬ TRUYỀN GIÁO Ở VIỆT NAM, I. tr. 99-100
(3) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 105-107
(4) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 150-151
(5) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 167-168
(6) NGUYÊN HÔNG, sd. Itr.. 180-181
(7) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 181-183
(8) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 184
(9) NGUYÊN HÔNG, sd. I tr. 185-186
(10) SACCANO M. RELATION DES PROGRES DE LA FOI AU ROYAUME DE LA COCHINCHINE DES ANNEE 1636 ET 1647, Paris 1653 tr. 89-109
(11) LAUNAY A. HISTOIRE DE LA MISSION DU TONKIN I, tr.53
(12) LAUNAY A. sd.I, tr. 273
(13) LAUNAY A. sd. I, tr. 94, 97.
(14) LAUNAY A. HISTOIRE DE LA MISSION DE LA COCHINCHINE I, tr.. 107-108.
(15) LOUVET L. sd. I, tr. 268-284.
(16) LOUVET L. sd. I, tr. 290-294
(17) LOUVET L. sd. I, tr. 293
(18) LOUVET L. sd. I, tr. 242
(19) LOUVET L. sd.. I, tr. 271
(20) LOUVET L. sd. I, tr. 286-289
(21) LOUVET L. sd. I, tr. 285
(22) LOUVET L. NOTICE NECROLOGIQUE SUR MGR COLOMBERT, tr.8 ss
(23) Xem. LOUVET L. LA COCHINCHINE RELIGIEUSE I, tr.337-348; Mgr DEPIERRE sd. tr. 34-38
(24) - nt
(25) - nt
(26) Bản văn nhuận sắc và ấn hành bởi cha Ngô đình Thục trước hết giữ nguyên soạn văn, đoạn dẫn nhập, 5 chương và 70 điều, sau đó thêm vào một phụ lục gồm 2 khoản: 1) Quí chức hội, có 8 điều. 2) Tài chánh của Hội đồng quí chức, có 4 điều.
(27) THIÊN-CHÚA-THÁNH-GIÁO NHỰT-KHÓA CHÚA-NHỰT-PHÁP Imprimerie de la Mission tr. 629-660, Sài-Gòn 1898
(28) Xin xem chú thích (26)
(29) NKDP (1934) s.1286 tr.147
(30) In: SÁCH THUẬT LẠI CÁC THƯ CHUNG ĐỊA PHẬN ĐÀNG NGOÀI II, Ké Sở 1924 tr. 185-206
(31) AD tr. 11-13
(32) AD tit IV cap III nn. I et II, tr. 111-112
(33) AD tit IV cap IV n.2/I tr. 113
(34) AD tit II cap unicum tr. 64-72
(35) AD tit III cap I n.II, tr. 75
(36) AD tit IV cap III n. III, tr. 112
(37) ACTA ET DECRETA SECUNDAE REGIONALIS TUNQUINENSIS, habitae in pago Ké So, A.D. 1912 in tại Kẻ Sở 1914 chia ra: Titulus “De personis” tr. 1-13, tit. II “De Rebus” tr. 35-38 tit III “Sacramentis” tr. 39-54; tit. IV «De cura christianorum» tr. 54-64
(38) AD tit IV cap I n.16 tr. 57
(39) AD tit IV cap I n.4 tr. 54
(40) AD, S.P. Pius XI: “Nulla Dies sine circulo “ ad promotores Actionis Catholicae, Romae 4 mars 1928, trg. PCI tr.. 113 note (I)
(41) PCI tr.. 107-117
(42) Những giáo phận khác không có cuốn Chỉ Nam. Nhưng, một cách thực dụng, tất cả các giáo phận Bắc Kỳ xử dụng cuốn Chỉ Nam của giáo phận Hà-Nội, giáo phận Vinh dùng Chỉ Nam của giáo phận Huế.
(43) Cuốn Chỉ Nam của giáo phận Sàii Gòn và Cao Miên (Le Directoire de COCHINCHINE OCCIDENTALE et de KAMPUCHIA) được in lần đầu tiên «để thực nghiệm» dưới đề tựa «Dự án tập quán cho sứ vụ Sài-Gòn», Hồng-Kông 1901. Bản văn này không còn tìm thấy. Nhưng chắc chắn là nó được nhuận sắc và ấn hành dưới tựa đề «Directoire» vào năm 1904. Hiện nay, chúng ta có một ấn bản của lần in thứ hai vào năm 1922, Sài Gòn, nhà in Tân Định.
(44) CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN HUẾ, 1940, nhà in Huế; CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN QUI NHƠN, 1942, nhà in Quy Nhơn. Hai huấn thị này có chung một cấu trúc. Tỷ dụ, Mục VI «Sự tổ chức những cộng đoàn tín hữu» được chia thành: Chương I «Những quí chức cộng đoàn tín hữu» (DH.93-103, DQN.112-117); Chương II «Hiệp hội thanh niên thanh nữ» (DH.104-105, DQN.118-120); Chương III «Đối xử trong trường hợp bất hòa» (DH 106-108, DQN.121-123); Chương IV «Dâng lễ và cầu nguyện cho những linh mục và ân nhân quá vãng» (DH.109-111, DQN.124-128); Chương V «Những bổn phận giáo dân trong cộng đoàn tín hữu» (DH.112-115, DQN.129-132).
(45) DH.113, DQN. 130
(46) DH.114, DQN.131
(47) DH.99, DQN.113
(48) DH.99-100, DQN.113-114
(49) DH.101, DQN.115
(44) CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN HUẾ, 1940, nhà in Huế; CUỐN CHỈ NAM GIÁO PHẬN QUI NHƠN, 1942, nhà in Quy Nhơn. Hai huấn thị này có chung một cấu trúc. Tỷ dụ, Mục VI «Sự tổ chức những cộng đoàn tín hữu» được chia thành: Chương I «Những quí chức cộng đoàn tín hữu» (DH.93-103, DQN.112-117); Chương II «Hiệp hội thanh niên thanh nữ» (DH.104-105, DQN.118-120); Chương III «Đối xử trong trường hợp bất hòa» (DH.106-108, DQN.121-123); Chương IV «Dâng lễ và cầu nguyện cho những linh mục và ân nhân quá vãng» (DH.109-111, DQN.124-128); Chương V «Những bổn phận giáo dân trong cộng đoàn tín hữu» (DH. 112-115, DQN.129-132).
(45) DH.113, DQN.130
(46) DH.114, DQN.131
(47) DH.99, DQN.113
(48) DH.99-100, DQN.113-114
(49) DH.101, DQN.115
(50) DH., DQN.
(51) DH.103, DQN.117
(52) DH.103, 222 DQN.117, 250
(53) DH.102, DQN.116
(54) CUỐN CHỈ NAM CỦA GIÁO PHẬN HÀ-NỘI có ấn bản đầu tiên vào năm 1941, dưới triều giám mục Fr Chaize, với tựa đề la tinh: «DIRECTORIUM VICARIATUS APOSTOLICI DE HANOI» phụ đề việt ngữ là «Luật chung địa phận Hà Nội» Nhà in Trung Hoa, Hà Nội.
(55) DHN.150
(56) DHN.152-153
(57)DHN. 151
(58) DHN. 154-157
Văn Hóa
Bài học hòa tan
Giuse Nguyễn Hữu Đạt
12:39 20/02/2011
Cụ chống gậy bước chân còm cõi
Kéo thời gian len lỏi từng ngày
Mặc không gian xanh thắm hây hây
Cụ mồ côi cả hồn lẫn xác !
Trước mặt cụ khuê các mặc kệ
Cụ không nhà, trời bể dung thân
Cây thập tự giáo đường in bóng
Ngước nhìn lên hạnh phúc níu tuổi già !
Niềm tin Chúa phủ kín đời cụ
Đã hòa tan vũ trụ từ lâu
Đã dưỡng nuôi tằm rối, bể dâu
Đã biến đổi khổ đau thành an lạc.
Con gặp cụ, rời rạc tư duy
Chằng hiều gì phố thị tự suy
Tự sẻ chia cơm áo lúc hiểm nguy
Yêu thương đời nay chưa trọn vẹn !
Cám ơn cụ cho con bài học:
Hòa tan với Chúa là tất cả !
Kéo thời gian len lỏi từng ngày
Mặc không gian xanh thắm hây hây
Cụ mồ côi cả hồn lẫn xác !
Trước mặt cụ khuê các mặc kệ
Cụ không nhà, trời bể dung thân
Cây thập tự giáo đường in bóng
Ngước nhìn lên hạnh phúc níu tuổi già !
Niềm tin Chúa phủ kín đời cụ
Đã hòa tan vũ trụ từ lâu
Đã dưỡng nuôi tằm rối, bể dâu
Đã biến đổi khổ đau thành an lạc.
Con gặp cụ, rời rạc tư duy
Chằng hiều gì phố thị tự suy
Tự sẻ chia cơm áo lúc hiểm nguy
Yêu thương đời nay chưa trọn vẹn !
Cám ơn cụ cho con bài học:
Hòa tan với Chúa là tất cả !
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cao Nguyên Ngày Đông – Winter Day in Sierra Moutain!
Richard Drysdale
22:05 20/02/2011
CAO NGUYÊN NGÀY ĐÔNG – Winter Day In Sierra Moutain!
Ảnh của Richard Drysdale
Trời tuyết quanh đây vắng lặng ghê
Nàng thơ đi vắng cũng chưa về
Ngồi nhìn tuyết đổ hồn nhung nhớ
Tưởng tượng nàng thơ đến trước hè.
(Trích thơ của Nguyên Đỗ)
i'm going to be a mountain someday
and just stand all the time
stalwart and mighty
collecting crystals from heaven
and dispersing them ever so gently
kindly and impartially
to thirsty fields below ….
(By Kaerlek Janislampi)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
Ảnh của Richard Drysdale
Trời tuyết quanh đây vắng lặng ghê
Nàng thơ đi vắng cũng chưa về
Ngồi nhìn tuyết đổ hồn nhung nhớ
Tưởng tượng nàng thơ đến trước hè.
(Trích thơ của Nguyên Đỗ)
i'm going to be a mountain someday
and just stand all the time
stalwart and mighty
collecting crystals from heaven
and dispersing them ever so gently
kindly and impartially
to thirsty fields below ….
(By Kaerlek Janislampi)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền