Ngày 16-01-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hành trình của người môn đệ
LM Trần Thanh Sơn
03:20 16/01/2009
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN - NĂM B (Bài đọc 1: 1 Sm 3, 3b-10. 19; Bài đọc 2: 1 Cr 6, 13c-15a. 17-20; Tin mừng: Ga 1, 35-40)

Cha ông chúng ta vẫn thường nói: “Không thầy đố mầy làm nên”. Điều đó cho thấy để làm bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ, chúng ta cũng cần phải học. Biết bao nhiêu người đã trưởng thành và trở nên hữu ích cho xã hội là do đã gặp được một người thầy tốt. Như thế, muốn trở thành một người tốt, trước hết chúng ta phải tìm cho mình một người thầy tốt, như lời cha ông chúng ta vẫn nói: “Muốn sang thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Do đó, để khỏi phải ân hận suốt đời, ngay từ đầu đời mỗi người chúng ta phải “tầm sư học đạo”, nghĩa là, phải tìm cho mình một vị thầy tốt để người này hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc sống của mình.

Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, chúng ta cũng cần một vị thầy để giúp đỡ chúng ta đạt đến cùng đích cuộc sống vĩnh cửu của mình. Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em cùng tìm hiểu về hành trình của người môn đệ, để nhờ đó, chúng ta tìm được một vị Thầy xứng đáng giúp chúng ta đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu của mình.

1. Bước đi của Thiên Chúa:

Thánh Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là Tình yêu”(x. Ga 4, 16). Tình yêu đó đã thúc đẩy Ngài đi bước trước đến với từng người chúng ta. Ngài đã mặc lấy thân xác con người để đồng hành với chúng ta trong thân phận của một con người mà chúng ta vừa mừng kính trong Mầu nhiệm Giáng Sinh. Và hôm nay, đọc lại Tin mừng, một lần nữa chúng ta nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với từng người chúng ta. Tin mừng Gioan thuật lại: “Khi ấy, ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. “Đi ngang qua”, vâng chỉ với vài chữ đơn giản, thánh sử đã cho ta thấy được tình yêu dạt dào, nhưng kín đáo và tế nhị của Đức Giêsu đối với chúng ta. Ngài đi ngang qua, giữa đám đông, không phô trương ồn ào, và không chỉ “đi ngang qua”, Ngài còn “ngoảnh mặt lại”, nghĩa là, Ngài đang hiện diện ở giữa chúng ta và hằng quan tâm đến từng người chúng ta, trước khi chúng ta đến với Ngài, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài hay không? Như thế, chính Thiên Chúa là người đi bước trước để đón nhận chúng ta trở thành người môn đệ của Ngài.

2. Hành trình của người môn đệ:

Kế đó, mỗi người chúng ta cần có một sự tỉnh táo và lòng khao khát kiếm tìm. Vì chỉ có lòng khao khát và tỉnh thức muốn kiếm tìm thật sự mới giúp chúng ta nhận ra tiếng nói và sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống chúng ta. Chính lòng khao khát này đã thúc đẩy cậu bé Samuel, mặc dù đang còn nhỏ và giữa đêm khuya trong giấc ngủ ngon, vẫn mau mắn chỗi dậy ba lần đến gặp thầy cả Hêli để tìm ý Chúa. Cậu sẵn sàng đến độ can đảm thưa lên: “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Cậu sẵn sàng, cho dù cậu chưa biết Chúa sẽ nói gì và cuộc đời cậu sẽ ra sao. Lòng khao khát này thật quan trọng để bắt đầu cho cuộc hành trình của người môn đệ. Vì thế, khi thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo mình, Đức Giêsu đã hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” Một câu hỏi xem ra chẳng dính dáng gì đến việc các ông đi theo Chúa, nhưng thật ra khi hỏi các anh tìm gì, nghĩa là Chúa Giêsu muốn các ông và cả từng người chúng ta xác định rõ mục đích đời sống của mình. Các ông muốn tìm kiếm điều gì nơi Chúa.

Xác định rõ mình muốn gì trong cuộc sống thật là điều quan trọng đối với tất cả chúng ta. Có xác định rõ mục đích, chúng ta mới có thể tìm ra phương thế hữu hiệu và đủ kiên trì vượt qua những khó khăn trước mát.

Tuy nhiên, chỉ một lòng khát khao thôi thì cũng chưa đủ để gặp gỡ Chúa. Các môn đệ đầu tiên để gặp Chúa, họ không chỉ “tìm kiếm”, nhưng đã dấn bước lên đường thật sự. Tin mừng ghi lại: “Họ đã đến xem chỗ Người ở”. Họ không chỉ đến xem mà thôi, nhưng còn “ở lại với Người ngày hôm ấy”.

Đây chính là bước thứ ba. “Ở lại” với Chúa, chính là “điểm dừng” của từng người trong cuộc sống. Nhờ ở lại với Đức Giêsu ngày hôm ấy, các môn đệ có thời gian để hiểu rõ hơn về bản thân và Thiên Chúa. Họ có thời gian để cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa đối với họ. Chính nhờ luôn kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, mà thánh Phaolô biết rõ giá trị của thân xác con người, như lời thánh nhân chia sẻ với giáo đoàn Corinhtô mà chúng ta vừa nghe: “Thân xác anh em là thân thể của Đức Kitô…. Là đền thờ của Thánh Thần”. Đồng thời, nhờ gắn bó với Chúa, thánh nhân còn cho chúng ta biết rằng: “Anh em không còn thuộc về chính mình nữa. Vì anh em đã được mua chuộc bằng một giá rất lớn”. Và thánh nhân kêu gọi: “Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh em”.

Bước cuối cùng trong hành trình của người môn đệ là lên đường truyền giáo. Anrê sau khi đã gặp và ở lại với Đức Giêsu, đã ra về và dẫn Simon, anh mình đến để cùng gặp Chúa.

3. Chúng ta hôm nay:

Nhìn lại mỗi người chúng ta hôm nay có lẽ chúng ta vẫn còn “đi theo” chứ chưa “đi tìm” Chúa. Tôi và quý vị vẫn còn “đi theo” gia đình và những người chung quanh đến nhà thờ, đến với các sinh hoạt tôn giáo nhiều năm nay, nhưng tâm hồn, ý muốn của chúng ta chưa thật sự một lần “đi tìm” Chúa. Chỉ vì “đi theo” nên thời gian đến với Chúa của mỗi người chúng ta thật nặng nề và đời sống chúng ta chưa có sự đổi mới thật sự. Chúng ta còn ngại hy sinh, còn sợ chia sẻ. Chúng ta còn tính toán, so đo hơn thiệt về những danh vọng, của cải ở cuộc sống này. Cũng chỉ vì “chưa tìm”, nên chúng ta cũng “chưa gặp”.

Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, có lẽ tôi và quý ông bà anh chị em phải bắt chước các môn đệ “đến và ở lại với Chúa”, nghĩa là, có một lần trong đời, chúng ta loại bỏ tất cả những lo lắng về cuộc sống vật chất này, dành thời gian để xác định cho thật rõ mục đích cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúng ta phải trả lời cho được câu hỏi “Tôi sống để làm gì?”. Mặt khác, để đạt được mục đích cuối cùng của cuộc sống, mỗi người chúng ta còn phải kiểm điểm và củng cố lại quyếtt tâm ấy hằng ngày trong giờ kinh sáng tối.

Ngoài ra, trong vai trò làm cha mẹ, quý ông bà anh chị em còn có bổn phận hướng dẫn để con em của mình, để chúng cũng biết rõ “Chúng sống để làm gì”, và giúp con cái chúng ta xác tín, củng cố mục tiêu này hàng ngày.

Đối với các thanh thiếu niên, muốn biết “chúng ta sống để làm gì?”, bắt chước cậu bé Samuel, các bạn phải học Lời Chúa, để Lời Chúa soi sáng cho tâm trí của chúng ta, ngõ hầu chúng ta biết “mình là ai”, và “phải làm gì”.

Tóm lại, hành trình của người môn đệ là một hành trình liên tục. Chúng ta cần dành thời gian để “ở lại với Chúa” mỗi ngày, để nhờ ơn Chúa trợ lực, chúng ta hoàn thiện được của cuộc sống mình. Sau đó, cũng như Anrê đã dẫn đưa Simon đến với Đức Giêsu, từng người chúng ta cũng lên đường làm cho anh chị em mình trở thành môn đệ của Chúa. Amen.
 
Đến và ở lại
Anmai, CSsR
03:23 16/01/2009
CHÚA NHẬT 2 TN B (1 Sm 3, 3b-10.19; 1 Cr 5,13c-15a. 17-20; Ga 1, 35-42)

Thử hỏi ai trong chúng ta là người không biết yêu ? Và khi yêu nhau, tâm trạng của tình yêu nó làm sao đó và chẳng ai có thể diễn tả được. Chỉ có những tâm hồn đang yêu mới diễn tả và mới hiểu được tình yêu là gì.

Đơn giản, đứa trẻ, nhìn vào đứa trẻ chúng ta sẽ thấy lộ ra tình yêu của chúng với cha mẹ chúng là như thế nào. Chúng hình như không muốn xa lìa cha mẹ chúng chút nào cả. Bằng chứng tôi thấy rõ nhất là ở gia đình, có hai đứa cháu trai năm nay đứa học lớp 10, đứa học lớp 5. Hai đứa cháu này không bao giờ chịu rời xa cha mẹ chúng cả. Dù nghe người khác bảo là dẫn đi Siêu Thị hay đi mua đồ chơi, mua thức ăn cho chúng là những điều chúng thích nhưng chẳng bao giờ dụ chúng được. Có lẽ một phần do bản tính nhưng căn cốt đó là vì yêu cha yêu mẹ chúng, chúng sợ xa cha xa mẹ nên chẳng chịu rời xa cha mẹ. Yêu là như vậy đó.

Hay là như chúng ta, hơn một lần chúng ta tiễn biệt người thân chúng ta như ông, như bà, như cha, như mẹ. Ít nhiều gì đó, chúng ta cảm thấy cái giây phút hạ huyệt, cái giây phút đưa vào lò thiêu nó đau đớn đến mức nào. Có những người khóc ngất, có những người xỉu vì xa cha, xa mẹ, xa ông, xa bà của mình. Tại sao khóc ? Chẳng cần suy nghĩ, ta có thể trả lời ngay là vì yêu. Yêu nên sợ xa, sợ mất người mà mình yêu.

Nhìn vào tình yêu đôi lứa chúng ta sẽ thấy rõ nét nhất về sự xa cách này. Khi vì hoàn cảnh chưa đến được với nhau, chưa được ở gần nhau thì cái lòng nó nao nao làm sao đó. Hình như lúc nào anh chị cũng muốn được ở gần nhau, được ở bên nhau hết. Có những lúc đi xa thì chỉ tổ làm giàu cho các mạng di động thôi vì lúc nào cũng liên lạc cả. Không được ở gần nhau vì hoàn cảnh nào đó thì cũng mong được nghe tiếng của nhau. Vì sao vậy ? Vô duyên quá chăng ? Không ! Đó là vì yêu, yêu nên người ta mới mong mỏi được ở gần nhau, ở bên nhau.

Tất cả những hình ảnh đơn sơ ấy biểu lộ tình yêu giữa con cái với ông bà cha mẹ, giữa hai người yêu nhau. Phải nhìn nhận thẳng với nhau rằng, trước khi yêu ta tin cái người ta yêu. Thử hỏi đứa trẻ xem, nó tin ai nhất ? Chắc chắn nó tin cha mẹ nó nhất trên đời nên nó mới yêu. Thử hỏi không tin xem nó có dám yêu chăng ?

Hai anh chị cũng thế ! Dù không nói ra, dù không cân - đo - đong - đếm được nhưng hình như tự hai người nó phát ra cái tín hiệu rất là lạ đó là tin nhau. Tin nhau rồi họ mới tìm đến nhau và mới yêu. Thật sự mà nói, chẳng ai dám đi yêu cái người mà mình không tin cả. Từ tin bắt đầu đến yêu. Yêu nhau nên muốn ở lại bên nhau là chuyện bình thường thôi. Nếu yêu mà không tin nhau đó là tình yêu bất thường, tình yêu dị dạng và tình yêu móp méo.

Hình ảnh tin, yêu và ở lại bên nhau được Thánh Gioan nói cho chúng ta qua trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Gioan thuật lại rằng có hai môn đệ đang đứng với ông, thấy Đức Giêsu đi ngang và Gioan giới thiệu ngay: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Sau khi nghe giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lập tức hai môn đệ đi ngay. Tại sao đi ngay ? Vì lẽ là môn đệ Gioan, tin Gioan nên mới đến với Chúa Giêsu và ở lại với Chúa Giêsu. Không đơn giản như Thánh Gioan thuật lại, muốn đến và ở lại như vậy chắc có lẽ phải qua một thời gian, một giai đoạn tìm hiểu và rồi tin và rồi yêu như những người trẻ đến với nhau vậy. Và muốn có được kết qủa như ngày hôm nay của hai môn đệ ông Gioan là do hai môn đệ ấy đã lắng nghe ông Gioan nói về Chúa Giêsu trong thời gian hai ông ở với Gioan. Phải lắng nghe hai ông ấy mới biết Chúa Giêsu là ai để rồi mới ngong ngóng tìm Chúa và hôm nay mới gặp được Chúa và theo Chúa, ở với Chúa.

Muốn biết về ai, muốn tin vào ai và muốn yêu người ấy thì chuyện quan trọng nhất đó là lắng nghe. Khi ta không lắng nghe nói về người đó, nói với người đó thì làm sao ta biết, ta tin và ta yêu được.

Hình ảnh về sự lắng nghe, về tin, về yêu ấy được Samuael thuật lại trong trang sách của ông mà chúng ta cũng vừa được nghe.

Trong cơn ngủ đấy nhưng Samuel được nghe tiếng gọi, ông giật mình đến hỏi thầy của mình. Cả đến 3 lần, 3 lần ấy ông Êli đều xác nhận không phải là ông gọi nhưng chính Thiên Chúa gọi Samuel. Và Samuel lại tiếp tục trong cơn ngủ của mình. Thiên Chúa lại đến với Samuel và thực thi theo lời thầy mình dạy, Samuel đã thân thưa với Chúa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe”. Sau khi thân thưa, thỏ thẻ với Chúa về tâm tình, về thái độ của mình thì ơn của Thiên Chúa đến với ông như chúng ta nghe: “Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. (1 Sm 3, 19)

Thật sự là thế, Samuel lớn lên trong ơn nghĩa của Chúa nhờ thái độ, nhờ tâm tình lắng nghe Chúa và rồi Chúa ở với ông. Chúa ở với ông đồng nghĩa là ông ở trong Chúa.

Chúng ta, nhìn lại mình, chúng ta thấy buồn cười lắm ! Chúng ta được nghe các thánh, các tông đồ và nhiều người nói về Chúa cho chúng ta nhưng tâm hồn của chúng ta nó cứ trơ trơ ra làm sao đó. Không chỉ các thánh, các tông đồ nhưng ngay bản thân chúng ta thôi, Thiên Chúa đã nhiều lần trực tiếp bằng những biến cố này biến cố khác trong cuộc đời Chúa nói với chúng ta đấy nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có đủ kiên nhẫn, có đủ lắng đọng để nghe không ?
Tạ ơn Chúa vì ngày nay xã hội phát triển, thậm chí phát triển quá mức tưởng tượng. Tất cả những gì xã hội mang đến cho con người là con dao 2 lưỡi. Nó phục vụ rất tốt cho cuộc sống của con người nhưng ngược lại nó cũng làm cho con người ra hư hỏng. Nếu biết dùng thì con người sẽ dùng những vật chất, những phát triển văn minh sẽ phục vụ con người nhưng không khéo nó sẽ làm hỏng con người. Nếu không cẩn thận, nếu không có chiều sâu tâm linh đậm đặc đủ con người sẽ mãi chạy theo những đam mê, những cám dỗ của vật chất, của xác thịt, của danh vọng.

Những thú vui của danh vọng, địa vị, vật chất ấy đôi khi đã làm cho con người đánh mất cảm thức về Chúa, không còn thấy Chúa có chỗ đứng trong cuộc đời của mình nữa. Sự thật thật bi đát, sự thật thật đau lòng đó là dù cho giàu có, danh vọng, hưởng thụ đến mức nào đi chăng nữa nhưng không có Chúa cuộc đời nó cứ rỗng rỗng tuếch tuếch làm sao đó.
Thánh Vịnh 49 hơn một lần nhắc nhỡ chúng ta về phận con người:

Hãy nghe đây, ngàn muôn dân hỡi,
lắng tai nào, hết thảy thế nhân,
cả thường dân lẫn người quyền quý,
hạng phú gia với kẻ cơ bần.
Miệng tôi nói lời hay lẽ phải,
lòng gẫm suy câu khéo điều khôn,
tai lắng nghe nhịp câu ngạn ngữ,
mượn phím đàn giải nghĩa nhiệm mầu.
Ngày vận hạn cớ chi phải sợ,
lúc bọn gian manh theo sát bủa vây tôi?
Chúng cậy vào của cải,
lại vênh vang bởi lắm bạc tiền.
Nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình
và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa?
Mạng người dù giá cao mấy nữa,
thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời.
Nào phàm nhân sống mãi được sao
mà chẳng phải đến ngày tận số?
Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết,
kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong,
bỏ lại tài sản mình cho người khác.
Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ,
nhưng ba tấc đất mới thật là nhà,
nơi họ ở muôn đời muôn kiếp.
Dù sống trong danh vọng,
con người cũng không thể trường tồn;
thật nó chẳng khác chi
con vật một ngày kia phải chết.
Phường tự mãn tự kiêu, số phận là thế đó,
bọn ỷ tài khéo nói, hậu vận chính là đây.
Như đoàn vật nhốt trong âm phủ,
chính tử thần canh giữ chăn nuôi,
chúng nhào thẳng xuống nơi huyệt mả,
sẽ tiêu tan cả đến hình hài,
chốn âm phủ thành nơi cư ngụ.
Nhưng Chúa Trời sẽ chuộc mạng tôi,
gỡ tôi ra khỏi quyền lực âm phủ.
Đừng sợ chi khi có kẻ phát tài,
hoặc cửa nhà tăng thêm vẻ phong lưu,
vì khi chết, nó đâu mang được cả,
kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần.
Lúc sinh thời, nó tự hào tự đắc:
"Mình làm nên, thiên hạ tán dương mình! "
Nhưng rồi nó cùng tổ tiên về chung kiếp,
chẳng bao giờ còn được thấy ánh dương!
Dù sống trong danh vọng,
con người cũng không hiểu biết gì;
thật nó chẳng khác chi
con vật một ngày kia phải chết.

Chúng ta vẫn bị giằng co giữa những cái mong manh của cuộc đời và Chúa nên rồi chúng ta cứ quay quắt trong những cái mong manh ấy. Vì sao chúng ta bị quay quắt ? Vì lẽ chúng ta đã lìa xa Chúa, chúng ta đã không tìm Chúa, không đến, không lắng nghe lời Chúa như hai môn đệ của ông Gioan và Samuel.

Vâng ! Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi sẽ mất hết, còn lại duy chỉ mình Chúa thôi. Xin Chúa cho chúng ta ghi nhớ rằng chỉ mình Chúa là đủ cho cuộc đời chúng ta để rồi dù cuộc đời này có bao nhiêu ồn ào, bao nhiêu náo động chúng ta luôn lắng đọng tâm hồn để chúng ta đến bên Chúa, để ở lại với Chúa và để nghe lời Chúa. Khi Lời Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an thật sự trong cuộc đời.
 
Tự do đáp lại lời mời gọi
Pm. Cao Huy Hoàng
03:24 16/01/2009
Chúa nhật 2 Thường Niên B

TỰ DO ĐÁP LẠI LỜI MỜI GỌI

Có Đức Tin để tin vào Thiên Chúa là một hồng ân. Hồng ân ấy bắt đầu từ một tiếng gọi, mà người gọi biết chắc rằng khả năng con người đủ có thể nhận ra được. Tiếng gọi ấy mời con người không chỉ tiếp cận với Thiên Chúa vô hình, mà còn mời con người sống sự sống của Thiên Chúa - sự sống thuở ban đầu Ngài đã ban tặng cho con người, sự sống siêu nhiên. Từ tiếng gọi thần linh đến việc nghe và đáp lại làm thành một ơn gọi. Ơn gọi nào cũng rất tự do. Thiên Chúa, Đấng kêu gọi, biết rằng chính sự tự do làm cho ơn gọi mặc lấy một giá trị đặc biệt. Sự tự do ấy bao gồm việc Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta, và chúng ta dùng tự do để đáp lại tiếng Chúa.

Thiên Chúa vô hình

Thiên Chúa vô hình trong cựu ước, khi kêu gọi các tổ phụ, các tiên tri cộng tác với Ngài trong chương trình cứu rỗi nhân loại, Ngài cũng đã tôn trọng tự do của con người để việc cộng tác của con người không chỉ vì Đức Tin mà còn vì lòng kính mến. Các tổ phụ đã nêu cho chúng ta một tấm gương đáp lại lời mời gọi đức tin một cách tự do nhưng cũng rất quả cảm.

Khi Thiên Chúa vô hình gọi Samuel, cậu cứ tưởng là thầy cả Hêli gọi. Sau ba lần chạy đến với thầy cả Hêli vì nhầm tưởng, “Hêli biết Chúa đã gọi Samuel” nên đã hướng dẫn cậu đáp lại tiếng Chúa, vì tự do của cậu chưa trưởng thành. Câu chuyện của Samuel làm tôi nhớ đến hành trình đức tin của tôi. Khi tôi chưa bập bẹ được tiếng nào để thưa với Chúa những điều tôi muốn, thì Cha Mẹ đã thay lời; khi tôi chưa đủ tự do để đáp lại tiếng Chúa, thì cha mẹ tôi dùng tự do và trách nhiệm thật huyền nhiệm của bí tích hôn nhân mà đưa tôi đến với nguồn sống thiêng liêng, với ơn đức tin qua phép rửa tội. Và từ đó, tôi đã được lớn lên như cậu Samuel kia, luôn có Thiên Chúa ở cùng.

Thiên Chúa hữu hình

Và Thiên Chúa đã hữu hình qua Đức Giêsu Kitô: “Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày nầy, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con” (Dt 1,1) mà hôm nay, Thánh Gioan tiền hô giới thiệu là “Chiên Thiên Chúa”: “Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa. ” (Ga 1,36). Thánh Gioan không giới thiệu gì thêm, như lệ thường người ta vẫn giới thiệu các ông lớn, hay người nổi tiếng. Nhưng từ “Chiên Thiên Chúa” đã đánh động hai môn đệ của mình là Anrê và Simon. Hình ảnh “con chiên”, con vật chịu sát tế, quá thân thuộc với hai ông. Chiên Thiên Chúa đồng nghĩa với việc “Con Thiên Chúa chịu sát tế”, ý tưởng ấy để lại trong các ông một sự ngưỡng mộ lạ lùng và hai ông đã theo Chúa: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Ðức Giêsu”” (Ga 1,37).

Nhưng, để xác nhận sự tự do của hai môn đệ ông Gioan, Chúa Giêsu hỏi các ông: “ Các ông tìm gì thế?” Câu hỏi yêu cầu họ phải nói lên cái ý hướng ngay lành, khát khao nồng cháy của họ khi đến với Chúa Giêsu, vì Ngài không chấp nhận việc đi theo Ngài do bởi một xu hướng nhất thời, mặc dầu, Chúa vẫn biết lòng các ông đơn sơ lắm, ý hướng chủ quan của các ông cũng đơn sơ lắm. Vì thế Ngài đã hướng dẫn họ “Hãy đến mà xem” khi họ trả lời có vẻ chưa thông suốt “ Lạy Thầy, Thầy ở đâu”.

Đáp lời mời của Chúa Giêsu, họ đã đến xem chỗ người ở và ở lại với Người. Thánh Gioan không mô tả “chỗ người ở” như thế nào, nhưng chắc chắn, chỗ ấy không phải chỉ là một không gian cụ thể giản dị của con Thiên Chúa làm người, mà chỗ ấy còn là một huyền nhiệm của tình yêu Thiên Chúa nơi Người Con, mới có thể có một sức hấp dẫn lạ kỳ đến nỗi hai ông đã “ở lại với Người”. Bút pháp huyền bí của Thánh Gioan luôn dẫn chúng ta vào những huyền nhiệm của Thiên Chúa. Một cách nào đó, qua việc tự nguyện tìm kiếm Thiên Chúa, trong đó có việc tìm cho thấy tận mắt, tìm cho hiểu nguồn ngọn tận tường, Chúa Giêsu đã tác động trực tiếp lên lòng chân thành của con người, để con người được mãn nguyện.

Họ đã ở lại với Chúa Giêsu. Họ được mãn nguyện. Và chính Chúa Giêsu cũng mãn nguyện. Cách nói “ở lại, ở với, ở trong, ở giữa” mà thánh Gioan dùng nhiều trong phúc âm của Ngài luôn mang nghĩa “sống sự sống của Thiên Chúa”.

Như vậy, khi đáp lại tiếng Chúa kêu mời để với Đức Giêsu một cách tự do, con người không chỉ được Lời Chúa hướng dẫn cho sự tự do ấy trưởng thành, mà còn được kết hiệp với chính Chúa Giêsu trong sự sống của Thiên Chúa.

Thiên Chúa hữu hình qua các chứng nhân

Để từ đó, người sống với sự sống của Thiên Chúa sẽ trở thành những chứng nhân sống động cho một Thiên Chúa vô hình trở thành hữu hình ngay trong lòng nhân loại. Thiên Chúa bỗng trở nên rất gần gũi với chúng ta, vì Ngài đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Sứ điệp của Thiên Chúa được chuyển giao cho chính Con Một mình, và người con chí ái ấy, đã chuyển giao cho mỗi người chúng ta, khi chúng ta đang sống chính sự sống của Người.

Sự sống ấy, chắc chắn phải là sự sống tuyệt vời lắm, mới thôi thúc hai môn đệ Anre và Simon đi gặp anh em mình ngay và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: "Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha" (tức là Phê-rô)”.

Xác nhận việc đã gặp được Chúa, đang sống trong Chúa, và mời gọi mọi người đến với Chúa là công việc của mỗi Kitô hữu. Lòng nhiệt thành giới thiệu Chúa cho người khác phải được bắt đầu từ việc cảm nếm sâu xa niềm vui sống với Thiên Chúa, và ước muốn chia sẻ niềm vui sống ấy cho mọi người. Lòng nhiệt thành ấy đi đôi với sự tự do siêu nhiên của lòng yêu mến Chúa, và không thể song hành với một áp lực tiềm ẩn trong lòng tham danh tham lợi cho cá nhân mình.

Một giáo lý viên chia sẻ với tôi trường hợp của em Duy: Em Duy là học sinh giáo lý của cô, rất ngoan ngoãn, dễ thương, nhưng ít thuộc bài. Cô đã nhiều lần nhắc bảo, nhưng vẫn vậy. Cô phải đến tận nhà tìm hiểu, thì ra, bà nội của em không có đạo, và không cho em học bài giáo lý trong nhà. Cô tỏ ra nhiệt tình với em hơn, bằng cách, xin mẹ em cho Duy đến nhà cô để học. Và kết quả là em đã học giáo lý tốt hơn, được xưng tội rước lễ. Em rất mừng.

Tôi rất thán phục một giáo lý viên không chỉ dạy ở lớp, mà còn thể hiện đời sống giáo lý ngay trong cuộc sống. (xin xem bài thơ “Tâm sự Giáo lý viên”, Đồng xanh thơ 17, thơ Tuyết Mai Texas, dunglac.org)

Cũng vậy, mỗi chúng ta, khi đã sống trong niềm vui sống với Thiên Chúa, thì sự sống ấy ắt nhiên sẽ trào tràn ra thành lời, thành việc, thành những chứng nhân cho một Thiên Chúa hữu hình đang ở với chúng ta, đang ở với nhân loại.

Lạy Chúa Giêsu, chỗ Chúa ở là chỗ của tình yêu Ba ngôi Thiên Chúa. Xin cho chúng con tìm đến và ở lại trong tình yêu, trong hạnh phúc tuyệt vời ấy để chúng con được sống sự sống của Thiên Chúa. Và khi có sự sống của Thiên Chúa trong chúng con, xin cho chúng con nhiệt tình chia sẻ sự sống ấy cho mọi người.
 
Hành trình Ơn Gọi
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
03:27 16/01/2009
Chúa nhật II Thường niên

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA (Ga 1, 35 – 42)

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Ðây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?" Người bảo họ: "Ðến mà xem". Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Chúa Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Mêsia" (nghĩa là Ðấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn ông Simon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô).

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.

1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.

Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe. Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng. Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Chúa Giêsu.

2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.

Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Chúa Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.

3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.

Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha – Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương. Trong tình yêu Thiên chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi. Trong tình yêu Thiên chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người. Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa. Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Chúa Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.

4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.

Cảm nhận được tình yêu Thiên chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên chúa cho mọi người. Sau khi gặp Chúa Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Chúa Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên chúa.

Tất cả chúng ta đều được Thiên chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết. Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội. Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng. Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chúa Nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.

Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu ? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa ? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa ? Hay là tôi mới ở khởi điểm ? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không ?
2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa ?
3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa ?
4- Bạn có cảm thấy cần tâm sự lâu giờ với Chúa không ?
5- Tóm tắt hành trình ơn gọi trong 4 điểm.
 
Tiếng nói của Thiên Chúa tìm đến tất cả những ai lắng nghe
Tú Nạc
03:34 16/01/2009
Chúa Nhật II B (1 Samuel 3: 3-10, 19; psalm 40; Corinthians 6:13-15, 17-20; John 1: 35-42)

Chúng ta có nghe rõ không? Trên bình diện đó, hầu hết chúng ta có thể thay đổi vị trí đứng. chúng ta thực sự không muốn nghe người khác vì – thường chúng ta suy nghĩ về một điều gì đó cao siêu, dí dỏm hoặc châm biếm để đưa ra câu trả lời. Và nếu hét thẳng vào người khác là một thực tế đáng tiếc trong khi giao tiếp. Nhưng việc phát triển những kỹ năng nghe cấp bách hơn nhiều ngay cả trong mối quan hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa. Tiếng nói của Thiên Chúa êm đềm, tha thiết nhưng kiên quyết. Tiếng nói này thường bị lấn át bởi những huyên náo xung quanh chúng ta – chúng ta là một xã hội ồn ào, náo nhiệt – cũng như sự ồn ào trong chúng ta. Chúng ta e sợ tiếng nói của Thiên Chúa, chúng ta sợ sự trừng phạt. xét xử, không xứng đáng những gì Thiên Chúa yêu cầu chúng ta. Thật dễ dàng để làm những gì mà Samuel thực hiện ban đầu – biện hộ lời kêu gọi. Nhưng nếu đó là lời kêu gọi của Thiên Chúa, nó sẽ là sự bền bỉ, lâu dài trong trường hợp này. Rồi Eli chỉ dạy cho tiên tri trẻ Samuel rằng sự trả lời chân chính là im lặng, chú ý lắng nghe với một thái độ thành khẩn

Tiếng gọi của Thiên Chúa thường đến nhất là khi chúng ta đưa ra những lời cầu xin và tìm kiếm. Khi chúng ta cầu xin để được dẫn đường chỉ lối, lời thỉnh cầu của chúng ta sẽ được phúc đáp. Nhưng nó cũng có thể không đến với chúng ta dưới hình thức của tiếng nói, mà bằng kinh nghiệm, sự từng trải trong cảm xúc và giao động tâm hồn, và những mối giao hòa thiêng liêng là mối giao hảo tuyệt vời. tiếng nói của Thiên Chúa không phải dành cho những tinh hoa tài giỏi, mà dành cho tất cả những ai có trái tim chân thành và cho mọi người. Nó độc đáo vô song. Paul đã từng bị buộc là có quan điểm phủ nhận thể xác. Nhưng đoạn văn này vẽ lên một hình ảnh khác. Viết hoàn toàn trái ngược với cộng đống người Corinth ngông cuồng, ông cố gắng thuyết phục họ rằng sự tự do Thiên chúa giáo không có nghĩa là phóng đãng. Ông không đưa ra một số khổ hạnh mà người ta phải đấu tranh chống lại những gánh nặng của thể xác – hoàn toàn trái ngược. Và nó không thuộc về sự cho phép một loạt những luật lệ hoặc những ngăn cấm. Đời sống Kitô giáo tích cực hơn nhiều. thiên Chúa không "bỏ đi" hay 'biến mất" mà ở bên trong thể xác của những người có niềm tin tuyệt đối. từ đó, thể xác là ngôi đền thờ mà trong đó tinh thần của Thiên chúa có thể chú ý đến tất cả hành động của con người và có thể là mẫu thiết kế của nơi tôn thờ. Để được sống trong Đúc Kitô, chúng ta phải cầu nguyện và dâng lời ngợi khen bằng những phương tiện của thể xác. Từ đó, chúng ta là chi thể của Đức Kitô, mỗi điều chúng ta nói và mỗi việc chúng ta làm đều được thực hiện trong mối liên hệ với Thiên Chúa. Trong việc đưa ra những quyết định của chúng ta, có lẽ chúng ta có những câu hỏi sai. Có lẽ điều tốt hơn hết là hỏi tiến trình làn việc có hay không. Chúng ta đang chiêm niệm những vinh dự hay những khổ nhục vì Danh Chúa cùng những thực tế thiêng liêng tuyệt vời ngự trong chúng ta.

Sự rao giảng của John về tiếng gọi của các môn đệ không khác đối với ba Tin Mừng cho lắm. Thay vì chúa Jesus tìm và kêu gọi các môn đệ, thì ở đây họ tìm đến để gặp Ngài. Thậm chí việc đặt tên lại của Peter làm khó chịu ngay từ lúc mở đầu Tin Mừng không có bất kỳ sự thú nhận đức tin nào về vai trò của Peter. Trong Tin Mừng của John, những từ ngữ được hàm chứa một cách nặng nề với những mức độ ngữ nghĩa khác. Một câu hỏi đơn giản của Chúa Jesus – Các con đang tìm kiếm gì? Ý tại ngôn trung khiến người đọc đặt câu hỏi cho bản thân. Đó là câu hỏi mà chúng ta nên thường xuyên tự vấn.

Người ta có thể đeo đuổi những mục đích tôn giáo hoặc tinh thần với những lý do khác nhau. Không phải tất cả trong số họ đều cao thượng vả trong sạch. Sự đáp lại của họ cũng mập mờ như nhau: bạn đang ở đâu? Điều này là một lời đề nghị hơn cả bài nói chuyện bằng ngôn từ Hy Lạp có ý nghĩa tồn tại, bất diệt. Nó giống như ngôn lời của Chúa Jesus khi ngài cố gắng thuyết phục những môn đệ mãi mãi hoặc tuân theo Ngài. Và chúng ta tiếp tục đọc toàn bộ Tin Mừng, nó sẽ trở nên trong sáng, rõ ràng nơi mà Chúa Jesus tuân giữ: trong Đức Chúa Cha. Chúa Jesus đã thốt lời mời hai người tìm đến Ngài nhưng cững là lời mời đến tất cả chúng ta: hãy đến và xem.

Trong vốn từ của John, nhận thấy rằng ý nghĩa tri thức và kinh nghiệm cho bản thân mình. Đó là kho tang quí giá được tìm thấy trong Tin Mừng của John: lời mời để có những cánh cửa nhận thức mỗi người được trong sáng bởi tâm hồn và để bắt đầu hiểu biết, khám phá thiên Chúa trong cuộc sống này. Nhưng không có điều gì xảy đến trừ phi chúng ta cần tiếng gọi và bắt đầu cuộc hành trình.

(Nguồn: the Catholic Register)
 
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục
LM Nguyễn Vinh Gioang
03:38 16/01/2009
Mười truyện đơn sơ về Giáo lý và Giáo dục (69)

691. Chịu khổ vì yêu Chúa Giêsu

Khi đang bị giam trong tù, đợi phiên bị dẫn ra đấu trường cho thú dữ ăn thịt, thánh nữ Phêlixitê được người lính canh hỏi:
- “Chị làm sao đủ sức mà chịu được?”
Thánh nữ trả lời:
- “Trong tôi, có một Đấng sẽ chịu vì tôi. Đấng đó là Đấng tôi sẵn sàng chết cho Ngài.”

692. Tầm quan trọng của Đức Giêsu Nadarét

Đã có nhiều nhân vật kỳ tài xuất hiện trong lịch sử nhân loại, nhưng từ xưa đến nay, và từ nay cho đến tận thế, sẽ không có một nhân vật nào sánh kịp với Đức Giêsu Kitô, Con của Thiên Chúa Cha, Ngôi Hai trong Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa thật mà người công giáo đang thờ lạy, và là Người thật, đang ở giữa chúng ta và đang ở giữa loài người hôm qua, hôm nay và mãi mãi.
Đức Giêsu Nadarét là một nhân vật lịch sử rõ ràng, không ai có thể chối cãi được. Mà nếu phủ nhận không có Đức Giêsu Nadarét, thì lịch sử nhân loại sẽ sụp đổ, nền văn minh và văn hoá của nhân loại sẽ tiêu tan.
Đây là những điểm lịch sử rõ ràng về Nhân Vật Kỳ Diệu nầy.
Tên: Giêsu
Sinh tại Bêlem, miền Giuđêa, nước Palestina, vào năm 784 kể từ ngày lập quốc Rôma, dưới triều hoàng đế Xêdarê Augustô, trong lúc vua Erode đang trị vì tại xứ Palestina dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của chính quyền đế quốc Rôma, chính quyền lúc đó đang chế ngự tất cả vùng Địa Trung Hải.
Sống thời thơ ấu và thanh niên tại Nadarét, miền Galilêa, nước Palestina.
Lúc 30 tuổi, ra truyền đạo, đúng vào năm thứ 15 của triều đại hoàng đế Tibêriô.
Ba năm sau, bị xử tử thập giá vào ngày thứ sáu, 14 tháng Nisan năm 30, tức là ngày mồng 7 tháng 4 Dương lịch năm 30, dưới thời quan tổng trấn Pônxiô Pilatô thay mặt hoàng đế Roma, cai trị xứ Palestina.

693. Đức Giêsu lôi cuốn kẻ khác một cách lạ lùng

Dân chúng, quên ăn, quên uống, quên công việc nhà cửa, say mê đi theo Chúa Giêsu để nghe lời Ngài giảng dạy.
Các bà mẹ ngợi khen ai đã sinh ra được một người con như thế.
Giới trẻ theo Chúa Giêsu và mong được Ngài chỉ cho con đường thăng tiến.
Các em bé ùa chạy đến với Chúa Giêsu và đòi cho được Ngài bồng ẵm.

694. Liếc nhin của Chúa Giêsu rất đặc biệt

Khi dịu dàng: nhìn kẻ có tội biết ăn năn thống hối
Khi phẩn nộ: nhìn người Biêt phái kiêu căng.
Khi khen ngợi: nhìn bà góa đại độ
Khi trách móc: nhìn các môn đệ đang gây gổ nhau
Khi vui vẻ: nhìn chim bay, nhìn cảnh đẹp
Khi đau buồn: nhìn Phêrô đã chối Thầy, nhìn Giuđa đang sa lầy.

695. Không có thể làm được như Chúa Giêsu.

Hiện nay, cũng như trước đây, hằng triệu triệu người nam nữ trên khắp thế giới, thuộc đủ mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi nền văn hoá, mọi thành phần trong xã hội, dù không bao giờ thấy mặt Chúa Giêsu tận mắt, nhưng lạ thay, vẫn yêu Ngài, và luôn tìm đủ mọi cách để sống theo lý tưởng Ngài dạy.
Những người theo Chúa Giêsu nầy hết tình lao mình vào săn sóc những người đau khổ, tù đày, đui điếc, phung hủi, ung thư, siđa, điên loạn, cô nhi, già lão, mà không vì trục lợi, không mong được đền ơn, không muốn được ghi tên trên mặt báo, không muốn được chiếu hình trên tivi.
Họ hiên ngang mang trên mình Cây Thánh Giá, nguyên là một hình khổ kinh tởm của người Rôma bày ra ngày xưa để xử tử Đấng họ thờ lạy.
Họ thực hành những giáo lý rất khó thực hiện của Đấng họ yêu mến, như phải yêu kẻ thù, phải làm ơn cho những ai làm hại mình, phải luôn luôn tha thứ và tha thứ không điều kiện, không giới hạn.
Họ làm như vậy vì yêu Đức Giêsu, Đấng đã kêu gọi họ đi vào con đường rất khó khăn: phải từ bỏ mọi sự, phải vác thập giá hằng ngày, không được chạy theo tiền bạc, danh vọng, chức tước của thế trần nầy. Bị người đời bắt bớ và ghét bỏ thì vẫn phải luôn luôn vui vẻ, phải luôn luôn đem Tin Mừng đến cho mọi người, đến cho từng người, đến cho dân tộc và đất nước mình, đến cho mọi dân tộc trên khắp hoàn cầu.
Lôi kéo nhiều người đến với mình một cách lạ lùng như vậy, sau cái chết đã hai ngàn năm, thử hỏi ai trong nhân loại có thể làm được như vậy.
Đức Giêsu đã làm được những điều nầy vì Ngài là Con của Thiên Chúa, vì Ngài là chính Thiên Chúa.

696. Họ thành công hơn bạn vì họ dám làm hơn bạn.

Từ nghèo khổ đi đến giàu có, điều cần thiết là phải nắm lấy cơ hội. Vì cơ hội trải đêu trên con đường trước mặt mọi người.
Những người quá an phận, thường lần lượt làm mất đi cơ hội được của cải vật chất. Cho nên, mọi người nên nắm chắt những cơ hội đến nhanh, mà mất cũng nhanh. Quá thận trọng, sẽ đánh mất nó.
Có lẽ bạn đã nghe câu chuyện cười nầy:
‘Tối hôm qua, cơ hội đến gõ cửa nhà tôi khi tôi nhanh chóng bấm chuông cảnh báo, mở khoá bảo hiểm, lôi được cổng chống trộm ra: nó đã chạy mất rồi.”
Ngụ ý câu chuyện nầy là: Nếu bạn sống quá cẩn thận, bạn sẽ có thể mất đi những cơ hội tốt.
Bên cạnh chúng ta, nhiều người thành công không nhất thiết “biết” làm hơn bạn. Quan trọng là họ dám làm hơn bạn….
Thực tế, ông Ha-mơ trở thành người thành công, đã mách bảo chúng ta:
“Rủi ro và lợi nhuận lớn, nhỏ, tỷ lệ thuận với nhau: rủi ro lớn có thể đem lại hiệu quả lớn.”
“ Vận may thích đến với những người dũng cảm. Mạo hiểm là một thứ khí phách, và dũng khí thể hiện ở mỗi người.”
“Mạo hiểm và sự thành đạt thường đi đôi với nhau. Trong hiểm, có may; trong nguy, có lợi. Nếu muốn có kết quả vượt trội thì phải dũng cảm đội nguy hiểm.” (19 Suy Nghĩ Không Bằng Một Hành Động)

697. Cửa hàn muốn thành công, hãy quý chuộng khách hàng.

Mục đích của doanh nghiệp là tranh thủ khách hàng và thắt chặt mối dây quan hệ.
Tổng Giám đốc Công ty Điện khí nổi tiếng của Mỹ, Jake Welch, nói:
-“Một khách hàng tốt nhất, là một người có khả năng gợi mở tốt nhất cho doanh nghiệp. Họ cũng là người dẫn dắt và đưa ra yêu cầu giúp doanh nghiệp vượt qua những khả năng vốn có, để nâng cao khả năng phục vụ khách hàng, từ đó, có thể khuất phục được những khách hàng khó tính khác…”
Kyrel, người sáng lập ra công ty Diel, người đã được sách kỷ lục Guiness ghi nhận là “Chuyên viên bán hàng vĩ đại nhất thế giới”, nói:
“Sau lưng của một khách hàng, thường có khoản 250 người khác. Do vậy, nếu chúng ta có được cảm tình của một người thì sẽ có thể có thêm 250 người khác. Vì thế, chúng ta tuyệt đối không được phép làm mất lòng bất kỳ một người nào đến với chúng ta”. (Bạn Là Người Giỏi Nhất)

698. Phải biết dựa vào bản thân mình.

Ông vua dầu mỏ Mỹ, Rockefeller, trong một lần dẫn con nhỏ leo cầu thang chơi, nhưng khi con ông leo đến chỗ cầu thang không cao quá cũng như không thấp quá, ông buông tay ra, đứa bé liền bị ngã lộn xuống.
Đó không phải là do ông lỡ tay; càng không phải ông có muốn đùa ác với con trai mình, mà chính là để tâm hồn ngây thơ của con mình cảm nhận được một điều rằng: làm bất cứ việc gì, cũng phải dựa vào chính mình vì đôi khi, ngay cả sự giúp đỡ của người thân, cũng không giúp được gì cả.
Con người nhất thiết phải dựa vào bản thân để sống…
Những người thiếu tính độc lập, tự chủ, cá tính và khả năng tự lập, ngay cả đến bản thân mình còn không lo nổi, thì còn nói gì đến đạt được thành công. (50 Điều Quan Trọng Làm Thay Đổi Cuộc Đời Bạn)

699. Hãy không ngừng kiểm tra và chỉnh sửa mục tiêu của bạn.

Vợ của Antony Robin mời một vị giáo viên điều chỉnh âm, đến nhà điều chỉnh âm cho cây đàn dương cầm.
Vị giáo viên nầy là một tay rành nghề. Ông tỉ mỉ khoá chặt mỗi dây đàn để làm cho nó căn ra, mới có thể phát ra những âm thanh chính xác.
Sau khi ông hoàn tất toàn bộ việc chỉnh âm, bà hỏi ông bao nhiêu tiền. Ông cười và trả lời:
- “Đừng có vội. Chờ tôi lần sau lại đến, rồi hãy trả luôn thể.”
Bà ngạc nhiên, lại hỏi:
- “Lần sau? Thầy có ý gì ạ? Đàn dương cầm không phải là đã chỉnh âm xong rồi hay sao.”
Ông trả lời:
- “Tôi đã chỉnh âm xong, nhưng đó chỉ là tạm thời thôi. Nếu muốn dây đàn có thể duy trì được âm điệu chính xác, cần phải tiếp tục “điều chỉnh”. Vì vậy, tôi còn phải đến vài lần nữa.”
Cùng với lý lẽ nầy, nếu như chúng ta muốn biết được mục tiêu có chính xác hay không, hoặc là cuối cùng, có thực hiện được hay không, cần phải không ngừng tiến hành kiểm tra và chỉnh sửa mục tiêu.

700. Tư duy bằng cách đọc to một mẫu chuyện

Luật ưu Abraham Lincoln đã từng hướng dẫn cho đồng nghiệp của ông cách thư giãn.
Mỗi sáng, ông đến văn phòng và đọc tờ báo hằng ngày rất to cho mình nghe.
Những người phòng kế bên cũng có thể nghe ông ta đọc với giọng oang oang.
Tại sao Lincoln lại đọc báo rất to vào mỗi buổi sáng? Vì làm như vậy, ông sẽ nhớ và giữ lại cho mình nhiều hơn gấp hai lần so với khi đọc thầm. Ông sẽ nhớ nó trong thời gian dài.
Có thể vì Lincoln đã kết hợp nghe và nói, điều đó giúp ông dễ nhớ hơn.
Steve Hardison - một trong những hà tư vấn kinh doanh thành công nhất, nói:
- “Tôi là một chàng trai trẻ không có tiền và cũng không biết đi đâu? Một ngày nọ, tôi đi qua hiệu sách lớn của Napoleon Hill và đọc hết toàn bộ cuốn: “Sự Thành Công Của Các Luật Gia” với một giọng to, chư không chỉ là nhém miệng.”
“Tôi sẽ hành động bây giờ.” “Tôi sẽ hành động bây giờ.” “Tôi sẽ hành động bây giờ.”
“Sau đó, tôi đọc lại câu nầy nhiều lần mỗi giờ, mỗi ngày, đến khi những từ đó trở thành thói quen, như là hơi thở và hành động theo khả năng vậy. Với những những từ nầy, tôi có thể tạo điều kiện cho mỗi hành động cần thiết đưa đến sự thành công. Từ đó mà cũng sẽ tư duy nhiều hơn.” (97 Cách Thăng Tiến Trên Đường Đời)
 
Kiểm thảo cuối năm trước Thánh Thể Chúa
Lm Giuse Nguyễn Thành Long
05:05 16/01/2009
KIỂM THẢO CUỐI NĂM TRƯỚC THÁNH THỂ CHÚA

1. Hát Thờ Lạy

2. Dẫn ý

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin thật Chúa đang hiện diện trên Bàn thờ trong Bí tích Thánh Thể và trong tâm hồn mỗi người chúng con. Chúng con thờ lạy và tôn vinh Chúa, vì nơi Thánh Thể, chúng con gặp được chính Chúa, Đấng đã nhập thể làm người và hiến thân trên thập giá để cứu độ chúng con; đồng thời nhờ sự kết hợp với Chúa, cộng đoàn giáo xứ chúng con cũng được hiệp nhất với nhau hơn. Chúng con ngợi khen Chúa vì nơi Thánh Thể Chúa, chúng con được sống bằng chính sức sống của Chúa trao ban, và cảm nhận được tình yêu của Chúa cách cụ thể và dồi dào hơn bao giờ hết.

Đặc biệt, trong bầu khí của ngày cuối năm Âm lịch, chúng con xin chúc tụng Chúa vì Chúa đã cho chúng con được sống trong thời gian mà chính Chúa đã thánh hoá bằng tình yêu nhập thể của Ngài. Chúng con xin cảm tạ Chúa vì 365 ngày chúng con được hiện hữu là 365 hồng ân sự sống và nhiều ơn khác nữa, đặc biệt là ơn bình an, phần hồn cũng như phần xác, mà Chúa đã ban cho mỗi người chúng con, gia đình, giáo họ, giáo xứ, giáo phận chúng con trong suốt năm qua. Và giờ đây dưới ánh sáng của tình yêu Thánh Thể Chúa, một năm mới sắp mở ra cho chúng con những chuỗi ngày hồng ân mới. Chúng con xin đặt trọn niềm hy vọng và tín thác cùng mọi thao thức của chúng con trong vòng tay yêu thương của Chúa. Xin Chúa chúc lành và thánh hóa.

3. Tin Mừng (Mt 25, 14-30)

* Gợi ý kiểm thảo

Cũng như những người làm nghề kinh doanh buôn bán, cuối năm tổng kết sổ sách thu chi, giờ đây chúng ta cùng nhau dùng những giây phút ngắn ngủi này trong bầu khí của ngày cuối năm để kiểm thảo, để nhìn lại đời sống của mình, đặc biệt là đời sống thiêng liêng. Mỗi người trong chúng ta đều được Chúa giao phó cho một số nén bạc nào đó. Bổn phận của chúng ta là quản lý và cộng tác với ơn Chúa để phát triển và sinh lợi từ những nén bạc Chúa trao.

- Nén bạc thời gian:

Một năm 365 ngày mà Chúa ban cho, chúng ta đã sử dụng như thế nào ? Đã làm được những việc gì ? Hay là đã lãng phí vào những việc làm vô bổ, thậm chí là có hại cho bản thân và gia đình ? Còn trong tương quan với Chúa thì sao ? Một ngày chúng ta dành cho Chúa được bao nhiêu phút ? Một tuần chúng ta dành cho Chúa được bao nhiêu giờ ? Một tháng chúng ta dành cho Chúa được bao nhiêu buổi ? Một năm chúng ta dành cho Chúa được bao nhiêu ngày ?

- Nén bạc sức khoẻ:

Ơn sức khoẻ là nén bạc quý giá mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta đã sử dụng thế nào ? Sinh lợi được những gì ? Chúng ta đã dùng nó để làm được bao nhiêu việc lành, việc thiện, việc nghĩa ? Hay chỉ phung phí vào những việc vô nhân, vô luân, vô nghĩa ?

- Nén bạc khả năng:

Người thì được Chúa ban cho khả năng này, kẻ được Chúa ban khả năng khác… Chúng ta đã phát huy những khả năng đó ra sao để phục vụ và làm sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị em mình ? Nhất là chúng ta có trau dồi và rèn luyện thêm không, hay chỉ biếng nhác để cho khả năng của mình trở nên cùn mòn, vô tích sự ?

- Nén bạc ân huệ thiêng liêng:

Qua các Bí tích, người Kitô hữu chúng ta được lãnh nhận các ơn huệ thiêng liêng từ Thiên Chúa. Bí tích Rửa tội làm cho ta trở nên con cái của Cha trên trời; Bí tích Thêm sức cho ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh thần; Bí tích Thánh Thể mang lại cho ta lương thực thiêng lêng mỗi ngày; Bí tích hoà giải giúp ta giao hoà với Chúa và với anh em. Chúng ta đã sinh lợi từ các ơn của các Bí tích đó như thế nào ?

- Nén bạc ơn gọi của mỗi người:

Mỗi người đều được Chúa mời gọi sống trong một cộng đoàn nào đó. Cộng đoàn đó có thể là gia đình, là giáo họ, giáo xứ, là tu hội, hội dòng, hội đoàn, … Chúng ta đã sống mối tương quan trong các cộng đoàn đó thế nào ? Chúng ta có sẵn sàng đón nhận những người mà Chúa gởi đến ngay trong chính gia đình mình, cộng đoàn mình như là món quà để rèn luyện và thăng tiến mình hay không ?

(Thinh lặnh giây lát)

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi kiểm thảo lại đời sống của mình, chúng con nhận thấy còn nhiều lỗi phạm, thiếu sót trong các việc bổn phận: bổn phận đối với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Lỗi phạm khi chúng con sử dụng những nén bạc Chúa trao không đúng thậm chí còn dùng vào những việc làm bất chính, tội lỗi nữa. Chúng con tha thiết xin Chúa tha thứ cho chúng con.

Và trong năm mới sắp tới, xin Chúa giúp chúng con nổ lực hơn để làm phát triển những ơn huệ Chúa ban. Đặc biệt trong năm “Giáo Dục Kitô Giáo trong Gia Đình” này, xin cho chúng con biết dùng những nén bạc Chúa trao để nuôi dưỡng, trau dồi và thăng tiến đời sống tâm linh của mình, hầu nên ánh sáng soi chiếu nơi môi trường chúng con đang sống, đang học tập, hay đang phục vụ. Xin Chúa thêm sức cho chúng con để chúng con thực hiện được những tâm nguyện đó. Amen.

* Hát Tán tạ tình yêu Chúa

4. Lời Nguyện Chung

Anh Chị Em thân mến ! Cùng hiệp nhau nơi đây, trong những giây phút quý báu của ngày cuối năm, chúng ta cùng cầu xin Chúa ban muôn ơn lành xuống trên gia đình, giáo xứ, giáo phận và Giáo hội Việt Nam thân yêu của chúng ta.

1./ Cầu cho Đức Thánh Cha Bênêđictô và triều đại Giáo Hoàng của Ngài. Xin cho những cố gắng của Ngài trong năm 2008 vừa qua giúp cho thế giới chúng ta đang sống được nhiều bình an và thịnh vượng.

2./ Cầu cho Giáo Hội Việt Nam, hàng giáo phẩm, tu sĩ nam nữ và đông đảo anh chị em đang sống kiên cường trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Xin cho mẫu gương sống chứng nhân của họ, là những bài học đức tin sống động cho chúng ta hôm nay trong việc làm chứng nhân cho Chúa.

3./ Cầu cho đồng bào Việt Nam, đặc biệt là những người đang đối mặt với nạn thất nghiệp, túng thiếu và nghèo đói khắp nơi. Xin Chúa cho họ nhận được nhiều vòng tay yêu thương chia sẻ, hầu giúp xoa dịu những nỗi vất vả khổ đau của họ.

4./ Cầu cho thân bằng quyến thuộc và mọi thành phần trong giáo xứ. Xin Chúa ban cho tất cả mọi người được nhiều niềm vui, bình an, hiệp nhất, yêu thương và tràn đầy ơn thánh Chúa trong năm mới này.

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, trước thềm năm mới, chúng con vừa dâng lên Chúa những lời nguyện cầu tha thiết cho hết mọi thành phần dân Chúa. Xin Chúa đoái thương giơ tay chúc phúc và đón nhận những lời khấn nguyện đó. Chúng con cầu xin, nhờ Ð?c Kitô Chúa chúng con.

5. Phép lành Thánh Thể

- Hát: “Ta Hãy Khẩn Cầu”

- Hát: “Đây Nhiệm Tích”

- Phép lành

6. Hát kết thúc
 
Vai trò trung gian
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
05:10 16/01/2009
Chúa Nhật II thuờng niên B

Nghe hai từ trung gian, không ít nguời trong chúng ta cảm thấy khó chịu. Quả thật trong các hoạt động kinh doanh buôn bán cũng như trong các dịch vụ, hễ có trung gian là hầu như có “phết phẩy”, có những chi phí không như ý. Dĩ nhiên không ai chấp nhận một sự tồn tại của chuổi các trung gian nặng nề, vô bổ, gây phiền hà và gây lãng phí. Vì thế người ta tìm cách loại bỏ bớt những trung gian ấy ngay cả trong các sinh hoạt hành chính. Chuyện bỏ bớt “các cửa, các dấu” để tiến đến mô hình một, cửa một dấu là một trong những nổ lực của cải cách hành chánh nước Việt thời gian vừa qua. Thế nhưng cần phải xác nhận rằng tác nhân trung gian vẫn còn đó vị trí và vai trò cần thiết không thể thiếu trong đời sống kinh tế, xã hội lẫn tâm linh.

Một chân lý trong niềm tin Kitô giáo: Thiên Chúa ban ơn cho con người thường là qua các trung gian. Không kể đến thưở ban đầu của buổi sáng tạo, thì ngoài việc trực tiếp phú ban linh hồn, Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống thể lý cùng những ơn lành khác đều thường qua các trung gian là tổ tiên, ông bà, bố mẹ, thầy cô, các vị mục tử trong Hội thánh…Ngược lại, để đến với Thiên Chúa thì các trung gian luôn có đó vị trí, vai trò cần thiết dường như là tất yếu theo chương trình Thiên Chúa đặt định.

Hai lần Thiên Chúa gọi Samuel, thế mà Samuel vẫn không nhận biết. Để có thể nhận ra tiếng Chúa phán, trẻ Samuel đã phải cần đến sự chỉ dạy của tư tế Hêli. ( x.1 Sm 3,3b-10 ) ( Bài đọc 1 ). Chính nhờ lời giới thiệu của thầy Gioan Tẩy Giả mà hai môn đệ mới tiếp cận được với Chúa Giêsu để rồi theo Người và ở lại với Người ngày hôm ấy. Nhờ một trung gian là Anrê mà Simon Phêrô đã đến gặp Chúa Giêsu và Hội Thánh chúng ta đã có được một vị Tông đồ nhiệt thành, một vị Giáo hoàng tiên khởi. ( x. Ga 1,35-42 ) ( bài Tin Mừng ). Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng thân xác chúng ta là một trung gian để chúng ta kết hợp nên một với Chúa Kitô. Và chính thân xác chúng ta là Đền thờ, là một trung gian để Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta. ( x. 1Cor 6,13-20 ) ( Bài đọc 2 ).

Qua các bài đọc của Thánh lễ Chúa Nhật II TN B, xin được đề ra vài tiêu chí của sự trung gian hầu cho các tác nhân trung gian thực sự là những chiếc cầu nối hữu hiệu, cách đặc biệt giữa Thiên Chúa và con người.

1.Biết Chúa và biết người: Anrê đã trở thành một người trung gian đích thực giữa Simon, anh mình với Chúa Giêsu là nhờ ngài vốn biết rõ anh mình. Chuyện anh em ruột biết rõ nhau là chuyện bình thường, anh em như thể chân tay. Anrê còn là người biết Chúa Giêsu một cách nào đó, nhờ đã đến và ở với Chúa Giêsu ngày hôm ấy, sau khi được thầy Gioan Tẩy giả giới thiệu.

Hình như ít có ai tranh cãi về tiêu chí này. Để làm trung gian thì cần phải biết cả hai phía. Tuy nhiên cái biết ở đây không dừng lại sự nhận thức bằng lý trí mà còn với cả sự gắn bó bằng ý chí. Không mến phục Giêsu hoặc không yêu thương anh mình thì Anrê chưa chắc đã đóng vai trò một trung gian.

2.Đựơc Chúa chọn gọi và trao phó trách nhiệm: Chúng ta nhận ra tiêu chí này qua vai trò của Gioan Tẩy Giả. Ngài là đấng được Thiên Chúa chọn gọi ngay từ trong dạ mẹ ( x.Gr 1,4-5 ) Ngài được Chúa trao phó cho trách nhiệm làm tiếng hô trong hoang mạc là dọn đường cho đấng Thiên sai ngự đến ( x. Is 40,1-5 ).

Vấn đề đặt ra là làm sao nhận ra được tiếng Chúa chọn gọi. Dễ được mấy ai có diễm phúc được Chúa Giêsu chọn gọi cách trực tiếp như các tông đồ ngày xưa ? Nhìn vào cuộc đời vị Tiền Hô, chúng ta có thể xác định rằng tiếng Chúa gọi chúng ta thường qua các biến cố cuộc sống ( các hiện tượng xảy ra với nhà Giacaria ), qua việc dạy bảo của mẹ cha ( việc ông Giacaria và bà Isave đặt tên cho con trẻ khác với truyền thống nói lên điều này ), qua việc nghiền ngẫm Thánh Kinh ( nếu không có yếu tố này thì Gioan hẳn sẽ khó nhận ra vai trò của mình qua lời tiên báo của Ngôn sứ Isaia ngày nào ).

3. Được Hội Thánh chuẩn nhận: Cái tiêu chí này được thể hiện qua vai trò của Tư Tế Hêli. Dù rằng tư tế Hêli còn thiếu sót trong một vài trách nhiệm của mình như lơ là việc dạy bảo con cái khiến cho hai người con trai của ông là Khópni và Pinkhát ra hư hỏng ( x. 1 Sm 2,22-35 ), nhưng không ai phủ nhận vai trò của ông trong việc hướng dẫn trẻ Samuel lắng nghe tiếng Chúa phán.

Chúng ta cần thú nhận rằng cái tiêu chí thứ ba này thường gây tranh luận cho nhiều người bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh, đặc biệt, với các anh em ly khai. Thế nhưng dòng lịch sử thánh minh định rõ rằng Thiên Chúa đã dùng con đường này, phương thức này. Phương thức này, con đường này đã manh nha hình thành trong thời Cựu Ước qua việc Thiên Chúa truyền lệnh cho Môsê cắt đặt Aaron làm Tư Tế và chọn chi tộc Lêvi lo việc tế tự ( x.Xh 4,13-16; 28,1-5 ). Và đến thời Tân Ước, Chúa Giêsu đã minh nhiên thiết lập Hội Thánh trên các Tông đồ và trao quyền tài thẩm cho các ngài ( x. Mt 16,13-19; Ga 20,19-23). Trong thực tế, dù là cá biệt, nhưng vẫn tồn tại hiện tượng “thầy cả Hêli”. Ước gì Kitô hữu chúng ta làm theo lời dạy của Chúa Cứu thế: “Các kinh sư và những người Pharisêu ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, nhưng đừng theo hành động của họ…” ( Mt 23,2-3 ).

Đến với Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa là một diễm phúc của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa đã tạo các trung gian là để cho mọi người có thể đến với Người, gặp gỡ Người cách thuận lợi dễ dàng và hữu hiệu theo hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của từng người. Chính vì thế các tác nhân trung gian mãi luôn càn thiết cho nhân loại chúng ta. Tuy nhiên các tác nhân trung gian ấy vẫn ở bên ngoài chúng ta. Có một tác nhân gần gủi, thiết thân nhất với mỗi người chúng ta đó là chính con người, thân xác chúng ta. Chúa Kitô đã tự hiến thân mình trong hình bánh rượu hiến tế trên các bàn thờ. Con người, thân xác chúng ta là nơi Chúa muốn đến để nên một với chúng ta. Dù chằng đáng Chúa ngự vào, nhưng với tâm hồn khiêm nhu, xin Chúa làm cho tâm hồn, thân xác chúng ta được lành mạnh thì chúng ta sẽ làm một với Chúa cách trọn vẹn. Và Nước Trời đang ở giữa chúng ta ( x. Lc 17,21 ).
 
Bà Con Với Chúa
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
05:23 16/01/2009
Bánh Sự Sống # 46:

“BÀ CON” VỚI CHÚA ?

Tôi nhai và nuốt Lời Chúa: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời. (Mt 5, 16)

* Chuyện kể: Mọi người đang bận rộn mua sắm trong những ngày cuối năm, để chào đón Năm Mới, nên không ai để ý đến một đứa bé nghèo đang đứng thập thò bên ngoài một cửa hàng lớn.

Nó nhìn những món đồ chơi, những quần áo đẹp, các thức ăn đầy ắp phía bên trong cửa hàng, với ánh mắt thèm thuồng và buồn bã. Nó ước gì mình có thể được những món đồ chơi đó, những thứ thoạt nhìn tưởng rất gần trong tầm tay của nó; nhưng lại rất xa xôi mà có lẽ cả cuộc đời này, nó không thể nào có được!

Chợt có một người phụ nữ nhìn thấy ánh mắt khát khao của đứa trẻ, nên đã bước đến bên nó, dắt nó vào trong cửa hàng, mua cho nó một ít đồ chơi, quần áo và thức ăn. Sau đó người phụ nữ chúc nó một mùa Giáng sinh vui vẻ, và từ giã nó. Đứa bé liền nắm lấy tay bà và hỏi: “Cô ơi! Cô có phải là Chúa không?”.

Người phụ nữ trả lời: “Không, cô không phải là Chúa, cô chỉ là một trong những con cái của Ngài mà thôi !” - Đứa bé liền nói: “Con biết mà, con biết thế nào cô cũng có bà con với Chúa.”

* Một phút suy tư: Ngây thơ biết bao và đáng yêu biết bao! Trong trí óc non nớt, em bé hiểu rằng Chúa của nó luôn ban cho nó những điều tốt đẹp, và nó cũng hiểu rằng: những ai thân thiết với Chúa sẽ thay Ngài thực hiện những điều ấy giữa cuộc đời đau khổ này.

Người chung quanh có thể nhận biết mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa qua cách sống hàng ngày của bạn, cách sống ấy phải thể hiện được tình yêu và sự quan tâm đến người khác. Ánh sáng là cái gì rất tự nhiên, có lôi kéo sự chú ý của người ta, cũng như câu: “hữu xạ tự nhiên hương”. Tín hữu sống tốt sẽ ảnh hưởng tới người khác.

Mọi hành vi của bạn phải đại diện cho Chúa Giêsu trên đất, vì họ không thể thấy Chúa bằng đôi mắt trần thế; nhưng sẽ thấy Chúa qua những việc bạn làm, vì bạn là “bà con, anh em” của Ngài.

Phó tế: JB Nguyễn văn Định * johndvn@yahoo.com
 
Mỗi ngày một cây Kinh Thánh: 16 đến 31.1.2009
Phó tế: JB Nguyễn văn Định
05:27 16/01/2009
MỖI NGÀY MỘT CÂU KINH THÁNH

Từ 16 đến 31-01-2009

Ngày 16-01-09: Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. (Gl 1, 15)

Phaolô đã cảm nghiệm lòng Chúa thương xót và đã gọi ông làm ngôn sứ. Tôi tích cực rao giảng Lời Chúa cho gia đình, giáo xứ…

Ngày 17-01-09: Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người… (Gl 1, 16)

Phaolô đã thực sự trở thành đối tượng rao giảng Lời Chúa cho dân ngoại. Còn bạn đang là chứng nhân cho người khác bằng các việc gì?

Ngày 18-01-09: Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. (Ep 1, 4)

Chúa đã tuyển chọn, mời gọi tôi và mọi người trong kế hoạch của Người. Tôi đã dùng các ơn này để nên thánh thiện như thế nào?

Ngày 19-01-09: Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghiã tử nhờ Đức Giêsu Kitô. (Ep 1, 5)

Thiên Chúa đã tiền định cho tôi nên giống như Đức Kitô. Tôi quyết làm rạng danh Chúa trong các môi trường sống hàng ngày.

Ngày 20-01-09: Thưa anh em, tôi muốn anh em biết là những gì xảy đến cho tôi, thật ra đã giúp cho Tin Mừng được tiến triển. (Pl 1, 12)

Phaolô thông báo một số tin tức về ông như: - Đang bị cầm tù – có số người tranh chấp – Cậy tôi hãy kiên nhẫn rao giảng Lời Chúa!

Ngày 21-01-09: Vì thấy tôi bị xiềng xich, phần đông các anh em có lòng tin cậy vào Chúa, đã tỏ ra bạo dạn hơn để rao giảng Lời Chúa mà không chút sợ hãi. (Pl 1, 14)

Phaolô đã tỏ ra một niềm tin lạc quan về sự phát triển Tin Mừng. Tôi quyết tâm học hỏi và chia sẻ Lời Chúa trong môi trường sống.

Ngày 21-01-09: Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo. (Cl 1, 15)

Thánh Phaolô cho tôi biết Đức Kitô tương quan với trong công trình sáng tạo. Tôi nhìn Người để thấy Chúa Cha hiện diện trong tôi.

Ngày 22-01-09: Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh. Người là khởi nguyên, là trưởng tử… (Cl 1, 18)

Hội thánh được nhân cách hóa, được so sánh như một thân thể. Tôi được liên kết trong một thân thể mầu nhiệm, mà đầu là Đức Kitô.

Ngày 23-01-09: Chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, Người Con mà Thiên Chúa đã cho chỗi dậy từ cõi chết là Đức Kitô. (1 Tx 1,10)

Chờ đợi Chúa lại đến là một hy vọng quan trọng của Hội thánh. Bạn hãy chuản bị ngay hành trang từ hôm nay để chuẩn bị cuộc phán xét.

Ngày 24-01-09: Vì tin tưởng vào Thiên Chúa chúng ta, mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go. (1Tx 2, 2)

Phaolô đã can đảm với Lời Chúa, dù trước bao nhiêu thử thách. Còn tôi hôm nay mọi sự dễ dàng quá, nhưng lại lười học hỏi Kinh Thánh.

Ngày 25-01-09: Anh Ti-môthê, đó là chỉ thị của tôi trao cho anh là người con của tôi, chiếu theo các lời ngôn sứ về anh…(1Tm 1, 18)

Phaolô đã chị thị Ti-mô-thê xưa tổ chức và điều khiển công đoàn. Tôi có bổn phận chu toàn trách nhiệm đã lãnh nhận trước mặt Chúa.

Ngày 26-01-09: Với đức tin và lương tâm ngay thẳng, một số người đã vứt bỏ lương tâm, nên đức tin của họ đạ bị chết chìm. (1Tm 1, 19)

Có nhiều người đã vô lương tâm, buông tuồng mất nết. Con quyết sống theo Thánh Linh dẫn dắt để xứng đáng với ơn Chúa đã gọi.

Ngày 27-01-09: Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa… (2Tm 1, 8)

Đây là thư di chúc tinh thần Phaolô thôi thúc Timôthê kiên trì. Xin Chúa giúp con can đảm và bền tâm rao giảng Lời Chúa cho anh em.

Ngày 28-01-09: Chính vì những lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn… (2 Tm 1, 12)

Phaolô thấy mình chẳng còn sống bao lâu nữa, nên mời gọi Timôthê hăng hái rao giảng Tin Mừng. Tôi quyết mạnh dạn sống Lời Chúa.

Ngày 29-01-09: Thật vậy, có nhiều kẻ bất phục tùng, nói năng rỗng tuyếch, lương gạt, mà đa số là những kẻ được cắt bì. (Tt 1, 10)

Phaolô nói hãy coi chừng những người giữ đạo hình thức, luật lệ, lễ nghi…Xin giúp con và nhiều tín hữu biết sống đạo trưởng thành hơn.

Ngày 30-01-09: Cần phải khóa miệng họ lại. Hạng người đó làm đảo lộn nhiều gia đình từ trên xuống dưới, vì lợi lộc thấp hèn… (Tt 1,11)

Con năng đọc Lời Chúa và các tông huấn, giáo huấn của giáo hội, để biết cách sống đạo và có một cái nhìn mới mẻ trong Thánh Linh.

Ngày 31-01-09: Một người trong số đó,… đã nói: Người Kê-ta nói dối luôn, họ là thú dữ, ham ăn lại lười. (Tt 1, 12)

Câu này Phaolô quyết liệt chống lại những tiến sĩ giả hiệu, ngông cuồng. Xin dạy con biết sống khôn ngoan trong lời nói và việc làm.

Phó tế: JB Nguyễn văn Định
 
Canh Khuya
Lm Vũđình Tường
05:37 16/01/2009
Tiếng gọi ban ngày thường rõ ràng, gọi trực tiếp hay qua điện thoại người nghe vẫn có thể nhận giọng quen hay lạ. Gọi đêm là bất thường; gọi canh khuya phải là khẩn thiết, cấp bách, biết làm thế là đánh mất giấc ngủ nhưng là cách Chúa chọn. Vì sao? Gọi đi tìm chân lí cần nhỏ nhẹ, êm đềm. Đêm thanh vắng tiếng động nhỏ cũng nghe được. Tiếng chân lí cần nghe trong yên tĩnh là thế. Đây là trở ngại lớn cho những ai ngủ mê. Đường lối đấu tranh cho công lí chân chính là bất bạo động, cởi mở, đối thoại trong bình đẳng và yêu thương. Kẻ xấu thường lợi dụng kẽ hở này.

Đón nhận chân lí vào đêm khuya, không phàn nàn, không ngại là dấu hiệu tốt của người dám dấn thân. Không chùn bước dù biết trước khó khăn rình rập, gian khổ đón chờ và hiểm nguy tính mạng nhưng vẫn dấn thân làm chứng nhân. Vì gọi giữa canh khuya nên không nhận dạng được người gọi, chỉ nghe tiếng mà không thấy người. Kẻ cho là khôn, người bảo dại. Khôn hay dại chưa rõ nhưng chắc chắn tiếng đáp trả có chút lòng thành, tâm tình tín thác. Đi tìm chân lí chắc chắn cần dấn thân. Dấn thân luôn gặp thử thách.

Gọi giữa canh khuya nhưng khi đi coi lại mời đến coi lúc ban ngày. Coi ban ngày nên nhìn rõ sự thể. Tai nghe, mắt nhìn, chân dẫn đến hiện trường giúp làm quyết định nên ở hay về. Xem thế cần chân thành giữa người gọi và người đáp trả, không dấu diếm, che đậy thực tế dù phũ phàng.

Tìm được chân lí mới chỉ là bước đầu. Bước kế tiếp nhiều chông gai, lắm thách đố khi trở thành chứng nhân cho chân lí, sự thật. Chúa chọn gọi vào ban đêm vì Ngài muốn người được gọi bước ra ánh sáng để làm chứng cho ánh sáng. Nhân chứng đó không phải là ánh sáng nhưng nhận ánh sáng từ Chúa và dọi ánh sáng đó vào màn đêm u tối, làm cho chân lí bừng cháy lên. Ánh sáng bừng cháy giữa đêm khuya, soi sáng màn đêm tâm trí, kẻ thì hoang mang, người thì hoảng sợ, kẻ khác lại cảm thấy phiền toái vì mất giấc ngủ. Có kẻ thờ ơ, cũng có kẻ vui mừng đón nhận ánh sáng chân lí. Vì thế kẻ gieo chân lí gặp nhiều chông gai, lắm thử thách. Biết thế nhưng với ơn Chúa ta vẫn thực hành tốt đẹp, trọn vẹn câu thề

Này con xin đến để thực thi ý Chúa.

Xin đến

Đức Kitô gọi mỗi người chúng ta bằng nhiều cách khác nhau.

Hãy theo Ta. Từ nay các anh trở thành ngư phủ người. Đến mà xem.

Cách gọi khác nhau nên cách đáp trả cũng khác nhau và cách thực thi ý Chúa cũng khác nhau. Đáp trả cách nào, thực thi ý Chúa ra sao cũng được miễn là chân thành thực hiện tốt đẹp việc thực thi ý Chúa.

Thước đo

Thương trường và xã hội đánh giá thành công, thất bại đặt căn bản trên vật chất, tiếng tăm. Con số định đoạt mức thành bại. Tiền nhiều thành công, tiền ít thất bại. Nhiều người ca tụng thành công; ít người tham gia thất bại.

Thiên Chúa ban cho quyền tự do lựa chọn để thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa với hết khả năng, tài sức, lòng mến và lòng chân thành. Chúa không đòi hơn những điều đó. Chúa không cao trọng hơn khi ta thành công, không nghèo hơn khi ta thất bại. Thành tâm và lòng mến là điều Chúa ước mong.

Để biết rõ thực thi ý Chúa nhiều ít ra sao hãy tự trả lời câu hỏi

‘con có yêu mến Thầy không?

Đừng dựa vào thành quả công việc. Để có câu trả lời chính xác hãy dựa vào mức độ dấn thân và lòng mến. Yêu mến nhiều thực thi ý Chúa trong vui thích và sốt sắng trong công việc. Yêu mến ít hoàn thành công việc vì trách nhiệm, làm miễn cưỡng, tránh tai tiếng, hơn là tự nguyện, do lòng mến thúc đẩy. Người ngoài đôi khi không nhận ra, chỉ mình ta biết, mình ta hay mức độ thành tâm và lòng yêu mến.

Đến mà xem

Thói thường đến mà xem để xem ngoại cảnh. Đến mà xem là một lời giới thiệu, một quảng cáo. Quảng cáo có mục đích lợi nhuận không vì tiền thì vì tình. Tôn giáo đến mà xem không mang ý nghĩa mời gọi đến xem ngoại cảnh, thưởng lãm mà chính là nhờ vào cảnh trí bên ngoài soi sáng nội tâm bên trong con người. Đến mà xem chính là đến để soi gương lòng mình, xem nội tâm, xem con người mình. Xem lối sống, cách xử thế, cách hành đạo và niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh.

Xem xong cần phải điều chỉnh sao cho xứng hợp. Xem như thế là xem để thực hành, không phải xem cho biết, nhưng xem để thay đổi cho tốt hơn, cho hoàn hảo hơn. Xem để sửa mình, thăng tiến trên đường thánh thiện và nhiệt tâm đáp trả lời hứa này con xin đến để thực thi ý Chúa.

Andre đã đến mà xem và cuối cùng quyết định ở lại với Đức Kitô. Đến mà xem để ở, đi theo làm môn đệ, không phải xem xong ra về kể lại cho người khác thành câu chuyện làm quà. Đến mà xem để sống, để đi theo và trở thành môn đệ giới thiệu cho người khác cũng đến mà xem. Andre dẫn anh mình là Phêrô đến mà xem sau đó giới thiệu anh mình cho Đức Kitô và Ngài cho Phêrô biết về con người thật của Phêrô. Đức Kitô nhìn ông Simon và nói:

Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha tức là Đá.

Đến mà xem để biết rõ chân tướng, để được thay đổi trở nên mới, trở nên tốt lành. Bắt gặp ánh mắt Chúa giúp chúng ta nhận ra con đường chân lí, bước ra ánh sáng từ trong đêm tối cuộc đời. Làm thế chính là chọn sự sáng, chọn ở lại trong tình yêu của Chúa.

TÌM BÀI CŨ:

Suy Niệm: http://www.stmarksinala.net.au/suyniem.html

Truyện ngắn: http://www.stmarksinala.net.au/truyen.html

Hình ảnh: http://www.stmarksinala.net.au/Photos.html
 
Giảng tĩnh tâm LM đoàn Phan Thiết: Bảy lời của Đức Maria & Đời sống linh mục
+GM. Vũ Duy Thống
16:50 16/01/2009
ĐGM GIUSE VŨ DUY THỐNG
GIÁM MỤC PHỤ TÁ TỔNG GIÁO PHẬN SÀI GÒN

BẢY LỜI CỦA ĐỨC MARIA & ĐỜI SỐNG LINH MỤC



GIẢNG TĨNH TÂM LINH MỤC ĐOÀN PHAN THIẾT TỪ NGÀY 5 ĐẾN 9/1/2009

LỜI THỨ NHẤT Lc 1, 26-34 Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

BIẾT MÌNH “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34) I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA 1. Từ thái độ bối rối 2. Đến câu hỏi “thế nào?” 3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH 1. Biết mình 2. Linh mục và lời “tôi biết” 3. Linh mục và lời “tôi không biết” LỜI THỨ HAI Lc 1, 35-38 Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

VÂNG PHỤC “Này tôi là tôi tớ Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1,38) I. LỜI XIN VÂNG CỦA ĐỨC MARIA 1. “Này tôi” 2. “là tôi tá Đức Chúa Trời” 3. “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” II. SỰ VÂNG PHỤC TRONG ĐỜI LINH MỤC 1. Vâng phục là thành phần cuộc đời linh mục 2. Vâng và phục 3. Vài lãnh vực đang cần đến sự vâng phục

LỜI THỨ BA Lc 1, 39-45 Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.

BẰNG HỮU Đức Maria vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Elizabeth (Lc 1,40) I. TÌNH BẰNG HỮU CỦA ĐỨC MARIA 1. Vội vã lên đường 2. Vui vẻ gặp gỡ 3. Vồn vã giúp đỡ II. TÌNH BẰNG HỮU TRONG ĐỜI LINH MỤC 1. Từ tình bằng hữu đời thường 2. đến tình bằng hữu linh mục đoàn 3. Vấn đề thực tế

LỜI THỨ TƯ (Lc 1, 46-56) Bấy giờ bà Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới: Từ nay hết mọi đời Sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, Như đã hứa cùng cha ông chúng ta, Vì Người nhớ lại lòng thương xót Dành cho tổ phụ Abraham Và cho con cháu đến muôn đời”. Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.

KINH MAGNIFICAT “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-55) I. KINH MAGNIFICAT CỦA ĐỨC MARIA 1. Nhãn giới mầu nhiệm 2. Nhãn giới sứ vụ 3. Nhãn giới hiệp thông II. KINH MAGNIFICAT TRONG ĐỜI LINH MỤC 1. Ngợi khen bằng đời sống linh mục đích thực 2. Ngợi khen bằng đời sống linh mục gương mẫu 3. Ngợi khen bằng đời sống sứ vụ nhiệt thành

LỜI THỨ NĂM Lc 2, 41-52 Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chugn với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm. Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hăng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta. MỤC VỤ TÌM KIẾM CHIÊN LẠC “Sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48) I. LỜI CỦA ĐỨC MARIA 1. Từ sự cố trẻ Giêsu ở lại Đền Thờ 2. Đến lời đối đáp giữa hai mẹ con 3. Để sáng lên lời mời gọi vượt qua II. LỜI THỨ NĂM VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC 1. Sứ mạng tìm kiếm chiên lạc 2. Những bóng dáng chiên lạc hôm nay 3. Những bước chân không mỏi

LỜI THỨ SÁU Ga 2, 1-4 Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Cana miền Galilê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi”. Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”.

MỤC VỤ GIA ĐÌNH “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3) I. LỜI “HỌ HẾT RƯỢU RỒI” 1. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông tin 2. “Họ hết rượu rồi”: một lời thông cảm 3. “Họ hết rượu rồi”: một lời chuyển cầu II. LỜI THỨ SÁU TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC 1. Khi cuộc sống gia đình “hết rượu” 2. Mục vụ với trái tim 3. Nhờ Mẹ Chúa Giêsu chuyển cầu

LỜI THỨ BẢY Ga 2, 5-11 Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!”. Và họ đã đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ”. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.

MỤC VỤ LỜI CHÚA “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5) I. LỜI THỨ BẢY CỦA ĐỨC MARIA 1. “Người” 2. “bảo gì” 3. “các anh cứ việc làm theo” II. LỜI THỨ BẢY VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC 1. Gặp gỡ Lời Chúa 2. Thực hành Lời Chúa 3. Giảng Lời Chúa

BIẾT MÌNH

“Việc đó được xảy đến thế nào,

vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34)

Có một bài thánh ca từ lâu đã nổi tiếng, nhưng từ hơn một năm nay lại càng nổi tiếng hơn. Nổi tiếng vì nội dung phong phú như ánh sáng muôn đời soi dẫn cuộc đời phụng sự, nhưng cũng nổi tiếng vì cách vận dụng bài thánh ca ấy trong những tình huống cụ thể để trở thành bài ca thời sự cho người có đạo cũng như cho người ngoại đạo, cho tín hữu trong nước cũng như cho tín hữu ngoài nước. Bài ca là lời kinh gieo tin yêu hy vọng và nhất là khi được hát cộng đồng đã trở thành sức mạnh làm chứng đức tin, bất kể những khó khăn mọi mặt. Đó là bài hát cha Kim Long phổ nhạc lời “Kinh hoà bình” của thánh Phanxicô Khó Khăn mà hầu như mọi tín hữu Việt Nam đã thuộc nằm lòng. Bài hát là một lời kinh tin tưởng mở đường mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, cũng là bài ca vẽ lên chương trình phục vụ và yêu thương mọi người trong Chúa. Bài hát là kinh nguyện hoà bình dâng lên Chúa và cũng là ước nguyện đấu tranh bất bạo động gửi gắm cho con người.

Bản thân, khi được hoà vào dòng chảy hoà bình mạnh mẽ ấy, nhất là với ánh nến trên tay giữa bóng tối vây quanh, tôi cũng cảm nhận được những nghịch lý quắt quay của hành trình đức tin Kitô giáo. Hôm nay, nếu được hát bài ca này giữa cộng đoàn, xin chỉ dừng lại trong một nghịch lý cũng là chân lý ngàn đời của người phụng sự: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”, để thấy được rằng khi quên mình tưởng là không biết mình mà kỳ thực lại là cách khẳng định mình đẹp nhất, cũng như nói “mình không biết” lại là cách diễn tả “mình biết mình” hơn cả bao giờ.

Lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm là lời khẳng định Mẹ không biết, nhưng chính lại là lời cho thấy Mẹ biết mình rất rõ để từ đó làm cơ sở mà bước vào chương trình của Thiên Chúa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”. Trong khuôn khổ của những ngày tĩnh tâm linh mục, chúng ta trước hết sẽ tìm hiểu ý nghĩa lời của Đức Maria trong bối cảnh năm xưa, và tiếp theo sẽ xét xem lời đó rọi sáng điều gì trên đời sống hôm nay của linh mục.

I. LỜI THỨ NHẤT CỦA ĐỨC MARIA

1. Từ thái độ bối rối

Khi thốt lên lời thứ nhất, Đức Maria đang ở trong một hoàn cảnh khó xử. Khó xử bên ngoài có thể vì sự xuất hiện của một gương mặt lạ trong nhà mình, cho dẫu với kiến thức truyền thống của một thiếu nữ Sion ngoan đạo, Mẹ đã chẳng lạ gì với những tên tuổi thiêng liêng phụng mệnh Thiên Chúa. Trình thuật Phúc Âm đã không vòng vo để gọi tên vị khách lạ ấy là thiên sứ Gabriel. Sự xuất hiện của một người lạ phàm nhân như người hàng xóm chẳng hạn, có lẽ không gây khó xử vì là chuyện thường ngày; nhưng khi sứ thần Thiên Chúa đến gặp ai thì không còn là chuyện thường ngày nữa, mà xem ra đã là chuyện trọng đại ngoại thường. Nhưng khó xử bên trong nội dung câu chuyện trao đổi, từ lời chào cho đến sứ điệp chuyển đạt, mới là điều đáng nói. Nghe những lời ấy, ruột gan Đức Maria rối bời. Có thể lý giải những bối rối của Đức Maria, dựa trên chính lời nói của thiên sứ Gabriel.

Bối rối thứ nhất: Hồng ân Chúa quá cao, phận mình lại bé nhỏ. Trước lời chào đặc biệt của thiên sứ “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”, Đức Maria đã cảm nhận một bầu khí hồng ân đang bao bọc lấy mình. Đây không chỉ là lời chào thông thường, mà còn là lời xác nhận Thiên Chúa luôn hiện diện hỗ trợ. Đây cũng không chỉ là lời chào khuôn định xã giao, mà còn là lời mời gọi hãy mừng vui lên vì được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn để góp công góp sức góp thân góp phận vào công trình yêu thương của Ngài. Tiếng chào cao hơn mâm cỗ. Nếu mâm cỗ ở đây là ân sủng đầy tràn của Thiên Chúa, thì lời chào “Mừng vui lên” đã được đẩy lên tầm cao tình yêu cứu độ của Thiên Chúa dành cho loài người.

Lạ lùng lắm sứ thần Gabriel sử dụng từ “kêcharitômênê - đầy ân sủng” áp dụng cho người trần, nên càng hiểu hơn nữa tâm tình phản tỉnh của Đức Maria. Trong tiếng Việt, có thể phân tích bằng ba chữ “đ” = “đã được đầy”. 1/ đã: Từ muôn đời Thiên Chúa đã thương ban ơn và Ngài còn luôn ban ơn cho đến ngàn sau (chiều dài); 2/ được: Những ơn sủng Đức Maria có đều là nhận được từ Thiên Chúa tình thương (chiều cao); 3/ đầy: Tràn lan, chứa chan, trọn vẹn mỗi ơn và toàn vẹn mọi ơn (chiều rộng). Như thế, từ “kêcharitômênê” khi biến thành danh xưng gọi Đức Maria phải được giải thích là “Đấng đã được ban đầy tràn ân sủng”. Quả là một danh xưng ngoại thường, được xướng lên trong một khung cảnh trang trọng của buổi truyền tin, nhất là lại có sự xuất hiện của nhân vật từ trời, thử hỏi người nghe có thể bình tĩnh được chăng? Thảo nào, Phúc Âm kể: Đức Maria rất bối rối.

Bối rối thứ hai: Sứ mạng Chúa trao quá lớn, sức mình lại yếu ớt. Có lẽ chẳng cần dài lời lý giải, chỉ cần đặt mình vào hoàn cảnh của Đức Maria năm xưa, cũng đủ hình dung tâm tình của Mẹ trước câu nói của sứ thần. “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”.

Quả là bối rối trước hàng loạt nghịch lý của sứ mạng đề ra: trinh nữ mà lại sinh con; con người mà lại sinh ra Con Đấng Tối Cao; nhà hai lúa mà lại được ban cho ngai vàng Đavít. Với đầu óc thiếu nữ thực dụng ngày nay, có thể đây là cơ hội ngàn vàng kiểu “ăn mày gặp xôi gấc”, phải chộp lấy ngay kẻo dịp may không quay trở lại, chẳng phải đắn đo lo nghĩ làm gì cho già người đi. Thế nhưng với Đức Maria thì khác. Ngài nghĩ: Chúa trao sứ mạng quá lớn, mà ngài thì sức yếu vai mềm làm sao gánh vác nổi. Phận cỏ mình rơm của một thiếu nữ miền quê Nagiarét làm sao dám mơ với lên lá ngọc cành vàng của Đức Chúa là Thiên Chúa.

Vì thế, đã bối rối về hồng ân cao cả lãnh nhận, lại càng bối rối hơn về sứ mạng lớn lao được trao, nhất là trong tình huống cụ thể của một gia đình tương lai mà Đức Maria chưa tưởng tượng hết được, ở đó việc đặt tên tuỳ thuộc phần lớn ở người đàn ông như trường hợp gia đình Giacaria chẳng hạn, còn ở đây, theo lời sứ thần, Mẹ sẽ phải cáng đáng nhiệm vụ ấy để nhận tên trước cho con trẻ là Giêsu, với ý nghĩa cao quý ở đỉnh cao lòng mong chờ của toàn dân: Giêsu = Giavê là Đấng Cứu Độ.

2. Đến câu hỏi “thế nào?”

Bối rối trước hồng ân và bối rối trước sứ mạng, dẫu thật là thế, cũng chỉ là những cảm nhận trong tâm tưởng của Đức Maria khi đối chiếu mình với lời nói của sứ thần Gabriel; nhưng chính khi buột miệng thốt ra lời đầu tiên, Đức Maria mới để lộ cho thấy điều ngài quan tâm hơn cả không phải là một tương lai dòng dõi hoàng vương, cũng không phải là một vị thế gia phong huy hoàng choáng ngợp nằm mơ cũng không thấy; mà là một điều liên hệ trực tiếp đến chính bản thân ngài vốn là một trinh nữ làm sao có thể đi vào nhịp cầu sinh nở, hay nhạy cảm hơn, làm sao có thể đón nhận mối quan hệ nam nữ như cửa ngõ duy nhất của việc sinh con, làm sao có thể dung hoà giữa hai bậc sống khác biệt đồng trinh và gia đình, và làm sao một cuộc đời đã thuộc về Thiên Chúa trọn vẹn lại có thể chia sẻ ra để thuộc về người khác. Nghĩ sao nói vậy, Đức Maria thưa: “Việc đó được xảy đến thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”.

Về lời đáp của Đức Maria dành cho sứ thần, cũng là một câu hỏi can dự đến lựa chọn bậc sống của ngài, trong tiếng Việt, có một cách dịch nghe ra không thuận lắm vì có thể làm suy giảm tâm tình cởi mở của Mẹ trước đề nghị của Thiên Chúa, đó là lời dịch “Việc đó xảy đến thế nào được”. Đã đành có bối rối, nhưng không thể để xuất hiện một lời mang hàm ý từ chối, trong khi lời dịch “Việc đó được xảy đến thế nào” lại bộc lộ một thái độ tiếp nhận dù còn chờ giải thích rõ hơn. Tiếng Việt hay lắm. Chỉ đảo vị trí chữ “được” thôi cũng thay đổi hẳn cả ý nghĩa, ấy là chưa nói đến cách bỏ dấu: “thế nào được!” sẽ đi với dấu chấm than, trong khi “được thế nào?” sẽ gọi theo dấu chấm hỏi.

Trong lời của Đức Maria, nếu phần đầu là một nỗi băn khoăn dấu hiệu của tâm tình bối rối: “việc đó được xảy đến thế nào?”, thì phần sau lại là một lý do hàm chứa một khẳng định quan trọng: “tôi không biết đến việc vợ chồng”. Lời này cho thấy:

Trực tiếp là việc Mẹ đưa ra lý do “không biết đến việc vợ chồng”. Mà đúng thật. Trong ngôn ngữ Do Thái, động từ “biết” là một động từ đặc biệt, nó không nhằm thái độ tri thức của một chủ thể đối với một khách thể cho bằng muốn diễn tả mối liên hệ cận thân xoắn xuýt của những thể ấy với nhau đến nỗi dẫu trong thực tế vẫn phân biệt chủ khách, nhưng trong thực thể không còn phân chia khách chủ nữa. Nói đúng hơn, chủ khách đã “nên một”. Chẳng phải nói dài lời, chỉ cần lần giở mục từ “biết” trong cuốn Điển ngữ Thần học Thánh Kinh hoặc trong một vài điểm chú giải của những bộ Thánh Kinh, người ta cũng có thể hình dung được ý nghĩa đặc trưng này, cách riêng trong mối quan hệ vợ chồng.

Khi Thánh Kinh nói “Adam biết Eva” thì không chỉ hiểu là họ nhận ra nhau trong tình thân vô tư theo kiểu bài hát sinh hoạt “Gần nhau trong cho nhau yêu thương tình loài người”, mà còn phải hiểu là họ đã gần nhau nên một xương một thịt, đã gần nhau qua việc chia sẻ sự sống cho nhau và đã gần nhau để ăn đời ở kiếp với nhau. Vì thế, khi Đức Maria nói không biết đến việc vợ chồng thì chắc chắn ngài đã sử dụng động từ “biết” của ngôn ngữ Do Thái trong ý nghĩa hiện thực nhất, tức là không liên hệ thân xác với người khác phái, cho dẫu đã đính hôn với một người phái nam theo quy định của luật pháp đường hoàng.

Nhưng gián tiếp, Đức Maria lại khẳng định “tôi biết mình là một trinh nữ”, một người nữ đã chọn cho mình bậc sống đồng trinh, một người nữ đã hiến dâng đời mình để trọn vẹn thuộc về Chúa. Trong trình thuật Phúc Âm liên hệ, thánh Luca đã sử dụng từ “trinh nữ” 2 lần. “Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê gọi là Nagiarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27).

Tại sao tác giả Phúc Âm không dùng chữ “thiếu nữ” hay “thiếu phụ”? Thưa chỉ vì muốn cho độc giả nhớ lại lời các tiên tri đã từng khẳng định Thiên Chúa sẽ được trinh nữ Israel đón nhận. Nếu trong bao thế kỷ, Thiên Chúa đã phải gánh chịu những tội bất tín bất trung của dân mình nhưng đã tha thứ hết cho họ, thì khi xuống thế làm người, Người lại muốn được dân mình đón nhận với lòng trung trinh, với đức tin hoàn hảo, nghĩa là, với một cuộc đời tựa đoá hoa ẩn kín chưa hề bị chiếm hữu, và muốn biến cả đời mình thành tặng phẩm hoàn toàn hiến dâng.

Chắc hẳn khi nêu lên lý do “không biết đến việc vợ chồng”, Đức Maria đã ý thức, đã biết rất rõ về nhân thân đồng trinh của mình; nếu không, không thể hiểu được tại sao Mẹ phải bối rối trước mặt thiên sứ, tại sao Mẹ phải bối rối khi nghe những lời ngọt ngào chào kính “bà đầy ân sủng” và “bà đẹp lòng Thiên Chúa”, và tại sao Mẹ phải phản tỉnh suy tư tự hỏi mình chán rồi mới bật ra thành lời, mà lời ấy lại là một câu hỏi thăm dò tìm hiểu xin soi sáng khởi đi trong tâm là “sự biết mình”, nhưng ngoài miệng là “sự không biết đến việc vợ chồng”.

3. Để nên như hành trình đáp trả ơn gọi

Những ghi nhận nêu trên cho thấy trong lời đầu của Đức Maria đã hàm chứa cả một nghịch lý mang màu biện chứng giữa biết và không biết cả trên bình diện tri thức lẫn bình diện hiện thực, tương tự như biện chứng của thánh Phanxicô Khó Khăn giữa quên mình và gặp lại mình.

Nếu châm ngôn “Không nên nói hết những gì mình biết, mà nên biết hết những gì mình nói” là lời phổ cập cho hết mọi người, thì xem ra càng đúng hơn với trường hợp của Đức Maria với câu nói đầu tiên này: Mẹ biết hết những gì Mẹ nói. Đây không chỉ là phong cách đời sống mà xem ra đã là cốt cách của Mẹ trong cả cuộc đời dấn thân đón lấy hồng ân Chúa gửi và nhận lấy sứ mạng Chúa trao.

Nói “không biết đến việc vợ chồng, vì Mẹ biết mình là một trinh nữ” hay nói “biết mình là một trinh nữ, nên Mẹ không biết đến việc vợ chồng”, cách nào cũng không thay đổi ý nghĩa. Nghĩa minh nhiên hàm chứa nghĩa mặc nhiên, và nghĩa mặc nhiên làm điều kiện cho nghĩa minh nhiên. Biện chứng là thế và nghịch lý cũng là thế. Vừa là trinh nữ, vừa là mẹ; là trinh nữ mà vẫn sinh con; là mẹ mà vẫn ngàn đời trinh khiết.

Luôn luôn các biến cố đời Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu đều được xây dựng trên nền của cái thế đong đưa biện chứng giữa biết và không biết ấy. Chả thế mà trong trình thuật đời thơ ấu của Chúa Giêsu với những biến cố dồn dập, bao giờ cũng thế, thánh sử cẩn thận ghi lại tư thế của Đức Maria là: “ghi nhớ và suy niệm trong lòng”. Tại sao vậy? Phải chăng vì Mẹ ít nói hay nói ít, cả Phúc Âm chỉ ghi lại bảy lời? Phải chăng vì Mẹ thích suy tư phản tỉnh trước mọi tình huống, hay vì Mẹ trầm tĩnh đắm mình trong biện chứng đong đưa giữa sự kiện và mầu nhiệm, giữa những gì rõ mười mươi trước mắt và những gì còn ẩn khuất bên trong, nói tóm lại, giữa biết và không biết? Ghi nhớ những việc xảy ra, vì Mẹ biết rõ mồn một; và suy niệm trong lòng vì Mẹ chưa biết hết ý nghĩa của từng việc, nhất là khi kết nối những việc ấy lại trong nhãn giới cứu độ. Ghi nhớ vì đã là kinh nghiệm thuộc về quá khứ; và suy niệm trong lòng vì việc đó còn là kinh nguyện cho tương lai. Ghi nhớ là kho tàng chất chứa những gì đã biết, còn suy niệm trong lòng là kho tàng để dành những gì hôm nay chưa biết hết nhưng sẽ được khám phá dần dần vào những ngày sắp đến tiếp theo.

Lấy ví dụ biến cố Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, người ta sẽ hiểu hơn về lối sống trong tinh thần biết mình của Đức Maria. Khi biết mình phải chu toàn lễ thanh tẩy vì mới sinh con và phải thánh hiến con đầu lòng cho Thiên Chúa theo quy định của lề luật, Đức Maria đâu có ngờ gặp cụ ông Simêon và nghe ông cụ móm mém hát bài ca an bình ra đi. Nghe mừng mừng tủi tủi. Tính biện chứng giữa biết và không biết của biến cố cũng được trải ra thật rõ ở đây. Đức Maria biết mình phải dâng con phút đầu đời, nhưng không biết con mình cũng nên quà tặng cho những người phút cuối đời nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu đang được ẵm bế trong vòng tay mình, nhưng không biết trẻ ấy còn được trao cho những vòng tay khác nữa; Đức Maria biết trẻ Giêsu Hoàng Tử hoà bình, nhưng lại không biết trẻ thánh còn nên duyên cớ cho nhiều người Israel ngã xuống hoặc đứng lên; Đức Maria biết mình đang ôm ấp trẻ Giêsu hạnh phúc, nhưng không biết trẻ ấy sẽ còn thành dấu hiệu cho người đời chống báng; Đức Maria đã biết nhiệm vụ nuôi nấng chăm sóc trẻ Giêsu, nhưng làm sao biết được mầu nhiệm của lưỡi gươm sẽ đâu thấu tâm hồn.

Tóm lại, tìm hiểu lời đầu tiên của Đức Maria trong Phúc Âm theo kiểu chẻ sợi tóc ra làm tư sẽ dẫn ta đến một nhận thức: biết mình là một bước quan trọng trong hành trình đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa.

Biết mình là bước đầu thật cơ bản làm tiền đề cho những bước tiếp theo. Nếu bước đầu biết đắn đo, những bước sau sẽ không phải lo nghĩ nhiều. Đầu xuôi đuôi lọt mà. Nhưng nếu bước đầu đã buông trôi, chẳng mong gì những bước sau sẽ vững chãi. Biết mình cũng là cả một hành trình biện chứng giữa biết và không biết. Nếu biết là chính đề thì không biết là phản đề, và hợp đề là những kinh nghiệm rồi quyết tâm đilên theo một bước biện chứng mới. Nơi Đức Maria, biết mình còn là một lối sống luôn luôn rộng mở để ghi nhớ và suy niệm trong lòng, để lắng nghe và thực hành lời Chúa. Đức Hồng Y Fulton Sheen, trong bộ sách nổi tiếng “Từ đỉnh cao Thập giá”, đã khéo nối kết lời đầu của Chúa Giêsu trên Thánh giá với lời đầu của Đức Maria trong Phúc Âm để nêu cao nhận định về nét tích cực trong việc không biết. Chúa Giêsu xin Cha mở lòng tha thứ cho lý hình vì họ không biết việc họ làm; Đức Maria mở lòng cho ý định của Thiên Chúa vì Mẹ không biết đến việc vợ chồng. Cả trong lời của Chúa Giêsu và lời của Đức Mẹ, sự không biết đã bật mở ra những câhn trời mới của hồng ân. Càng biết mình bao nhiêu, càng biết Chúa bấy nhiêu; và ngược lại, càng biết Chúa bao nhiêu, càng biết mình bấy nhiêu.

II. LINH MỤC VÀ VIỆC BIẾT MÌNH

Nhìn vào Đức Maria qua lời đầu tiên của Mẹ, ta đã thấy sáng lên không chỉ một phản ứng cấp thời, mà còn cả một chiều dài của lối sống đức tin. Ánh sáng ấy đã dẫn Đức Mẹ tiến bước theo Chúa Giêsu trên đường cứu độ. Chậm mà chắc. Nhưng ánh sáng ấy sẽ chiếu dọi điều gì trên đời sống của linh mục hôm nay?

1. Biết mình

Ngay từ những năm đầu của Đại chủng viện, qua ban Triết học, mỗi đại chủng sinh đã được làm quen với một phương pháp quan sát suy tư thuộc loại hàng đầu nếu muốn bước sâu tiến xa vào lầu đài triết học, đó là phương pháp nội quan: mình quan sát mình, mình nhìn vào mình để có những phản tỉnh và nhận thức về chính mình. Nhớ lại hồi ấy, khi cha giáo nêu ra dẫn chứng là câu “Connais-toi, toi-même” (Hãy biết mình) được ghi trên cổng đền thờ hy lạp nào đó, thú thật chủng sinh chẳng hiểu gì nhiều, cứ như lời cảnh báo xa gần của cha giám luật về hạnh kiểm cuối năm hoặc như lời giảng giải xét mình của cha linh hướng mỗi lần cử hành bí tích hoà giải. Thế nhưng, nghe riết rồi thấm; làm riết rồi quen, để khi lãnh chức linh mục đã thấy hình thành trong mình tự thuở nào một phương pháp suy tư phản tỉnh.

Rồi khi thi hành nhiệm vụ linh mục, ngày từng ngày, những lúc xét mình, những khi sám hối, những phút hồi tâm, những giờ linh hướng đã tích luỹ nơi mỗi linh mục một thứ hành trang không thể thiếu được, dẫu chẳng phơi bày, đó là việc biết mình. Cũng như nơi Đức Maria, biết mình nơi từng linh mục ảnh hưởng lên lối sống và nhất là hình thành nơi người mục tử một bản lĩnh đức tin.

Một linh mục đã nghỉ hưu nhưng còn khoẻ khoắn lắm, vẫn thường có mặt trong mọi sinh hoạt của Giáo Phận có lần đã chia sẻ kinh nhgiệm với các linh mục trẻ rằng: Nếu mỗi ngày sống trọn vẹn những phút hồi tâm sáng trưa chiều tối, đời sống linh mục sẽ khoẻ lắm. Nghe trong lời chia sẻ chân thành ấy, người ta hiểu xét mình chính là một cách biết mình không thể thay thế, để tiến triển trên đường nên thánh.

Nhưng linh mục biết mình đâu chỉ là biết một mình theo kiểu “một mình mình biết một mình mình hay” mà còn là biết mình trong tương quan với người khác qua việc đối nhân xử thế. Nếu cụm từ “chỉ biết mình” mang một nghĩa xấu diễn tả tính ích kỷ bo bo một mình, thì cụm từ “biết mình biết người” lại bộc lộ tính khôn khéo của kẻ thành công được lòng mọi người, vừa khôn trong tính toán, vừa khéo trong tương giao. Linh mục được sai đến một giáo xứ để phục vụ, dẫu làm việc hết mình, chẳng ai cầu toàn rằng mình được hết mọi người quý mến, nhưng thiết tưởng với châm ngôn “biết mình biết người” hướng dẫn cách cư xử, linh mục sẽ tìm được sức mạnh nâng đỡ để nếu gặp khó khăn cũng dễ vượt lên, gặp truân chuyên cũng dễ khắc phục và nếu có gặp sung túc cũng dễ chia sẻ giúp đỡ người khác. Ngày nào còn biết mình, ngày ấy còn hy vọng để tâm hồn thăng hoa; nhưng chẳng may một khi không còn biết mình đầy đủ nữa, linh mục sẽ vô tình dẫn vào đời mình một cách sống xa lạ với chính mình, một lối sống xa rời xã hội và ngại hơn nữa là một đời sống xa lìa lý tưởng hiến dâng và phục vụ. Trong ngôn ngữ hiện nay, người ta gọi đó là “đánh mất mình”.

Một linh mục trẻ vừa được thuyên chuyển chỉ vì quá mê vi tính, tối ngày khép mình không tiếp xúc với ai, quên cả ngủ ngáy, quên cả lễ lạy, không còn biết mình là linh mục được sai đi để phục vụ nữa. Khổ.

Biết mình sẽ giúp linh mục định vị được mình giữa mớ bòng bong đa chiều của những phận vụ đạo đời. Cha phụ tá nào được sai đến giúp một cha sở ở một giáo xứ nhất định và biết mình trong vị trí đó, ắt hẳn sẽ có những cư xử đúng mực. Phụ tá không phải phụ tá cho một giáo xứ mà cho một cha sở vốn là “chủ chăn riêng của một nơi” theo Giáo luật, nên không nóng vội coi mình bằng vai phải lứa với cha sở, để lên mặt cho mình gần gũi với giáo dân hơn cha sở hoặc lên máu hăng say qua mặt ngài trong mọi việc. Nhiều vị phụ tá nghĩ đơn giản rằng mình với cha sở đều là linh mục cả, nên đâu phải giữ khoảng cách làm gì. Nghe có vẻ thuận lý và thường được một số giáo dân tâng bốc đồng tình, nhưng như thế là không biết rõ về vị trí của mình. Xin nhớ cho rằng phần lớn những thất bại của các cha phụ tá là ở điểm này.

Cha sở nào có cha phụ tá và biết mình trong vị trí cha sở, ắt cũng có những cách chăm sóc thắm tình dành cho cha phụ tá của mình. Những tháng năm làm phụ tá cho những cha sở như thế sẽ trở thành kỷ niệm khó quên. Đước Giáo Hoàng Piô X luôn coi những năm làm phụ tá cho cha sở Costantini ở Tombolo là những năm hạnh phúc trong đời linh mục của ngài. Nơi cha sở, ngài nhìn được gương sáng đạo đức, ngài gặp được tấm lòng nhân hậu và ngài còn được chỉ dẫn tận tình về những công việc mục vụ. Phần đông các cha sở hôm nay đều hân hoan đón nhận cha phụ tá vàhết lòng nâng đỡ các ngài trong mọi việc để nên gương sáng cho giáo dân. Nhiều giáo dân rất ngưỡng phục mẫu gương ấy khi thấy đi đâu cha phụ tá cũng đèo cha sở mình trên chiếc Honda. Nhưng đó đây vẫn còn một số vị chưa coi các cha phụ tá như người cộng sự, như người hợp tác làm việc trên cùng cánh đồng dân Chúa, thậm chí có vị còn coi cha phụ tá của mình như một gánh nặng chẳng đặng đừng.

Một cha sở hiền hoà ở một giáo xứ lớn vừa được giám mục gỡ đi cha phụ tá đã tâm sự rằng: ở một mình làm việc vất vả nhưng vui vẻ; có cha phụ tá việc nhẹ nhàng hơn nhưng cuộc sống không vui. Chỉ vì cha phụ tá không biết vị trí của mình. Một cha phụ tá trẻ trung ở một giáo xứ lớn khác thường bị anh em cùng khoá chọc ghẹo là “linh mục ôsin” lại than thở rằng: cuộc sống ở xứ như ở đợ, cha sở bắt làm lễ nợ, cả năm cho ăn chứ không cho bổng lễ. chuyện khó tin nhưng có thật. Chỉ vì cha sở không biết vị trí của mình.

Những mảng sáng tối trong đời sống được nêu lên chỉ muốn khẳng định rằng: từng người biết mình, cuộc sống sẽ bình an ổn định; từng linh mục biết mình, cuộc đời sẽ bản lĩnh và hạnh phúc. Giống như trong thân thể từng bộ phận chu toàn phận vụ của mình, chủ nhân của thân thể ấy sẽ có sức khoẻ tốt làm điều kiện cho một đời sống hài hoà. Kinh nghiệm thường thức cũng xác nhận điều này: người táo bón thường hay cau có, kẻ mập mạp thường khó đi nhanh.

2. Linh mục và lời “tôi biết”

Biết mình trong tương quan với chính mình hoặc trong tương quan với người khác đã là những cách tích cực, nhưng linh mục trong nhịp sống thiêng liêng, chỉ có thể biết mình rõ nét khi đặt mình trong tương quan với Chúa. Chính ở đây, câu hỏi “linh mục là ai?” được nêu lên và mong ước trong tinh thần biết mình mỗi người sẽ đưa ra những câu trả lời xác định.

Linh mục trước hết là người thuộc về Chúa Kitô. Thực ra, theo định nghĩa cơ bản, là kitô hữu, ai mà chả thuộc về Chúa Kitô. Nhưng linh mục thì khác, biết mình thuộc về Chúa Kitô là Đầu, được chọn gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và cũng để làm việc trong tư cách của Chúa Kitô, in personna Christi Capitis. Lời khẳng định này linh mục nào mà chả biết. Thế nhưng từ biết chung chung trong học thuyết đến biết thuần nhị cá nhân để có thể khẳng định “tôi biết” lại là một khoảng cách không nhỏ. Thật vậy, biết mình thuộc về Chúa Kitô không dừng lại trong nhận thức mà còn trải ra thực hành, từ thực hành nhỏ đến thực hành lớn, từ thực hành một ngày đến thực hành một đời.

Qua những nỗ lực không ngơi nghỉ hướng về Chúa Kitô, linh mục quy chiếu mọi khoảnh khắc và công việc trong phận vụ mình vào đời sống Chúa Kitô để có sự hoà điệu thánh thiêng cần thiết mà diễn tả tính khả tín cũng như khả ái của sứ vụ được trao. Nói rằng mình thuộc về Chúa Kitô mà đời sống không quy hướng về Chúa Kitô để dựng xây thì e rằng đã làm giảm thiểu tính khả tín trong sứ vụ; ngược lại những ý mình nghĩ những lời mình nói những việc mình làm biết quy hướng về Chúa Kitô sẽ cho thấy một khuôn mặt khả ái của linh mục ở giữa cộng đoàn. Giáo dân hôm nay xem ra rất bén nhạy về khía cạnh này. Ở đây tâm tình của thánh Phaolô cũng phải là tâm tình của mỗi linh mục: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nữa, chính Chúa Kitô sống trong tôi”.

Và rồi, như ngựa chạy đường dài sẽ có ngày thấm mệt, linh mục trong đời cũng có những lúc đàn lỡ nhịp hoặc chùng dây không còn tấu lên điệu khúc dâng hiến như mộng ước ban đầu, những lúc ấy nhận thức mình thuộc về Chúa Kitô lại là một sức mạnh đem lại hy vọng để vươn lên tìm về với Chúa Kitô mà nhận lại sự sống. Như vậy, thuộc về Chúa Kitô là những nét cơ bản giúp linh mục soi bóng để biết mình.

Nhưng linh mục dầu thiện chí đến đâu cũng không tự mình có thể dấn thân vào đường sứ vụ. Sứ vụ phải được trao và được nhận, vì thế cùng với ý thức mình thuộc về Chúa Kitô, linh mục cũng biết mình thuộc về Giáo Hội. Giáo Hội phổ quát là cả một kho tàng mênh mông ơn thánh, nhưng Giáo Hội địa phương nơi mình được sai đến mới là trọn vẹn tấm lòng gửi trao và cuộc đời thể hiện. Nếu trong đời sống dân sự, không thể có một công dân không quốc tịch, thì trong đời sống tôn giáo, cũng không thể có một linh mục trên không chằng dưới không rễ lông bông lang thang khắp nơi mà chẳng chịu nhập tịch vào Giáo Phận nào. Linh mục mà không thuộc về Giáo Hội địa phương nào thì không còn là linh mục đúng nghĩa nữa. Vì thế khi trả lời cho câu hỏi “linh mục là ai?” thì cũng là lúc khẳng định mình thuộc về Giáo Hội nào, nếu không sẽ có nguy cơ sống kiểu bèo giạt mây trôi vừa đánh mất mình vừa không nêu gương sáng cho người khác. Linh mục thuộc về Chúa Kitô nên cũng thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô để nhận lấy trách vụ làm việc cho Chúa Kitô. Như Đức Maria, linh mục biết mình là người của hồng ân và sứ mạng, nên luôn ghi tâm khắc cốt: hồng ân Chúa ban, dấn thân theo đuổi, dong duổi một đời.

3. Linh mục và lời “tôi không biết”

Những khẳng định mình biết sẽ dẫn tới những lãnh vực mình khong biết nơi đời linh mục, vừa như một thái cực ngược lại để đối chiếu, vừa như một liệt kê tương phản để nỗ lực vượt qua.

Trước hết là lãnh vực tình cảm. Người ta bảo khác với đàn bà, trái tim đàn ông có nhiều ngăn lắm, mỗi ngăn dành cho một đối tượng theo thứ tự ưu tiêu. Không biết có đúng không? Khổ nỗi linh mục cũng là đàn ông, nên xin mượn hình ảnh ấy để minh hoạ. Trái tim linh mục cũng có nhiều ngăn: ngăn dành cho Chúa Kitô và Giáo Hội; ngăn dành cho gia đình ruột thịt mẹ cha, rồi đến ngăn bao la dành cho già trẻ lớn bé bạn bè cộng sự. Lý ra những ngăn ấy được xếp theo thứ tự ưu tiên, nhưng nhiều khi lu bu tình Chúa tình người hoặc cả nể yêu người như mình ta vậy, những ngăn đó cứ bị đảo tung lên, sự việc đổ bể khiến mình bị thương tứ bề. Bị thương theo cả hai nghĩa: bị thương mến kiềm toả bủa vây và bị thương tổn danh dự khó vớt vát được.

Về tình yêu nam nữ, theo lý thuyết linh mục chẳng yêu riêng ai và cũng chẳng có ai làm của riêng cho mình, nhưng trên thực tế hành trình của động từ yêu nơi đời linh mục rối rắm khó lý giải lắm. Con tim có lý lẽ của nó. Có khi mới đầu chỉ là tình bạn giúp đỡ hỗ trợ một việc già đó, rồi dần dà thân thiết mọc cánh yêu thương; vẫn biết nam nữ thọ thọ bất thân, mà làm sao lại cứ cọ có rất thân không dứt ra được. Khổ. Có khi lúc đầu chỉ là tình cha con đỡ nâng dắt dìu dạy dỗ, rồi lâu ngày cô bé lớn lên bỗng muốn được dặt dìu tay đỡ tay nâng dạy ít dỗ nhiều, nên linh mục cũng khó tránh khỏi lưới giăng.

Kể ra thì nhiều lắm, vả lại cũng không cần thiết. Có điều là trong lãnh vực này, mỗi linh mục quyết tâm khảng khái như Đức Maria: “Tôi không biết đến việc vợ chồng”.

Một lãnh vực khác cũng cần linh mục nói lời “tôi không biết”, đó là lãnh vực tiền bạc. Tất nhiên, tiền bạc ai mà không cần. Có tiền mới có thể trang trải chi phí cho đời sống được, có tiền mới làm việc bác ái được, có tiền mới xây dựng mở mang cơ sở vật chất được. Nhưng cần tiền thì khác, còn dính bén đến tiền bạc thì khác.

Nhiều linh mục ở những giáo xứ rất giàu, nhưng cuộc sống riêng tư lại rất đạm bạc, chẳng màng chi của cải. Tiền bạc đi đâu? Thưa ngài dùng tiền chung để góp phần phát triển đời sống xứ đạo và giúp đỡ giáo dân cũng như những người nghèo khó. Giáo dân ở đó rất quý rất trọng ngài như người cha có trái tim người mẹ. Ngược lại, có một vài linh mục có những biểu hiện khác thường đối với tiền bạc, chẳng những quý tiền lại còn mê làm tiền nữa. Xây thì ít cất thì nhiều, khiến đời sống xứ đạo mỗi ngày mỗi tẻ nhạt. Trong câu chuyện sau lưng, giáo dân thường bảo cha chỉ thích những nhà mặt tiền thôi. Gặp ai cha cũng than thở mình túng thiếu, nhưng đến khi bị mất trộm, người ta mới biết cha bị mất cả bạc tỷ kìa. Một vài linh mục khác nữa lại rơi vào vòng luẩn quẩn tiền tình, cho cô này mượn một ít, cho cô kia giữ một ít, đến lúc có việc chung muốn lấy lại không được. Bắc thang lên hỏi ông trời, có tiền cho gái có đòi được không?

Cuối cùng là lãnh vực quyền bính vốn là lãnh vực ít nhiều các linh mục phải hành xử trong sinh hoạt mục vụ điều hành giáo xứ. Ngoài những quyền thuộc diện quản trị điều khiển điều phối được quy định trong giáo luật và theo hướng dẫn của giáo phận mà linh mục nào cũng phải biết và biết chắc, còn có một số thẩm quyền được xem xét và hành xử tuỳ theo nhãn quan của mỗi mục tử trong những tình huống cụ thể nhằm lợi ích cho các linh hồn. Nhưng chính đó lại là những kẽ hở nhiều khi mở cho tính khí tác động làm nhạt nhoà đi mục đích cứu rỗi để chỉ còn là một biện pháp chế tài gây buồn lòng cho người trong cuộc và gây buồn cười cho khách bàng quan.

Chẳng hạn như một cha sở nọ quy định chỉ xức dầu cho các bậnh nhân vào chiều ngày thứ sáu đầu tháng, nên nhà nào có người đau yếu muốn nhận bí tích này phải báo trước cho ngài biết để ngài sắp xếp đến tận nhà. Ai không giữ quy định này thì đừng mong ngài phục vụ. Rủi có một người đau bất thình lình xin ngài ban bí tích sau hết bị từ chối và đêm ấy người ta mất, thế là cả nhà người ta ca thán giận hờn. Không bào chữa được. Có một cha sở khác chỉ vì mong muốn cho giáo xứ thăng tiến về mặt đạo đức, đã dùng bí tích giải tội như một biện pháp chề tài một giáo dân có gương xấu trong giáo xứ. Ngài công khai cấm ông ta sáu tháng không được xưng tội rước lễ, ông ta tức khí đứng lên bảo cho cha một năm luôn cho chẵn. Dở khóc dở cười. Mong rằng mỗi linh mục chúng ta biết nói không với những loại thẩm quyền mong manh ấy.

Tóm lại, lời đầu tiên của Đức Maria là một lời khẳng khái biết mình “không biết việc vợ chồng”, để trở nên lối sống gương mẫu vượt lên những nghịch lý biện chứng giữa biết và không biết trong đời của Mẹ, đồng thời cũng là lời dọi sáng trên đời sống của mỗi linh mục trong dịp tĩnh tâm. Mong rằng những gì linh mục biết về căn tính của mình sẽ nên nguồn lực giúp linh mục từ chối không biết đến những lãnh vực xa lạ với căn tính ấy, để đừng như bài hát “vì tôi là linh mục” vớ vẩn vẩn vơ vô vọng, mà sẽ trở thành lời kinh xác tín như thánh Phanxicô Khó Khăn “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” hay như bài báo của một GMVN “xứng đáng là biết mình bất xứng”.
(còn tiếp)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Góp Ý Tại Cuộc Họp Mặt Thế Giới Các Gia Đình
Vũ Văn An
00:51 16/01/2009
Các Góp Ý Tại Họp Mặt Thế Giới Các Gia Đình

Cuộc Họp Mặt Thế Giới Các Gia Đình đã chính thức diễn ra tại Mexico, quốc gia đứng hàng thứ hai trên thế giới về số người Công Giáo, nơi, như Đức Hồng Y Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Hoàng Về Gia Đình quả quyết, gia đình rất được tôn trọng, dù đang kinh qua nhiều khó khăn do hiện tượng di dân, trong đó, nhiều gia đình bị phân tán vì công ăn việc làm ở ngoại quốc.

“Nối Kết” mà không nối kết

Một trong các diễn giả đầu tiên lên tiếng tại Cuộc Họp Mặt là nhà triết học Chí Lợi, Jaime Antúnez, giám đốc tập san văn hóa và nhân học Humanitas. Ông cho rằng: tuổi trẻ ngày nay đang thủ đắc thói quen được “nối kết”, nhưng là nối kết với liên mạng (connected to the internet). Loại nối kết này hoàn toàn không đồng nghĩa với thông đạt, đối thoại.

Bài tham luận của ông đề cập đến các giá trị chân thực, xét xem trên căn bản nào ta có thể khẳng định một hành vi nhân bản là tốt hay xấu, một tác phong là công chính hay bất chính, một sinh hoạt nào đó là đúng đắn hay sai lầm.

Theo Antúnez, trong xã hội hiện đại, ngôn ngữ liên hệ tới luân lý đang hết sức lộn xộn. Ông cho rằng tuy người ta dùng cùng một từ ngữ, nhưng ý nghĩa của từ ngữ này phần lớn đã mất đi, cả trong lý thuyết lẫn thực hành luân lý.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Hãng Tin Zenit, được hỏi có phải gia đình, một thực thể đáng lý ra phải là nhà giáo dục chính về các giá trị, đang mất đất đứng đối với giới truyền thông đại chúng trong phạm vi giáo dục các giá trị hay không, Antúnez nói rằng sự việc quả có tệ đi kể từ ngày Đức Gioan Phaolô II công bố lá “Thư Gửi Các Gia Đình” vào năm 1994.

Ông bảo: chỉ cần xem sự lệ thuộc mỗi ngày một gia tăng của giới trẻ ngày nay vào các phương tiện truyền thông điện tử là thấy. Dĩ nhiên các phương tiện truyền thông này đem lại nhiều ích lợi, nhưng điều đáng lo là thói quen chỉ biết sống “nối kết” với chúng. Vì điều ấy dẫn tới các hệ quả phi nhân hóa rõ ràng, bằng cách loại bỏ lối sống “thông đạt” có tính tự nhiên và bản vị, vốn là đặc điểm của xã hội nhân bản. Thứ nối kết kia mỗi ngày một trở nên phi bản vị, vừa là chất xúc tác vừa là triệu chứng của cô độc trong lối sống của con người hiện đại, nhất là giới trẻ.

Gia đình là trường dạy yêu thương

Trong khi đó, Helen Alvaré, giáo sư luật tại Đại Học George Mason, trong bài phát biểu tại Cuộc Họp Mặt này vào ngày 14 tháng 1, cho hay: Gia đình là trường dạy yêu thương. Bà cũng chủ trương rằng tôn trọng sự sống phải bắt đầu từ trong gia đình. Tựa đề bài phát biểu của bà là: Gia Đình và Các Giá Trị của Sự Sống Con Người (Family and the Values of Human Life).

Helen Alvaré cũng tham vấn cho Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân và là giám đốc kế hoạch và tín liệu trong Văn Phòng Thư Ký về Các Sinh Hoạt Phò Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ trong các năm 1990-2000.

Trong bài nói truyện trên, bà đề cập tới “cuộc khủng hoảng thực sự về mâu thuẫn” giữa các giáo huấn của Giáo Hội liên quan tới sự sống và “các chính sách cũng như ngôn từ cuả các chính phủ hay cơ quan quốc gia và quốc tế có thế lực”

Bà cũng cho rằng hiện có cuộc khủng hoảng tương tự trong trái tim nhiều người đàn ông, đàn bà và các cặp vợ chồng, những người càng ngày xem ra càng tin rằng lý do và cả các ưu tư riêng của họ đủ để biện minh cho việc họ từ khước việc tiếp nhận thêm một sự sống nhân bản mới.

Bà cho rằng hố phân cách “đáng báo động” đang xẩy ra giữa lời kêu gọi của Giáo Hội phải tôn trọng ‘ngôn ngữ thân xác’ và ơn phúc sự sống con người, và các chủ trương của các nhóm và các chính phủ có ảnh hưởng về hôn nhân và con cái.

Hố phân cách này sở dĩ có là vì người ta không đánh giá đúng mức và đầy đủ ý nghĩa của chính sự sống, vốn là yêu thương phục vụ, chết cho bản thân như con đường tự “tìm thấy mình”

Helen Alvaré xác tín rằng đối với đại đa số, gia đình là nơi ta học biết yêu thương hay không. Trong các thời kỳ phát triển chủ yếu trước tuổi thiếu niên, nếu, từ chính gia đình, ta không hiểu được các nội dung của thứ tình yêu đầy chú tâm, gây an ổn, và sẵn sàng hy sinh, thì chắc chắn ta sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể nào, vươn tới được thứ tình yêu biết cho và biết nhận. Gia đình là trường dạy tình yêu vì hơn đâu hết, gia đình không mệt mỏi trong việc “ra bài” về đề tài cho và nhận yêu thương ấy.

Còn về hôn nhân, theo Alvaré, nó giúp ta nắm được giá trị và ý nghĩa của việc phụ tạo (procreation); ta thấy ta được tham dự vào kỳ công trong đó tình yêu của ta sản sinh ra sự sống mới. Các hoàn cảnh có liên quan và tạo thành cuộc hôn nhân biến nó thành một nơi hân hoan chào đón sự sống mới ấy. Trong hôn nhân, ta tìm thấy sự cam kết lâu dài, rất cần thiết cho việc nuôi dưỡng các hài nhi nhân bản trở thành những người trưởng thành, vì những hữu thể này rất chậm lớn khôn..

Trong hôn nhân, ta cũng tìm được sự ổn định lớn hơn về kinh tế, hệ thống đại gia đình sẵn sàng trợ giúp các thành viên mới làm cha mẹ, và sự hài lòng của xã hội đối với việc cặp vợ chồng mới được dẫn khởi vào con đường hy sinh, đặt kế hoạch lâu dài và chăm sóc cho các thế hệ tương lai.

Các bài học về sự sống

Nữ Giáo Sư Luật Alvaré cho rằng gia đình cũng là nơi cá nhân học được nhiều bài học qúy giá về sự sống. “Gia đình là nơi lần đầu tiên ta thấy có sự bắc cầu giữa nam và nữ, giữa già và trẻ, và giữa các nhân cách khác nhau. Trong vòng thân mật của cho và nhận giữa các thành viên trong gia đình, ta học cách mô phỏng các đặc điểm hay các tài năng của phái nam hay phái nữ. Ta cũng học được ý nghĩa của thoả hiệp, của hy sinh và chia sẻ. Ta còn học được tôn giáo ‘tròn méo’ ra sao lúc được đem ra sống thực. Văn hóa và các giá trị được lưu truyền, vốn liếng xã hội được trao đổi, và các kỹ năng thực tiễn cần thiết cho ta sống tự lập được thủ đắc. Trong gia đình, nhờ cảm nghiệm bằng chính thân xác, tâm trí, xúc cảm và tâm linh, ta học hỏi được mối liên hệ giữa tình yêu trưởng thành và ơn phúc có con. Bất kể chuyện đó xẩy ra thường xuyên bao nhiêu trong lịch sử, ai cảm nghiệm được nó cũng đều hết sức thán phục. Không lạ gì, như chính Đức Gioan Phaolô II thường nói, gia đình chính là nơi ta thoáng nhìn thấy lần đầu và là lần quan trọng nhất đặc tính và phẩm tính của tình yêu Thiên Chúa”.

Tôn trọng sự sống

Cuối cùng, Alvaré cho rằng gia đình là nơi ta có thể hàn gắn được sự chia rẽ chính trị giữa những người chủ trương tôn trọng sự sống và những người cổ vũ phải sống cuộc sống đáng sống.

Bà nói: tại Mỹ, bà thường hay nói về nhu cầu phải mở rộng trí tưởng tượng luân lý để những ai dễ dãi lên án các bất công họ thấy được như bạo lực, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị phái tính v.v… hiểu rằng bất công cũng đang xẩy ra tại những nơi họ không trông thấy như trong các bệnh xá phá thai, và trong các bể chứa hàng ngàn hàng vạn các ‘phôi thai dự trữ’. Bà tự hỏi không biết có thông điệp nào hay một mớ thông điệp nào đảm bảo sẽ mở mắt để người ta thấy trọn bộ các chính nghĩa nhân danh sự sống con người hay không. Và bà thấy: thay vì một thông điệp, có lẽ có một nơi chốn, một nhóm người và một lối sống có thể làm việc ấy hay hơn một thông điệp. Nơi ấy chính là gia đình. Vì “gia đình, nơi tự động quan tâm đến cả tính thánh thiêng của sự sống lẫn phẩm giá của nó, có thể và sẽ làm trung gian cho việc tôn trọng sự sống nhân bản ở mọi thời gian và mọi điều kiện một cách hay hơn bất cứ công thức văn tự nào. Trong gia đình, ta thực hành việc yêu thương những con người nhân bản trong tính toàn bộ của họ, cả thân xác, linh hồn, tài năng, hứa hẹn lẫn hy vọng của họ, và ta yêu thương những con người ấy ngay từ giây phút hiện hữu đầu hết cho đến giây phút cuối cùng của họ. Ta không nói ta chỉ muốn người phối ngẫu hay con cái hay mẹ ta có sự sống mà thôi chứ không có phẩm giá, hay có phẩm giá mà thôi chứ không có sự sống”.

Nhiều sắc tộc, một gia đình

Trong một phỏng vấn khác với Zenit, phát ngôn viên của Hội Nghị Thần Học và Mục Vụ trong khuôn khổ Cuộc Họp Mặt Thế Giới Các Gia Đình là Cha Rafael Jácome, thuộc Đạo Binh Chúa Kitô, cho hay ngày đầu tiên, Hội Nghị đã phá kỷ lục so với các hội nghị trước đây, với hơn 10,000 người tham dự. Bầu không khí tràn đầy niềm vui, hứng khởi và huynh đệ gồm đủ mặt các sắc tộc, quốc tịch đến từ năm châu.

Họ tới đại sảnh đường để cùng với Đức Hồng Y Francisco Robles Ortega, Tổng Giám Mục Monterrey, đọc “lectio divina”. Sau đó không lâu, xuất hiện ĐHY Ennio Antonelli, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân, ĐHY Norberto Rivera Carrera, TGM Mexico, Đức Cha Carlos Aguiar Retes, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Mễ Tây Cơ, và Tổng Thống Mễ Tây Cơ, Ông Felipe Calderón và phu nhân Margarita Zavala.

Theo cha Jácome, Cuộc Họp Mặt Các Gia Đình lần này sẽ có ba sứ điệp được thảo luận: gia đình là thầy dạy các giá trị nhân bản, tầm quan trọng của chứng tá cha mẹ trong việc sống với nhau và thông đạt, và nhu cầu cần cổ vũ các luật lệ nhằm củng cố và thăng tiến gia đình.

Cha cho hay: trong diễn văn của mình, ĐHY Antonelli nhận định rằng gia đình là ưu tiên quyết định đối với tương lai xã hội và Giáo Hội. Còn Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI thì đặt trọng tâm huấn quyền của Ngài trên việc cổ vũ các giá trị nhân bản và Kitô Giáo trong nền văn hóa hậu hiện đại, hiện đang bị chủ nghĩa duy cá nhân và duy tương đối tấn phá.

ĐHY Rivera Carrera thì nhận định rằng ta đang đương đầu với một thế giới phi bản vị hóa, và hiện đang thiếu tình liên đới. Chính vì thế, gia đình là một hồng ân cho xã hội con người để xã hội này tiến bước theo các giá trị tâm linh và nhân bản.

Còn Đức Cha Aguiar Retes thì dựa vào tài liệu Aparecida mà nói theo bài diễn văn khai mạc của Đức Thánh Cha trong Hội Nghị ấy rằng gia đình là của gia bảo của nhân loại, là trường dạy đức tin, là vũ đài của các giá trị nhân bản và công dân, là tổ ấm nơi gia đình nhân bản phát sinh và được chào đón một cách có trách nhiệm.

Về phần mình, Tổng Thống Caderón nhận định rằng vai trò của gia đình là đào tạo và lưu truyền các giá trị nhân bản, xã hội và chính trị, nhờ thế, người ta học được ơn gọi phục vụ người khác, biết tôn trọng, biết khoan dung và biết liên đới..

Luật lệ hiện hành phản ảnh sự mơ hồ về đàn ông, đàn bà

Đức Hồng Y Marc Ouellet, TGM Québec, nhân vật rất nổi trong Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa vừa qua, cũng đã lên tiếng trong ngày đầu tiên của Cuộc Họp Thế Giới Các Gia Đình. Theo ngài, cuộc khủng hoảng gia đình không phải chỉ là vấn đề luân lý; nó nằm sâu hơn và bắt nguồn từ việc hiểu lầm về bản chất đích thực của đàn ông, đàn bà.

Ngài nói tới cảnh vô trật tự về giá trị, như việc nhiều quốc gia ban hành các đạo luật nhìn nhận hôn nhân đồng tính, còn cho phép họ nhận con nuôi. Theo ngài, cuộc chiến văn hóa này bao hàm một quan điểm về thế giới không Thiên Chúa nhằm thay thế gia tài Do Thái và Kitô Giáo, một thay thế sẽ đem lại nhiều hậu quả trầm trọng trên bình diện nhân bản, xã hội và tôn giáo.

ĐHY Ouellet than phiền rằng hiệu quả của tình trạng ấy là việc: ngoài sự mỏng dòn gây ra cho chính các cặp vợ chồng, còn có các vấn đề liên quan tới giáo dục, như thiếu mẫu mực để học hỏi hay ảnh hưởng các luồng tư tưởng vốn bác bỏ chính nền tảng của định chế gia đình.

Cơn khủng hoảng nhân học hết sức phổ biến tại Tây Phương này đang được lý thuyết về phái tính cổ vũ. Lý thuyết này tách biệt thực tại hôn nhân ra khỏi gia đình, tái đề xướng ý niệm cho rằng cặp nhân bản phát khởi từ thèm muốn chủ quan của cá nhân, khiến cho khác biệt tính dục trở thành vô nghĩa đến độ họ coi việc kết hợp đồng tính cũng ngang hàng như việc kết hợp dị tính.

Theo lý thuyết này, sự khác biệt giới tính, vốn được ghi khắc trong chính thực tại sinh học của người đàn ông và người đàn bà, không ảnh hưởng gì đáng kể đối với bản sắc tính dục của các cá nhân vì nó là kết quả của xu hướng chủ quan và việc xây đắp của xã hội.

ĐHY nói rằng: dưới ảnh hưởng các ý thức hệ đôi khi hết sức công khai chống lại Kitô giáo này, một số chính phủ đã đề ra các đạo luật nhằm xem sét lại ý nghĩa của hôn nhân, phụ tạo, tử hệ và gia đình, mà không thèm đếm xỉa gì tới các thực tại nhân học hết sức căn bản, từng tạo cấu trúc cho các liên hệ nhân bản. Thậm chí một số tổ chức quốc tế còn tham gia vào phong trào phá hoại hôn nhân và gia đình này chỉ vì bị áp lực của một số nhóm có tổ chức vốn mưu cầu lợi ích riêng, làm hại tới ích chung.

Giáo Hội Công Giáo cực lực phê phán các luồng văn hóa ấy, những luồng văn hóa rất dễ được báo chí ủng hộ. Để chống lại khuynh hướng ấy, ĐHY Ouellet đề nghị nên tái khám phá thông điệp “Familiaris Consortio” của Đức Gioan Phaolô II, là thông điệp định nghĩa hôn nhân là “sự kết hợp có tính bản vị trong đó hai người phối ngẫu hỗ tương cho đi và nhận lãnh”. Hôn nhân ấy nhằm vươn tới “chính gốc rễ của thực tại” tức mối liên kết giữa tình yêu bản vị của vợ chồng và việc truyền sinh. Bằng cách đó, ba giá trị của hôn nhân: sinh sản, tình yêu chung thủy và bất khả tiêu mới tìm được cái trục chung của nó trong tình yêu hoa trái của vợ chồng.

Không hẳn là thay đổi luật lệ

Cha Raniero Cantalamessa, vị giảng thuyết riêng của Phủ Giáo Hoàng, khi lên tiếng trước Cuộc Họp Mặt, lại không nhấn mạnh đến nhu cầu phải thay đổi luật lệ, cho bằng phải tái khám phá ra vẻ đẹp của hôn nhân cho chính mình và giới thiệu vẻ đẹp đó cho thế giới.

Kitô hữu cần khám phá lại lý tưởng của hôn nhân và gia đình theo Thánh Kinh. Đó là ý tưởng chính trong bài tham luận của cha tựa là “Các liên hệ gia đình và các giá trị trong Thánh Kinh” (Family Relationships and Values in the Bible), dĩ nhiên tái khám phá để sống nó một cách đầy đủ rồi bằng hành động của mình giới thiệu nó cho thế giới, chứ không chỉ dùng lời nói.

Bài nói truyện của cha chia làm ba phần. Phần đầu, cha đề cập tới dự án nguyên thủy của Chúa dành cho hôn nhân và gia đình, và Dân Chúa đã sống thực dự án ấy ra sao trong lịch sử. Rồi ngài đề cập tới các canh tân của Chúa Kitô và việc các cộng đoàn Kitô Giáo tiên khởi đã sống thực sự canh tân ấy ra sao. Sau cùng, cha Cantalamessa xem sét việc Mạc Khải đã đem lại những đề nghị gì cho các vấn đề hôn nhân và gia đình hiện nay. Cha nhấn mạnh rằng trong nhiều thế kỷ qua, ý nghĩa phu phụ hết sức rõ ràng trong Thánh về hôn nhân đã bị đẩy qua một bên, nhường chỗ cho ý nghĩa định chế.

Các mục tiêu đệ nhất đẳng

Theo Cha Cantalamessa, đàng sau các đề nghị “không thể nào chấp nhận được” của trào lưu tương đối thuyết muốn tháo bỏ gia đình truyền thống, ta vẫn thấy có “một tài nguyên tích cực” mà ta nên chào đón, đó là cái nhìn coi hôn nhân như sự kết hợp và hiến thân cho nhau giữa hai người phối ngẫu. Cha cho rằng các ý niệm này trùng hợp với cái hiểu của Thánh Kinh và chính Công Đồng Vatican II cũng đã nhấn mạnh tới chúng khi nhìn nhận tình yêu và sự hiến thân hỗ tương giữa vợ chồng là thiện ích cũng đệ nhất đẳng giống như việc sinh sản con cái. Theo cha, cần phải tái khám phá việc kết hợp tính dục và coi nó như hình ảnh tình yêu Thiên Chúa. Bởi sự kết hợp ấy cho ta thấy khuôn mặt thực và mục tiêu sau cùng của việc sáng tạo ra người nam và người nữ: đó là ra khỏi sự cô lập cá thể, mở cửa chào đón tha nhân và qua khoái ngất nhất thời của kết hợp nhục thân, tự vươn mình lên tới ước mong yêu thương và hân hoan khôn cùng.

Cha cũng cho rằng sở dĩ thông điệp “Deus Caritas Est" (Thiên Chúa là tình yêu) được nồng nhiệt chào đón khắp thế giới là vì đã nhấn mạnh tới khía cạnh: tình yêu con người là phản ảnh tình yêu Thiên Chúa.

Đàn bà

Một vấn đề khác được cha Cantalamessa đề cập là vấn đề phẩm giá bằng nhau của người đàn bà trong hôn nhân. Như đã thấy, điều ấy nằm ngay tại trung tâm dự án thuở đầu của Thiên Chúa cũng như tư tưởng của Chúa Kitô, nhưng hầu như lúc nào cũng bị làm ngơ. Theo Cha Cantalamessa, dù ngày nay xem ra đang có cả một bác bỏ có tính hoàn cầu đối với dự án trong Thánh Kinh về tính dục, hôn nhân và gia đình, ta không nên phí thì giờ lý giải các lý thuyết trái ngược ấy. Chiến lược của ta không phải là “đánh nhau với thế giới mà là đối thoại với nó, rút tỉa điều tốt ngay trong chỉ trích”.

Cha cũng nói tới một lầm lỗi khác cần phải tránh đó là cố gắng hết sức để dùng luật lệ quốc gia mà bảo vệ các giá trị Kitô Giáo. Cha cho rằng các Kitô Hữu tiên khởi đã dùng tập tục của mình mà thay đổi luật pháp quốc gia, nhưng ngày nay, ta không mong gì dùng các tập tục của ta mà thay đổi được luật lệ nhà nước.

Về việc ‘tháo bỏ gia đình” hay “cách mạng phái tính” hiện nay, Cha cho rằng nó cũng tương tự như chủ nghĩa Mácxít. Đương đầu với thứ ý thức hệ đó, Giáo Hội đã áp dụng phương pháp cổ xưa của Thánh Phaolô là xem sét mọi sự, giữ lấy những điều tốt, và khai triển ra học thuyết xã hội riêng của mình.

Chọn lựa đối thoại và tự phê sẽ cho ta quyền được kết án các dự án lệch lạc của cuộc cách mạng phái tính, coi nó như phi nhân, không những đi ngược ý Thiên Chúa mà còn mâu thuẫn với cả thiện ích của nhân loại. Cha kết luận: “Hy vọng duy nhất của chúng ta là lương tri con người, một lương tri luôn liên kết với nỗi thèm muốn đối với người khác phái, với sự bức thiết phải làm cha làm mẹ mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong chính bản nhiên con người, lương tri ấy sẽ cưỡng lại các ý đồ muốn thay thế Thiên Chúa, do mặc cảm tội lỗi muộn màng của người đàn ông chỉ thị hơn là do lòng tôn trọng và yêu thương thực sự của họ dành cho người đàn bà”
 
Roma sẽ trao tặng chức ''Công dân danh dự'' cho Đức Đạt Lai Lạt Ma
Trọng Nghĩa
03:31 16/01/2009
ROMA - Trung Quốc đã liên tục gây áp lực lên các nước phương Tây, trong đó có nước Ý nhằm cô lập Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cuối năm 2007, khi ngài ghé sang Ý, thủ tướng Ý thời đó là ông Romano Prodi đã phải từ chối khéo để tránh tiếp xúc.

Hội Đồng Thành phố Roma, thủ đô nước Ý, đã mời lãnh đạo tinh thần người Tây Tạng đến Roma vào thượng tuần tháng 2 tới đây để trao tặng danh hiệu này cho ngài.

Thủ đô nước Ý muốn: ''Vinh danh những hoạt động của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong việc tìm kiếm một giải pháp ôn hoà cho vấn đề Tây Tạng và những nỗ lực của ngài nhằm khẳng định những điều cơ bản về nhân quyền''.

Từ Roma, thông tín viên Quan Vinh cho biết thêm chi tiết:

Theo tin báo chí loan sáng nay thì ngày 09/02 sắp tới Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong chuyến công du sang Châu Âu, sẽ có mặt ở Roma và sẽ được Hội đồng thành phố của thủ đô Ý trao tặng chức vị “công dân danh dự của thành phố”. Theo tin từ Hội đồng thành phố Roma thì toàn thể ban chấp hành của Hội đồng đã đa số nhất trí thông qua quyết định trao chức vị “công dân danh dự” nói trên cho Đức Đạt Lai Lạt Ma dựa trên “những hoạt động có tầm vóc quốc tế của Đức Đạt Lai Lạt Ma nhằm tìm ra một giải pháp ôn hoà cho vấn đề của Tây Tạng và những cố gắng của ông nhằm khẳng định những điều cơ bản về nhân quyền và hoà bình giữa các dân tộc”.

Được biết là thực ra chức vị “công dân danh dự” này đã phải được trao cho Đức Đạt Lai Lạt Ma từ hồi mùa thu vừa qua, nhưng vì lý do sức khoẻ của chính Đức Đạt Lai Lạt Ma, nên lễ trao tặng này phải hoãn lại cho đến tháng 2 năm nay.

Ai cũng biết nhà nước Trung Quốc đã liên tục gây áp lực lên các nước phương Tây nói chung, cũng như lên nước Ý nói riêng, để nhằm cô lập chính trị quốc tế đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Thậm chí hồi cuối năm 2007, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma ghé sang Ý, Thủ tướng Ý thời điểm đó là ông Romano Prodi cũng đã phải từ chối khéo để tránh gặp gỡ, cũng như ngay chính Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI cũng đã không gặp gỡ Đức Đạt Lai Lạt Ma gây ra nhiều thất vọng trong quần chúng.

Tuy nhiên, riêng thủ đô Roma thì lúc nào cũng sẳn sàng gặp gỡ Đức Đạt Lai Lạt Ma, cũng như hồi cuối năm 2007, Thị trưởng thành phố thời đó là ông Walter Veltroni cũng đã có hội kiến với Đức Đạt Lai Lạt Ma.
 
Ơn Toàn xá nhân dịp Hội ngộ các Gia đình Thế giới lần thứ VI tại thành phố Mexicô
Giuse Đặng Văn Kiếm
03:36 16/01/2009
Sắc lệnh của Tòa Ân giải Tối cao về việc ban ơn Toàn xá nhân dịp Hội ngộ các Gia đình Thế giới lần thứ VI tại thành phố Mexicô

TÒA ÂN GIẢI TỐI CAO
THÀNH PHỐ MEXICÔ

Sắc Lệnh

Sắc lệnh được Tòa Thánh công bố để ban Ơn Toàn Xá cho các tín hữu, nhân dịp cử hành Cuộc Hội ngộ Các Gia đình Thế giới lần thứ VI, khi họ hành hương đến Thành Phố Mexicô, hoặc cầu nguyện trong gia đình theo các ý chỉ của Cuộc Hội ngộ này.

Vì Gia đình được chính Thiên Chúa thiết lập nên, Ngài là Tác giả của tất cả sự sống trong phạm vi tự nhiên và đồng thời cũng chính Ngài ban phát các ân điển trong phạm vi siêu nhiên, và vì gia đình cần phải thực hiện liên tục không hề ngừng lại cho tới ngày sau hết của nhân loại, thì nhiệm vụ chính yếu của Gia đình là giáo dục các thế hệ tương lai biết hướng về các điều thiện tự nhiên và siêu nhiên, và như vậy cần phải nâng đỡ các Gia Đình này và trợ giúp họ huấn luyện nhân phẩm con người cho phù hợp với các giá trị và làm sao thích hợp để tạo nên cuộc sống riêng cho mình theo gương Chúa Kitô, nên Giáo Hội và Quốc gia, cùng hợp tác với nhau để đạt tới những mục tiêu thật đáng mong chờ này, tại môi trường học đường, Giáo xứ và các đoàn thể trong Giáo Hội, mỗi bên theo phạm vi của mình, mà đóng góp phần của mình vào công cuộc này.

Vào thời đại ngày nay, một điều thật đáng buồn, khi nhận thấy, mà ngày nay có khi còn tệ hơn trong quá khứ, người ta sống một cuộc sống mà trong thực tế lại tách rời khỏi những gì học được trong lý thuyết, và chính vì thế mà điều ước mong hết sức là trong Cuộc Hội ngộ Các Gia đình Thế giới lần thứ VI tại Thành Phố Mexicô, diễn ra từ ngày 13 đến ngày 18 tháng Giêng sắp tới, sẽ đem vào trong các gia đình Kitô giáo sức mạnh hầu truyền đạt một cách lành mạnh cho các thế hệ trong tương lai những nguyên tắc đúng đắn theo lương tâm, và các nguyên tắc này cần được vun trồng cho lớn lên với sự trợ giúp của ơn thánh Chúa. Trong Cuộc Hội ngộ sắp tới đây, Gia Đình sẽ được lưu ý tới dưới khía cạnh giáo lý và hoạt động tông đồ là những nét riêng của Gia đình. Một cách đặc biệt Gia Đình công bố, bảo vệ và lo lắng đem tới mức hoàn thiện những của cải, hay những giá trị, nhân bản và Kitô giáo.

Chính vì thế Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, cùng nhịp điệu và ý hướng với các Vị Tiền nhiệm của mình, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Lêô XIII và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XV, cổ võ lòng sùng kính Thánh Gia tại Nazareth, nên Ngài bày tỏ ước muốn của mình để, ngay trong thời gian Mùa Giáng Sinh, là làm sao các tâm hồn biết suy niệm một cách thật sâu xa mầu nhiệm Thánh Gia, và theo con đường mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đấng muôn đời đáng ghi nhớ, đã vạch ra, và đã quyết định là Cuộc Hội ngộ Các Gia đình Thế giới sẽ được tổ chức 3 năm một lần, và chính Đức Thánh Cha đương thời cũng rất mong muốn có mặt trong các cuộc Hội ngộ này với tất cả tâm hồn của Ngài tại Biến Cố tại Mexicô, dù không đích thân hiện diện, nhưng qua vị Đặc Sứ Đại diện cho Ngài, là Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, S.D.B., Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh; Đức Thánh Cha cũng còn hiện diện qua các cuộc truyền hình và truyền thanh khi đọc các bài diễn văn của mình, và nhất là qua việc ban Ơn Toàn Xá như theo cách được trình bày sau đây:

Đức Thánh Cha ban Ơn Toàn Xá cho các tín hữu được lãnh nhận theo các điều kiện thông thường (Xưng tội, Rước Lễ, và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha), cũng như phải chừa bỏ hẳn mọi dính bén với tội lỗi, và sốt sắng tham dự các ngày cử hành Cuộc Hội ngộ Các Gia đình Thế giới.

Còn các tín hữu khác mà thực lòng ăn năn các tội, nhưng không thể tham dự Cuộc Hội ngộ Các Gia đình Thế giới này được, cũng được lãnh nhận Ơn Toàn xá, cũng theo các điều kiện trên đây, nếu họ hiệp lòng và hiệp ý với các tín hữu hiện diện tại Thành Phố Mexicô, và cùng nhau đọc kinh trong gia đình Kinh Lạy Cha, Kinh Tin Kính, và các Kinh đạo đức khác để cầu khẩn Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa ban cho theo như những mục đích đã được đề ra như nói trên đây, đặc biệt là những lúc họ nghe các Lời và Sứ Điệp của Đức Thánh Cha được truyền đi qua các phương tiện truyền hình và truyền thanh.

Sắc Lệnh này có hiệu lực cho dịp này.
Sắc lệnh được ban hành bất chấp các điều trái ngược.
Ban hành tại Rôma, tại Trụ Sở của Tòa Ân Giải Tối Cao,
Ngày 28 tháng 12 năm 2008,
Lễ Thánh Gia Thất Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse.

+ Đức Hồng Y James Francis Stafford
Chánh Án Tòa Ân Giải

+ Đức Giám Mục Gianfranco Girotti, O.F.M., Cap.
Giám Mục Hiệu Tòa Meta, Trưởng Lục Sự
 
Bài Giáo Lý mới XVIII của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Đức Kitô là Đầu Hội Thánh và Vũ Trụ
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
04:53 16/01/2009
Dưới đây là bản dịch bài Huấn Từ của ĐTC Bênêđictô XVI trong buổi triều yết chung ngày 14 tháng 1, 2009 tại Đại Sảnh Phaolô VI. Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về con người và giáo huấn của Thánh Phaolô.

* * *

Anh chị em thân mến,

Trong số các Thư của Thánh Phaolô, có hai Thư là Thư gửi tín hữu Côlôxê và Thư gửi tín hữu Êphêxô, một cách nào đó có thể được coi như một ống nhòm hai kính. Thật vậy, cả hai Thư  đều có những cách diễn tả mà chúng ta không thể tìm thấy ở những nơi khác, và tính ra thì hơn một phần ba những từ ngữ trong Thư Côlôxê cũng được tìm thấy trong Thư Êphêxô.

Chẳng hạn như trong Thư Côlôxê chúng ta thấy lời mời gọi: “Anh em hãy hát những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca với một lòng tri ân trong tâm hồn anh em mà dâng lên Thiên Chúa” (x. Col 3:16), thì trong Thư Êphêxô, Thánh Nhân cũng khuyên: “Anh em hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca; hãy đàn ca chúc tụng Chúa trong tâm hồn anh em” (x. Eph 5:19). 

Chúng ta có thể suy niệm về những cụm từ: Tâm hồn phải ca hát, cũng như bằng lời, cùng với các bài thánh vịnh và thánh thi trong truyền thống cầu nguyện của toàn thể Hội Thánh thời Cựu Ước và Tân Ước. Như thế chúng ta học được cách kết hợp với nhau, cùng nhau, và với Thiên Chúa. Thêm vào đó, trong cả hai Thư đều có một điều gọi là “luật trong gia đình” mà chúng ta không thấy trong các Thư khác của Thánh Phaolô, đó là hàng loạt những đề nghị dành cho vợ và chống, cha mẹ và con cái, chủ nhân và nô lệ (x. Col 3:18-4:1 và Eph 5:22-6:9).

Điều quan trọng hơn nữa là chỉ có hai Thư này là hai Thư xác nhận danh hiệu “đầu” kefalé dành cho Đức Chúa Giêsu Kitô. Và danh hiệu này được sử dụng ở hai mức độ. Theo nghĩa thứ nhất, Đức Kitô được coi như là Thủ Lãnh của Hội Thánh (x. Col 2:18-19 và Eph 4:15-16). Điều này có hai nghĩa: trước hết Người là Đấng cai quản, là Người hướng dẫn, là Người có nhiệm vụ dẫn dắt cộng đồng Kitô hữu như vị Thủ Lãnh và Chúa của cộng đồng này (x. Col 1:18: “Người cũng là đầu của một thân thể là Hội Thánh”), và nghĩa khác là như cái Đầu kích thích và làm sống động tất cả mọi chi thể của thân xác mà nó được đặt trên đó (thực ra, theo Col 2:19 thì [thân thể] “phải kết hợp với đầu mà từ đó toàn thân được nuôi dưỡng, và được nối kết chặt chẽ với nhau qua các khớp xương và gân cốt”): như thế Đức Kitô không phải là một vị chỉ huy, nhưng là Đấng kết hợp cách hữu cơ với chúng ta, từ Người phát ra sinh lực để giúp [chúng ta] hoạt động một cách công minh.

Trong cả hai trường hợp, Hội Thánh được coi là phục tùng Đức Kitô, qua việc Hội Thánh tuân theo sự chỉ dẫn tối cao của Người, là những mệnh lệnh [giới răn] và đón nhận những dòng sinh lực phát ra từ Người. Mệnh lệnh của Người không phải chỉ là những lời nói, những lệnh truyền, nhưng còn là những năng lực sống động đến từ Người để giúp đỡ chúng ta.

Tư tưởng này được khai triển cách đặc biệt trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, trong đó ngay cả các thừa tác vụ của Hội Thánh, thay vì được quy về Chúa Thánh Thần (như trong 1 Cor 12), thì được gán cho Đức Kitô Phục Sinh. Chính Người “ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, người kia ơn làm ngôn sứ, người khác ơn làm người rao giảng Tin Mừng, người khác nữa làm mục tử và thầy dậy” (Eph 4:11 ).  Và “nhờ Người mà toàn thân được liên kết chặt chẽ bằng sự nối kết các gân cốt lại với nhau,..., làm cho toàn thân tăng trưởng và tự phát triển trong đức ái” (Eph 4:16 )

Thật vậy Đức Kitô tận tình để “hiến Hội Thánh cho chính Mình Người, một Hội Thánh huy hoàng, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm gì như thế, nhưng để Hội Thánh trở nên thánh thiện và không tỳ ố” (Eph 5:27). Qua điều này, Thánh Nhân nói với chúng ta rằng sức mạnh mà Đức Kitô dùng để xây dựng, hướng dẫn, cùng chỉ đúng đường cho Hội Thánh, chính là tình yêu của Người.

Như thế, ý nghĩa thứ nhất là Đức Kitô làm Đầu Hội Thánh: làm đầu về việc lãnh đạo, mà trên hết là vệc khuyến khích và làm cho Hội Thánh trở nên sống động một cách có hệ thống vì tình yêu của Người. Rồi theo nghĩa thứ hai thì Đức Kitô không những chỉ được coi là Đầu Hội Thánh mà cũng là Thủ Lãnh của mọi quyền lực thiên quốc và của toàn thể vũ trụ.

Như thế trong Thư gửi tín hữu Côlôxê, chúng ta đọc rằng Đức Kitô “đã tước đoạt vũ khí của các lãnh thần và quyền thần, đã biến chúng thành trò cười cho thiên hạ, bằng cách dẫn chúng đi diễn hành trong cuộc khải hoàn” (Col 2,15). Cũng tương tự, trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, chúng ta thấy rằng với việc phục sinh của Người, Thiên Chúa “đã đặt Đức Kitô trên mọi lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, và trên mọi tước vị có thể có được, không những ở đời này, mà cả đời sau.” (Eph 1:21).

Bằng những lời ấy, hai Thư này trao cho chúng ta một sứ điệp rất tích cực và hiệu quả. Đó là: Đức Kitô không cần phải sợ bất cứ một đối thủ nào, bởi vì Người cao vượt trên mọi loại quyền lực, là những quyền lực cố gắng làm nhục con người. Chỉ có Người đã “yêu thương chúng ta và hiến Mình cho chúng ta” (Eph 5:2). Cho nên, nếu chúng ta kết hợp với Đức Kitô, thì chúng ta chẳng phải sợ một quân thù và nghịch cảnh nào cả, nhưng điều ấy cũng có nghĩa là chúng ta phải kết hợp chặt chẽ với Người, mà không được rời Người.

Đối với thế giới ngoại giáo, là những kẻ tin vào một thế giới đầy thần linh, hầu hết là nguy hiểm mà một người cần phải tự vệ, thì việc loan báo Đức Kitô là Đấng Chiến Thắng duy nhất, và người nào kết hợp với Đức Kitô thì không phải sợ bất cứ ai, được coi là một cuộc giải phóng thật sự. Điều đó cũng đúng đối với các tà giáo thời nay, vì các đồ đệ của các hệ thống tư tưởng này cũng coi thế giới như là đầy dẫy những quyến lực nguy hiểm. Đới với họ, chúng ta cần phải loan báo rằng Đức Kitô là Đấng Chiến Thắng, cho nên những ai ở với Đức Kitô và tiếp tục kết hợp với Người thì không phải sợ bất cứ điều gì và bất cứ ai. Cha nghĩ rằng điều này cũng quan trọng đối với chúng ta, là những người phải học đương đầu với mọi sự sợ hãi, bởi vì Đức Kitô ở trên mọi quyền thần, Người là Chúa thật của thế giới.

Ngay cả toàn thể vũ trụ cũng phải quy phục Người, và quy hướng về Người như là Đầu của chính vũ trụ. Những lời mà mọi người đều biết trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, nói về chương trình của Thiên Chúa là “quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Eph 1:10 ). Tương tự, trong Thư gửi tín hữu Côlôxê, chúng ta đọc thấy rằng: “Vì trong Người muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất, các quyền lực hữu hình và vô hình.” (Col 1,16), và rằng: “nhờ máu Người trên thập giá, Người đã hòa giải muôn loài, dù là loài dưới đất hay trên trời, với Chính Người và nhờ Người” (Col 1:20).

Như vậy, không phân biệt một thế giới vật chất vĩ đại hay thực tại nhỏ bé của lịch sử trái đất, thế giới của loài người: tất cả đều là một trong Đức Kitô. Người là thủ lãnh của vũ trụ; mà vũ trụ cũng được Người tạo dựng, nó được tạo dựng cho chúng ta bao lâu chúng ta còn kết hợp với Người. Đây là một quan niệm hợp lý và có tính cách nhân vị về vũ trụ. Và cha muốn nói rằng không thể mường tượng được một quan niệm thực tế hơn quan niệm này, l quan niệm chỉ quy chiếu về Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô là Đấng Pantokrátor [Chúa Toàn Năng], mà mọi sự đều phải quy phục: tư tưởng hướng về Đức Kitô là Pantokrátor thì đầy dẫy trong các gian thánh của các nhà thờ Byzantine, đôi khi Người được diễn tả như ngồi cao trên toàn thể thế giới, trên cả một cầu vồng để chỉ việc so sánh Người với chính Thiên Chúa, là Đấng mà Người ngự bên hữu (x. Eph 1:20; Col 3:1), và như thế cũng diễn tả vai trò cao vượt của Người là Đấng điều khiển vận mệnh của nhân loại.

Một quan niệm như thế chỉ có Hội Thánh mới nhận thức được, không theo nghĩa là Hội Thánh tự nhận cho mình điều không thuộc về mình, nhưng trái lại bằng hai nghĩa. Một đằng, Hội Thánh nhận ra rằng Đức Kitô cao trọng hơn mình, và chủ quyền của Người vượt ra ngoài ranh giới của Hội Thánh. Đằng khác, chỉ có Hội Thánh, chứ không phải vũ trụ, mới đủ tiêu chuẩn là Thân Mình của Đức Kitô. Tất cả những điều ấy có nghĩa là chúng ta phải nhìn vào các thực tại trần thế một cách tích cực, bởi vì Đức Kitô đã gồm tóm chúng trong chính Người, đồng thời, chúng ta phải sống căn tính Hội Thánh đặc biệt của chúng ta một cách đầy đủ, đó là một căn tính rất đồng nhất với căn tính của chính Đức Kitô.

Ngoài ra còn có quan niệm đặc thù trong hai Thư này, đó là quan niệm về “mầu nhiệm”.  “Mầu nhiệm Thánh Ý của Thiên Chúa” được nhắc đến một lần (Eph 1:9) và những lần khác  “mầu nhiệm của Đức Kitô” (Eph 3:4; Col 4:3), hoặc ngay cả “mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đức Kitô, trong đó dấu ẩn mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Col 2:2-3).

Việc này ám chỉ chương trình không ai có thể dò được của Thiên Chúa đối với số phận con người, các dân tộc và thế giới. Bằng ngôn ngữ này hai Thư nói cho chúng ta biết rằng chính trong Đức Kitô mà mầu nhiệm này được hoàn thành. Nếu chúng ta ở với Đức Kitô, ngay cả khi chúng ta không hiểu mọi sự bằng trí khôn của mình, thì chúng ta biết rằng mình đang ở trọng tâm của “mầu nhiệm” và trên đường Chân Lý. Chính Người, trong toàn thể con người của Mình, mang trong Mình toàn thể chương trình cứu độ khôn dò của Thiên Chúa, chứ không phải chỉ trong một bình diện hay một giây lát của cuộc đời Người.

Trong Người, điều được gọi là “sự khôn ngoan muôn mặt của Thiên Chúa” (Eph 3:10) được hình thành, bởi vì “tất cả sự viên mãn của thiên tính ở trong Người một cách thể lý” (Col 2:9). Cho nên từ giờ trở đi, chúng ta không thể nghĩ đến việc tôn thờ Thánh Ý Thiên Chúa, sự sắp đặt tối cao của Ngài, mà không tự mình trực diện với Đức Kitô, trong Người “mầu nhiệm” này được nhập thể và chúng ta có thể nhận thức được cách hữu hình. Như thế, một người đến để chiêm niệm “sự phong phú khôn lường của Đức Kitô” (Eph 3:8) là điều vượt quá mọi sự hiểu biết của loài người.

Không phải là Thiên Chúa đã không để lại dấu vết của việc đi qua của Ngài, vì Chính Đức Kitô là dấu chân của Thiên Chúa, dấu vết lớn nhất của Thiên Chúa, nhưng tốt hơn là chúng ta nhận ra “chiều rộng, chiều dài, và chiều sâu ‘của mầu nhiệm này’ là điều vượt quá tầm hiểu biết thế nào” (Eph 3:18-19). Ở đây chứng tỏ rẳng chỉ dựa vào những phạm trù trí hiểu mà thôi thì chưa đủ, và trong khi nhìn nhận rằng có nhiều điều vượt quá khả năng suy luận của chúng ta, thì chúng ta phải cậy trông vào việc khiêm nhường và vui vẻ chiêm niệm, chứ không phải chỉ cậy trông vào trí thông minh, mà còn vào cả tâm hồn nữa. Đằng khác, các Giáo Phụ đã dạy chúng ta rằng tình yêu hiểu nhiều hơn lý trí thuần túy.

Điều cuối cùng chúng ta phải nói về quan niệm này, như đã nói trước đây, là việc Hội Thánh như hiền thê của Đức Kitô. Trong Thư Thứ Hai gửi tín hữu Côrinthô Thánh Phaolô so sánh cộng đoàn Kitô hữu như một cô dâu, khi ngài viết: “Vì tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa cho anh em, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người chồng, để tôi có thể dâng anh em như một trinh nữ tinh tuyền lên Ðức Kitô”(2 Cor 11:2). Thư gửi tín hữu Ephêxô khai triển thêm về hình ảnh này, Thư này nói rõ rằng Hội Thánh không phải chỉ là một vị hôn thê, mà là Hiền Thê thật sự của Đức Kitô. Chúng ta có thể nói rằng Người chinh phục Hội Thánh cho chính Người, và Người đã làm điều ấy bằng một giá là chính mạng sống của Người. Như câu văn nói rằng Người đã “hiến Mình vì Hội Thánh” (Eph 5:25).

Còn cách nào chứng tỏ tình yêu tuyệt vời hơn cách này không? Hơn nữa, Người còn lo lắng cho vẻ đẹp của Hội Thánh, không những chỉ vẻ đẹp đã có được nhờ bí tích Rửa Tội, nhưng còn vẻ đẹp mà Hội Thánh phải phát triển mỗi ngày nhờ một đời sống không tỳ vết, “không vết nhăn hay không tì ố” trong đời sống luân lý của Hội Thánh (x. Ep 5,26-27).

Từ đó bước sang kinh nghiệm của hôn nhân Kitô giáo là một bước nhỏ; hơn nữa, chúng ta  không biết rõ điểm quy chiếu đầu tiên của tác giả là gì, hoặc là liên hệ giữa Đức Kitô và Hôi Thánh, mà từ ánh sáng của sự liên hệ này đưa đến việc kết hợp giữa người nam và người nữ; hoặc thay vào đó, từ những kinh nghiệm về sự kết hợp vợ chồng phát sinh ra sự liên hệ giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Tuy nhiên cả hai bình diện soi sáng lẫn nhau: Chúng ta học biết hôn nhân là gì dưới ánh sáng của sự hiệp thông giữa Đức Kitô và Hội Thánh; và chúng ta học biết Đức Kitô kết hiệp với chúng ta như thế nào khi nghĩ đến mầu nhiệm hôn nhân. Dù ở trường hợp nào đi nữa thì Thư của chúng ta hầu như nằm ở giữa lộ trình của ngôn sứ Hosea, là vị ám chỉ mối liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Do Ngài bằng ngôn từ của một hôn lễ đã xảy ra (Hs 2,4.16.21), và Thị Nhân của sách Khải Huyền, là người sẽ tiên đoán cuộc gặp gỡ cánh chung giữa Hội Thánh và Chiên Con như một hôn lễ hân hoan không hề phai nhạt (Kh 19:7-9; 21:9).

Còn rất nhiều điều để nói, nhưng đối với cha thì từ những gì cha đã trình bày, chúng ta có thể hiểu rằng hai Thư này là một bài Giáo Lý tuyệt vời, từ đó chúng ta có thể học được không những làm sao để là những Kitô hữu tốt, mà còn trở nên những con người thật sự.  

Nếu chúng ta bắt đầu hiểu rằng vũ trụ là vết chân của Đức Kitô, thì chúng ta sẽ học biết về liên hệ đúng của chúng ta với vũ trụ, cùng tất cả những khó khăn trong việc duy trì nó. Chúng ta học cách nhìn [những khó khăn này] bằng lý trí, nhưng là lý trý được tác động bởi tình yêu, cùng với lòng khiêm nhường và lòng kính trọng, là điều cho phép chúng ta hành động cách công minh. Nếu chúng ta nghĩ rằng Hội Thánh là Thân Mình của Đức Kitô, và Đức Kitô đã hiến Mình Người cho Hội Thánh, thì chúng ta sẽ học biết sống với Đức Kitô bằng tình yêu hỗ tương, tình yêu kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa, và làm cho chúng ta nhìn những người khác như hình ảnh của Đức Kitô, như chính Đức Kitô.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa để Người giúp chúng ta suy niệm Thánh Kinh, là Lời của Người, một cách kỹ càng, và như thế chúng ta thật sự học để sống tốt lành.

 
PIME xuất bản cuốn sách khảo cứu lịch sử truyền giáo ở Hà Nam, Trung Quốc
John Bosco Nguyễn Hoàng Thương
16:23 16/01/2009
Vatican (AsiaNews) - Cuốn sách “Giáo Hội trong cơn thử thách ở Trung Quốc của cộng sản Mao” vừa được xuất bản, đây là công việc mới nhất của Cha Angelo Lazzarotto, nhà truyền giáo thuộc Học Viện Giáo Hoàng Truyền Giáo Hải Ngoại (PIME). Một nghiên cứu lịch sử dựa trên các tài liệu chuyên biệt, về đời sống của các nhà truyền giáo PIME ở Hà Nam, về tác động của chủ nghĩa cộng sản Mao Trạch Đông và những bách hại chống các giáo sĩ nước ngoài và cộng đoàn Công Giáo địa phương, cho đến sự mở cửa khiên cưỡng ngày nay và Cộng Sản tiếp tục nỗ lực tạo ra một Giáo Hội tự trị tách biệt Toà Thánh.

Dưới đây là lời giới thiệu về cuốn sách của Đức Tổng Giám Mục Claudio Celli, một trong những chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc ở Vatican:

Ngày 24 tháng Mười, 2001, trong một bức thư gửi các tham dự viên hội nghị quốc tế "Matteo Ricci: vì cuộc đối thoại giữa Trung Quốc và phương Tây", Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết như sau: "Giáo Hội phải không e sợ sự thật lịch sử và sẵn sàng – với cảm giác hết sức đau đớn - thừa nhận trách nhiệm của con cái mình. Điều này cũng đúng đối với mối quan hệ của Giáo Hội, trong quá khứ và hiện tại, với người dân Trung Quốc.

Bức thư viết thêm: "Sự thật lịch sử cần phải được tìm kiếm một cách trong sáng, bằng sự công bằng và trong tính toàn vẹn. Đây là nhiệm vụ quan trọng sẽ được thực hiện bởi các học giả, và là người trong số anh em, những người đặc biệt hiểu biết nhiều về những thực tại ở Trung Quốc, cũng có thể đóng góp. Cha có thể đảm bảo với anh em rằng Toà Thánh luôn luôn sẵn sàng mang đến thiện chí hợp tác trong việc nghiên cứu này".

Tôi tin rằng công việc quý giá này của Cha Angelo Lazzarotto, PIME, có thể và cần được đọc trong viễn tượng này. Trên thực tế, đây là một khảo cứu lịch sử về con người, tôn giáo, và kinh nghiệm loan báo Tin Mừng của một nhóm các nhà truyền giáo thuộc Học Viện Giáo Hoàng Truyền Giáo Hải Ngoại - PIME (theo những con số được cung cấp, trong suốt thời gian đó PIME đã có 153 nhà truyền giáo tại Trung Quốc, trong đó có 5 người giám mục, 139 linh mục, và 9 giáo dân) ở vùng nông thôn của tỉnh Hà Nam, nằm ở trung tâm của Trung Quốc.

Khoảng thời gian khảo sát không phải là quá dài - từ 1937 đến nửa đầu thập niên 1950 - nhưng nó rất đáng được quan tâm từ quan điểm chính trị và giáo hội. Giai đoạn đầu là sự xâm lược Nhật Bản, vốn có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống của người dân Trung Quốc, và của các khu Tông Toà của Nanyang, Kaifeng, và Weihui (Anyang), được trao phó cho các linh mục của PIME. Giai đoạn thứ hai có thể thấy là sự trục xuất không nương tay các nhà truyền giáo ra khỏi lãnh thổ của họ của nhà cầm quyền Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.

Công việc của cha Lazzarotto được theo đuổi một cách cẩn trọng, từng bước một, hoạt động loan báo Tin Mừng trong ba khu Tông Toà, nêu bật sự cống hiến quảng đại của các nhà truyền giáo này, đơm hoa bằng nhiều sáng kiến tông đồ và xã hội (trường học, bệnh viện, trại trẻ mồ côi, v.v…) mặc dù những khó khăn ngày càng nghiêm trọng kết nối với những thời khắc lịch sử đặc biệt này, rất phức tạp và lộn xộn.

Phân tích tỉ mỉ của Cha Lazzarotto không thể giúp, nhưng mang đến sự quan tâm về chính sách tôn giáo của chính quyền Trung Quốc mới, và chắc chắn ảnh hưởng trở lại đời sống của các cộng đoàn giáo hội Hà Nam, và sau đó là toàn thể đất nước.

Sự xem xét bình tĩnh và cẩn thận của Cha Lazzarotto về hành trình lịch sử của các cộng đoàn và mục tử của họ nhấn mạnh đến việc làm thế nào để việc công bố Lời Chúa được thực hiện giữa muôn vàn khó khăn từ các hoàn cảnh khác nhau, dĩ nhiên không phụ thuộc vào chính bản thân Giáo Hội và các vị lãnh đạo Giáo Hội. Ở Hà Nam cũng thế, hoàn cảnh lịch sử và những khuếch trương chính trị của nó không phải luôn luôn cho thấy sự rõ ràng hoàn toàn về cách nhìn và cách ứng xử. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc đến những hạn chế này trong bức thư được trích dẫn trên: "Tuy nhiên, lịch sử nhắc chúng ta một thực tế không may là công việc của các thành viên của Giáo Hội tại Trung Quốc không phải lúc nào cũng không mắc sai lầm, trái đắng về những hạn chế cá nhân của họ, và những giới hạn trong hành động của họ. Hơn nữa, hành động của họ thường bị tác động bởi những hoàn cảnh khó khăn nối kết với sự kiện lịch sử phức tạp và xung đột với những lợi ích chính trị. Không thiếu những tranh luận thần học, vốn gây nên những tình cảm xấu và tạo ra những khó khăn nghiêm trọng cho việc loan báo Tin Mừng. Trong thời kỳ lịch sử hiện đại, một loại 'bảo vệ' trong một bộ phận thế lực chính trị Âu Châu không hiếm khi dẫn đến những hạn chế về tự do hoạt động của Giáo Hội và ảnh hưởng tiêu cực cho Giáo Hội ở Trung Quốc. Nhiều hoàn cảnh và sự kiện khác nhau đã gây trở ngại cho đường lối của Giáo Hội và ngăn chặn Giáo Hội thực hiện đầy đủ - vì lợi ích của người dân Trung Quốc - những sứ mạng mà Đấng sáng lập là Chúa Giêsu Kitô trao phó".

Những hoàn cảnh con người – tôn giáo – giáo hội khác nhau của những phức tạp này nổi lên. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho người Công Giáo: “cây của chúng ta mất rất nhiều nhành trong cơn bão”; nhưng cũng có một sự thật là có rất nhiều chứng nhân anh dũng cho Chúa Kitô, cho Giáo Hội, và cho người kế vị Thánh Phêrô. Trong nhiều trường hợp, những người anh hùng thầm lặng này đã theo gương Đức Kitô bị đóng đinh và bằng những hành động này của họ đã làm cho Giáo Hội mọc rễ nơi đất Trung Quốc.

Trong một số đoạn của bức thư gửi Giáo Hội Công Giáo Trung Quốc (27/05/2007), Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhắc lại "bằng chứng chịu đựng sâu sắc của lòng trung kiên nơi cộng đoàn tín Công Giáo Trung Quốc trong hoàn cảnh thực sự khó khăn" (số 4 ), đặc biệt nhắc đến các giám mục Trung Quốc, những người "đã chịu đựng sự bách hại và bị cản trở trong việc thực hiện thừa tác vụ của mình, và một số người trong họ đã làm cho Giáo Hội sinh hoa kết quả bằng sự đổ máu của họ" (số 8).

Giáo Hội này, được tôi luyện trong cuộc thử thách nghiệt ngã của đau khổ, vốn được gọi là làm chứng cho Chúa Kitô "để mong đợi trong hy vọng, và – bằng việc loan báo Tin Mừng – đọ sức với những thách đối mới mà người Trung Quốc phải đối mặt" (ibid, số 3). Người Công Giáo yêu cầu nhà cầm quyền đảm bảo hơn nữa hoàn toàn tự do thực hiện đức tin, thực sự tôn trọng tự do tôn giáo.

Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn Cha Lazzarotto, bằng niềm say mê và với tình yêu dành cho Giáo Hội tại Trung Quốc, đã mang đến cho chúng ta cái nhìn thoáng qua tuyệt vời này về đời sống của các nhà truyền giáo PIME ở Hà Nam.

+ Claudio Celli

Tổng Giám Mục hiệu toà Civitanova

Chủ tịch Hội đồng Giáo Hoàng về Truyền thông Xã Hội
 
Các giám mục Hoa kỳ cam kết giúp chính quyền mới thắng tiến công ích và bảo vệ sự sống
Phụng Nghi
16:40 16/01/2009
Washington DC (CNA).- Đức hồng y Francis George giáo phận Chicago đã nhân danh Hội đồng Giám mục Hoa kỳ gửi một lá thư đến Tổng thống tân cử Barack Obama, Phó tổng thống tân cử Joseph Biden và Quốc hội, để đảm bảo với họ là các giám mục sẽ cầu nguyện và cam kết “làm cho thời kỳ đổi thay toàn quốc này thành thời gian thăng tiến các phúc lợi chung và bảo vệ sự sống cũng như phẩm giá của tất mọi người.”

Đức hồng y Francis George hiện là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa kỳ, và lá thư đề ngày 13 tháng giêng của ngài đưa ra bản phác họa cho “một nghị trình đối thoại và hành động.”
ĐHY Francis George và Quốc hội Hoa kỳ


Đức hồng y mở đầu bằng lời giải thích rằng các giám mục tiếp cận chính sách công “trong cương vị là những mục tử và người dậy dỗ.” Những nguyên tắc về luân lý đã hướng dẫn các ngài trong công tác tiến đến với người túng quẫn, cung ứng sự chăm sóc sức khỏe và nhà ở cũng như giáo dục trẻ em.

Lá thư nói tiếp: “Chúng tôi lãnh đạo một tôn giáo lớn nhất Hoa kỳ, một cộng đồng phục vụ mọi miền trong nước và hiện diện hầu như khắp nơi trên mặt đất. Bằng kinh nghiệm và truyền thống, chúng tôi cung ứng sự đóng góp đặc biệt, xây dựng và có nguyên tắc vào cuộc đối thoại toàn quốc nhằm đạt đến phương cách cộng tác chung trong các vấn đề như xáo trộn kinh tế, khổ đau, chiến tranh và bạo lực, suy đồi luân lý và phẩm giá con người.”

Nội dung chính sách nêu trong lá thư mở đầu bằng lời cam kết trợ giúp chính quyền của tân tổng thống và Quốc hội nhằm “ủng hộ các biện pháp mạnh mẽ, cẩn trọng và hiệu quả” để đối phó với những “hậu quả khủng khiếp” của cuộc khủng hoảng kinh tế. Các giám mục chủ trương rằng những gia đình nghèo và những công nhân bị tổn thương phải được ưu tiên trợ giúp.

Các giám mục nói rằng được hưởng sự chăm sóc y tế xứng đáng là một quyền căn bản của con người, do đó thúc giục “những hành động toàn diện” nhằm đảm bảo “sự chăm sóc sức khoẻ thực sự phổ thông cho tất cả, để bảo vệ sinh mạng mọi người kể cả sự sống của trẻ chưa sinh. Bất cứ đạo luật nào liên quan cũng phải tôn trọng tự do bằng cách đưa ra những hình thức để chọn lựa, và đảm bảo được sự tôn trọng niềm tin tôn giáo và luân lý của bệnh nhân cũng như của nhân viên y tế.

Các ngài cũng “nhiệt tình ủng hộ” các nỗ lực làm giảm thiểu bệnh HIV/AIDS và các tật bệnh khác bằng những phương cách “vừa hiệu quả vừa xứng hợp về luân lý.”

Các giám mục cam kết cộng tác để mưu tìm sự “chuyển quyền có trách nhiệm” trong một nước Iraq “tự do không còn bách hại tôn giáo.” Các ngài cũng thúc giục giới lãnh đạo mang lại hòa bình cho vùng Đất Thánh và ủng hộ viện trợ từ ngoại quốc “được tăng cường và sửa đổi” nhằm diệt trừ nghèo đói và bệnh tật.

Chủ trương “cải cách toàn diện” chính sách di dân của Hoa kỳ, các giám mục nói rằng một sự cải cách như thế phải dựa trên “lòng tôn trọng và sự thực thi luật pháp” trong khi giải quyết “thực tại kinh tế và nhân bản của hàng triệu di dân.”

Việc bảo vệ hôn nhân giữa một người nam và một người nữ cũng được Đức hồng y đề ra; ngài viết: “Chúng tôi cương quyết ủng hộ lập trường cho rằng hôn nhân là một sự kết hiệp trung thành, riêng biệt, suốt đời, giữa một người nam và một người nữ và phải được duy trì như thế trong luật pháp. Hôn nhân góp phần độc đáo và không thể thay thế vào công ích xã hội, đặc biệt là qua sinh sản và giáo dục trẻ thơ. Không có hình thức nào khác trong sự liên hệ giữa con người có thể đúng đắn biến thành tương đương với lời cam kết của một người nam và một người nữ trong hôn nhân.”

Các giám mục nói thêm rằng sẽ ủng hộ những sáng kiến nhằm cung ứng tài nguyên cho các bậc cha mẹ để họ chọn lựa nền giáo dục nào là tốt đẹp nhất phù hợp với nhu cầu của con cái họ.

Các ngài cũng hoan nghênh “các lời cam kết tiếp tục” những chương trình trợ giúp đặt cơ sở nơi tôn giáo trong công trình chống nghèo đói và các nỗ lực khác bằng những đường hướng không khuyến khích chính quyền bỏ quên nhiệm vụ và không đòi hỏi các nhóm tôn giáo phải bỏ mất căn tính và sứ vụ của mình.

Các giám mục viết: “Căn bản nhất là chúng tôi sẽ hoạt động để che chở sinh mạng của những kẻ bị thương tổn nhất, những phần tử không có tiếng nói trong gia đình nhân loại, đặc biệt là các trẻ chưa sinh, những ai tàng tật hoặc bị bệnh nan y.”

Lá thư của các giám mục kết thúc: “Chúng tôi không ngừng bảo vệ quyền căn bản được sống, từ lúc hoài thai cho đến khi chết tự nhiên.”

Các giám mục ủng hộ việc tìm ra thế đứng chung nhằm giảm thiểu con số người phá thai bằng “những phương cách hợp luân lý đạo đức.” Các ngài cũng cam kết chống lại những sáng kiến mở rộng thêm các vụ phá thai. Về những lãnh vực đáng quan tâm, các giám mục đã đề cập đến việc bảo vệ lương tâm cho những nhân viên trong ngành y tế, và cấm dùng tiền của người đóng thuế để tài trợ cho các vụ phá thai.
 
Đức Thánh Cha sẽ cử hành nghi lễ bế mạc Tuần Lễ Hiệp Nhất Thiên Chúa Giáo
Bùi Hữu Thư
20:01 16/01/2009

Đức Thánh Cha sẽ cử hành nghi lễ bế mạc Tuần Lễ Hiệp Nhất Thiên Chúa Giáo



Các chủ đề phản ảnh kinh nghiệm của các Giáo Hội tại Đài Loan

VATICAN ngày 16, tháng 1, 2009
(Zenit.org).- Chúa Nhật này khởi sự Tuần Lễ Cầu Nguyện cho sự hiệp nhất của các giáo phái Kitô, và sẽ chấm dứt một chuỗi các Buổi Kinh Chiều do ĐTC Benedict XVI chủ sự.

Tòa Thánh tuyên bố là ĐTC sẽ chủ sự buổi cầu nguyện này lúc 5:30 chiều ngày 25, tháng 1, Lễ Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại, tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành.

Tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô giáo theo truyền thống được tổ chức vào tuần lễ từ 18 đến 25 tháng 1 tại Bắc Bán Cầu, tuy nhiên tại Miền Nam có vài sự thay đổi vể ngày tháng. Chủ đề năm nay là “Để chúng chỉ còn là một trong tay ngươi (Ezek 37, 17)."

Hội Đồng Giáo Hoàng Cổ Võ sự Hiệp Nhất các giáo phái Kitô cho hay chủ đề này cũng như chủ đề cho mỗi buổi cầu nguyện, được “bắt nguồn từ kinh nghiệm của các Giáo Hội tại Đài Loan."

Hội Đồng giải thích rằng “trong bối cảnh của sự phân rẽ trong quốc gia, các Giáo Hội đã tìm nguồn linh ứng nơi Tiên Tri Êzêkien, đấng đã sống trong một nước bị chia rẽ đau thương và mong muốn có được sự hiệp nhất giữa các người dân nước mình."

Hội Đồng cộng tác với Uỷ Ban Đức Tin và Trật Tự của Hội Đồng Quốc Tế các Giáo Hội để soạn thảo tài liệu cho tuần lễ cầu nguyện.

Chủ đề cho mỗi ngày trong tuần như sau:

  • 18/1: Các cộng đồng Kitô giáo đối diện với các sự chia rẽ cũ và mới
  • 19/1: Kitô hữu đối diện với chiến tranh và bạo lực
  • 20/1: Kitô hữu đối diện với sự bất công về kinh tế và đói nghèo
  • 21/1: Kitô hữu đối diện với các khủng hoảng về môi sinh
  • 22/1: Kitô hữu đối diện với sự kỳ thị và thành kiến xã hội
  • 23/1: Kitô hữu đối diện với bệnh tật và đau khổ
  • 24/1: Kitô hữu đối diện với vấn đề đa tôn giáo
  • 25/1: Kitô hữu công bố hy vọng trong một thế giới chia rẽ
Nhiều Hội Đồng Giám Mục đề nghị các nguồn tài liệu phụ trội trên gia trang của họ. Trên mạng lưới của Hội Đồng Giám Mục Ái Nhĩ Lan, một phim ảnh của Đức Giám Mục Anthony Farquhar, chủ tịch Uỷ Ban Giám Mục về Đại Kết, giải thích ý nghĩa của tuần lễ.

Ngài khuyến khích khán giả tuân theo mệnh lệnh của Chúa Kitô để “cầu xin cho chúng trở nên một,” mà không quên phần hai: “để cho thế giới có thể tin rằng chúng ta đã được sai đi.” Ngài tiếp, “Trong khi chúng ta cố gắng đến gần Chúa Giêsu, tôi nghĩ rằng chúng ta đang thật sự xích lại gần nhau hơn."

Đức Giám Mục tiếp, “Tất cả chúng ta đều có cơ hội để giúp đỡ bằng cách cam kết đóng góp cho việc đại kết ở mọi tầng lớp, từ cấp độ quốc tế, đến quốc gia, đến giáo phận, hay xã hội, nơi người dân đang phá vỡ các sự kỳ thị, các hàng rào ngăn cách, hay ngờ vực – hay chỉ là qua bối cảnh hoàn toàn xã hội. Như vậy thì mỗi người trong chúng ta phải nói: ‘Có một cấp độ nơi đó tôi có thể đóng góp.'"
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng chúc Tết Đức Hồng Y và Đức TGM Giuse
Giuse Trần Ngọc Huấn
17:29 16/01/2009
Sáng nay, ngày 21 tháng Chạp (Âm Lịch), Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân – Giám mục Lạng Sơn Cao Bằng đã dẫn đầu một đoàn khoảng 30 người gồm mọi thành phần dân Chúa về Hà Nội để chúc mừng Đức Hồng Y và Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Lạng Sơn – Cao Bằng và Hà Nội là hai giáo phận đã có mối quan hệ truyền thống hết sức tốt đẹp. Người giáo dân Hà Nội có lẽ được biết đến Lạng Sơn nhiều hơn từ khi Đức Hồng Y Phaolo Giuse làm Giám quản ở giáo phận nhỏ bé này (1999). Đoàn đã vào chúc mừng năm mới Đức Hồng Y Phaolo Giuse, những giờ phút thật cảm động bên người Cha Già thân thương và gần gũi.

Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt là một người được sinh ra tại Lạng Sơn và đã khởi đầu cuộc đời với trách nhiệm Giám mục của mình ở đó. Đức TGM đã tâm sự rằng “Giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng là mối tình đầu của đời Giám mục của tôi”. Thật vậy, trong suốt mấy năm làm Giám mục tại Lạng Sơn, Đức TGM đã làm hồi sinh lại mảnh đất truyền giáo đã bao năm hoang tàn xơ xác này. Ngài đã đến thăm từng gia đình, gặp gỡ từng người trong giáo phận và điểm đặc biệt nhất mà Ngài cho biết đó là “tôi có thể nhớ mặt và nhớ tên từng người một trong giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng”.

Đức TGM đã tâm sự rất cảm động rằng: “Khi về nhận Lạng Sơn – Cao Bằng, với tình hình, số giáo dân và nhân sự của Lạng sơn thật ít ỏi, tôi hiểu rằng Lạng Sơn chỉ đơn thuần là một giáo điểm, cần phải truyền giáo. Truyền giáo là sức sống của giáo phận. Không truyền giáo, giáo phận này sẽ chẳng còn ý nghĩa, chẳng còn sức sống”. Và Ngài đã lăn xả vào công việc: “Việc đầu tiên là ra đi. Ra đi không ngừng. Đi thăm viếng những xứ đạo xưa đã hoang tàn. Đi tìm những con chiên xa lạc. Đi hòa giải những người xích mích. Đi cử hành bí tích. Đi dạy giáo lý. Đi đám tang. Đi đám cưới. Đường là nhà, xe là phòng. Trời đất là quê hương. Núi rừng là giáo phận. Cứ thế đi không ngừng. Việc thứ hai đó là gặp việc gì làm việc nấy. Chưa có người nên phải làm tất cả. Làm Linh mục nhiều hơn Giám mục. Làm Giáo lý viên nhiều hơn Linh Mục. Tập hát, tập nghi thức. Mở cửa. Kéo chuông. Bất cứ việc gì cần phải làm, có thể làm để đưa linh hồn người ta về với Chúa, để xây dựng cộng đoàn, để củng cố giáo xứ, để khai mở tâm trí. Tựa như căn nhà xưa đã bị đổ nát, cỏ dại um tùm. Không biết phải bắt đầu từ đâu. Gặp gì làm nấy. Tay nhổ cỏ, tay nhặt đá. Tay chặt cành cây, tay quét rác...”

Chính vì thế, dù giờ đây đã ở cương vị mới, là Tổng Giám Mục Hà Nội, nhưng tình cảm của Ngài dành cho giáo phận nhỏ bé nơi miền biên cương vẫn hết sức sâu đậm. Mỗi khi nhắc đến Đức TGM Giuse, mọi thành phần dân Chúa Lạng Sơn – Cao Bằng đều dành cho Ngài một tâm tình tri ân sâu nặng và lòng yêu mến nồng nàn.

Mối liên hệ giữa hai giáo phận lại càng trở nên khăng khít hơn khi Cha Giuse Đặng Đức Ngân – một người con Hà Nội – được bổ nhiệm làm Giám mục coi sóc giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng kế vị ĐC Giuse thuyên chuyển về làm TGM Hà Nội.

Trong những diễn biến đáng chú ý của TGP Hà Nội ở mấy tháng vừa qua, nhiều đoàn từ giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng đã về để cùng cầu nguyện và thể hiện tình hiệp thông.

Một điều đáng chú ý hơn là trong ngày Chúa nhật 07 tháng 12 năm 2008 vừa qua, trong Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, trước sự hiện diện của Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng; Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục Giáo phận Lạng sơn, Đức Cha Lôrensô Chu Văn Minh, Tân Giám mục Phụ tá Hà Nội, các Linh mục, Tu sĩ Nam nữ, Chủng sinh và Cộng đồng Dân Chúa hiện diện đông đảo: Đức Tổng Giám mục Hà-Nội Giuse Ngô Quang Kiệt đã long trọng thông báo: “Tổng Giáo phận Hà-Nội và Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng là hai Giáo phận kết nghĩa, từ nay Hai giáo phận sẽ kết nghĩa Chị Em trong Đức Tin và Tình mến để giúp đỡ lẫn nhau. Như vậy, Tổng Giáo phận Hà-Nội không chỉ gửi người con yêu quý của mình để phục vụ Giáo phận Lạng sơn- Cao Bằng, mà từ nay hiệp nhất trong lời cầu nguyện, với những giúp đỡ cụ thể về tinh thần và các phương diện khác”.

Theo Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân: “đây thật sự là một Tin Vui với Giáo phận bé nhỏ của chúng tôi, để cảm nhận lời cầu nguyện hiệp nhất và sự giúp đỡ bằng tình chị em của Tổng Giáo phận Hà-Nội đối với Giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng. Phần Giáo phận nhỏ bé của chúng tôi cũng bày tỏ sự liên đới kết nghĩa Chị Em bằng lời cầu nguyện, hiệp nhất và những khả năng khiêm tốn của mình trong tình huynh đệ của giáo phận Lạng Sơn-Cao Bằng với Tổng Giáo phận Hà-Nội”.

Năm 2009 đánh dấu chặng đường 10 năm trên cương vị Giám Mục của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, với tâm tình con thảo và yêu mến, giáo dân Lạng Sơn – Cao Bằng và Hà Nội cùng dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa và cầu nguyện cho Ngài./.

Giuse Trần Ngọc Huấn
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Những chuyến xe bão táp và những cái chết được báo trước
Anmai, CSsR
03:17 16/01/2009
Năm hết, Tết đến!

Ai đi xa cũng nhớ về quê nhà nên rồi dù nghèo đến đâu đi chăng nữa họ cũng ráng “hồi hương” trong năm ba ngày nghỉ Tết. Vì như vậy, nên chẳng nói ra thì mọi người đều biết sức ép của phương tiện vận chuyển là như thế nào.

Với những người có tiền một chút đi tàu bay, xe lửa. Tàu bay, xe lửa vừa nhanh chóng vừa an toàn nhưng ngặt nỗi với đại đa số dân nghèo thì quả đó chỉ là niềm mơ nỗi ước mà thôi.

Những người có thu nhập khá, những người có đời sống cao một chút thì về quê trên những chiếc xe “Chất lượng cao”. Những người nghèo, những người có thu nhập thấp thì đành chấp nhận cái thân “bèo dạt mây trôi” ém mình trong những chiếc xe “bão táp”. Qua các phương tiện thông tin đại chúng người dân không khỏi rợn rùng khi thấy có những chiếc xe chở quá tải, quá hành khách đến độ không hiểu nỗi. Nếu như chiếc xe ấy không gây tai nạn giao thông để bị phát hiện thì chúng sẽ về đến bến thật an toàn nhờ chủ xe biết cách nộp “chi phí”.

Năm nào cũng như vậy, lối ra của việc về quê ăn Tết của những người nghèo vẫn còn lần mò trong đêm tối. Bên cạnh chuyện phải chấp nhận trả với giá vé cao hơn 60% hay thậm chí còn hơn thế nữa họ còn phải chấp nhận thân phận bấp bênh của những người đang đứng bên lề xã hội.

Đành biết rằng cần trang trài cho chuyến xe về vắng khách nhưng đâu đến nỗi phải phụ thu 60% như vậy? Thế nhưng tại sao nhà xe lại “vui vẻ” thu như vậy trong khi hành khách thì “méo mặt”. Vấn đề ở chỗ hết sức tế nhị mà chưa kịp nói ra thì ai cũng biết. Khoản thu thêm 60% hay thậm chí hơn nữa là để chi vào những “chi phí” trên đường. Thử hỏi những ai làm nghề xe khách đường dài sẽ có kinh nghiệm xương máu về những “chi phí” trên đường như vậy. Gọi “chi phí” rất đúng vì những khoản đó CHI rất ư là PHÍ nhưng phải chi chứ không chi thì đừng hòng xe có thể lăn bánh.

Ai đi đường dài từ Nam ra thăm Lăng Bác sẽ cảm thấu được những “chi phí” suốt con đường. Ngoài những trạm thu phí cố định trên đoạn đường vay vốn BOT hay là qua hầm của đèo Hải Vân, qua cầu … thì có những “trạm thu phí” di động làm việc cật lực cả ngày lẫn đêm. Hơn một lần, phóng viên Báo Tuổi Trẻ đã làm một phóng sự về một chiếc xe đi từ Nam ra Bắc phải mất hơn 2.000.000 đồng (hai trệu đồng) tiền “chi phí” đường bộ (dĩ nhiên là chưa tính tiền nhiên liệu).

Điều nghịch lý trên con đường dài nữa là có những đoạn đường rất đẹp, mới đổ nhựa nhưng tốc độ tối đa cho phép chỉ có 40 km/giờ, thậm chí có đoạn 30 km/giờ. Ở những đoạn đường khống chế tốc độ như vậy có rất nhiều “anh hùng núp”. Hễ bác tài nào “kìm lòng không đặng” chỉ cần nhích ga lên một chút là coi như bị “anh hùng núp” “bắn” chết ngay lập tức. Sau khi bị “bắn” thì không biết bao nhiêu “chi phí” sẽ phát sinh.

Tất cả những chi phí phát sinh đó đổ lên đầu nhà xe và cuối cùng không còn cách nào khác nhà xe phải đổ trên đầu đám dân đen. Nhiều khi nhà xe phải “cố gắng” nhồi nhét để có thêm chút thu nhập để tạm gọi là “lấy thu bù chi”. Biết đàng nào khi bị “anh hùng núp” gọi vào là phải “nộp” nên thôi đành “cắn răng chịu đựng” quá tải, quá hành khách.

Những người nghèo đành phải chấp nhận sự tủi nhục miễn sao về đến nhà trong dịp Tết là được rồi. Những người nghèo ấy thi thoảng lại gặp bọn bất lương chèo kéo lên những chiếc xe dù, sau đó trấn lột cho bằng hết hành lý tư trang của người nghèo và đuổi họ xuống vệ đường. Bao nhiêu cái nghịch lý, bao nhiêu điều tủi nhục cứ đổ lên đầu người nghèo khó tất bạt.

Những lúc ngồi trên xe tôi mới cảm nhận được những “hung thần trên đường phố” là gì. “Thời giờ là vàng bạc”, thế là sau khi vượt trạm của “anh hùng núp” là các bác tài cứ mặc sức mà đạp ga. Có những bác tài liều mạng đạp hết sức có thể đạp. Hỏi đâu ra mà không gây tai nạn? Những ngày này, có dịp ra các quốc lộ về các tỉnh, ta sẽ nhìn thấy những chuyến xe về tỉnh đầy ắp người và hàng hoá. Ngược lại, những chuyến xe từ các tỉnh về các thành phố lớn chạy một cách kinh khủng.

Năm nào cũng vậy, Tết chính là thời điểm mà những chuyến xe bão táp và những cái chết được báo trước luôn xảy ra.

Dù biết được nguyên nhân, dù biết được nghịch lý nhưng có lẽ người ta cứ lờ đi để kiếm được chút cơm gạo dăm ba ngày tết. Nhà xe kiếm theo phần của nhà xe, “anh hùng núp” kiếm theo kiểu của “anh hùng núp”. Tất cả những cái khổ, những cái tủi nhục cay đắng đều đổ dồn lên những con người nghèo khổ, tất bạt trong xã hội.

Chắc có lẽ Việt Nam đạt huy chương vàng về vận chuyển hành khách cũng như giao thông vận tại và có thể ghi vào sổ Guiness về thành tích to lớn của mình. Đất nước phát triển đến đâu không cần biết, nhìn vào đường sá, giao thông vận tải của nước đó sẽ biết thực hư như thế nào. Leo lên xe thì biết leo lên xe, còn khi nào đến đích thì mới biết đến chứ không thể nào lường trước được bởi ám ảnh của những chuyến xe bão táp và những con đường đầy những hiểm hoạ tai nạn.

Biết đến bao giờ xã hội mới có được cái Tết an toàn không tai nạn, không có xe bão táp?

Biết đến bao giờ số người chết do “hung thần đường phố” gây nên được kéo giảm?

Biết đến bao giờ người nghèo được ưu đãi đi trên những chiếc xe rộng rãi không nhồi nhét?
 
Thành quả “đổi mới” của CSVN: Kẻ giàu tột bậc – Người nghèo kiết xác!
Alfonso Hoàng Gia Bảo
07:15 16/01/2009
Năm nay càng cận Tết, nhiều gia đình lao động nghèo và nhất là những người nhập cư càng cảm thấy thấp thỏm lo. Bên cạnh những khoản chi tiêu hằng tháng vốn đã eo hẹp, nay còn có thêm ba ngày Tết trong tình nguy cơ bi mất việc, giảm lương cắt thưởng và giá cả thị trường thì tăng vọt từ giữa năm “một đi không hẹn ngày trở lại” v.v…

Chuyện giàu nghèo, thịnh suy của một đất nước cũng là lẽ thường. Tuy nhiên điều không bình thường của VN là ở chỗ, trong khi 50% dân số còn nghèo khổ, làm quần quật quanh năm không đủ ăn thì lại có quá nhiều người giàu “nứt khố đổ vách” ném tiền qua cửa không biết ‘đau tay’.

‘Xóa đói giảm nghèo’ hay đào sâu thêm ‘hố sâu ngăn cách”?
Gần đây trên tờ VietnamNet có bài Xe "khủng" ở Sài Gòn kể về chuyện mê xe hơi của các đại gia và công tử Sàigòn, trong đó có đoạn “riêng khu biệt thự Thảo Điền (Q.2) lại nổi tiếng với “bản doanh” của P.Q.C, một “thiếu gia” trong lĩnh vực bất động sản có bộ sưu tập 5 siêu xe mà dân chơi xe ước tính khoảng 2,5 triệu USD. Theo ông chủ salon H.T, nếu địa ốc không rớt giá thảm hại thì “thiếu gia” trên đã đem về VN chiếc Bugatti Veyron gần 40 tỷ đồng!”

Giá trị lao động của hàng chục triệu lao động VN suốt năm qua là điều không thể phủ nhận. Bởi nếu không làm được việc, ắt họ đã bị các ông chủ Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản ‘đuổi cổ’ từ giữa năm rồi. Cuối năm, mặc dù tình hình suy thoái kinh tế chung khiến không ít ông bà chủ gặp khó khăn, nhưng nhà máy xí nghiệp vẫn còn đó chưa hề bị phá sản, còn người lao động khi ‘tính sổ’ lại quãng đời 365 ngày vừa qua, làm vất vả vẫn chẳng đủ ăn. Vậy công sức họ đã trôi về đâu?

I. Từ một ‘tấm gương’ làm giàu

Gần đây trên trang BBC tiếng Việt có đăng tải loạt phỏng vấn một số phụ nữ tên tuổi trong nước. Trong số này là một phụ nữ giàu sang có tiếng với lời đồn đoán gia tài của bà ta có thể mua nổi một phần lãnh thổ VN (!?). Không rõ chuyện này hư thực ra sao, nhưng trên thực tế công ty của bà “Tư Hường” đã chi 7 triệu USD tổ chức cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008 ở Nha Trang vừa qua, giúp VN ‘dợt le’ với thế giới chỉ với 9 phút quảng cáo toàn cầu, đủ cho thấy tài lực của bà là không hề nhỏ.

Nhưng có lẽ vì đã có nhiều ‘tấm gương’ giàu có bất chính, như vợ chồng tổng thống F.Marcos của Philipines thời thập niên 80 hay còn bị đặt dấu hỏi như thủ tướng Thaksin của Thailand, nay mỗi khi có dịp phỏng vấn các phú ông phú bà, báo giới ngày nay rất quan tâm đến ‘bí quyết’ làm giàu của họ và phóng viên Xuân Hồng của đài BBC cũng không là ngoại lệ. Chỉ sau mấy câu thăm hỏi xã giao anh đã không ngần ngại hỏi thẳng bà ta về điều tế nhị này nhưng phải mất một hồi ‘vòng vo tam quốc’ người phụ nữ này cuối cùng mới dám nhìn nhận “…cơ ngơi hiện nay tôi thật sự đi lên là nhờ bất động sản”!!!

Thuật lại điều này không vì ngưỡng mộ hay ganh tỵ với bà “Tư Hường” mà để xin nêu lên hai câu hỏi:

1./ Thực chất ‘kinh doanh bất động sản’ có thời bùng nổ dữ dội khắp nơi trong nước là gì mà lại có thể giúp cho những người như chị phụ nữ trên, qua phỏng vấn trình độ cũng không có vẻ gì là cao siêu lắm nếu không muốn nói là còn nặng chất nông dân, làm sao lại có thể kiếm tiền tỷ nhanh chắc cũng cỡ… Bill Gates?

2./ Sự làm giàu cực kỳ nhanh mà không có bất cứ ngành nghề nào địch nổi với kinh doanh đất đai, đã có liên hệ gì đến sự bùng nổ tranh chấp khiếu kiện đất đai khắp nơi trong nước và tình trạng phân hóa giàu nghèo lớn kinh khủng như hiện nay?

II. ‘Nghèo’ người - ‘Phước’ ta

Vấn đề nào cũng có cái gốc riêng của nó. Chuyện giàu tột bực - nghèo kiết xác ở trong nước hiện nay đã khởi đầu từ giữa những năm 80, khi khối cộng sản sắp sụp đổ buộc chính quyền VN phải mở cửa giao thương với thế giới tự cứu mình trước khoản thâm thủng mất viện trợ của Liên Xô, Đông Âu. Chính sách “đổi mới” này đã có tác động tức thì, chỉ vài năm sau nhiều loại hàng hóa thiết yếu đã bớt khan hiếm thấy rõ so với thời bao cấp, thời gian mà những thùng hàng quà Mỹ, Pháp và những dãy hàng ngoại nhập trên con đường Nguyễn Thông dường như là thế giới riêng của những gia đình giàu có, vì thế dân chúng phần nào cảm thấy ‘dễ thở’.

Nhưng dưới mọi xã hội cộng sản ấm no hạnh phúc chỉ là những giấc mơ, còn giông bão với gông cùm lại rất hiện thực và cơn giông bão ấy chính là tình trạng đất đai nhà cửa bắt đầu tăng giá ‘chóng mặt’…!

Vợ chồng tôi chỉ ước ao có một ngôi nhà nhỏ của riêng mình, nhưng chắc chắn là chẳng bao giờ có nổi.

Chị Nguyễn Thị Mai Thảo (nguồn BBC)

Cuối năm 1992 khi ‘cơn bão’ giá cả nhà cửa bất ngờ ập đến, với dân Sàigòn đây quả là hiện tượng kỳ lạ! Bởi chỉ mới vài năm trước hàng ngàn gia đình còn sẵn sàng ký giấy hiến nhà cửa của mình cho nhà nước để được leo lên máy bay ra khỏi VN. Trước nữa hàng trăm ngàn người còn dám vượt biên một sống hai chết giữa biển khơi.

Nguyên nhân của tình trạng leo thang giá đất đai nhà cửa này là do các công ty nước ngoài khi đến VN làm ăn dù ở bất kỳ lĩnh vực gì, hết thảy đều phải cần đến đất đai để lập làm nhà máy, xưởng sản xuất, kho bãi v.v… công ty nào có ‘bèo bọt’ lắm thì cũng phải thuê vài chục mét vuông đủ chỗ ngồi cho 2,3 nhân viên gọi là cái văn phòng đại diện, giao dịch v.v… Có Cầu ắt phải có Cung, chính quyền là người có quyền xét duyệt chuyện đầu tư, làm sao các quan chức với đồng lương chết đói không đủ nuôi gia đình, làm sao có thể bỏ qua cơ hội ‘moi’ tiền lũ tư bản trong việc đáp ứng nhu cầu đất đai nhà cửa cho họ?

Bằng chứng của việc này là là thành ủy thành phố Sàigòn ngay vào cuối những năm 80s họ nhanh chóng lập ra hệ thống “Công ty Cung ứng Dịch vụ Nước ngoài” gọi tắt là FOSCO và còn ‘ăn nên làm ra’ cho đến nay. Với ban kinh tài thành ủy đứng đằng sau, công ty này ngày một bành trướng thâu tóm mọi dịch vụ với người nước ngoài tại Tp.HCM và họ cũng không bao giờ biết mùi khó khăn, thất bại nó ra làm sao!

FOSCO không xa lạ gì với các Việt kiều từng về VN làm ăn, vì là nơi cung cấp dịch vụ bắt buộc từ A-Z cho các văn phòng đại diện và các công ty. Ngay cả cho đến người làm công việc quét dọn văn phòng, thông qua Sở Lao Động họ cũng bắt phía nước ngoài phải thuê lại để có cớ đứng giữa ăn tiền cò hằng tháng, thì làm sao món hàng béo bở nhiều tỷ về đất đai kia làm sao có chuyện họ quên không khai thác?
Nhưng vì lý do gì mà các nhà đầu tư nước ngoài lại ồ ạt đổ tiền vào thị trường VN?

1./ Ấy là vì dân chúng VN ta quá nghèo. Với số tiền 50-60 USD/người/tháng, chỉ bằng 1/10 so với nhiều nước Châu Á khác là họ có ngay hàng chục triệu lao động trẻ sẵn sàng lao vào các hãng xưởng làm việc cặm cụi ngày đêm. Mức giá nhân công mà họ không thể nào kiếm được ở các lân bang có mức sống cao hơn VN.

2./ Ấy là vì VN ta đang bị cai trị bởi một chính thể độc tài. Các nước lớn luôn nguyền rủa chính quyền VN về chuyện độc đảng nhưng thật sự trong lòng họ lại không hoàn toàn ghét chính quyền này. Nước nào càng đầu tư nhiều vào VN quốc gia ấy càng yêu cái chính quyền này nhiều hơn tất cả. Đơn giản chỉ vì chẳng có chính phủ nào lại muốn thấy VN mất đi cái “ổn định chính trị” hiện nay trở nên giống Thái Lan, biểu tình làm khó chính quyền khiến cho việc làm ăn của các doanh nhân xứ họ gặp trắc trở.

3./ Ấy là vì VN ta đang có một chính quyền cực khỏe bắt nạt dân nhưng luôn yếu đuối trước những đồng dollars bởi quốc nạn tham nhũng. Các quan chức ở mọi địa phương sẵn sàng tiếp tay với những ông chủ như nhà máy Vedan ở tỉnh Đồng Nai, làm ngơ để cho họ xả chất thải độc hại xuống lòng sông, cửa biển để đổi lấy những khoản tiền tiền hối lộ dưới các danh nghĩa hỗ trợ địa phương.

Theo thông tin vừa nói được phổ biến từ cuộc hội thảo mang tên ‘Chính sách, giải pháp bảo đảm cho kinh tế VN tăng trưởng nhanh và bền vững’ do Viện Nghiên Cứu Tài Chánh mới được tổ chức tại Hà Nội hôm 12/1/2009, hơn một nửa các khu Công Nghiệp (KCN) khu chế xuất ở VN không có hệ thống xử lý nước thải. Các chuyên gia tham gia hội thảo cũng ghi nhận rằng, TP.HCM và Hà Nội là những địa phương gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất cả nước. Trong số 14 KCN ở TP.HCM mới chỉ có 6 KCN có thiết lập hệ thống xử lý nước thải tập trung. Được đầu tư ở một nơi ít tốn kém tiền đầu tư xây dựng cơ bản như vậy với nhiều doanh nhân Châu Á còn đâu bằng?

(Về cuộc hội thảo này, không biết có phải vì sợ làm xấu mặt thêm nhà nước vốn đã quá “be bét” bởi đủ thứ chuyện xấu xảy ra trong năm qua, nên tất cả các báo lớn trong nước đều đã ‘tảng lờ’ đưa tin, ngoại trừ tờ Pháp Luật và An Giang http://www.phapluattp.vn/news/chinh-tri/view.aspx?news_id=240025 ?)

III. Lập dự án vì dân hay vì… bán đất?

Khi diễn ra việc ‘hội nhập’, ngoại trừ một số ít các công ty liên doanh với các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn có hiệu quả như Công ty Mỹ Phẩm Sàigòn với thương hiệu ‘P/S’ được định giá hàng triệu USD, hầu hết các công ty quốc doanh khác vào thời điểm cuối những năm 80 đã gần như kiệt quệ hoàn toàn, do hậu quả của lối làm ăn XHCN “một thằng làm, tám thằng rình” nhưng “cha chung chẳng thằng nào chịu khóc!”. Sau mấy chục năm dưới sự ‘chăn dắt’ của Bác và đảng, hầu hết các công ty quốc doanh này không có gì đáng giá hơn ngoài mảnh đất cắm dùi cùng mới nhà xưởng cũ mèm, máy móc thiết bị lạc hậu đem ra cho có cái gọi là ‘góp vốn’ với người ta.

Tuy nhiên số lượng liên doanh kiểu trên không nhiều bằng số các công ty mới thành lập mới trong các KCN. Chính các KCN này cùng các dự án sân golf, khu du lịch đã ‘ngốn’ đất đai mới khiến vấn nạn đất đai thêm trầm trọng, vì:
1./ Để có được diện tích từ vài chục cho tới vài trăm hécta đất thẳng cánh cò bay cho các KCN, các tỉnh thành không còn cách nào khác phải lấy đất nông nghiệp của dân. Cụ thể, tính đến hết tháng 8/2007, cả nước có 150 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 32,3 nghìn Ha. Dự kiến từ nay đến năm 2015, cả nước sẽ có thêm 113 KCN được thành lập mới với tổng diện tích quy hoạch là 29,2 nghìn ha và 27 KCN mở rộng với tổng diện tích hơn 6 nghìn ha. (http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx?ctl=Article&TabID=5&aID=433)

2./ Trong các dự án xây dựng KCN, góp vốn của các công ty nhà nước chủ yếu là đất đai và chiếm 51% tổng giá trị dự án để VN được nắm đằng cán trong liên doanh. Điều này có nghĩa đất đai đã được qui ra thành tiền và khi tính toán cho thuê hoặc bán lại cho các nhà đầu tư nước ngoài vào các KCN. Nó không thấp như cái giá ‘bao cấp’ mà chính quyền dựa vào quyết định này nọ để trả ép cho nông dân cũng hoặc các ‘khổ chủ’ đô thị nếu đó là đất xây khách sạn cao ốc trong nội thành. (Thực ra các nhà đầu tư nước ngoài họ hoàn toàn không có quyền nhúng tay vô mấy chuyện bồi thường này, vì là ‘miếng ăn’ của các quan chức).

Một khi cái ‘liên minh ma quỉ’ trên và cơ ngơi xây dựng xong, “quyền sở hữu toàn dân” đối với những mảnh đất trên xem như đã biến mất. Với giấy phép dự án trong tay, đất đai nghiễm nhiên đã thuộc về quyền sở hữu của các công ty liên doanh mà những người kinh doanh bất động sản như phụ nữ trên dưới danh nghĩa nhà đấu tư, tất nhiên núp sau họ không thể thiếu các quan chức địa phương.

Từ vài trăm triệu USD/năm tiền đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào thị trường VN những năm 80, sau 20 năm thực hiện Luật Đầu tư Nước ngoài, VN đã thu hút được hơn 9.500 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD khoản chênh lệch mà các nhà đầu tư nước ngoài phải trả cho cái gọi là bồi hoàn về đất đai để xây dựng các công trình khách sạn, nhà hàng, các KCN trên cả nước ít nhất cũng vài hàng chục tỷ USD http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105039/ns080123154356).

Chính quyền Tp.HCM vì dân nghèo hay vì… Phú Mỹ Hưng?
Tỉnh Đồng Nai, sau 20 năm thực hiện đầu tư nước ngoài, nơi này đang có 25 KCN đã được cấp phép thành lập với tổng diện tích 6.912 hécta. Các doanh nghiệp đã đầu tư hơn 254 triệu USD xây dựng hạ tầng KCN, trong diện tích đã cho thuê 3.089 hécta so với 4.695 hécta đất dùng cho thuê. (http://hdnd.dongnai.gov.vn/anpham/copy_of_mlnewsfolder.2008-04-25.8590723099/mlnews.2008-07-27.8891087355)

Nếu lấy mức giá khiêm tốn 1 triệu/mét vuông thì con số tiền các công ty nước ngoài đã phải trả riêng cho địa phương này đã là 3 tỷ USD! Trừ đi khoản ‘bố thí’ bồi hoàn cho nông dân theo khung giá bèo bọt của nhà nước có nơi chỉ vài chục ngàn / mét vuông, bằng 1/20 giá họ đem vào tính thị trường, khoản chênh lệch khổng lồ còn lại đã rơi vào túi những ‘nhà đầu tu’ bất động sản như người phụ nữa trên và những cán bộ đảng viên núp sau bóng họ.

Như vậy, chúng ta có thể thấy ‘bộ phim’ đói nghèo toàn tập ở VN do đảng Csvn gây nên cho dân tộc suốt nửa thế kỷ qua có thể chia ra ba phần:

1./ 1945- 1984: Chiến tranh hóa, Ngu dân hoá và Nghèo hóa đất nước để sau khi VN đã bị rơi xuống đáy vực đói nghèo của thế giới, bằng chính sách gọi là “đổi mới” họ ‘xả van’ cho các nhà đầu tư nước ngoài tràn vào vì là chỗ trũng nhất khu vực về mức sống.

2./ 1986 – 2002: Dưới danh nghĩa “Đổi Mới”, đảng viên cộng sản khắp nơi vơ vét đất đai đem bán cho tư bản nước ngoài. Nếu không nhờ những khoản thu nhập bất minh khổng lồ nhiều chục tỷ USD có được từ bán đất đai, ai có thể lý giải nổi sự giàu có quá nhanh của nhiều ‘đại gia’ mà theo số liệu năm 2007 có người đã có tới 3-4 ngàn tỷ, tương đương 150 -200 triệu USD, tiền ấy ở đâu ra đối với một quốc gia chủ yếu sống vẫn nhờ gia công cho các công ty nước ngoài? Cùng là chiếm đoạt đất đai nhưng sự khác biệt trong giai đoạn này là để thu vén cho cá nhân mà không còn vì CNXH nào như thời kỳ 1945-1985.

3./ 2003 - đến nay: Tìm cách “chạy làng”! Bằng NQ 23/QH-2003, đảng Csvn đã chối bỏ trách nhiệm trước hàng triệu người dân, các tôn giáo về tất cả những gì họ đã gây ra có liên quan đến đất đai tài sản. khi đã dời mốc ‘phủi tay’ lùi sâu về tận ngày 1/7/1991.

IV. Trăm dâu đổ đầu tằm - Trăm khổ đổ đầu dân!

Cho dù chính quyền Csvn tự hào về chính sách ‘mở cửa hội nhập’ thành công như thế nào, họ vẫn không thể phủ nhận điều là từ chỗ căm thù người giàu, ghét bỏ ‘đấu tố’ phú nông, tiểu thương. Ghét đến mức dân chúng ăn thịt gà cũng không dám để nhà hàng xóm biết vì sợ bị xem là nhà giàu, nay cũng chính chế độ ấy lại quay sang tâng bốc tư bản và khuyến khích người dân làm giàu!?

Cái nghèo bây giờ buồn tủi hơn xưa!
Nếu điều trái khoáy này xảy ra trong khoa học tự nhiên ắt sẽ gây nên những sự bùng nổ như khi hai khối mây mang điện tích trái ngược va vào nhau tạo nên sấm chớp dữ dội. Chẳng nhẽ con bệnh XHCN trong cơn hấp hối đi bốc thuốc ‘kinh tế thị trường’ về uống lại có thể bình yên?

Vấn nạn về đất đai dấy lên mấy năm gần đây ngày càng gay gắt, chính là hậu quả của sự cố tình uống nhầm thuốc này của đảng csvn. Nhờ có những đồng dollar từ sự khai thác sự nghèo đói của đất nước suốt hơn hai thập kỷ qua đảng csvn mới còn có thể sống sót đến hôm nay. Họ không chết thì dân phải ‘đền tội’ thay vậy. Tài nguyên đất đai đã trở thành trọng tâm của sự khai thác này và đã gây nên bao nhức nhối cho toàn xã hội.

Những sự hào nhoáng bề ngoài ở các đô thị VN hiện nay chắc chắn đã không thể có nếu không có nhiều tỷ USD nước ngoài đổ vào. Đường xá VN cũng sẽ chẳng thể đẹp nếu không có những khoản vay ODA. Bởi tiếng là chủ nhà, chủ dự án nhưng thực ra hầu hết dân VN đang là những kẻ làm thuê cho nước ngoài, một kiểu xuất khẩu lao động tại chỗ. Nếu ai đó còn đi làm thuê mà nếu coi bộ còn giàu nhanh hơn cả chủ, cần phải xem thực ra là họ đang hành nghề gì?

Theo giáo sư Tô Duy Hợp, chuyên gia về nghèo đói, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam khẳng định tỉ lệ nghèo đói ở Việt Nam có thể tới 50%, bao gồm cả nhóm tái nghèo, nếu áp dụng theo chuẩn nghèo quốc tế. Chính quyền rất ‘láu cá’, họ định nghĩa chuẩn đói nghèo ở VN chỉ ở mức 200 ngàn đồng/người/tháng còn ở nông thôn và 260 ngàn ở thành thị, từ đó báo cáo cho LHQ VN mới chỉ còn 13% là nghèo nhưng thực tế ai có thể sống nổi với mức thu nhập như vậy?

Mới mấy ngày đầu năm 2009 vừa qua, khoảng 2.000 nông dân ở các xã Xuân Quan, Phụng Công và Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên trong địa bàn dự án 500 ha Khu đô thị, thương mại và du lịch Văn Giang, đã kéo về Hà Nội phản đối chính quyền cưỡng chế thu hồi ruộng đất của họ.

Đây là vụ phản đối tập thể lớn nhất từ trước đến nay đã nói lên tất cả thực trạng khốn khổ của dân chúng trước vấn nạn tạo ra các khu qui hoạch, dự án bán đất cho tư bản để kiếm tiền chênh lệch của chính quyền VN ngày nay. Chỉ có sức mạnh của những đồng dollars ấy chính quyền mới dám làm càn y hệt như ở Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà trong năm 2008 vừa qua khi đem xe ủi tràn xuống đồng ruộng ném nông dân lên bờ.

Có vẻ như chưa bao giờ những lời cộng sản ‘nguyền rủa’ chủ nghĩa tư bản lại trở nên đúng với tình cảnh VN đến từng milimét như hôm nay: “mâu thuẫn giai cấp gay gắt” và “giai cấp thống trị đang câu kết cùng các nhà tư bản bóc lột sức lao động hàng triệu công nhân trong các nhà máy…”.. Csvn đang làm một cuộc cách mạng ngược khi chỉ chăm lo phục vụ cho những người giàu có và tệ hại hơn cả là đã bội phản lại hàng triệu người đã ngã xuống cho lý tưởng giải phóng dân tộc trong thời chiến.

Tóm lại, chính vì sự nghèo khổ của dân Việt, tình trạng nhân lực, thiên nhiên dồi dào nhưng bĩ lãng phí nhất là bờ biển dài hàng ngàn km v.v… mới hấp dẫn các nhà tư bản mới mạnh dạn đổ tiền vào VN.

Csvn cũng hiểu rất rõ trong thế giới đa chiều ngày nay, sự cai trị độc tài kiểu ngày xưa bằng những bức màn sắt đã lỗi thời. Vì vậy chỉ còn cách phải nắm quyền chi phối về kinh tế, mới có thể giúp họ có đủ LỰC hỗ trợ QUYỀN cai trị.
Nay nhìn vào thực tế ai cũng có thể thấy, chính cán bộ đảng viên mới thực sự là người hưởng lợi nhiều nhất từ việc ‘đổi mới’ này, vì họ chính là tầng lớp đang giàu nhanh nhất nhờ kiếm chác từ buôn bán đất đai các dự án chứ không thể là những người lao động nghèo làm việc vất vả trong các nhà máy. Nhưng trước công luận, đảng csvn lại luôn rêu rao “đổi mới, mở cửa, hội nhập v.v…đã giúp cho hàng triệu hộ thoát khỏi đói nghèo” trong lúc chính họ là kẻ đã gây ra cảnh đói nghèo ấy thì lại không bao giờ dám nói đến.

Xem thêm:
1. Phỏng vấn trên BBC http://www.bbc.co.uk/vietnamese/programmes/
2. Luật Đầu Tư Nước Ngoài Tại Việt Nam http://eluat.com/88000002.htm
3. 20 Năm Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988 - 2007) http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx?ctl=Article2&TabID=4&mID=237&aID=507
4. Thành tựu 20 năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
http://hdnd.dongnai.gov.vn/anpham/copy_of_mlnewsfolder.2008-04-25.8590723099/mlnews.2008-07-27.8891087355
5. Dự luật đầu tư có khả năng nảy sinh thêm nhũng nhiễu?
http://vietnamese-law-consultancy.com/vietnamese/content/browse.php?action=shownews&category=&id=51&topicid=567
6. Cả nước đã có 150 khu công nghiệp
http://fia.mpi.gov.vn/Default.aspx?ctl=Article&TabID=5&aID=433

Sàigòn, 15/01/2009
 
Văn Hóa
Nóng giận trong hoạt động cộng đồng
Trần Hiếu
05:02 16/01/2009
Có bao giờ bạn nổi nóng trong các hoạt động cộng đồng? Nếu có, bạn không phải là người đơn độc. Phúc Âm Thánh Luca thuật chuyện khi Chúa Giêsu bị khước từ vào một làng miền Samari, hai môn đệ Giacôbê và Gioan đã phẫn nộ đòi khiến lửa từ trời xuống thiêu rụi làng đó. Nhưng Chúa đã quở mắng các ông rồi Thầy trò trẩy qua làng khác (Lc. 9:51-56).

Nóng giận là cảm giác tức tối, bực bội xảy ra trước một điều trái ý mình. Nó thường đi đôi với những thay đổi trong cơ thể như nhịp tim đập nhanh hơn, áp suất máu gia tăng, mặt đỏ, khó thở, các bắp thịt trở nên căng thẳng... Các triệu chứng nầy kèm với cảm giác giận dữ khiến người ta có ước muốn phản công lại cấp kỳ.

Sự căng thẳng là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với các áp lực thể lý cũng như tình cảm và có thể sản sinh các phản ứng tiêu cực. Ví dụ, khi bị phiền trách một cách bất công, chúng ta dễ có ý nghĩ bực bội, rồi sinh cảm giác tức giận, mặt có thể đỏ lên hoặc tái nhợt, và hậu qủa là, nếu không biết kềm giữ, thái độ ứng xử của chúng ta sẽ lúng túng, mất hiệu qủa. Sự căng thẳng, vì vậy, làm cho chúng ta dễ trở nên bối rối, không thích hợp trong suy nghĩ và hành động.

Khi tham gia việc chung, chúng ta thường bị nhiều thứ áp lực: trách nhiệm phải chu toàn, chạy theo thời gian, thiếu phương tiện, lời khen tiếng chê của người đồng sự và của quần chúng... Dầu muốn dầu không, những áp lực nầy đều có ảnh hưởng mạnh đến tinh thần, tình cảm của người hoạt động.

Tổn thương các quan hệ cá nhân là một trong những cái giá nghiêm trọng rất đáng tiếc do tính nóng của một người gây ra. Trong khi xây dựng quan hệ đòi hỏi một thời gian dài, cơn nóng giận xảy ra chốc lát có thể làm hư hại mối quan hệ đáng trân trọng đó. Đáng tiếc hơn nữa, thường khi cơn nóng không làm chúng ta giận dữ người ngoài, mà chính với những người cộng sự gần gũi của mình.

Bạn hãy nghĩ về sự nóng giận gần đây nhất của mình đã xảy ra với ai? Bạn có lấy làm tiếc đã làm mất lòng họ không? Nếu có, một khi bạn tiếp tục cách ứng xử gấp rút khi nóng nảy, chắc chắn bạn sẽ không xây được tình thân mà trái lại, sẽ xô đẩy những người còn lại càng ngày càng xa cách mình.

Tất nhiên, chúng ta cần phải có thái độ tức giận trước một tình trạng bất công hoặc các hành vi bạo ngược xảy đến cho chúng ta cũng như những người chung quanh. Thế nhưng, cách ứng xử nào là thích hợp để mang lại hiệu qủa? Có phải sự nóng giận làm cho chúng ta bị lu mờ trong nhận định và mất hiệu qủa trong hành động? Nếu vậy, bạn cần áp dụng một số phương thức cần thiết để tránh ân hận về sau.

Lấy giờ tạm nghỉ (Time out)

Trước hết, chúng ta phải nhận rằng mọi người đều có lúc nóng giận. Nóng giận là một loại tình cảm bình thường mà hầu như ai cũng đều có kinh nghiệm. Khi nóng giận, điều bạn cần làm ngay là nén lòng, tìm cách nguôi cơn giận (cool down) trước khi phản ứng. Bạn có thể thực hiện điều đó bằng cách không phát biểu, tập hít thở, tự đếm số chậm rãi từ 1 đến 20 trong thinh lặng, lấy giờ tạm nghỉ, và nếu cần bước ra khỏi hiện trường. Trong nhiều trường hợp, việc rút lui khỏi hiện trường để giải lao là hiệu qủa nhất vì nó giúp chúng ta dễ lấy lại bình tĩnh và tránh bầu khí căng thẳng.

Dùng phương pháp ‘tự tranh luận’ (Dispute Thinking)

Tiếp theo, trong khi suy nghĩ để có một phản ứng thích hợp, bạn cần nhận diện vì sao mình có cảm giác nóng nảy đó? Bạn có thể áp dụng phương pháp “tự tranh luận” (dispute thinking), đặt ra những giải thích cho quan điểm của đối phương, cũng như thử nhìn vấn đề dưới nhiều góc cạnh. Một khi nhìn vấn đề một cách bình thản dưới nhãn quan của người khác, chúng ta thấy đối phương phần nào có lý lẽ của họ và nhờ vậy, dễ có lòng thông cảm hơn.

Đối thoại, đàm thoại (Communication)

Sau khi suy nghĩ, chúng ta quyết định điều phải làm. Trong thực tế, để giải quyết vấn đề, chúng ta cần áp dụng các phương thức trong đàm thoại theo các bước tuần tự như: lắng nghe điều người khác phát biểu; nếu cần, lập lại điều đã nghe để hiểu cho chính xác; rồi trình bày trong ôn hoà quan điểm của mình. Trong cách lắng nghe và trình bày, để tránh đẩy người khác vào vị thế bị tấn công, chúng ta cần dùng lối nói lấy tôi làm chủ từ (I message). Ví dụ, thay vì nói “Anh đến trể làm mọi người trễ họp” thì nói, “Tôi khởi sự giờ họp trễ vì tôi phải chờ mọi người đến đông đủ”.

Các thánh nhân cũng nóng giận, nhưng trước cơn nóng giận họ ứng xử khác với người thường. Thánh Thérèsa thành Lisieure khi bị chọc giận thường cầu nguyện, xin Chúa thưởng công cho kẻ tấn công mình vì người nghĩ rằng đây là cơ hội để tập luyện nhân đức kiên nhẫn. Còn thánh Francis de Sales thì khuyên bảo chúng ta, khi nóng giận hãy cầu xin cho được an bình trong tâm hồn và chuyển ý nghĩ của mình qua một hướng khác. Nếu bắt chước các ngài, đồng thời áp dụng các phương thức giải quyết của khoa tâm lý, một khi nóng giận chúng ta lấy giờ tạm nghỉ (time out), tránh khỏi hiện trường, dùng lối ‘tự tranh luận’ và đàm thoại trong ôn hoà thì chắc hẳn chúng ta sẽ tránh được các đổ vỡ quan hệ vì nóng giận.
 
Xuân Ca
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
17:22 16/01/2009

XUÂN CA



Hợp ca lên ru mộng đời tươi thắm
Hòa ca lên cho ngát dặm thiên đường
Hoan ca lên nhận mưa ơn phước cả
Ta đi xây những mùa xuân yêu thương
Lời chim vui ca hót rộn khắp vườn
Bình minh dậy trên từng dây phím
Hoa lá cỏ cây suối trào mát lịm
Hương đầu mùa dâng tỏa cõi thiên linh
Cung trầm bổng chan chứa lời nguyện kinh
Đưa hồn ta lạc vào tiên cảnh giới
Tiếng kèn loa muôn thiên thần vẫy gọi
Nguồn mạch yêu thương say giấc vĩnh hằng…

(Đại Chủng viện Vinh- Thanh)
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Hoa Xuân
Nguyễn Ngọc Danh
06:08 16/01/2009

HOA XUÂN



Ảnh của Nguyễn Ngọc Danh

Vườn ai cúc đã dâng hương

Bóng em qua ngõ giáo đường đón Xuân

Vàng bâu áo lụa thanh tân

Em hay cúc nở từ tâm nụ cười.

(Trích thơ của Lưu Trần Nguyễn)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
 
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Trăng Rằm Quê Ngoại
Đặng Đức Cương
06:11 16/01/2009

TRĂNG RẰM QUÊ NGOẠI



Ảnh của Đặng Đức Cương

Mùa thu sương khói lên khơi

Vầng trăng sáng giữa khung trời nhớ thương..

(Trích thơ của Sương Mai)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền