Ngày 16-01-2012
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Cầu bình an cho Năm mới
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
04:46 16/01/2012
THÁNH LỄ GIAO THỪA
Mt 5, 1-10

Thánh lễ giao thừa là những giây phút thật cảm động, linh thiêng, bởi vì đây là giờ phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân của Ngài và của toàn thể bà con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một năm cũ mọi người đã nhận lãnh biết bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ thật chí lý, thật ý nghĩa :” Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”.

Trong giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà con giáo dân cùng nhau dâng lời tạ ơn.Thánh vịnh đáp ca viết :” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Thessalonica :” Hãy cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh”. Thánh vịnh 133,3 lại viết :” Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion “. Giây phút linh thiêng nhà thơ họ Hàn viết là giây phút huyền diệu, giây phút linh thánh. Trời và đất giao hòa. Những giây phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen. Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi. Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây phút Ngài muốn thưa với Chúa rằng:” Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là “ một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu “ với Chúa.

Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Giáo Hội :” Vinh danh Cha, và Con và Thánh Thần ‘. Giây phút linh thiêng, giây phút mới của những giây phút đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc cuối cùng, khảnh khắc duy nhất.

Vâng, những giây phút khởi đầu của một năm mới mở ra những giây phút ân lộc. Và chúng ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây phút giao thừa là giây phút mở ra một chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông bởi vì tất cả đều là hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời nguyện nhập lễ diễn tả :” Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh danh Chúa “.

Như Đức cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng ta hãy tín thác cho Chúa những gì thuộc về quá khứ.

“ Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc ở nơi ta.
Ta ước muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta.
Vì thế, con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn “.

Giờ linh thiêng là những giây phút hiện tại, Giờ con mèo lui đi để con rồng hiện diện. Đó là nói theo cách thông thường của người trần. Còn xét theo mặt linh thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa đang nhìn ngắm con người và ngược lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền tụng thánh lễ giao thừa viết : “ Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn đời được hưởng ơn Phục Sinh “.

Trong Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn sẽ mang lại nhiều hạnh phúc bởi vì Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ( Dt 13, 8 )

Lạy Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho cộng đoàn chúng con được tham dự tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong tình thương của Chúa ( Lời nguyện hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm mới ).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Thánh lễ Giao thừa nói lên gì ?
2.Giây phút linh thiêng là giây phút gì ?
3.Tại sao lại nói Trời Đất giao hòa ?
4.Đầu năm mới người ta thường chúc cho nhau những gì ?
5.Ân lộc là gì ?

 
Tết Nguyên Đán - Mồng Một Tết
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
05:46 16/01/2012
THÁNH LỄ MINH NIÊN
Mt 6, 25-34

Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói :” Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho “.

Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người…Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa :” Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “.

Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng trần :” Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.

Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng ( Dc 2, 11-12 ). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao :” Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “ ( Tv 66, 2-3 ).

Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này :” Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “.

Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào ( Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết ).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Ngày đầu năm có ý nghĩa gì ?
2.Thánh Lễ Minh Niên để làm gì ?
3.An bình có cần thiết cho con người không ?
4.Phúc Lộc Thọ là gì ?
5.Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu ?
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:51 16/01/2012
ĐỂ KHỎI LẺ BẦY

N2T


Tô Đông Pha đi uống rượu với bạn, trong dĩa có bốn con chim sẻ nướng béo ngậy, người bạn vùi đầu ăn liên tiếp ba con, khi chỉ còn lại một con thì ông ta mới nghĩ đến Tô Đông Pha và mời ông ăn, Tô Đông Pha nói:

- “Anh cứ ăn đi để chúng nó khỏi lẻ đàn”.

Suy tư:

Con người ta vì tội lỗi đã nhập vào thế gian, cho nên có nhiều tội và tật xấu phát sinh, mà tội tham ăn uống là một trong các tội ấy: đi dự tiệc mà cứ cúi đầu ăn không nghĩ đến ai là một thói xấu của tham ăn; bụng ăn đã no rồi nhưng vẫn cứ muốn thèm ăn nữa…

Có những người đã dâng mình làm tôi Chúa không tham ăn, nhưng rất kén chọn khi ăn uống, rất khó tính khi vào bàn ăn, dần dần việc ăn uống này làm cho họ biến thành kẻ sành ăn uống hơn là việc tu đức cho hợp với thân phận của mình:

- Cơm canh không nóng là không ăn.

- Đồ ăn thì chỉ ăn qua một lửa, sáng đã dọn ra rồi –dù không nếm- nhưng tối dọn ra lại là nhất định không ăn.

- Phải tự mình nấu mới hợp khẩu vị, người khác nấu thì chê lên chê xuống.

- Uống thì phải uống rượu xịn đắc tiền, rượu xoàng xoàng thì không thèm uống.

Không tham ăn nhưng là hưởng thụ, việc hưởng thụ này dần dần biến thành tham ăn tham uống, làm cho giáo dân và người khác nhìn không thuận mắt…

Mê ăn uống là một cái tội, nhưng những người đã dâng mình cho Chúa mà vẫn còn thích hưởng thụ việc ăn uống thì có chút gì đó…kỳ quái, vì nó lẻ bầy lạc lỏng với tinh thân tu đức của Giáo Hội, ha ha ha…

--------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.360plus.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:17 16/01/2012

N2T
7. Người sa xuống địa ngục, chết từng giây phút, nhưng không thể chết. (Thánh Gregory)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
ĐTC: Sa-mu-en học biết cách nhận ra tiếng Chúa và trở thành ngôn sứ cho Người
Đặng Thế Nhân
07:50 16/01/2012
VATICAN - Quảng trường thánh Phê-rô hôm qua như thường lệ có rất đông khách hành hương và tín hữu họp về cùng đọc kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha. Ơn gọi là chủ đề chính trong huấn dụ Đức Thánh Cha chia sẻ với mọi người.

Anh chị em thân mến,

Các bài đọc phụng vụ của Chúa Nhật thứ hai mùa Thường Niên làm nổi bật chủ đề ơn gọi: trong bài Tin Mừng là trình thuật việc Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ đầu tiên; trong bài đọc thứ nhất là ơn gọi của ngôn sứ Sa-mu-en. Thầy cả Ê-li, tư tế nơi đền thờ ở Si-lô, nơi cất giữ hòm bia giao ước trước khi được chuyển về Giê-ru-sa-lem. Một đêm nọ, Sa-mu-en, khi còn là một cậu thiếu niên và đã phục vụ trong đền thờ từ khi còn bé, đã ba lần nghe theo tiếng gọi trong giấc mơ và chạy đến thầy cả Ê-li. Nhưng không phải thầy Ê-li đã gọi cậu. Lần thứ ba, thầy Ê-li nhận ra đó là tiếng Chúa và nói với Sa-mu-en: Nếu Người gọi con, hãy thưa rằng: “Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1 Sam 3,9). Từ đó, Sa-mu-en học biết cách nhận ra tiếng Chúa và trở thành ngôn sứ cho Người. Trong trường hợp các tông đồ của Chúa Giê-su, vai trò trung gian đến từ thánh Gio-an Tẩy Giả. Trong thực tế, Thánh Gio-an có rất nhiều môn đệ, trong số đó có hai anh em Si-mon và An-rê, Gio-an và Gia-cô-bê, những người chài lưới vùng Ga-li-lê. Thánh Gio-an Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Giê-su cho những người môn đệ này và nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa!” (Ga 1,36), điều này cũng có nghĩa: Đây là Đấng Mê-si-a. Và hai môn đệ đã đi theo Chúa Giê-su, ở lại với Người và chân nhận rằng Người đúng là Đấng Ki-tô. Ngay sau đó, họ giới thiệu Người cho những người khác và như thế nhóm môn đệ đầu tiên được hình thành và dần trở thành nhóm các Tông Đồ.

Từ ánh sáng của những trình thuật trên, tôi muốn nhấn mạnh đến yếu tô quyết định trong việc hướng dẫn thiêng liêng trên bước đường đức tin, và cách đặc biệt, trong việc đáp trả lại ơn gọi thánh hiến để phục vụ Thiên Chúa và dân của Người. Đức tin Ki-tô giáo, trong bản chất, đã hàm chứa lời loan báo và việc chứng tá. Đức tin này hệ ở việc gắn kết với Tin Mừng rằng Đức Giê-su thành Na-za-rét đã chết và sống lại, Người là Đức Chúa. Cũng như thế, ơn gọi theo chân Chúa Giê-su ngày một gần hơn, loan báo và xây dựng một gia đình để hoà nhập vào đại gia đình Giáo Hội ngang qua việc chứng tá và việc dâng cho Chúa “người con cả”. Trong việc này, vai trò nền tảng thuộc về các bậc cha mẹ, với đức tin tinh tuyền và lòng hoan hỷ, cùng với tình thương yêu, họ minh chứng cho con cái hiểu rằng có thể đặt nền toàn bộ đời sống trên tình yêu Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến,

Chúng ta cùng cầu nguyện với Mẹ Maria cho tất cả các nhà giáo dục, đặc biệt các linh mục và các bậc phụ huynh, để họ ý thức được tầm quan trọng của mình trong vai trò hướng dẫn thiêng liêng cho người trẻ, không chỉ là để lớn lên trong nhân cách mà còn để đáp lại tiếng gọi của Chúa, để có thể thưa lên rằng: “Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”

Sau kinh Truyền Tin, ĐTC nhắc đến sự kiện ngày Quốc Tế về Người Di Dân và Tỵ Nạn diễn ra hôm qua. Có hàng triệu triệu người đang trong tình trạng di tản, mà không chỉ có các con số! Họ đến từ mọi thành phần nam, nữ, trẻ em đang tìm kiến một nơi để sinh sống. ĐTC cũng nhắc đến thông điệp ngài đã gởi và nhấn mạnh đến chủ đề “Di dân và việc loan báo Tin Mừng” trong thế giới hôm nay. ĐTC gởi lời chào nồng nhiệt đến những vị đại diện cho cộng đồng người di dân ở Rô-ma hiện diện cùng đọc kinh Truyền Tin nơi quảng trường thánh Phê-rô.

ĐTC cũng nhắc đến sự kiện từ 18 đến 25 tháng này được dành riêng để cầu nguyện cho sự Hiệp nhất Ki-tô giáo. Ngài mời gọi mọi người, cá nhân cũng như cộng đoàn, hiệp nhất trong tinh thần và hành động, cầu nguyện cùng Thiên Chúa cho việc hợp nhất các môn đệ của Chúa Ki-tô.

Với khách hành hương nói tiếng Tây Ban Nha, ĐTC chào mừng các giáo sư và học sinh của trường Villafranca de los Barros. Ngài nhắc đến trình thuật về các môn đệ đầu tiên và mời gọi mọi người bước theo Chúa Giê-su, chia sẻ cuộc sống với Người và trở nên chứng tá cho Tin Mừng cứu độ. ĐTC mời gọi mọi người luôn sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa, đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc sống theo gương Đấng Cứu Độ chúng ta.

Sau cùng, ĐTC ban phép lành cho mọi người.
 
ĐTC: ‘Hãy cầu xin Đức Mẹ giúp giới trẻ đáp trả lời mời gọi của Chúa’
Nguyễn Trọng Đa
07:50 16/01/2012
Vatican City – ĐTC Biển Đức XVI kêu gọi mọi người hãy cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ phù giúp “tất cả các nhà giáo dục thanh niên, không chỉ giúp giới trẻ phát triển như con người, mà còn đáp trả lời mời gọi của Chúa nữa."

Trong bài suy niệm của Ngài trước khi đọc Kinh Truyền Tin với người hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô trưa ngày chủ nhật 15-1, ĐTC Biển Đức XVI kêu gọi "các linh mục và các bậc cha mẹ" hãy ý thức "tầm quan trọng của vai trò tinh thần của họ", như là "người trung gian" giúp đỡ "những người được mời gọi nhận ra tiếng Thiên Chúa và làm theo nó."

ĐTC Biển Đức XVI nhắc đến các bài đọc Chủ Nhật (Chủ nhật thứ hai thường niên, năm B) về ơn gọi của ngôn sứ Samuel và việc Chúa kêu gọi các môn đệ đầu tiên (1 Sm, 3:3-10.19 và Ga 1:35-42). Ngài nói: “Trong ánh sáng của hai bài đọc này, tôi muốn nhấn mạnh vai trò quyết định của người hướng dẫn tinh thần trong hành trình đức tin, đặc biệt trong sự đáp trả cho ơn gọi về sự thánh hiến đặc biệt để phục vụ Chúa và Dân Chúa. Đức tin Kitô giáo đòi hỏi việc rao giảng và làm chứng tá. Trong thực tế, nó bao gồm việc tham gia vào Tin Mừng mà vì đó Chúa Giêsu thành Nazareth đã chết và sống lại, cụ thể Ngài là Thiên Chúa. Và như vậy, ơn thiên triệu đi theo Chúa Giêsu cách chặt chẽ hơn, từ bỏ gia đình mình để hiến dâng cho đại gia đình của Giáo Hội, thông thường đòi hỏi chứng tá và lời đề nghị của ‘một người anh’, thường là một linh mục. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quên đi vai trò cơ bản của cha mẹ, là những người, thông qua đức tin chính tông và vui mừng, cùng tình yêu vợ chồng, hãy tỏ cho con cái biết rằng việc xây dựng cuộc sống trên tình yêu của Chúa là đẹp xinh và có thể được."

Sau Kinh Truyền Tin, ĐTC Biển Đức XVI nhắc nhở mọi người rằng hôm nay là Ngày Thế giới Di Dân và Tị Nạn. Ngài giải thích: “Hàng triệu người đang liên quan đến hiện tượng di cư, nhưng họ không chỉ là các con số. Họ là những người đàn ông, phụ nữ, trẻ em, thanh niên và người cao niên, đi tìm kiếm một nơi để sống trong hòa bình. Trong sứ điệp cho ngày này, tôi chú trọng đến vấn đề ‘di cư và Tân Phúc Âm hoá’, nhấn mạnh rằng người di cư không chỉ là người tiếp nhận mà thôi, nhưng còn là người giữ vai trò chính trong việc loan truyền Tin mừng trong thế giới ngày nay."

Trong bài nói chuyện, ĐTC Biển Đức XVI chào mừng các đại diện của các cộng đồng di cư ở Roma có mặt tại quảng trường Thánh Phêrô, cùng với hàng chục ngàn người khác.

Ngài cũng lưu ý rằng từ ngày 18 đến ngày 25-1, là Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo sẽ được tổ chức trong các nhà thờ. Ngài nói: "Tôi kêu gọi tất cả mọi người, ở mức độ cá nhân và cộng đồng, hãy tham gia với nhau một cách thiêng liêng, ở bất cứ nơi nào có thể và thực hành được, để cầu xin Thiên Chúa về món quà của sự hiệp nhất trọn vẹn giữa các môn đệ của Chúa Kitô". (AsiaNews 15-1-2012)
 
Linh mục và phụ huynh đóng vai trò ''linh hướng''
Bùi Hữu Thư
08:12 16/01/2012
Đức Thánh Cha nhắc nhở trước kinh Truyền Tin: Đây là một vai trò quyết liệt
ROME, Chúa nhật 15 tháng 1, 2012 (Le Monde vu de Rome) – Đây là chủ đề về ơn gọi Đức Thánh Cha Benedict XVI đã tập trung tư tưởng trước khi đọc kinh Truyền Tin, từ cửa sổ phòng làm việc của ngài, trước Quảng Trường Thánh Phêrô: Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh về vai trò linh hướng của các phụ huynh và linh mục.

Bắt đầu từ các bài đọc Phúc Âm cho Chúa Nhật thứ hai thường niên, Đức Thánh Cha bình giải về "lời mời gọi của Chúa Giêsu với các môn đệ tiên khởi" đã được kể lại trong Phúc Âm, và "lời mời gọi tiên tri Sa-muen" trong bài đọc thứ hai. Ngài giải thích: hai câu chuyện, bầy tỏ tầm quan trọng của "nhân vật trung gian" phải "giúp đỡ mọi người được mời gọi để nhận biết tiếng Chúa và vâng theo."

Trong trường hợp của Sa-muen, ngài tiếp, vài trò này được Eli, một thầy cả của đền thờ Silo đóng. Trong trường hợp của các môn đệ của Chúa Giêsu, người trung gian là Gioan Baotixita.

Hai trường hợp bầy tỏ vài trò "quyết liệt" của một người Linh hướng trên con đường đức tin. Đức Thánh Cha Benedict XVI tiếp: đặc biệt là trong việc đáp trả một ơn gọi đặc biệt của việc tận hiến, khi đây là vấn đề phục vụ Thiên Chúa và dân của Người.

Ngài đã nhắc rằng: Đức tin Kitô, ngay trong bản thể đã có việc "tuyên dương" và "làm nhân chứng", và cũng đã có sự "gắn bó" vào Tim Mừng là "Giêsu thành Nazareth đã chết và đã sống lại, và Người là Thiên Chúa."

Đức Thánh Cha tiếp: do đó, người linh mục cũng là "người đáp lại lời mời gọi để đi theo Chúa Giêsu mật thiết hơn, khi phải từ bỏ gia đình riêng tư của mình, để tận hiến cho đại gia đình giáo hội", phải đóng vai trò nhân chứng và đề nghị của một "người anh cả," mà bình thường là một linh mục.

Đức Thánh Cha nhắc rằng: và về điều này "không được quên vài trò nền tảng của các phụ huynh, là với một đức tin giản dị và hân hoan, và với tình yêu vợ chồng, họ chứng tỏ cho con cái là tình yêu này tốt đẹp và có thể xây dựng cả cuộc đời trên tình yêu Thiên Chúa."

Đức Thánh Cha đã chấm dứt bài giảng bằng lời nguyện xin Đức Mẹ Maria "để cho tất cả mọi nhà giáo dục, đặc biệt là các linh mục và phụ huynh, hoàn toàn nhận biết tầm quan trọng của vai trò linh hướng của họ, để giúp cho giới trẻ, trong sự trưởng thành của con người, biết đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa và nói rằng "Lay Chúa xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe."

Trong lời chào mừng sau khi đọc kinh TruyềnTin, Đức Thánh Cha đã nhắc cho các du khách là ngày 18 tháng 1 này sẽ có Tuần Lễ Cầu Nguyện cho sự Hiệp Nhất các Kitô hữu, và tất cả thế giới được kêu mời "ở mức độ cá nhân và cộng đồng phải hiệp nhất cách thiêng liêng, và ở nơi đâu có thể, hiệp nhật cách cụ thể, để cầu xin Thiên Chúa ban cho ân sủng của sự hiệp nhất toàn vẹn giữa các môn đệ của Chúa Kitô."
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đến thăm gia đình anh Đoàn Văn Vươn, giáo xứ Súy Nẻo, giáo phận Hải Phòng
Vincent Nguyễn
11:36 16/01/2012
HẢI PHÒNG - Sáng thứ bảy, ngày cuối năm Tân Mão, mấy anh em chúng tôi gặp nhau tại Hải Phòng. Người đến từ Hà Nội, Sài Gòn, Phú Thọ, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Thanh Hóa… Sau khi ăn sáng, uống cà phê, đi xem chợ đào, quất… (có cành đào giá 20, 30 triệu đồng, có cây đào nguyên gốc giá 50 triệu đồng., thậm chí có người còn cho biết có cây đào thế Rồng được hét với giá…300 triệu đồng) chúng tôi lại rủ nhau ăn trưa cạnh một điểm bán đào Tết.

Câu chuyện lúc “trà dư tửu hậu” thế nào lại xoay quanh chủ đề nóng mà đi đâu cũng thấy dân tình bàn tán xôn xao là vụ cưỡng chế đầm nuôi trồng thủy sản ở huyện Tiên Lãng. Có người vừa đọc báo mạng cho biết: Ông Vươn là người Công Giáo các ông đấy…Thế là chúng tôi nhất trí ngay chiều nay sẽ về Tiên Lãng để thăm gia đình anh Vươn và tìm hiểu thực tế về vụ việc này.

Chúng tôi đến giáo xứ Súy Nẻo (còn gọi là Thúy Nẻo) thì trời đã gần tối, cha xứ đi làm lễ ở giáo xứ khác, thế là chúng tôi nhờ giáo dân tại đây dẫn đường để đến thăm gia đình anh Vươn. Người dẫn đường cho biết nhà bố mẹ đẻ anh Sịnh (còn gọi là Thịnh), anh Vươn, anh Quý thì ở ngay gần đây hiện chỉ còn bà mẹ già và cô em út nhưng bây giờ họ cũng không có ở nhà. Người dẫn đường sau khi điện thoại thì cho biết các chị Thương (vợ anh Vươn) và Hiền (vợ anh Quý) cùng các cháu đang tá túc nhờ tại nhà môt người anh em khác, vì ở ngoài đầm nhà anh Vươn đã bị đốt, nhà anh Quý thì bị máy xúc, ủi phá sập.

Chúng tôi đi khoảng chừng 6 cây số thì tới nơi. Vào nhà người em anh Vươn, chúng tôi được gặp rất nhiều người có cả nhiều người không Công Giáo, có cả bạn bè các anh ở nơi khác tới, có cả người làm công cho các anh. Tất cả đều bày tỏ sự bất bình về cách hành xử của chính quyền xã Vinh Quang và huyện Tiên Lãng. Mọi người cho biết đây là hành động ăn cướp của một số kẻ mượn danh chính quyền, người đàn ông ngồi cạnh chúng tôi kể lại nỗi đau xót trong ngẹn ngào, uất hận.

Mọi người cho biết cách hành động của anh em Vươn chỉ là phản ứng của kẻ cùng đường. Có người nói cái người mà các bác thấy trên báo nói là anh K chính là vợ chồng Thanh Kết, anh C chính là Chương (con ông Sực), những kẻ đã từ lâu rắp tâm chiếm khu đầm của anh em Vươn. Kết và Chương là những người có mối quan hệ đặc biệt với ông Liêm chủ tịch xã Vinh Quang và ông Hiền chủ tịch huyện Tiên Lãng. Tay Kết đã theo lệnh của huyện, xã cho máy xúc đến phá nhà anh Phêrô Đoàn Văn Quý ngay chiều ngày 5/1/2012.

Có người còn khẳng định chắc chắn rằng khi mọi người trong gia đình anh Vươn bị bắt đi hết thì nhiều người nhìn thấy ông Kết đi xuống đầm của anh em anh Vươn và xem như anh ta đã tiếp quản khu đầm ngay trong ngày 5/1/2012. Có người kể nhà ở và khu chuồng trại chăn nuôi của anh Vươn được lợp bằng cói nên chính quyền cho đốt tất cả. Khi lửa bốc cháy thì gà, chó, lợn kêu rống ầm ỹ… Nhà anh Quý mới xây hai tầng lợp tôn và khu chuồng trại mới xây thì họ cho máy vào phá sập (máy của ông Kết).

Nhiều người nhìn thấy bọn hôi của (chính là lực lượng cưỡng chế) sau khi vơ vét xong thì chúng đập nát hoặc đốt sạch: Bàn Thờ, Ảnh, Tượng Chúa, Đức Mẹ, các Thánh… kể cả di ảnh của ông Phêrô Đoàn xuân Thiểu một đảng viên, cựu chủ tich xã chúng cũng không tha. Một người nói “ thật chúng nó còn dã man, tàn ác hơn thời cải cách”. Rồi toàn bộ số cá các anh dự kiến tết này đánh bắt để trả nợ cũng bị chúng bắt hết rồi (Chị Hiền cho biết số cá Vược khoảng 4 tấn với giá khoảng 200 ngàn/ 1 cân, số cá trắm khoảng 15 tấn với giá 70 ngàn/1 cân) chuối và cây cối thì bị đốn phạt không thương tiếc.

Giữa lúc mọi người đang nói chuyện thì hai chị Teresa Thương, Teresa Hiền và mấy đứa trẻ mới về (cả hai chị đều là tân tòng khi kết hôn với anh em họ Đoàn). Câu chuyện mà hai chị kể trong nước mắt uất nghẹn đã làm cho nhiều người đàn ông chúng tôi cũng phải khóc theo.

Các chị cho biết sáng nay 14/1/2012 các chị và mọi người rất xúc đông khi Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên cử Cha Tổng Đại diện cùng cha xứ Súy Nẻo đến thăm và gửi quà cho gia đình.

Chuyện các chị kể thì nhiều, chúng tôi chỉ xin chép lại một vài chuyện:

Cả hai chị bị bắt khi đứng ở trên đê cùng với anh Đoàn Văn Sịnh, cháu Đoàn Văn Vệ, cháu Đoàn……con anh Vươn, những người này không dính dáng gì đến việc nổ súng ở dưới đầm.

Khi xảy ra vụ việc anh Vươn đang ở trong UBND xã Vinh Quang. Khi trở ra khấy tình hình xảy ra nghiêm trọng như thế, anh Vươn đã cùng một người bạn gọi tắc xi tức tốc đến Viện kiểm sát TP Hải Phòng trình bày sự việc và mong cơ quan bảo vệ pháp luật này ra tay để cho tình hình không xấu thêm, thì bị yêu cầu ra ngoài đánh máy chứ không nhận bản viết tay. Thời gian đó có thể kéo dài đến mấy tiếng đồng hồ và anh hoàn toàn có thể bỏ trốn, nhưng anh vẫn tin ở pháp luật và cặm cụi đi đánh máy, để rồi bị bắt và anh đã nhận tội thay người khác.

Chị Thương, chị Hiền đều xác nhận bị tra tấn dã man bằng dùi cui điện thục vào bụng, bị gậy sắt đập vào đầu gối.

Chị Hiền kể công an thành phố cứ tra vấn rằng nhà mày phải có sự bàn bạc, nhất trí với nhau về việc nổ mìn, bắn súng… vào lực lượng chức năng, thì chị một mực khẳng định mình không biết, việc đó của đàn ông, đàn bà chúng tôi làm sao được bàn bạc.

Một chi tiết đặc biệt là sau 5 ngày giam giữ và tra tấn CA Hải Phòng đã bắt các chị mỗi người phải ký vào 2 (hai) tờ giấy trắng (loại giấy phê đúp có dòng kẻ). Vì nóng lòng muốn về với các con và sợ bị đánh tiếp rồi lại được cán bộ giải thích đó chỉ là thủ tục ai vào đây cũng phải làm như thế, nên các chị đành nhắm mắt ký để được tha về (đây có thể là một âm mưu mà chính quyền có thể tự viết vào các tờ giấy này để sau vu oan cho gia đình anh Vươn?).

Về nhà, chị Hiền xuống đầm thì nhà cửa đã bị phá tan tành như đã kể trên, còn trên bờ và dưới đầm toàn là lực lượng bảo vệ của xã, huyện và cả nhiều “ xã hội đen “, “đầu gấu”. Có nhà báo (chị không biết là của báo nào) đến đó chụp ảnh bị đánh và đuổi đi.

Theo lời khuyên của bà con chị lên gặp ông Liêm chủ tịch xã Vinh Quang (ông ta là em ông Hiền chủ tịch Huyện) để hỏi về việc đầm nhà chị có bị cưỡng chế không? Thì ông ta nói không bị cưỡng chế. Lại hỏi sao chính quyền lại phá nhà và công trình của tôi ? thì được trả lời là sợ ở đó có mìn. Lại hỏi có mìn sao vẫn cho người vào cướp phá, chặt chuối, bắt cá của nhà tôi thì ông ta không trả lời được. Lại đề nghị ông ta cấp cho một cái giấy để nhờ anh em, bạn bè dựng cho cái lều cho mẹ con,bác cháu có chỗ chui ra chui vào thì ông ta nói cái này phải chờ ý kiến của “trên”…

Chúng tôi hỏi theo thông tin trên các báo thì có ít nhất hai đầm của hai người là anh Vươn và anh Luân cùng bị cưỡng chế đợt này sao chỉ thấy nói đến anh Vươn là nhiều? Thì được mọi người cho biết: Ngày 9/4/2010 cả hai anh Đoàn Văn Vươn và Vũ Văn Luân đều được tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng gọi đến để hòa giải với UBND huyện Tiên Lãng do ông Phạm Xuân Hoa trưởng phòng Tài nguyên và môi trường huyện làm đại diện. Theo đó nếu các ông rút đơn kháng cáo thì sẽ được UBND huyện Tiên Lãng tiếp tục cho thuê đất. Các anh Vươn và Luân đã đồng ý rút đơn và làm đơn thuê đất nhiều lân gửi UBND huyện như luật định nhưng từ tháng 4/2010 đến nay cả hai hộ đều không nhận được bất cứ hồi âm nào từ UBND huyện Tiên Lãng… Thì bỗng nhiên các ông nhận được quyết định cưỡng chế (đầm của ông Vươn có QĐ cưỡng chế số 3307/QĐ của anh Luân số 3308/QĐ)

Chúng tôi đã cùng gia đình và mọi người hiện diện đọc kinh, cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa những nỗi khốn khó mà mọi người đang phải chịu đựng và cũng xin Người cất bớt gánh nặng cho các gia đình. Xin Người soi lòng mở trí cho nhà cầm quyền biết tôn trọng Công Lý và Lẽ Phải…

Trước khi ra về chúng tôi cũng thông báo tóm tắt cho bà con biết hiện nay dư luận cả trong và ngoài nước rất quan tâm đến vụ việc này. Các vị như ông Lê Đức Anh cựu Chủ Tịch Nước, ông Đặng Hùng Võ cựu Thứ Trưởng bộ Tài Nguyên và Môi Trường cùng rất nhiều Luật sư, nhà báo đã lên tiếng đòi nghiêm trị kẻ gây ra nguyên nhân của vụ việc đáng tiếc và đâu lòng này chính là anh em nhà chủ tịch Hiền, Liêm. Chúng tôi cũng thông báo các trang mạng đã phát động mọi người chung tay gửi quà tết đến cho gia đình các nạn nhân, kể cả các chiến sỹ công an, bộ đội bị thương khi thi hành công vụ theo lệnh trái pháp luật của trên.

Mấy anh em chúng tôi cũng kịp thời kẻ nhiều người ít gom góp tại chỗ được hơn 10 triệu đồng ủng hộ các nạn nhân. Chúng tôi ra về khi đã hơn 10 giờ đêm rồi qua thăm cha xứ và xin Lễ cầu binh an cho các nạn nhân.

Trong khi chúng tôi đang viết những dòng này thì thông tin từ gia đình cho biết tình trạng đánh cướp cá tại đầm của anh Vươn và anh Quý vẫn tiếp diễn. Họ bày bán công khai trên mặt đê.
 
Sứ điệp Hòa Bình 2012: Công lý tại Việt Nam (2)
Hà Minh Thảo
16:27 16/01/2012
SỨ ĐIỆP HÒA BÌNH 2012 : CÔNG LÝ TẠI VIỆT NAM (Tiếp theo)

- Chị Đỗ thị Minh Hạnh, tuy xuất thân từ gia đình có công với cách mạng. Lúc bị bắt, gia đình dựa vào lý do này để cố gắng xin giảm án. Nhưng chị đã khẳng khái từ chối : « Má lấy thành tích cách mạng của gia đình để được hưởng những quyền lợi, để được giảm án, chính là điều làm sỉ nhục đối với con, vô tình làm nhục con. »

Là nhà bất đồng chính kiến trẻ nhất, năm 20 tuổi, chị bị bắt giam ở Hà nội vì giúp đỡ dân oan kêu cứu. Năm 22 tuổi, chị tham gia giúp đỡ và hướng dẫn phong trào công nhân đình công tranh đấu với giới chủ ở nhiều xí nghiệp. Năm 24 tuổi, chị bí mật vượt đường bộ qua Căm bốt và Thái lan để đến Mã lai tham dự Đại hội kỳ 2 của Ủy ban Bảo vệ Người Lao động Việt Nam mà chị là phát ngôn viên Ủy ban Hành động vì Dân chủ Việt Nam với bí danh Hải Yến.

Minh Hạnh đã cùng Đoàn h là một việc uy Chương và Nguyễn Hoàng quốc Hùng, Nhận được lời kêu cứu của công nhân, vào cơ xưởng công ty giày Mỹ Phong tại Trà vinh để trợ lực công nhân đình công phản đối chủ ăn chận tiền lương và tiền thưởng tết vào tháng 1/2010. Cuộc đình công kéo dài một tuần và kết thúc thành công đạt điều quan trọng : « Công đoàn công ty phải do chúng tôi bầu ra và chúng tôi sẽ trả lương bằng công đoàn phí đóng hằng tháng. Công đoàn phí phải do chúng tôi quản lý. »

Ngày 18.03.2011, Toà án Nhân dân Trà vinh xử án phúc thẩm : Quốc Hùng 9, Minh Hạnh và Huy Chương 7 năm tù với tội danh ‘Phá rối an ninh trật tự nhằm chống chính quyền nhân dân’, tức y án Tòa sơ thẩm vào tháng 10.2010, dù luật sư vẫn khẳng định cả 3 đã không hề phạm tội như trong bản cáo trạng đã buộc tội họ.

Minh Hạnh, cô gái 25 tuổi, đã chấp nhận thanh thản bản án 7 năm tù cho sự thể hiện lòng yêu nước, thương đồng bào của mình, nói với mẹ: « Con không tin một người công an nào hết, má hãy nhìn thân thể con đi nè. Má ơi, con rất đau buồn, con không buồn thân thể con, ở tù bao nhiêu năm cũng được… Họ bảo con hãy nhận tội đi rồi sẽ được giảm xuống 4 năm, nhưng không, ở đời thì chết chỉ có một lần mà thôi… để cho họ thấy rằng, họ không được phép coi thường tinh thần bất khuất của dân tộc. Mỗi dân tộc, mỗi một con người, nhất là người lãnh đạo đất nước phải biết rằng ‘Đặt quyền lợi và danh dự của tổ quốc lên trên quyền lợi cá nhân của mình chứ…’. (thân thể Hạnh mang đầy xẹo do bị đánh đập để tra khảo… Ngày 23.01.2009, Hạnh cùng mẹ và chị gái đến trụ sở công an để làm lại giấy chứng minh nhân dân. Khi vừa bước vào trụ sở, Hạnh bị nhiều công an bắt lên lầu đánh đập. Nghe tiếng hét, chị gái Hạnh chạy lên thì thấy khuôn mặt em mình đầy máu. Khi cơ quan công an áp giải Hạnh về nhà lục soát, dù đã bị còng tay, nhưng vẫn tiếp tục bị hành hung với những cú đấm vào đầu và mặt….).

Lần khác, cô nói : « Làm sao để cho mọi người hiểu rằng, trước hết là phải bảo vệ danh dự của dân tộc… họ đánh đập công nhân, lấy giầy ném vào mặt công nhân, làm sao con có thể chịu đựng được,… mà tại sao Nhà nước không bảo vệ công nhân mà lại đi bảo vệ chủ??? để cho họ có quyền đi chà đạp, bắt giam cầm những người công nhân đó… Không thể chấp nhận để người Trung quốc xúc phạm đến danh dự của mình. »

Trên đây chỉ là vài trường hợp trong cả ngàn thảm cảnh khác. Những cuộc đàn áp dân tại Miến điện, thế giới biết vì người Miến ‘biết’ Liên đới và Bổ trợ với nhau (hai nguyên tắc đề nghị bởi ‘Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo hội’ các số 192… 194 và 185… 187), các vụ sát sinh đồng bào chúng ta bởi nhà cầm quyền cộng sản, người Việt ‘vô cảm’, không lên tiếng thì làm sao thế giới biết tới để bênh vực, đòi Công lý cho mình?

Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã ‘nhấn mạnh các giới hạn cần thiết đối với việc can thiệp của nhà nước và nhấn mạnh bản chất công cụ của nhà nước, vì cá nhân, gia đình và xã hội đã có trước nhà nước, và vì nhà nước tồn tại là để bảo vệ các quyền của họ chứ không phải để áp bức họ’ (Centesimus Annus số 11).

« Công dân có nhiệm vụ cùng với các nhà cầm quyền dân sự góp phần vào thiện ích của xã hội, bằng một tinh thần chân thật, công bằng, đoàn kết và tự do… » (số 2239 Giáo lý Hội thánh Công giáo). Đồng thời cũng minh định rõ bổn phận người dân : « ... Việc trung thành hợp tác bao gồm quyền lợi, đôi khi cả bổn phận, phải lên tiếng phản đối một cách chính đáng những gì có vẻ làm tổn hại đến phẩm vị của con người cũng như đến thiện ích của cộng đồng » (số 2238 GLHTCG).

2. Vi phạm tự do tôn giáo.

Ngày 25.09.2008, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã cho phổ biến bản ‘Quan điểm về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay’. Trong đó, các Đức Giám mục đưa ra những nguyên nhân gây ra những khiếu kiện đất đai kéo dài và chưa được giải quyết thỏa đáng vì : luật về đất vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp đà biến chuyển trong đời sống xã hội, đặc biệt là quyền tư hữu chính đáng của người dân. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ càng làm cho tình hình tệ hại thêm. Sau đó, các Mục tử có những đề nghị cụ thể: Luật về đất đai nên sửa đổi cho hoàn chỉnh, cần quan tâm đến quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn quốc tế Liên hiệp quốc về Nhân quyền đã khẳng định tại số 17. Các cơ quan truyền thông phải tôn trọng sự thật vì chỉ khi tôn trọng sự thật vì chỉ như vậy truyền thông hoàn thành chức năng thông tin và giáo dục. Một giải pháp thỏa đáng chỉ có thể đạt được nhờ đối thoại thẳng thắn, cởi mở và chân thành, trong hòa bình và tôn trọng lẫn nhau. Người Việt hãy cùng xây dựng đất nước trên nền tảng công bằng, sự thật và tình yêu để quê hương ngày càng giàu đẹp, mang lại hạnh phúc ấm no cho chúng ta.

Gần 40 tháng đã trôi qua, bản ‘Quan điểm...’ này không được nghe nhắc tới... quê hương ngày càng mất về tay ngoại bang, sự giàu nghèo của người Việt ngày càng thêm cách biệt.

Vụ ‘mượn đất không trả’ tại Dòng Chúa Cứu thế (DCCT) Hà nội và Giáo xứ Thái Hà luôn là một thử thách cho Sự thật, Công lý và Hiệp thông. Nhà nước cộng sản coi như đây như là giám điểm để đo mức độ lên tiếng hiệp thông giữa những người Công giáo với nhau ?

Năm 1959, Ủy ban Nhân dân (UBND) Quận Đống đa mời Linh mục Giuse Vũ ngọc Bích và đề xuất vấn đề: chúng tôi muốn MƯỢN nhà của Nhà Dòng. Cha Bích trả lời: ‘Tôi không có quyền cho muợn. Nếu muốn thì liên lạc với cấp Trên ở Sài gòn’. Sau vài phút giằng co, một người trong họ lên tiếng: ‘Ông không có quyền thì chúng tôi có quyền’ (Cha Bích biết thế nào là quyền hạn của ‘người quản lý’). Cha Bích ra về. Hôm sau, họ đến Nhà Dòng với một văn bản định buộc Cha Bích ký, nhưng Cha không có nhà. Thầy Clément Đạt tiếp họ thì họ xin Thầy ký giấy để mượn nhà (sau đó, Thầy bị bắt hôm 09.10.1963 và qua đời trong trại giam ở Yên Bái ngày 07.10.1970). Thầy trả lời : ‘Đó là chuyện của Bề Trên. Họ kéo một cụ cao tuổi tên Cai Trần (ông có chức vụ gì trong Gíao xứ) buộc ký. Chính quyền coi như thế là hợp thức. Hôm sau, họ kéo học sinh vào lập lớp học. Năm 1960, họ dẹp các lớp học và làm bệnh viện. Năm 1972, họ làm cho Cha Bích căn nhà bên cạnh nhà thờ để mượn phần nhà còn lại. Như vậy, chính quyền Quận Đống đa đã MƯỢN nhà đất của Dòng Chúa Cứu thế (DCCT) Hà nội căn cứ theo giấy cho mượn do ông Cai Trần ký, chứ không đúng như Quyết định 2476/QD-UBND ngày 30.06.2008 của UBND Hà Nội nói rằng: ‘Ngày 24.10.1961, linh mục Vũ ngọc Bích đã ký biên bản ‘Hội nghị bàn giao nhà thống nhất quản lý vào Nhà nước’’.

Họ nói ngày 24.10.1961 Cha Bích giao nhà đất cho nhà nước, nhưng sao ngày 30.01.1961 (gần 9 tháng trước), họ đã có quyết định giao đất cho Xí nghiệp Dệt Thảm len Đống đa? Hỏi bằng chứng giấy Cha Bích hiến phần đất này cho nhà nước thì họ trả lời đó là ‘tài liệu mật’. Đến ngày, tài liệu ‘hết mật’ và UBND Hà nội gửi 4 bản phóng ảnh để chứng minh việc chiếm đoạt đất đai của mình. Tất cả đều có điểm đáng bàn cải và, hơn nữa, tại sao có một phần đất phải giao đến 4 lần với 4 thời điểm khác nhau. Do đó, trong phiên họp giữa các linh mục và giáo dân Thái Hà với các lãnh đạo thành phố Hà nội ngày 17.09.2008, khi phía nhà thờ đề cập đến tính bất nhất của những giấy tờ mà phía nhà nước cho là Cha Bích đã ký, thì ông Vũ hồng Khanh, phó chủ tịch UBND Thành phố bảo thuộc cấp: « Thôi thì các đồng chí xem xét bốn giấy tờ ấy, rồi thống nhất chọn lấy một thôi ». Nếu ngày 24.10.1961, ‘Linh mục Bích’ ký bàn giao toàn khu đất (trừ nhà thờ) cho nhà nước thì sao họ không đem biên bản này trước bạ theo qui định của Sắc lệnh số 85-SL ngày 29.02.1952 của Phủ Chủ tịch nước VNDCCH và sang tên trong địa bộ và sổ thuế ?

Từ ngày 18.08.1996, DCCT Hà nội và Giáo xứ Thái Hà đã nhiều lần gửi đơn khiếu nại tới Chính quyền vì đã ‘mượn’ thì phải ‘trả’ là lẽ đương nhiên, khi Thái Hà cần có nơi để phục vụ người nghèo trong xã hội và cử hành phụng vụ với giáo dân mà số người ngày càng tăng. Nhà nước không trả lời, giống như hành động của kẻ cướp vì chúng đã chuyển nhượng và chia chác cho nhau.

Bước sang năm 2011. Ngày 06.10.2011, UBND phường Quang Trung, quận Đống Đa gửi giấy mời cho Linh mục Chính xứ Thái Hà, Giuse Nguyễn văn Phượng, đến trụ sở Ủy ban lúc 15 giờ ngày 07.10.2011 để nghe ‘Công bố dự án Trạm xử lý nước thải Bệnh viện Đa khoa Đống đa’, nhưng phiên họp đã thất bại vì gặp sự phản đối mạnh mẽ của gần 50 giáo dân trong khuôn viên của Ủy ban phường.

Kể từ khi nhà nước mượn, cơ sở Dòng Chúa Cứu thế Hà nội và Giáo xứ Thái Hà đã bị xử dụng không đúng mục đích, xúc phạm nơi thánh như dùng vào việc nhảy nhót, trụy lạc và nhà cửa bị để hư hỏng, xuống cấp nặng nề. Ngoài ra, thời gian vừa qua, UBND Hà nội có chủ trương đưa các bệnh viện ra ngoại thành : trong số các bệnh viện được đề xuất di dời đợt này chủ yếu là các bệnh viện truyền nhiễm nằm trong khu vực mật độ dân cư quá dày đặc… như Bệnh viện Đống đa.

Lúc 14 giờ 45 ngày 03.11.2011, ‘chính quyền’ giở trò hề ‘quần chúng tự phát’ với cả trăm người tự cho là Cựu chiến binh, là Hội phụ nữ, là Thanh niên… xông vào nhà thờ và có hành vi khi xâm phạm nơi tôn nghiêm, đe dọa giết người trắng trợn, dù được báo chí nhà nước tháp tùng để ghi những cảnh vũ phu, cầm 2 loa tay chửi bới, hành hung các tu sĩ (Phó tế Vũ văn Bằng, thầy Nguyễn văn Tặng), linh mục Lưu ngọc Quỳnh và giáo dân. Đa số người trong họ miệng đầy mùi rượu, say máu đã hung hãn dùng búa tạ đập tung cánh cửa cổng nhà thờ. Do đó, Giáo xứ đã kéo chuông, đánh trống để báo động giáo dân ở khắp nơi đã kéo đến rất đông. Lúc này, đoàn người kia đã tự động rút lui.

Khoảng 22 giờ 45 ngày 16.11.2011, 4 xe cơ động chạy vào khu đất DCCT được mượn làm bệnh viện. 23 giờ 30, các nẻo đường bị phong tỏa. Các nhà dân xung quanh bị an ninh, dân phòng cưỡng chế đóng kín. Sau đó, nhiều trăm công an, cảnh sát cơ động, an ninh đủ loại và nhiều thiết bị bắt đầu chiến dịch làm thay đổi dấu tích, xóa bỏ tu viện để chiếm cướp lâu dài.

Báo ‘La Croix’, phát hành tại Pháp, có trường thuật vụ này, nhưng mô tả như

bệnh viện (một Công Ích) cần làm hệ thống xử lý nước thải, nhưng giáo dân Thái Hà ngăn cản khiến nhà nước phải dùng biện pháp mạnh. Điều quan trọng mà người viết ‘quên’ là tính cách bất thường của giờ thi công (Chuyện gì phải làm vào lúc 23 giờ, đâu phải giờ hành chính ?).

Lúc 16 giờ 45, ngày 20.11.2011, trong Thánh Lễ cho thiếu nhi, một dân phòng, mang bảng tên, dùi cui và điếu thuốc lá trên tay đã xông vào nhà thờ và bước lên cung thánh để lăng mạ hai linh mục Đinh tiến Đức và Martin Vũ đồng Tùng đồng tế và giáo dân, rồi cầm thuốc lá dí vào mặt Cha Tùng. Các huynh trưởng của Giáo xứ đã mời dân phòng này ra khỏi nhà thờ một cách ôn hòa.

B. Phải tôn trọng Công lý đối với Tòa Thánh.

1. Một thí dụ.

Năm 2006, khi Đức Hồng y Jozef Glemp, 77 tuổi, Tổng Giám mục Warsaw (Ba lan) được Đức Thánh Cha Biển Đức 16 chấp thuận đơn từ chức, đã giới thiệu Đức cha Stanislaw Wielgus, 67 tuổi, Giám mục Plock từ năm 1999. Trong 7 năm qua, Đức cha đã tạo được sự tin cậy trong Hội đồng Giám mục Ba lan để là thành viên Hội đồng thường trực, đồng Chủ tịch Ủy ban hổn hợp Chính phủ và Hội đồng Giám mục kiêm Chủ tịch Ủy ban Giám mục về khoa học.

Để tìm hiểu về Đức cha Wielgus khi cứu xét hồ sơ đề cử Tổng Giám mục Warsaw, Đức cha Jozef Kowalczyk, người Ba lan, Sứ thần Tòa Thánh, ngày 02.12.2006, đã nhận được sự thề kín của Đức cha Wielgus là đã không làm gì chống lại Giáo hội dù đã cộng tác với mật vụ. Sau đó, Đức Sứ thần đã làm việc với Bề trên là Đức Hồng y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.

Ngày 06.12.2006, Đức Thánh Cha ký Bài Sai cử Đức cha Wielgus vào chức vụ Tổng Giám mục Warsaw và, bốn ngày sau đó, quyết định được chính thức loan báo. Ngày 02.01.2007, Đức Sứ thần xin viện Tưởng Nhớ nạn nhân Ba lan cung cấp hồ sơ liên quan tới Đức cha Wielgus. Ngày 03 và 04.01.2007, các tài liệu về việc Linh mục Wiegus ký tên và trao lại cho cảnh sát xuất hiện trong các báo Ba lan, dù trước đồng bào, Đức cha tiếp tục chối.

Sáng ngày 05.01.2007, Đức cha vẫn phủ nhận đã từng làm mật báo viên và cho rằng việc tiếp xúc với các cơ quan an ninh Ba lan trong thời cộng sản chỉ là để lấy các giấy phép du học nước ngoài. Buổi chiều, lúc 16 giờ, tại Tòa Tổng Giám mục, việc bàn giao sứ vụ Tổng Giám mục đã được thực hiện và trở thành Tổng Giám mục Warsaw. Sau đó, Ủy ban điều tra của Giáo hội Ba lan, sau khi xem xét các tài liệu của công an, đã công bố rằng có đủ bằng cứ để đi đến kết luận Đức cha Wielgus đã cộng tác với mật vụ cộng sản Ba Lan một cách tự nguyện. Tức thì, Đức cha Wielgus xác nhận : « Sự thật tôi đã có dính líu. Tôi đã gây ra thiệt hại lớn cho Giáo hội, và tôi đã lại gây họa lần nữa trong những ngày gần đây trước một cơn sốt truyền thông khi tôi phủ nhận sự kiện cộng tác này ». Việc từ chức, với sự ‘thúc đẩy’ của Đức Sứ thần và Hội đồng Giám mục Ba lan bắt đầu…

Tối ngày 05.01.2007, một cuộc biểu tình ôn hòa đã diễn ra bên ngoài Tòa Giám mục Warsaw. Những người biểu tình đưa ra biểu ngữ ‘non possumus’ tức ‘Chúng tôi không thể chấp nhận’. Họ cho biết họ không thất vọng về quá khứ của Đức Cha cho bằng cung cách Người hành xử trong những ngày qua: tiếp tục nói dối và chỉ nhìn nhận sự thật sau khi đã tiếp quản được Tòa Tổng Giám mục. Theo ý họ, đối với Đức cha Wielgus, chức vụ Tổng Giám Mục Warsaw có lẽ quan trọng hơn lợi ích và tính chất khả tín của Giáo hội.

Sáng ngày 07.01.2007, một giờ trước Thành Lễ nhậm chức, Đức cha Wielgus đã được Đức Thánh Cha Biển Đức 16 chấp thuận đơn từ chức. Ý nguyện Thành Lễ nhậm chức được thay bằng sự cám ơn Đức Hồng y Jozef Glemp.

Ngày 12.01.2007, các Giám mục Ba lan đã họp phiên khoáng đại bất thường để thảo luận về cuộc khủng hoảng sau khi Đức cha Wielgus bị buộc phải từ chức và tập trung chủ yếu vào việc đề ra một chính sách đối với các giáo sĩ đã dính líu với chế độ cộng sản và những bước cần thiết để thanh tẩy Giáo hội khỏi các phần tử này. Ngoài ra, ngày Thứ Tư Lễ Tro 21.02.2007 được chọn là ‘ngày cầu nguyện và sám hối cho toàn thể giáo sĩ Ba lan’, các Thánh Lễ trên toàn Ba lan được cử hành với ý chỉ xin Thiên Chúa và anh chị em ‘tha thứ cho những sai lầm và yếu đuối’ của hàng giáo sĩ Ba lan trong thời cộng sản.

Ngoài ra, khi nói chuyện thân mật với Đức cha P.X. Nguyễn văn Thuận, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình, trong đêm 12.09.1998 tại Strasbourg (Pháp), một thành viên Phong trào Giáo dân Việt Nam hải ngoại mời Đức cha đến dự hoạt động của Phong trào nhân dịp Hè 1999, Đức cha trả lời : Phải chờ xem chương trình lúc đó vì, nếu có lời mời của một Hội đồng Giám mục quốc gia nào mời thì phải đáp ứng trước. Từ lời đáp của Đức cha, chúng ta mạn phép suy diễn Tòa thánh, nói chung, và Đức Thánh Cha, nói riêng, thường đáp ứng lời đề nghị của Hội đồng Giám mục một nước về những vấn đề thuộc quốc gia đó. Do đó, khi chúng ta lên tiếng trách Tòa thánh, nên công bằng xem đó có phải là do yêu cầu của các Giám mục đồng bào mình hay không.

2. Vụ kiện Đức Thánh Cha trước Tòa án Hình sự Quốc tế.

Ngày 13.09.2011, ‘Mạng lưới các người sống sót của những người bị linh mục lạm dụng’ Survivors Network of those Abused by Priests, SNAP) cho biết họ đã nộp đơn tại Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court, tiếng Anh) để tố cáo ‘nhiều chức sắc tại Vatican đã dung thứ, bao che một cách có hệ thống hành động cưỡng bức, xâm hại tình dục trẻ em trên khắp thế giới’, với sự hổ trợ của ‘Trung tâm vì quyền hiến định’ (Center for Constitutional Rights), một hội luật sư phi chính phủ Hoa kỳ. Ngoài Đức Thánh Cha Biển Đức 16, bản cáo trạng còn yêu cầu truy tố các Đức Hồng y Angelo Sodano, Tarcisio Bertone (cựu và đương kiêm Quốc vụ khanh Tòa Thánh) và William Levada, Tổng trưởng Thánh Bộ Tín lý.

Nếu thông luật, các luật sư thuộc ‘Trung tâm vì quyền hiến định’ phải suy nghĩ đến khả năng Tòa án Hình sự Quốc tế có thẩm quyền xét xử không vì nhiệm vụ của Tòa án chuyên xử những tội ác chiến tranh, những tội ác chống lại nhân loại và tội diệt chủng được thực hiện sau ngày 01.07.2002, ngày thành lập Tòa án. Tòa này chỉ có pháp quyền đối với 117 quốc gia, những nước đã thông qua Hiệp ước Rome Statute ngày 10.11.1998 và 12.07.1999, Hoa kỳ và Vatican là những nước không tham gia Hiệp ước.

Việc xử lý những linh mục bị cáo buộc xâm hại tình dục là do các Giám mục Giáo phận bổ nhiệm và phụ trách, không do Tòa Thánh quyết định vì việc phân quyền trong Giáo hội rất rõ ràng. Điều này cũng tương tựa trong các quốc gia, Chánh phủ hay chính quyền địa phương bổ nhiệm các giáo chức, nhưng có bao giờ ai nại vấn đề truy tố các viên chức này không ?

Như vậy, việc làm của các luật sư này chỉ để tự quảng cáo, chứ không phải là một hành động đòi Công lý cho các nạn nhân. Đó chỉ là một việc tự cho là ‘hổ trợ’, nhưng là một việc làm không đúng Sự thật và Bất công.
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Cựu chủ tịch nước Lê Ðức Anh lên tiếng vụ cưỡng chế ở Hải Phòng
Người Việt
12:04 16/01/2012
‘Chính quyền huyện, xã đều sai, dồn dân vào chân tường’

HÀ NỘI (NV)- Cựu chủ tịch nước CSVN, Tướng Lê Ðức Anh, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo chí trong nước về vụ người dân nổ súng vào lực lượng cưỡng chế đất đai ở Hải Phòng, đã khẳng định, “chính quyền sai từ xã đến huyện” và “dồn dân vào chân tường”.

Ông Lê Ðức Anh, người từng là chủ tịch nước từ năm 1992 đến 1997 và trước đó là bộ trưởng quốc phòng mang quân hàm đại tướng, lên tiếng cho thấy vụ án này gây lo ngại trong các cựu lãnh đạo cao cấp của hệ thống chính trị tại Việt Nam.

Ông Lê Ðức Anh cũng là cựu lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam lên tiếng về vụ này cho đến nay.

Bảy người trong gia đình ông Ðoàn Văn Vươn bị bắt vì nổ súng vào công an khi bị cưỡng chế đất ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng ngày 5 tháng 1 năm 2012 vừa qua.

Lên tiếng trong cuộc trả lời phỏng vấn của báo Người Lao Ðộng hôm 16 tháng 1, 2012, ông Lê Ðức Anh nói rằng, 'thành phố Hải Phòng phải rút kinh nghiệm và xử lý nghiêm cán bộ.'

Theo lời ông Lê Ðức Anh, “Có thể khẳng định chính quyền sai từ xã đến huyện. Ðiểm sai đầu tiên là để sự việc kéo dài quá nhiều năm mà không xử lý đến nơi đến chốn và thấu tình đạt lý. Người làm được, làm tốt đáng lẽ phải động viên, tạo điều kiện nhưng lại cố thu hồi của người ta, đó là cái sai thứ hai. Việc thu hồi còn trái pháp luật là cái sai thứ ba. Cái sai thứ tư là chính quyền cố tình vi phạm luật pháp, dồn người dân vào chân tường, làm họ uất ức đến mức phải chống lại.”

Bình luận về việc, ngôi nhà của gia đình ông Ðoàn Văn Vươn không nằm trong phạm vi cưỡng chế nhưng vẫn bị san phẳng, dẫn đến việc họ không còn nơi cư ngụ, ông Lê Ðức Anh nói, “Chính quyền phải bồi thường cho gia đình ông Vươn. Cả gia đình họ mất nhiều năm mới có thành quả như hiện nay mà chính quyền lại muốn thu hồi, điều đó là không được! Nếu thành phố Hải Phòng và trung ương không xử lý nghiêm việc này thì rất nguy hại.”

Ông Lê Ðức Anh nói rằng, việc phá nhà của dân “là hành vi bất chấp luật pháp. Ông Vươn sai thì cứ xử theo luật, còn chính quyền không thể có hành động như vậy”.

Trong cuộc phỏng vấn, ông Lê Ðức Anh cũng thừa nhận rằng: “Ðang có hiện tượng rất xấu xảy ra ở nhiều địa phương là chính quyền mua rẻ đất của dân rồi bán đắt, trong đó có một phần chia nhau. Chưa kể đất nông nghiệp bị thu hồi làm khu đô thị, khu công nghiệp rồi để hoang hóa nhiều năm.”

Tương tự, trong cuộc trả lời phỏng vấn của báo Giáo Dục Việt Nam, ông Lê Ðức Anh đặt câu hỏi, “Nếu Ðoàn Văn Vươn là một người lương thiện được người dân địa phương quý mến, vậy lý do gì khiến anh ta phải có hành vi tiêu cực như vậy?”

“Thứ hai, tại sao sự việc lại để kéo dài nhiều năm, tại sao có sai sót mà không quản lý được, phải chăng chính quyền địa phương có sự buông lỏng quản lý?”

Và nói thêm rằng, “Việc cơ quan công an tiến hành cưỡng chế mà không có sự kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để nảy sinh phức tạp cũng là một thiếu sót. Nếu mình làm được tốt thì những hành vi chống trả lực lượng chức năng đã không xảy ra”.

Vụ cưỡng chế khu ao hồ nuôi thủy sản và vườn cây trái rộng khoảng 50ha của đại gia đình ông Vươn hôm 5 tháng 1, 2012 được dư luận cho rằng “nó có dấu hiệu của một vụ mánh mung của một số viên chức địa phương muốn cướp trắng công lao khai phá đất hoang đầm lầy của người dân thành một cơ sở nuôi thủy sản và vườn cây ăn trái”.

Báo Ðất Việt ngày Thứ Bảy 7 tháng 1 năm 2012, nói hành động chống đối của gia đình nông dân Ðoàn Văn Vươn vào buổi sáng ngày 5 tháng 1, 2012 đã bắt nguồn từ hành vi lừa đảo của nhà cầm quyền huyện Tiên Lãng.

Chỉ một ngày sau hôm sau xảy ra vụ việc, công an đã bắt giam chủ đầm Ðoàn Văn Vươn, Ðoàn Văn Tịnh (em ông Vươn), Ðoàn Văn Vệ (cháu ông Vươn), Ðoàn Xuân Quỳnh (con trai ông Vươn), Nguyễn Thị Thương (vợ ông Vươn), Phạm Thị Hiền (em dâu ông Vươn). Ðoàn Văn Quý, em trai ông Vươn, bị nói là người nổ súng, ra trình diện hôm 7 tháng 1, 2012 và cũng đang bị giam giữ để điều tra.

Khi lực lượng đông hơn 100 người đến cưỡng chế khu đất của đại gia đình ông Vươn, họ đã bị chống trả với mìn và súng bắn đạn hoa cải. Có 4 công an và 2 bộ đội bị thương. Căn nhà gạch có lầu của ông Quý cũng như căn nhà lợp bổi của ông Vươn đã bị đoàn cưỡng chế bắn xối xả trước khi giật sập.

Một trong những người chống lại vụ cưỡng chế đất đai và bắn bị thương 6 công an, bộ đội là ông Ðoàn Văn Quý, em ông Vươn, khai rằng nguyên nhân của việc nổ súng là vì bất bình với nhà cầm quyền huyện Tiên Lãng. (K.N.)

(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=143108&z=1)
 
Hàng chục chủ đầm nơm nớp lo bị cưỡng chế đất
Nguyễn Hưng
13:03 16/01/2012
Không riêng gia đình ông Đoàn Văn Vươn, kế hoạch thu hồi hàng trăm ha đất nuôi trồng thủy sản ở huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) đã được vạch ra. Tuy nhiên, sau vụ nổ súng 5/1 tiến trình này tạm ngừng trong nỗi thấp thỏm của chủ đầm.

'Góc nhìn đối lập về chủ đầm tôm bị cưỡng chế' / 'Quyết định thu hồi đất ở Hải Phòng là trái luật'

Khác với không khí nhộn nhịp thường thấy dịp giáp Tết, vùng bãi bồi ven cửa sông Văn Úc (huyện Tiên Lãng, Hải Phòng) năm nay nhuốm màu ảm đạm. Sau vụ cưỡng chế dẫn tới nổ súng ngày 5/1 tại đầm tôm của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, hàng chục chủ hộ nuôi trồng thủy sản cũng đứng ngồi không yên, tất cả đều đã nhận quyết định thu hồi đất của UBND huyện.

Ông Vũ Văn Luân, người cùng khởi kiện quyết định thu hồi đất của UBND huyện Tiên Lãng cho biết, nếu không có việc "tày đình" xảy ra ở đầm ông Vươn, ngay chiều cùng ngày, đầm tôm của ông cũng bị cưỡng chế. Cả hai hộ này đều đã nhận quyết định cưỡng chế thu hồi đất và thời điểm thực hiện là ngày 5/1.

(Khác với không khí nhộn nhịp giáp Tết thường thấy ở các vùng quê, những đầm tôm ở Vinh Quang (Tiên Lãng) vắng vẻ, ảm đạm. Ảnh: Nguyễn Hưng.) --->

Ngoài ra, trong danh sách thu hồi đất (chưa có quyết định cưỡng chế), có khoảng 20 chủ đầm, trong đó tập trung ở các xã Vinh Quang, Đông Hưng, Tây Hưng, như chủ đầm Lương Văn Trong, Hoàng Văn Tin, Vũ Văn Tụy, Lương Văn Ná, Vũ Tiến Dũng... Tổng diện tích thu hồi hàng trăm ha.

"Huyện định bắt đầu từ nhà anh Vươn và tôi. Nếu thuận lợi, họ sẽ tiếp tục thu hồi toàn bộ diện tích nuôi trồng thủy sản của các hộ dân", ông Luân nói và cho biết thêm, từ sau vụ cưỡng chế dẫn tới nổ súng, huyện chưa có thông báo tiếp theo về việc cưỡng chế đầm tôm của ông.

Theo ông Lương Văn Trong, Phó chủ tịch Liên chi hội nuôi trồng thuỷ sản nước lợ huyện Tiên Lãng, trước đây khi làm ăn ổn định, một năm hộ của ông cũng thu được ít nhất vài trăm triệu đồng từ việc nuôi trồng thuỷ sản trên diện tích 30 ha đầm. "Lúc chưa nhận quyết định thu hồi, dịp gần Tết thế này có hàng chục người làm thuê, đánh bắt từ sáng đến tối. Còn bây gần như chả làm gì, hàng đêm tôi chỉ ra chòi trông coi đầm bãi", ông Trong nói, giọng rầu rĩ.

Theo ông, những cái "trát" đòi lại đất của UBND huyện bắt đầu đến vào năm 2004, lúc phong trào nuôi trồng thủy sản ở Tiên Lãng vừa khấm khá được vài năm. Ở thời điểm này, các chủ đầm đã đầu tư ít thì vài trăm triệu, nhiều lên tới hàng tỷ để quai đê lấn biển, mở rộng đầm, trồng rừng chắn sóng mà chưa thu hồi được vốn. Kèm theo quyết định thu hồi đất của huyện là thông báo yêu cầu các chủ đầm dừng đầu tư vào đầm bãi.

"Từ khi nhận được thông báo dừng đầu tư, chúng tôi không dám tiếp tục đổ tiền vào đầm bãi vì huyện bảo thu hồi mà không đền bù. Những năm gần đây, các chủ đầm không dám nuôi trồng thủy sản mà chuyển qua chăn nuôi vịt, đánh bắt, khai thác theo kiểu được gì hay nấy...", ông Trong thở dài.

(Ông Lương Văn Trong: "Chủ tịch huyện đình chỉ khiếu nại thì chúng tôi còn biết kêu ai". Ảnh: Nguyễn Hưng.) --->

Thay mặt Liên chi hội nuôi trồng thủy sản nước lợ huyện Tiên Lãng, ông Trong khẳng định, các quyết định thu hồi đất của huyện là "quá vô lý", bởi diện tích đầm bãi sau khi thu hồi vẫn được tiếp tục giữ nguyên mục đích chứ không chuyển đổi sang mục đích khác. Vốn liếng, công sức của người khai phá chưa thu lại được thì đã bị huyện định "lấy không".

Ông Phó chủ tịch Liên chi hội cho hay, ông cùng các hộ nằm trong diện bị thu hồi đã viết đơn nhưng nhiều năm liền huyện không xem xét giải quyết. Không những thế, Chủ tịch UBND huyện Tiên Lãng Lê Văn Hiền còn ký các quyết định "đình chỉ giải quyết khiếu nại". "Chủ tịch huyện làm thế thì chúng tôi còn biết kêu ai", ông Trong than.

Trước nghi vấn việc cưỡng chế khu đầm của ông Vươn để giao cho một số người đã được “nhắm” trước, Chánh văn phòng UBND huyện Tiên Lãng Ngô Ngọc Khánh cho biết, hiện tại các hộ dân cứ bàn giao đất cho xã quản lý. Sau đó, các hộ làm đơn xin giao tiếp, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định có giao nữa hay không.

Theo các chủ đầm tôm ở xã Vinh Quang, phong trào nuôi trồng thuỷ sản tại huyện Tiên Lãng manh nha từ những năm 1970 nhưng chỉ thực sự phát triển khoảng cuối 1990. Đây là thời điểm những hộ tiên phong như Đoàn Văn Vươn, Lương Văn Trong, Vũ Văn Luân sau nhiều năm mò mẫm, thi gan với trời đất đã đứng trụ được trước thử thách khắc nghiệt của bão gió và bắt đầu gặt hái thành quả.

Nhiều gia đình tìm đến các hộ tiên phong học hỏi kinh nghiệm rồi xin huyện cho thuê đất. Vũng bãi bồi bỗng chốc trở nên nhộn nhịp với những đầm thủy sản trù phú rộng lớn. Không chỉ mang lại nguồn thu, rừng chắn sóng cùng những cánh đồng nuôi trồng thủy sản ngoài đê đã trở thành tấm lá chắn vững chắc, giúp người dân nơi đây không còn phải chạy đôn đáo mỗi khi bão về.

Phong trào làm kinh tế này đã làm thay đổi diện mạo cả vùng quê nghèo. Các chủ đầm đã thành lập Liên chi hội nuôi trồng thủy sản nước lợ huyện Tiên Lãng. Ông Đoàn Văn Vươn được bầu làm Chủ tịch Liên chi hội; ông Lương Văn Trong, phó chủ tịch; ông Vũ Văn Luân, thư ký. Trong tổ chức nghề này, ông Vươn, ông Trong, ông Luân là ba hội viên được đánh giá là xuất sắc về quy mô diện tích, mô hình sản xuất và luôn được các hộ đi sau tìm tới học hỏi.

(Nguồn: http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2012/01/hang-chuc-chu-dam-nom-nop-lo-bi-cuong-che-dat/)

 
Những tài liệu liên quan tới vụ tranh chấp thu hồi đất nhà anh Đoàn Văn Vươn
Vincent Nguyễn
16:34 16/01/2012
Sau đây là những tài liệu liên quan tới vụ tranh chấp:

Đơn khiếu nại, thỏa thuận giữa Huyện và anh Vươn, lệnh thu đất nhà anh Đoàn Văn Vươn...

 
Văn Hóa
Năm Thìn nhìn truyện Rồng trong Kinh Thánh
Hoàng Đức Trinh
12:32 16/01/2012
Con Rồng Hành khiển

Người xưa đã chọn con Rồng lên chức hành khiển trong năm Thìn. Rồng cũng được gọi theo âm hán Việt là Long, đó là con vật huyền thoại trong cổ tích của nhiều dân tộc trên thế giới, từ Á sang Âu. Người Á châu coi Rồng là con vật linh thiêng cao trọng, đứng đầu bốn con vật quý trong muôn vật: Long, Ly, Quy, Phụng.

Sách từ điển của Paulus Huỳnh Tịnh Của định nghĩa: “Rồng là loài rắn có sừng có chơn, vẩy có năm sắc, gọi là linh vật, không có ai hề ngó thấy”.

“Không có ai hề ngó thấy” nên chẳng ai dám quả quyết hình dáng con rồng ra sao, cũng chẳng biết đời sống con rồng thế nào, mà chỉ nghe nói và nhìn thấy hình tượng con rồng dài ngoằn ngoèo như con rắn, được vẽ trong tranh ảnh, hoặc đắp tạc nơi nóc đình miếu, cung điện vua chúa…

Chính vì con rồng không có thật nên hình thù con rồng bên Âu châu không phải giống như con rắn như quan niệm của người châu Á, mà họ mô tả con rồng giống một con kỳ nhông to lớn, một loại khủng long, có thêm cánh để bay, và mõm rồng có thể phà ra lửa. Có lẽ vì ảnh hưởng của Kitô giáo, người châu Âu cho rồng là biểu tượng của sự dữ, mang tai họa đến cho loài người, nên cánh của rồng không như cánh chim, mà na ná giống cánh con dơi nhiều hơn.

Á châu từ xa xưa đã coi rồng là cao quý, các triều vua đã nhận rồng làm biểu tượng cho riêng mình, nên bọn quần thần xu nịnh coi vua như rồng, thậm chí cái gì vua dùng là cũng tâng bốc lên, kèm thêm chữ long, chữ rồng vào để biểu lộ sự kính trọng: long bào: áo vua, long sàng: giường vua nằm… hay bệ rồng, sân rồng… “Run như run thần tử thấy long nhan” (thơ Hàn Mạc Tử)

Mặc dầu con rồng là con vật không có trên mặt đất, nhưng vì nhiều người coi nó là cao quý, là linh vật có phép làm mưa tưới mát cây cỏ ruộng đồng, nên người ta mới đặt nó lên chức hành khiển, coi sóc sinh hoạt trên địa cầu trong năm Thìn. Ngày nay ai cũng biết rồng chỉ có trong truyền thuyết, nhưng các nhà làm lịch vẫn cứ giữ truyền thống của tổ tiên, nên vẫn cố duy trì cách tính thời gian theo Thìn, Tỵ, Ngọ… nhất là vào dịp đầu năm âm lịch.

Ở nước ta vẫn chưa hoàn toàn dùng dương lịch, mà chúng ta vẫn thấy lịch của chúng ta còn để ngày tháng âm lịch song song với dương lịch, nên chúng tôi cũng nhân ngày đầu năm, nói chuyện về con vật cầm tinh cho năm Thìn này. Là người công giáo, nên chúng tôi cũng theo thông lệ, mở Kinh Thánh xem Sách thánh nói đến con rồng thế nào.

Con Rồng trong Thánh vịnh

Thánh vịnh là những bài thơ tán tụng, tạ ơn Chúa hoặc thuật lại những kỳ công tạo dựng của Thiên Chúa, được xếp trong Bộ Cựu Ước. Một số trong 150 Thánh vịnh, bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Thế Thuấn, có xuất hiện con rồng biển, nhà văn xính hán tự gọi là hải long, mà bản Kinh Thánh Anh ngữ của Catholic Book Publishing Co. cũng dịch là sea dragon.

Thánh vịnh 104 ca tụng kỳ công tạo dựng vũ trụ của Thiên Chúa vừa oai phong lẫm liệt, vừa cẩm tú thanh cao để làm nơi cư ngụ và nuôi sống cho muôn vật. “Tự kho lầu gác Người đãi nước núi non, nhờ hoa quả sự nghiệp của Người đất được thỏa thuê, Người cho cỏ mơn mởn mọc lên nuôi thú vật, và rau xanh trái ngọt sinh sôi cho nhân loại dùng, đề chúng sản xuất bánh ăn do tự lòng đất.” Trong muôn vật Chúa tạo thành, có các loài chim bay lượn trên không trung, con người và thú vật lấy nền đất làm nơi cư ngụ, các loài thuỷ sản tìm chỗ có nước làm nơi sinh sống:

Này đây biển cả bao la,
Trong đó nhung nhúc không biết cơ man
vật li ti, vật khổng lồ,
Trong đó có thuyền bè đi lại,
hải long Người đã nắn ra làm trò tiêu khiển.
(Tv 104, 25-26)

Thiên Chúa đã tạo dưng con rồng biển cho trửng dỡn trên sóng nước. Theo văn hoá Âu châu cũng như quan điểm thần học, hải long được ghép vào loài thủy quái, hung tàn chuyên chống lại chân thiện mỹ. Trong nguyên bản, hải long là leviathan, tên chỉ một con quái vật từ thời hỗn mang nguyên thủy, được coi như nó sống dưới biển. Nó là điển hình cho quyền lực tối tăm chống lại Thiên Chúa, tìm sát hại tôi tớ Chúa, phá hủy nơi thờ phượng Chúa, nên tín hữu Chúa đã dùng lời thơ của Asaph để luôn kêu cầu Chúa hủy giệt nó:

Lạy Thiên Chúa, vua của tôi, từ ngàn xưa,
giữa đất đai này, Người là Đấng dày công cứu độ.
Chính Người đã ra oai xả thây đại hải,
đập bể đầu thuồng luồng trong nước.
Chính Người đã làm bay đầu hải long,
Phanh thây nó làm mồi cho giải biển
. (Tv 74, 12-14)

Con Rồng sách Ông Gióp

Ông Gióp là một tôi trung của Thiên Chúa, được Chúa cho sống cuộc đời giầu sang và đầy hạnh phúc, con cái đông đúc…đến nỗi quỷ satan cũng phải ghen tuông. Chúa đã cho phép satan thử thách để xem trong cơn hoạn nạn, ông còn trung thành với Chúa nữa không.

Giữa cơn thử thách, ông lâm cảnh cùng cực tán tận của cải, con cái tiêu vong, Gióp cúi đầu vâng phục. Bị thử thách ngay trên chính thể xác mình, Gióp vẫn không hề thốt lời xúc phạm đến Chúa, mà ông chỉ than thân trách phận thà rằng ông không được sinh ra để khỏi phải chịu cảnh khốn cực như tăm tối giữa ban ngày này:

Phải chi chúng nguyền rủa đêm đó,
những kẻ nguyền rủa ngày
và sẵn sàng lay tỉnh ‘con rồng biển’!
(G 3,8)

Trong thần thoại Phênêkia, ‘con rồng biển’ lêviathan là giống thuỷ quái thời sơ khai hỗn mang, người bình dân của họ tin rằng, khi con quái vật trùng dương ấy thức giấc, nó phá tan trật tự hiện có trong vũ trụ. Ý chừng ông Gióp muốn con rồng biển thức dậy, cho tan tành thế giới, cho ông thoát cảnh khốn nạn trên đời.

Con rồng biển này rất hung hãn, loài người không ai có thể làm gì được nó, cũng không thể dùng mồi mà dụ được nó, lại càng không thể dùng dây mà trói buộc được nó:

Ngươi sẽ dùng mồi câu ‘con rồng biển’
và với đoạn thừng ngươi sẽ cột lưỡi nó?
Ngươi sẽ lấy cói xỏ mũi nó
và chọc thủng hàm nó bằng một câu liêm?
(G 40, 25-26)

Nhưng Thiên Chúa sẽ đưa tay ra trừng trị con rồng biển này:

Hơi thở Người làm trời trong sáng,
tay Người đâm thủng ‘con rồng biển’.
(G 26,13)

Sấm rồng của Tiên tri Isaia

Isaia là vị ngôn sứ cương trực, nhìn xa thấy rộng và nhất là có một đức tin mãnh liệt, nên tư tưởng về tôn giáo của ông rất sâu xa, nhìn rõ về Đấng Cứu Thế.

Sách Isaia có tới 66 chương, các nhà phê bình văn học Thánh Kinh đã chia thành 3 phần. Phần I gồm 39 chương đầu kể các biến cố xảy ra trong thời tiên tri sống. Phần cuối từ chương 56 tới chương 66 gom góp nhiều sấm ngôn về nhiều việc khác nhau. Phần giữa từ chương 40 tới chương 55, tiên tri nói lên những lời yên ủi dân Itraen, trong đó ông khẳng định dân Itraen sẽ được hồi sinh, Giêrusalem sẽ bừng tỉnh tươi sáng lên, Sion sẽ vui mừng hân hoan sung sướng… Vì sẽ được Chúa giải thoát, khi Người nhận lời toàn dân kêu cầu:

“Hỡi cánh tay Thiên Chúa, xin chỗi dậy, hãy vung lên! Hãy dùng hết nghị lực! hãy vùng dậy như đời thượng cổ xa xưa! Há chẳng phải Người đã đâm đứa kiêu ngạo và đả thương con rồng sao?” (Is 51,9)

Đanien giết Rồng

Đanien là một tiên tri của Chúa, thiếu thời ông được tuyển chọn vào cung vua Nabucôđonôso để được đào tạo thành dường cột cho đất nước. Nhưng ông và ba người bạn cùng xin ăn rau và uống nước lã, không đụng đến cao lương mỹ vị vua nuôi ăn, để giữ luật Itraen không ăn thịt cúng. Lớn lên ông có tài đoán chiêm bao, được vua phong chức đại thần, thống lãnh miền Babylon.

Mặc dầu làm lớn, nhưng Đanien và các bạn vẫn phụng thờ Thiên Chúa, nhất định không chịu bái lạy một thần tượng nào khác, kể cả tượng của vua, mà ông cho là chỉ làm bằng gỗ đá chứ không có sự sống.

Đanien đã phục vụ qua nhiều triều vua, và cũng trải qua nhiều gian nan, có lần ông bị nhốt trong hầm sư tử, nhưng vì kính sợ Chúa nên ông đều thoát nạn.

Đến thời vua Kyrô, dân Babylon có thờ một con rồng lớn, vua bắt Đanien đến tế lễ, chuyện xảy ra như Kinh Thánh trình thuật sau đây:

Bấy giờ có một con rồng lớn, và dân Babylon sùng bái nó. Vua nói với Đanien:
- Ngươi không thể nói được là thần này không phải là thần sống! Vậy hãy thờ lạy ngài đi!
Đanien đáp:
- Tôi thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, vì Người mới là Thần hằng sống. Phần ngài, tâu đức vua, ngài ban phép và tôi sẽ giết con rồng mà chẳng cần đến gươm đao hay gậy gộc.
Vua nói: “Ta ban phép đó!”.
Đanien đã lấy dầu chai, mỡ và lông thú. Ông đem nấu trộn tất cả với nhau làm thành những chiếc bánh. Đoạn ông đem bánh đó cho vào miệng rồng. Rồng ăn rồi thì nứt bụng ra chết. Và ông nói:
- Coi cái con rồng các người thờ đó!
Xảy ra là khi dân Babylon nghe tin vua cho Đanien giết rồng, thì họ rất phẫn uất. Họ hùa tập cùng nhau chống lại nhà vua và nói: “Vua đã trở thành Do Thái! Ông ta đã cho lật đổ thần Ben, đã cho phép giết long thần và hạ sát các tư tế.” Họ kéo tới yết kiến vua, phẫn nộ tâu lên:
- Xin trao Đanien cho chúng tôi! Chẳng vậy, chúng tôi sẽ giết ngài và cả gia đình ngài nữa.
Vua thấy mình bị họ bức bách nguy quá, thì bất đắc dĩ đã nộp Đanien vào tay họ.
(Xin xem Đn 14,23-30)

Số phận tiên tri Đanien ra sao? Mời quý vị mở sách Đanien đọc tiếp.

Rồng trong Sách Khải Huyền

Khải huyền là sách mạc khải những điều huyền nhiệm liên quan đến ngày thế mạt và cuộc khải hoàn của giáo hội lữ hành.

Trong cuộc lữ hành trần thế, Hội Thánh Chúa luôn bị bách hại bởi những quyền lực chống lại Thiên Chúa, mà thủ lãnh của chúng chính là con rồng, tức con rắn già satan trong vườn địa đàng xưa, đã luôn luôn dối trá lừa phỉnh người nhẹ dạ theo về phe chúng.

Nhưng Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu đóng đinh trên Thánh giá. Ai tin vào Ngài sẽ được cứu rỗi. Vương quyền của Đức Kitô ngày nay còn khuất ẩn trong bóng Thánh giá, nhưng một ngày kia, Ngài lại đến trong vinh quang chiến thắng. Con rồng sẽ bị triệt hạ và quăng vào lửa sinh diêm chẳng hề tắt. Sách Khải Huyền viết về con rồng, chúng tôi xin lược trích và trình thuật như sau:

Đền thờ Thiên Chúa ở trên trời đã mở ra, có hòm giao ước Chúa nơi đền thờ Ngài, và xảy ra những tia chớp lòa, sấm sét, động đất và mưa đá ầm ầm. Kế đó một điềm lạ xuất hiện trên không trung: một Bà sáng chói như có mặt trời bao quanh, chân Bà đạp vầng trăng, và mười hai ngôi sao như triều thiên tỏa sáng trên đầu Bà. Bà có mang, vì sắp sanh nên kêu la, quặn đau chờ sinh nở.

Lại thấy từ trời một dấu lạ khác, đó là một con rồng to lớn màu hồng, có bảy đầu, mười sừng và trên bảy đầu ấy có đội bảy vương miện, đuôi nó kéo một phần ba tinh tú trên trời mà quăng xuống đất. Con rồng đứng trước mặt Bà gần sinh, đợi Bà lâm bồn thì nuốt con Bà. Bà sinh một con trai, trẻ này sẽ dùng gậy sắt cai trị muôn dân: con Bà được đem lên với Thiên Chúa, cạnh ngai của Ngài. Còn Bà phải trốn lên rừng vắng, đến nơi Thiên Chúa dành sẵn…

Lúc ấy trên trời xảy ra cuộc giao chiến dữ dội, Thần Micae và các chư thần của người giao tranh với con rồng. Rồng và các thần thuộc hạ chiến đấu chống lại. Nhưng phe rồng không thắng nổi, mà chỗ của chúng cũng không còn thấy trên trời nữa. Con rồng lớn bị quăng xuống đất cùng với các thần thuộc phe nó…

Khi con rồng thấy mình bị quăng xuống đất thì nó đuổi theo Bà đã sinh con trai. Bà được đôi cánh đại bàng mà bay vào sa mạc…Con rồng liền hả họng phun nước chảy như dòng sông đuổi theo cho Bà chết đuối, nhưng đất đã hớp cạn dòng sông từ mõm rồng để cứu Bà.
(Xin xem Kh 12,1-16)

Để có được những thế lực hùng mạnh trợ giúp, con rồng trao quyền uy cho hai con mãnh thú hung dữ. Một con từ biển đi lên, có hình thù như con báo, chân như chân gấu, mõm mhư mõm sư tử. Con mãnh thú này có tới bảy cái đầu và mười sừng, trên mỗi sừng đều có vương miện. Và con rồng đã trao ngai báu và cả quyền bính lớn lao cũng như năng quyền cho nó. Những kẻ đi theo con mãnh thú đều thờ lạy con rồng vì nhờ rồng mà mãnh thú có quyền năng cái thế.

Con mãnh thú thứ hai từ đất đi lên, con này có hai sừng giống con chiên, nhưng nó nói năng như con rồng. Con mãnh thú này như là một trợ tá đắc lực cho mãnh thú thứ nhất. Nó làm được những dấu lạ cả thể, khiến người ta theo về phía con rồng để lãnh được những mã số của nó.
(Xin xem Kh 13,1-18)

Mặc dầu phe con rồng đã lũng đoạn trần gian, nhưng cuối cùng “một Thiên Thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá Vực thẳm và một xiềng lớn, Và Ngài đã thộp lấy con rồng… và xiềng nó lại một ngàn năm. Và Ngài đã xô nhào con rồng xuống Vực thẳm, khóa và niêm phong nó lại, để nó đừng còn mê hoặc các dân, cho đến kỳ hạn một ngàn năm đã mãn …” (Kh 20,1-3).

Số phận con rồng được sách Khải Huyền ghi chép như thế. Chúng tôi chỉ trích tóm tắt và nối kết những đoạn nói đến con rồng cho quý vị tiện theo dõi một mạch, mà không phải đọc nhiều trang hơn. Chúng tôi cũng xin thưa rõ ràng rằng: trong các bản dịch Kinh Thánh sang Việt Ngữ, có bản không dùng danh từ “con rồng” hay danh từ nào tương đương cho độc giả thấy hình ảnh con rồng, có bản dịch là “giao long”, bản khác gọi là “hải long”… Chúng tôi không may mắn có được những bản dịch Thánh Kinh Việt ngữ trước kia, như của cố chính Linh chẳng hạn, nhưng chắc các dịch giả xưa cũng có vị dùng danh từ con rồng trong bản dịch của các ngài. Trong bài trích Sách Khải Huyền, Lễ Đức Mẹ Lên Trời, sau Công Đồng Vatican, bản Anh ngữ cũng viết: “…it was a huge red dragon, with seven heads and ten horns…”

Kinh Thánh xác định con Rồng chính là con Rắn thái sơ, là Quỷ sứ Satan (Kh 20, 2). Như vậy, cuối cùng con Rồng và tôi tớ nó bị lửa sinh diêm từ trời sa xuống thiêu hủy, và xô chúng nhào xuống vực thẳm, nơi đó chúng bị gia hình ngày đêm đời đời kiếp kiếp. (xem Kh 20, 9+10).

Kết thúc truyện Rồng

Kinh Thánh nói về con Rồng là như vậy. Rồng và ác thần phe nó luôn là thế lực gian dối, xảo trá, thù địch với sự Thiện, đối đầu với Công Lý, chống lại Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài. Tại Việt Nam, ngay từ ngày Đạo Chúa mới được truyền giảng, phe con Rồng đã ra tay hãm hại. Cho mãi đến đầu thiên niên kỷ thứ ba này, những con người thuộc hạ của con Rồng vẫn đang còn rắp tâm tiêu diệt các tín hữu con cái Chúa. Như sấm ngôn Kinh Thánh đã viết: Vì không làm gì được người Đàn Bà sinh con, nên “con Rồng tức tối với Bà thì đi tuyên chiến với các người khác thuộc dòng giống Bà, những kẻ nắm giữ lệnh truyền Thiên Chúa và có nơi mình chứng của Đức Kitô” (Kh 12,17).

Năm Thìn, năm hành khiển của con Rồng theo âm lịch, tín hữu Việt Nam bước theo Cờ ánh sáng của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, không sợ con Rồng, phải quật ngã phe cánh của nó. Lời Chân phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi còn đang gào thét bên tai “Các con đừng sợ!”, nhưng các con cưng người cất nhắc lên vẫn cứ như “hàng thần lơ láo...ra đâu, vào luồn ra cúi công hầu mà chi?” (lẩy Kiều). Chỉ khi nào dân tộc Việt Nam ta không sợ thần dữ phe con Rồng nữa, lúc ấy mới thoát khỏi nanh vuốt nó, như dân tộc Ba Lan đã thoát ách cộng sản vô thần, phục hồi được Công Lý và Quyền Tự Do để xây dựng đất nước.

Kính chúc quý vị một Năm Mới An Khang và Đầy Dũng Mãnh, coi Rồng dữ như con giun đất để triệt hạ tôi tớ nó, cho Dân Tộc ta vươn dậy sánh vai cùng các nước văn minh tiến bộ.

Đón Tết Canh Thìn, tại Arlington, TX.
 
Năm Thìn nói chuyện Rồng
Nguyễn Ngọc Sáng
12:29 16/01/2012
Năm Thìn nói chuyện Rồng

Con Rồng cháu Tiên

Năm âm lịch được tính theo mười hai con “giáp” (thập nhị chi): Tí, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi lần con giáp được lặp lại thì kể như là đã 12 năm. Tên của năm âm lịch lại còn được kèm một tên trong “thập can”: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Do đó, năm âm lịch có tên được ghép bởi một can với một chi. Năm nay, 2012, là năm Nhâm Thìn. Chu kỳ của năm âm lịch là 60 năm, nghĩa là Nhâm Thìn trước là năm 1952, thì Nhâm Thìn này là 2012. Ai sinh năm Nhâm Thìn trước (1952) thì đến Nhâm Thìn này (2012) sẽ tròn 60 năm, nghĩa là 60 tuổi, nhưng thật ra lại không phải vậy, người Việt tính là 61 tuổi chớ không phải 60!

Tính theo thập nhị chi thì Rồng đứng vào hàng thứ năm, nhưng tính theo “tứ linh” (bốn con vật linh): long, lân, qui, phụng thì Rồng lại đứng hàng đầu. Trong thập nhị chi tính từ Tí cho đến Hợi (ứng với: chuột, trâu, cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, heo) thì tất cả đều được con người biết, duy chỉ có Thìn-Rồng thì chịu, do người ta tưởng tượng ra. Rồng là một linh vật được huyền thoại hóa mang đầy tính siêu nhiên. Có thể nói, rồng là một biểu tượng của sự linh thiêng, cương trực, mạnh mẽ, sự vươn lên. Theo truyền thuyết, chuyện cá chép hóa rồng là một hình ảnh của sự vươn lên.

Đối với người Việt Nam, truyền thuyết kể lại rằng vua Lạc Long Quân thuộc dòng dõi rồng lấy Âu Cơ thuộc dòng dõi tiên sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con, nửa theo mẹ lên núi vì mẹ là giống Tiên, nửa theo cha xuống biển, vì cha là giống Rồng; và từ đó sinh ra một dòng Việt Nam. Người Việt Nam đã tự hào mình là con Rồng cháu Tiên.

Rồng trong sử Việt

Chưa hề có ai tận mắt thấy rồng, tuy nhiên kinh Thư có đoạn nói vua Vũ (nhà Hạ) ngồi trên thuyền nơi giữa sông Hoàng Hà bỗng sóng gió nổi lên dữ dội thì một con rồng vàng bơi đến, đội thuyền của vua lên, nhờ vậy thuyền không bị chìm. Trong lịch sử Việt Nam, có những chuyện về rồng:
- Năm 549, Triệu Việt Vương trốn ở trong đầm Dạ Trạch để tránh quân nhà Lương. Lâu ngày, quân Lương không lui, Triệu Việt Vương mới lập đàn cầu khẩn thần linh. Truyền thuyết nói rằng vị thần trong đầm là Chử đồng Tử đã cưởi rồng vàng từ trên trời xuống, rút móng rồng trao cho ông, bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc. Nhờ đó, Triệu Việt Vương đã đánh đâu thắng đó.
- Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ thường hay chơi trò đánh trận với các bạn. Một hôm, Đinh Bộ Lĩnh đã mổ trâu của chú làm thịt khao quân, bị ông chú rượt theo đuổi đánh, tới bờ sông, cùng đường, vừa may một con rồng vàng nổi lên trên mặt nước, ghé sát, thế là “vua cờ lau nhảy” vọt cưỡi lên lưng rồng khiến ông chú phải thất kinh, quỳ xuống vái lạy (theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư).
- Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ thành Hoa Lư ra thành Đại La, lúc thuyền rồng sắp sửa cập bến thì trên trời mây vàng tụ thành hình con rồng đang bay lên, nhân đó vua Lý đã đổi tên thành Đại La ra là thành Thăng Long.

Những tên có chữ rồng (long)

Không có thật nhưng con rồng vẫn cứ được sùng bái tôn vinh. Trong tâm linh, trong trí tương tượng của con người phương Đông, rồng là biểu tượng, là tượng trưng của sức mạnh, quyền uy, là biến hóa, là linh thiêng. và tượng trưng cho những gì cao quý. Ngoài việc con rồng là một biểu trưng cho nguồn cội của giống nòi, rồng lại được dùng để hóa thân thành một hình tượng của quyền lực tối cao trong thiên hạ: ông vua. Những gì thuộc về vua được gọi với chữ long đứng kèm.

- long bào: áo vua mặc
- long xa: xe để vua đi
- long sàng: giường vua nằm
- long thể: thân thể vua
- long nhan: mặt vua
- long mạch: chỗ đất thạnh vượng, có chôn ai xuống đó, thì con cháu nếu không làm vua thì cũng sẽ được giàu sang
- long đình: sân rồng nhà vua (anh em bái tạ, long đình đều lui - Lục Vân Tiên)
- long cổn: áo lễ có thêu rồng để vua mặc khi làm lễ tế trời
- …

Những địa danh có tên rồng (long)

Ngoài Thăng Long là tên thủ đô xưa, Việt Nam có nhiều địa danh mang tên Rồng hay Long từ Bắc chí Nam:

- Long Biên, nơi Lý Nam Đế đóng đô và đặt tên nước là Vạn Xuân.

- cầu Long Biên là cây cầu bắc qua sông Hồng, được xây trong những năm (1899-1902), được đặt tên Paul Doumer, tên của vị Toàn quyền Đông Dương thời đó, ngày nay được gọi là cầu Long Biên.

- cầu Hàm Rồng, bắc qua sông Mã, gần Thanh Hóa, đã có từ năm 1904.

- Vịnh Hạ Long, một thắng cảnh của Việt Nam, nơi thu hút nhiều du khách. Truyền thuyết kể lại xưa kia khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ.

- Cửu Long (được gọi là con rồng xuyên Việt), con sông vào đến miền Nam chia thành hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang, cuối cùng thoát ra bằng 9 cửa sông, cho nên có tên gọi là sông Cửu Long (tức 9 con Rồng).

- Kim Long, một địa danh ở Huế, được gắn liền với vua Thành Thái trong thời gian kháng Pháp.

Rồi đi lần về phía Nam, người ta sẽ gặp những nơi như: tỉnh Long Khánh, tỉnh Phước Long, tỉnh Long An (còn có tên là Tân An), tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Long Xuyên và những nơi như Long Bình, Long Định, … kể không hết.

Những hình tượng rồng

Những tác phẩm nghệ thuật về rồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung đình, đình chùa, trang phục vua chúa. Hình tượng con rồng cũng thay đổi theo dòng lịch sử qua các triều đại. Việc xác định phong cách thể hiện con rồng qua các thời kỳ sẽ là một căn cứ để xác định niên đại công trình kiến trúc nào đó.

Rồng đời Lý

Đó là nhưng con rồng thân tròn lẳng, khá dài, không có vẩy, uốn khúc mềm mại và thon dài từ đầu đến chân, rất nhẹ nhàng, có bốn chân, mỗi chân có ba ngón phía trước, không có ngón chân sau và có hình dạng của một con rắn. Rồng thời Lý thường ngẩng đầu lên, miệng thì há to. Vị trí của chân bao giờ cũng đặt ở một chỗ nhất định. Chân trước mọc gần giữa khúc uốn thứ nhất, chân đối xứng phía bên kia nằm gần cuối khúc uốn này. Hai chân sau bao giờ cũng ở gần khoảng giữa khúc uốn thứ ba. Cả bốn chân đều có khủy phía sau và có móng giống chân loài chim.

Rồng đời Trần

Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi rắn. Chân rồng thường ngắn hơn, và có sự xuất hiện chi tiết cặp sừng và đôi tai.

Rồng đời Lê

Đến thời Lê, rồng có sự thay đổi hẳn, rồng không nhất thiết là một con vật mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Răng nanh cũng được kéo dài lên phía trên. Rồng có râu ngắn và một chân trước thường đưa lên đỡ râu, tư thế thướng thấy ở các con rồng đời sau. Cổ rồng thường nhỏ hơn thân, một hiện tượng ít thấy ở những con rồng trước đó, nhưng vẫn còn mang dáng dấp truyền thống của loài rắn.

Rồng đời Nguyễn

Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ… Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vảy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng.

Rồng quay đầu lại

Đặc biệt, trong vùng Mê Linh, người ta kiêng cử không làm “tượng rồng quay đầu lại” vì đó là biểu tượng hai bà Trưng quay đầu lại nhìn quê hương lần cuối trước khi nhảy xuống tự tử ở sông Hát. Ngoài Mê Linh, tưởng nhớ đến hai bà, người ta cũng nhớ đến “dòng sông Hát” nơi hai bà đã gieo mình xuống. Sông Hát là một nhánh của sông Đáy. Dọc theo dòng sông Hát có một nơi tên là Hát Môn, nơi còn giữ nhiều kỷ vật của hai bà, như đôi hài có thêu “tiên rồng hậu phượng”.

Rồng trong văn chương

Qua ca dao, người bình dân Việt Nam quan niệm con rồng như là một hình ảnh đẹp, có giá trị về cả thể chất lẫn tinh thần. Nó cũng thuộc về loài vật, nhưng là loài vật cao cấp nhất. Có nhiều câu ca dao đã sử dụng hình tượng con rồng để nói bóng về một con người cao sang hay một cái gì đáng quí:

Một ngày dựa mạn thuyền rồng
Còn hơn muôn kiếp ở trong thuyền chài


Có bạn đến thăm, chủ nhà khiêm nhường nói: Rồng đến nhà Tôm. Đi học, viết chữ đẹp thì được khen là viết chữ như rồng bay phượng múa, còn viết chữ xấu thì bị chê là viết như cua bò. Lắm điều lắm chuyện, người đời chê bai là “vẽ chân cho rắn, vẽ râu cho rồng”!

Bởi rồng không có thật nên dân gian lại mượn rồng để nói chuyện không có

Anh đây lục trí thần thông
Bẻ mây đón gió, bắt rồng đi chơi


hay như:

Cần câu sắt, sợi nhợ bạc, uốn lưỡi câu đồng
Móc mồi loan phụng câu rồng trên mây.


Mà bởi không có thật nên chính rồng cũng là hình tượng được dùng để trách móc những kẻ ..

Trách ai ăn ở hai lòng
Đang chơi với phụng, thấy rồng bay theo


Nhưng chuyện “rồng với mây” là chuyện tình đời thắm thiết:

Tình cờ bắt gặp mình đây
Như cá gặp nước như mây gặp rồng.


Rồng … có thiệt

Tuy rằng rồng là một con vật không có thật nhưng người ta đã cùng nhau nhận rằng rồng có hình dạng như vậy … đó. Con vật nào có cái đầu, cái thân, mấy cái chân, với cái đuôi như vậy đó thì gọi là con rồng. Có một loại … rồng có thật, gọi là rồng lá (leafy seadragon), có tên khoa học là Phycodurus eques. Đây không phải là rồng phun lửa trong thần thoại mà là một loại cá, giống như con rồng và có kích thước nhỏ hơn, được tìm thấy trong vùng biển Tây Victoria và vùng biển phía nam của Tây Úc. Rồng lá được xem như là kỳ quan của biển cả.
 
Tất niên, cám tạ tình Chúa tình người
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
07:29 16/01/2012
Tất niên, cám tạ tình Chúa tình người

Năm cũ sắp đi qua với biết bao ân phúc mà Thiên Chúa và tha nhân đã tặng ban cho ta trong suốt những tháng ngày qua. Giữa bao thăng trầm, biến động của lịch sử xã hội, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương thực thi chương trình huyền nhiệm và kỳ diệu của Người trên đời ta.

Như Israel xưa được nâng đỡ trên hành trình tiến về Đất Hứa, chúng ta cũng đang được dẫn dắt trong cuộc lữ hành tiến về Vĩnh Cửu dưới ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh (1Cr 1, 3-9). Trong những thời khắc cuối cùng của năm cũ, hiệp với ngôn sứ Isaia, ta hãy hồi tâm suy gẫm và dâng lên Chúa tâm tình cám tạ về tất cả hồng ân đã nhận lãnh.

“Tôi xin nhắc lại ân nghĩa với Đức Chúa, dâng lời ca tụng Đức Chúa, vì tất cả những gì Đức Chúa đã thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của Người đối với nhà Israel, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy thương xót và lắm nghĩa giàu ân” (Is 63, 7).

1. Tất cả là hồng ân

Tất cả là hồng ân, vì mọi sự không nằm ngoài bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Có thể ta buồn, ta nuối tiếc và đau xót vì bao kế hoạch đặt ra đang lỡ dở, bao sai lầm trong cách nghĩ, cách làm dẫn đến thảm bại, bao thua thiệt, mất mát to lớn cả vật chất lẫn tinh thần… Nó làm cho ta nhiều khi đã buông lời trách Chúa vì Người đã không theo ý ta. Nó làm cho ta có lúc hoài nghi về quyền năng và tình thương của Chúa. Chúng ta khác nào đoàn dân Israel trong sa mạc, thiếu đi ngọn lửa mến và niềm xác tín tuyệt đối vào chương trình tình thương của Thiên Chúa.

Kinh nghiệm đức tin của Gióp (G 1 – 42) mách bảo cho ta về ân huệ của Chúa. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và dẫn đưa Gióp trên nẻo đường huyền nhiệm mà con người không thể ngờ tới. Con đường ấy hằn sâu những vết chân khổ lụy nhưng nó báo hiệu cho cuộc gặp gỡ toàn vẹn với “Đấng Ẩn Mình” đầy yêu thương và công bằng.

“Như Gióp xưa, Thiên Chúa vẫn không ngừng săn sóc thăm nom đời tôi, đời bạn và gửi đến cho chúng ta thật nhiều quà tặng vô giá. Đó là tất cả hồng ân dồi dào dành cho chúng ta trong mọi biến cố thường ngày. Có thứ quà tặng ngọt ngào gắn với hạnh phúc trào vui; có thứ quà tặng nhuốm màu đắng cay, chua xót nhưng quý giá vì chất chứa những đánh đổi cho hạnh phúc vĩnh hằng; có thứ quà tặng câm lặng, vô hình đòi hỏi ta phải kiên trì, sáng suốt để nhận ra… Nhiều khi ta đã đã cố tình trách Chúa vì những thứ “quà” không vừa ý riêng. Nhiều khi ta đã đổ lỗi cho Chúa trước những đổ vỡ, đau thương quá lớn, và có khi ta đã đẩy xua, nguyền rủa những nghịch cảnh… Nhận ra chương trình của Chúa trên đời mình, chúng ta hãy đón nhận tất cả như quà tặng dư đầy, phong phú mà Thiên Chúa ưu ái gửi đến cho mỗi người trên hành trình đi tìm hạnh phúc đích thực” (J.B. Nguyễn Quốc Tuấn, Hành trình Đức tin của Gióp)

Tất cả là hồng ân. Năm cũ sắp sửa qua đi, chúng ta khắc cốt ghi tâm biết bao ơn lành mà Thiên Chúa yêu thương gửi đến cho ta, cho người thân của ta và cộng đồng qua bàn tay và con tim tràn đầy yêu thương của bao người xung quanh. Bạn và tôi thử nghĩ xem, nếu những ngày qua, xã hội mà chúng ta đang sống thiếu vắng đi những tâm hồn giàu nặng yêu thương ấy thì thế giới này sẽ thật cô lạnh, vô vị, vô nghĩa, đắng cay biết chừng nào ? !

Thật hạnh phúc cho ta biết bao, vì giữa dòng chảy thời gian với những con sóng nghịch cảnh, nghiệt ngã, phũ phàng trào xô, Thiên Chúa vẫn không ngừng đồng hành, nâng đỡ và gửi đến cho ta vô vàn những bàn tay nhân ái không ngại gian khó, âm thầm tận hiến phục vụ chúng ta và đồng loại giữa đời thường. Họ vui tươi, sẵn sàng hy sinh những lợi ích thiết yếu nhất của bản thân để có thể đem lại cho cộng đồng niềm tin, sự sống, hạnh phúc đích thực, cho dẫu rất nhỏ nhoi. Họ dám xả thân trước tệ trạng bất công và mọi hình thức đối xử phi luân để bảo vệ phẩm giá và lợi ích thiêng liêng của con người... Quả thực, dấu chứng cuộc ‘‘thăm viếng’’ của Thiên Chúa vẫn liên tục hiện hữu giữa đời ta.

Tất cả là hồng ân. Cám tạ Chúa đã ban cho ta món quà thời gian gói trọn tất cả những hồng ân vô giá ấy. Cám tạ tình Chúa tình người. Chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa hơn ‘‘lời cảm tạ’’ của Thánh Phaolô: ‘‘Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu’’ (1Cr 1, 4).

2. Nhận lãnh để trao ban

Năm cũ sẽ qua đi nhưng tình Chúa tình người vẫn theo suốt đời ta, cho dẫu ta vô tình lãng quên hay vô ơn trước bao ân thiêng vô giá ấy. Tất niên là thời điểm ý nghĩa và thuận tiện nhất để ta bày tỏ tâm tình tạ lỗi, nhất là để cám tạ tình Chúa tình người.

Thiên Chúa và anh chị em ta với tình yêu vô lượng, vô vị lợi không đòi hỏi ta phải báo xứng những những hồng ân mà ta đã nhận lãnh. Nhưng Tin Mừng mời gọi ta, nhận lãnh là để trao ban: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy ban phát nhưng không” (Mt 10, 8). Ân phúc mà chúng ta đón nhận trong suốt năm qua sẽ dư đầy và phát triển dồi dào khi ta biết chia sẻ và tiếp tục tặng ban nó cho những người xung quanh. Cuộc thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét của Đức Maria (Lc 1, 39 – 55) khơi mở cho chúng ta một thái độ đáp trả trọn vẹn và ý nghĩa nhất trước tình Chúa tình người.

Khi đã nhận lãnh “đầy ân phúc” (Lc 1, 28b) từ Thiên Chúa, Đức Maria đã lên đường làm cuộc lữ trình đáp trả tình Trời. Yêu thương, chính là nét nổi bật nhất mà Đức Maria đã đem đến cho nhà Ê-li-sa-bét trong cuộc thăm viếng. Vì yêu thương nên Mẹ đã quan tâm, gặp gỡ, cảm thông, chia sẻ niềm vui, giúp đỡ người chị họ. Không chỉ dừng lại ở đó, Mẹ còn muốn trao ban chính Chúa là Đấng Mẹ đang cưu mang, là Đấng Mẹ đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông sẽ đến cứu chuộc nhân loại. Cao điểm của tình yêu nơi Mẹ, là khi đã được lãnh nhận hồng ân dư đầy từ Thiên Chúa, Mẹ đã không cố giữ lấy cho riêng mình, mà đem phúc cả ấy đến cho người cần được sẻ chia và chung nghiệm hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng. Đây chính là tâm trạng của bà Ê-li-sa-bet trước lời chào của Đức Maria: “Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần…” (Lc 1, 41); và Ê-li-sa-bét đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?”. Đó là đỉnh điểm của hạnh phúc được trao ban.

Sẽ có một năm mới đại hạnh, tràn đầy hồng phúc cho nhân loại, cho gia đình và mỗi người, nếu chúng ta biết xích lại gần nhau hơn, để cùng nhau trao ban tình Chúa tình người.

Tâm tình của lời kinh “Magnificat” (Lc 1, 46-55) đẹp đẽ, sinh động nhất mà chúng ta có thể thông hiệp với Đức Maria, để tri ân tình Chúa tình người trong suốt năm qua, là thái độ khiêm cung đón nhận tất cả mọi ơn lành, đồng thời nỗ lực sống lời mời gọi yêu thương từ Thiên Chúa trong sứ vụ liên đới mật thiết với tha nhân.

ĐCV Vinh Thanh những ngày cuối năm Tân Mão

J.B. Nguyễn Quốc Tuấn

 
Hãy ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực!
Tạ Ân Phúc
09:32 16/01/2012
Trong đời người, có lẽ ai cũng đã từng một lần ước mơ, dù đó chỉ là những điều bình dị nhất trong cuộc sống. Ước mơ giúp con người nuôi dưỡng niềm tin và tạo sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, trở ngại trước mắt và đạt được mục tiêu đã đề ra. Có người nói rằng dám ước mơ đã là thành công một nửa và thật can đảm khi thực hiện ước mơ của mình: “Thử thách của cam đảm không phải là dám chết, mà là dám sống và thực hiện những ước mơ của mình” (Alfieri). Thế giới hiện đại ngày nay phát triển là nhờ vào không ít những ước mơ của các nhà phát minh, sáng chế, biến những điều tưởng chừng như không thể trở nên có thể và phục vụ cho nhu cầu bình thường của con người như: máy bay, điện thoại, truyền hình, phim ảnh, internet… Rõ ràng, “Ước mơ không phải là cái gì sẵn có, cũng không phải là cái gì không thể có. Ước mơ giống như một con đường tiềm ẩn để con người khai phá và vượt qua” (Lỗ Tấn).

Nhằm giới thiệu những giải pháp để mọi người thực hiện ước mơ của mình, chiều thứ Bảy 07/01/2012, Chương Trình Chuyên Đề của Ban Mục Vụ Gia Đình, TGP. Sài Gòn đã tổ chức buổi nói chuyện: “DÁM ƯỚC MƠ VÀ THỰC HIỆN” do Thầy Nguyễn Thành Nhân, Chuyên gia của Trung tâm đào tạo tài năng trẻ Châu Á Thái Bình Dương chia sẻ tại Trung Tâm Mục Vụ TGP. Sài Gòn.

Với chất giọng trầm ấm, lôi cuốn, với những câu chuyện sống động minh họa cho bài giảng, thầy Nhân đã bắt đầu đề tài bằng câu chuyện ước mơ của một cậu bé là con của người làm nghề huấn luyện ngựa: Trong một lần thầy giáo cho viết bài luận văn với đề tài "Lớn lên em muốn làm nghề gì?", cậu bé đã mô tả thật chi tiết khát vọng làm chủ một trang trại nuôi ngựa của mình trên 7 trang giấy và vẽ cả sơ đồ trại ngựa. Viết xong, cậu bé nộp bài cho thầy giáo và vài ngày sau thì cậu nhận được điểm 1 với lời giải thích rằng ước mơ của cậu không thực tế, vì gia đình cậu không có chỗ ở ổn định, không có nguồn lực để thực hiện. Thầy giáo yêu cầu cậu bé viết lại bài luận văn. Sau khi về nhà hỏi bố và được bố cho tự quyết định, cậu bé vui lòng chấp nhận điểm 1 để được giữ ước mơ của mình. Nhiều năm trôi qua, trong một lần dẫn 30 học trò đến một trang trại rộng 200 mẫu để cắm trại, người thầy tình cờ gặp lại cậu bé ngày nào giờ đã là ông chủ trang trại và ân hận nói lời xin lỗi, vì mình đã đánh cắp ước mơ của người học trò. Còn cậu bé năm nào nói rằng đã theo đuổi tới cùng những khát vọng của đời mình.

Ai trong cuộc đời cũng có ước mơ, nhưng làm sao để thực hiện được ước mơ, đó mới là điều quan trọng. Ước mơ là gì, tại sao phải ước mơ? Ước mơ là sự tưởng tượng, sáng tạo, nó có thể làm cho con người bay bổng và giúp vượt qua những khó khăn gian khổ của cuộc sống, nhưng ước mơ viễn vông có thể đè bẹp người ta xuống tận cùng. Giữa ước mơ và điều viễn vông đôi khi không có ranh giới rõ ràng, khó phân biệt được. Một sinh viên bình thường, không phấn đấu học tập, nhưng bao giờ cũng mong ước được điểm tối đa là điều không thể xảy ra. Một người không cần cù lao động, nhưng luôn ước mơ mình được như Bill Gate là chuyện ảo tưởng.

Con người không ngừng ước mơ, người ta chỉ thôi ước mơ khi con tim ngừng đập. Ước mơ tùy thuộc vào theo tuổi tác và hành trình đời người.<

Ước mơ theo tuổi tác: Khi còn nhỏ, trẻ có nhiều ước mơ ngộ nghĩnh, mơ trở thành siêu nhân vì sự hào hiệp, với trái tim nhân ái của một đứa trẻ. Đến tuổi dậy thì, người trẻ thường có ước mơ về người yêu, tuổi thanh niên thì ước mơ về sự nghiệp. Người già thì ước mơ sự ổn định, mỗi buổi sáng thức giấc mong có vợ, chồng, con cháu bên cạnh mình. Đặc biệt, ước mơ về sức khỏe là rất quan trọng đối với người già.

Ước mơ theo hành trình đời người: Có những ước mơ rất đỗi bình dị, với người thầy thì mong cho học trò ngoan, học tốt; người làm cha mẹ thì ước con mình ngoan hơn; có người ước mơ chỉ cần đủ ăn qua ngày, mau khỏi bệnh; người thì ước một chuyến du lịch đến một nơi mình yêu thích… Có những người ước mơ trở thành người nổi tiếng, mơ sắm được nhà lầu, xe hơi, con cái thành tài, nở mày nở mặt. Giới trẻ lại có những ước mơ nhằm thể hiện mình nơi gia đình, nhà trường, và chúng có thể đánh nhau vì những ước mơ cỏn con. Có những người lại không dám ước mơ nữa vì đã nhiều lần thất bại. Người ta có thể đánh giá được một con người qua ước mơ và qua vóc dáng của ước mơ, xem ước mơ đó chính đáng hay không, có tâm với công việc hay không.

Ước mơ theo hành trình đời người sẽ thay đổi theo thời gian: Khi còn đi học, trẻ ước mơ chinh phục được điểm số cùng chúng bạn, lớn lên chút xíu thấy cha mẹ vất vả làm việc, con cái ước mơ đi làm để phụ giúp cha mẹ, đến lúc lập gia đình thì ước mơ cho con, khi về già ước mơ có sức khỏe…

Mỗi người sinh ra trong cuộc đời cần có một ước mơ lớn cho mình, cho gia đình, cho những người xung quanh và phải quyết tâm, kiên định thực hiện ước mơ đó. Ước mơ này phải thực sự xuất phát từ con tim để có sự khát khao và quyết tâm thực hiện.

Đời sống là một quá trình tương tác lẫn nhau, tuy ước mơ là ý chí cá nhân của mỗi người nhưng nó cũng bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh, đôi lúc sự ảnh hưởng đó làm cho ước mơ đi theo chiều hướng tốt đẹp hơn nhưng cũng có lúc nó lại tác động xấu đến ước mơ:

Ước mơ bị tác động: Cha mẹ, thầy cô, người lớn thường tác động đến ước mơ của trẻ, làm cho ước mơ của chúng bị thay đổi, không được thực hiện hoặc đi lệch hướng. Trẻ ước mơ thành giáo viên, cha mẹ can ngăn vì giáo viên bây giờ nghèo khó. Trẻ muốn học ngành xã hội, nhưng cha mẹ lại muốn con học ngành kinh tế để dễ kiếm tiền hơn…

Đánh cắp ước mơ: Với những suy nghĩ chủ quan, không quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của con cái, đôi khi cha mẹ trở thành người đánh cắp ước mơ của con. Áp đặt con cái thực hiện những ước mơ mà mình chưa thực hiện được hay buộc con lấy chồng, lấy vợ theo ý mình là những xu hướng thường thấy.

Thiếu kiên nhẫn để biến ước mơ thành hiện thực: Cần phải bền bỉ thực hiện ước mơ vì thành công không đến một sớm, một chiều mà phải từng bước thử sức và điều chỉnh cho phù hợp. Đối với con cái, nếu cha mẹ thiếu kiên nhẫn trong việc hỗ trợ có thể dẫn đến bóp chết ước mơ của chúng.

Muốn biến ước mơ trở thành hiện thực cần lưu ý: Sự mãn nguyện với thành công của ngày hôm nay chắc chắn sẽ làm cho người ta dậm chân tại chỗ, vì thế cần phải không ngừng ước mơ. Điều đáng ngại nhất khi thực hiện ước mơ là chính mình, khi ước mơ thành công thì vui vẻ nhưng khi thất bại thì không còn nghị lực để vượt qua.

Để biến ước mơ trở thành hiện thực cần có hiểu biết và có phương pháp thực hiện:

Đặt mục tiêu cho cuộc đời của mình: Dù ở độ tuổi nào, cũng cần đặt mục tiêu ngắn hạn và dài hạn cho cuộc đời. Những mục tiêu ngắn hạn sẽ dễ thực hiện hơn, đó là nền tảng để ước mơ dài hạn dễ thành công hơn. Mục tiêu phải xuất phát từ trái tim, là ước mơ mãnh liệt và có thể được thay đổi đôi chút cho phù hợp với hoàn cảnh, với sự phát triển của xã hội.

Có một bức tranh mô tả về ước mơ: Ai có bức tranh ước mơ càng rõ trong đầu, vẽ ra càng chi tiết thì người đó càng dễ thành công. Với con cái, cha mẹ cần tập cho con vẽ trong não những ước mơ của chúng, và có cách điều chỉnh thích hợp để giúp con thực hiện ước mơ. Bức tranh của cha mẹ vẽ cho con phải tương đồng với ước mơ của con chứ không được áp đặt.

Đơn giản hóa vấn đề để thực hiện ước mơ: Đừng suy nghĩ phức tạp mà hãy đơn giản hóa vấn đề để ước mơ dễ trở thành hiện thực. Ước mơ dù có to lớn đến đâu cũng đòi hỏi người ta phải bắt đầu thực hiện từ những điều nhỏ nhặt và đừng nghĩ rằng bằng mọi giá phải đạt được nó. Hãy nhớ trong cuộc đời không có khái niệm mất tất cả, thất bại chỉ là mất mát những gì trước mắt, hãy bắt đầu lại vì thất bại là mẹ của thành công.

Viết về ước mơ: Để có động lực thực hiện ước mơ, hãy viết ra ước mơ trên giấy, một cách chân thật và đặt ở những chỗ dễ nhìn nhất, dễ được chú ý nhất, để nó dễ đập vào mắt, vào não một cách liên tục. Mỗi khi nhìn thấy mục tiêu chưa được thực hiện, người ta sẽ có ý chí cố gắng hơn. Viết ước mơ càng rõ càng tốt: về trí tuệ, trí lực, con người, tình cảm… Chẳng hạn, ước mơ con học giỏi hơn, được ở nhà với gia đình 3 buổi một tuần… Khi bắt đầu thực hiện ước mơ, cần học hỏi, tìm hiểu những điều liên quan đến nó để có kế hoạch thực hiện.

Đối với con trẻ, ngay từ nhỏ cha mẹ cứ viết ước mơ của con và dán lên bàn học, lớn hơn một chút, nếu ước mơ của con thay đổi thì để con viết ước mơ mới, khi con đã ở độ tuổi thiếu niên, cần giúp con thực hiện ước mơ. Để phát hiện ra ước mơ thực sự của con, cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận với môi trường mà trẻ mơ ước để xem chúng có yêu thích thật sự không. Đừng để đến khi con lên đến lớp 12 mới định hướng nghề nghiệp, lúc đó không biết ước mơ thực sự của con là gì, dễ dẫn đến chọn lựa sai lầm.

Thực hiện ước mơ một cách chăm chỉ, bền bỉ: Cần hiểu rằng thực hiện ước mơ như một cuộc chạy maratông chứ không phải là một cuộc chạy nước rút, sự bền bỉ trong cuộc chạy làm cho người ta có thể rút ra những bài học cho chính mình. Có người chỉ thực hiện ước mơ trong 1- 2 năm nhưng cũng có người phải dành cả cuộc đời để thực hiện.

Có những ước mơ cần phải tập luyện một cách bền bỉ, người lớn tuổi đang đau ốm ước mơ khỏe mạnh phải tập hít thở, yoga để gia tăng sự chống chọi với bệnh tật. Người ước mơ trở thành diễn giả phải tập nói, tập suy nghĩ để ăn nói có duyên hơn. Ước mơ con học toán, học văn giỏi phải kiên trì đồng hành học tập cùng con.

Ước mơ thường lâu dài, mục tiêu có thể ngắn hạn hoặc dài hạn nhưng để thực hiện ước mơ lớn cần phải bền bỉ như trong cuộc đua maratông. Có những ước mơ không thể thực hiện một mình mà phải kéo nhiều người vào cùng thực hiện.

Niềm tin để thực hiện ước mơ: Khi nói về ước mơ, trên thế gian này chỉ có hai loại người, không phải là người tốt và kẻ xấu, không phải là người giàu và người nghèo mà là người gục xuống và người biết đứng lên. Người gục xuống là người có ước mơ vẽ không rõ, đường đi để thực hiện ước mơ bị đứt đoạn và không chắp nối kịp. Người đứng lên là người biết đẩy ước mơ trở thành hiện thực bằng những phương pháp có hiệu quả. Khi đã đặt ra ước mơ và có niềm tin vào ước mơ đó thì sẽ dễ thực hiện đúng.

Luôn mang cho mình một cuốn sổ ghi chép: Nó được xem như là cuốn sổ cuộc đời và mục tiêu ước mơ cùng quá trình thực hiện phải được ghi trong sổ như một hồ sơ, khi cần thì lấy ra xem xét. Tập cho mình một thói quen ghi chép thật hữu ích vì kiến thức nghe được không thể ghi nhớ hết trong đầu.

Cần phải điều chỉnh ước mơ: Trong việc thực hiện ước mơ, người khôn ngoan là người biết lỗi sai của mình và sửa cái sai đó. Nhưng người khôn ngoan hơn là biết cái sai của người khác và chỉ cách sửa sai. Người khôn ngoan nhất là biết được ước mơ của người khác và biết họ làm sao để thực hiện ước mơ đó. Dù ở độ tuổi nào, đừng ngần ngại thay đổi ước mơ nếu điều đó hợp lý. Thấy được người khác thành công và hiểu được họ thành công như thế nào, từ đó thay đổi thái độ đối với ước mơ của mình, điều chỉnh ước mơ cho thích hợp làm cho mình dễ thành công hơn.

Đọc sách làm cho bộ não tốt hơn và thực hiện ước mơ tốt hơn. Nó giống như việc vệ sinh tế bào não. Đối với con cái, hãy đi nhà sách với con để quan sát sở thích đọc sách của chúng theo chiều hướng nào, hoặc hướng con đọc sách theo ước mơ của chúng.

Tìm cố vấn, tư vấn giỏi để giúp thực hiện ước mơ: Khi có cơ hội thảo luận với những chuyên gia, hãy nói với họ về ước mơ của mình để họ giúp hoạch định thực hiện ước mơ tốt hơn. Người chuyên gia tư vấn đầu tiên cho mỗi người khi còn trẻ dưới 25 tuổi chính là cha mẹ mình, hãy nghe họ một cách cầu thị và trao đổi để xác định ước mơ. Khi đã ra đời, đi làm, tốt hơn hết hãy tìm đến chuyên gia trong ngành mà mình ước mơ để nhờ tư vấn.

Fred DeLuca ông chủ của hệ thống 29.000 cửa hàng Subway mở tại 86 quốc gia, vào thời sinh viên có ước mơ theo ngành y để trở thành bác sĩ. Nhờ sự tư vấn và cho mượn vốn của người chú quen biết, ông mở một cửa hàng bán bánh mì kẹp thịt, ban đầu chỉ để kiếm đủ tiền đóng học phí, nhưng ông đã thành công với hệ thống cửa hàng Subway đứng thứ ba trên thế giới trong ngành kinh doanh thức ăn nhanh.

Điểm rơi: Điểm rơi là điểm để một người phải quyết định một điều gì đó hệ trọng, hoặc có những chuyện to lớn xảy ra bất ngờ với mình, chuyện đó có thể tốt, có thể xấu tạo nên ngã rẽ cho cuộc đời. Có thể một ngày nào đó công việc kinh doanh sụp đổ, lúc đó cần nhớ rằng không có khái niệm mất tất cả, đó là điểm rơi, ai biết đứng lên là người đó thành công, ai gục xuống người đó thất bại.

Ngày 11/09/2001, tòa tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (WTC) ở New York sụp đổ, Tổng Thống Bush đã kết nối được con tim với nhiều người từng bỏ phiếu chống ông. Nhưng sự dửng dưng với nỗi đau của người bị nạn trong cơn bão Katrina, chưa bao giờ có một vị tổng thống có mức độ tín nhiệm thấp đến như vậy, đó là những điểm rơi.

Hãy chọn thời điểm linh thiêng để đánh giá ước mơ của mình như đêm giao thừa, đêm noel, sinh nhật để tạo động lực mới, để có hành trang mới vượt qua mọi khó khăn thử thách trước mắt. Đối với con cái, hãy viết cho con đong đầy những ước mơ, trong đó khuyến khích con thực hiện những ước mơ của nó.

Câu chuyện có thật ở quán mì Bắc Hải Đình, Nhật Bản: Cứ đến 31/12 hàng năm, một bà mẹ cùng hai đứa con trai nhỏ lại đến quán mì Bắc Hải Đình lúc vừa chuẩn bị đóng cửa và ngồi vào bàn số 2 gọi mì để ăn. Năm thứ nhất và năm thứ hai bà mẹ chỉ đủ tiền gọi một tô mì, năm thứ ba thì gọi hai tô, nhưng lần nào cũng vậy, ông bà chủ quán phúc hậu đã thêm mì để đủ cho 3 người cùng ăn. Khi ra về, họ được ông bà chủ quán cám ơn và chúc năm mới vui vẻ. Với hoàn cảnh người chồng bị tai nạn xe cộ qua đời để lại hậu quả, bà mẹ phải thức khuya dậy sớm làm việc để dành tiền bồi thường cho nạn nhân. Ngoài việc đi học, đứa con lớn thì phụ giúp mẹ bằng cách nhận phát báo, còn đứa con nhỏ ở nhà nấu cơm. Chính lòng phúc hậu, lời cám ơn và chúc năm mới vui vẻ của vợ chồng ông bà chủ quán đã khích lệ hai anh em thực hiện ước mơ và họ đã thành tài, người anh làm bác sĩ, người em làm ngân hàng. Bẵng đi mười bốn năm, họ đã quay lại tiệm mì vào đêm 31/12 để cám ơn ông bà chủ tiệm Bắc Hải Đình đã ân cần, tử tế và khích lệ, giúp cho họ thêm nghị lực để thực hiện ước mơ và thay đổi hoàn cảnh của mình.

Cần phải điều chỉnh ước mơ cho phù hợp với hành trình đời người, vì đến 30 tuổi, 35 tuổi người ta cảm nhận được nếu không điều chỉnh ước mơ thì sẽ thất bại. Nếu đã 70, 80 tuổi mà ước mơ được sống một mình thì thật là khó vì nếu không có con cháu bên cạnh sẽ rất buồn.

Trước khi kết thúc đề tài chia sẻ của mình, thầy Nhân đã chia sẻ 2 câu chuyện để nhắc nhở rằng khi vẽ được ước mơ, khi kiên nhẫn thực hiện ước mơ cần còn phải có niềm tin và hãy quan tâm đến con cái để khỏi phải ân hận khi không thấu hiểu ước mơ của chúng:

Có một người đàn ông rất thương con, đứa con tuy đã 25 tuổi nhưng ngớ ngẩn như đứa trẻ 5 tuổi. Nguyên nhân dẫn đến đứa con ngớ ngẩn là do ông mãi mê làm ăn xa, con lên cơn sốt biến chứng không được chữa trị kịp thời, và từ đó vợ cũng bỏ đi. Sau đó, ông làm ăn thất bại, tuy nhiên niềm tin và ước mơ chữa bệnh cho con đã giúp ông sống và làm việc kiếm tiền chữa trị cho con. Khi bị tai nạn xe cộ qua đời, người ta tìm thấy trong tủ ông đã để dành được 20 triệu đồng, gần đủ tiền chữa trị cho con.

Một cậu bé 17 tuổi hiền lành, rất ngoan và học giỏi, yêu thương bạn bè, nhưng cậu bé đã tự tử và để lại quyển nhật ký với dòng chữ cuối cùng: “Ba má không cần con nữa phải không?”. Khi cha mẹ cậu còn đi dạy học, chưa hùn hạp mở công ty, nhà chỉ có 3 người nhưng lúc nào cũng vui như hội và đầy ắp tiếng nói cười. Nhưng công việc kinh doanh đã khiến hai ông bà không còn thời gian quan tâm đến con. Con xin đi dã ngoại, người mẹ bác bỏ thẳng thừng. Khi cậu bé khoe đã quyên góp đồng hồ trị giá 500 đôla để giúp bạn bị ung thư máu, bà xỉ vả và yêu cầu lấy lại. Khi con khoe đập con heo, được hơn 3 triệu đồng cho bạn tiền chữa bệnh thì người mẹ lại bảo là ngu ngốc. Cậu bé trò chuyện với ba thì ba thoái thoát bảo phải làm việc. Thiếu sự ấm áp qua những bữa cơm gia đình cùng với sự vô tâm, thiếu quan tâm chăm sóc của cha mẹ đã đẩy cậu bé đến chỗ đi tìm cái chết.

Hãy vẽ bức tranh ước mơ và cùng con cái vẽ càng chi tiết càng tốt, hãy cùng đi nhà sách để tìm hiểu với con, giúp con, hãy viết ước mơ ra, hãy nghĩ đó là một cuộc chạy maratông, hãy biết thay đổi ước mơ tùy lúc cho phù hợp, hãy có một cuốn sổ ghi chép, hãy đọc sách, hãy tìm đến chuyên gia khi cần. Đó là những điều thuộc về giải pháp mà thầy Nhân đã chia sẻ bằng tất cả tâm huyết của mình, và đã được gần 200 người tham dự buổi thuyết trình chú ý lắng nghe và nhiệt tình trao đổi. Thầy mong được mọi người phổ biến những giải pháp này cho bạn bè, người thân để nhiều người có thể thực hiện ước mơ tốt hơn.
 
Tất niên, cám tạ tình Chúa tình người
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
09:33 16/01/2012
Năm cũ sắp đi qua với biết bao ân phúc mà Thiên Chúa và tha nhân đã tặng ban cho ta trong suốt những tháng ngày qua. Giữa bao thăng trầm, biến động của lịch sử xã hội, Thiên Chúa vẫn không ngừng yêu thương thực thi chương trình huyền nhiệm và kỳ diệu của Người trên đời ta.

Như Israel xưa được nâng đỡ trên hành trình tiến về Đất Hứa, chúng ta cũng đang được dẫn dắt trong cuộc lữ hành tiến về Vĩnh Cửu dưới ánh sáng của Đức Kitô Phục Sinh (1Cr 1, 3-9). Trong những thời khắc cuối cùng của năm cũ, hiệp với ngôn sứ Isaia, ta hãy hồi tâm suy gẫm và dâng lên Chúa tâm tình cám tạ về tất cả hồng ân đã nhận lãnh.

“Tôi xin nhắc lại ân nghĩa với Đức Chúa, dâng lời ca tụng Đức Chúa, vì tất cả những gì Đức Chúa đã thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của Người đối với nhà Israel, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy thương xót và lắm nghĩa giàu ân” (Is 63, 7).

1. Tất cả là hồng ân

Tất cả là hồng ân, vì mọi sự không nằm ngoài bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Có thể ta buồn, ta nuối tiếc và đau xót vì bao kế hoạch đặt ra đang lỡ dở, bao sai lầm trong cách nghĩ, cách làm dẫn đến thảm bại, bao thua thiệt, mất mát to lớn cả vật chất lẫn tinh thần… Nó làm cho ta nhiều khi đã buông lời trách Chúa vì Người đã không theo ý ta. Nó làm cho ta có lúc hoài nghi về quyền năng và tình thương của Chúa. Chúng ta khác nào đoàn dân Israel trong sa mạc, thiếu đi ngọn lửa mến và niềm xác tín tuyệt đối vào chương trình tình thương của Thiên Chúa.

Kinh nghiệm đức tin của Gióp (G 1 – 42) mách bảo cho ta về ân huệ của Chúa. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và dẫn đưa Gióp trên nẻo đường huyền nhiệm mà con người không thể ngờ tới. Con đường ấy hằn sâu những vết chân khổ lụy nhưng nó báo hiệu cho cuộc gặp gỡ toàn vẹn với “Đấng Ẩn Mình” đầy yêu thương và công bằng.

“Như Gióp xưa, Thiên Chúa vẫn không ngừng săn sóc thăm nom đời tôi, đời bạn và gửi đến cho chúng ta thật nhiều quà tặng vô giá. Đó là tất cả hồng ân dồi dào dành cho chúng ta trong mọi biến cố thường ngày. Có thứ quà tặng ngọt ngào gắn với hạnh phúc trào vui; có thứ quà tặng nhuốm màu đắng cay, chua xót nhưng quý giá vì chất chứa những đánh đổi cho hạnh phúc vĩnh hằng; có thứ quà tặng câm lặng, vô hình đòi hỏi ta phải kiên trì, sáng suốt để nhận ra… Nhiều khi ta đã đã cố tình trách Chúa vì những thứ “quà” không vừa ý riêng. Nhiều khi ta đã đổ lỗi cho Chúa trước những đổ vỡ, đau thương quá lớn, và có khi ta đã đẩy xua, nguyền rủa những nghịch cảnh… Nhận ra chương trình của Chúa trên đời mình, chúng ta hãy đón nhận tất cả như quà tặng dư đầy, phong phú mà Thiên Chúa ưu ái gửi đến cho mỗi người trên hành trình đi tìm hạnh phúc đích thực” (J.B. Nguyễn Quốc Tuấn, Hành trình Đức tin của Gióp)

Tất cả là hồng ân. Năm cũ sắp sửa qua đi, chúng ta khắc cốt ghi tâm biết bao ơn lành mà Thiên Chúa yêu thương gửi đến cho ta, cho người thân của ta và cộng đồng qua bàn tay và con tim tràn đầy yêu thương của bao người xung quanh. Bạn và tôi thử nghĩ xem, nếu những ngày qua, xã hội mà chúng ta đang sống thiếu vắng đi những tâm hồn giàu nặng yêu thương ấy thì thế giới này sẽ thật cô lạnh, vô vị, vô nghĩa, đắng cay biết chừng nào ? !

Thật hạnh phúc cho ta biết bao, vì giữa dòng chảy thời gian với những con sóng nghịch cảnh, nghiệt ngã, phũ phàng trào xô, Thiên Chúa vẫn không ngừng đồng hành, nâng đỡ và gửi đến cho ta vô vàn những bàn tay nhân ái không ngại gian khó, âm thầm tận hiến phục vụ chúng ta và đồng loại giữa đời thường. Họ vui tươi, sẵn sàng hy sinh những lợi ích thiết yếu nhất của bản thân để có thể đem lại cho cộng đồng niềm tin, sự sống, hạnh phúc đích thực, cho dẫu rất nhỏ nhoi. Họ dám xả thân trước tệ trạng bất công và mọi hình thức đối xử phi luân để bảo vệ phẩm giá và lợi ích thiêng liêng của con người... Quả thực, dấu chứng cuộc ‘‘thăm viếng’’ của Thiên Chúa vẫn liên tục hiện hữu giữa đời ta.

Tất cả là hồng ân. Cám tạ Chúa đã ban cho ta món quà thời gian gói trọn tất cả những hồng ân vô giá ấy. Cám tạ tình Chúa tình người. Chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa hơn ‘‘lời cảm tạ’’ của Thánh Phaolô: ‘‘Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu’’ (1Cr 1, 4).

2. Nhận lãnh để trao ban

Năm cũ sẽ qua đi nhưng tình Chúa tình người vẫn theo suốt đời ta, cho dẫu ta vô tình lãng quên hay vô ơn trước bao ân thiêng vô giá ấy. Tất niên là thời điểm ý nghĩa và thuận tiện nhất để ta bày tỏ tâm tình tạ lỗi, nhất là để cám tạ tình Chúa tình người.

Thiên Chúa và anh chị em ta với tình yêu vô lượng, vô vị lợi không đòi hỏi ta phải báo xứng những những hồng ân mà ta đã nhận lãnh. Nhưng Tin Mừng mời gọi ta, nhận lãnh là để trao ban: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy ban phát nhưng không” (Mt 10, 8). Ân phúc mà chúng ta đón nhận trong suốt năm qua sẽ dư đầy và phát triển dồi dào khi ta biết chia sẻ và tiếp tục tặng ban nó cho những người xung quanh. Cuộc thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét của Đức Maria (Lc 1, 39 – 55) khơi mở cho chúng ta một thái độ đáp trả trọn vẹn và ý nghĩa nhất trước tình Chúa tình người.

Khi đã nhận lãnh “đầy ân phúc” (Lc 1, 28b) từ Thiên Chúa, Đức Maria đã lên đường làm cuộc lữ trình đáp trả tình Trời. Yêu thương, chính là nét nổi bật nhất mà Đức Maria đã đem đến cho nhà Ê-li-sa-bét trong cuộc thăm viếng. Vì yêu thương nên Mẹ đã quan tâm, gặp gỡ, cảm thông, chia sẻ niềm vui, giúp đỡ người chị họ. Không chỉ dừng lại ở đó, Mẹ còn muốn trao ban chính Chúa là Đấng Mẹ đang cưu mang, là Đấng Mẹ đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông sẽ đến cứu chuộc nhân loại. Cao điểm của tình yêu nơi Mẹ, là khi đã được lãnh nhận hồng ân dư đầy từ Thiên Chúa, Mẹ đã không cố giữ lấy cho riêng mình, mà đem phúc cả ấy đến cho người cần được sẻ chia và chung nghiệm hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng. Đây chính là tâm trạng của bà Ê-li-sa-bet trước lời chào của Đức Maria: “Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần…” (Lc 1, 41); và Ê-li-sa-bét đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?”. Đó là đỉnh điểm của hạnh phúc được trao ban.

Sẽ có một năm mới đại hạnh, tràn đầy hồng phúc cho nhân loại, cho gia đình và mỗi người, nếu chúng ta biết xích lại gần nhau hơn, để cùng nhau trao ban tình Chúa tình người.

Tâm tình của lời kinh “Magnificat” (Lc 1, 46-55) đẹp đẽ, sinh động nhất mà chúng ta có thể thông hiệp với Đức Maria, để tri ân tình Chúa tình người trong suốt năm qua, là thái độ khiêm cung đón nhận tất cả mọi ơn lành, đồng thời nỗ lực sống lời mời gọi yêu thương từ Thiên Chúa trong sứ vụ liên đới mật thiết với tha nhân.

Vinh Thanh những ngày cuối năm Tân Mão

 
Xuân không về
Minh Tâm
09:39 16/01/2012
Dòng nước trắng đục lững lờ trôi, trôi mãi như bước chân ngập ngừng vô định của kẻ không nhà. Người người rộn rịp đón tết. Chỉ có tôi với dòng sông này không bận tâm đến ngày tết cận kề. Còn hơn 48 tiếng đồng hồ nữa, tôi lại có dịp lặng nghe tiếng giao thừa gõ tích tắc.

Ngày xưa còn bé, giao thừa đến với tôi trong đì đùng tiếng pháo dồn dập hòa chung khói trắng cay xè, nặc mùi thuốc súng khi chiến tranh tràn về trong máu lửa. Do đó, mỗi lần giao thừa lại đến, tôi thường khóc thét như một cảm xạ không đè nén được. Má tôi ôm cậu con út trong tay vuốt ve, vỗ về. Tôi vẫn nhắm mắt khóc âm ỉ không nguôi. Đến khi ba ôm chặt tôi trong đôi tay cứng chắc, chai sạm, suốt năm cày sâu cuốc bẫm bảo bọc má và năm anh em tôi, lúc đó tôi mới nín lặng.

Tôi mở mắt ra, định thần rảo mắt chung quanh quan sát. Đúng là Tết đến rồi. Giao thừa đến. Tiếng pháo chuột, pháo tiểu hòa lẫn với pháo đại của nhà tôi và hàng xóm đua nhau nổ giòn giã trong màng khói đục như sương, phủ lấy những đóa hoa mai vàng tươi, hoa cúc trắng nuột, hoa mào gà đỏ tía, hoa vạn thọ vàng sang trọng... điểm lấm tấm xác pháo hồng đẹp lạ lùng. Đạn súng thì khác hơn. Đạn nổ từ xa, không có khói tràn vào nhà. Đạn pháo kích thì ầm ỉ hơn, làm rung rinh căn nhà thân yêu của tôi và còn đè ép lên lòng ngực tôi suýt nghẹt thở

-“ Pháo tết nè con, giao thừa rồi! con trai gì mà nhát quá vậy”.

Tôi bẽn lẽn tuột xuống khỏi cánh tay ấm áp của ba chạy đến ồm chầm lấy má. Má khẻ vuốt tóc và trìu mến trao cho tôi miếng dưa hấu đỏ thắm. Tôi nhớ ra, trước lúc giao thừa, tôi mặc áo mới màu đỏ tinh thơm, tung tăng chạy nhảy trong tuổi lên năm. Hết xem ba chải chuốt cây mai rực vàng đươm bông trước cổng. Tôi lại chạy đến đứng cạnh mẹ, nhìn mẹ trang trí bàn thờ ông bà nghi ngút hương bằng đủ loại trái cây miệt vườn thơm lừng: mẳng cầu trắng, dừa xanh, đu đủ đỏ, xoài vàng mượt thật mát mắt… với lời nguyện ước sang năm mới tiền bạc trong nhà vừa đủ xài. Anh hai và chị tôi nhẹ nhàng, thoăn thoắt treo những cánh thiệp sặc sỡ đủ màu lên những cành mai mập tròn đầy hoa vàng tuơi óng. Chờ mãi mà chúa Xuân cũng không nhanh chân đến thỏa mãn lòng háo hức mong đợi ngóng trông, tôi lăn ra ngủ lúc nào không biết. Đến khi nghe tiếng pháo đì đùng dập dồn tôi mới giật mình khóc thét mãi không thôi. Ôi! những thời khắc sum hợp ấy nay còn đâu. Họa chăng, chỉ là những vùng ký ức mơ hồ của một thời thơ ấu.

Đó là những hình ảnh quý báu hiếm hoi còn sót lại trong tâm trí tôi chút kỹ niệm về cái Tết cuối cùng thời ly loạn của “Ba mươi năm nội chiến từng ngày”. Qua năm sau, tôi được hưởng cái Tết thanh bình đầu tiên trong đời. Hòa bình bảnh chọe đến với quê hương rách nát của tôi. Nhưng tôi nhớ rõ cái Tết ấy u buồn lắm. Tết phải sánh đôi với sum vầy. Thiếu sum họp, vui vầy thì Tết không còn vui thì sao gọi là Tết được. Vui như Tết. Cụm từ ấn tượng nhất của tuổi ấu thời cho tất cả mọi người.

Tết năm ấy vắng mặt anh hai tôi vì anh đã nằm xuống vĩnh viễn nơi bờ sông Thạch Hản, gần vĩ tuyến 17. Tôi còn nhớ một lần, có hai chú lính buồn buồn, chững chạc trong bộ quân phục rằn ri xanh xanh giống như anh hai, mang đến cho chị dâu hai chiếc bì thư. Chị tôi khụy xuống bất tỉnh. Mẹ tôi cũng ngồi bất động trên chiếc trường kỷ, nước mắt chảy dài khóc không thành tiếng. Ba tôi luýnh quýnh không biết làm gì trước hai người phụ nữ khổ đau ngập tràn ấy. Sau này tôi mới biết bì thư mỏng mà chú lính Thủy Quân Lục Chiến mang đến là tin báo tử trận của cố đại úy Tín, anh hai tôi. Bì thư dày là số tiền tử tuất dành cho bà quả phụ hai mươi lăm xuân xanh và quốc gia nghĩa tử ba tuổi vô tư lự, con trai của anh hai. Ngay ngày hôm sau gia đình tôi đau xót làm lễ phát tang và lên nhà thờ xin lễ cầu siêu cho anh hai, một chiến sĩ trận vong. Chị dâu và thằng Nghĩa mặc áo tang suốt mấy ngày liền. Khách đến chia buồn thật đông. Tôi nghe họ thì thầm: “Đám ma không có quan tài phủ quốc kỳ”

Mấy ngày giáp Tết năm ấy, má tôi cho ba biết chị dâu xin phép về quê mẹ ở Đà Nẳng, vì nơi đây vương quá nhiều kỹ niệm tình đầu của chị. Gió heo mây lại về. Chị kế tôi và tôi vẫn vô tư vui đùa quanh gốc mai già trước cổng, thưa hoa, xanh lá hơn mọi năm. Ba má tôi không nói ra, nhưng chúng tôi hiểu ông bà không được vui. Má tôi thường qua lại bàn thờ liếc nhìn di ảnh nhạt nhòa của anh hai, rồi ngó xuống đất đếm từng bước chân lầm lủi chậm chạp. Xuân về nơi căn nhà thiếu vắng bước nhảy tung tăng của thằng Nghĩa và tiếng gọi bi bô đầy sức sống NỘI ƠI, NỘI À! –Không biết Xuân có buồn không!

Năm đó, anh ba cũng không về. Ba gửi anh lên Sài Gòn học nội trú. Bạn bè rủ rê, anh ba đã vào chiến khu D. Anh thoát ly gia đình lâu lắm rồi, trước lúc tôi sinh ra đời, mẹ tôi kể lại vậy. Sau ngày 30 tháng 4, anh có về thăm gia đình và cũng không quên dắt về một chị gái tre trẻ tóc quăn và giới thiệu chị ấy cho ba má. Anh đã cưới chị làm vợ lâu lắm rồi! Từ đó, tôi có thêm một người chị dâu ngoài mong đợi. Tết năm ấy anh chị ba cũng không về sum hợp với gia đình vì “bận” công tác tại Sài Gòn.

Bây giờ, tôi cũng đang ở tại Sài Gòn đây, trong một quán cà phê vườn cuối bán đảo Thanh Đa, cạnh bờ sông Sài Gòn. Tết Nhâm Thìn này tôi không thể về quê thăm má. Trong nỗi buồn day dứt xót xa, tôi ghé vào đây để mênh mang nhớ tưởng về quê nghèo xa cách, sau nửa ngày dong rủi hết chợ hoa này đến chợ hoa khác trong cái thành phố lắm dân, nhiều chợ này. Trời đã xế chiều. Tương tự như quán cà phê thơ mộng nơi đây, căn nhà mộc mạc của ba má tôi cũng nghiêng mặt ngó ra con sông Tiền hiền hòa, miên man lộng gió. Sông Sài Gòn cũng lộng gió miên man. Như hai bờ Tiền Giang, bờ sông nơi đây cũng xanh um cây bần, dừa nước giơ thẳng cao những cành lá nhọn cạnh lên trời, như muốn hỏi: Trời ơi có thấu!

Nhắm mắt, tôi từ từ hít thở, tận hưởng chút bầu khí trong lành hiếm hoi giữa thành phố ô nhiễm triền miên này. Gió phần phật vỗ về cổ áo tôi. Gió hiu hiu nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc bồng bềnh của tôi. Tôi tưởng như má đang ở cạnh bên, vuốt tóc, ù ơ đưa tôi chìm vào giấc ngủ thơ ngây giữa trưa hè gió lộng. Ước gì tuổi thơ hồn nhiên quay lại, để tôi thoải mái cởi truồng nhảy xuống bờ sông Sài Gòn này. Tôi mong có thể bơi lội thỏa thích với ba với anh tư, với thằng Nghĩa như ngày xưa còn bé. Thời gian qua đi, không bao giờ trở lại nữa. Một nhà hiền triết đã thốt lên: Không ai tắm nơi một dòng sông hai lần!

Về sau này, khi thằng Nghĩa định cư biền biệt nơi xứ người xa xôi, ba tôi không tắm sông với tôi nữa. Chiều tan học về, tôi thấy ba đã ngồi bên chai ba xi đế tự bao giờ. Tóc ba giờ đã bạc trắng màu khói pháo! Tôi chào ba. Ba gật gù, không nói. Mắt đâm chiêu, lơ đãng ngó ra dòng sông Tiền dần trôi. Dòng sông vẫn trôi, trôi mãi không ngừng. Dòng sông vẫn lộng gió, vẫn bì bõm cất công đẩy đưa hàng hàng lớp lớp mảng lục bình xanh thẫm bập bềnh đi về nơi chân trời xa xăm, mờ mịt vô định. Tôi vào nhà hỏi má: “Má ơi! Người Nam thích nhậu lắm hả má”. Má nói: “Ba con có nỗi niềm riêng, con ạ. Trước đây ba có thích rượu đâu con”.

Má cũng nói cho tôi biết người Bắc, Trung hay Nam cũng đều là người Việt, xuất xứ là đồng bằng Bắc Bộ, từ ải Nam Quan đến Quảng Bình. Miền Trung kể từ Quảng Bình trở vào đến Bình Thuận, ngày xưa thuộc vương quốc cổ Chiêm Thành. Qua dòng lịch sử trôi, các triều vua nước ta từ Lý, Trần, Hồ, Hậu Trần, Lê đến Hậu Lê đã dần chiếm giữ.

Khởi đầu từ vua Lý Thánh Tông, giữa thế kỷ thứ 11 (1069), đã thu nhận Quảng Bình và Quảng Trị do vua Chế Củ dâng tặng. Năm 1307 vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đổi lấy Thuận Châu và Hóa Châu. Mỗi khi có thêm miền đất mới, các vua quan Thăng Long Thành luôn kêu gọi dân cư đông đúc từ đồng bằng sông Hồng di cư vào lập nghiệp. Sau cùng, đến cuối thế kỷ 17 (1697) vua Chiêm Thành là Bà Tranh không tiến cống, lại còn quấy nhiễu nước ta. Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính tiến đánh chiếm nốt phần đất sau cùng của Vương quốc Chiêm, là Bình Thuận ngày nay.

Qua gần 07 trăm năm, xứ Chiêm mới thuộc về nước ta. Điều đó cho thấy dân tộc An Nam không có máu thực dân. Chẳng qua hoàn cảnh lịch sử lúc đó đã đẩy đưa các vua quan nước ta vào thế chẳng đặng đừng! Do nhiều điểm cá biệt về lịch sử và địa lý, phần đất Chiêm trở thành miền Trung nước Việt

Đất miền Nam hiện nay, xưa gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh, là một phần đất ngó ra biển Đông của vương quốc Chân Lạp, Campuchia. Bắt đầu từ năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu chiêu mộ lưu dân, từ Quảng Bình trở vào Bình Thuận, đến lập nghiệp ở đất Biên Hòa và Gia định. Năm 1759, Chúa Nguyễn Thuận nhận đất Tầm Phong Long do vua Chân Lạp là Nặc Tôn trao tặng để tạ ơn, lập thành tỉnh Định Tường, Vỉnh Long, An Giang. Sau Chúa Nguyễn lại nhận thêm năm phủ sát cạnh vương quốc Khmer lập nên tỉnh Hà Tiên, giao cho Mạc Thiên Tứ cai quản.

Tôi con nhớ một buổi tối, anh tư, chị hai và thằng Nghĩa lặng lẽ khăn gói đi xa. Tôi tò mò. Mẹ nói anh tư đi Mỹ Tho. Rồi họ lại trở về. Đến chuyến thứ ba, tôi không thấy anh trở về nữa. Sau này, tôi mới biết Nghĩa và chị hai, dù không toàn vẹn thân thể, cũng đã vui định cư tại nước Mỹ. Cướp biển dã man đã giết anh tư và quăng xác anh xuống biển Đông. Ngồi bên ly ba xi đế ba tôi thường ngân nga:

Một là con nuôi cá.
Hai là con nuôi má.
Ba là má nuôi con.


Ba tôi buồn cũng phải. Anh tư vừa đậu tú tài thì nộp đơn thi vào đại học. Nhưng do lý lịch gia đình Công giáo, anh không thể làm tử sĩ ứng thí để ‘thỏa chí tang bồng’ như bạn bè cùng lớp. Anh đành chọn cho mình một môi trường thoáng đãng, trong lành hơn. Rồi anh ra đi không ngày trở lại!

Có lẽ để lấp đầy khoảng trống vắng trong lòng, ba tôi miệt mài trong công tác tông đồ. Ba làm công tác mục vụ giáo xứ, công tác từ thiện, và còn tham gia nhiều đoàn thể tông đồ giáo dân rất tích cực. Nhiều bữa cơm ấm áp, bốc khói đã âm thầm đợi chờ ba trong nguôi lạnh. Má an phận nói: Các con nên thông cảm cho ba. Ba làm công tác nhà thờ để tìm chút vui trong danh dự. Tuổi về hưu, người ta thường muốn có chút danh thơm cho mình thôi.

Tóm tắt bài học lịch sử của má, ba có nói với tôi: Gốc của người miền Nam là di dân từ miền Trung. Gốc của người miền Trung là di dân từ miền Bắc vô. Do đó, Tết đến, trên bàn thờ ông bà, người Nam và người Trung đều có bánh tét. Bánh tét của xứ Tây Sơn, tỉnh Bình Định đã đi vào hùng sử ca dân tộc Việt trong trận chiến thắng hiển hách quân Thanh giải phóng miền Bắc. Ngày mùng năm tết Kỷ Dậu, 1789.

Tôi hỏi: Ba ơi! vậy là tổ tiên của người Việt hải ngoại là di dân miền Nam, phải không ba?

Ba không trả lời, chỉ gật gù nốc cạn ly rượu thơm rồi ngâm nga:

Nhà Bè nước chảy chia đôi.
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về...

Từ năm đó, Tết đến gia đình tôi càng thêm vắng buồn. Chị gái tôi, già trước tuổi, không buồn trang điểm, đại diện cho anh chị vắng mặt mừng tuổi ba má mỗi dịp xuân về. Năm nay nữa, năm Nhâm Thìn này xin chị vui lòng đại diện năm người con của ba má chúc tuổi má nhé chị. Tôi thì thầm...

Cách đây hơn mười năm, ba tôi đã lẳng lặng ra đi mãi mãi trong một cơn bạo bệnh, để lại bao tiếc nuối khôn nguôi cho má, oằn oại trong đắng cay, một người đàn bà thuần Việt: tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử tòng tử. Qua năm sau, chị tôi lấy chồng tại thành phố Mỹ Tho. May mắn, chị tôi không phải làm dâu. Anh rể đã về ở chung với gia đình tôi. Ít năm sau, tôi xin phép má lên thành phố đông dân nhất nước này tìm việc. Dầu có bằng cao đẳng, khó khăn lắm tôi mới kiếm được một mức lương đủ sống. Những vị trí béo bở, con ông cháu cha đã chiếm dụng hết sạch. Cơn bệnh thế kỷ luôn rình rập dân nhập cư độc thân, hào hoa như tôi, nên khi tìm được việc làm rồi, tôi liền xin phép má cưới vợ. Má tôi mừng ra mặt. Má không ngại con dâu là người Bắc di cư. Di cư năm 1975.

Nhưng cha xứ nơi tôi nhập cư thì không dễ gật đầu bật đèn xanh như má tôi. Trong bí tích hôn nhân, người thừa tác đồng thời cũng là thụ nhận. Độc đáo nhất trong bảy phép bí tích là đây. Bù lại người trong cuộc lại phải chịu nhiều nỗi nhiêu khê nhất. Một nửa của tôi cùng là dân nhập cư, kẻ Bắc người Nam, đến lập nghiệp tại Sài Gòn-Gia Định này. Khi đến sinh sống nơi cộng đoàn giáo xứ mới, tôi những muốn đóng góp công sức trong khả năng. Nhưng khi gặp những ánh mắt dè chừng lạnh lùng, lòng nhiệt huyết tuổi trẻ trong tôi bỗng xìu xuống như cọng bún về chiều. Ba tôi nơi chín suối có lẽ cũng đồng cảm với thằng con út mới hơn ba mươi tuổi đã về ở ẩn. Do đó tôi chưa có sổ Gia đình Công giáo thuộc giáo xứ này.

Để đối phó với tình huống mới, một nửa phải bay ra Bắc, miền núi Cao Bằng, sưu tập đầy đủ chứng cứ mình là Công giáo gốc. Một nửa phải lội về sông Tiền để mò tìm những chứng thư Rửa tội, chứng nhận phép Thêm sức mà chưa cưới vợ lần nào. Bạn tôi nhắn nhủ: Thôi thì đời cha hy sinh cho đời con. Con cái của mình sẽ không có chữ “nhập cư” khắc trên má nữa, như thời xưa tổ tiên Công giáo mình bị khắc “tả đạo” vậy.

Hằng năm, tôi đều dẫn vợ và hai con về quê nghèo Mỹ Tho ăn Tết với bà nội chúng. Sáng mùng ba, tôi lại đưa hai cháu về Sài Gòn vui Tết với ông bà ngoại trong một căn nhà ngoại ô. Cách đây một tháng, tôi làm vuột mất một áp phe khá nặng ký. Cô vợ đẹp đẽ, đỏng đảnh, dễ thương của tôi sụ mặt mấy ngày liền. Cô chì chiết đủ điều. Không phải tôi chậm tay, thiếu nhạy bén trong thương trường. Dù sống xa gia đình, tôi vẫn không quên lời dạy dỗ của ba má: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín con phải ghi nhớ trong lòng.

Cách đây hai hôm, cô vợ của tôi đã nói lời vĩnh biệt, và xách hai đứa con yêu dấu của tôi về nhà ngoại. Năm nay cô không về vui Tết với má tôi. Tôi đã xuống nước nài nỉ nàng nhiều phen, mất cả manh giáp nhưng vô hiệu. Tết này tôi đành chấp nhận cô đơn. Chàng hiệp sĩ một mình trên lưng chiến mã.

Ngày mùng một Tết , tôi sẽ đến nhà anh chị ba, tại khu căn hộ cao cấp Phú Mỹ Hưng, để tìm mùi Whisky. Nhà anh chị ba lúc nào cũng đầy ắp các loại rượu ngoại đắt tiền: Whisky, Cognac, Hennessy, Martell, Remy Martin, VSOP, Vodka, Black & White, Jonhny Walker... Từ khi ba tôi qua đời, tôi cảm thấy thèm mùi rượu. Dù biết rõ ma men tàn phá cơ thể ghê gớm, nhưng tôi vẫn không thể chiến thắng trước sức cám dổ thơm tho quyến rủ của nó. Tối mùng một tôi sẽ lai rai với anh bạn đồng niên, vợ con hiện ở ngoài quê Bình Định. Tết này, anh cũng không thể về quê nhà miền Trung vui Xuân vì những lý do khó nói ra đây. Mùng hai Tết, tôi phải đi gặp một nửa thông minh của tôi. Rồi vợ tôi sẽ hiểu, tiền bạc cũng cần nhưng không phải vượt trên tất cả mọi giá trị trên đời. Tôi sẽ kể cho nàng nghe những ý nguyện cuối đời của Alexendre đại đế:

- Ta muốn châu báu của ta phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ta để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này.

- Ta muốn bàn tay của ta thò ra khỏi quan tài, đong đưa trên không cho mọi người đều thấy, để mọi người hiểu rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng.

Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quý giá nhất trên cuộc đời này là TÌNH YÊU. Tình yêu thương giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với con người (x.1Cor 13, 1-13). Không có vợ con tháp tùng, tôi không dám về quê ăn Tết với má. Một miền quê ấm đậm tình người. Tôi đành bắt chước anh ba, xin phép má vắng Tết này vì phải công tác xa.

Má ơi! Con xin lỗi má!
Xuân này con không về.

(Sài Gòn, cuối năm Tân Mão 2011)
 
Ông Táo về trời, gửi ước mơ Xuân
Thanh Sơn
09:44 16/01/2012
Năm Mèo vờn chuột sắp đi qua
Đón Xuân Rồng đến trở vào nhà
Tiếng kêu ngèo ngèo đi cho chóng
Rồng đem hy vọng sẽ thăng hoa

"Gởi theo Ông Táo đôi điều ước"
"Tâu lên Thánh Thượng vài niềm mơ"
Xin Ngài giúp đỡ cho vận nước
Bao năm dân tộc đã đợi chờ

Mong sao Việt Nam hết thuyết Mác
Để cho dân lành bớt khổ thân
Vùng lên quẳng ngay vào thùng rác
Vứt mau mớ lý thuyết ngu đần

Ai mang về Quê Hương tàn ác?
Áp đặt lên vai những người dân
Đày đọa dân tộc ra xơ xác
Giết hại đi bao những người thân

Bắt học sinh gọi hắn là bác
Ca tụng tên đồ tể hung thần
Quan thầy của hắn là Mao, Mác
Dạy họ mang về để giết dân

Gần bẩy mười năm ở miền bắc
Quê Cha đất Tổ đau nhiều hơn
Phản Thầy bán Chúa thật xuất sắc
Ai giết Cha Mẹ đảng mang ơn

Đấu tố giết nhiều đảng tâm đắc
Dạy cho trẻ thơ những oán hờn
Cướp nhà cướp đất ai thắc mắc
Công an kéo đến bắt sạch trơn

Miền Nam đảng vào để giải phóng
Tự do từ đó đã ra đi
Tiền của vào tay đảng mau chóng
Người dân mất sạch chẳng còn chi

Đảng chúng đến đâu cướp sạch bóng
Lệnh của chúng truyền phải thực thi
Đêm nằm lo sợ mà lạnh cóng
Giật mình nghe chó sủa mỗi khi

Kể sao cho hết được tội ác
Văn hóa dân tộc bị mất đi
Bao giờ giải thể đảng thờ Mác
Bấy giờ thế giới hết khinh khi

Xin hẹn mọi người vào dịp khác
Gởi theo Ông Táo về sẽ ghi
Tiễn đảng tàn ác, đi theo bác
Đón xuân Rồng đến, đảng biến đi!

Xuân về xin chúc mừng cô bác
Tần Niên sức khỏe chẳng hề vơi
Thưởng ban phúc-lộc-thọ-đại cát
An khang hạnh phúc hưởng ơn trời

(23 tháng chạp Ngày ông Táo về trời)
 
Xin góp ý cho Bộ sưu tập ''Có Một Vườn Thơ Đạo''
Lm Trăng Thập Tự
10:55 16/01/2012
CHIA SẺ VỀ BỘ SƯU TẬP THƠ CÔNG GIÁO
KỶ NIỆM 100 NĂM SINH HÀN MẠC TỬ


Thưa quý độc giả và quý tác giả thơ Công giáo,

Năm 2012 đã bắt đầu, cuộc kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ Hàn Mạc Tử đang đến gần. Chúng tôi xin chân thành cám ơn những vị đã đóng góp ý kiến và tư liệu cho bộ sưu tập thơ Công giáo dự kiến phát hành trong dịp này. Chúng tôi cũng xin chia sẻ đôi điều để quý vị và các bạn hiệp thông cầu nguyện và hỗ trợ cho bộ sách có thể hoàn tất như dự tính.

Bộ sưu tập sẽ mang tên “CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO”, lấy ý từ tên tập “THƠ ĐẠO” do chính nhà thơ tuyển chọn và đề tặng ông Nguyễn Văn Xê. Bộ sách sẽ gồm nhiều tập, mỗi tập sẽ được đặt tên theo một hình ảnh trong bài thơ THÁNH NỮ ĐỒNG TRINH MARIA cũng còn gọi là bài AVE MARIA.

Tập 1, về chính nhà thơ, sẽ mang tên AVE MARIA.

Các tập sau sẽ lần lượt mang tên: NHƯ SONG LỘC TRIỀU NGUYÊN, ƠN PHƯỚC CẢ CAO DÂNG, THẦN NHẠC SÁNG HƠN TRĂNG, BAY TỚI CÕI THIÊN ĐÀNG, KINH HUYỀN DIỆU, vv…

Cho tới nay số thơ sưu tập được đã vượt trên 150 tác giả. Chúng tôi tạm ngưng nhận các tác giả mới (cho đến sau 22-9-2012). Bộ sách sẽ chỉ giới thiệu những tác giả có ngày sinh từ sau 22-9-1912. Để dễ cho việc nghiên cứu về sau, các tác giả sẽ được xếp theo thứ tự năm sinh. Điều khó là thiếu thông tin cá nhân về các tác giả và phần chia sẻ đức tin của tác giả. Thời gian không còn nhiều, chúng tôi không thể chờ có được đầy đủ những gì mình muốn để xếp tất cả theo một thứ tự xuyên suốt cho nên đành chấp nhận hoàn thành từng tập, các tác giả trong mỗi tập sẽ được giới thiệu tuần tự theo năm sinh.

Chúng tôi dự kiến sẽ hoàn tất bản thảo bốn tập đầu vào cuối tháng tư 2012 để xin giấy phép xuất bản và lo in cho kịp có sách vào đầu tháng 9. Những tác giả chưa đủ thông tin cá nhân và bài chia sẻ đức tin sẽ được giới thiệu trong các tập sau, dự kiến sẽ hoàn tất nhân dịp giỗ lần thứ 75 của nhà thơ, 11-11-2015.

Kính mong quý tác giả được giới thiệu sớm giúp chúng tôi có được đầy đủ thông tin cá nhân và bài chia sẻ đức tin. Trong thư sau, chúng tôi sẽ ghi danh sách những tác giả còn thiếu thông tin để xin quý độc giả giúp đỡ.

Chúng tôi cũng ước mong những vị hảo tâm tha thiết với sự nghiệp thơ ca Công giáo Việt Nam quảng đại giúp đỡ vật chất cho công việc này.

Kính chúc quý độc giả, quý tác giả và quý ban biên tập truyền thông Công giáo một Mùa Xuân vui tươi thánh thiện, một Năm Mới dồi dào sức khỏe và mọi ơn lành của Chúa.

Quy Nhơn, ngày 13-01-2012

TM. Nhóm Biên Tập
Lm Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh

gopnhattho@yahoo.com; ĐTDĐ: 0935-424-449
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Kết Đôi
Trầm Tĩnh Nguyện
22:54 16/01/2012
KẾT ĐÔI
Ảnh của Trầm Tĩnh Nguyện (Việt Nam)
Đất trời đang chuyển sang xuân,
Ông tơ xe định duyên phần đôi ta.
Tết này mình ở chung nhà.
(Trầm Tĩnh Nguyện)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền