Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:56 15/01/2019
29. NGƯỜI MÙ TÉ CẦU
Có một người mù đi từ trên cái cầu gỗ bắt ngang khe suối nhỏ, vì không cẩn thận nên rơi xuống, lập tức hai bàn tay bấu lấy lan can cầu, rất là thận trọng và căng thẳng nắm chặt, anh ta nghĩ rằng nếu mà sẩy tay thì sẽ rơi xuống tận vực thẳm mà chết.
Người qua đường nói với anh ta:
- “Đừng sợ, thả hai tay ra phía dưới là mặt đất ấy mà !”
Người mù vẫn không tin, càng nắm chặt tay và khóc lớn.
Qua một lúc lâu, sức lực yếu dần và sẩy tay rơi xuống đất, anh ta mới tự cười nhạo mình rằng:
- “Xì, biết sớm dưới chân là mặt đất, thì đâu có tự mình chuốc khổ lâu như vậy chứ ?!”
(Ứng hài lục)
Suy tư 29:
Người mù thì không thấy, cho nên họ rất hay nghi ngờ, cái nghi ngờ này cũng rất chính đáng vì họ không thấy đường đi, không thấy rõ cuộc sống thật của con người, và vì để được an toàn mà họ luôn hồ nghi không tin ai.
Chúng ta nói chuyện với người mù chưa chắc là họ tin, nhưng nếu chúng ta đến cầm tay dẫn họ qua đường, hay đỡ họ xuống đất thì họ tin chúng ta hơn.
Cuộc sống của người Kitô-hữu-bị-lầm-đường cũng như thế, họ như những người mù không nhìn thấy được lời khuyên bảo của chúng ta, không nhận ra được tinh thần của Tin Mừng khi chúng ta giảng dạy cho họ nếu chúng ta không bắt tay thực hành tinh thần ấy.
Có nhiều người làm công tác tông đồ cứ than trách là người này nói họ không nghe, người kia nói họ không thích.v.v... nhưng có lúc nào họ kiểm điểm lại cuộc sống của mình coi mình nói Lời Chúa cho người khác nghe mà mình có thực hành Lời Chúa không ?
Đừng trách người mù đa nghi, cũng đừng trách anh chị em nghi ngờ lời nói của mình, nhưng hãy xét mình coi xem sao, bởi vì có những lúc chúng ta không làm như chúng ta đã nói, tức là nói một đàng làm một nẻo thì ai mà nghe lời giảng dạy của chúng ta chứ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Có một người mù đi từ trên cái cầu gỗ bắt ngang khe suối nhỏ, vì không cẩn thận nên rơi xuống, lập tức hai bàn tay bấu lấy lan can cầu, rất là thận trọng và căng thẳng nắm chặt, anh ta nghĩ rằng nếu mà sẩy tay thì sẽ rơi xuống tận vực thẳm mà chết.
Người qua đường nói với anh ta:
- “Đừng sợ, thả hai tay ra phía dưới là mặt đất ấy mà !”
Người mù vẫn không tin, càng nắm chặt tay và khóc lớn.
Qua một lúc lâu, sức lực yếu dần và sẩy tay rơi xuống đất, anh ta mới tự cười nhạo mình rằng:
- “Xì, biết sớm dưới chân là mặt đất, thì đâu có tự mình chuốc khổ lâu như vậy chứ ?!”
(Ứng hài lục)
Suy tư 29:
Người mù thì không thấy, cho nên họ rất hay nghi ngờ, cái nghi ngờ này cũng rất chính đáng vì họ không thấy đường đi, không thấy rõ cuộc sống thật của con người, và vì để được an toàn mà họ luôn hồ nghi không tin ai.
Chúng ta nói chuyện với người mù chưa chắc là họ tin, nhưng nếu chúng ta đến cầm tay dẫn họ qua đường, hay đỡ họ xuống đất thì họ tin chúng ta hơn.
Cuộc sống của người Kitô-hữu-bị-lầm-đường cũng như thế, họ như những người mù không nhìn thấy được lời khuyên bảo của chúng ta, không nhận ra được tinh thần của Tin Mừng khi chúng ta giảng dạy cho họ nếu chúng ta không bắt tay thực hành tinh thần ấy.
Có nhiều người làm công tác tông đồ cứ than trách là người này nói họ không nghe, người kia nói họ không thích.v.v... nhưng có lúc nào họ kiểm điểm lại cuộc sống của mình coi mình nói Lời Chúa cho người khác nghe mà mình có thực hành Lời Chúa không ?
Đừng trách người mù đa nghi, cũng đừng trách anh chị em nghi ngờ lời nói của mình, nhưng hãy xét mình coi xem sao, bởi vì có những lúc chúng ta không làm như chúng ta đã nói, tức là nói một đàng làm một nẻo thì ai mà nghe lời giảng dạy của chúng ta chứ.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Đức Chúa Giê-su chịu phép Rửa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:58 15/01/2019
LỄ ĐỨC CHÚA GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA
Tin Mừng : Lc 3, 15-16, 21-22
“Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa xong và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra”.
Bạn thân mến,
Hôm nay lễ Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa, kết thúc mùa giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên của Giáo Hội. Cũng có nghĩa là với lễ Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa Giáo Hội mời gọi chúng ta bước theo Ngài và cùng với Ngài đi rao truyền tin mừng Nước Trời cho muôn dân, đó chính là sứ mạng và là bổn phận của Đức Chúa Giê-su đang thực hiện trên con người của chúng ta.
Sứ mạng của Đức Chúa Giê-su là loan báo tin vui Nước Trời, và vì tin vui này mà Ngài –vốn là Thiên Chúa- đã xuống sông Gio-đan xin thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa như một tội nhân sám hối để lại một nhân đức cho chúng ta noi theo , đó là đức khiêm nhường và phục vụ.
Trong cuộc sống hôm nay, chung quanh chúng ta, có rất nhiều biến cố kỳ diệu xảy ra, nhưng không có một biến cố kỳ diệu nào như biến cố Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Giođan : “Có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con yêu dấu của Cha ; Cha hài lòng về Con” .
Đây là một lời chứng,
một lời sai đi,
một lời bảo đảm
và là lời nói của yêu thương của Chúa Cha dành cho Chúa Con trong thân phận làm người, để nhờ Ngài mà nhân loại được cứu độ.
Bạn thân mến,
Đức Chúa Giê-su đã chịu phép rửa không phải vì Ngài có tội, nhưng là vì tội lỗi của chúng ta mà Ngài phải làm như thế để cho chúng ta hiểu rằng : Con Thiên Chúa đã trầm mình xuống giòng nước Gio-đan để có vô số người vì tin vào Ngài mà sống lại, đổi mới và nên thánh trong nước Rửa Tội.
Trong tâm tình của ngày lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa ban cho mỗi người biết ý thức vai trò Ki-tô hữu mà chúng ta đã lãnh nhận nơi bí tích Thanh Tẩy, đó là trở nên tư tế để mỗi giây phút hiến tế chính mình cho Thiên Chúa bằng những hy sinh; đó là tiên tri để không ngừng rao giảng và sống Lời Chúa cho mọi người; đó là sống sao cho xứng đáng địa vị con cái trong vương quốc của Thiên Chúa. Đó chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi người vậy.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin Mừng : Lc 3, 15-16, 21-22
“Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa xong và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra”.
Bạn thân mến,
Hôm nay lễ Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa, kết thúc mùa giáng sinh và bắt đầu mùa thường niên của Giáo Hội. Cũng có nghĩa là với lễ Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa Giáo Hội mời gọi chúng ta bước theo Ngài và cùng với Ngài đi rao truyền tin mừng Nước Trời cho muôn dân, đó chính là sứ mạng và là bổn phận của Đức Chúa Giê-su đang thực hiện trên con người của chúng ta.
Sứ mạng của Đức Chúa Giê-su là loan báo tin vui Nước Trời, và vì tin vui này mà Ngài –vốn là Thiên Chúa- đã xuống sông Gio-đan xin thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa như một tội nhân sám hối để lại một nhân đức cho chúng ta noi theo , đó là đức khiêm nhường và phục vụ.
Trong cuộc sống hôm nay, chung quanh chúng ta, có rất nhiều biến cố kỳ diệu xảy ra, nhưng không có một biến cố kỳ diệu nào như biến cố Đức Chúa Giê-su chịu phép rửa ở sông Giođan : “Có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con yêu dấu của Cha ; Cha hài lòng về Con” .
Đây là một lời chứng,
một lời sai đi,
một lời bảo đảm
và là lời nói của yêu thương của Chúa Cha dành cho Chúa Con trong thân phận làm người, để nhờ Ngài mà nhân loại được cứu độ.
Bạn thân mến,
Đức Chúa Giê-su đã chịu phép rửa không phải vì Ngài có tội, nhưng là vì tội lỗi của chúng ta mà Ngài phải làm như thế để cho chúng ta hiểu rằng : Con Thiên Chúa đã trầm mình xuống giòng nước Gio-đan để có vô số người vì tin vào Ngài mà sống lại, đổi mới và nên thánh trong nước Rửa Tội.
Trong tâm tình của ngày lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa ban cho mỗi người biết ý thức vai trò Ki-tô hữu mà chúng ta đã lãnh nhận nơi bí tích Thanh Tẩy, đó là trở nên tư tế để mỗi giây phút hiến tế chính mình cho Thiên Chúa bằng những hy sinh; đó là tiên tri để không ngừng rao giảng và sống Lời Chúa cho mọi người; đó là sống sao cho xứng đáng địa vị con cái trong vương quốc của Thiên Chúa. Đó chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi người vậy.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
------------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:00 15/01/2019
77. Nếu chúng ta mỗi giờ mỗi khắc nhớ đến Thiên Chúa , thì ở trên thế gian này đã hưởng được phúc thiên đàng, bởi vì phúc thiên đàng là luôn luôn nhìn thấy Thiên Chúa.
(Thánh Bonaventura)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
--------
http://www.vietcatholicnews.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Thi ca suy niệm: Chúa Nhật Tuần 2 thường niên C
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
10:16 15/01/2019
(Ga 2: 1-12)
HÓA RƯỢU
Ca-na tiệc cưới đông người,
Nửa vời thiếu rượu, thói đời khen chê.
Khách mời dự tiệc đang phê,
Rượu ngon chóng cạn, đôi bề khó khăn.
Chúa cùng môn đệ mời ăn,
Ma-ry Mẹ Chúa, giữ danh gia đình.
Tinh vi quan sát tình hình,
Sáu chum hết rượu, thật tình đáng thương.
Cảm thông lòng mẹ vấn vương,
Ghé tai bên Chúa, xin thương giúp người.
Can chi mọi việc trong đời,
Giờ Con chưa đến, nói lời xin vâng.
Mẹ rằng cứu giúp đỡ nâng,
Sáu chum đầy nước, trào dâng phúc lành.
Rượu ngon biến đổi đã thành,
Ngạc nhiên quản tiệc, ơn lành trời ban.
Nếm xem rượu mới nếp than,
Lòng người hoan hỉ, chứa chan ân tình.
Lần đầu phép lạ tỏ mình,
Giê-su Chúa Cả, giáng sinh làm người.
Chúa Giêsu cùng mẹ Maria và các môn đệ dự tiệc cưới tại Cana, xứ Galilêa. Câu chuyện xảy ra một cách hy hữu. Trong lúc tiệc cưới đang vui, qua sự quan sát tế nhị, mẹ Maria biết gia đình thân chủ đang bối rối và lo lắng vì thiếu rượu. Đúng là uống chưa say, chất cay đã hết. Đức Mẹ tự ý đến nói nhỏ với Chúa một cách ý nhị: Họ hết rượu rồi. Mẹ rất tế nhị và cảm nhận được nhu cầu cần thiết của gia đình. Nhìn vào cuộc sống gia đình, nếu một đám cưới mà thiếu rượu nửa chừng có lẽ sẽ có nhiều truyện xảy ra không hay sau này.
Qua lời thủ thỉ của Đức Mẹ, Chúa Giêsu hiểu được sự khó khăn của gia đình. Chúa đã hóa nước thành rượu ngon. Chúa đã sai các người giúp việc múc nước đổ đầy các chum. Rồi Chúa Giêsu bảo họ: Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc. Người quản tiệc nếm thử nước đã trở thành rượu. Đây là phép lạ đầu tiên Chúa đã làm.
Chúng ta biết rượu chính là mối hoan lạc. Tự nó, rượu không tốt, không xấu, nhưng biết dùng đúng mức nó sẽ trở thành nguồn vui. Chúa dùng nuớc biến thành rượu cho lòng người hoan hỉ. Sau này, chính Chúa Giêsu lại dùng rượu biến đổi trở thành Máu của Ngài để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Trong mỗi thánh lễ, Chúa tiếp tục làm sự lạ hóa bánh rượu trở thành Thịt Máu của Chúa. Trước mắt người phàm, chúng ta hoàn toàn không thấy gì thay đổi, bánh vẫn là bánh, rượu vẫn hoàn rượu, nhưng bản thể của bánh rượu đã biến đổi trở nên Thánh Thể Chúa.
Truyện kể trong cuộc họp báo, một giáo sư vô thần chứng minh Chúa Kitô chỉ là một anh phù thủy. Ông có một ly nước trước mặt. Ông bỏ vào một thứ bột hóa học và nước liền ra đỏ và ông nói đó là phép lạ. Đức Kitô đã giấu trong tay áo một thứ bột giống như bột này. Và Ngài đã làm phép lạ khi biến nước thành rượu theo cách này. Hãy xem tôi còn làm những chuyện lạ hơn Đức Kitô nữa. Tôi có thể biến rượu thành nước lã. Rồi ông đổ một thứ bột khác vào nước, nước đổi ra mầu trắng và rồi lại đổi ra mầu đỏ. Có một anh Công Giáo đứng dậy nói: Thưa giáo sư, giáo sư rất giỏi, nhưng xin giáo sư hãy uống thứ rượu đó. Ông giáo sư không dám uống, vì đó là chất hóa học độc hại. Người thanh niên nói: Thưa qúi vị, đó là sự khác biệt giữa Chúa Kitô và vị giáo sư này.
Chúa Giêsu đã dự tiệc cưới và chúc lành cho đôi hôn phối bởi chính nguồn rượu hoan lạc. Sự hiện diện của Chúa và Đức Maria đã giúp cho đôi tân hôn khỏi sự tủi hổ. Chúa dùng quyền năng biến đổi nước thành rượu. Chúng ta xin Chúa và Mẹ đồng hành trong đời sống gia đình và giúp hoán cải đời sống của chúng ta.
THỨ HAI, TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN
(Mc 2, 18-22).
ĂN CHAY
Ăn chay sám hối canh tân,
Hãm mình dẹp xác, tinh thần thảnh thơi.
Bon chen so sánh ở đời,
Hơn thua thắng thiệt, đôi lời chối chê.
Tinh thần chay tịnh bội thề,
Tô vôi hình thức, làm hề thế gian.
Đôi lời bênh đỡ khuyên can
Môn đồ của Chúa, chưa tàn cuộc vui.
Tân lang hiện diện tới lui,
Ngày qua tháng lại, niềm vui chưa tròn.
Thầy trò gắn kết sắt son,
Thời gian chia cách, héo hon sầu buồn.
Ăn chay tưởng niệm Thầy luôn,
Khắc tâm đạo lý, về nguồn thiện tâm.
Dung hòa cũ mới gieo mầm,
Canh tân đổi mới, đường lầm tránh xa.
THỨ BA, TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN
(Mc 2, 23-28).
SABBÁT
Giữ ngày Sa-bát luật truyền,
Kiêng làm việc xác, lời khuyên rõ ràng.
Việc lành phúc đức dở dang,
Thiện tâm tiến đức, mở đàng ái nhân.
Chúa rằng Sa-bát vì dân,
Giữ tâm trong sạch, tránh dần gian tham.
Tinh thần giữ luật phải làm,
Chính tâm tuân giữ, tục phàm tránh xa.
Tránh đừng học thói điêu ngoa,
Thực hành nhân đức, thứ tha tội đời.
Con Người chủ tể cao vời,
Muôn loài thụ tạo, do Người dựng nên.
Con người phú bẩm từ trên,
Phục quyền Tạo Hóa, ngước lên kính thờ.
Tôn vương Chúa Cả vô bờ,
Trung thành sống đạo, cậy nhờ phúc ân.
THỨ TƯ, TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN
(Mc 3, 1-6).
CỨU SỐNG
Hội đường giảng dạy hôm nay,
Có người tay bại, cơ may chữa lành.
Sáng ngày Sa-bát thi hành,
Điều lành sự dữ, tranh dành phân bua.
Chữa lành, giết chết, hơn thua,
Chúa rằng cứu sống, phép vua lệ làng.
Tỏ lòng thương xót dễ dàng,
Cầm tay cứu chữa, hát vang chúc mừng.
Ghét ghen Biệt Phái nóng bừng,
Tai sao chữa trị, ngày đừng làm chi.
Cố tình phạm luật đã ghi,
Chúa thương hồn xác, từ bi làm lành.
Lòng người chai đá thù hành,
Tìm tòi bắt lỗi, mạo danh luật truyền.
Yêu thương căn cốt lời khuyên,
Ân thiêng cứu độ, uy quyền Chúa ban.
THỨ NĂM, TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN
(Mc 3, 7-12).
CHỮA BỆNH
Khắp vùng tuôn đến bên Người,
Giê-su cứu chữa, một thời hồng ân.
Đám đông tứ xứ cận lân,
Cầu ơn Chúa chữa, xác thần sạch trong.
Xót thương nhân loại chờ mong,
Quỷ thần ô uế, nhập vòng kêu la.
Người Con Thiên Chúa là Cha,
Dủ tình thương xót, thứ tha tội tình.
Chữa hồn cứu xác an bình,
Âm thầm sứ vụ, ẩn mình dấn thân.
Mes-si-a Chúa thành nhân,
Truyền rao Nước Chúa, cứu dân độ trì.
Nhân từ thương xót từ bi,
Hạ thân khiêm nhượng, cũng vì chúng sinh.
Quyền năng phép tắc thiên linh,
Nước Trời rộng mở, quang vinh rạng ngời.
THỨ SÁU, TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN
(Mc 3, 13-19).
TÔNG ĐỒ
Mười hai môn đệ theo Thầy,
Chúa thương chọn lựa, đong đầy tin yêu.
Ba năm học hỏi bao nhiêu,
Tông đồ Chúa gọi, cao siêu ơn trời.
Nhiệt tâm trung tín gọi mời,
Ra đi hăng hái, vào đời truyền rao.
Nước Trời ngọc báu tuyệt cao,
Tung chài thả lưới, biết bao sóng dồn.
Hy sinh buông bỏ cứu hồn,
Sai đi rao giảng, dụ ngôn đã dùng.
Đơn sơ sâu sắc bao dung,
Nhiệm mầu mạc khải, thiên cung rạng ngời.
Tông đồ môn đệ đổi đời,
Xả thân nhân chứng, cao vời thánh danh.
Chúa ban phúc lộc ơn lành,
Triều thiên vinh thắng, để dành đời sau.
THỨ BẢY, TUẦN 2 THƯỜNG NIÊN
(Mc 3, 21-21).
MẤT TRÍ
Người đời xúc phạm thánh danh,
Nói rằng mất trí, sao đành, khó nghe.
Thân nhân của Chúa chia phe,
Đám đông tuôn đến, chắn che quấy rầy.
Khát khao giáo lý của Thầy,
Quyền năng cao cả, tràn đầy khôn ngoan.
Chữa lành thân xác hoàn toàn,
Nội tâm thấu tỏ, đa đoan trong lòng.
Xót thương giải cứu lụy vong,
Thứ tha tội lỗi, thoát vòng quỷ ma.
Lòng người khắc khoải mưa sa,
Hồng ân tuôn đổ, hải hà tâm can.
Đổi đời sám hối cầu van,
Giê-su Cứu Thế, rộng ban phúc lành.
Tin yêu tín thác lòng thanh,
Thiên đàng hé mở, ca danh Chúa Trời.
Cùng Mẹ vững tin vào tình thương của Chúa
Lm Đan Vinh
22:26 15/01/2019
CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN C
Is 62,1-5 ; 1 Cr 12,4-11 ; Ga 2,1-11
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 2,1-11
(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới, có thân mẫu Đức Giê-su. (2) Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : “Họ hết rượu rồi”. (4) Đức Giê-su đáp : “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờ của Con chưa đến. (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (6) Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. (7) Đức Giê-su bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói : “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. (11) Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na miền Ga-li-lê. Bữa tiệc mới được nửa chừng thì rượu sắp hết. Mặc dù chưa tới Giờ hành động, nhưng do lời Mẹ Ma-ri-a cầu bầu mà Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon. Qua dấu lạ cảm thông và giàu lòng thương xót này mà các môn đệ của Đức Giê-su đã tin Người thực là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
-C 1-2: +Có thân mẫu Đức Giê-su: Tin mừng Gioan 2 lần nhắc đến sự hiện diện của Mẹ Ma-ri-a trong thời gian Đức Giê-su ra giảng đạo: Lần đầu khi Đức Giê-su bắt đầu đi thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Mẹ Ma-ri-a đã hiện diện trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na và đã can thiệp xin Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon, dù chưa đến Giờ của Người. Lần hai nhắc đến việc Mẹ Ma-ri-a đứng dưới chân thập giá trong cuộc tử nạn của Đức Giê-su, để hiệp công với Người cứu độ loài người.
-C 3-5: +Thiếu rượu: Người Do thái vẫn thường ăn uống tiết độ. Nhưng trong dịp cưới xin, họ lại hay uống quá chén. Vì thế bữa tiệc cưới này mới nửa chừng đã bị hết rượu. +Thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi”: Mẹ Ma-ri-a tỏ ra nhạy cảm trước nhu cầu của đôi tân hôn, nên đã nói nhỏ với Đức Giê-su rằng: “Họ hết rượu rồi” với hy vọng Người sẽ giúp đôi tân hôn. +Thưa Bà: Ở đây và trên cây thập giá (x Ga 19,26), Đức Giê-su đều dùng từ “Bà” (gune) để gọi thân mẫu của Người, giống như bà E-và xưa cũng đã được gọi là “Bà” (x. St 3,15.20). Điều này ngầm ám chỉ Mẹ Ma-ri-a là “E-và Mới” thời Tân ước, là Mẹ của “nhân loại mới” được cứu độ. +Chuyện đó can gì đến Bà và Con?: Đây là một kiểu nói Do thái nhằm từ chối một sự can thiệp không đúng lúc (x. 2 Sm 16,10). +Giờ của Con chưa đến: Đức Giê-su không làm gì trước Giờ của Người (x. Ga 7,30). Ở đây có ý nói rằng: tuy Giờ được tôn vinh chưa đến, vì Người chưa trải qua cuộc tử nạn và phục sinh, nhưng ngay bây giờ Người muốn biểu lộ Giờ ấy cho các môn đệ thấy hầu họ tin vào Người, khi họ thấy dấu lạ Người sắp thực hiện. +“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”: Trực giác khiến Mẹ Ma-ri-a tin chắc Đức Giê-su sẽ can thiệp, nên đã căn dặn gia nhân hãy làm theo lệnh Người truyền. Câu này nhắc lại lời Pha-ra-on vua Ai Cập thời tổ phụ Gia-cóp và Giu-se xưa: “Cứ đến với Giu-se. Ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55).
-C 6-8: +Sáu cái chum đá dùng vào việc thanh tẩy: Theo phong tục Do thái, người ta thường để những cái chum đựng nước trong sân trước hay sân sau nhà mỗi khi có đám tiệc, để khách mới đến có thể rửa tay rửa mặt theo tục lệ rửa tay trước khi dùng bữa (x. Mt 15,2). Ở đây có 6 chum đá, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng 40 lít, tức vào khỏang từ 80 đến 120 lít nước ! +“Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng: Đức Giê-su ra lệnh cho gia nhân đổ đầy nước vào sáu cái chum đá. “Đổ đầy tới miệng” cho thấy ơn Chúa được ban cho đôi tân hôn cách dư đầy. Với khoảng 600 lít rượu thì cả làng sẽ được uống rượu thỏa thích!
-C 9-11: +Dấu lạ đầu tiên: Dấu lạ là một việc làm khác thường, diễn tả một điều thiêng liêng đang ẩn dấu. Dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Ca-na này để tỏ bày vinh quang và quyền năng của Đức Giê-su trước nặt các môn đệ (c 11b), giúp các ông vững tin vào Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 2,11c).
4.CÂU HỎI:
1) Qua việc nhắc đến Mẹ Ma-ri-a vào lúc đầu và cuối thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giê-su, thánh Gio-an muốn nói gì về vai trò của Đức Giê-su và thân mẫu Người trong công trình cứu độ? 2) Tại sao Đức Giê-su lại dùng tiếng “Bà” khi thưa chuyện với Mẹ Ma-ri-a?
3) Qua câu “Giờ Con chưa đến”, Đức Giê-su muốn nói gì về sứ mệnh Thiên Sai của Người?
4) Tại sao Mẹ Ma-ri-a lại dạy gia nhân làm theo lệnh truyền của Đức Giê-su?
5) Đức Giê-su làm phép lạ đầu tiên này tại tiệc cưới Ca-na nhằm mục đích gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1 .LỜI CHÚA: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA THÁNH HÓA GIA ĐÌNH:
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau :
“Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40x50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường hay lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi : “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã thuận theo ý của chồng tôi. Giờ đây sau thời gian mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình chúng tôi và các khách đến thăm nhà chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách, sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu suy nghĩ của ông như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi !”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên : “Mỗi lần đến đây, tôi luôn cảm thấy trong nhà chị chan chứa bình an”... Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của khách dến chơi đều được nâng cao ! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa !”.
2) GIÁ TRỊ LỜI CẦU BẦU CỦA MỘT BÀ MẸ:
Linh mục Syl-va-no và mục sư Tin lành Hen-ri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình. Linh mục Syl-va-no có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Hen-ri thì xin tiền để xây trường học.
Đến nơi, họ được hoàng tử Au-gus-te tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Hen-ri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án đã không được hoàng tử chấp nhận.
Mục sư ngồi lại chờ linh mục Syl-va-no cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Hen-ri liền thắc mắc hỏi :
- Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế ?
Linh mục Syl-va-no trả lời :
- Dĩ nhiên là như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn sang bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, khi nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu nên đã đồng ý tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ: ”Nếu mẹ đã đồng ý thì con cũng đồng ý thôi”
(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).
3) MỘT BỆNH NHÂN ĐƯỢC ĐỨC MẸ GIÚP ĐÓN NHẬN ĐỨC TIN:
Cha J.B BONSOLI người nước Ý đã đi truyền giáo bên Ấn độ. Suốt 20 năm Ngài đã rửa tội cho 20.000 người. Ngài đã kể lại câu chuyện như sau:
“Hôm đó tôi rời địa điểm truyền giáo Đam-ma để đi một vòng bằng xe đạp. Khi đi được khoảng 30 Km thì tôi bị lạc vào một khu rừng. Càng đi vô thì cây cối càng rậm rạp.Tôi vừa đi vừa sợ khi nghe thấy những tiếng hú của những con báo trong đó.
Trời đã gần tối tôi thầm cần nguyện xin Đức Mẹ giúp tôi. Đi thêm khoảng 5 cây số nữa thì tôi rẽ vào con đường nhỏ và tôi thấy một ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn. Tôi dừng xe lại, dựng bên cạnh một gốc cây rồi lên tiếng hỏi: "Có ai trong nhà không? "
Có tiếng nói từ trong nhà vọng ra: "Có. Nhưng xin ông đừng vào nhà vì tôi bị cùi".
Dù biết như vậy nhưng tôi vẫn mở cửa bước vào trong nhà. Trước mặt tôi là một người đàn ông đang nằm co quắp vì đau đớn trên giường. Hỏi ra mới biết trước kia người này là một ông thầy cúng. Rồi trong cuộc nói chuyện sau đó, ông ta nói: "Con biết là con sẽ được Rửa tội."
- Làm sao ông biết điều đó? Ai đã nói với ông? Có phải là một giáo lý viên không?" Tôi hỏi lại.
Ông đáp :"Cách đây hai tháng có một bà mặc áo đẹp lắm vào căn nhà này và nói với con: “Con chịu đau khổ nhiều nhưng con đừng nản lòng. Ta sẽ sai một linh mục đến thăm viếng và đổ nước thanh tẩy tâm hồn con, rồi ta sẽ đến đưa con lên thiên đàng".
Tôi đưa tay vào túi áo lấy ra mẫu ảnh “Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu” và đưa cho ông ta xem. Vừa thấy bức ảnh ông đã kêu lên: "Đúng rồi. Đúng là bà này. Chính bà đã đến thăm con khoảng hai tháng trước". Sau đó tôi đã dạy ông các điều căn bản về đức tin trước khi ban phép rửa tội theo ý nguyện của ông.
Mỗi người chúng ta hãy dành cho Mẹ Ma-ri-a một vị trí quan trọng trong cuộc đời chúng ta:
Trong niềm vui ngày cưới hay lễ kỷ niệm của gia đình: Hãy mời Mẹ đến chung vui với chúng ta.
Khi bị sầu buồn vì mất người thân. Nếu được Mẹ an ủi, chắc chắn nỗi buồn sẽ qua mau.
Chúng ta sẽ không còn cô đơn, nếu có Mẹ ở bên.
Khi có Mẹ dẫn đường, chắc chúng ta sẽ không bị lạc lối.
Nếu được Mẹ trợ giúp, mọi việc sẽ thành công.
3. THẢO LUẬN:
Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một anh bạn thân. Sau kỳ nghỉ anh ta đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư anh nhận xét về gia đình của bạn như sau: “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà của bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo, được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của các thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an chan hòa trong ngôi nhà của bạn: Mọi người đều quan tâm săn sóc nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy có tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu, hay những lời chỉ trích người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn”... Còn gia đình của mỗi người chúng ta hiện nay ra sao? Gia đình chúng ta có những phẩm chất đạo đức giống như gia đình trong câu chuyện nói trên hay không?
4. SUY NIỆM:
1) VỮNG TIN VÀO CHÚA:
Khi biết tiệc cưới nửa chừng sắp hết rượu, Mẹ Ma-ri-a đã nói với Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi”. Dù nghe Chúa trả lời: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con ? Giờ Con chưa đến”, nhưng Mẹ vẫn vững tin vào tình thương cứu độ của Chúa nên đã mạnh dạn nói với những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.
Ngày nay, Mẹ cũng nói với Chúa: “Họ hết rượu rồi” để bao tình yêu vợ chồng đã nhạt phai được nồng thắm lại; Để bao gia đình đang thiếu vắng tình yêu được trên thuận dưới hòa; Để bao tâm hồn đang chao đảo lấy lại được niềm tin yêu.
Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi tiếng đồng hồ lại có cả trăm đôi vợ chồng đưa nhau ra tòa xin ly hôn. Con số các đôi vợ chồng ly hôn lại còn tăng mạnh hơn tới 50% tại các nước phương Tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng kết hôn, thì có một cặp bị thất bại chỉ sau một thời gian chung sống.
Nếu ngày xưa Chúa Giê-su đã biến Luật Mô-sê đã bị nhạt như nước lã, trở thành Tin Mừng yêu thương thắm đỏ như rượu nồng; thì ngày nay, Người cũng muốn các gia đình chúng ta biến đổi cuộc đời lạt lẽo vô vị trở nên hạnh phúc chứa chan tình “mến Chúa, yêu người”.
2) HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
Cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta hôm nay cũng không thiếu những sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết tin vào tình thương cầu bầu của Mẹ Ma-ri-a thì chắc chúng ta sẽ vượt qua được mọi khó khăn, với điều kiện theo lời Mẹ dạy: “Giê-su bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Mỗi gia đình tín hữu hãy mời Chúa và Mẹ đến nhà bằng việc lập bàn thờ Chúa tại phòng khách và tổ chức đọc kinh tối gia đình hằng ngày hay ít là hằng tuần. Trong giờ kinh tối, các thành viên cùng nghe Lời Chúa và cầu nguyện cho nhau, luôn ứng xử với nhau cách lịch sự tế nhị và sẵn sàng cảm thông tha thứ lỗi lầm cho nhau như lời thánh Phao-lô: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Col 3,12-13).
3) MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ:
Trong Tin mừng, những ai đón Đức Giê-su đến nhà đều được Người ban ơn lành. Chẳng hạn:
- Si-mon đón Đức Giê-su đến nhà và Người đã cho nhạc mẫu ông khỏi bệnh (x. Mt 1,29.31);
- Người cũng đến nhà ông Giai-a để phục sinh con gái ông mới chết (x. Mc 5,22.38-43);
- Người đến nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu dự tiệc và chữa lành một bệnh nhân phù thũng (x. Lc 14,1-4);
- Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu và biến ông từ một kẻ tham lam thành người lương thiện, trở lại làm con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 19,8-10);
- Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để giúp hai ông nhận ra Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” khi đồng bàn với các ông (x. Lc 24,13-32)...
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp cho đôi tân hôn. Nhờ đó, các môn đệ đã tin Người là Đấng Thiên Sai.
4) “NÀY, TA ĐỨNG NGOÀI CỬA MÀ GÕ”:
Ðức Giê-su đã đến dự tiệc cưới ở thành Ca-na để chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn. Đừng để Người đứng ngoài hạnh phúc của chúng ta. Nếu chúng ta nghe lời Người dạy để đổ nước tin yêu vào các chum rỗng tâm hồn, thì chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ban tràn đầy niềm vui ơn cứu độ.
Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang đứng ngòai cửa linh hồn chúng ta và gõ. Những ai mở cửa đón Người vào nhà, Người sẽ vào và dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa với Người (x Kh 3,20). Vậy chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a vào nhà linh hồn mình, hầu nhận được ơn cứu độ Người ban hay không? Chúng ta có sẵn lòng cảm thông với những nỗi đau của các gia đình bất hạnh và giúp họ vượt qua hoàn cảnh khó khăn không?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con được luôn có Chúa hiện diện, qua việc trưng bày tượng ảnh trên bàn thờ gia đình, nhất là qua cách ứng xử lịch sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình. Xin cho chúng con biết hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mở tai lắng nghe Lời Chúa trong giờ kinh gia đình và quyết tâm thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
- LẠY CHÚA. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói bệnh tật và bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội chúng con đang sống hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Is 62,1-5 ; 1 Cr 12,4-11 ; Ga 2,1-11
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 2,1-11
(1) Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới, có thân mẫu Đức Giê-su. (2) Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. (3) Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người : “Họ hết rượu rồi”. (4) Đức Giê-su đáp : “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con? Giờ của Con chưa đến. (5) Thân mẫu Người nói với gia nhân : “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. (6) Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. (7) Đức Giê-su bảo họ : “Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng. (8) Rồi Người nói với họ : “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc”. Họ liền đem cho ông. (9) Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hóa thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại (10) và nói : “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon cho đến mãi bây giờ”. (11) Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê, và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su và các môn đệ đã cùng với Mẹ Ma-ri-a đến tham dự một bữa tiệc cưới tại thành Ca-na miền Ga-li-lê. Bữa tiệc mới được nửa chừng thì rượu sắp hết. Mặc dù chưa tới Giờ hành động, nhưng do lời Mẹ Ma-ri-a cầu bầu mà Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon. Qua dấu lạ cảm thông và giàu lòng thương xót này mà các môn đệ của Đức Giê-su đã tin Người thực là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
-C 1-2: +Có thân mẫu Đức Giê-su: Tin mừng Gioan 2 lần nhắc đến sự hiện diện của Mẹ Ma-ri-a trong thời gian Đức Giê-su ra giảng đạo: Lần đầu khi Đức Giê-su bắt đầu đi thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Mẹ Ma-ri-a đã hiện diện trong bữa tiệc cưới tại thành Ca-na và đã can thiệp xin Đức Giê-su làm phép lạ biến nước lã thành rượu ngon, dù chưa đến Giờ của Người. Lần hai nhắc đến việc Mẹ Ma-ri-a đứng dưới chân thập giá trong cuộc tử nạn của Đức Giê-su, để hiệp công với Người cứu độ loài người.
-C 3-5: +Thiếu rượu: Người Do thái vẫn thường ăn uống tiết độ. Nhưng trong dịp cưới xin, họ lại hay uống quá chén. Vì thế bữa tiệc cưới này mới nửa chừng đã bị hết rượu. +Thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi”: Mẹ Ma-ri-a tỏ ra nhạy cảm trước nhu cầu của đôi tân hôn, nên đã nói nhỏ với Đức Giê-su rằng: “Họ hết rượu rồi” với hy vọng Người sẽ giúp đôi tân hôn. +Thưa Bà: Ở đây và trên cây thập giá (x Ga 19,26), Đức Giê-su đều dùng từ “Bà” (gune) để gọi thân mẫu của Người, giống như bà E-và xưa cũng đã được gọi là “Bà” (x. St 3,15.20). Điều này ngầm ám chỉ Mẹ Ma-ri-a là “E-và Mới” thời Tân ước, là Mẹ của “nhân loại mới” được cứu độ. +Chuyện đó can gì đến Bà và Con?: Đây là một kiểu nói Do thái nhằm từ chối một sự can thiệp không đúng lúc (x. 2 Sm 16,10). +Giờ của Con chưa đến: Đức Giê-su không làm gì trước Giờ của Người (x. Ga 7,30). Ở đây có ý nói rằng: tuy Giờ được tôn vinh chưa đến, vì Người chưa trải qua cuộc tử nạn và phục sinh, nhưng ngay bây giờ Người muốn biểu lộ Giờ ấy cho các môn đệ thấy hầu họ tin vào Người, khi họ thấy dấu lạ Người sắp thực hiện. +“Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”: Trực giác khiến Mẹ Ma-ri-a tin chắc Đức Giê-su sẽ can thiệp, nên đã căn dặn gia nhân hãy làm theo lệnh Người truyền. Câu này nhắc lại lời Pha-ra-on vua Ai Cập thời tổ phụ Gia-cóp và Giu-se xưa: “Cứ đến với Giu-se. Ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo” (St 41,55).
-C 6-8: +Sáu cái chum đá dùng vào việc thanh tẩy: Theo phong tục Do thái, người ta thường để những cái chum đựng nước trong sân trước hay sân sau nhà mỗi khi có đám tiệc, để khách mới đến có thể rửa tay rửa mặt theo tục lệ rửa tay trước khi dùng bữa (x. Mt 15,2). Ở đây có 6 chum đá, mỗi chum chứa được hai hay ba thùng 40 lít, tức vào khỏang từ 80 đến 120 lít nước ! +“Các anh đổ đầy nước vào chum đi !” và họ đổ đầy tới miệng: Đức Giê-su ra lệnh cho gia nhân đổ đầy nước vào sáu cái chum đá. “Đổ đầy tới miệng” cho thấy ơn Chúa được ban cho đôi tân hôn cách dư đầy. Với khoảng 600 lít rượu thì cả làng sẽ được uống rượu thỏa thích!
-C 9-11: +Dấu lạ đầu tiên: Dấu lạ là một việc làm khác thường, diễn tả một điều thiêng liêng đang ẩn dấu. Dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới Ca-na này để tỏ bày vinh quang và quyền năng của Đức Giê-su trước nặt các môn đệ (c 11b), giúp các ông vững tin vào Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 2,11c).
4.CÂU HỎI:
1) Qua việc nhắc đến Mẹ Ma-ri-a vào lúc đầu và cuối thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giê-su, thánh Gio-an muốn nói gì về vai trò của Đức Giê-su và thân mẫu Người trong công trình cứu độ? 2) Tại sao Đức Giê-su lại dùng tiếng “Bà” khi thưa chuyện với Mẹ Ma-ri-a?
3) Qua câu “Giờ Con chưa đến”, Đức Giê-su muốn nói gì về sứ mệnh Thiên Sai của Người?
4) Tại sao Mẹ Ma-ri-a lại dạy gia nhân làm theo lệnh truyền của Đức Giê-su?
5) Đức Giê-su làm phép lạ đầu tiên này tại tiệc cưới Ca-na nhằm mục đích gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1 .LỜI CHÚA: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5)
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA THÁNH HÓA GIA ĐÌNH:
Cách đây ít lâu, có một phụ nữ đã kể lại câu chuyện xảy ra trong gia đình bà như sau :
“Từ trước đến nay hai vợ chồng tôi luôn nhất trí trong việc mua sắm và trang trí nhà cửa. Tuy nhiên, gần đây, chồng tôi tự nhiên mang về một khung ảnh Thánh Tâm Chúa Giê-su bằng kiếng, có kích thước 40x50 cm, bên trong có thiết kế ánh sáng đèn điện. Mỗi khi đèn sáng thì hình Thánh Tâm Chúa lại sáng lên trông rất đẹp mắt. Ông chồng tôi đòi treo bức ảnh này ở nơi trang trọng nhất trong phòng khách. Theo ý tôi thì không nên treo tại phòng khách vì nhà chúng tôi có nhiều khách lạ thường hay lui tới. Nhưng lần này chồng tôi quyết tâm bảo thủ ý muốn của mình. Trong lúc tranh cãi, tự nhiên lời Chúa xuất hiện trong tâm trí tôi : “Ai nhìn nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Cuối cùng tôi đã thuận theo ý của chồng tôi. Giờ đây sau thời gian mấy năm, tôi thực sự không hối tiếc gì về việc đã chiều theo ý muốn của chồng. Vì bức ảnh Thánh Tâm Chúa đã phát sinh hiệu quả tốt trên gia đình chúng tôi và các khách đến thăm nhà chúng tôi. Ngày nọ, có một ông khách, sau khi chăm chú nhìn vào bức hình, đã phát biểu suy nghĩ của ông như sau: “Bà biết không? Khi nhìn vào khuôn mặt Đức Giê-su trên bức hình này, tôi có cảm tưởng như Người đang nhìn thấu qua tâm hồn tôi !”. Rồi vào một buổi tối kia, một bà bạn sau khi ngắm bức hình khá lâu cũng đã thốt lên : “Mỗi lần đến đây, tôi luôn cảm thấy trong nhà chị chan chứa bình an”... Nói chung, khi nhìn vào hình Chúa Giê-su, thì tâm hồn của khách dến chơi đều được nâng cao ! Có thể mọi người sẽ cười nhạo những nhận xét này của tôi, nhưng tôi không quan tâm. Theo thiển ý của tôi: Một khi bạn mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được ơn biến đổi nên tốt hơn, không giống như lúc trước nữa !”.
2) GIÁ TRỊ LỜI CẦU BẦU CỦA MỘT BÀ MẸ:
Linh mục Syl-va-no và mục sư Tin lành Hen-ri cùng nhau đến lâu đài Pa-xi-an để xin hoàng tử trợ giúp tài chính cho dự án của mình. Linh mục Syl-va-no có ý định xin tiền để xây nhà thờ. Còn mục sư Hen-ri thì xin tiền để xây trường học.
Đến nơi, họ được hoàng tử Au-gus-te tiếp kiến riêng từng người một. Người được vào trước là mục sư Hen-ri. Nhưng chỉ vài phút sau người ta thấy mục sự bước ra với vẻ mặt buồn thiu, vì dự án đã không được hoàng tử chấp nhận.
Mục sư ngồi lại chờ linh mục Syl-va-no cùng về chung. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy linh mục bước ra khỏi phòng tiếp kiến của hoàng tử, vẻ mặt hớn hở, tay xách một túi tiền khá nặng. Mục sự Hen-ri liền thắc mắc hỏi :
- Tại sao linh mục lại được tài trợ như thế ?
Linh mục Syl-va-no trả lời :
- Dĩ nhiên là như vậy. Thoạt đầu hoàng tử chối từ lời xin của tôi. Nhưng khi nhìn sang bên cạnh thấy có hoàng thái hậu, tôi liền đến trước hoàng thái hậu để xin ngài bầu cử cho. Và hoàng tử đã đổi ý kiến, khi nghe lời khẩn cầu của hoàng thái hậu nên đã đồng ý tài trợ cho dự án của tôi. Hoàng tử đã thưa với mẹ: ”Nếu mẹ đã đồng ý thì con cũng đồng ý thôi”
(D. Wahrheit, Món quà giáng sinh, 79-80).
3) MỘT BỆNH NHÂN ĐƯỢC ĐỨC MẸ GIÚP ĐÓN NHẬN ĐỨC TIN:
Cha J.B BONSOLI người nước Ý đã đi truyền giáo bên Ấn độ. Suốt 20 năm Ngài đã rửa tội cho 20.000 người. Ngài đã kể lại câu chuyện như sau:
“Hôm đó tôi rời địa điểm truyền giáo Đam-ma để đi một vòng bằng xe đạp. Khi đi được khoảng 30 Km thì tôi bị lạc vào một khu rừng. Càng đi vô thì cây cối càng rậm rạp.Tôi vừa đi vừa sợ khi nghe thấy những tiếng hú của những con báo trong đó.
Trời đã gần tối tôi thầm cần nguyện xin Đức Mẹ giúp tôi. Đi thêm khoảng 5 cây số nữa thì tôi rẽ vào con đường nhỏ và tôi thấy một ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn. Tôi dừng xe lại, dựng bên cạnh một gốc cây rồi lên tiếng hỏi: "Có ai trong nhà không? "
Có tiếng nói từ trong nhà vọng ra: "Có. Nhưng xin ông đừng vào nhà vì tôi bị cùi".
Dù biết như vậy nhưng tôi vẫn mở cửa bước vào trong nhà. Trước mặt tôi là một người đàn ông đang nằm co quắp vì đau đớn trên giường. Hỏi ra mới biết trước kia người này là một ông thầy cúng. Rồi trong cuộc nói chuyện sau đó, ông ta nói: "Con biết là con sẽ được Rửa tội."
- Làm sao ông biết điều đó? Ai đã nói với ông? Có phải là một giáo lý viên không?" Tôi hỏi lại.
Ông đáp :"Cách đây hai tháng có một bà mặc áo đẹp lắm vào căn nhà này và nói với con: “Con chịu đau khổ nhiều nhưng con đừng nản lòng. Ta sẽ sai một linh mục đến thăm viếng và đổ nước thanh tẩy tâm hồn con, rồi ta sẽ đến đưa con lên thiên đàng".
Tôi đưa tay vào túi áo lấy ra mẫu ảnh “Đức Mẹ phù hộ các giáo hữu” và đưa cho ông ta xem. Vừa thấy bức ảnh ông đã kêu lên: "Đúng rồi. Đúng là bà này. Chính bà đã đến thăm con khoảng hai tháng trước". Sau đó tôi đã dạy ông các điều căn bản về đức tin trước khi ban phép rửa tội theo ý nguyện của ông.
Mỗi người chúng ta hãy dành cho Mẹ Ma-ri-a một vị trí quan trọng trong cuộc đời chúng ta:
Trong niềm vui ngày cưới hay lễ kỷ niệm của gia đình: Hãy mời Mẹ đến chung vui với chúng ta.
Khi bị sầu buồn vì mất người thân. Nếu được Mẹ an ủi, chắc chắn nỗi buồn sẽ qua mau.
Chúng ta sẽ không còn cô đơn, nếu có Mẹ ở bên.
Khi có Mẹ dẫn đường, chắc chúng ta sẽ không bị lạc lối.
Nếu được Mẹ trợ giúp, mọi việc sẽ thành công.
3. THẢO LUẬN:
Một người kia có dịp nghỉ hè tại nhà một anh bạn thân. Sau kỳ nghỉ anh ta đã viết thư cám ơn bạn ấy. Trong thư anh nhận xét về gia đình của bạn như sau: “Tôi cảm thấy gia đình bạn là một gia đình công giáo đạo đức thực sự: Cách bài trí trong nhà của bạn thật ấn tượng với những tranh ảnh đạo, được treo trên tường thay vì những tranh lịch người mẫu ăn mặc hở hang. Tôi không quên được những lời cầu nguyện sốt sắng của các thành viên trong gia đình bạn trước các bữa ăn. Tôi cảm thấy một bầu khí đầm ấm yêu thương và bình an chan hòa trong ngôi nhà của bạn: Mọi người đều quan tâm săn sóc nhau. Tôi chưa bao giờ nghe thấy có tiếng tranh cãi to tiếng, những lời tục tĩu, hay những lời chỉ trích người vắng mặt trong ngôi nhà của bạn”... Còn gia đình của mỗi người chúng ta hiện nay ra sao? Gia đình chúng ta có những phẩm chất đạo đức giống như gia đình trong câu chuyện nói trên hay không?
4. SUY NIỆM:
1) VỮNG TIN VÀO CHÚA:
Khi biết tiệc cưới nửa chừng sắp hết rượu, Mẹ Ma-ri-a đã nói với Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi”. Dù nghe Chúa trả lời: “Thưa Bà, chuyện đó can gì đến Bà và Con ? Giờ Con chưa đến”, nhưng Mẹ vẫn vững tin vào tình thương cứu độ của Chúa nên đã mạnh dạn nói với những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.
Ngày nay, Mẹ cũng nói với Chúa: “Họ hết rượu rồi” để bao tình yêu vợ chồng đã nhạt phai được nồng thắm lại; Để bao gia đình đang thiếu vắng tình yêu được trên thuận dưới hòa; Để bao tâm hồn đang chao đảo lấy lại được niềm tin yêu.
Người ta tính trung bình hiện nay trên thế giới, cứ mỗi tiếng đồng hồ lại có cả trăm đôi vợ chồng đưa nhau ra tòa xin ly hôn. Con số các đôi vợ chồng ly hôn lại còn tăng mạnh hơn tới 50% tại các nước phương Tây, nghĩa là cứ hai cặp vợ chồng kết hôn, thì có một cặp bị thất bại chỉ sau một thời gian chung sống.
Nếu ngày xưa Chúa Giê-su đã biến Luật Mô-sê đã bị nhạt như nước lã, trở thành Tin Mừng yêu thương thắm đỏ như rượu nồng; thì ngày nay, Người cũng muốn các gia đình chúng ta biến đổi cuộc đời lạt lẽo vô vị trở nên hạnh phúc chứa chan tình “mến Chúa, yêu người”.
2) HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
Cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta hôm nay cũng không thiếu những sự cố bất ngờ. Tuy nhiên, nếu biết tin vào tình thương cầu bầu của Mẹ Ma-ri-a thì chắc chúng ta sẽ vượt qua được mọi khó khăn, với điều kiện theo lời Mẹ dạy: “Giê-su bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Mỗi gia đình tín hữu hãy mời Chúa và Mẹ đến nhà bằng việc lập bàn thờ Chúa tại phòng khách và tổ chức đọc kinh tối gia đình hằng ngày hay ít là hằng tuần. Trong giờ kinh tối, các thành viên cùng nghe Lời Chúa và cầu nguyện cho nhau, luôn ứng xử với nhau cách lịch sự tế nhị và sẵn sàng cảm thông tha thứ lỗi lầm cho nhau như lời thánh Phao-lô: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Col 3,12-13).
3) MỜI CHÚA ĐẾN NHÀ:
Trong Tin mừng, những ai đón Đức Giê-su đến nhà đều được Người ban ơn lành. Chẳng hạn:
- Si-mon đón Đức Giê-su đến nhà và Người đã cho nhạc mẫu ông khỏi bệnh (x. Mt 1,29.31);
- Người cũng đến nhà ông Giai-a để phục sinh con gái ông mới chết (x. Mc 5,22.38-43);
- Người đến nhà viên thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu dự tiệc và chữa lành một bệnh nhân phù thũng (x. Lc 14,1-4);
- Người đến ở trọ nhà viên trưởng thu thuế Gia-kêu và biến ông từ một kẻ tham lam thành người lương thiện, trở lại làm con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 19,8-10);
- Người vào ở trọ nhà hai môn đệ làng Em-mau để giúp hai ông nhận ra Người đã từ cõi chết sống lại qua nghi thức “bẻ bánh” khi đồng bàn với các ông (x. Lc 24,13-32)...
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy đôi tân hôn đã mời Đức Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến nhà dự tiệc cưới và nhờ lời Mẹ cầu bầu, Đức Giê-su đã làm phép lạ đầu tiên biến nước lã thành rượu ngon giúp cho đôi tân hôn. Nhờ đó, các môn đệ đã tin Người là Đấng Thiên Sai.
4) “NÀY, TA ĐỨNG NGOÀI CỬA MÀ GÕ”:
Ðức Giê-su đã đến dự tiệc cưới ở thành Ca-na để chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn. Đừng để Người đứng ngoài hạnh phúc của chúng ta. Nếu chúng ta nghe lời Người dạy để đổ nước tin yêu vào các chum rỗng tâm hồn, thì chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ban tràn đầy niềm vui ơn cứu độ.
Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang đứng ngòai cửa linh hồn chúng ta và gõ. Những ai mở cửa đón Người vào nhà, Người sẽ vào và dùng bữa tối với kẻ ấy, và kẻ ấy sẽ dùng bữa với Người (x Kh 3,20). Vậy chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng đón Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a vào nhà linh hồn mình, hầu nhận được ơn cứu độ Người ban hay không? Chúng ta có sẵn lòng cảm thông với những nỗi đau của các gia đình bất hạnh và giúp họ vượt qua hoàn cảnh khó khăn không?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đến chúc phúc cho gia đình chúng con. Ước chi cánh cửa nhà chúng con luôn rộng mở để tiếp đón những kẻ không nhà. Xin chúc lành cho ngôi nhà của chúng con được luôn có Chúa hiện diện, qua việc trưng bày tượng ảnh trên bàn thờ gia đình, nhất là qua cách ứng xử lịch sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình. Xin cho chúng con biết hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mở tai lắng nghe Lời Chúa trong giờ kinh gia đình và quyết tâm thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
- LẠY CHÚA. Xin cho đôi tay chúng con luôn rộng mở để chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói bệnh tật và bất hạnh. Xin cho trái tim chúng con luôn hướng về Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc của chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng xã hội chúng con đang sống hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Ý nghĩa phép lạ Cana
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
22:47 15/01/2019
Chúa Nhật Thường niên 2 C
Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và biển hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của Tông đồ Nathanael (Batôlômêô).
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước thành rượu hảo hạng (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân: “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.
Nơi xảy ra phép lạ
– Một trong 6 chum đá đựng rượu phép lạ.
Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).
Từ chỗ dừng xe, phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào.Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.
Bên trong Thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V. Chum có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa. Nơi đây như trình bày đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi và kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn, đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana được các nhà khảo cổ tìm thấy.
Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại Nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa
Nhà Thờ Cana.
Bên trong Nhà thờ Cana
Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.
Phía trước Nhà thờ có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana. Ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.
1. Phép lạ đầu tiên
Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.
Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì nay được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, đây là cơ hội đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.
Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Ngài tặng cho cô dâu chú rể, cho họ hàng đôi bên và mọi người phép lạ “nước thành rượu”, “Rượu ngon làm phấn khởi lòng người” (Tv 109). Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng. Chúa Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x.Ga 4,10). Rượu Chúa Giêsu cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Luật Môsê được thay thế bằng chất lượng Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn mới (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn còn bị thiếu nữa. Có một thứ rượu tuyệt hảo được ban tặng bởi Tân Lang đích thực là Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Tin Mừng Gioan, có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó. Chẳng hạn:
– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa tự giới thiệu: “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6).
– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9).
– Sau khi cho Ladarô sống lại, Chúa tự nhận: “Ta là sự sống lại và là sự sống” ( Ga 11).
2. Ý nghĩa phép lạ Cana
– Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Israen, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới với dân của Ngài. Thiên Chúa là chú rể. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giêrusalem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân: “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rược tiệc cưới Cana.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana mở màn cho hôn nhân Kitô giáo một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các Tông Đồ. Bí tích Hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Dựa trên học thuyết của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô, ca tụng tình yêu chồng vợ cao đẹp như tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giáo Hội là hiền thê (Ep 5,22-33), Giáo Hội khẳng định “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa hai người được rửa tội lên hàng bí tích” (Giáo Luật # 1055). Từ nay, hôn nhân có đặc tính là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly; hôn nhân được Chúa chúc phúc và được Giáo Hội chứng nhận.
– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
– Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui Ơn Cứu Độ cho con người.Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
3. Hãy đến với Mẹ Maria
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta.
Dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có viếng thăm Nhà Thờ Cana. Nơi đây cách Nagiarét 7km về hướng Bắc. Một vùng nông thôn nằm giữa Nazarét và biển hồ Tibêria, ngày nay gọi là Kefr Kenna. Cana cũng là quê hương của Tông đồ Nathanael (Batôlômêô).
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ đầu tiên tại Cana. Ngài biến nước thành rượu hảo hạng (Ga 2,1-12). Tiệc đang vui vẻ mà rượu gần cạn. Gia đình lo lắng, sợ mất mặt với khách dự tiệc… Mẹ Maria quan tâm đặc biệt. Mẹ ngỏ ý với Chúa: “Họ hết rượu rồi”. Mẹ nói với gia nhân: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm theo”. Chúa Giêsu nói với gia nhân: “Hãy đổ nước đầy chum”. Họ đổ tới miệng chum. Và Chúa bảo họ: “Bây giờ hãy múc nước đem cho người quản tiệc”. Nước đã biến thành rượu ngon. Người quản tiệc bỡ ngỡ, thực khách vui mừng.
Nơi xảy ra phép lạ
– Một trong 6 chum đá đựng rượu phép lạ.
Chúa Giêsu còn thực hiện một phép lạ khác tại Cana: chữa lành cho con một sĩ quan cận vệ nhà vua (Ga 4,46-54).
Từ chỗ dừng xe, phải leo lên một đoạn dốc cao, hai bên có nhiều quày hàng bán quà lưu niệm vui vẻ mời chào.Chúng tôi thấy một ngôi Thánh đường có hai tháp, biểu tượng cho đôi lứa và một vòm ở giữa tượng trưng sự tận hiến của đơn vị gia đình.
Bên trong Thánh đường, người ta đặt chum rượu của thời Chúa Giêsu một cách cung kính ở ngay Cung Thánh. Những chum đá dưới bàn thờ cũng như ở tầng hầm có từ thế kỷ V. Chum có hình dáng như chum đá tại tiệc cưới Cana ngày xưa. Nơi đây như trình bày đặc ân mà Chúa muốn dành phép lạ đầu tiên để thánh hóa tình yêu lứa đôi và kiện toàn thể chế gia đình bền vững. Có một chum đá to được trưng bày trang trọng cho khách tham quan ngắm nhìn, đây là 1 trong 6 chum đá của phép lạ Cana được các nhà khảo cổ tìm thấy.
Có nhiều đoàn hành hương đã cử hành nghi thức lập lại lời hôn ước cho những cặp vợ chồng tại Nhà thờ Cana. Có những đoàn chọn Cana để kỷ niệm ngày thành hôn. Xin Chúa chúc lành cho hạnh phúc lứa đôi tại nơi này thì thật là ý nghĩa
Nhà Thờ Cana.
Bên trong Nhà thờ Cana
Chúng tôi quỳ gối đọc kinh, cầu nguyện cho những người sống đời đôi bạn được hạnh phúc, tín trung.
Phía trước Nhà thờ có nhiều quày bày bán quà lưu niệm. Những chai rượu Cana là quà mừng cho người thân bạn bè được du khách ưa chuộng nhất. Rượu nho sản xuất tại Cana. Ai cũng mua vài chai làm quà tặng quý giá như rượu chính phẩm được Chúa làm phép lạ năm xưa.
1. Phép lạ đầu tiên
Theo Tin Mừng Gioan thì hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi chịu phép rửa là quy tụ các môn đệ. Hành động thứ hai là đi dự tiệc cưới. Có lẽ đây là tiệc cưới của người bà con nên cả Đức Mẹ, Chúa Giêsu và các môn đệ cùng đi dự. Có thể là một đám cưới nhà nghèo nên thiếu rượu nữa chừng.
Tại Palestina, tiệc cưới kéo dài hơn một ngày, lễ cưới chính thức cử hành vào buổi xế chiều sau khi dự tiệc. Sau buổi tiệc, đôi tân hôn được đưa về nhà mới. Bấy giờ trời đã tối, họ được đưa đi qua các con đường càng dài càng tốt để có thể gặp được nhiều người chúc mừng. Vợ chồng mới cưới không đi hưởng tuần trăng mật. Họ ở tại nhà, mở cửa suốt tuần để tiếp khách. Họ đội vương miện và mặc y phục hôn lễ. Nếu suốt đời người ta phải sống cơ cực vất vả, thì nay được một tuần tiệc tùng, vui vẻ, đây là cơ hội đặc biệt trong đời người. Như vậy, theo tập tục Do Thái, đám cưới kéo dài suốt bảy ngày.
Đám cưới Cana này mới đến ngày thứ ba thì đã hết rượu rồi. Một tai hoạ bất ngờ, chủ tiệc bối rối, khó xử. Các Rápbi vẫn nói: Không rượu thì không vui. Người Việt nói: Vô tửu bất thành lễ. Không phải vì mọi người nghiện rượu, nhưng ở Đông Phương, món rượu rất quan trọng. Say rượu là một điều thật xấu hổ, nên họ uống rượu pha, hai phần rượu và ba phần nước lã. Lúc nào thiếu thức ăn, thức uống là có vấn đề, vì ở Đông Phương tiếp khách là một nhiệm vụ thiêng liêng; thiếu thức ăn thức uống trong một tiệc cưới là điều hổ thẹn cho cả cô dâu lẫn chú rể.
Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana này. Sáu chum nước thành rượu ngon. Sáu chum đầy chứa khoảng 700 lít. Một lượng rượu khổng lồ.
Chúa Giêsu đi ăn cưới. Người không mang quà cáp hay phong bì. Ngài tặng cho cô dâu chú rể, cho họ hàng đôi bên và mọi người phép lạ “nước thành rượu”, “Rượu ngon làm phấn khởi lòng người” (Tv 109). Trong các lễ cưới nhân loại, rượu ngon được đãi trước. Trong lễ cưới của Thiên Chúa với Dân Ngài, rượu ngon lại được đãi sau cùng. Chúa Giêsu là sự hoàn hảo, là ân ban tối hậu (x.Ga 4,10). Rượu Chúa Giêsu cung cấp được lấy từ nước của Do Thái giáo và thay thế thứ rượu bị thiếu. Luật Môsê được thay thế bằng chất lượng Lời Đức Kitô, là Lời loan báo một điều răn mới (Ga 13,34), điều răn của Giao Ước Mới giữa Thiên Chúa và loài người trong Đức Kitô hiển vinh (x. Ga 14,20).
Tương quan giữa Luật Môsê và Lời Đức Giêsu được diễn tả tuyệt vời bằng hai loại rượu được dọn tại Cana. Một loại được tân lang phàm tục dọn còn bị thiếu nữa. Có một thứ rượu tuyệt hảo được ban tặng bởi Tân Lang đích thực là Chúa Giêsu. Ơn Cứu Độ chính là niềm vui trọng đại. Tiệc cưới được dùng làm hình ảnh Nước Trời. Hôn nhân là hình ảnh Thiên Chúa và Dân Người.
Trong Tin Mừng Gioan, có 7 phép lạ được kể lại. Pháp lạ Cana có một giá trị nổi bật vì đó là dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu làm trong cuộc đời công khai. Các phép lạ trong Tin Mừng theo Thánh Gioan không chỉ biểu lộ quyền năng Thiên Chúa mà còn mạc khải về mầu nhiệm Chúa Giêsu. Các phép lạ có tính biểu tượng cao. Các phép lạ là những dấu chỉ cho biết về con người Chúa Giêsu.
Sau mỗi phép lạ thường có một bài giảng nhằm vén mở ý nghĩa sâu xa của phép lạ đó. Chẳng hạn:
– Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa tự giới thiệu: “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6).
– Sau khi chữa người mù được thấy ánh sáng, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian”(Ga 9).
– Sau khi cho Ladarô sống lại, Chúa tự nhận: “Ta là sự sống lại và là sự sống” ( Ga 11).
2. Ý nghĩa phép lạ Cana
– Phép lạ Cana xảy ra trong một tiệc cưới. Trong Cựu Ước, để diễn tả Tình Yêu Thiên Chúa đối với dân Israen, các Ngôn Sứ đã dùng hình ảnh hôn lễ, Thiên Chúa làm đám cưới với dân của Ngài. Thiên Chúa là chú rể. Đoạn văn (Is 54, 4-8) là một minh hoạ rất lý thú phối hợp đề tài xuất hành với một đề tài trong sách Hôsê, đó là Giuđa được coi như người bạn trăm năm của Thiên Chúa. Vì yêu thương người bạn trăm năm của mình bị bỏ rơi, Thiên Chúa sẽ đem những người lưu đày trở về quê nhà. Chủ đề của bài đọc I là cuộc phục hưng Giêrusalem trong tương lai được diển tả bằng ngôn ngữ hôn ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Với từ hôn ước này, Thiên Chúa sắp hoàn lại tước vị “hôn thê” cho dân: “Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”. Niềm vui của Giáo Ước được làm mới lại giữa Thiên Chúa và dân Ngài, tiên báo niềm vui thời Mêsia, niềm vui dạt dào như rược tiệc cưới Cana.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu ở tiệc cưới Cana mở màn cho hôn nhân Kitô giáo một kỷ nguyên mới. Đây là lễ hôn phối đầu tiên trong đạo mới. Chính Chúa Giêsu làm phép cưới, trước sự chứng giám của Mẹ Maria và các Tông Đồ. Bí tích Hôn phối của đạo mới khai nguyên từ đám cưới này. Dựa trên học thuyết của thánh Phaolô trong thư gửi Êphêsô, ca tụng tình yêu chồng vợ cao đẹp như tình yêu của Chúa Giêsu dành cho Giáo Hội là hiền thê (Ep 5,22-33), Giáo Hội khẳng định “Chúa Kitô đã nâng hôn nhân giữa hai người được rửa tội lên hàng bí tích” (Giáo Luật # 1055). Từ nay, hôn nhân có đặc tính là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly; hôn nhân được Chúa chúc phúc và được Giáo Hội chứng nhận.
– Phép lạ Cana diễn ra trong một bữa tiệc. Bữa tiệc là hình ảnh được dùng để diễn tả niềm vui vào ngày Đấng Mêsia đến. Bữa tiệc này dồi dào rượu ngon: “Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc, thịt thì béo, rượu thì ngon”. Chúa Giêsu nhiều lần dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Người ví mình là chú rể, là tân lang. Chúa Giêsu ví giáo huấn của Người là rượu mới không thể chứa trong bầu da cũ. Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp một chú rể lúng túng và bất lực vì hết rượu đãi khách. Gia đình chỉ có nước dùng để thanh tẩy theo luật Môsê. Chúa Giêsu xuất hiện như Chú Rể thực sự của nhân loại. Người biến nước thành rượu, biến nước Cựu Ước thành rượu Tân Ước. Rượu của Người vừa ngon vừa nhiều, có cả phẩm lẫn lượng. Hình ảnh này cho thấy Ơn Cứu Độ do Chúa Giêsu mang đến thật là nguồn ơn quý giá và dư đầy.
– Tiệc cưới Cana là biểu tượng Tiệc Cưới Con Thiên Chúa và loài người. Phép lạ nước hoá thành rượu đem lại niềm vui cho người dự tiệc loan báo về mầu nhiệm Thánh Thể; bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô đem lại nguồn vui Ơn Cứu Độ cho con người.Mỗi lần dự lễ là một lần dự tiệc. Tiệc Lời Chúa và Tiệc Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể là một phép lạ xảy ra hàng ngày trên bàn thờ, bánh và rượu nên Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta tin vào mầu nhiệm Thánh Thể, vì biết rằng Chúa yêu chúng ta, Người trở nên Bánh Hằng Sống nuôi chúng ta. Cả hai bàn tiệc nuôi dưỡng cuộc đời chúng ta sống trong niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
3. Hãy đến với Mẹ Maria
Phép lạ Cana do Chúa thực hiện, nhưng Đức Mẹ cũng đóng vai trò quan trọng. Sự can thiệp của một người mẹ nhạy cảm và từ ái góp phần làm nên phép lạ hoá nước thành rượu.
Tin Mừng Gioan nhắc đến Đức Mẹ hai lần: lần đầu ở Cana và lần cuối ở Núi Sọ. Mẹ chứng kiến cái chết của con, và từ đây Mẹ trở nên Mẹ của các tín hữu (Ga 19, 25-27). Cả hai lần đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu và sự hiện diện của con người. Mẹ đã đưa con người đến với Chúa Giêsu ở Cana, và Chúa Giêsu cũng đã đưa Thánh Gioan, đại diện cho các tín hữu đến với Mẹ “Này là Mẹ con”. Mẹ đã hiện diện ở tiệc vui Cana, Mẹ cũng hiện diện ở núi Sọ. Mẹ đã đi từ bước đầu cho đến cao điểm của sứ vụ Chúa Giêsu. Mẹ vẫn đi mãi, đồng hành với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế. Mẹ vẫn chia sẻ niềm vui và âu lo, nâng đỡ và ban ơn cho mỗi con người trong cuộc đời này.
Cuộc sống thường ngày có những trắc trở, những lúng túng, những khó khăn. Hãy đến với Mẹ. Lời cầu bàu của Mẹ có giá trị lớn lao trước Nhan Thánh Chúa. Mẹ vẫn thường nói với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” và Mẹ cũng hay nói với mỗi người chúng ta: “Hãy làm mọi điều Chúa bảo…”. Hãy làm theo lời Chúa, để rượu tình thương không bao giờ cạn vơi trong gia đình chúng ta.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
3.000 người sống sót sau vụ thảm sát bài Kitô ở Orissa yêu cầu bồi thường
LM Nguyễn Tất Thắng, OP
10:04 15/01/2019
Trong cuộc họp được tổ chức vào ngày 12 tháng 1 có sự tham gia của Đức Cha John Barwa, Tổng Giám mục Cuttack-Bhubaneswar, luật sư Colin Gonsalves, Thomas Minze, Chủ tịch hiệp hội "Tất cả Công Giáo Ấn Độ tại Odisha", nhiều luật sư, linh mục, các nhà hoạt động và các giáo dân lãnh đạo. Những người có mặt nhắc lại cách tiếp cận của họ đối với hòa bình, công lý và nhân phẩm, họ cũng lưu ý đến sự cấp bách của việc bồi thường cho những người có nhà bị thiệt hại hoàn toàn bởi làn sóng bạo lực đó.
Đức Tổng Giám Mục nói: "Chúng tôi được tập hợp để bày tỏ sự gần gũi với các nạn nhân của bạo lực ở quận Khandhmal, chúng tôi muốn hợp tác vì hòa bình và công lý".
Các nhà hoạt động lưu ý rằng "nhiều thủ phạm của bạo lực chống Kitô giáo sống tự do, trong khi những người vô tội đang ở trong tù", đề cập đến bảy tín hữu Kitô vẫn còn ở trong tù vì cáo buộc sát hại nhà lãnh đạo Hindu Swami Lakshmanananda, một vụ việc gây ra bạo lực.
Linh mục và nhà hoạt động Ajay Singh, nhắc lại và trích lời Đức Giáo Hoàng Phao-lô 6 rằng "hòa bình và công lý cùng nhau bước đi", mời gọi mọi người đoàn kết.
Luật sư Colin Gonsalves nhận xét rằng "bạo lực năm 2007-2008 thuộc về quá khứ, nhưng cuộc bức hại vô nhân đạo tương tự sẽ không bao giờ xảy ra nữa trong tương lai". Trong hai tuần nữa, chúng tôi sẽ thảo luận về các kháng cáo được trình lên Tòa án Tối cao để bồi thường cho các nạn nhân ".
Ở cấp độ tâm linh, mọi người đều nhớ rằng, bất chấp những khó khăn và bất công, "những tín hữu bị đau khổ vì chịu bạo lực vẫn kiên định với đức tin vào Chúa Kitô".
Theo thông tin, có khoảng 5000 ngôi nhà bị phá hủy hoặc hư hại, 232 nhà thờ bị hư hại và 414 ngôi làng bị ảnh hưởng trong vụ bạo lực. Khoảng 100 người đã bị giết chết dã man trong cuộc đàn áp chống Kitô giáo năm 2008 ở Kandhamal và khoảng 56.000 người phải di dời. Có 827 vụ án được đăng ký chính thức nhưng chỉ có 362 phiên tòa được hoàn thành và trong số này, chỉ có 78 vụ bị kết án, trong khi 160 phiên tòa vẫn đang chờ xử lý.
Bang Orissa là một trong 29 bang của Ấn Độ nằm ở phía đông Ấn Độ, có bờ biển dài 485 km dọc theo Vịnh Bengal ở phía đông, từ Balasore đến Ganjam. Đây là tiểu bang lớn thứ 9 theo khu vực và lớn thứ 11 theo dân số. Đây cũng là bang đông dân thứ 3 của Ấn Độ về dân số bộ lạc. Odia là ngôn ngữ chính thức và được sử dụng rộng rãi nhất, được 60 triệu người, theo thống kê năm 2016. Orissa nổi tiếng về văn hóa bộ lạc và có nhiều đền thờ Hindu.
Lm Nguyễn Tất Thắng OP
''Phúc Trình Đại Bồi Thẩm Đoàn Pensylvannia: Không Phải Như Nó Tỏ Ra'', nguyên văn tiểu luận của Peter Steinfels, tiếp theo
Vũ Văn An
21:40 15/01/2019
Điều gì có điều gì không trong phúc trình
Trước khi khảo sát kỹ hơn điều gì có trong phúc trình, điều quan trọng là phải hỏi điều gì không có trong đó. Ngoài việc nhắc đến hơn 300 linh mục săn mồi - thực ra là 301 - và hơn 1,000 nạn nhân trẻ em, hàng chục nhân chứng và nửa triệu tài liệu của giáo hội bị tòa đòi, hầu như không có các số liệu. Chẳng hạn, không có bản tính toán nào cho biết có bao nhiêu người được phong chức đã phục vụ trong sáu giáo phận kể từ năm 1945, một con số có thể hoặc xác minh hoặc thách thức các ước tính trước đây về tỷ lệ trổi vượt lạm dụng tình dục trong hàng giáo sĩ. Không một cố gắng nào để biện phân các mẫu thống kê về tuổi người lạm dụng, tỷ lệ lạm dụng qua thời gian, các hành động của cơ quan chấp pháp, hay các thay đổi trong các đáp ứng của các viên chức giáo hội.
Cũng không có so sánh nào với các định chế khác. Người ta tự nhiên thắc mắc một cuộc lục lọi về 70 tới 80 năm lạm dụng tình dục tại các trường công hay các cơ sở hình sự thiếu niên sẽ tìm thấy những gì.
Khoảng thời gian kéo dài rất lớn ấy đưa đến một số trường hợp đáng nhớ. Như Martin J. Fleming, chẳng hạn, sinh năm 1869, năm Ulysses S. Grant trở thành tổng thống. Ngài được phong chức năm 1898, một vài tháng sau khi Teddy Roosevelt và Rough Riders chiếm được San Juan Hill. Ngài mất năm 1950, khi Harry Truman làm tổng thống. Năm mươi sáu năm sau, vào năm 2006, Giáo phận Venice, Florida, thông báo cho giáo phận Scranton, Pennsylvania, rằng một phụ nữ báo cáo đã bị Cha Fleming lạm dụng vào năm 1940 khi cô sáu tuổi. Bây giờ cô ấy bị suy tim và muốn “sắp xếp mọi con vịt của mình cho có hàng lối” (put all of her ducks in a row = sắp xếp mọi chuyện cho ổn thỏa). Bất cứ điều gì đã xảy ra – phúc trình vốn kính đáo một cách bất bình thường – đều đã ám ảnh cô ấy trong hơn sáu thập niên, gây ra sầu khổ trong lòng và khiến cô phải tìm kiếm huấn đạo. Đức Giám Mục Scranton và các nhân viên của ngài đã kịp thời gặp cô, gọi việc lạm dụng là một điều kinh tởm, bày tỏ nỗi buồn về thời thơ ấu bị thương tổn của cô, và khuyến khích việc trị liệu.
Dù không có chi tiết, người ta có thể tưởng tượng nỗi đau ray rứt của người phụ nữ này; người ta có thể suy đoán rằng cô không phải là nạn nhân duy nhất; người ta có thể thắc mắc điều gì khác đã bị giữ kín trong bí mật hoặc bác bỏ trong một thời đại rất khác. Nhưng tất cả những điều chưa biết từ nửa tiền bán thế kỷ XX dường như vượt ra ngoài giới hạn của điều tự cho mình là một cuộc điều tra pháp lý nghiêm ngặt.
Đây có phải là điển hình đặc biệt không? Có, nhưng không phải là duy nhất. Người ta có thể nói cùng một điều như vậy về một số thí dụ được phúc trình làm nổi bật.
Thực vậy, người ta có thể tìm thấy những thí dụ tương tự trong đó khoảng thời gian điều tra dài hơn bảy thập niên - và khoảng cách nửa thế kỷ giữa khả năng lạm dụng và lời đầu tiên về nó tới tai các viên chức giáo hội - nêu ra nhiều câu hỏi về khái niệm trách nhiệm nhận tội của phúc trình.
Nhưng khoảng thời gian được chọn và khái niệm không giải thích của phúc trình về ý niệm trách nhiệm nhận tội chỉ là triệu chứng của một vấn đề lớn hơn. Điều thiếu sót trong phúc trình, trước hết, là ý nghĩa bất cứ nào đó về lịch sử. Phúc trình coi hơn bảy thập niên từ năm 1945 cho đến ngày hôm qua như một khối. Đó là một thời gian dài trong cuộc sống của ngay cả các định chế căn bản nhất. Bạn có thể nào tìm hiểu sự tan vỡ gia đình từ năm 1945 hoặc các khuôn mẫu hoạt động tình dục trong khoảng thời gian đó mà không hết sức lưu ý đến nhân khẩu học, làm cha mẹ đơn chiếc, nữ quyền, các biện pháp ngừa thai, thập niên 60, quyền của người đồng tính, và các quy tắc đang thay đổi liên quan tới quyền tự chủ, quyền riêng tư và thoả mãn bản thân không? Hoặc, đơn cử một thí dụ khác, các liên hệ sắc tộc? Bạn có thể nào mô tả chính xác giai đoạn từ Thế chiến II đến ngày hôm qua mà không nêu bật phong trào dân quyền, Đạo luật Dân quyền và Quyền bỏ phiếu, và việc bầu Barack Obama không?
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của riêng tôi với việc lạm dụng tình dục đã đến khi tôi vừa tròn mười bảy tuổi. Tôi đang làm việc tại một trại Hướng đạo nam và phát hiện ra và cố gắng thông tri cho những người cấp cao rằng một viên chức trại đang lạm dụng các thực tập sinh mười bốn tuổi. Ông ta bị sa thải, và thế là xong. Nhưng tất nhiên điều đó chưa xong. Là một thầy giáo, ông ta chuyển đến một tiểu bang khác, nhờ một trùng hợp phi thường, nhiều năm sau, tôi biết ông ta tiếp tục xách nhiễu. Kinh nghiệm đó vào mùa hè 1958 đã khiến tôi mẫn cảm các thay đổi triệt để và đáng hoan nghênh trong các phản ứng xã hội đối với việc lạm dụng tình dục kể từ thái độ im lặng mà lúc đó đang chiếm ưu thế nơi các phụ huynh, nạn nhân, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và các viên chức chấp pháp cũng như các nhà hữu trách của Hướng đạo. Phải mất một thời gian mới nhận ra rằng lạm dụng tình dục trẻ em, trước đây vốn được mô tả như mối đe dọa từ những kẻ lạ mặt lẩn khuất trong các áo mưa, thực ra có thể là việc làm của bạn bè gia đình, chú bác qúy yêu, hướng đạo trưởng, bác sĩ, các người cha và cha dượng, hoặc thậm chí một giáo sĩ được ngưỡng mộ. Phải một thời gian dài hơn nữa các nhà trị liệu, các chánh án và các viện lập pháp mới quyết định phải làm gì đối với nó.
Đối với Đạo Công Giáo, Công đồng Vatican II, cùng với những thay đổi xã hội lớn, đã làm gián đoạn Giáo Hội và sự xấu hổ và im lặng do nền văn hóa cung kính của nó áp đặt. Bị thúc đẩy bởi các vụ kiện và tuyên truyền ầm ĩ (publicity) và chính sự kiện gia tăng các trường hợp lạm dụng, phản ứng của các giám mục đã bắt đầu thay đổi, muộn màng nhưng đáng kể, vào cuối thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990. Các thái độ đã có một bước ngoặt dứt khoát vào năm 2002 với việc các giám mục chấp nhận Hiến chương Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên, được thông qua sau những tiết lộ của tờ Boston Globe. Ngay cả việc lạm dụng tình dục của các linh mục cũng có một lịch sử. Nếu chúng ta tin các phát hiện của Trường Cao đẳng John Jay về Công lý Hình sự, thì nó đã gia tăng cuối thập niên 1960, tăng vọt vào thập niên 70 và sau đó giảm đi trong thập niên 80.
Các tác giả của phúc trình thuộc văn phòng bộ trưởng tư pháp đã đấu tranh mạnh mẽ để hạ giá thực tại này. Các kết luận của bản phúc trình về lạm dụng và che đậy được quả quyết một cách vượt thời gian. Bất cứ khi nào thay đổi được thừa nhận, ngôn ngữ của nó khá bực dọc.
Những độc giả kiên trì cho đến trang 297 sẽ chỉ tìm thấy tám trang dành cho “Giáo Hội và việc lạm dụng tình dục: quá khứ và hiện tại”, nghĩa là, trước năm 2002 và sau đó. Bốn trang được mở rộng dựa trên các ý kiến được gán cho các “chuyên gia” FBI, vốn đã được trích dẫn trong phần dẫn nhập. Những trang này được cho là để chứng minh rằng các uyển ngữ (euphemisms) thay cho việc lạm dụng tình dục được tìm thấy trong hồ sơ của giáo hội (và hiển nhiên không ở nơi nào khác) là một phần của cuốn sách dạy chơi trò che giấu. Nhận định này lên cao điểm trong một biểu đồ đủ mầu chiếm nửa trang minh họa “vòng bí mật này”. Cụm từ “vòng bí mật” và lời phân tích tương ứng được gán cho Giám mục Pittsburgh lúc đó là Donald Wuerl, người sau đó làm tổng giám mục của Washington (gần đây ngài đã từ chức).
Nếu các độc giả tò mò hoặc có quyết tâm lật đến trang 1,124 của bản phúc trình, họ sẽ phát hiện ra rằng cụm từ “vòng tròn bí mật” (a) không phải của Đức Cha Wuerl và (b) không liên quan gì đến cách phúc trình sử dụng chúng. Viết nguệch ngoạc trên một lời yêu cầu năm 1993 của một linh mục phạm tội để được trở lại thừa tác vụ, cụm từ này cho thấy mặc dù xem ra đã hồi phục, linh mục này không thể được bổ nhiệm mà không tiết lộ công khai trọn vẹn hành vi và cách đối xử của mình trong quá khứ. Như đã xảy ra, yêu cầu của linh mục này đã bị từ chối. Và chữ viết vội kia không phải của Đức cha Wuerl. Trước khi phúc trình được công bố, Đức Hồng Y Wuerl đã thông báo cho bộ trưởng tư pháp về việc này. Việc điều chỉnh của ngài đã bị làm ngơ. Ý niệm “Vòng bí mật” và biểu đồ ấn tượng kia dường như hoàn toàn là sự pha chế của các người viết phúc trình.
Bốn trang tiếp theo chính xác nhận diện cuộc vạch trần của tờ Boston Globe năm 2002 như là điều quan yếu buộc hàng giáo phẩm Công Giáo phải soạn thảo và thi hành Hiến chương Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên. Bản phúc trình thừa nhận “Xét chung, Hiến chương quả đã đẩy sự việc đi theo hướng đúng”. Tuy nhiên, hầu như mọi đoạn trước và sau lời thừa nhận này đều được viết một cách khéo léo để giảm thiểu hoặc loại bỏ tầm quan trọng của Hiến chương.
Phúc trình của đại bồi thẩm đoàn tự hào là một “hồ sơ lịch sử”, nhưng cử chỉ thoáng qua này đối với lịch sử là một bức tranh biếm họa. Nó tuyệt đối không lưu ý gì tới các tài liệu dài được đệ trình lên đại bồi thẩm đoàn bởi sáu giáo phận.
Những đệ trình này có thể được hiểu bởi những gì Đức Giám Mục Edward C. Malesic, giám mục mới được bổ nhiệm gần đây của Greensburg, tuyên bố cho chính ngài và giáo phận của ngài. Câu trả lời chủ yếu cho phúc trình của đại bồi thẩm đoàn, được ngài viết bằng chữ in nghiêng, có thể tóm tắt trong năm chữ: “Đây không phải là ngày hôm nay của Giáo Hội”.
Để làm bằng chứng, ngài và từng giáo phận khác đã lên tài liệu cho các chính sách chi tiết, một số đã có từ giữa những năm 1990 nhưng liên tục được cập nhật và thắt chặt, nhất là từ Hiến chương Dallas 2002, để tạo điều kiện và điều tra các lời tố cáo; đình chỉ các linh mục bị buộc tội và loại bỏ họ khỏi mọi thừa tác vụ nếu các lời tố cáo chứng tỏ là đáng tin cậy; báo cáo kịp thời các lời tố cáo cho cơ quan thi hành pháp luật; thiết lập và ban quyền cho các ban đánh giá giáo dân có chuyên môn nghề nghiệp để hướng dẫn giám mục; tiếp cận và hỗ trợ các nạn nhân; sàng lọc các chủng sinh; thiết lập các biện pháp phòng ngừa sâu rộng bao gồm các kiểm tra lý lịch nghiêm ngặt và huấn luyện bắt buộc cho mọi nhân viên giáo hội và thiện nguyện viên hoạt động với trẻ em và thanh thiếu niên; giáo dục các cha mẹ; và sẵn sàng để mọi chương trình như vậy được kiểm toán thường xuyên bởi các cơ quan độc lập. Sau năm 2002, một số giáo phận đã lùng sục các sơ của họ hoặc mở chúng cho các chánh án quận để đảm bảo không có linh mục lạm dụng nào còn ở trong thừa tác vụ.
Dĩ nhiên, không có lý do tại sao một đại bồi thẩm đoàn phải coi lời khai của các giáo phận như thế theo giá trị bề mặt. Có lẽ các chính sách đầy ấn tượng để xử lý và báo cáo các lời tố cáo hoặc hỗ trợ các nạn nhân chỉ có trên giấy tờ chứ không có trên thực tế. Có lẽ con số gây ấn tượng về các giáo sĩ, các nhà giáo dục, các nhân viên phụ trách thanh thiếu niên và các nhân viên đã được rà soát và huấn luyện, các phụ huynh và học sinh được thông tri, số tiền chi ra và các cuộc kiểm toán được thực hiện đều giả cả, những lừa đảo (flimflam) lếu láo tạo ra vì mục đích giao tế. Có lẽ những biện pháp bảo vệ đầy ấn tượng này, nhiều biện pháp trong số này chưa đầy hai thập niên, hoạt động hữu hiệu ở một số giáo phận, nhưng không hữu hiệu ở các giáo phận khác. Đây là những khả thể đứng đắn mà một cuộc điều tra của một đại bồi thẩm đoàn đứng đắn có thể đã xem xét. Không có dấu hiệu nhỏ nhất nào, vâng nhỏ nhất nào, cho thấy đại bồi thẩm đoàn chịu nghiêm túc lưu ý đến loại lời khai sâu rộng, chi tiết, mà các giáo phận đã đệ trình liên quan tới các chính sách và chương trình hiện nay của họ.
Việc thiếu ý thức lịch sử đã làm phúc trình của đại bồi thẩm đoàn không nhìn thấy hai nhân tố cần thiết khác để hiểu các các câu trả lời của các viên chức Giáo Hội đối với các tố cáo lạm dụng. Một là việc cậy nhờ trị liệu pháp. Nhân tố kia là khoảng cách thường gặp giữa thời gian lạm dụng và thời gian tố cáo. Đối với cả hai nhân tố, năm 2002 là điều quan yếu.
Cậy nhờ trị liệu pháp
Các kết luận của phúc trình về lạm dụng và che đậy được quả quyết một cách vượt thời gian. Bất cứ khi nào việc thay đổi được thừa nhận, ngôn ngữ (của phúc trình) là ngôn ngữ bực dọc.
Đến giữa thập niên 1980, các nhà lãnh đạo Công Giáo bắt đầu ra khỏi, tuy không đồng đều chút nào, trạng thái bác bỏ và tâm lý không biết gì về việc giáo sĩ lạm dụng tình dục. Người ta ngày càng nhìn nhận rằng việc lạm dụng trẻ vị thành niên không đơn giản chỉ là một tội lỗi đòi phải ăn năn, có lẽ một cuộc tĩnh tâm và “một mục đích quyết tâm sửa đổi”; tác phong sai trái như thế báo hiệu một bệnh lý tâm lý nghiêm trọng. Các giám mục bắt đầu gửi các giáo sĩ bị tố cáo đi lượng giá và điều trị ở một số trung tâm điều trị, chủ yếu liên quan đến giáo hội và nguyên thủy thường được thành lập để điều trị các giáo sĩ nghiện rượu. Vào thời điểm các thủ tục chính thức của giáo hội khiến việc loại bỏ các cá nhân hoàn toàn khỏi chức linh mục trở thành một vấn đề không chắc chắn và kéo dài lê thê, “giải pháp trị liệu” này có vẻ hứa hẹn hơn. Không như việc hoàn tục, nó xem ra còn duy trì được đòn bẩy đối với các linh mục được điều trị chịu tuân thủ việc theo dõi, hạn chế và chăm sóc sau đó.
Các câu hỏi nghiêm túc về các trung tâm này và hiệu quả của chúng vẫn còn bỏ ngỏ. Vụ kiện đòi bồi thường cho các nạn nhân, vốn thông tri và lên khuôn một cách áp đảo cho các tường trình của phương tiện truyền thông về tai tiếng giáo sĩ lạm dụng tình dục, đã nhắm vào các giám mục. Các trung tâm điều trị phần lớn thoát khỏi sự chú ý của công chúng, ngoại trừ khi các luật sư của nạn nhân lý luận rằng các trung tâm này nói với giám mục, người dù sao đã trả tiền cho các dịch vụ của họ, bất cứ điều gì ngài muốn nghe hoặc dành cho ngài lá chắn, cả khi ngài làm ngơ các khuyến cáo của họ. Trên thực tế, chính một giám đốc gây tranh cãi của Viện Thánh Luca ở Maryland, đã là người đầu tiên cảnh cáo rằng việc giáo sĩ lạm dụng không phải là vấn đề của một vài quả táo xấu mà là một vấn đề có tính hệ thống. Nhiều cá nhân nhân viên của các trung tâm này có trình độ chuyên nghề cao. Họ tin rằng việc tái phạm rất họa hiếm.
Là một phóng viên, tôi đã đến viếng Viện Thánh Luca vào năm 1992. Tôi rất có ấn tượng với tính chuyên nghiệp của nhân viên, sự nghiêm ngặt trong phương pháp của họ (ít nhất như được mô tả với tôi), và lập luận của họ cho rằng nó tốt hơn cho các người trẻ đang gặp nguy hiểm và giáo hội trong việc điều trị các linh mục, những người mà giáo hội vẫn duy trì được đòn bẩy đáng kể hơn là “thả lỏng họ” ra ngoài xã hội bằng cách hoàn tục họ. Tôi ra về lòng tự hỏi liệu các chuyên gia tận tâm này có đánh giá quá cao các kỹ năng của họ hay không. Nhưng tôi cũng đã ra về trong khi hiểu được tại sao khá nhiều giám mục có lương tâm, chứ không phải những vị chậm hiểu chỉ biết lo lắng về hình ảnh công cộng và bảo vệ các giáo sĩ của họ, đã hướng về các trung tâm này như giải pháp tốt nhất.
Trong một số trường hợp, sự tin tưởng này đã tỏ ra không đúng chỗ. Một số trung tâm chắc chắn dưới trung bình (subpar). Trung tâm Paraclete tại Jemez Springs, New Mexico, dường như là một thảm họa đặc thù, đã cho về “các vị khách” đang còn cần điều trị để làm công việc giáo xứ quanh vùng Tây Nam - và do đó, tạo thêm nhiều nạn nhân hơn. Một trường hợp nổi tiếng là James Porter, được gửi đến đó vào năm 1967 từ Fall River, Massachusetts; Porter tiếp tục quấy rối trẻ vị thành niên cả trong tư cách linh mục lẫn trong tư cách cựu linh mục cho đến khi bị tầm tra và bắt giữ vào năm 1993 sau chương trình truyền hình giật gân Primetime Live do Diane Sawyer điều khiển. Trung tâm đã đóng cửa trước các vụ kiện vào thập niên 1990 và không còn luẩn quẩn khi một loạt các cáo buộc và vụ kiện sau đó xuất hiện.
Vẫn còn nhiều điều chưa biết về các chương trình tâm thần này. Năm 1992, các nhà trị liệu ở Viện Thánh Luca đã nhận thức rõ các trường hợp như Porter, từ hai thập niên trước và tiếp tục nhấn mạnh rằng kiến thức và cách điều trị hiện nay đã “đi trước cả nhiều năm ánh sáng”. Tuy nhiên, các khác biệt giữa các trung tâm dường như vẫn còn tồn tại. Phúc trình khẩn khoản nêu ra vấn đề này bằng cách nhắc đến việc “đánh giá” và “chẩn bệnh” và “điều trị”, trong các trích dẫn gây sợ hãi, rõ ràng ngụ ý rằng đây là những thao tác ma mãnh của các giám mục để che đậy sự vô trách nhiệm của họ.
Dù sao, chính sách tuyệt đối không khoan nhượng của Hiến chương Dallas đã chấm dứt “giải pháp trị liệu” này. Sau năm 2002, không linh mục nào bị tố cáo một cách đáng tin cậy đã lạm dụng trẻ vị thành niên, bất kể bao xa trong quá khứ và bất chấp liệu bây giờ có được coi là điều trị thành công hay không, được tiếp tục thi hành thừa tác vụ.
Không nhất quán về ngày tháng
Có một cảnh khó quên ở cuối cuốn phim Spotlight khi tờ Boston Globe trình bầy với báo chí bài viết đầu tiên phơi bày sự lạm dụng trong tổng giáo phận Boston. Tất cả các điện thoại trong phòng tin tức bắt đầu reo với các cuộc gọi từ các nạn nhân cuối cùng, họ đã được tiếp sức mạnh dạn, dám tường trình các kinh nghiệm của chính họ từ nhiều năm hoặc nhiều thập niên trước đó. Khoảng cách thường xuyên gồm nhiều năm này giữa việc lạm dụng tình dục và việc nạn nhân lên tiếng là một thực tại được thừa nhận rộng rãi. Điều chủ yếu là hiểu được sự gây hại về tâm lý của việc lạm dụng và nỗ lực mở rộng thời hạn truy tố (statutes of limitations). Điều cũng chủ yếu là theo dõi đáp ứng của các viên chức giáo hội.
Khi các tố cáo đáng tin cậy ban đầu chống lại các linh mục săn mồi được đưa ra sau Hiến chương Dallas năm 2002, các linh mục đã tự động bị loại khỏi thừa tác vụ nhanh bao nhiêu có thể. Nhiều người trong số những người mới bị tố cáo thực tế đã nghỉ hưu, không hoạt động hoặc đã chết. Ở Pennsylvania, cũng như trên toàn quốc, một phần trăm đáng kể các tố cáo ban đầu diễn ra sau năm 2002. (Một số ở Pennsylvania dường như được kích hoạt bởi vụ tai tiếng ở Đại học tiểu bang Pennsylvania năm 2011). Việc xác định ngày tháng khi tin tức lạm dụng lần đầu tiên đến tai các viên chức giáo hội không luôn dễ dàng căn cứ vào hồ sơ của phúc trình của đại bồi thẩm đoàn, một hồ sơ thường chỉ dừng lại ở các hành vi tình dục của kẻ quấy rối và đôi khi là hậu quả tàn hại đối với các nạn nhân. Các hồ sơ không tuân theo bất cứ khuôn mẫu thống nhất nào: khi nào các vụ lạm dụng xẩy ra, khi nào chúng được báo cáo và chúng được xử lý cách nào. Không có bản tóm tắt từng thập niên về việc có bao nhiêu linh mục bị tố cáo một cách đáng tin cậy, được giữ lại trong thừa tác vụ tích cực hoặc bị hạn chế, bị đưa vào điều trị, bị loại khỏi thừa tác vụ tích cực và / hoặc bị hoàn tục.
Chắc chắn sự chấn thương và vết nhơ (stigma) khiến các nạn nhân này im lặng đòi sự tự kiểm tra của cả giáo hội lẫn nền văn hóa rộng lớn hơn. Nhưng bất cứ ai điều tra các quyết định mà các viên chức giáo hội đưa ra đều nên biết rằng, theo ước tính của tôi, các tố cáo chống lại ít nhất một phần ba trong số 301 người phạm tội chỉ được đưa ra ánh sáng sau năm 2002, tức là, khi quyết định loại bỏ họ khỏi thừa tác vụ tích cực đã là chính sách đã được thiết lập rồi.
Khảo sát nội dung
Điều trên đưa chúng ta đến nội dung của phúc trình. Liệu nó có chứng minh được các lời kết án sâu rộng và gây tổn hại cho các giám mục và các nhà lãnh đạo khác của giáo hội không?
Chúng ta chỉ cần nhìn vào một giáo phận. Tôi đã chọn giáo phận Erie vì một số lý do. Khi trả lời cuộc điều tra của đại bồi thẩm đoàn, Giám mục Lawrence Persico, người đã lãnh đạo giáo phận từ năm 2012, đã ủy nhiệm một cuộc nghiên cứu độc lập về việc mình xử lý việc lạm dụng tình dục cho một nhóm của K & L Gates, một công ty luật quốc tế có trụ sở tại Pittsburgh. Đội ngũ điều tra viên và luật sư được lãnh đạo bởi một cựu công tố viên liên bang và được quyền truy cập mọi hồ sơ và nhân sự của giáo phận. Nhóm đã phỏng vấn 113 người và khảo sát hơn 100,000 tài liệu, một cuộc lục lọi sâu xa vào hồ sơ của giáo phận hơn so với cuộc lục lọi của đại bồi thẩm đoàn. Ngoài ra, giáo phận Erie được Đức cha Donald W. Trautman lãnh đạo từ năm 1990 đến 2012. Nhiều giám mục trong khoảng thời gian được phúc trình phụ trách nay đã qua đời hoặc đang lãnh đạo các giáo phận khác. Giám mục Trautman thì chưa. Là giám mục Erie trong suốt hai mươi hai năm chủ yếu đối với tai tiếng lạm dụng tình dục nhưng không còn bị ràng buộc bởi các ưu tiên mục vụ của các giám mục hoạt động, ngài ở một vị thế có thể nói thẳng thắn trong câu trả lời khá dài của ngài. Nhờ thế, có ba điểm tham chiếu – các bản tóm tắt về lạm dụng của phúc trình và các hành động của giáo hội; bản nghiên cứu độc lập của Gates về giáo phận Erie; và bản trả lời của Đức cha Trautman. Cả ba đều thống nhất trong việc bày tỏ nỗi buồn và ăn năn, theo lời của Đức Cha Trautman, vì “những hành vi kinh khủng và tội lỗi” của những người lạm dụng và “tác động khủng khiếp” của chúng đối với các nạn nhân.
Có bốn mươi mốt người phạm tội ở Erie được lên hồ sơ trong phúc trình, trong đó có ba thí dụ đáng chú ý được mô tả chi tiết. Một trong ba người thủ dâm ít nhất một chục em bé mười ba và mười bốn tuổi với cái cớ thực hiện các “cuộc kiểm tra ung thư” trên các dương vật của các em. Một linh mục thứ hai, nổi tiếng có một nhân cách bạo động, đã bị tố cáo có mối liên hệ kéo dài với cả các trẻ nữ lẫn các trẻ nam cùng với các trường hợp tấn công tàn bạo. Linh mục thứ ba thừa nhận có liên hệ tình dục qua đường hậu môn và miệng với các bé trai từ bảy đến mười hai tuổi.
Trong cả ba trường hợp trên, sự lạm dụng được đưa ra ánh sáng vào giữa thập niên 1980, dưới thời Giám mục Michael J. Murphy, vị tiền nhiệm của Giám mục Trautman. Chính việc lạm dụng thì đã xẩy ra một thập niên hay hơn trước đó. Đức cha Murphy đã gửi các linh mục bị tố cáo đi lượng giá và, nếu cần, được điều trị, chủ yếu tại Viện Thánh Luca và Southdown, một trung tâm được kính trọng ở Canada. Đức cha Trautman đôi khi cũng làm như vậy mặc dù thực hành của ngài dường như đã không cho bất cứ người nào trở lại thừa tác vụ giáo xứ, ngay cả với các hạn chế được trung tâm khuyến cáo. Thừa hưởng ba thí dụ nổi bật từ Đức cha Murphy, Đức cha Trautman đã áp dụng qui tắc cũ (grandfathered), bằng cách tuân theo các thỏa thuận với vị tiền nhiệm trong việc bắt họ phải chịu sự theo dõi và chăm sóc tâm thần sau đó hư đã qui định sẵn - trừ khi, Đức cha Trautman nói thêm, một số tố cáo khác phát sinh từ quá khứ trước khi họ được điều trị. Đó là điều đã xảy ra trong mỗi trường hợp.
Linh mục đầu tiên đã bị giới hạn trong thừa tác vụ: không được gần gũi với các trẻ em khi Đức cha Trautman nhậm chức vào năm 1990. Linh mục thứ hai đã được Đức cha Murphy bổ nhiệm tới một giáo xứ sau khi điều trị, và Đức cha Trautman đã để vị này ở đó cho đến khi ngài nghỉ hưu vào năm 2000.
Năm 2002, các lời tố cáo đã được đưa ra về hành vi của linh mục đó trong những năm 1960 và 70. Trong vài tuần, Đức cha Trautman đã ngưng chức linh mục của ngài và cuối cùng đã hoàn tục ngài. Ngay sau khi nhậm chức, Đức cha Trautman đã gặp vị linh mục thứ ba, giờ đây xem ra “đã sạch sẽ” sau bốn năm trị liệu vì lạm dụng tình dục và ma túy. Giám mục Murphy đã chỉ định ngài đến một giáo xứ vào năm 1987 và Đức cha Trautman đã để ngài ở đó cho đến năm 1992 khi, theo lời khuyên của ủy ban linh mục và nhân viên, Đức cha Trautman đã tái chỉ định ngài, một lần nữa cấm ngài không ở một mình với trẻ em. Một năm sau, khi nhận được một tố cáo mới về việc lạm dụng của vị linh mục hồi đầu thập niên 1970, Đức cha Trautman đã buộc ngài vào các viện dưỡng lão và một số đơn vị nào đó thuộc một bệnh viện ở Virginia. Vào năm 2002, khi các tố cáo nảy sinh về một lạm dụng khác vào cuối thập niên 1960, Đức cha Trautman đã rút ngài hoàn toàn ra khỏi thừa tác vụ và khởi động việc hoàn tục ngài.
Tóm lại, đó là câu chuyện của ba người với sự góp tay của Đức cha Trautman. Phúc trình của đại bồi thẩm đoàn lại rất khác. Nó nhấn mạnh không phải mối quan tâm đối với các nạn nhân và các người có tiềm năng là nạn nhân mà là quan tâm pháp lý, bí mật và áp lực công cộng như là động lực cho mọi hành động của giáo phận. Nó cho rằng những người nổi tiếng lạm dụng đã được bổ nhiệm lại “nhiều lần”, và vẫn được “che đậy dưới thanh thế chức linh mục”. Các ngôn từ nhấn mạnh của Đức cha Trautman trong việc kêu gọi Rôma cho hoàn tục được trích dẫn như là sự thừa nhận muộn màng các hành vi tồi tệ trước đây từng được biết đến nhưng đã bị bưng bít. Trong trường hợp cuộc gặp gỡ ban đầu của Đức cha Trautman với vị linh mục xem ra đã sạch sau khi được điều trị, phúc trình trích dẫn ấn tượng của Đức cha Trautman cho rằng vị linh mục này là “một người thật thà và chân thành” người mà ngài đã khen ngợi vì “tiến bộ đã đạt được”.
Điều gì làm cho có những khác biệt như vậy? Rõ ràng có một sự bất cân xứng trong việc làm nổi bật. Trình thuật của phúc trình xuất hiện ở trang 4 và một lần nữa với nhiều chi tiết hơn ở các trang 69 tới 142. Chứng từ của Đức cha Trautman xuất hiện ở trang 982. (Trong phiên bản trực tuyến của Văn phòng Bộ trưởng Tư pháp, hoàn toàn không có trình thuật của Đức cha Trautman). Đối với Đức cha Trautman, phúc trình “rất ranh mãnh” (artful), và “hướng dẫn sai lệch”, trong việc trích dẫn một cách lọc lựa đồng thời làm ngơ khuôn mẫu tổng thể có trong cả lời chứng của ngài lẫn nghiên cứu độc lập do giáo phận đệ trình cho đại bồi thẩm đoàn. Cách riêng, ngài chỉ ra nhiều quên sót.
Thí dụ, phúc trình quả quyết, một cách chính xác, rằng Đức cha Trautman tái bổ nhiệm vị thứ nhất trong ba điển hình “nhiều lần”. Nhưng phúc trình bỏ sót việc này: những vụ tái bổ nhiệm này là tới làm tuyên úy cho một nhà dưỡng lão, một cơ sở cho người cao niên và trong một thời gian ngắn tới một bệnh viện và vài nhà tù giam người lớn. Vị linh mục này bị cấm hoạt động trong tư cách linh mục bên ngoài các phòng tuyên úy này và cuối cùng được mặc bất cứ trang phục linh mục nào. Dù bị đối kháng, Đức cha Trautman đã thành công trong động thái hoàn tục vị này.
Theo Đức cha Trautman, phúc trình cũng quên sót sự kiện này: “không ai trong số các linh mục này được biết là đã tái vi phạm”. Nhìn trở lui, bất kể sự khôn ngoan nào trong việc duy trì các linh mục này cả trong các thừa tác vụ hạn chế và được giám sát, sự kiện đó rõ ràng có liên hệ và đáng được đề cập đến.
Phúc trình cũng bỏ qua việc này: Đức cha Trautman, trong hai mươi hai năm làm giám mục, đã đích thân gặp gỡ hoặc cố gắng gặp gỡ mọi nạn nhân và cung cấp tư vấn mục vụ và kinh phí trị liệu.
Nó bỏ sót quyết định của ngài vào năm 2002 để tất cả các hồ sơ của giáo phận được xem xét bởi chánh án quận Erie, người đã kết luận rằng “không người phạm tội nào còn ở lại một chức vụ có thể tạo nguy hiểm”.
Nó cũng bỏ sót việc thành lập vào năm 2003 Văn phòng Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên của Giáo phận với những người làm việc toàn thời gian, cũng như việc thông báo nhanh chóng của giáo phận cho cơ quan chấp pháp ở Pennsylvania hoặc ở bất cứ nơi nào khác khi có các tố cáo mới xuất hiện.
Mặc dù thừa nhận rằng một số quyết định của mình, “có thể bị phê phán”, Đức cha Trautman viết cho bồi thẩm đoàn rằng không có bằng chứng nào cho thấy ngài đã “thuyên chuyển các linh mục từ giáo xứ này đến giáo xứ nọ để 'che đậy' sự lạm dụng” và không có “khuôn mẫu hay thực hành nào đặt hình ảnh của Giáo hội hoặc danh tiếng của một linh mục trên việc bảo vệ trẻ em”.
Đức cha Traman viết “Tất cả các sự kiện trên có thể rút ra từ các hồ sơ và thông tin của giáo phận có sẵn cho đại bồi thẩm đoàn. Không sự kiện nào được nhắc đến trong phúc trình. Điều ấy có hợp tình hợp lý không? Đó có phải là một nỗ lực cân bằng để tường trình trọn bộ các sự kiện hay không?
Đón đọc kỳ cuối: Một góc nhìn khác...
Trước khi khảo sát kỹ hơn điều gì có trong phúc trình, điều quan trọng là phải hỏi điều gì không có trong đó. Ngoài việc nhắc đến hơn 300 linh mục săn mồi - thực ra là 301 - và hơn 1,000 nạn nhân trẻ em, hàng chục nhân chứng và nửa triệu tài liệu của giáo hội bị tòa đòi, hầu như không có các số liệu. Chẳng hạn, không có bản tính toán nào cho biết có bao nhiêu người được phong chức đã phục vụ trong sáu giáo phận kể từ năm 1945, một con số có thể hoặc xác minh hoặc thách thức các ước tính trước đây về tỷ lệ trổi vượt lạm dụng tình dục trong hàng giáo sĩ. Không một cố gắng nào để biện phân các mẫu thống kê về tuổi người lạm dụng, tỷ lệ lạm dụng qua thời gian, các hành động của cơ quan chấp pháp, hay các thay đổi trong các đáp ứng của các viên chức giáo hội.
Cũng không có so sánh nào với các định chế khác. Người ta tự nhiên thắc mắc một cuộc lục lọi về 70 tới 80 năm lạm dụng tình dục tại các trường công hay các cơ sở hình sự thiếu niên sẽ tìm thấy những gì.
Khoảng thời gian kéo dài rất lớn ấy đưa đến một số trường hợp đáng nhớ. Như Martin J. Fleming, chẳng hạn, sinh năm 1869, năm Ulysses S. Grant trở thành tổng thống. Ngài được phong chức năm 1898, một vài tháng sau khi Teddy Roosevelt và Rough Riders chiếm được San Juan Hill. Ngài mất năm 1950, khi Harry Truman làm tổng thống. Năm mươi sáu năm sau, vào năm 2006, Giáo phận Venice, Florida, thông báo cho giáo phận Scranton, Pennsylvania, rằng một phụ nữ báo cáo đã bị Cha Fleming lạm dụng vào năm 1940 khi cô sáu tuổi. Bây giờ cô ấy bị suy tim và muốn “sắp xếp mọi con vịt của mình cho có hàng lối” (put all of her ducks in a row = sắp xếp mọi chuyện cho ổn thỏa). Bất cứ điều gì đã xảy ra – phúc trình vốn kính đáo một cách bất bình thường – đều đã ám ảnh cô ấy trong hơn sáu thập niên, gây ra sầu khổ trong lòng và khiến cô phải tìm kiếm huấn đạo. Đức Giám Mục Scranton và các nhân viên của ngài đã kịp thời gặp cô, gọi việc lạm dụng là một điều kinh tởm, bày tỏ nỗi buồn về thời thơ ấu bị thương tổn của cô, và khuyến khích việc trị liệu.
Dù không có chi tiết, người ta có thể tưởng tượng nỗi đau ray rứt của người phụ nữ này; người ta có thể suy đoán rằng cô không phải là nạn nhân duy nhất; người ta có thể thắc mắc điều gì khác đã bị giữ kín trong bí mật hoặc bác bỏ trong một thời đại rất khác. Nhưng tất cả những điều chưa biết từ nửa tiền bán thế kỷ XX dường như vượt ra ngoài giới hạn của điều tự cho mình là một cuộc điều tra pháp lý nghiêm ngặt.
Đây có phải là điển hình đặc biệt không? Có, nhưng không phải là duy nhất. Người ta có thể nói cùng một điều như vậy về một số thí dụ được phúc trình làm nổi bật.
Thực vậy, người ta có thể tìm thấy những thí dụ tương tự trong đó khoảng thời gian điều tra dài hơn bảy thập niên - và khoảng cách nửa thế kỷ giữa khả năng lạm dụng và lời đầu tiên về nó tới tai các viên chức giáo hội - nêu ra nhiều câu hỏi về khái niệm trách nhiệm nhận tội của phúc trình.
Nhưng khoảng thời gian được chọn và khái niệm không giải thích của phúc trình về ý niệm trách nhiệm nhận tội chỉ là triệu chứng của một vấn đề lớn hơn. Điều thiếu sót trong phúc trình, trước hết, là ý nghĩa bất cứ nào đó về lịch sử. Phúc trình coi hơn bảy thập niên từ năm 1945 cho đến ngày hôm qua như một khối. Đó là một thời gian dài trong cuộc sống của ngay cả các định chế căn bản nhất. Bạn có thể nào tìm hiểu sự tan vỡ gia đình từ năm 1945 hoặc các khuôn mẫu hoạt động tình dục trong khoảng thời gian đó mà không hết sức lưu ý đến nhân khẩu học, làm cha mẹ đơn chiếc, nữ quyền, các biện pháp ngừa thai, thập niên 60, quyền của người đồng tính, và các quy tắc đang thay đổi liên quan tới quyền tự chủ, quyền riêng tư và thoả mãn bản thân không? Hoặc, đơn cử một thí dụ khác, các liên hệ sắc tộc? Bạn có thể nào mô tả chính xác giai đoạn từ Thế chiến II đến ngày hôm qua mà không nêu bật phong trào dân quyền, Đạo luật Dân quyền và Quyền bỏ phiếu, và việc bầu Barack Obama không?
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của riêng tôi với việc lạm dụng tình dục đã đến khi tôi vừa tròn mười bảy tuổi. Tôi đang làm việc tại một trại Hướng đạo nam và phát hiện ra và cố gắng thông tri cho những người cấp cao rằng một viên chức trại đang lạm dụng các thực tập sinh mười bốn tuổi. Ông ta bị sa thải, và thế là xong. Nhưng tất nhiên điều đó chưa xong. Là một thầy giáo, ông ta chuyển đến một tiểu bang khác, nhờ một trùng hợp phi thường, nhiều năm sau, tôi biết ông ta tiếp tục xách nhiễu. Kinh nghiệm đó vào mùa hè 1958 đã khiến tôi mẫn cảm các thay đổi triệt để và đáng hoan nghênh trong các phản ứng xã hội đối với việc lạm dụng tình dục kể từ thái độ im lặng mà lúc đó đang chiếm ưu thế nơi các phụ huynh, nạn nhân, các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và các viên chức chấp pháp cũng như các nhà hữu trách của Hướng đạo. Phải mất một thời gian mới nhận ra rằng lạm dụng tình dục trẻ em, trước đây vốn được mô tả như mối đe dọa từ những kẻ lạ mặt lẩn khuất trong các áo mưa, thực ra có thể là việc làm của bạn bè gia đình, chú bác qúy yêu, hướng đạo trưởng, bác sĩ, các người cha và cha dượng, hoặc thậm chí một giáo sĩ được ngưỡng mộ. Phải một thời gian dài hơn nữa các nhà trị liệu, các chánh án và các viện lập pháp mới quyết định phải làm gì đối với nó.
Đối với Đạo Công Giáo, Công đồng Vatican II, cùng với những thay đổi xã hội lớn, đã làm gián đoạn Giáo Hội và sự xấu hổ và im lặng do nền văn hóa cung kính của nó áp đặt. Bị thúc đẩy bởi các vụ kiện và tuyên truyền ầm ĩ (publicity) và chính sự kiện gia tăng các trường hợp lạm dụng, phản ứng của các giám mục đã bắt đầu thay đổi, muộn màng nhưng đáng kể, vào cuối thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990. Các thái độ đã có một bước ngoặt dứt khoát vào năm 2002 với việc các giám mục chấp nhận Hiến chương Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên, được thông qua sau những tiết lộ của tờ Boston Globe. Ngay cả việc lạm dụng tình dục của các linh mục cũng có một lịch sử. Nếu chúng ta tin các phát hiện của Trường Cao đẳng John Jay về Công lý Hình sự, thì nó đã gia tăng cuối thập niên 1960, tăng vọt vào thập niên 70 và sau đó giảm đi trong thập niên 80.
Các tác giả của phúc trình thuộc văn phòng bộ trưởng tư pháp đã đấu tranh mạnh mẽ để hạ giá thực tại này. Các kết luận của bản phúc trình về lạm dụng và che đậy được quả quyết một cách vượt thời gian. Bất cứ khi nào thay đổi được thừa nhận, ngôn ngữ của nó khá bực dọc.
Những độc giả kiên trì cho đến trang 297 sẽ chỉ tìm thấy tám trang dành cho “Giáo Hội và việc lạm dụng tình dục: quá khứ và hiện tại”, nghĩa là, trước năm 2002 và sau đó. Bốn trang được mở rộng dựa trên các ý kiến được gán cho các “chuyên gia” FBI, vốn đã được trích dẫn trong phần dẫn nhập. Những trang này được cho là để chứng minh rằng các uyển ngữ (euphemisms) thay cho việc lạm dụng tình dục được tìm thấy trong hồ sơ của giáo hội (và hiển nhiên không ở nơi nào khác) là một phần của cuốn sách dạy chơi trò che giấu. Nhận định này lên cao điểm trong một biểu đồ đủ mầu chiếm nửa trang minh họa “vòng bí mật này”. Cụm từ “vòng bí mật” và lời phân tích tương ứng được gán cho Giám mục Pittsburgh lúc đó là Donald Wuerl, người sau đó làm tổng giám mục của Washington (gần đây ngài đã từ chức).
Nếu các độc giả tò mò hoặc có quyết tâm lật đến trang 1,124 của bản phúc trình, họ sẽ phát hiện ra rằng cụm từ “vòng tròn bí mật” (a) không phải của Đức Cha Wuerl và (b) không liên quan gì đến cách phúc trình sử dụng chúng. Viết nguệch ngoạc trên một lời yêu cầu năm 1993 của một linh mục phạm tội để được trở lại thừa tác vụ, cụm từ này cho thấy mặc dù xem ra đã hồi phục, linh mục này không thể được bổ nhiệm mà không tiết lộ công khai trọn vẹn hành vi và cách đối xử của mình trong quá khứ. Như đã xảy ra, yêu cầu của linh mục này đã bị từ chối. Và chữ viết vội kia không phải của Đức cha Wuerl. Trước khi phúc trình được công bố, Đức Hồng Y Wuerl đã thông báo cho bộ trưởng tư pháp về việc này. Việc điều chỉnh của ngài đã bị làm ngơ. Ý niệm “Vòng bí mật” và biểu đồ ấn tượng kia dường như hoàn toàn là sự pha chế của các người viết phúc trình.
Bốn trang tiếp theo chính xác nhận diện cuộc vạch trần của tờ Boston Globe năm 2002 như là điều quan yếu buộc hàng giáo phẩm Công Giáo phải soạn thảo và thi hành Hiến chương Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên. Bản phúc trình thừa nhận “Xét chung, Hiến chương quả đã đẩy sự việc đi theo hướng đúng”. Tuy nhiên, hầu như mọi đoạn trước và sau lời thừa nhận này đều được viết một cách khéo léo để giảm thiểu hoặc loại bỏ tầm quan trọng của Hiến chương.
Phúc trình của đại bồi thẩm đoàn tự hào là một “hồ sơ lịch sử”, nhưng cử chỉ thoáng qua này đối với lịch sử là một bức tranh biếm họa. Nó tuyệt đối không lưu ý gì tới các tài liệu dài được đệ trình lên đại bồi thẩm đoàn bởi sáu giáo phận.
Những đệ trình này có thể được hiểu bởi những gì Đức Giám Mục Edward C. Malesic, giám mục mới được bổ nhiệm gần đây của Greensburg, tuyên bố cho chính ngài và giáo phận của ngài. Câu trả lời chủ yếu cho phúc trình của đại bồi thẩm đoàn, được ngài viết bằng chữ in nghiêng, có thể tóm tắt trong năm chữ: “Đây không phải là ngày hôm nay của Giáo Hội”.
Để làm bằng chứng, ngài và từng giáo phận khác đã lên tài liệu cho các chính sách chi tiết, một số đã có từ giữa những năm 1990 nhưng liên tục được cập nhật và thắt chặt, nhất là từ Hiến chương Dallas 2002, để tạo điều kiện và điều tra các lời tố cáo; đình chỉ các linh mục bị buộc tội và loại bỏ họ khỏi mọi thừa tác vụ nếu các lời tố cáo chứng tỏ là đáng tin cậy; báo cáo kịp thời các lời tố cáo cho cơ quan thi hành pháp luật; thiết lập và ban quyền cho các ban đánh giá giáo dân có chuyên môn nghề nghiệp để hướng dẫn giám mục; tiếp cận và hỗ trợ các nạn nhân; sàng lọc các chủng sinh; thiết lập các biện pháp phòng ngừa sâu rộng bao gồm các kiểm tra lý lịch nghiêm ngặt và huấn luyện bắt buộc cho mọi nhân viên giáo hội và thiện nguyện viên hoạt động với trẻ em và thanh thiếu niên; giáo dục các cha mẹ; và sẵn sàng để mọi chương trình như vậy được kiểm toán thường xuyên bởi các cơ quan độc lập. Sau năm 2002, một số giáo phận đã lùng sục các sơ của họ hoặc mở chúng cho các chánh án quận để đảm bảo không có linh mục lạm dụng nào còn ở trong thừa tác vụ.
Dĩ nhiên, không có lý do tại sao một đại bồi thẩm đoàn phải coi lời khai của các giáo phận như thế theo giá trị bề mặt. Có lẽ các chính sách đầy ấn tượng để xử lý và báo cáo các lời tố cáo hoặc hỗ trợ các nạn nhân chỉ có trên giấy tờ chứ không có trên thực tế. Có lẽ con số gây ấn tượng về các giáo sĩ, các nhà giáo dục, các nhân viên phụ trách thanh thiếu niên và các nhân viên đã được rà soát và huấn luyện, các phụ huynh và học sinh được thông tri, số tiền chi ra và các cuộc kiểm toán được thực hiện đều giả cả, những lừa đảo (flimflam) lếu láo tạo ra vì mục đích giao tế. Có lẽ những biện pháp bảo vệ đầy ấn tượng này, nhiều biện pháp trong số này chưa đầy hai thập niên, hoạt động hữu hiệu ở một số giáo phận, nhưng không hữu hiệu ở các giáo phận khác. Đây là những khả thể đứng đắn mà một cuộc điều tra của một đại bồi thẩm đoàn đứng đắn có thể đã xem xét. Không có dấu hiệu nhỏ nhất nào, vâng nhỏ nhất nào, cho thấy đại bồi thẩm đoàn chịu nghiêm túc lưu ý đến loại lời khai sâu rộng, chi tiết, mà các giáo phận đã đệ trình liên quan tới các chính sách và chương trình hiện nay của họ.
Việc thiếu ý thức lịch sử đã làm phúc trình của đại bồi thẩm đoàn không nhìn thấy hai nhân tố cần thiết khác để hiểu các các câu trả lời của các viên chức Giáo Hội đối với các tố cáo lạm dụng. Một là việc cậy nhờ trị liệu pháp. Nhân tố kia là khoảng cách thường gặp giữa thời gian lạm dụng và thời gian tố cáo. Đối với cả hai nhân tố, năm 2002 là điều quan yếu.
Cậy nhờ trị liệu pháp
Các kết luận của phúc trình về lạm dụng và che đậy được quả quyết một cách vượt thời gian. Bất cứ khi nào việc thay đổi được thừa nhận, ngôn ngữ (của phúc trình) là ngôn ngữ bực dọc.
Đến giữa thập niên 1980, các nhà lãnh đạo Công Giáo bắt đầu ra khỏi, tuy không đồng đều chút nào, trạng thái bác bỏ và tâm lý không biết gì về việc giáo sĩ lạm dụng tình dục. Người ta ngày càng nhìn nhận rằng việc lạm dụng trẻ vị thành niên không đơn giản chỉ là một tội lỗi đòi phải ăn năn, có lẽ một cuộc tĩnh tâm và “một mục đích quyết tâm sửa đổi”; tác phong sai trái như thế báo hiệu một bệnh lý tâm lý nghiêm trọng. Các giám mục bắt đầu gửi các giáo sĩ bị tố cáo đi lượng giá và điều trị ở một số trung tâm điều trị, chủ yếu liên quan đến giáo hội và nguyên thủy thường được thành lập để điều trị các giáo sĩ nghiện rượu. Vào thời điểm các thủ tục chính thức của giáo hội khiến việc loại bỏ các cá nhân hoàn toàn khỏi chức linh mục trở thành một vấn đề không chắc chắn và kéo dài lê thê, “giải pháp trị liệu” này có vẻ hứa hẹn hơn. Không như việc hoàn tục, nó xem ra còn duy trì được đòn bẩy đối với các linh mục được điều trị chịu tuân thủ việc theo dõi, hạn chế và chăm sóc sau đó.
Các câu hỏi nghiêm túc về các trung tâm này và hiệu quả của chúng vẫn còn bỏ ngỏ. Vụ kiện đòi bồi thường cho các nạn nhân, vốn thông tri và lên khuôn một cách áp đảo cho các tường trình của phương tiện truyền thông về tai tiếng giáo sĩ lạm dụng tình dục, đã nhắm vào các giám mục. Các trung tâm điều trị phần lớn thoát khỏi sự chú ý của công chúng, ngoại trừ khi các luật sư của nạn nhân lý luận rằng các trung tâm này nói với giám mục, người dù sao đã trả tiền cho các dịch vụ của họ, bất cứ điều gì ngài muốn nghe hoặc dành cho ngài lá chắn, cả khi ngài làm ngơ các khuyến cáo của họ. Trên thực tế, chính một giám đốc gây tranh cãi của Viện Thánh Luca ở Maryland, đã là người đầu tiên cảnh cáo rằng việc giáo sĩ lạm dụng không phải là vấn đề của một vài quả táo xấu mà là một vấn đề có tính hệ thống. Nhiều cá nhân nhân viên của các trung tâm này có trình độ chuyên nghề cao. Họ tin rằng việc tái phạm rất họa hiếm.
Là một phóng viên, tôi đã đến viếng Viện Thánh Luca vào năm 1992. Tôi rất có ấn tượng với tính chuyên nghiệp của nhân viên, sự nghiêm ngặt trong phương pháp của họ (ít nhất như được mô tả với tôi), và lập luận của họ cho rằng nó tốt hơn cho các người trẻ đang gặp nguy hiểm và giáo hội trong việc điều trị các linh mục, những người mà giáo hội vẫn duy trì được đòn bẩy đáng kể hơn là “thả lỏng họ” ra ngoài xã hội bằng cách hoàn tục họ. Tôi ra về lòng tự hỏi liệu các chuyên gia tận tâm này có đánh giá quá cao các kỹ năng của họ hay không. Nhưng tôi cũng đã ra về trong khi hiểu được tại sao khá nhiều giám mục có lương tâm, chứ không phải những vị chậm hiểu chỉ biết lo lắng về hình ảnh công cộng và bảo vệ các giáo sĩ của họ, đã hướng về các trung tâm này như giải pháp tốt nhất.
Trong một số trường hợp, sự tin tưởng này đã tỏ ra không đúng chỗ. Một số trung tâm chắc chắn dưới trung bình (subpar). Trung tâm Paraclete tại Jemez Springs, New Mexico, dường như là một thảm họa đặc thù, đã cho về “các vị khách” đang còn cần điều trị để làm công việc giáo xứ quanh vùng Tây Nam - và do đó, tạo thêm nhiều nạn nhân hơn. Một trường hợp nổi tiếng là James Porter, được gửi đến đó vào năm 1967 từ Fall River, Massachusetts; Porter tiếp tục quấy rối trẻ vị thành niên cả trong tư cách linh mục lẫn trong tư cách cựu linh mục cho đến khi bị tầm tra và bắt giữ vào năm 1993 sau chương trình truyền hình giật gân Primetime Live do Diane Sawyer điều khiển. Trung tâm đã đóng cửa trước các vụ kiện vào thập niên 1990 và không còn luẩn quẩn khi một loạt các cáo buộc và vụ kiện sau đó xuất hiện.
Vẫn còn nhiều điều chưa biết về các chương trình tâm thần này. Năm 1992, các nhà trị liệu ở Viện Thánh Luca đã nhận thức rõ các trường hợp như Porter, từ hai thập niên trước và tiếp tục nhấn mạnh rằng kiến thức và cách điều trị hiện nay đã “đi trước cả nhiều năm ánh sáng”. Tuy nhiên, các khác biệt giữa các trung tâm dường như vẫn còn tồn tại. Phúc trình khẩn khoản nêu ra vấn đề này bằng cách nhắc đến việc “đánh giá” và “chẩn bệnh” và “điều trị”, trong các trích dẫn gây sợ hãi, rõ ràng ngụ ý rằng đây là những thao tác ma mãnh của các giám mục để che đậy sự vô trách nhiệm của họ.
Dù sao, chính sách tuyệt đối không khoan nhượng của Hiến chương Dallas đã chấm dứt “giải pháp trị liệu” này. Sau năm 2002, không linh mục nào bị tố cáo một cách đáng tin cậy đã lạm dụng trẻ vị thành niên, bất kể bao xa trong quá khứ và bất chấp liệu bây giờ có được coi là điều trị thành công hay không, được tiếp tục thi hành thừa tác vụ.
Không nhất quán về ngày tháng
Có một cảnh khó quên ở cuối cuốn phim Spotlight khi tờ Boston Globe trình bầy với báo chí bài viết đầu tiên phơi bày sự lạm dụng trong tổng giáo phận Boston. Tất cả các điện thoại trong phòng tin tức bắt đầu reo với các cuộc gọi từ các nạn nhân cuối cùng, họ đã được tiếp sức mạnh dạn, dám tường trình các kinh nghiệm của chính họ từ nhiều năm hoặc nhiều thập niên trước đó. Khoảng cách thường xuyên gồm nhiều năm này giữa việc lạm dụng tình dục và việc nạn nhân lên tiếng là một thực tại được thừa nhận rộng rãi. Điều chủ yếu là hiểu được sự gây hại về tâm lý của việc lạm dụng và nỗ lực mở rộng thời hạn truy tố (statutes of limitations). Điều cũng chủ yếu là theo dõi đáp ứng của các viên chức giáo hội.
Khi các tố cáo đáng tin cậy ban đầu chống lại các linh mục săn mồi được đưa ra sau Hiến chương Dallas năm 2002, các linh mục đã tự động bị loại khỏi thừa tác vụ nhanh bao nhiêu có thể. Nhiều người trong số những người mới bị tố cáo thực tế đã nghỉ hưu, không hoạt động hoặc đã chết. Ở Pennsylvania, cũng như trên toàn quốc, một phần trăm đáng kể các tố cáo ban đầu diễn ra sau năm 2002. (Một số ở Pennsylvania dường như được kích hoạt bởi vụ tai tiếng ở Đại học tiểu bang Pennsylvania năm 2011). Việc xác định ngày tháng khi tin tức lạm dụng lần đầu tiên đến tai các viên chức giáo hội không luôn dễ dàng căn cứ vào hồ sơ của phúc trình của đại bồi thẩm đoàn, một hồ sơ thường chỉ dừng lại ở các hành vi tình dục của kẻ quấy rối và đôi khi là hậu quả tàn hại đối với các nạn nhân. Các hồ sơ không tuân theo bất cứ khuôn mẫu thống nhất nào: khi nào các vụ lạm dụng xẩy ra, khi nào chúng được báo cáo và chúng được xử lý cách nào. Không có bản tóm tắt từng thập niên về việc có bao nhiêu linh mục bị tố cáo một cách đáng tin cậy, được giữ lại trong thừa tác vụ tích cực hoặc bị hạn chế, bị đưa vào điều trị, bị loại khỏi thừa tác vụ tích cực và / hoặc bị hoàn tục.
Chắc chắn sự chấn thương và vết nhơ (stigma) khiến các nạn nhân này im lặng đòi sự tự kiểm tra của cả giáo hội lẫn nền văn hóa rộng lớn hơn. Nhưng bất cứ ai điều tra các quyết định mà các viên chức giáo hội đưa ra đều nên biết rằng, theo ước tính của tôi, các tố cáo chống lại ít nhất một phần ba trong số 301 người phạm tội chỉ được đưa ra ánh sáng sau năm 2002, tức là, khi quyết định loại bỏ họ khỏi thừa tác vụ tích cực đã là chính sách đã được thiết lập rồi.
Khảo sát nội dung
Điều trên đưa chúng ta đến nội dung của phúc trình. Liệu nó có chứng minh được các lời kết án sâu rộng và gây tổn hại cho các giám mục và các nhà lãnh đạo khác của giáo hội không?
Chúng ta chỉ cần nhìn vào một giáo phận. Tôi đã chọn giáo phận Erie vì một số lý do. Khi trả lời cuộc điều tra của đại bồi thẩm đoàn, Giám mục Lawrence Persico, người đã lãnh đạo giáo phận từ năm 2012, đã ủy nhiệm một cuộc nghiên cứu độc lập về việc mình xử lý việc lạm dụng tình dục cho một nhóm của K & L Gates, một công ty luật quốc tế có trụ sở tại Pittsburgh. Đội ngũ điều tra viên và luật sư được lãnh đạo bởi một cựu công tố viên liên bang và được quyền truy cập mọi hồ sơ và nhân sự của giáo phận. Nhóm đã phỏng vấn 113 người và khảo sát hơn 100,000 tài liệu, một cuộc lục lọi sâu xa vào hồ sơ của giáo phận hơn so với cuộc lục lọi của đại bồi thẩm đoàn. Ngoài ra, giáo phận Erie được Đức cha Donald W. Trautman lãnh đạo từ năm 1990 đến 2012. Nhiều giám mục trong khoảng thời gian được phúc trình phụ trách nay đã qua đời hoặc đang lãnh đạo các giáo phận khác. Giám mục Trautman thì chưa. Là giám mục Erie trong suốt hai mươi hai năm chủ yếu đối với tai tiếng lạm dụng tình dục nhưng không còn bị ràng buộc bởi các ưu tiên mục vụ của các giám mục hoạt động, ngài ở một vị thế có thể nói thẳng thắn trong câu trả lời khá dài của ngài. Nhờ thế, có ba điểm tham chiếu – các bản tóm tắt về lạm dụng của phúc trình và các hành động của giáo hội; bản nghiên cứu độc lập của Gates về giáo phận Erie; và bản trả lời của Đức cha Trautman. Cả ba đều thống nhất trong việc bày tỏ nỗi buồn và ăn năn, theo lời của Đức Cha Trautman, vì “những hành vi kinh khủng và tội lỗi” của những người lạm dụng và “tác động khủng khiếp” của chúng đối với các nạn nhân.
Có bốn mươi mốt người phạm tội ở Erie được lên hồ sơ trong phúc trình, trong đó có ba thí dụ đáng chú ý được mô tả chi tiết. Một trong ba người thủ dâm ít nhất một chục em bé mười ba và mười bốn tuổi với cái cớ thực hiện các “cuộc kiểm tra ung thư” trên các dương vật của các em. Một linh mục thứ hai, nổi tiếng có một nhân cách bạo động, đã bị tố cáo có mối liên hệ kéo dài với cả các trẻ nữ lẫn các trẻ nam cùng với các trường hợp tấn công tàn bạo. Linh mục thứ ba thừa nhận có liên hệ tình dục qua đường hậu môn và miệng với các bé trai từ bảy đến mười hai tuổi.
Trong cả ba trường hợp trên, sự lạm dụng được đưa ra ánh sáng vào giữa thập niên 1980, dưới thời Giám mục Michael J. Murphy, vị tiền nhiệm của Giám mục Trautman. Chính việc lạm dụng thì đã xẩy ra một thập niên hay hơn trước đó. Đức cha Murphy đã gửi các linh mục bị tố cáo đi lượng giá và, nếu cần, được điều trị, chủ yếu tại Viện Thánh Luca và Southdown, một trung tâm được kính trọng ở Canada. Đức cha Trautman đôi khi cũng làm như vậy mặc dù thực hành của ngài dường như đã không cho bất cứ người nào trở lại thừa tác vụ giáo xứ, ngay cả với các hạn chế được trung tâm khuyến cáo. Thừa hưởng ba thí dụ nổi bật từ Đức cha Murphy, Đức cha Trautman đã áp dụng qui tắc cũ (grandfathered), bằng cách tuân theo các thỏa thuận với vị tiền nhiệm trong việc bắt họ phải chịu sự theo dõi và chăm sóc tâm thần sau đó hư đã qui định sẵn - trừ khi, Đức cha Trautman nói thêm, một số tố cáo khác phát sinh từ quá khứ trước khi họ được điều trị. Đó là điều đã xảy ra trong mỗi trường hợp.
Linh mục đầu tiên đã bị giới hạn trong thừa tác vụ: không được gần gũi với các trẻ em khi Đức cha Trautman nhậm chức vào năm 1990. Linh mục thứ hai đã được Đức cha Murphy bổ nhiệm tới một giáo xứ sau khi điều trị, và Đức cha Trautman đã để vị này ở đó cho đến khi ngài nghỉ hưu vào năm 2000.
Năm 2002, các lời tố cáo đã được đưa ra về hành vi của linh mục đó trong những năm 1960 và 70. Trong vài tuần, Đức cha Trautman đã ngưng chức linh mục của ngài và cuối cùng đã hoàn tục ngài. Ngay sau khi nhậm chức, Đức cha Trautman đã gặp vị linh mục thứ ba, giờ đây xem ra “đã sạch sẽ” sau bốn năm trị liệu vì lạm dụng tình dục và ma túy. Giám mục Murphy đã chỉ định ngài đến một giáo xứ vào năm 1987 và Đức cha Trautman đã để ngài ở đó cho đến năm 1992 khi, theo lời khuyên của ủy ban linh mục và nhân viên, Đức cha Trautman đã tái chỉ định ngài, một lần nữa cấm ngài không ở một mình với trẻ em. Một năm sau, khi nhận được một tố cáo mới về việc lạm dụng của vị linh mục hồi đầu thập niên 1970, Đức cha Trautman đã buộc ngài vào các viện dưỡng lão và một số đơn vị nào đó thuộc một bệnh viện ở Virginia. Vào năm 2002, khi các tố cáo nảy sinh về một lạm dụng khác vào cuối thập niên 1960, Đức cha Trautman đã rút ngài hoàn toàn ra khỏi thừa tác vụ và khởi động việc hoàn tục ngài.
Tóm lại, đó là câu chuyện của ba người với sự góp tay của Đức cha Trautman. Phúc trình của đại bồi thẩm đoàn lại rất khác. Nó nhấn mạnh không phải mối quan tâm đối với các nạn nhân và các người có tiềm năng là nạn nhân mà là quan tâm pháp lý, bí mật và áp lực công cộng như là động lực cho mọi hành động của giáo phận. Nó cho rằng những người nổi tiếng lạm dụng đã được bổ nhiệm lại “nhiều lần”, và vẫn được “che đậy dưới thanh thế chức linh mục”. Các ngôn từ nhấn mạnh của Đức cha Trautman trong việc kêu gọi Rôma cho hoàn tục được trích dẫn như là sự thừa nhận muộn màng các hành vi tồi tệ trước đây từng được biết đến nhưng đã bị bưng bít. Trong trường hợp cuộc gặp gỡ ban đầu của Đức cha Trautman với vị linh mục xem ra đã sạch sau khi được điều trị, phúc trình trích dẫn ấn tượng của Đức cha Trautman cho rằng vị linh mục này là “một người thật thà và chân thành” người mà ngài đã khen ngợi vì “tiến bộ đã đạt được”.
Điều gì làm cho có những khác biệt như vậy? Rõ ràng có một sự bất cân xứng trong việc làm nổi bật. Trình thuật của phúc trình xuất hiện ở trang 4 và một lần nữa với nhiều chi tiết hơn ở các trang 69 tới 142. Chứng từ của Đức cha Trautman xuất hiện ở trang 982. (Trong phiên bản trực tuyến của Văn phòng Bộ trưởng Tư pháp, hoàn toàn không có trình thuật của Đức cha Trautman). Đối với Đức cha Trautman, phúc trình “rất ranh mãnh” (artful), và “hướng dẫn sai lệch”, trong việc trích dẫn một cách lọc lựa đồng thời làm ngơ khuôn mẫu tổng thể có trong cả lời chứng của ngài lẫn nghiên cứu độc lập do giáo phận đệ trình cho đại bồi thẩm đoàn. Cách riêng, ngài chỉ ra nhiều quên sót.
Thí dụ, phúc trình quả quyết, một cách chính xác, rằng Đức cha Trautman tái bổ nhiệm vị thứ nhất trong ba điển hình “nhiều lần”. Nhưng phúc trình bỏ sót việc này: những vụ tái bổ nhiệm này là tới làm tuyên úy cho một nhà dưỡng lão, một cơ sở cho người cao niên và trong một thời gian ngắn tới một bệnh viện và vài nhà tù giam người lớn. Vị linh mục này bị cấm hoạt động trong tư cách linh mục bên ngoài các phòng tuyên úy này và cuối cùng được mặc bất cứ trang phục linh mục nào. Dù bị đối kháng, Đức cha Trautman đã thành công trong động thái hoàn tục vị này.
Theo Đức cha Trautman, phúc trình cũng quên sót sự kiện này: “không ai trong số các linh mục này được biết là đã tái vi phạm”. Nhìn trở lui, bất kể sự khôn ngoan nào trong việc duy trì các linh mục này cả trong các thừa tác vụ hạn chế và được giám sát, sự kiện đó rõ ràng có liên hệ và đáng được đề cập đến.
Phúc trình cũng bỏ qua việc này: Đức cha Trautman, trong hai mươi hai năm làm giám mục, đã đích thân gặp gỡ hoặc cố gắng gặp gỡ mọi nạn nhân và cung cấp tư vấn mục vụ và kinh phí trị liệu.
Nó bỏ sót quyết định của ngài vào năm 2002 để tất cả các hồ sơ của giáo phận được xem xét bởi chánh án quận Erie, người đã kết luận rằng “không người phạm tội nào còn ở lại một chức vụ có thể tạo nguy hiểm”.
Nó cũng bỏ sót việc thành lập vào năm 2003 Văn phòng Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên của Giáo phận với những người làm việc toàn thời gian, cũng như việc thông báo nhanh chóng của giáo phận cho cơ quan chấp pháp ở Pennsylvania hoặc ở bất cứ nơi nào khác khi có các tố cáo mới xuất hiện.
Mặc dù thừa nhận rằng một số quyết định của mình, “có thể bị phê phán”, Đức cha Trautman viết cho bồi thẩm đoàn rằng không có bằng chứng nào cho thấy ngài đã “thuyên chuyển các linh mục từ giáo xứ này đến giáo xứ nọ để 'che đậy' sự lạm dụng” và không có “khuôn mẫu hay thực hành nào đặt hình ảnh của Giáo hội hoặc danh tiếng của một linh mục trên việc bảo vệ trẻ em”.
Đức cha Traman viết “Tất cả các sự kiện trên có thể rút ra từ các hồ sơ và thông tin của giáo phận có sẵn cho đại bồi thẩm đoàn. Không sự kiện nào được nhắc đến trong phúc trình. Điều ấy có hợp tình hợp lý không? Đó có phải là một nỗ lực cân bằng để tường trình trọn bộ các sự kiện hay không?
Đón đọc kỳ cuối: Một góc nhìn khác...
Tin Giáo Hội Việt Nam
Trưng bày “Ấn phẩm văn hóa Kitô giáo”,
Maria Vũ Loan
13:44 15/01/2019
Vào lúc 9g30 ngày 15/01/2019, tại Nhà Truyền thống TGP Sài Gòn đã diễn ra buổi khai mạc cuộc trưng bày “Ấn phẩm văn hóa Kitô giáo”, do Ban Mục vụ Văn hóa TGP Sài Gòn tổ chức.
Trong bầu khí mát mẻ của buổi sáng, tại khoảng sân trước Nhà Truyền Thống, với cách bày trí thanh lịch, có một sân khấu nhỏ để nội dung của buổi khai mạc được thể hiện. Mở đầu là phần văn nghệ do một số ca sĩ Công Giáo trình bày. Sau đó, anh Barnaba Nguyễn Kim Khanh đã làm công việc MC để giới thiệu phần tiếp theo, đó là cung điệu thời gian đầy thăng trầm và gian nan của những ấn phẩm Kitô giáo.
Xem Hình
Cha Giuse Nguyễn Hữu Triết, trưởng Ban Mục vụ Văn hóa TGP Sài gòn, đã cho biết cuộc trưng bày lần này mang tính cách thống kê, từ thế kỷ 17 đến nay; có 1.507 đầu sách của gần 800 tác giả cá nhân, nếu tính tác giả tập thể thì con số là gần 1.000. Có tác giả là Công Giáo, Tin Lành, văn sĩ, thi sĩ...những người đã viết sách và có tác phẩm để lại. Mục đích của cuộc trưng bày này nhằm ba chủ đích: thứ nhất là vẽ lại cho đậm nét “cây cầu văn hóa” giữa văn hóa dân tộc và văn hóa Kitô giáo. Văn hóa là cái đẹp. Dân tộc ta có 4.000 năm văn hóa, trong đó Công Giáo đã góp phần những nét đẹp đạo đức, tinh thần; mục đích thứ hai có ý nghĩa sâu sắc hơn là “giải oan” cho Giáo Hội khi đạo Công Giáo có mặt ở Việt Nam thời phong kiến đã bị coi như một “tả đạo”, bị hiểu lầm là tà đạo hại dân, hại nước, nhưng thực ra, người Công Giáo vẫn vươn lên, dạy dỗ cho con cái mình đóng góp cụ thể cho đất nước, dân tộc. Mục đích thứ ba là cuộc trưng này như là một nén nhang để tưởng niệm, tri ân những tác giả đã qua đời mà để lại cho chúng ta những tác phẩm và cũng để nói lên lòng biết ơn đối với những tác giả đương thời.
Sau đó cha Giuse Trưởng ban đã có lời cảm ơn hai Đức Cha (vắng mặt), cha Tổng đại diện, cha Giám đốc và phó giám đốc của Trung tâm Mục vụ đã nâng đỡ, bảo trợ các cuộc trưng bày này và tất cả những người đã chung tay, giúp sức để có được sự trọn vẹn cho phòng trưng bày chuyên đề này như Hội Cổ Vật, Câu lạc bộ Xưa & Nay, giáo xứ Tân Sa Châu, nhóm Dominiart, Ban Truyền Thông, phóng viên các báo, các ca sĩ...
Cha Tổng đại diện Hồ Văn Xuân đã thay mặt quí Đức Cha để ngỏ lời trong buổi khai mạc triển lãm; trong đó có lời cảm ơn cha Trưởng ban Văn Hóa và quý cha đã cố gắng cho công việc; và trong cha có một nỗi nhớ đến các vị tiền nhiệm trong Tổng Giáo Phận đã có quan tâm đến công trình văn hóa Giáo Hội Việt Nam.
Ông chủ nhiệm câu lạc bộ sách Xưa & Nay cũng phát biểu cách đơn sơ, chân thành của một người.. .yêu sách, nhất là sách cũ! Ông Nguyễn Văn Quỳnh, chủ tịch hội cổ vật TP HCM cũng có đôi lời ví von về “đèn” và “sách” của cha Trưởng ban. Ông cho rằng sách là cổ vật, là di sản văn hóa vật thề và phi vật thể. Vì nếu là văn hóa vật thể thì nó là sự biến thiên, thay đổi chữ viết, ngôn ngữ, của công nghệ in ấn và lưu lại cho chúng ta từ đời xưa đến nay; nhưng bản thân những kiến thức ở trong quyển sách thì lưu trữ và truyền bá lại cho hậu thế thì đó là di sản phi vật thể. Đó là thứ di sản vô cùng to lớn mà chúng ta phải biết ơn.
Và ngay sau đó là phần cắt băng khánh thành do cha Tổng đại diện Hồ văn Xuân, cha Vũ Hữu Hiền, Ủy ban Truyền Thông, Cha Trưởng ban Văn Hóa Nguyễn Hữu Triết, ông Vũ Anh Tuấn và ông Nguyễn Văn Quỳnh đã thực việc cắt băng khai mạc triển lãm. Quan khách đã tham quan, dùng tiệc trà và ghi cảm tưởng, trả lời phóng viên về cảm tưởng khi tham quan...
Được biết, phòng trưng bày chuyên đề này sẽ mở cửa phục vụ khách tham quan mỗi ngày (trừ Chúa Nhật hằng tuần) cho đến ngày 01/5/2019.
Maria Vũ Loan
Trong bầu khí mát mẻ của buổi sáng, tại khoảng sân trước Nhà Truyền Thống, với cách bày trí thanh lịch, có một sân khấu nhỏ để nội dung của buổi khai mạc được thể hiện. Mở đầu là phần văn nghệ do một số ca sĩ Công Giáo trình bày. Sau đó, anh Barnaba Nguyễn Kim Khanh đã làm công việc MC để giới thiệu phần tiếp theo, đó là cung điệu thời gian đầy thăng trầm và gian nan của những ấn phẩm Kitô giáo.
Xem Hình
Cha Giuse Nguyễn Hữu Triết, trưởng Ban Mục vụ Văn hóa TGP Sài gòn, đã cho biết cuộc trưng bày lần này mang tính cách thống kê, từ thế kỷ 17 đến nay; có 1.507 đầu sách của gần 800 tác giả cá nhân, nếu tính tác giả tập thể thì con số là gần 1.000. Có tác giả là Công Giáo, Tin Lành, văn sĩ, thi sĩ...những người đã viết sách và có tác phẩm để lại. Mục đích của cuộc trưng bày này nhằm ba chủ đích: thứ nhất là vẽ lại cho đậm nét “cây cầu văn hóa” giữa văn hóa dân tộc và văn hóa Kitô giáo. Văn hóa là cái đẹp. Dân tộc ta có 4.000 năm văn hóa, trong đó Công Giáo đã góp phần những nét đẹp đạo đức, tinh thần; mục đích thứ hai có ý nghĩa sâu sắc hơn là “giải oan” cho Giáo Hội khi đạo Công Giáo có mặt ở Việt Nam thời phong kiến đã bị coi như một “tả đạo”, bị hiểu lầm là tà đạo hại dân, hại nước, nhưng thực ra, người Công Giáo vẫn vươn lên, dạy dỗ cho con cái mình đóng góp cụ thể cho đất nước, dân tộc. Mục đích thứ ba là cuộc trưng này như là một nén nhang để tưởng niệm, tri ân những tác giả đã qua đời mà để lại cho chúng ta những tác phẩm và cũng để nói lên lòng biết ơn đối với những tác giả đương thời.
Cha Tổng đại diện Hồ Văn Xuân đã thay mặt quí Đức Cha để ngỏ lời trong buổi khai mạc triển lãm; trong đó có lời cảm ơn cha Trưởng ban Văn Hóa và quý cha đã cố gắng cho công việc; và trong cha có một nỗi nhớ đến các vị tiền nhiệm trong Tổng Giáo Phận đã có quan tâm đến công trình văn hóa Giáo Hội Việt Nam.
Ông chủ nhiệm câu lạc bộ sách Xưa & Nay cũng phát biểu cách đơn sơ, chân thành của một người.. .yêu sách, nhất là sách cũ! Ông Nguyễn Văn Quỳnh, chủ tịch hội cổ vật TP HCM cũng có đôi lời ví von về “đèn” và “sách” của cha Trưởng ban. Ông cho rằng sách là cổ vật, là di sản văn hóa vật thề và phi vật thể. Vì nếu là văn hóa vật thể thì nó là sự biến thiên, thay đổi chữ viết, ngôn ngữ, của công nghệ in ấn và lưu lại cho chúng ta từ đời xưa đến nay; nhưng bản thân những kiến thức ở trong quyển sách thì lưu trữ và truyền bá lại cho hậu thế thì đó là di sản phi vật thể. Đó là thứ di sản vô cùng to lớn mà chúng ta phải biết ơn.
Và ngay sau đó là phần cắt băng khánh thành do cha Tổng đại diện Hồ văn Xuân, cha Vũ Hữu Hiền, Ủy ban Truyền Thông, Cha Trưởng ban Văn Hóa Nguyễn Hữu Triết, ông Vũ Anh Tuấn và ông Nguyễn Văn Quỳnh đã thực việc cắt băng khai mạc triển lãm. Quan khách đã tham quan, dùng tiệc trà và ghi cảm tưởng, trả lời phóng viên về cảm tưởng khi tham quan...
Được biết, phòng trưng bày chuyên đề này sẽ mở cửa phục vụ khách tham quan mỗi ngày (trừ Chúa Nhật hằng tuần) cho đến ngày 01/5/2019.
Maria Vũ Loan
Những tấm lòng nhân ái đến với bệnh nhân phong cùi và trẻ mồ côi tại Kon Tum
Trương Trí
19:44 15/01/2019
Những tấm lòng nhân ái đến với bệnh nhân phong cùi và trẻ mồ côi tại Kon Tum
Năm 2019, định hướng của Hội đồng Giám mục Việt Nam là “Đồng hành với những gia đình khó khăn”. Đáp lại lời mời gọi đó, ngay từ những ngày đầu năm mới, cũng là chuẩn bị Tết cổ truyền của dân tộc, đoàn từ thiện thuộc Giá xứ Suối Nho, Giáo phận Xuân Lộc do bà Nguyễn Thị Mến và bà Nguyễn Thị Nĩnh dẫn đầu đã đi thăm và tặng quà cho những gia đình phong cùi tại làng Đăk Kia do các nữ tu dòng Nữ tử Bác ái phụ trách và những trẻ em cô nhi tại các Nhà Vinh Sơn thuộc Hội Dòng Ảnh Phép lạ Kon Tum. Đàn đã trao 1 tấn rưỡi gạo, 300 thùng mì, 30 bao quần áo, nhiều thực phẩm và bánh kẹo.
Xem Hình
Nhìn thấy những hoàn cảnh khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Kon Tum, không ai không chạnh lòng. Nhất là những trẻ em mồ côi còn bé được các sơ bồng bế chăm sóc như những người mẹ, dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng các em vẫn được các sơ cho đi học với những bộ áo quần đồng phục tươm tất.
Như thường lệ, bất cứ Đoàn từ thiện nào đến Kon Tum cũng kết thúc cuộc hành trình bằng chuyến hành hương viếng Đức Mẹ Măng Đen, thăm Đền Thánh Đức Mẹ xây dựng theo hình dáng Nhà Rông của đòng bào dân tộc, đơn sơ mộc mạc, vậy mà đã khởi công từ 2 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì khó khăn tài chính.
Trên đường quay trở về, Đoàn đã đến chào thăm Đức Cha Aloisio Nguyễn Hùng Vị, Giám mục Giáo phận Kon Tum. Ngài đã ân cần tiếp Đoàn và ban Phép lành cho mọi người, xin Chúa chúc phúc và ban bình an cho mọi người.
Trương Trí
Năm 2019, định hướng của Hội đồng Giám mục Việt Nam là “Đồng hành với những gia đình khó khăn”. Đáp lại lời mời gọi đó, ngay từ những ngày đầu năm mới, cũng là chuẩn bị Tết cổ truyền của dân tộc, đoàn từ thiện thuộc Giá xứ Suối Nho, Giáo phận Xuân Lộc do bà Nguyễn Thị Mến và bà Nguyễn Thị Nĩnh dẫn đầu đã đi thăm và tặng quà cho những gia đình phong cùi tại làng Đăk Kia do các nữ tu dòng Nữ tử Bác ái phụ trách và những trẻ em cô nhi tại các Nhà Vinh Sơn thuộc Hội Dòng Ảnh Phép lạ Kon Tum. Đàn đã trao 1 tấn rưỡi gạo, 300 thùng mì, 30 bao quần áo, nhiều thực phẩm và bánh kẹo.
Xem Hình
Nhìn thấy những hoàn cảnh khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Kon Tum, không ai không chạnh lòng. Nhất là những trẻ em mồ côi còn bé được các sơ bồng bế chăm sóc như những người mẹ, dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng các em vẫn được các sơ cho đi học với những bộ áo quần đồng phục tươm tất.
Như thường lệ, bất cứ Đoàn từ thiện nào đến Kon Tum cũng kết thúc cuộc hành trình bằng chuyến hành hương viếng Đức Mẹ Măng Đen, thăm Đền Thánh Đức Mẹ xây dựng theo hình dáng Nhà Rông của đòng bào dân tộc, đơn sơ mộc mạc, vậy mà đã khởi công từ 2 năm nay vẫn chưa hoàn thành vì khó khăn tài chính.
Trên đường quay trở về, Đoàn đã đến chào thăm Đức Cha Aloisio Nguyễn Hùng Vị, Giám mục Giáo phận Kon Tum. Ngài đã ân cần tiếp Đoàn và ban Phép lành cho mọi người, xin Chúa chúc phúc và ban bình an cho mọi người.
Trương Trí
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam thăm đồng bào ở vườn rau Lộc Hưng
Lê Quang Hiển
19:52 15/01/2019
Tại đây mỗi đại diện của 5 tôn giáo trình bày quan điểm và chia sẽ những nổi khổ đau mà các giáo dân tại vườn rau Lộc Hưng đang gánh chịu.
Buổi gặp mặt kết thúc lúc 10h30 cùng ngày.
Lê Quang Hiển, Tổng Thư ký HĐLTVN
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hoà Lạc Giáo phận Phát Diệm: Quê Hương Yêu Dấu
Kim Ân
11:59 15/01/2019
QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU
Để nói về lịch sử quê nhà, để kể lại những chuyện xưa tích cũ, có lẽ cần đến những bậc cao niên đức cao vọng trọng. Thời gian vẫn trôi theo dòng chảy muôn đời của nó. Lớp người xưa cũ cứ theo nhau cưỡi hạc bay đi. Chuyện cũ thật nhiều, nhưng sau bao thịnh suy hưng phế, bao cuộc loạn ly tan hợp, kẻ hậu sinh cũng chỉ còn nghe được lõm bõm vài sự kiện lẻ tẻ, chẳng có đầu mà cũng không có cuối. Vì thế, nói đến chuyện viết lại lịch sử quê nhà có lẽ là chuyện quá lớn và cũng nằm ngoài tầm tay của thế hệ hậu học. Có chăng chỉ là “lời quê chắp nhặt dông dài[1]” với hy vọng nhỏ nhoi là cùng quý vị đồng hương về thăm lại miền quê Hoà Lạc yêu dấu với vài ba nét rêu phong cổ kính để mà thương mà nhớ.
BỂ DÂU CHUYỆN CŨ
Thủa ấu thơ, tôi thường cùng lũ trẻ trong xóm lang thang, chui rúc qua hết bờ này bụi nọ ở chốn quê nhà. Có đứa đã từng trợn mắt doạ tôi rằng cây vối nhà ông Trùm Sửu có ma, rồi nó còn tăng thêm mức độ kinh dị trong lời kể hùng hồn của nó bằng cách kể ra ngày kia tháng nọ khi giở giời, mưa lắc rắc, nó thấy nào bóng tầu, nào bóng bọn thuỷ thủ nhấp nhô lúc ở ao nhà ông Quản Thạnh, khi ở ao nhà ông Quản Tuất. Tôi vốn là đứa trẻ nhát gan, nên cũng bán tín bán nghi điều nó nói, vì nó còn gân cổ khẳng định chỗ ấy chỗ nọ xưa kia là biển, tầu đi lại nhiều nên bị đắm, bọn thuỷ thủ thành cô hồn một cõi, lúc chợt mưa chợt nắng mới hiện hình lên như vậy.
Thế rồi những câu chuyện trẻ con như thế tưởng cũng chìm vào quên lãng, vì lớn lên ai còn dễ tin vào những chuyện nhảm nhí tương tự. Tôi đi học xa quê, ít khi trở về. Mỗi lần trở về chỉ biết âm thầm tiếc nuối vì bóng tre xanh dần dần thiếu vắng, những mái tranh toả khói lam chiều chỉ còn thưa thớt hay đọng lại trong ký ức. Quê hương đổi mới thật nhiều. Có lúc suy nghĩ miên man, tôi lại tự hỏi mình nếu những bậc tiền liệt khi xưa đã từng sống trong ngôi làng Hoà Lạc thân yêu này chợt đội mồ sống dậy, họ có bị lạc lối trong ngôi làng của chính mình. Và tôi hiểu tại sao trong vô vàn lý do khiến bậc danh sĩ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn không trở về thăm quê nhà lại có lý do rằng hình ảnh quê hương trong ông đẹp lắm, ông sợ rằng nếu về thăm lại quê nhà sau quá nửa đời người loạn ly lưu lạc, thì hình bóng thân thương và diễm lệ thủa nào sẽ tan thành mây khói!!!
Tôi đã từng say sưa đọc những trang chính sử nước nhà. Mỗi lúc thấy thấp thoáng bóng quê mình trong đó, tôi cũng học người xưa cố ghi lại vài hàng. Thiết nghĩ lúc này kể ra vài chỗ cũng không đến nỗi quá mất thì giờ của quý vị đồng hương.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể lại rằng năm Tân Mão, 571, Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương chống không nổi mới cùng con gái chạy về phía nam, đến cửa biển Đại Nha bị nước chắn lại, Việt Vương than rằng: “Ta hết đường rồi!”, bèn nhảy xuống biển[2].
Sách trên kể lại một chuyện khác cũng xảy ra vào năm Mão, năm Kỷ Mão 979, niên hiệu Thái Bình thứ 10 sau khi Đinh Tiên Hoàng vừa bị sát hại: “Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước.[3]”
Gần bảy chục năm sau, sách Đại Việt sử ký toàn thư mới lại nhắc đến tên cửa biển trên đây lần nữa. Đó là vào năm Giáp Thân 1044, niên hiệu Minh Đạo thứ 3, vua Lý Thái Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành: “Ngày Giáp Thìn, quân đi từ Kinh sư, ngày Ất Tỵ, đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua biển dễ dàng, cho nên đổi tên Đại Ác làm Đại An.[4]”
Rồi mãi hơn một trăm năm sau, năm Tân Tỵ 1161, niên hiệu Đại Định thứ 22 triều vua Lý Anh Tông, chính sử mới có dịp kể đến tên cửa biển Đại An: “Tháng 11, vua sai Tô Hiến Thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển tây nam, để giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay là cửa biển Thần Phù) mới trở về.[5]”
Sau đó chính sử còn nhắc đến cửa biển Đại An vài ba lần, nhưng đáng kể hơn cả là sự kiện vào năm Bính Thìn 1377, niên hiệu Long Khánh thứ 5 triều Trần Duệ Tông, kể về việc quân Chiêm Thành ra đánh kinh đô Đại Việt: “Đầu tiên thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai trấn quốc tướng quân Cung Chính vương Sư Hiền giữ cửa biển Đại An. Giặc biết [ở đó] có phòngbị, mới từ cửa biển Thiên Phù mà vào, rồi tiến thẳng đến kinh sư. Ngày 12, giặc lại dẫn quân về, ra cửa biển Đại An bị bão, chết đuối rất nhiều.[6]”
Người đọc khó tính và thiếu kiên nhẫn sẽ cho tôi là gã dông dài kể những chuyện không đâu. Thực ra cửa biển Đại Nha ngày nào đã lần lượt được đổi tên thành cửa Đại Ác, rồi Đại An và ngày nay là cửa Liêu, tức là cửa con sông Đáy chảy qua quê mình. Còn cửa Thiên Phù sau đổi thành cửa Thần Đầu, rồi Thần Phù và nay đã nằm sâu trong đất liền.
Quê ta đó nằm ở vùng cửa biển, nơi con sông Đáy và sông Càn đổ vào Biển Đông. Quê ta đó xưa kia từng là biển lớn mênh mông, sóng to gió lớn, hiểm nguy trăm bề, tới mức người xưa từng gọi tên là cửa Đại Ác, biết bao lần đã là nơi vùi thây những kẻ manh tâm cướp phá đất Việt.
Tôi lại chợt bâng khuâng nhớ lại những chuyện mà thằng bạn thủa thiếu thời từng mang ra doạ tôi. Ôi, những chuyện tưởng như hoang đường ấy đâu phải vô căn cứ, và lời nói dông dài của đứa trẻ nhà quê ấy không ngờ lại có vài dấu vết trong chính sử. Tôi chợt thấy quê mình đẹp hơn, đẹp hơn vì đó là vùng quê ngồi trên sóng biển, một vùng quê do phù sa tích tụ ngàn năm, ở đó con người có thói quen ăn sóng nói gió, cởi mở và rộng rãi, khảng khái và hào hùng. Tôi lại mơ một ngày giở giời hay giông bão có dịp về quê, giữa cơn giông tố, trong làn mưa nhạt nhoà, biết đâu lại chẳng chợt nhìn thấy bóng vài ba con tầu nhấp nhô giữa trùng khơi giận dữ.
NẶNG NGHĨA PHÙ SA
Đất quê ta lật lên có màu đỏ sậm. Thủa ấu thơ tôi vẫn tin rằng đất ở đâu mà chẳng thế. Mãi tới khi lưu lạc tha hương tôi mới nhận ra rằng cũng là đất nhưng có chỗ màu vàng, có nơi màu nâu, lại có chỗ màu đen hay màu sám. Màu đất nạc đỏ sậm là nét đặc trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó là màu nặng trĩu muôn triệu hạt phù sa. Thiên nhiên vốn trường cửu và cứ bình thản theo nhịp sống của riêng mình để những dải đất phì nhiêu sậm đỏ cứ lớn dần lớn dần về phía biển.
Thương hải biến vi tang điền[7]
Tôi từng đọc sử hai triều Đinh – Lê. Thời đó ngọn núi mà bây giờ có tên Non Nước được gọi là Trấn Hải Đài. Như vậy thì cửa biển hẳn là cách đó chẳng bao xa. Cứ theo đó mà tính thì trong khoảng ngàn năm, phù sa đã bồi đắp một dải đất chừng 50 cây số. Quê hương yêu dấu vẫn còn lưu giữ lại nhiều vết tích về công việc âm thầm nhưng thật mạnh mẽ của các dòng sông cùng với công sức khai hoang lấn biển của con người.
Từ thị xã Ninh Bình đi theo đường số 10 chừng 15 cây số, ta gặp một con đường cắt ngang mà những bậc cao niên nay vẫn còn gọi là đê Hồng Đức. Con đường mang tên gọi này vì đây chính là con đê lấn biển được đắp vào năm Tân Mão 1471, thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ 2[8].
Rồi tiếp tục xuôi theo quốc lộ 10 chừng 4 cây số nữa, ta lại gặp một con đường cắt ngang nhỏ hơn có tên gọi Đường Quan. Có tài liệu ghi rằng con đê này được quan đại thần thời Trịnh Sâm là Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du, cho đắp vào năm Quý Tỵ 1773, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34[9]. Tên gọi Đường Quan dường như có liên quan gì đó với đại thần Nguyễn Nghiễm. Cũng nên biết thêm rằng chữ Thần viết trên vách núi ở cửa biển Thần Phù khi xưa chính là bút tích của vị đại thần này. Tuy nhiên, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục lại chép rằng người được Trịnh Sâm cử đi lo việc khai khẩn là Phó đô ngự sử Nguyễn Lệ[10].
Đi tiếp về phía nam, ta gặp con đường huyết mạch của huyện Kim Sơn, nối Bến Đò Mười với huyện Nga Sơn Thanh Hoá nằm ở phía bắc sông Ân[11]. Con đường phía nam sông Ân chính là đê Hồng Ân được đắp vào năm Canh Dần 1830, năm Minh Mạng thứ 11[12]. Ngoài đê Hồng Ân, một con đê khác được đắp nhằm ngăn mặn, cách đê Hồng Ân 50 đạc[13] về phía nam[14]. Cùng với những con đê này, diện mạo căn bản về địa lý huyện Kim Sơn như ta thấy ngày nay cũng đã được hình thành từ thời đó.
Hoạ trung hữu phúc[15]
Để bàn về gốc tích huyện Kim Sơn, thiết tưởng cũng nên lật lại vài trang sử cũ của một thời ly loạn.
Sách Quốc triều chánh biên có chép việc vào năm Bính Tuất 1826, Minh Mạng thứ 7: “Tháng 2, giặc thổ trấn Nam-Định là Võ-đức Cát (nguyên nó làm Thu-ngự ở đồn Ba-Thắt, vì con nó giết người nên phải cách) củ tập bọn Phan-bá-Vành, Nguyễn-Hạnh mưu khởi nguỵ, cướp phá Trà-Lý và Lân-Hải; Thủ-Ngự Đặng-đình-Miễn, Nguyễn-trung-Diễn bị hại; Trấn-thủ Lê-Mậu-Cúc đánh với nó bị chết; quan quân chết đến vài mươi người, còn thời chạy cả; súng, khí giới, thuyền mất hết. Quan Tổng-trấn nghe báo, liền khiến Thống-chế Trương-phúc-Đặng theo đánh, giặc tan. Làng Đông-Hào (về huyện Giao-Thuỷ) bắt được Võ-đức-Cát đem nạp, giết ngay.[16]”
Sau đó Phan Bá Vành vẫn còn tiếp tục hoạt động và vươn tầm ảnh hưởng tới tận Hải Dương. Cũng sách trên còn thuật tiếp rằng năm Đinh Hợi 1827: “Phan-bá-Vành lại tụ chúng ở phủ Thiên-trường và Kiến-xương, quan Bắc-thành xin phái thêm lính Kinh với thuyền và súng cho mạnh thêm thế quân. Ngài khiến quan Hậu-quân phó-tướng Ngô-văn-Vĩnh đem quân Hậu-bảo vệ-nhì qua Bắc-thành hội tiễu, lại phái Trung-dinh Tả-dinh vệ quân Thần-sách ở Nghệ-an mỗi dinh một viên Vệ-uý theo sai phái ngoài Bắc-thành […].
Tên Vành đem quân vây Phạm-đình-Bửu ở chợ Quán. Phạm-văn-Lý, Nguyễn-công-Trứ chia 3 đạo quân tới cứu trong ngoài giáp đánh, giặc tan, Vành chạy vào làng Trà-lũ, đắp thành, đào hào, làm mưu cố giữ.
Giặc Thổ ở Nam-định yên. Vành ở làng Trà-lũ, quan quân vây giữ, thế nó cùng, toan nhơn đêm chạy ra biển, phái Phan-bá-Hùng đón giữ, quan quân thẳng vào đến nơi, bắt được tên Vành và đảng nó hơn 700 người, thuyền và súng lấy được hết, tờ báo tiệp tâu lên, Ngài tuỳ bậc ban thưởng.[17]”
Những biến cố kể trên diễn ra trước khi huyện Kim Sơn được lập chỉ vài năm. Sau khi dẹp xong Phan Bá Vành, triều đình cử hai vị trọng thần là Nguyễn Văn Hiếu và Hoàng Kim Xán đi kinh lược trấn Sơn Nam và Nam Định để xem xét việc “thương yêu dân điêu tàn, chỉnh đốn các quan lại[18].”
Cũng nên biết thêm rằng vào đầu thời Nguyễn, Ninh Bình được gọi là trấn Thanh Hoa ngoại, rồi Thanh Bình. Đến năm Nhâm Ngọ 1822, trấn Thanh Bình được đổi tên thành Ninh Bình. Những địa danh có can qua binh lửa nằm ngay bên Ninh Bình, nên hẳn trấn Ninh Bình ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng.
Sách Quốc triều chánh biên còn chép rằng vào năm Mậu Tý 1828: “Cho Thị-lang Nguyễn-công-Trứ làm chức Dinh-điền-sứ. Khi trước Công-Trứ dâng sớ xin 3 điều: 1. Nghiêm phép cấm để tuyệt bọn trộm cướp; 2. Rõ thưởng phạt để khuyên răn quan lại; 3. Mở ruộng hoang để giúp cho dân nghèo. Ngài cho, vì thế cho làm chức ấy.[19]”
Sách Đại Nam thực lục chính biên còn chép rõ hơn về nội dung bản sớ của Nguyễn Công Trứ. Mục thứ 3 trên đây được ghi lại như sau: “Vỡ ruộng hoang cho dân nghèo. (Đời làm ăn xưa, chia ruộng định của, dân có nghiệp thường cho nên ở yên nơi làng mạc, không có gian tà. Ngày nay những dân nghèo túng ăn dưng chơi không, khi cùng thì họp nhau trộm cướp, cái tệ không ngăn cấm được. Trước thần đến Nam Định, thấy ruộng bỏ hoang ở các huyện Giao Thuỷ, Chân Định mênh mông bát ngát, hỏi ra thì dân địa phương muốn khai khẩn nhưng phí tổn nhiều không đủ sức làm. Nếu cấp cho tiền công, thì có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn, nhà nước phí tổn không mấy mà cái lợi tự nhiên sẽ đến vô cùng. Vả lại bãi Tiền Châu ở huyện Chân Định hoang rậm, trộm cướp thường tụ họp ở đấy làm sào huyệt, nay khai phá ra, không những có thể cho dân nghèo làm ăn, lại còn dứt được đảng ác. Xin sai trấn thần khám xét, phàm những đất hoang có thể khai khẩn được, cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi công làm, mộ những dân nghèo các hạt đến khai khẩn, như mộ được 50 người thì lập làm một làng, cho làm lý trưởng, mộ được 30 người thì lập làm một ấp, cho làm ấp trưởng; đều tính đất chia cho. Cấp cho tiền công để làm cửa nhà, mua trâu bò nông cụ; lại lượng cấp tiền gạo lương tháng trong hạn 6 tháng, ngoài hạn ấy thì làm lấy mà ăn, 3 năm thành ruộng, đến chiếu lệ tư điền mà đánh thuế. Quan phủ huyện sở tại lập kho chứa thóc để phòng năm mất mùa cho dân vay. Những làng ấp mới lập gọi là “quân Lực bản” ((1) Bản quân: xưa nay nghề làm ruộng là nghề gốc. Lực bản là ra sức vào nghề gốc. 1). Phàm các hạt xét thấy những dân du đãng không bấu víu vào đâu, đều đưa cả về đấy. Như thế thì đất không bỏ hoang, dân đều làm ruộng, phong tục kiêu bạc lại thành thuần hậu).[20]”
Sách Quốc triều chánh biên chép thêm rằng: “Nguyên trước ở gần biển có một giải bãi Tiền-châu bỏ hoang, giặc thường trốn núp tại đó, khi quan Dinh-điền-sứ Nguyễn-công-Trứ đến, chiêu dụ dạy bảo dân, nhắm đo đất hoang ở Tiền-châu và hai bên bờ, chia cấp cho dân cùng, cả thảy được 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp, sổ đinh 2.350 người, ruộng hơn 18.970 mẫu, chia làm 7 tổng, tâu xin biệt lập một huyện, đặt tên là huyện Tiền-hải. Lại ở làng Ninh-cường, Hải-cát mở được 4 lý, 4 ấp, 1 trại, xin lập một tổng thuộc về huyện Nam-chân; ở tổng Hoàng-nha mở được 5 ấp, 1 trại, 3 giáp, cũng làm 1 tổng, thuộc về huyện Giao-thuỷ còn bao nhiêu tuỳ gần tổng nào thuộc tổng ấy; đến như nhà cửa và ngưu canh điền-khí lượng lấy tiền công chi cấp cho. Ngài ban khen, mới cho tri-huyện Quỳnh Lưu là Võ-danh-Dương (người trấn Sơn Nam) làm tri-huyện Tiền-hải. Công-Trứ lại tâu: ‘Những người dân nghèo muốn lãnh ruộng hoang mà khẩn còn đến hơn 1.000 người, tôi xét huyện An-khánh, An-mô thuộc về Ninh-bình đối ngang với huyện Nam-chân trấn Nam-định, theo một giải bờ biển, còn nhiều nơi bỏ hoang, cấy được, cũng chẳng kém gì huyện Tiền-hải, tôi xin qua đó nhắm đo, lập thành ấp lý’. Ngài khiến hội với quan đạo Ninh-bình mà làm.[21]”
Cũng sách trên kể lại rằng năm Kỷ Sửu 1829, Minh Mạng thứ 10: “Mới đặt huyện Kim-sơn thuộc về phủ Yên-khánh, đạo Ninh-bình, lựa người đặt làm Tri huyện để khuyên dạy dân, nhà cửa, lương tháng, ngưu canh, điền-khí thời đều cấp cho dân y như lệ huyện Tiền-hải, còn ruộng thiệt-trưng và ruộng đã thành thuộc thời lấy thuế từ năm nay, ruộng lưu hoang thời đến năm Minh-mạng 12 sẽ đánh thuế; đó là theo lời Nguyễn-công-Trứ xin. Công-Trứ lại dâng sớ xin lập ra Qui ước, khiến cho dân biết kiểm thúc, lâu cũng nên thói hay được: 1. Lập nhà học (đặt ruộng học tha thuế, khiến dân cày ruộng để làm học bổng; học trò 8 tuổi phải vào học); 2. Đặt xã thương, chăn dạy bảo dân làm ăn; 3. Cẩn việc phòng giữ; 4. Nghiêm việc khuyên răn.[22]”
Sử cũ chỉ chép lại vài dòng như thế, nhưng đó là một giai đoạn đầy bi thương, loạn ly đói khổ. Sách Đại Nam thực lục và Minh Mệnh chính yếu cho biết từ năm Quý Hợi 1803 đến năm Mậu Tý 1828, các trấn Thanh Hoá, Ninh Bình, Sơn Nam, Nam Định, liên tiếp xảy ra nạn đói[23]. Đó chính là mầm loạn. Dân đói khổ theo Phan Bá Vành cũng chỉ mong tìm đường sống.
Người khó tính sẽ hỏi tôi rằng kể chuyện lập huyện Kim Sơn thì được rồi, nhưng tại sao lại đem Phan Bá Vành mà kể lòng vòng vào đây.
Quý vị đồng hương Hoà Lạc có chút quan tâm đến gốc gác hẳn đều biết đến 80% người Kim Sơn vốn xuất thân từ Trà Lũ và hơn 90% con dân Hoà Lạc cũng vốn là người Trà Lũ. Bản thân người viết những dòng này từng có diễm phúc được đọc vài trang gia phả của dòng họ mình và những dòng đầu tiên trong cuốn gia phả ấy cũng cho biết các cụ tổ ngày xưa vốn từ Trà Lũ qua Hoà Lạc lập ấp.
Người Việt Nam vốn gắn bó với quê cha đất tổ, nhưng vì đói khổ đành tha phương cầu thực. Hơn nữa, nhiều người từng theo đảng loạn Phan Bá Vành, nên đành ngậm ngùi từ giã quê hương để hướng tới chân trời mới, dù chân trời ấy vẫn mịt mù một màu ảm đạm. Khi lớn lên đôi chút, tôi từng theo chúng bạn đi đây đó trong huyện nhà, vài bậc cao niên còn chỉ cho tôi một đám mộ thuộc làng Chỉ Thiện và Xuân Hồi nằm bên con đê chạy ra Đò Mười mà bảo tôi đó là mộ của những tướng lĩnh từng theo Phan Bá Vành. Rồi ngay trong làng Hoà Lạc cũng có người từng nói với tôi chi nọ chi kia của dòng họ Hoàng vốn mang họ Phan, nhưng vì từng làm loạn nên phải thay tên đổi họ, chỉ dám giữ lại chữ Bá trong tên đệm. Chuyện xưa của một thời ly loạn vốn mang nhiều điều ẩn khuất, tài liệu giấy tờ lại chẳng còn bao nhiêu sau từng ấy cơn binh lửa, nhưng tôi tin rằng trong ký ức của những bậc cao niên, những lời đồn đại ấy hẳn cũng mang một phần sự thật.
Ngày nay huyện Kim Sơn là huyện trù phú bậc nhất tỉnh Ninh Bình, nhưng cách đây 200 năm, vùng đất này vẫn còn là bãi hoang. Còn khi các cụ tổ của chúng ta đến khai hoang lập ấp, công việc thật trăm đường gian lao vất vả. Gia phả họ Phạm thôn Chất Thành còn ghi: “Lúc đầu mới đến muỗi như sấm, cỏ lau, cỏ lác mọc đầy đất, sóng cát liền trời.[24]” Rồi ngoài việc thau chua rửa mặn, ngay chuyện kiếm nước ăn nước uống cũng phải đi xin tận những làng thuộc Yên Khánh, bị dân các làng đó kỳ thị, khinh bỉ và hành hạ đủ đường. Bài Kim Sơn sự tích doanh điền ca kể rằng:
“Kẻ thời dẫn vợ bồng con
Đầu đội bị gạo vai mang chiếu nồi
Bữa cơm bữa cháo cầm hơi
Ra công khai phá ở nơi Núi Vàng
Kẻ thời khoai ngứa khoai lang
Áo quần rách nát chỉ đường lập thân
Đương khi đến chốn hải tần
Đồng chua nước mặn trăm phần xót xa
Đường đi như thể chông chà
Ầm ầm ong muỗi ngỡ là thóc xay
Máu thời đẫm ướt chân tay
Rằng ta khó nhọc sau này thảnh thơi.[25]”
Rồi:
“Nước uống gánh trộm cựu dân
Họ mà bắt được nhiều lần về không.[26]”
Nên mỗi nắm đất quê mình đều thấm đậm mồ hôi, nước mắt và cả máu của tiền nhân. Nhưng trong cái họa của một thời loạn ly đói khổ, lại nảy sinh cái phúc của một vùng quê trù phú, yên ả hiền hoà ngày nay.
Thận chung truy viễn[27]
Huyện Kim Sơn do Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ khai khẩn, sau khi đã lập huyện Tiền Hải vào năm 1828. Khi lập huyện Tiền Hải, triều đình đã ấn định cụ thể như sau: “Về nhà cửa cùng trâu cày nông cụ của dân thì xin lấy tiền nhà nước chi cấp để dân được yên nghiệp làm ăn. (Tiền nhà cửa mỗi lý cấp 100 quan, mỗi ấp 60 quan, mỗi trại 30 quan, mỗi giáp 20 quan. Tiền trâu cày mỗi lý cấp 300 quan, mỗi ấp 180 quan, mỗi trại 90 quan, mỗi giáp 60 quan. Tiền nông cụ mỗi lý cấp 40 quan, mỗi ấp 24 quan, mỗi trại 12 quan, mỗi giáp 8 quan).[28]” Quy định này cũng được áp dụng cho huyện Kim Sơn: “Nhà ở, lương tháng, trâu cày và điền khí của dân thì do quan cấp cũng như lệ huyện Tiền Hải.[29]”
Để thi hành công việc, Nguyễn Công Trứ được cử đứng ra kêu gọi và tập họp dân nghèo để khai hoang. Như trên đã nói, triều đình có chính sách ưu đãi cho những người tham gia công việc này. Sách Đại Nam thực lục chép: “Xin sai trấn thần khám xét, phàm những đất hoang có thể khai khẩn được, cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi công làm, mộ những dân nghèo các hạt đến khai khẩn, như mộ được 50 người thì lập làm một làng, cho làm lý trưởng, mộ được 30 người thì lập làm một ấp, cho làm ấp trưởng; đều tính đất chia cho.[30]” Những chính sách kể trên được thi hành nghiêm chỉnh một cách rất cụ thể: “Các khoản chi cấp trên đây nhà nước không phát tiền mà trực tiếp phát bằng hiện vật cho người khai hoang: ‘Cứ 5 người thì cấp một con trâu, một cái bừa, một cái cày, một cái móng, một cái cuốc, một cái liềm, sức các ông chiêu mộ lĩnh về cấp phát.[31]’”
Với cách làm như thế, năm 1829, Nguyễn Công Trứ đã lập ra huyện Kim Sơn, với thông tin từ sách Đại Nam thực lục như sau: “Bắt đầu đặt huyện Kim Sơn, lệ vào phủ Yên Khánh, Ninh Bình. Lĩnh Dinh điền sứ là Nguyễn Công Trứ, ở phía ngoài đê Hồng Lĩnh đo được số ruộng hoang là 14.620 mẫu, chia cấp cho dân nghèo hơn 1.260 người. Lập thành 3 làng, 22 ấp, 24 trại và 4 giáp chia làm 5 tổng, tâu xin đặt riêng một huyện gọi là Kim Sơn, chọn người hợp với địa phương làm Tri huyện để phủ dụ khuyên bảo.[32]” Đồng thời với công việc khai hoang lập huyện, Nguyễn Công Trứ cũng tâu xin định quy ước gồm 5 điểm (đặt trường học, đặt xã thương, siêng dạy bảo, cẩn phòng thư, chăm khuyên răn) để kiến tạo thuần phong mỹ tục[33]. Như vậy, khi thành lập, huyện Kim Sơn gồm 53 làng, ấp, trại, giáp, được chia thành 5 tổng. Theo bộ Đồng Khánh địa dư chí, huyện Kim Sơn gồm 63 làng, ấp, trại, giáp, phường, được chia thành 7 tổng: Chất Thành, Hồi Thuần, Quy Hậu, Hương Đạo[34], Tự Tân, Tuy Lộc, Lai Thành[35]. Có thể số làng ấp và số tổng tăng lên là do công việc khai khẩn đất hoang vẫn còn tiếp tục sau khi thành lập huyện.
Các ngôi làng được lập vào năm 1829 chạy dài chừng 10 cây số theo chiều bắc – nam, chiều ngang của mỗi ngôi làng tuỳ thuộc vào số đinh. Ruộng đất cũng được quy hoạch rất rõ ràng, cứ 100 mẫu thì 70 mẫu làm ruộng, còn 30 mẫu làm thổ cư[36]. Mỗi suất đinh được hưởng một mẫu thổ cư. Người đứng ra chiêu mộ được hưởng phần thổ cư lớn hơn[37].
Huyện Kim Sơn trong Đồng Khánh địa dư chí
Làng Hoà Lạc vươn dài khoảng hơn 10 cây số theo chiều bắc - nam, nhưng khu vực sinh sống chủ yếu của dân làng chỉ trải dài chỉ chừng trên cây số. Đi hết các làng trong huyện và lại về làng mình mà ngắm những đường dong rộng rãi, thẳng tắp suốt chiều ngang ba đạc rưỡi (210 mét) của ngôi làng, mới thấy công sức và tài trí của tiền nhân. Có thể nói trong khắp huyện Kim Sơn, không mấy ngôi làng có quy hoạch khoa học và đẹp đẽ như làng Hoà Lạc. Thêm vào đó, làng Hoà Lạc còn có nhiều thuần phong mỹ tục với tình tương thân tương ái, đoàn kết và quý trọng nhau. Những điều tốt đẹp ấy chắc chắn là công sức và phúc ấm tiền nhân để lại.
Những lời kể và những chi tiết dông dài trên đây có lẽ làm mệt lòng nhọc trí người đọc, nhưng không kể ra e rằng công khó nhọc của tổ tiên, mồ hôi nước mắt của người xưa dễ chìm vào quên lãng mà không để lại chút vết tích gì.
Tôi đã cố công truy tìm chuyện xưa tích cũ và may mắn biết được danh tính của cụ tổ đã từng đứng ra chiêu mộ để lập nên làng Hoà Lạc. Sách cũ chỉ ghi cụ là Vũ Văn Bạo, ngoài ra không có một dòng nói về cội nguồn quê quán[38].
Xét trong làng Hoà Lạc cả lương lẫn giáo cũng có vài chi họ Vũ, nhưng để tìm được đích xác ai là hậu duệ của cụ Vũ Văn Bạo quả là chuyện không dễ dàng sau gần 200 năm thịnh suy tan hợp. Tôi từng đem chuyện này bàn với thân phụ mình thì được người cho biết có lẽ cụ là thuỷ tổ của chi họ Vũ thuộc giáp lương. Kẻ hậu sinh chẳng còn biết nói gì, đành dâng lên cụ một nén hương lòng để tỏ lòng ngưỡng vọng.
***
“Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”. Viết đến những dòng này, câu thơ của Cao Bá Quát xưa chợt vang trong tâm trí tôi như một nét nhạc trầm xin đừng hỏi, cũng đừng băn khoăn về chuyện đời biến đổi. Nhưng dù thế sự mãi thăng trầm, dù dòng đời còn trôi nổi, mảnh đất quê mình lật lên vẫn mang màu đỏ sậm. Vì cùng với muôn triệu hạt phù sa, còn có công khó nhọc và những giọt máu đào của một thời khai hoang lập ấp.
MÁU VÀ NƯỚC MẮT
Sinh ra và lớn lên giữa ngôi làng Hoà Lạc, tôi nhận thấy rằng người Hoà Lạc không mấy khi bạn bè giao thiệp với người thuộc hai làng Tuần Lễ và Như Độ ở liền kề làng mình, chẳng phải vì khác làng, nhưng có lẽ là vì không cùng một đạo. Người Hoà Lạc hầu hết theo Công Giáo, còn người hai làng kia hoàn toàn là lương dân. Người Việt Nam vốn hiền hoà, khác biệt tôn giáo cũng chẳng phải chuyện gì lớn, nhưng lịch sử vài trăm năm trở lại đây cũng có những vết đen khiến mỗi lần đọc lại lịch sử, người có tâm không khỏi bùi ngùi buồn tiếc cho vận mạng nước nhà.
Chuyện đời chuyện đạo
Sử cũ để lại vài dòng sơ sài về khởi thuỷ việc truyền đạo vào Việt Nam. Các sử gia cũng thường dựa vào những tài liệu đây đó để đưa ra những giả thuyết khác nhau về thời phôi thai của công việc truyền đạo. Tuy nhiên, mãi tới năm 1614 ở Đàng Trong và năm 1627 ở Đàng Ngoài với thừa sai Đắc Lộ (Alexandre de Rohdes), công việc truyền đạo mới thực sự thu được những kết quả rõ rệt.
Hơn hai trăm năm sau, năm 1858, người Pháp nổ phát súng đầu tiên vào Cửa Hàn để bắt đầu cuộc chinh phục vùng đất sai này thường được gọi là xứ Đông Dương. Thế nhưng đã một thời, người ta gán cho thừa sai Đắc Lộ cái tội rước quân đội viễn chinh Pháp vào Việt Nam!
Triều đình Huế lúc đó lần lượt để mất Lục Tỉnh, mất thành Tân Bình (Sài Gòn). Đến năm 1882, sau khi người Pháp phá thành Hà Nội lần thứ hai thì kể như xứ An Nam đã được bình định.
Nước mất nhà tan. Người Việt bị người Pháp đàn áp, và chính người Việt cũng lại đàn áp lẫn nhau.
Chuyện nồi da nấu thịt
Kể từ thời Lê – Trịnh, chuyện trục xuất các thừa sai hay cấm giảng đạo đã không còn là chuyện lạ. Đến thời Tây Sơn, không chỉ còn là chuyện ngăn cấm mà đã có án tử hình dành cho những người theo đạo. Tuy nhiên, khủng khiếp và thảm khốc nhất là những cuộc bách hại đạo Công Giáo dưới triều nhà Nguyễn, đặc biệt là triều Tự Đức. Hàng vạn gia đình ly tán, hàng ngàn người bị đưa ra pháp trường.
Đến năm 1862, vua Tự Đức ra chiếu chỉ tha đạo, nhưng phong trào Văn Thân lại bùng nổ. Với khẩu hiệu "Bình Tây sát tả", phong trào Văn Thân đã gây ra những cảnh tàn sát thương tâm, nhiều ngôi nhà thờ Công Giáo bị phá huỷ, nhiều làng Công Giáo bị triệt hạ dã man, và hậu quả là một bầu khí bất hoà trầm trọng giữa đồng bào lương - giáo.
Ông Nguyễn Trường Tộ kể lại: “Hiện nay ở tỉnh Nghệ hai bên lương giáo lòng đang sôi sục. Một bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho hết tiệt mới thôi. Một bên nói con thú mà bị khốn quẫn còn cắn càn huống chi là con người? Nếu bên kia không để cho cùng sinh cùng dưỡng, thì bên này cũng không để bó tay chịu trói. .. Nhà nào ngõ nào cũng xôn xao bàn tán chuyện đó. Tôi rất lấy làm lo ngại mà không có cách nào giải quyết. Bởi vì sĩ phu trong tỉnh hạt có nhiều ý kiến khác nhau. Đã nói ra khó với lại được. Hơn nữa sự thù hằn này đã sâu sắc, việc làm ác độc này đã kéo dài, lòng không sao yên được. Cho nên không ai chịu tự giải thích cho mình, cũng không chịu giải thích cho người khác.
[. .. ]
Dân tình thế đấy hỏi làm sao yên ổn lâu dài được? Xét cho cùng cũng bởi một là do ơn trên chưa được rộng khắp, hai là do sai lầm trước chưa giải thích được, ba là do bọn ăn không ngồi rồi bịa đặt mà gây liên luỵ, bốn là do bọn cường hào tác uy tác phúc ngoài pháp luật, năm là do bọn quyền quý mượn uy thế doạ nạt người, sáu là do dân đạo không yên tâm phải luôn luôn ngó trước nhìn sau. Những điều ẩn khuất như vậy, ở đây mười điều tôi mới chỉ mới nói một mà thôi. Bởi vì chuyện đời thường ở trong thì nhỏ mà ngoài xé ra to. Huống chi những việc bình dân doạ nạt đâu phải mới một ngày một bữa, lâu rồi phải khiến người ta tin mà sợ.[39]”
Còn ông Trần Trọng Kim đưa ra ý kiến: “Nguyên bấy giờ dân trong nước ta chia làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi xảy ra việc đại uý Francis Garnier lấy Hà Nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ Tĩnh thấy giáo dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.
[… ]
Nước ta mà không chịu khai hoá ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà làm việc nông nổi càn rỡ, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trọng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru![40]”.
Chuyện làng mình
Làng Hoà Lạc được lập năm 1829. Dân làng đa số theo đạo Công Giáo. Giữa cảnh nồi da nấu thịt như thế, một ngôi làng Công Giáo tránh sao khỏi chuyện ít nhiều bị ảnh hưởng.
Linh mục Bùi Đức Sinh có kể lại những chuyện bắt bớ, giết hại xảy ra ngay gần làng Hoà Lạc: “Hoà ước đã ký và trên nguyên tắc cuộc bách hại chấm dứt, nhưng tại địa phương các quan vẫn còn lập mưu bắt bớ giáo dân; cấm thi cử, cấm làm quan, có kêu quan điều gì cũng chẳng ai nghe. Dân lương biết ý vua quan, thì cũng nạt nộ giáo dân, bới kiện bất công, đòi trái lẽ, cũng phải chịu. Năm 1863, linh mục Phêrô Dũng quê Kẻ Bạng, chính xứ Phát Diệm từ năm 1862, bị bắt và chết rũ tù ở Ninh Bình. Cũng năm ấy cha Alexi Thức, quê Kẻ Sét, bị bắt ở Tôn Đạo bị cấm cốc, chết trong ngục.
Nhóm Văn Thân ở Ninh Bình, Nam Định tổ chức một đạo quân lưu động, đặt dưới quyền chỉ huy của hoàng giáp Tam Đăng, một viên quan hồi hưu rất uy thế, vì các tú tài, cử nhân cùng một số đông quan chức đều là cựu học sinh của ông. Triều đình không bao giờ chấp nhận sự thành lập đạo quân lưu động này. Ngày 14.1.1868, Văn Thân vây đánh Kẻ Trình và nhiều xứ khác thuộc tỉnh Nam Định. Họ tiêu huỷ thánh đường, tu viện và 30 căn nhà của giáo dân. Dân Công Giáo kháng cự và bắt giữ hai tên khủng bố, trong số này có Tú Đường. Tú Đường bị nhà vua lên án xử giảo giam hậu, song cũng phạt cha xứ Kẻ Trình, và mấy bổn đạo, nhưng nhẹ hơn, vì nhà vua muốn xử hoà đôi bên.[41]”
Nam Định, Ninh Bình, rồi Phát Diệm, Tôn Đạo, những cái tên đâu có xa lạ gì với người Hoà Lạc. Khi những sự kiện này diễn ra thì Hoà Lạc còn là một họ đạo thuộc xứ Tôn Đạo. Chuyện bắt bớ, bách hại diễn ra ngay trong xứ mình, làm sao người Hoà Lạc lại không ít nhiều chịu liên luỵ.
Ngày ấy trung tâm của huyện Kim Sơn còn nằm ở Quy Hậu. Chợ Quy Hậu là một chợ lớn và thường bị giặc cướp Tàu Ô từ biển vào quấy nhiễu, cướp bóc. Làng Hoà Lạc có ông Cai Bang, sức khoẻ kỳ lạ. Mỗi lần giặc Tàu Ô cướp chợ, chỉ ông Cai Bang mới trị được chúng. Người già còn kể lại rằng nghe tin có cướp, ông tới chợ, mỗi tay chộp một tên cướp làm vũ khí, rồi hai tay quay tít khiến cho giặc Tàu Ô khiếp đảm tháo chạy. Sau này chỉ cần thấy bóng ông chúng đã kinh hồn táng đởm, chẳng còn thiết gì chuyện cướp bóc nữa.
Câu chuyện của thời cốt nhục phân ly có một kết thúc thật bi tráng. Sau năm 1862, triều đình đã có chiếu chỉ tha đạo, nhưng quan trên ém đi vẫn sai người về Hoà Lạc bắt bớ. Ông Cai Bang biết chuyện ấy nên ra mặt phản đối, rồi ông lỡ tay đánh chết người được quan trên sai đến. Quan trên nổi giận bắt tội cả làng Hoà Lạc. Ông Cai Bang hiên ngang đứng ra nhận tội và chấp nhận chết thay cho cả làng. Ông chịu chém ở cánh đồng phía đầu làng trong nỗi tiếc thương và lòng biết ơn của bao đời người Hoà Lạc[42].
***
Chuyện xưa ít nhiều mang màu sắc ly kỳ vì nó được lưu truyền qua ký ức của nhiều thế hệ. Nếu có ai hỏi chuyện này có thật hay không thì người kể lại chuyện này chỉ dám nói “hình như là thật”.
Người làng Hoà Lạc ngày nay hình như đã giao thiệp nhiều hơn với người hai làng Tuần Lễ và Như Độ. Những hiểu lầm của một thời huynh đệ sát hại nhau chỉ còn đọng lại đôi chút trong lòng người lớn tuổi. Lớp hậu sinh có cơ sở để tin vào một tương lai tốt đẹp hơn.
NỔI TRÔI LY LOẠN (1885-1975)
Cha tôi là người được học hành đôi chút, nhưng ngặt vì sinh bất phùng thời nên khó lòng thoả chí bình sinh. Cũng như những người cùng lứa tuổi “sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc[43]”, người có nhiều tâm sự, nhiều ưu tư về chuyện đời, về chuyện thịnh suy hưng phế. Những khi ánh trăng như dát vàng nơi rặng tre, khi hàng cau in bóng trên nền trời ngả màu tím sậm, hoặc những đêm đen mù mịt bên ngọn đèn dầu leo lét chốn quê nhà, người thường đọc thuộc lòng những đoạn văn người tâm đắc, hay kể lại vài ba câu chuyện của một thời xưa cũ. Đôi khi ngồi dưới chân ông bà nội ngoại tôi cũng được nghe bao chuyện quá khứ. Trí óc non nớt của tôi lúc ấy chẳng thể nào lãnh hội tất cả. Thời xa xưa ấy với tôi vẫn được bao phủ bằng một tấm màn mịt mờ huyền ảo với vài ba nét chấm phá của khoảng gần trăm năm ly loạn.
“Làng chúng mày nấu rượu lậu”
Truyền thống nấu rượu nếp ở làng Hoà Lạc chẳng biết bắt đầu tự bao giờ, có lẽ nghề này có tuổi đời chẳng kém gì tuổi đời làng Hoà Lạc. Chỉ biết rằng thủa nhỏ đến trường, đám trẻ Hoà Lạc chúng tôi vẫn thường bị lũ trẻ hai làng bên nhắc đến chuyện làng Hoà Lạc nấu rượu lậu với vẻ chế nhạo, coi thường. Trong ký ức tôi vẫn còn nguyên vẹn cảm giác kinh hoàng mỗi lần dân quân xã đi bắt rượu, hoặc những lần chứng kiến cảnh nhân viên phòng thuế đuổi bắt người dân Hoà Lạc đi bán rượu. Tôi cũng không thể nào quên tâm lý sợ sệt, âu lo thường xuyên của cha mẹ và dân làng. Dân quân xã có thể vào khám xét bất cứ nhà nào trong làng với một “chứng cứ” hết sức bâng quơ: nhân dân phát hiện nhà anh nấu rượu. Như thế nghĩa là sản nghiệp tan hoang, thậm chí còn có thể rơi vào cảnh lao lung tù tội.
Người dân Hoà Lạc vẫn còn kể cho nhau câu chuyện cười ra nước mắt. Ông N. đi làm phu ở Tân Thế Giới (Nouvelle-Calédonie), năm 1954, nghe chính phủ kêu gọi, ông về nước mang theo nhiều của cải. Nhưng miệng ăn núi lở, sau một thời gian ông lâm cảnh túng quẫn và buộc lòng phải nấu rượu mưu sinh. Bị phát hiện, chính quyền đem ông ra toà xét xử. Chánh án tuyên bố: “Anh Nguyễn Văn N. nấu rượu lậu, vi phạm pháp luật, nhưng được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Chính Phủ, được hưởng án treo sáu tháng.” Ông N. vừa khóc vừa đáp: “Kính thưa quý toà, xin quý toà cho tôi được về với vợ với con, đừng treo tôi lên, xin cho tôi được tù ngồi.”
Nhưng người Hoà Lạc không chỉ mới chịu khổ về nghề nấu rượu. Lâu lắm rồi, ngay từ thời Pháp thuộc, nghề nấu rượu đã bị bắt bớ cấm cách. Thời đó người Hoà Lạc vẫn có nghề chăn tằm ươm tơ, nhưng chẳng thể nào bỏ được nghề nấu rượu. Ông ngoại tôi có lần kể rằng nếu chẳng may ai đó bỏ một chum rượu vào ruộng nhà mình mà bị nhà hữu trách phát hiện thì mình sẽ bị rắc rối tù tội. Ông nội tôi cũng từng nấu rượu, bị Tây bắt, ông đã đánh nhau với Tây để phi tang.
Đâu phải người Hoà Lạc mang tư tưởng chống đối hay phản động như đã từng mang tiếng. Người xưa từng nói: “cùng tắc biến”, xưa nay đói khổ bần cùng luôn là mầm loạn. Dẫu sao, người Hoà Lạc cũng đã chọn một con đường phản kháng âm thầm và bất bạo động.
Tha phương cầu thực
Kể từ năm 1885, người Pháp đã tạm thời bình định được toàn cõi Đông Dương. Người Hoà Lạc không còn phải chịu cảnh bắt đạo nữa, người dân mất nước có bao giờ được sung sướng.
Thủa ấu thơ tôi vẫn thường thắc mắc tại sao trong làng trước tên thật của một số người lại có thêm một danh hiệu gắn vào: ông Cai Tề, ông Chánh Sinh, ông Chánh Yến, ông Biểu Quy, ông Quản Tuất, ông Cố Khang, ông Binh Độ. .. Ngoài một số danh hiệu do tham gia chức sắc đạo đời, cũng có những danh hiệu phản ánh thực trạng tha phương cầu thực của người dân mất nước. Danh hiệu “Cai” và “Binh” dùng để gọi những người từng đi lính cho Pháp, tức là kiếp làm thuê cho quân đội Pháp tại bản xứ hoặc tại mẫu quốc.
Ngoài ra, vì miếng cơm manh áo, còn không biết bao nhiêu người Hoà Lạc đi làm phu đồn điền ở phương trời xa lạ như Tân Thế Giới. Đa số những người này trở về sống tại quê nhà sau năm 1954. Họ đã từng tự hào là người dân một nước độc lập, nhưng thoát thảm cảnh này họ lại rơi vào một thảm cảnh khác đôi khi còn nhiều lần bi đát hơn.
“Năm bốn nhăm chết đói đầy đường”
Những khi ngồi dưới chân ông ngoại nghe chuyện quá khứ, đôi lúc tôi từng nghe người nói tới câu trên đây kèm theo những câu chuyện ly kỳ khủng khiếp.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương và vào đầu năm 1945, người Nhật đã gây ra một thảm trạng khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Lúa đang lên mơn mởn, người Nhật bắt dân phải nhổ đi để trồng đay. Liền sau đó, từ Quảng Trị trở ra Bắc, một nạn đói vô tiền khoáng hậu cướp đi sinh mạng của trên hai triệu người Việt[44]. Nên biết rằng vào thời điểm đó, dân số Việt Nam khoảng xấp xỉ 20 triệu. Quảng Trị nằm ở vị trí trung tâm đất nước, tức là nạn đói ảnh hưởng tởi khoảng 10 triệu dân. Hơn 2 triệu trong số 10 triệu dân tức là khoảng 20 phần trăm dân số lúc đó đã chết vì đói. Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 cho biết thông tin cụ thể như sau: Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh Bình: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người[45].
Những người trong cuộc vẫn còn lưu giữ những ký ức hãi hùng về nạn đói này. Ông Nguyễn Văn Thiết (xã Tây Ninh, Tiền Hải - Thái Bình) nói: “Tôi không nhớ là nhà ai trong xã, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm trước. Vợ không còn sữa cho con bú, không có gì để ăn nên để con ở nhà lang thang đi kiếm ăn. Không kiếm được gì, người mẹ biết mình sẽ chết, không thể về vì đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị thì thấy đứa bé chỉ còn trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ.[46]”
Giáo sư Vũ Khiêu, năm đó 29 tuổi, đã tả lại cảnh bi thương trong bài văn tế có đoạn như sau:
“Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu
Có người đến bên cây ngã vật
Có khi ngõ vắng gieo mình
Có lúc vườn sau thở hắt
Có những quán hàng bao xác lạnh bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng
Có nhiều nơi một nắm xương khô từng nắng dãi mưa dầu không kẻ nhặt.
Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn
Từng đống trên xe chồng chồng chất chất.
Ôi nói ra những toát mồ hôi
Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt![47]”
Ông ngoại tôi kể lại thủa đó có lần đi lo công việc, dọc đường người ghé vào một hàng phở và gọi một tô phở. Ăn gần hết tô phở, người phát hiện dưới đáy tô phở có những đoạn xương như đốt ngón tay con người! Người còn kể lại rằng thủa ấy người chết đói nhiều lắm, nhưng đến khi có thóc lúa để ăn, nhiều người lại chết vì bội thực! Thảm trạng năm ấy dẫn đến kết quả bi thảm là nhiều gia đình chết chẳng còn ai.
“Chúa vào Nam rồi”
Chín năm sau trận đói Ất Dậu, ngày 07-5-1954, người Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ. Sau đó chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và chính phủ Pháp ký kết hiệp định Genève, tạm thời chia đôi nước Việt ở vĩ tuyến 17 đợi tới ngày 20-7-1956 sẽ có cuộc tổng tuyển cử. Người dân được quyền lựa chọn sống ở phía bắc hoặc phía nam vĩ tuyến 17. Vì khiếp sợ chính sách vô thần, người dân ồ ạt kéo vào miền Nam. Người ta bảo nhau “Chúa vào Nam rồi”. Từ năm 1954 đến 1956, khoảng 1 triệu người Việt di cư từ miền Bắc vào miền Nam, trong đó có khoảng 800 ngàn người Công Giáo.
Làng Công Giáo Hoà Lạc cũng bị cuốn vào cơn lốc xoáy của cả dân tộc. Dân làng kẻ gánh, người gồng kéo nhau xuống tàu ở cửa Kim Đài, người có điều kiện thì tìm đường ra Hải Phòng để xuống tàu vào Nam. Theo ước lượng của những người nhiều tuổi, khoảng một nửa dân Hoà Lạc đã bỏ quê hương vào Nam trong cơn quốc biến này. Người ra đi gửi gắm nhà cửa, tài sản cho người thân ở nhà trông giữ với lời hẹn ước sáu tháng sau sẽ trở lại. Ít ai ngờ rằng đó là cuộc ra đi lâu dài vĩnh viễn, những người may mắn cũng phải chờ trên hai mươi năm sau mới có cơ hội gặp lại người thân.
“Dối trời lừa dân đủ trăm nghìn kế”[48]
Sau cuộc di cư, người dân miền Bắc lại rơi vào cơn lốc xoáy khốc liệt khác. Những cuộc đấu tố bắn giết, lúc đầu chỉ ở phạm vi từng vùng, sau lan rộng tràn lan, gây nên những thảm cảnh tang thương.
Làng Hoà Lạc cũng bị cuốn vào cơn lốc hãi hùng đó, song mức độ ảnh hưởng không nhiều, phần vì những gia đình giàu có như Hội Ky, Nhì Lãm, Chánh Huyến đã di cư từ lâu, phần vì dân Hoà Lạc chẳng mặn mà gì với những cuộc đấu tố.
Thời đó gia đình nào sở hữu hai mẫu Bắc Bộ liền bị quy là địa chủ, bị đấu tố. Cụ Trùm Phú ở dong ba cũng bị quy là địa chủ và bị lôi ra đấu tố. Cán bộ mớm trước cho một người đàn bà đấu tố cụ. Cuộc đấu đó diễn ra đại khái như sau:
Thằng Phú, mày có nhận ra bà không?
Dạ thưa bà, bà là người ở trong nhà con.
Mày có nhớ mày đã bóc lột bà thế nào không?
Dạ thưa bà, con không nhớ.
Mày đúng là ngoan cố. Năm ấy nhà bà thiếu ăn, bà đến vay thóc nhà mày, ba mươi thùng, mày nhớ chứ?
Thưa bà, dạ con nhớ ạ.
Mày nói với bà thế nào mày còn nhớ không?
Dạ thưa bà, con không nhớ.
Mày nói với bà cứ đem về mà ăn, nếu không thể trả được cũng không sao. Mày nhớ ra chưa?
Dạ thưa bà, con nhớ rồi ạ.
Thế là cuộc đấu tố tội áp bức bóc lột lại biến thành cuộc kể lại những ân nghĩa của địa chủ cường hào. Cán bộ lập tức kéo người đàn bà xuống, không cho tiếp tục đấu tố.
Cha tôi còn kể lại rằng năm ấy người vừa bước vào lứa tuổi thanh niên. Vì là gia đình nghèo, người được cán bộ trao cho nhiệm vụ giám sát cụ Trương Soạn, người Thái Hoà bị quy là thành phần địa chủ. Cụ Trương Soạn bị cùm chân tay suốt ngày đêm, thỉnh thoảng có cán bộ đi đến kiểm tra xem xét. Cha tôi đã đi tìm chiếc cùm nhẹ và có chốt để người bị cùm có thể tự mở ra hay đóng lại. Cha tôi dặn cụ Trương Soạn rằng: “Hễ Cụ nghe tiếng chó sủa thì Cụ đóng cùm lại giúp con.” Cứ như thế cụ Trương Soạn bị “cùm” trong tư thế tự do tại gia đình ông bà nội tôi cho tới khi hết cuộc đấu tố. Cụ Trương Soạn đã coi chuyện này là món nợ ân tình, nên kể từ đó tết năm nào Cụ cũng cho người tới tết ông bà nội tôi.
Mỗi lần kể lại những chuyện bi thương của thời đấu tố, cha tôi vẫn thường than thở rằng ở Việt Nam chưa có một cuốn sách nào nói hết được tính cách phi nhân tàn bạo, những thảm trạng khốc liệt của biến cố này. Rồi mắt buồn xa xăm, người kể lại chuyện vào một buổi chiều thê lương, ông Hiệu - một người cũng cỡ tuổi cha tôi và làm rể làng Hoà Lạc - cúi đầu ôm chiếc chiếu tả tơi đi trên con đê phía nam sông Ân về phía chợ Quy Hậu, nơi đó diễn ra cuộc xử bắn cha ông. Hay chuyện những người bị chặt đầu, khi gia đình mai táng phải lấy gáo dừa đặt vào thế chỗ!
“Nửa nước này đã cố giết một nửa nước kia”[49]
Những năm sau đó, nước Việt lâm cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn. Bao nhiêu nhân tài vật lực ở cả hai miền bị cuốn vào cuộc chiến tranh liên miên thảm khốc rút cạn kiệt nguyên khí quốc gia. Máu người Việt chảy tràn lan trên mọi dòng sông, mọi mỏm núi, mọi mảnh rừng của đất nước.
Cuộc chiến đã đụng chạm tới mọi con người, mọi gia đình, mọi miền đất. Hầu như không có gia đình Việt Nam nào lại không có người thân ngã xuống trong cuộc chiến. Điều đau xót là bao nhiêu máu đổ xuống chỉ vì mảnh đất Việt Nam thân yêu trót trở thành nơi xâu xé của hai ý thức hệ, là chiến trường xâu xé của hai phe.
Nhiều lúc suy nghĩ băn khoăn về cuộc huynh đệ tương tàn, tôi tự hỏi mình rằng không biết trong những năm đằng đẵng máu lửa tràn lan ấy, có bao nhiêu lần những người Hoà Lạc ở hai bên chiến tuyến đã chĩa súng vào nhau. Và có lẽ mãi mãi đây vẫn là câu hỏi không lời giải đáp!
***
Viết đến những dòng này lòng lại chợt hỏi lòng không hiểu sao trong khoảng không đầy trăm năm, nước Việt nói chung và làng Hoà Lạc nói riêng lại phải trải qua từng ấy biến cố đau thương thảm khốc đến thế. Mỗi người sẽ có cách lý giải của riêng mình, nhưng dưới ánh trăng thanh ở góc trời Hoà Lạc thân thương, rặng tre vẫn rì rào, bóng cau vẫn vươn thẳng và thế hệ trước vẫn thầm thì với thế hệ sau câu chuyện của thời quá vãng.
ĐOÀN TỤ VÀ CHIA LY (1975- NAY)
Ở tuổi mười bốn mười lăm, tôi bắt đầu cảm nhận rằng quê mình thật đẹp. Tôi đã từng say sưa ngắm mặt trời đỏ rực chìm dần sau rặng núi mù xa, từng mải mê nhìn những hàng cau vươn thẳng giữa nền trời xanh biếc, hay thơ thẩn trên con đường làng vằng vặc bóng trăng soi, những rặng tre mượt mà soi bóng bên dòng sông nhỏ, đâu đây trong xóm ngõ văng vẳng tiếng chó sủa đêm và muôn loại côn trùng cùng dạo bản hoà tấu muôn thủa của thiên nhiên trường cửu. Tôi vẫn thầm mong có ngày cầm bút hoạ lại bức tranh muôn màu đó. Nhưng ước mong trở thành hoạ sỹ ngày nào mãi vẫn chỉ là ước mong dang dở.
Dấu chân thơ bé của tôi đã in trên mọi ngõ ngách làng Hoà Lạc thân yêu. Mỗi mảnh vườn, mỗi ngôi nhà đều để lại trong tôi một chút buồn vui kỷ niệm. Những câu chuyện thường ngày của lớp người lớn tuổi cũng giúp tôi hiểu rằng còn có những người Hoà Lạc, những người thân yêu của tôi đang sinh sống ở nơi chân trời góc biển xa xôi lắm. Thế rồi những cái tên vừa quen vừa lạ cứ dần thấm vào cõi xa xăm của miền ký ức. Mỗi lần có người Hoà Lạc tìm về thăm lại cố hương, miền ký ức trong tôi lại được bồi đắp.
Tôi cũng lờ mờ biết thêm rằng biến cố 1975 và những năm đói khổ triền miên sau đó cùng với chính thể khắc nghiệt đã khiến hàng triệu người Việt rời bỏ quê hương, dấn mình vào những cuộc phiêu lưu, mong tìm cái sống giữa biết bao hiểm nguy chết chóc. Vậy là với một số người Hoà Lạc, đất mẹ lại thêm một phần xa xôi cách biệt.
Thế rồi cũng đến ngày tôi rời xa quê hương ngàn lần yêu dấu, bước chân ra chốn thị thành. Thiên Chúa cũng ban cho tôi ân huệ đi hầu khắp các miền đất nước thân yêu.
Năm 1992, trên tàu thống nhất vào Sài Gòn, tôi đã ngắm nhìn đất Việt trải dài trên gần hai ngàn cây số. Tôi cứ miên man suy nghĩ và thấy mình thật may mắn, vì để vượt qua những chặng đường mà tôi đã đi qua, thế hệ cha anh mình đã phải trả bằng giá máu. Lúc tiếng súng không còn cũng là lúc những bàn tay thân yêu tìm đến nhau cho vợi bao tháng ngày cách biệt. Cuộc chiến dẫu tàn khốc và mất mát thật nhiều, nhưng dù sao ngày thống nhất cũng là ngày đáng mừng vì người Việt không còn bắn nhau, và điều quan trọng hơn, những người thân yêu đã có thể gặp nhau sau gần nửa đời người ly biệt bặt tăm.
Thủa học ở Sài Gòn, tôi có dịp thăm người Hoà Lạc sinh sống ở Lạc Quang, Trung Chánh, Suối Nho, Phương Lâm và Bảo Lộc. Tôi vẫn nhớ hình ảnh cụ Quản Nghinh tay bắt mặt mừng, xuýt xoa kể lại những kỷ niệm thân thương chốn quê nhà, tự hào nhắc lại những người con Hoà Lạc thành đạt trong cuộc sống. Cụ cũng bùi ngùi khi hay tin cây đa không còn nữa và dòng sông Ô nay đã thành ruộng lúa, thành ao thả sen. Cụ nói với tôi, chả trách nào người Hoà Lạc ngày nay không còn làm quan được nữa, vì cây đa và con sông Ô có mối liên hệ nào đó với chuyện thịnh suy của làng Hoà Lạc.
Tôi thực sự xúc động trước tình cảm của người đồng hương dành cho mình. Tôi sinh ra đúng mười bảy năm sau cuộc di cư lịch sử. Dân làng chốn tha hương chỉ nhận ra tôi nhờ biết tới ông bà cha mẹ tôi, nhưng tình nghĩa vẫn thật đậm đà nồng thắm. Tôi hiểu rằng dẫu ở nơi cuối bể chân mây, trong lòng mỗi con dân Hoà Lạc, quê hương luôn chiếm một góc thật quan trọng, hai tiếng quê hương, hai tiếng Hoà Lạc mỗi khi trào lên môi là gợi nhớ bao niềm nhớ thương da diết, bao nhiêu kỷ niệm thân thương.
Những năm sau đó, việc đi lại giữa hai miền ngày càng dễ hơn. Nhiều người Hoà Lạc trở lại thăm quê hương sau quá nửa đời xa cách, đã không cầm nổi nước mắt khi đặt chân lên con đường làng yêu dấu. Thật xúc động khi chứng kiến cảnh những cụ già râu tóc bạc phơ, gặp lại nhau không nói nổi một lời. Lúc chia biệt họ còn là những đứa trẻ chăn trâu hay còn mài đũng quần tại ngôi trường nhà xứ. Vậy mà khi gặp lại, họ đã là những cụ già ở đoạn xế chiều của cõi nhân sinh, nắm tay nhau mà tưởng chừng cuộc đời cũng chợt qua như giấc mộng hoàng lương[50].
Mỗi lần có cuộc đoàn viên hội ngộ cũng là mỗi lần người Hoà Lạc nhắc lại cho nhau ai còn ai mất, rồi ngậm ngùi nhớ lại thời xa xưa yêu dấu, bâng khuâng nhắc tới những người thân yêu không còn bao giờ có dịp đặt chân lên đất mẹ thân yêu. Sau chừng ấy năm ly loạn liên miên, biết bao con dân Hoà Lạc đã vĩnh viễn gửi nắm xương tàn nơi viễn xứ, hoặc từ nơi góc biển xa xôi nào đó ôm mối u hoài nhung nhớ quê hương.
***
Những câu chuyện “chắp nhặt dông dài” không có đầu đuôi mạch lạc thật chẳng đủ giúp Quý Vị đồng hương “mua vui” qua “một và trống canh[51]”, nhưng là một chút cảm nhận, một tấm chân tình của một con dân Hoà Lạc đối với đất mẹ thân yêu. Nét rêu phong cổ kính của làng Hoà Lạc có lẽ ngày càng mờ nhạt, thế hệ sau vẫn tiếp nối thế hệ trước như quy luật của muôn đời. Đàng sau mọi chuyện thịnh suy hưng phế, những cuộc phân ly tan hợp phải là một cái nhìn tràn trề niềm tin và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn khi mỗi người Hoà Lạc biết quan tâm nhiều hơn đến những phúc lợi chung, đến thế hệ trẻ, những người đang tiếp tục viết lên trang sử của quê nhà.
KIM ÂN
Viết xong tại Paris, ngày 1-11-2006 - sửa lại tại Huế tháng 1-2019
[1] Nguyễn Du, Truyện Kiều, câu 3253.
[2] X. Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam). Tập 1. Hà Nội 1998, tr. 184-185.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư …, tr. 216.
[4] Đại Việt sử ký toàn thư …, tr. 266.
[5] Đại Việt sử ký toàn thư…, tr. 323.
[6] Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam). Tập 2. Hà Nội 1998, tr. 162-163.
[7] Chữ dùng trong Thần Tiên Truyện: “tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền”, nghĩa là cứ ba mươi năm một lần vũ trụ lại chuyển hóa, biển cả hóa thành nương dâu, nương dâu hóa thành biển cả.
[8] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (bản dịch của Viện sử học). Tập 3. Huế 2006, tr. 313-314.
[9] X. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn – 1829, Kim Sơn 1990, tr. 73.
[10] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (bản dịch của Viện sử học). Tập 2. Đà Nẵng 2007, tr. 703. Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, con đê này có tên Cự Lĩnh đê, tức đê Cự Lĩnh. Bộ Đại Nam nhất thống chí lại nhắc tới con đê có tên Hồng Lĩnh. Nguyễn Tử Mẫn, Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên (bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân và Nguyễn Thuỵ Ứng), Hà Nội 2001, tr. 156, lại cho biết Nguyễn Khản là người đắp đê Hồng Lĩnh.
[11] Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, con đường này được ghi là đường nhỏ (小路).
[12] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất…, tr. 313. Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, con đê này có tên Ân đê, tức đê Ân.
[13] Mỗi đạc là 60 mét.
[14] Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, dường như con đê này được ghi tên Ngự Hàm đê (禦鹹堤), có nghĩa là đê ngăn mặn.
[15] Chữ Hán, có nghĩa trong hoạ có phúc.
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chánh biên (nhóm nghiên-cứu sử-địa Việt-Nam), Saigon 1972, tr. 130-131.
[17] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 134.
[18] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 134.
[19] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 139.
[20] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (bản dịch của Viện sử học). Tập hai. Hà Nội 2007, 719-720.
[21] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 141-142.
[22] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 145.
[23] Ví dụ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 633 và 648; Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu (bản dịch của Võ Quang Khanh và Võ Khắc Văn). Tập 2. Saigon 1972, tr. 61.73-74 và 79; x. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 29-30.
[24] Trích theo Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 41.
[25] Trích theo Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 127.
[26] Trích theo Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 128.
[27] Chữ dùng trong sách Luận Ngữ, có nghĩa là kính cẩn, kỹ càng tưởng nhớ người xưa. Truy tư từ cũng chính là tên người dân Kim Sơn dành cho ngôi sinh từ thờ Nguyễn Công Trứ.
[28] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 779.
[29] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 843.
[30] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 720.
[31] Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 49.
[32] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 843.
[33] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 843-844.
[34] Tên tổng này thường được gọi là Hướng Đạo, nhưng theo chữ Hán trong bộ Đồng Khánh địa dư chí, tên gọi này là Hương Đạo (鄉道).
[35] X. Đồng Khánh địa dư chí (bản dịch của Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, Phan Văn Các, Lê Việt Nga, Dương Thị The), Hà Nội 2003, tr. 1033; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất…, tr. 279.
[36] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 779.
[37] X. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 93.
[38] X. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 58.
[39] trích di thảo số 14, Tình hình lương giáo ở Nghệ An theo Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, NXB Tp. Hồ Chí Minh 1988, tr. 181-183.
[40] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Đà Nẵng, 2003, tr. 513-514.
[41] Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, Quyển II, Calgary, Canada, 2002, tr. 488, dẫn theo H. Ravier, Sử ký Hội thánh, Hà Nội 1934, Q. III, tr 569-570.
[42] Có lẽ cũng chuyện này, diễn ra năm 1848, được kể lại hơi khác trong Adrien Launay, Le Tonkin catholique et Monseigneur Retord 1831- 1858, Lyon 1893, tr. 293-294: “Vài tháng sau, ở Hoà Lạc, đã có một trận chiến và kết quả thật bất hạnh. Các tín hữu Công Giáo đã đem quà dâng quan tri huyện để xin cho một linh mục đến làm phép làng. Quà tặng được chấp nhận và lời cầu xin được chuẩn y. Nhưng lúc nửa đêm, viên quan đã đến với chừng ba mươi người ngoại và đã xâm nhập ngôi nhà mà vị linh mục ở nhằm bắt ngài. Vị linh mục chạy thoát, còn các tân tòng, vì phẫn nộ đối với sự bất tín của viên quan, đã lên tiếng tri hô có cướp! Quân cướp! rồi đánh đập tên trưởng toán cũng như đám quân, bắt trói tất cả, rồi hôm sau đem giao nộp quan tuần phủ để đòi công lý. Đức cha Retord Liêu kể: ‘Ôi những con người bất hạnh, họ phải trả giá đắt cho thứ công lý này!’ Họ đã phải trả giá bằng cả cái đầu và gia sản của mình. Nhiều người trong số họ bị kết án tử hình, những người khác phải sạt nghiệp để chuộc mạng sống.”
[43] Lời Hịch tướng sỹ của Trần Hưng Đạo.
[44] Đó là lời trong tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
[45] Dù sao, những thông tin này và những thông tin về nạn đói mà chúng tôi trích dẫn trong các tài liệu ở đây hẳn ít nhiều mang tính tuyên truyền.
[46] Báo Tuổi trẻ ngày 14-3-2005.
[47] Báo Tuổi trẻ ngày 07-5-2005.
[48] Lời trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
[49] Lời bài hát Tôi cố bám của Nguyễn Đình Toàn.
[50] Lữ Sinh đời Đường vào quán trọ, chủ quán đang nấu nồi kê (hoàng lương). Lữ Sinh nằm ngủ quên, mộng thấy mình thành đạt, giàu sang, phú quý, vợ đẹp, con khôn, rồi bỗng thất thế, bừng tỉnh dậy thì nồi kê vẫn chưa chín. Sau người ta dùng từ này để nói rằng mọi chuyện ở đời này đểu phù du giống như giấc mộng.
[51] Những câu cuối cùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Để nói về lịch sử quê nhà, để kể lại những chuyện xưa tích cũ, có lẽ cần đến những bậc cao niên đức cao vọng trọng. Thời gian vẫn trôi theo dòng chảy muôn đời của nó. Lớp người xưa cũ cứ theo nhau cưỡi hạc bay đi. Chuyện cũ thật nhiều, nhưng sau bao thịnh suy hưng phế, bao cuộc loạn ly tan hợp, kẻ hậu sinh cũng chỉ còn nghe được lõm bõm vài sự kiện lẻ tẻ, chẳng có đầu mà cũng không có cuối. Vì thế, nói đến chuyện viết lại lịch sử quê nhà có lẽ là chuyện quá lớn và cũng nằm ngoài tầm tay của thế hệ hậu học. Có chăng chỉ là “lời quê chắp nhặt dông dài[1]” với hy vọng nhỏ nhoi là cùng quý vị đồng hương về thăm lại miền quê Hoà Lạc yêu dấu với vài ba nét rêu phong cổ kính để mà thương mà nhớ.
Thủa ấu thơ, tôi thường cùng lũ trẻ trong xóm lang thang, chui rúc qua hết bờ này bụi nọ ở chốn quê nhà. Có đứa đã từng trợn mắt doạ tôi rằng cây vối nhà ông Trùm Sửu có ma, rồi nó còn tăng thêm mức độ kinh dị trong lời kể hùng hồn của nó bằng cách kể ra ngày kia tháng nọ khi giở giời, mưa lắc rắc, nó thấy nào bóng tầu, nào bóng bọn thuỷ thủ nhấp nhô lúc ở ao nhà ông Quản Thạnh, khi ở ao nhà ông Quản Tuất. Tôi vốn là đứa trẻ nhát gan, nên cũng bán tín bán nghi điều nó nói, vì nó còn gân cổ khẳng định chỗ ấy chỗ nọ xưa kia là biển, tầu đi lại nhiều nên bị đắm, bọn thuỷ thủ thành cô hồn một cõi, lúc chợt mưa chợt nắng mới hiện hình lên như vậy.
Thế rồi những câu chuyện trẻ con như thế tưởng cũng chìm vào quên lãng, vì lớn lên ai còn dễ tin vào những chuyện nhảm nhí tương tự. Tôi đi học xa quê, ít khi trở về. Mỗi lần trở về chỉ biết âm thầm tiếc nuối vì bóng tre xanh dần dần thiếu vắng, những mái tranh toả khói lam chiều chỉ còn thưa thớt hay đọng lại trong ký ức. Quê hương đổi mới thật nhiều. Có lúc suy nghĩ miên man, tôi lại tự hỏi mình nếu những bậc tiền liệt khi xưa đã từng sống trong ngôi làng Hoà Lạc thân yêu này chợt đội mồ sống dậy, họ có bị lạc lối trong ngôi làng của chính mình. Và tôi hiểu tại sao trong vô vàn lý do khiến bậc danh sĩ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn không trở về thăm quê nhà lại có lý do rằng hình ảnh quê hương trong ông đẹp lắm, ông sợ rằng nếu về thăm lại quê nhà sau quá nửa đời người loạn ly lưu lạc, thì hình bóng thân thương và diễm lệ thủa nào sẽ tan thành mây khói!!!
Tôi đã từng say sưa đọc những trang chính sử nước nhà. Mỗi lúc thấy thấp thoáng bóng quê mình trong đó, tôi cũng học người xưa cố ghi lại vài hàng. Thiết nghĩ lúc này kể ra vài chỗ cũng không đến nỗi quá mất thì giờ của quý vị đồng hương.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư kể lại rằng năm Tân Mão, 571, Lý Phật Tử đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương chống không nổi mới cùng con gái chạy về phía nam, đến cửa biển Đại Nha bị nước chắn lại, Việt Vương than rằng: “Ta hết đường rồi!”, bèn nhảy xuống biển[2].
Sách trên kể lại một chuyện khác cũng xảy ra vào năm Mão, năm Kỷ Mão 979, niên hiệu Thái Bình thứ 10 sau khi Đinh Tiên Hoàng vừa bị sát hại: “Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước.[3]”
Gần bảy chục năm sau, sách Đại Việt sử ký toàn thư mới lại nhắc đến tên cửa biển trên đây lần nữa. Đó là vào năm Giáp Thân 1044, niên hiệu Minh Đạo thứ 3, vua Lý Thái Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành: “Ngày Giáp Thìn, quân đi từ Kinh sư, ngày Ất Tỵ, đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua biển dễ dàng, cho nên đổi tên Đại Ác làm Đại An.[4]”
Rồi mãi hơn một trăm năm sau, năm Tân Tỵ 1161, niên hiệu Đại Định thứ 22 triều vua Lý Anh Tông, chính sử mới có dịp kể đến tên cửa biển Đại An: “Tháng 11, vua sai Tô Hiến Thành làm Đô tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển tây nam, để giữ yên miền biên giới. Vua thân đi tiễn đến cửa biển Thần Đầu ở Đại An (nay là cửa biển Thần Phù) mới trở về.[5]”
Sau đó chính sử còn nhắc đến cửa biển Đại An vài ba lần, nhưng đáng kể hơn cả là sự kiện vào năm Bính Thìn 1377, niên hiệu Long Khánh thứ 5 triều Trần Duệ Tông, kể về việc quân Chiêm Thành ra đánh kinh đô Đại Việt: “Đầu tiên thượng hoàng nghe tin giặc đến, sai trấn quốc tướng quân Cung Chính vương Sư Hiền giữ cửa biển Đại An. Giặc biết [ở đó] có phòngbị, mới từ cửa biển Thiên Phù mà vào, rồi tiến thẳng đến kinh sư. Ngày 12, giặc lại dẫn quân về, ra cửa biển Đại An bị bão, chết đuối rất nhiều.[6]”
Người đọc khó tính và thiếu kiên nhẫn sẽ cho tôi là gã dông dài kể những chuyện không đâu. Thực ra cửa biển Đại Nha ngày nào đã lần lượt được đổi tên thành cửa Đại Ác, rồi Đại An và ngày nay là cửa Liêu, tức là cửa con sông Đáy chảy qua quê mình. Còn cửa Thiên Phù sau đổi thành cửa Thần Đầu, rồi Thần Phù và nay đã nằm sâu trong đất liền.
Quê ta đó nằm ở vùng cửa biển, nơi con sông Đáy và sông Càn đổ vào Biển Đông. Quê ta đó xưa kia từng là biển lớn mênh mông, sóng to gió lớn, hiểm nguy trăm bề, tới mức người xưa từng gọi tên là cửa Đại Ác, biết bao lần đã là nơi vùi thây những kẻ manh tâm cướp phá đất Việt.
Tôi lại chợt bâng khuâng nhớ lại những chuyện mà thằng bạn thủa thiếu thời từng mang ra doạ tôi. Ôi, những chuyện tưởng như hoang đường ấy đâu phải vô căn cứ, và lời nói dông dài của đứa trẻ nhà quê ấy không ngờ lại có vài dấu vết trong chính sử. Tôi chợt thấy quê mình đẹp hơn, đẹp hơn vì đó là vùng quê ngồi trên sóng biển, một vùng quê do phù sa tích tụ ngàn năm, ở đó con người có thói quen ăn sóng nói gió, cởi mở và rộng rãi, khảng khái và hào hùng. Tôi lại mơ một ngày giở giời hay giông bão có dịp về quê, giữa cơn giông tố, trong làn mưa nhạt nhoà, biết đâu lại chẳng chợt nhìn thấy bóng vài ba con tầu nhấp nhô giữa trùng khơi giận dữ.
NẶNG NGHĨA PHÙ SA
Đất quê ta lật lên có màu đỏ sậm. Thủa ấu thơ tôi vẫn tin rằng đất ở đâu mà chẳng thế. Mãi tới khi lưu lạc tha hương tôi mới nhận ra rằng cũng là đất nhưng có chỗ màu vàng, có nơi màu nâu, lại có chỗ màu đen hay màu sám. Màu đất nạc đỏ sậm là nét đặc trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đó là màu nặng trĩu muôn triệu hạt phù sa. Thiên nhiên vốn trường cửu và cứ bình thản theo nhịp sống của riêng mình để những dải đất phì nhiêu sậm đỏ cứ lớn dần lớn dần về phía biển.
Thương hải biến vi tang điền[7]
Tôi từng đọc sử hai triều Đinh – Lê. Thời đó ngọn núi mà bây giờ có tên Non Nước được gọi là Trấn Hải Đài. Như vậy thì cửa biển hẳn là cách đó chẳng bao xa. Cứ theo đó mà tính thì trong khoảng ngàn năm, phù sa đã bồi đắp một dải đất chừng 50 cây số. Quê hương yêu dấu vẫn còn lưu giữ lại nhiều vết tích về công việc âm thầm nhưng thật mạnh mẽ của các dòng sông cùng với công sức khai hoang lấn biển của con người.
Từ thị xã Ninh Bình đi theo đường số 10 chừng 15 cây số, ta gặp một con đường cắt ngang mà những bậc cao niên nay vẫn còn gọi là đê Hồng Đức. Con đường mang tên gọi này vì đây chính là con đê lấn biển được đắp vào năm Tân Mão 1471, thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ 2[8].
Rồi tiếp tục xuôi theo quốc lộ 10 chừng 4 cây số nữa, ta lại gặp một con đường cắt ngang nhỏ hơn có tên gọi Đường Quan. Có tài liệu ghi rằng con đê này được quan đại thần thời Trịnh Sâm là Nguyễn Nghiễm, thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du, cho đắp vào năm Quý Tỵ 1773, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 34[9]. Tên gọi Đường Quan dường như có liên quan gì đó với đại thần Nguyễn Nghiễm. Cũng nên biết thêm rằng chữ Thần viết trên vách núi ở cửa biển Thần Phù khi xưa chính là bút tích của vị đại thần này. Tuy nhiên, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục lại chép rằng người được Trịnh Sâm cử đi lo việc khai khẩn là Phó đô ngự sử Nguyễn Lệ[10].
Đi tiếp về phía nam, ta gặp con đường huyết mạch của huyện Kim Sơn, nối Bến Đò Mười với huyện Nga Sơn Thanh Hoá nằm ở phía bắc sông Ân[11]. Con đường phía nam sông Ân chính là đê Hồng Ân được đắp vào năm Canh Dần 1830, năm Minh Mạng thứ 11[12]. Ngoài đê Hồng Ân, một con đê khác được đắp nhằm ngăn mặn, cách đê Hồng Ân 50 đạc[13] về phía nam[14]. Cùng với những con đê này, diện mạo căn bản về địa lý huyện Kim Sơn như ta thấy ngày nay cũng đã được hình thành từ thời đó.
Hoạ trung hữu phúc[15]
Để bàn về gốc tích huyện Kim Sơn, thiết tưởng cũng nên lật lại vài trang sử cũ của một thời ly loạn.
Sách Quốc triều chánh biên có chép việc vào năm Bính Tuất 1826, Minh Mạng thứ 7: “Tháng 2, giặc thổ trấn Nam-Định là Võ-đức Cát (nguyên nó làm Thu-ngự ở đồn Ba-Thắt, vì con nó giết người nên phải cách) củ tập bọn Phan-bá-Vành, Nguyễn-Hạnh mưu khởi nguỵ, cướp phá Trà-Lý và Lân-Hải; Thủ-Ngự Đặng-đình-Miễn, Nguyễn-trung-Diễn bị hại; Trấn-thủ Lê-Mậu-Cúc đánh với nó bị chết; quan quân chết đến vài mươi người, còn thời chạy cả; súng, khí giới, thuyền mất hết. Quan Tổng-trấn nghe báo, liền khiến Thống-chế Trương-phúc-Đặng theo đánh, giặc tan. Làng Đông-Hào (về huyện Giao-Thuỷ) bắt được Võ-đức-Cát đem nạp, giết ngay.[16]”
Sau đó Phan Bá Vành vẫn còn tiếp tục hoạt động và vươn tầm ảnh hưởng tới tận Hải Dương. Cũng sách trên còn thuật tiếp rằng năm Đinh Hợi 1827: “Phan-bá-Vành lại tụ chúng ở phủ Thiên-trường và Kiến-xương, quan Bắc-thành xin phái thêm lính Kinh với thuyền và súng cho mạnh thêm thế quân. Ngài khiến quan Hậu-quân phó-tướng Ngô-văn-Vĩnh đem quân Hậu-bảo vệ-nhì qua Bắc-thành hội tiễu, lại phái Trung-dinh Tả-dinh vệ quân Thần-sách ở Nghệ-an mỗi dinh một viên Vệ-uý theo sai phái ngoài Bắc-thành […].
Tên Vành đem quân vây Phạm-đình-Bửu ở chợ Quán. Phạm-văn-Lý, Nguyễn-công-Trứ chia 3 đạo quân tới cứu trong ngoài giáp đánh, giặc tan, Vành chạy vào làng Trà-lũ, đắp thành, đào hào, làm mưu cố giữ.
Giặc Thổ ở Nam-định yên. Vành ở làng Trà-lũ, quan quân vây giữ, thế nó cùng, toan nhơn đêm chạy ra biển, phái Phan-bá-Hùng đón giữ, quan quân thẳng vào đến nơi, bắt được tên Vành và đảng nó hơn 700 người, thuyền và súng lấy được hết, tờ báo tiệp tâu lên, Ngài tuỳ bậc ban thưởng.[17]”
Những biến cố kể trên diễn ra trước khi huyện Kim Sơn được lập chỉ vài năm. Sau khi dẹp xong Phan Bá Vành, triều đình cử hai vị trọng thần là Nguyễn Văn Hiếu và Hoàng Kim Xán đi kinh lược trấn Sơn Nam và Nam Định để xem xét việc “thương yêu dân điêu tàn, chỉnh đốn các quan lại[18].”
Cũng nên biết thêm rằng vào đầu thời Nguyễn, Ninh Bình được gọi là trấn Thanh Hoa ngoại, rồi Thanh Bình. Đến năm Nhâm Ngọ 1822, trấn Thanh Bình được đổi tên thành Ninh Bình. Những địa danh có can qua binh lửa nằm ngay bên Ninh Bình, nên hẳn trấn Ninh Bình ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng.
Sách Quốc triều chánh biên còn chép rằng vào năm Mậu Tý 1828: “Cho Thị-lang Nguyễn-công-Trứ làm chức Dinh-điền-sứ. Khi trước Công-Trứ dâng sớ xin 3 điều: 1. Nghiêm phép cấm để tuyệt bọn trộm cướp; 2. Rõ thưởng phạt để khuyên răn quan lại; 3. Mở ruộng hoang để giúp cho dân nghèo. Ngài cho, vì thế cho làm chức ấy.[19]”
Sách Đại Nam thực lục chính biên còn chép rõ hơn về nội dung bản sớ của Nguyễn Công Trứ. Mục thứ 3 trên đây được ghi lại như sau: “Vỡ ruộng hoang cho dân nghèo. (Đời làm ăn xưa, chia ruộng định của, dân có nghiệp thường cho nên ở yên nơi làng mạc, không có gian tà. Ngày nay những dân nghèo túng ăn dưng chơi không, khi cùng thì họp nhau trộm cướp, cái tệ không ngăn cấm được. Trước thần đến Nam Định, thấy ruộng bỏ hoang ở các huyện Giao Thuỷ, Chân Định mênh mông bát ngát, hỏi ra thì dân địa phương muốn khai khẩn nhưng phí tổn nhiều không đủ sức làm. Nếu cấp cho tiền công, thì có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn, nhà nước phí tổn không mấy mà cái lợi tự nhiên sẽ đến vô cùng. Vả lại bãi Tiền Châu ở huyện Chân Định hoang rậm, trộm cướp thường tụ họp ở đấy làm sào huyệt, nay khai phá ra, không những có thể cho dân nghèo làm ăn, lại còn dứt được đảng ác. Xin sai trấn thần khám xét, phàm những đất hoang có thể khai khẩn được, cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi công làm, mộ những dân nghèo các hạt đến khai khẩn, như mộ được 50 người thì lập làm một làng, cho làm lý trưởng, mộ được 30 người thì lập làm một ấp, cho làm ấp trưởng; đều tính đất chia cho. Cấp cho tiền công để làm cửa nhà, mua trâu bò nông cụ; lại lượng cấp tiền gạo lương tháng trong hạn 6 tháng, ngoài hạn ấy thì làm lấy mà ăn, 3 năm thành ruộng, đến chiếu lệ tư điền mà đánh thuế. Quan phủ huyện sở tại lập kho chứa thóc để phòng năm mất mùa cho dân vay. Những làng ấp mới lập gọi là “quân Lực bản” ((1) Bản quân: xưa nay nghề làm ruộng là nghề gốc. Lực bản là ra sức vào nghề gốc. 1). Phàm các hạt xét thấy những dân du đãng không bấu víu vào đâu, đều đưa cả về đấy. Như thế thì đất không bỏ hoang, dân đều làm ruộng, phong tục kiêu bạc lại thành thuần hậu).[20]”
Sách Quốc triều chánh biên chép thêm rằng: “Nguyên trước ở gần biển có một giải bãi Tiền-châu bỏ hoang, giặc thường trốn núp tại đó, khi quan Dinh-điền-sứ Nguyễn-công-Trứ đến, chiêu dụ dạy bảo dân, nhắm đo đất hoang ở Tiền-châu và hai bên bờ, chia cấp cho dân cùng, cả thảy được 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp, sổ đinh 2.350 người, ruộng hơn 18.970 mẫu, chia làm 7 tổng, tâu xin biệt lập một huyện, đặt tên là huyện Tiền-hải. Lại ở làng Ninh-cường, Hải-cát mở được 4 lý, 4 ấp, 1 trại, xin lập một tổng thuộc về huyện Nam-chân; ở tổng Hoàng-nha mở được 5 ấp, 1 trại, 3 giáp, cũng làm 1 tổng, thuộc về huyện Giao-thuỷ còn bao nhiêu tuỳ gần tổng nào thuộc tổng ấy; đến như nhà cửa và ngưu canh điền-khí lượng lấy tiền công chi cấp cho. Ngài ban khen, mới cho tri-huyện Quỳnh Lưu là Võ-danh-Dương (người trấn Sơn Nam) làm tri-huyện Tiền-hải. Công-Trứ lại tâu: ‘Những người dân nghèo muốn lãnh ruộng hoang mà khẩn còn đến hơn 1.000 người, tôi xét huyện An-khánh, An-mô thuộc về Ninh-bình đối ngang với huyện Nam-chân trấn Nam-định, theo một giải bờ biển, còn nhiều nơi bỏ hoang, cấy được, cũng chẳng kém gì huyện Tiền-hải, tôi xin qua đó nhắm đo, lập thành ấp lý’. Ngài khiến hội với quan đạo Ninh-bình mà làm.[21]”
Cũng sách trên kể lại rằng năm Kỷ Sửu 1829, Minh Mạng thứ 10: “Mới đặt huyện Kim-sơn thuộc về phủ Yên-khánh, đạo Ninh-bình, lựa người đặt làm Tri huyện để khuyên dạy dân, nhà cửa, lương tháng, ngưu canh, điền-khí thời đều cấp cho dân y như lệ huyện Tiền-hải, còn ruộng thiệt-trưng và ruộng đã thành thuộc thời lấy thuế từ năm nay, ruộng lưu hoang thời đến năm Minh-mạng 12 sẽ đánh thuế; đó là theo lời Nguyễn-công-Trứ xin. Công-Trứ lại dâng sớ xin lập ra Qui ước, khiến cho dân biết kiểm thúc, lâu cũng nên thói hay được: 1. Lập nhà học (đặt ruộng học tha thuế, khiến dân cày ruộng để làm học bổng; học trò 8 tuổi phải vào học); 2. Đặt xã thương, chăn dạy bảo dân làm ăn; 3. Cẩn việc phòng giữ; 4. Nghiêm việc khuyên răn.[22]”
Sử cũ chỉ chép lại vài dòng như thế, nhưng đó là một giai đoạn đầy bi thương, loạn ly đói khổ. Sách Đại Nam thực lục và Minh Mệnh chính yếu cho biết từ năm Quý Hợi 1803 đến năm Mậu Tý 1828, các trấn Thanh Hoá, Ninh Bình, Sơn Nam, Nam Định, liên tiếp xảy ra nạn đói[23]. Đó chính là mầm loạn. Dân đói khổ theo Phan Bá Vành cũng chỉ mong tìm đường sống.
Người khó tính sẽ hỏi tôi rằng kể chuyện lập huyện Kim Sơn thì được rồi, nhưng tại sao lại đem Phan Bá Vành mà kể lòng vòng vào đây.
Quý vị đồng hương Hoà Lạc có chút quan tâm đến gốc gác hẳn đều biết đến 80% người Kim Sơn vốn xuất thân từ Trà Lũ và hơn 90% con dân Hoà Lạc cũng vốn là người Trà Lũ. Bản thân người viết những dòng này từng có diễm phúc được đọc vài trang gia phả của dòng họ mình và những dòng đầu tiên trong cuốn gia phả ấy cũng cho biết các cụ tổ ngày xưa vốn từ Trà Lũ qua Hoà Lạc lập ấp.
Người Việt Nam vốn gắn bó với quê cha đất tổ, nhưng vì đói khổ đành tha phương cầu thực. Hơn nữa, nhiều người từng theo đảng loạn Phan Bá Vành, nên đành ngậm ngùi từ giã quê hương để hướng tới chân trời mới, dù chân trời ấy vẫn mịt mù một màu ảm đạm. Khi lớn lên đôi chút, tôi từng theo chúng bạn đi đây đó trong huyện nhà, vài bậc cao niên còn chỉ cho tôi một đám mộ thuộc làng Chỉ Thiện và Xuân Hồi nằm bên con đê chạy ra Đò Mười mà bảo tôi đó là mộ của những tướng lĩnh từng theo Phan Bá Vành. Rồi ngay trong làng Hoà Lạc cũng có người từng nói với tôi chi nọ chi kia của dòng họ Hoàng vốn mang họ Phan, nhưng vì từng làm loạn nên phải thay tên đổi họ, chỉ dám giữ lại chữ Bá trong tên đệm. Chuyện xưa của một thời ly loạn vốn mang nhiều điều ẩn khuất, tài liệu giấy tờ lại chẳng còn bao nhiêu sau từng ấy cơn binh lửa, nhưng tôi tin rằng trong ký ức của những bậc cao niên, những lời đồn đại ấy hẳn cũng mang một phần sự thật.
Ngày nay huyện Kim Sơn là huyện trù phú bậc nhất tỉnh Ninh Bình, nhưng cách đây 200 năm, vùng đất này vẫn còn là bãi hoang. Còn khi các cụ tổ của chúng ta đến khai hoang lập ấp, công việc thật trăm đường gian lao vất vả. Gia phả họ Phạm thôn Chất Thành còn ghi: “Lúc đầu mới đến muỗi như sấm, cỏ lau, cỏ lác mọc đầy đất, sóng cát liền trời.[24]” Rồi ngoài việc thau chua rửa mặn, ngay chuyện kiếm nước ăn nước uống cũng phải đi xin tận những làng thuộc Yên Khánh, bị dân các làng đó kỳ thị, khinh bỉ và hành hạ đủ đường. Bài Kim Sơn sự tích doanh điền ca kể rằng:
“Kẻ thời dẫn vợ bồng con
Đầu đội bị gạo vai mang chiếu nồi
Bữa cơm bữa cháo cầm hơi
Ra công khai phá ở nơi Núi Vàng
Kẻ thời khoai ngứa khoai lang
Áo quần rách nát chỉ đường lập thân
Đương khi đến chốn hải tần
Đồng chua nước mặn trăm phần xót xa
Đường đi như thể chông chà
Ầm ầm ong muỗi ngỡ là thóc xay
Máu thời đẫm ướt chân tay
Rằng ta khó nhọc sau này thảnh thơi.[25]”
Rồi:
“Nước uống gánh trộm cựu dân
Họ mà bắt được nhiều lần về không.[26]”
Nên mỗi nắm đất quê mình đều thấm đậm mồ hôi, nước mắt và cả máu của tiền nhân. Nhưng trong cái họa của một thời loạn ly đói khổ, lại nảy sinh cái phúc của một vùng quê trù phú, yên ả hiền hoà ngày nay.
Thận chung truy viễn[27]
Huyện Kim Sơn do Dinh điền sứ Nguyễn Công Trứ khai khẩn, sau khi đã lập huyện Tiền Hải vào năm 1828. Khi lập huyện Tiền Hải, triều đình đã ấn định cụ thể như sau: “Về nhà cửa cùng trâu cày nông cụ của dân thì xin lấy tiền nhà nước chi cấp để dân được yên nghiệp làm ăn. (Tiền nhà cửa mỗi lý cấp 100 quan, mỗi ấp 60 quan, mỗi trại 30 quan, mỗi giáp 20 quan. Tiền trâu cày mỗi lý cấp 300 quan, mỗi ấp 180 quan, mỗi trại 90 quan, mỗi giáp 60 quan. Tiền nông cụ mỗi lý cấp 40 quan, mỗi ấp 24 quan, mỗi trại 12 quan, mỗi giáp 8 quan).[28]” Quy định này cũng được áp dụng cho huyện Kim Sơn: “Nhà ở, lương tháng, trâu cày và điền khí của dân thì do quan cấp cũng như lệ huyện Tiền Hải.[29]”
Để thi hành công việc, Nguyễn Công Trứ được cử đứng ra kêu gọi và tập họp dân nghèo để khai hoang. Như trên đã nói, triều đình có chính sách ưu đãi cho những người tham gia công việc này. Sách Đại Nam thực lục chép: “Xin sai trấn thần khám xét, phàm những đất hoang có thể khai khẩn được, cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi công làm, mộ những dân nghèo các hạt đến khai khẩn, như mộ được 50 người thì lập làm một làng, cho làm lý trưởng, mộ được 30 người thì lập làm một ấp, cho làm ấp trưởng; đều tính đất chia cho.[30]” Những chính sách kể trên được thi hành nghiêm chỉnh một cách rất cụ thể: “Các khoản chi cấp trên đây nhà nước không phát tiền mà trực tiếp phát bằng hiện vật cho người khai hoang: ‘Cứ 5 người thì cấp một con trâu, một cái bừa, một cái cày, một cái móng, một cái cuốc, một cái liềm, sức các ông chiêu mộ lĩnh về cấp phát.[31]’”
Với cách làm như thế, năm 1829, Nguyễn Công Trứ đã lập ra huyện Kim Sơn, với thông tin từ sách Đại Nam thực lục như sau: “Bắt đầu đặt huyện Kim Sơn, lệ vào phủ Yên Khánh, Ninh Bình. Lĩnh Dinh điền sứ là Nguyễn Công Trứ, ở phía ngoài đê Hồng Lĩnh đo được số ruộng hoang là 14.620 mẫu, chia cấp cho dân nghèo hơn 1.260 người. Lập thành 3 làng, 22 ấp, 24 trại và 4 giáp chia làm 5 tổng, tâu xin đặt riêng một huyện gọi là Kim Sơn, chọn người hợp với địa phương làm Tri huyện để phủ dụ khuyên bảo.[32]” Đồng thời với công việc khai hoang lập huyện, Nguyễn Công Trứ cũng tâu xin định quy ước gồm 5 điểm (đặt trường học, đặt xã thương, siêng dạy bảo, cẩn phòng thư, chăm khuyên răn) để kiến tạo thuần phong mỹ tục[33]. Như vậy, khi thành lập, huyện Kim Sơn gồm 53 làng, ấp, trại, giáp, được chia thành 5 tổng. Theo bộ Đồng Khánh địa dư chí, huyện Kim Sơn gồm 63 làng, ấp, trại, giáp, phường, được chia thành 7 tổng: Chất Thành, Hồi Thuần, Quy Hậu, Hương Đạo[34], Tự Tân, Tuy Lộc, Lai Thành[35]. Có thể số làng ấp và số tổng tăng lên là do công việc khai khẩn đất hoang vẫn còn tiếp tục sau khi thành lập huyện.
Các ngôi làng được lập vào năm 1829 chạy dài chừng 10 cây số theo chiều bắc – nam, chiều ngang của mỗi ngôi làng tuỳ thuộc vào số đinh. Ruộng đất cũng được quy hoạch rất rõ ràng, cứ 100 mẫu thì 70 mẫu làm ruộng, còn 30 mẫu làm thổ cư[36]. Mỗi suất đinh được hưởng một mẫu thổ cư. Người đứng ra chiêu mộ được hưởng phần thổ cư lớn hơn[37].
Huyện Kim Sơn trong Đồng Khánh địa dư chí
Những lời kể và những chi tiết dông dài trên đây có lẽ làm mệt lòng nhọc trí người đọc, nhưng không kể ra e rằng công khó nhọc của tổ tiên, mồ hôi nước mắt của người xưa dễ chìm vào quên lãng mà không để lại chút vết tích gì.
Tôi đã cố công truy tìm chuyện xưa tích cũ và may mắn biết được danh tính của cụ tổ đã từng đứng ra chiêu mộ để lập nên làng Hoà Lạc. Sách cũ chỉ ghi cụ là Vũ Văn Bạo, ngoài ra không có một dòng nói về cội nguồn quê quán[38].
Xét trong làng Hoà Lạc cả lương lẫn giáo cũng có vài chi họ Vũ, nhưng để tìm được đích xác ai là hậu duệ của cụ Vũ Văn Bạo quả là chuyện không dễ dàng sau gần 200 năm thịnh suy tan hợp. Tôi từng đem chuyện này bàn với thân phụ mình thì được người cho biết có lẽ cụ là thuỷ tổ của chi họ Vũ thuộc giáp lương. Kẻ hậu sinh chẳng còn biết nói gì, đành dâng lên cụ một nén hương lòng để tỏ lòng ngưỡng vọng.
***
“Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”. Viết đến những dòng này, câu thơ của Cao Bá Quát xưa chợt vang trong tâm trí tôi như một nét nhạc trầm xin đừng hỏi, cũng đừng băn khoăn về chuyện đời biến đổi. Nhưng dù thế sự mãi thăng trầm, dù dòng đời còn trôi nổi, mảnh đất quê mình lật lên vẫn mang màu đỏ sậm. Vì cùng với muôn triệu hạt phù sa, còn có công khó nhọc và những giọt máu đào của một thời khai hoang lập ấp.
MÁU VÀ NƯỚC MẮT
Sinh ra và lớn lên giữa ngôi làng Hoà Lạc, tôi nhận thấy rằng người Hoà Lạc không mấy khi bạn bè giao thiệp với người thuộc hai làng Tuần Lễ và Như Độ ở liền kề làng mình, chẳng phải vì khác làng, nhưng có lẽ là vì không cùng một đạo. Người Hoà Lạc hầu hết theo Công Giáo, còn người hai làng kia hoàn toàn là lương dân. Người Việt Nam vốn hiền hoà, khác biệt tôn giáo cũng chẳng phải chuyện gì lớn, nhưng lịch sử vài trăm năm trở lại đây cũng có những vết đen khiến mỗi lần đọc lại lịch sử, người có tâm không khỏi bùi ngùi buồn tiếc cho vận mạng nước nhà.
Chuyện đời chuyện đạo
Sử cũ để lại vài dòng sơ sài về khởi thuỷ việc truyền đạo vào Việt Nam. Các sử gia cũng thường dựa vào những tài liệu đây đó để đưa ra những giả thuyết khác nhau về thời phôi thai của công việc truyền đạo. Tuy nhiên, mãi tới năm 1614 ở Đàng Trong và năm 1627 ở Đàng Ngoài với thừa sai Đắc Lộ (Alexandre de Rohdes), công việc truyền đạo mới thực sự thu được những kết quả rõ rệt.
Hơn hai trăm năm sau, năm 1858, người Pháp nổ phát súng đầu tiên vào Cửa Hàn để bắt đầu cuộc chinh phục vùng đất sai này thường được gọi là xứ Đông Dương. Thế nhưng đã một thời, người ta gán cho thừa sai Đắc Lộ cái tội rước quân đội viễn chinh Pháp vào Việt Nam!
Triều đình Huế lúc đó lần lượt để mất Lục Tỉnh, mất thành Tân Bình (Sài Gòn). Đến năm 1882, sau khi người Pháp phá thành Hà Nội lần thứ hai thì kể như xứ An Nam đã được bình định.
Nước mất nhà tan. Người Việt bị người Pháp đàn áp, và chính người Việt cũng lại đàn áp lẫn nhau.
Chuyện nồi da nấu thịt
Kể từ thời Lê – Trịnh, chuyện trục xuất các thừa sai hay cấm giảng đạo đã không còn là chuyện lạ. Đến thời Tây Sơn, không chỉ còn là chuyện ngăn cấm mà đã có án tử hình dành cho những người theo đạo. Tuy nhiên, khủng khiếp và thảm khốc nhất là những cuộc bách hại đạo Công Giáo dưới triều nhà Nguyễn, đặc biệt là triều Tự Đức. Hàng vạn gia đình ly tán, hàng ngàn người bị đưa ra pháp trường.
Đến năm 1862, vua Tự Đức ra chiếu chỉ tha đạo, nhưng phong trào Văn Thân lại bùng nổ. Với khẩu hiệu "Bình Tây sát tả", phong trào Văn Thân đã gây ra những cảnh tàn sát thương tâm, nhiều ngôi nhà thờ Công Giáo bị phá huỷ, nhiều làng Công Giáo bị triệt hạ dã man, và hậu quả là một bầu khí bất hoà trầm trọng giữa đồng bào lương - giáo.
Ông Nguyễn Trường Tộ kể lại: “Hiện nay ở tỉnh Nghệ hai bên lương giáo lòng đang sôi sục. Một bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho hết tiệt mới thôi. Một bên nói con thú mà bị khốn quẫn còn cắn càn huống chi là con người? Nếu bên kia không để cho cùng sinh cùng dưỡng, thì bên này cũng không để bó tay chịu trói. .. Nhà nào ngõ nào cũng xôn xao bàn tán chuyện đó. Tôi rất lấy làm lo ngại mà không có cách nào giải quyết. Bởi vì sĩ phu trong tỉnh hạt có nhiều ý kiến khác nhau. Đã nói ra khó với lại được. Hơn nữa sự thù hằn này đã sâu sắc, việc làm ác độc này đã kéo dài, lòng không sao yên được. Cho nên không ai chịu tự giải thích cho mình, cũng không chịu giải thích cho người khác.
[. .. ]
Dân tình thế đấy hỏi làm sao yên ổn lâu dài được? Xét cho cùng cũng bởi một là do ơn trên chưa được rộng khắp, hai là do sai lầm trước chưa giải thích được, ba là do bọn ăn không ngồi rồi bịa đặt mà gây liên luỵ, bốn là do bọn cường hào tác uy tác phúc ngoài pháp luật, năm là do bọn quyền quý mượn uy thế doạ nạt người, sáu là do dân đạo không yên tâm phải luôn luôn ngó trước nhìn sau. Những điều ẩn khuất như vậy, ở đây mười điều tôi mới chỉ mới nói một mà thôi. Bởi vì chuyện đời thường ở trong thì nhỏ mà ngoài xé ra to. Huống chi những việc bình dân doạ nạt đâu phải mới một ngày một bữa, lâu rồi phải khiến người ta tin mà sợ.[39]”
Còn ông Trần Trọng Kim đưa ra ý kiến: “Nguyên bấy giờ dân trong nước ta chia làm hai phái: bên lương, bên giáo; hai bên vẫn không ưa nhau. Đến khi xảy ra việc đại uý Francis Garnier lấy Hà Nội, bọn sĩ phu ở mạn Nghệ Tĩnh thấy giáo dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì lấy làm tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.
[… ]
Nước ta mà không chịu khai hoá ra như các nước khác là cũng bởi bọn sĩ phu cứ giữ thói cũ, không chịu theo thời thế mà thay đổi. Nay sự suy nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà làm việc nông nổi càn rỡ, để cho thiệt hại thêm, như thế thì cái tội trọng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru![40]”.
Chuyện làng mình
Làng Hoà Lạc được lập năm 1829. Dân làng đa số theo đạo Công Giáo. Giữa cảnh nồi da nấu thịt như thế, một ngôi làng Công Giáo tránh sao khỏi chuyện ít nhiều bị ảnh hưởng.
Linh mục Bùi Đức Sinh có kể lại những chuyện bắt bớ, giết hại xảy ra ngay gần làng Hoà Lạc: “Hoà ước đã ký và trên nguyên tắc cuộc bách hại chấm dứt, nhưng tại địa phương các quan vẫn còn lập mưu bắt bớ giáo dân; cấm thi cử, cấm làm quan, có kêu quan điều gì cũng chẳng ai nghe. Dân lương biết ý vua quan, thì cũng nạt nộ giáo dân, bới kiện bất công, đòi trái lẽ, cũng phải chịu. Năm 1863, linh mục Phêrô Dũng quê Kẻ Bạng, chính xứ Phát Diệm từ năm 1862, bị bắt và chết rũ tù ở Ninh Bình. Cũng năm ấy cha Alexi Thức, quê Kẻ Sét, bị bắt ở Tôn Đạo bị cấm cốc, chết trong ngục.
Nhóm Văn Thân ở Ninh Bình, Nam Định tổ chức một đạo quân lưu động, đặt dưới quyền chỉ huy của hoàng giáp Tam Đăng, một viên quan hồi hưu rất uy thế, vì các tú tài, cử nhân cùng một số đông quan chức đều là cựu học sinh của ông. Triều đình không bao giờ chấp nhận sự thành lập đạo quân lưu động này. Ngày 14.1.1868, Văn Thân vây đánh Kẻ Trình và nhiều xứ khác thuộc tỉnh Nam Định. Họ tiêu huỷ thánh đường, tu viện và 30 căn nhà của giáo dân. Dân Công Giáo kháng cự và bắt giữ hai tên khủng bố, trong số này có Tú Đường. Tú Đường bị nhà vua lên án xử giảo giam hậu, song cũng phạt cha xứ Kẻ Trình, và mấy bổn đạo, nhưng nhẹ hơn, vì nhà vua muốn xử hoà đôi bên.[41]”
Nam Định, Ninh Bình, rồi Phát Diệm, Tôn Đạo, những cái tên đâu có xa lạ gì với người Hoà Lạc. Khi những sự kiện này diễn ra thì Hoà Lạc còn là một họ đạo thuộc xứ Tôn Đạo. Chuyện bắt bớ, bách hại diễn ra ngay trong xứ mình, làm sao người Hoà Lạc lại không ít nhiều chịu liên luỵ.
Ngày ấy trung tâm của huyện Kim Sơn còn nằm ở Quy Hậu. Chợ Quy Hậu là một chợ lớn và thường bị giặc cướp Tàu Ô từ biển vào quấy nhiễu, cướp bóc. Làng Hoà Lạc có ông Cai Bang, sức khoẻ kỳ lạ. Mỗi lần giặc Tàu Ô cướp chợ, chỉ ông Cai Bang mới trị được chúng. Người già còn kể lại rằng nghe tin có cướp, ông tới chợ, mỗi tay chộp một tên cướp làm vũ khí, rồi hai tay quay tít khiến cho giặc Tàu Ô khiếp đảm tháo chạy. Sau này chỉ cần thấy bóng ông chúng đã kinh hồn táng đởm, chẳng còn thiết gì chuyện cướp bóc nữa.
Câu chuyện của thời cốt nhục phân ly có một kết thúc thật bi tráng. Sau năm 1862, triều đình đã có chiếu chỉ tha đạo, nhưng quan trên ém đi vẫn sai người về Hoà Lạc bắt bớ. Ông Cai Bang biết chuyện ấy nên ra mặt phản đối, rồi ông lỡ tay đánh chết người được quan trên sai đến. Quan trên nổi giận bắt tội cả làng Hoà Lạc. Ông Cai Bang hiên ngang đứng ra nhận tội và chấp nhận chết thay cho cả làng. Ông chịu chém ở cánh đồng phía đầu làng trong nỗi tiếc thương và lòng biết ơn của bao đời người Hoà Lạc[42].
***
Chuyện xưa ít nhiều mang màu sắc ly kỳ vì nó được lưu truyền qua ký ức của nhiều thế hệ. Nếu có ai hỏi chuyện này có thật hay không thì người kể lại chuyện này chỉ dám nói “hình như là thật”.
Người làng Hoà Lạc ngày nay hình như đã giao thiệp nhiều hơn với người hai làng Tuần Lễ và Như Độ. Những hiểu lầm của một thời huynh đệ sát hại nhau chỉ còn đọng lại đôi chút trong lòng người lớn tuổi. Lớp hậu sinh có cơ sở để tin vào một tương lai tốt đẹp hơn.
NỔI TRÔI LY LOẠN (1885-1975)
Cha tôi là người được học hành đôi chút, nhưng ngặt vì sinh bất phùng thời nên khó lòng thoả chí bình sinh. Cũng như những người cùng lứa tuổi “sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc[43]”, người có nhiều tâm sự, nhiều ưu tư về chuyện đời, về chuyện thịnh suy hưng phế. Những khi ánh trăng như dát vàng nơi rặng tre, khi hàng cau in bóng trên nền trời ngả màu tím sậm, hoặc những đêm đen mù mịt bên ngọn đèn dầu leo lét chốn quê nhà, người thường đọc thuộc lòng những đoạn văn người tâm đắc, hay kể lại vài ba câu chuyện của một thời xưa cũ. Đôi khi ngồi dưới chân ông bà nội ngoại tôi cũng được nghe bao chuyện quá khứ. Trí óc non nớt của tôi lúc ấy chẳng thể nào lãnh hội tất cả. Thời xa xưa ấy với tôi vẫn được bao phủ bằng một tấm màn mịt mờ huyền ảo với vài ba nét chấm phá của khoảng gần trăm năm ly loạn.
“Làng chúng mày nấu rượu lậu”
Truyền thống nấu rượu nếp ở làng Hoà Lạc chẳng biết bắt đầu tự bao giờ, có lẽ nghề này có tuổi đời chẳng kém gì tuổi đời làng Hoà Lạc. Chỉ biết rằng thủa nhỏ đến trường, đám trẻ Hoà Lạc chúng tôi vẫn thường bị lũ trẻ hai làng bên nhắc đến chuyện làng Hoà Lạc nấu rượu lậu với vẻ chế nhạo, coi thường. Trong ký ức tôi vẫn còn nguyên vẹn cảm giác kinh hoàng mỗi lần dân quân xã đi bắt rượu, hoặc những lần chứng kiến cảnh nhân viên phòng thuế đuổi bắt người dân Hoà Lạc đi bán rượu. Tôi cũng không thể nào quên tâm lý sợ sệt, âu lo thường xuyên của cha mẹ và dân làng. Dân quân xã có thể vào khám xét bất cứ nhà nào trong làng với một “chứng cứ” hết sức bâng quơ: nhân dân phát hiện nhà anh nấu rượu. Như thế nghĩa là sản nghiệp tan hoang, thậm chí còn có thể rơi vào cảnh lao lung tù tội.
Người dân Hoà Lạc vẫn còn kể cho nhau câu chuyện cười ra nước mắt. Ông N. đi làm phu ở Tân Thế Giới (Nouvelle-Calédonie), năm 1954, nghe chính phủ kêu gọi, ông về nước mang theo nhiều của cải. Nhưng miệng ăn núi lở, sau một thời gian ông lâm cảnh túng quẫn và buộc lòng phải nấu rượu mưu sinh. Bị phát hiện, chính quyền đem ông ra toà xét xử. Chánh án tuyên bố: “Anh Nguyễn Văn N. nấu rượu lậu, vi phạm pháp luật, nhưng được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Chính Phủ, được hưởng án treo sáu tháng.” Ông N. vừa khóc vừa đáp: “Kính thưa quý toà, xin quý toà cho tôi được về với vợ với con, đừng treo tôi lên, xin cho tôi được tù ngồi.”
Nhưng người Hoà Lạc không chỉ mới chịu khổ về nghề nấu rượu. Lâu lắm rồi, ngay từ thời Pháp thuộc, nghề nấu rượu đã bị bắt bớ cấm cách. Thời đó người Hoà Lạc vẫn có nghề chăn tằm ươm tơ, nhưng chẳng thể nào bỏ được nghề nấu rượu. Ông ngoại tôi có lần kể rằng nếu chẳng may ai đó bỏ một chum rượu vào ruộng nhà mình mà bị nhà hữu trách phát hiện thì mình sẽ bị rắc rối tù tội. Ông nội tôi cũng từng nấu rượu, bị Tây bắt, ông đã đánh nhau với Tây để phi tang.
Đâu phải người Hoà Lạc mang tư tưởng chống đối hay phản động như đã từng mang tiếng. Người xưa từng nói: “cùng tắc biến”, xưa nay đói khổ bần cùng luôn là mầm loạn. Dẫu sao, người Hoà Lạc cũng đã chọn một con đường phản kháng âm thầm và bất bạo động.
Tha phương cầu thực
Kể từ năm 1885, người Pháp đã tạm thời bình định được toàn cõi Đông Dương. Người Hoà Lạc không còn phải chịu cảnh bắt đạo nữa, người dân mất nước có bao giờ được sung sướng.
Thủa ấu thơ tôi vẫn thường thắc mắc tại sao trong làng trước tên thật của một số người lại có thêm một danh hiệu gắn vào: ông Cai Tề, ông Chánh Sinh, ông Chánh Yến, ông Biểu Quy, ông Quản Tuất, ông Cố Khang, ông Binh Độ. .. Ngoài một số danh hiệu do tham gia chức sắc đạo đời, cũng có những danh hiệu phản ánh thực trạng tha phương cầu thực của người dân mất nước. Danh hiệu “Cai” và “Binh” dùng để gọi những người từng đi lính cho Pháp, tức là kiếp làm thuê cho quân đội Pháp tại bản xứ hoặc tại mẫu quốc.
Ngoài ra, vì miếng cơm manh áo, còn không biết bao nhiêu người Hoà Lạc đi làm phu đồn điền ở phương trời xa lạ như Tân Thế Giới. Đa số những người này trở về sống tại quê nhà sau năm 1954. Họ đã từng tự hào là người dân một nước độc lập, nhưng thoát thảm cảnh này họ lại rơi vào một thảm cảnh khác đôi khi còn nhiều lần bi đát hơn.
“Năm bốn nhăm chết đói đầy đường”
Những khi ngồi dưới chân ông ngoại nghe chuyện quá khứ, đôi lúc tôi từng nghe người nói tới câu trên đây kèm theo những câu chuyện ly kỳ khủng khiếp.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương và vào đầu năm 1945, người Nhật đã gây ra một thảm trạng khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Lúa đang lên mơn mởn, người Nhật bắt dân phải nhổ đi để trồng đay. Liền sau đó, từ Quảng Trị trở ra Bắc, một nạn đói vô tiền khoáng hậu cướp đi sinh mạng của trên hai triệu người Việt[44]. Nên biết rằng vào thời điểm đó, dân số Việt Nam khoảng xấp xỉ 20 triệu. Quảng Trị nằm ở vị trí trung tâm đất nước, tức là nạn đói ảnh hưởng tởi khoảng 10 triệu dân. Hơn 2 triệu trong số 10 triệu dân tức là khoảng 20 phần trăm dân số lúc đó đã chết vì đói. Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 cho biết thông tin cụ thể như sau: Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh Bình: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người[45].
Những người trong cuộc vẫn còn lưu giữ những ký ức hãi hùng về nạn đói này. Ông Nguyễn Văn Thiết (xã Tây Ninh, Tiền Hải - Thái Bình) nói: “Tôi không nhớ là nhà ai trong xã, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm trước. Vợ không còn sữa cho con bú, không có gì để ăn nên để con ở nhà lang thang đi kiếm ăn. Không kiếm được gì, người mẹ biết mình sẽ chết, không thể về vì đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị thì thấy đứa bé chỉ còn trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ.[46]”
Giáo sư Vũ Khiêu, năm đó 29 tuổi, đã tả lại cảnh bi thương trong bài văn tế có đoạn như sau:
“Có kẻ tìm bãi cỏ nằm xiêu
Có người đến bên cây ngã vật
Có khi ngõ vắng gieo mình
Có lúc vườn sau thở hắt
Có những quán hàng bao xác lạnh bỏ ruồi bâu bọ khoét chửa ai khiêng
Có nhiều nơi một nắm xương khô từng nắng dãi mưa dầu không kẻ nhặt.
Mỗi người manh chiếu bó bó chôn chôn
Từng đống trên xe chồng chồng chất chất.
Ôi nói ra những toát mồ hôi
Mà nghĩ lại thêm tràn nước mắt![47]”
Ông ngoại tôi kể lại thủa đó có lần đi lo công việc, dọc đường người ghé vào một hàng phở và gọi một tô phở. Ăn gần hết tô phở, người phát hiện dưới đáy tô phở có những đoạn xương như đốt ngón tay con người! Người còn kể lại rằng thủa ấy người chết đói nhiều lắm, nhưng đến khi có thóc lúa để ăn, nhiều người lại chết vì bội thực! Thảm trạng năm ấy dẫn đến kết quả bi thảm là nhiều gia đình chết chẳng còn ai.
“Chúa vào Nam rồi”
Chín năm sau trận đói Ất Dậu, ngày 07-5-1954, người Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ. Sau đó chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và chính phủ Pháp ký kết hiệp định Genève, tạm thời chia đôi nước Việt ở vĩ tuyến 17 đợi tới ngày 20-7-1956 sẽ có cuộc tổng tuyển cử. Người dân được quyền lựa chọn sống ở phía bắc hoặc phía nam vĩ tuyến 17. Vì khiếp sợ chính sách vô thần, người dân ồ ạt kéo vào miền Nam. Người ta bảo nhau “Chúa vào Nam rồi”. Từ năm 1954 đến 1956, khoảng 1 triệu người Việt di cư từ miền Bắc vào miền Nam, trong đó có khoảng 800 ngàn người Công Giáo.
Làng Công Giáo Hoà Lạc cũng bị cuốn vào cơn lốc xoáy của cả dân tộc. Dân làng kẻ gánh, người gồng kéo nhau xuống tàu ở cửa Kim Đài, người có điều kiện thì tìm đường ra Hải Phòng để xuống tàu vào Nam. Theo ước lượng của những người nhiều tuổi, khoảng một nửa dân Hoà Lạc đã bỏ quê hương vào Nam trong cơn quốc biến này. Người ra đi gửi gắm nhà cửa, tài sản cho người thân ở nhà trông giữ với lời hẹn ước sáu tháng sau sẽ trở lại. Ít ai ngờ rằng đó là cuộc ra đi lâu dài vĩnh viễn, những người may mắn cũng phải chờ trên hai mươi năm sau mới có cơ hội gặp lại người thân.
“Dối trời lừa dân đủ trăm nghìn kế”[48]
Sau cuộc di cư, người dân miền Bắc lại rơi vào cơn lốc xoáy khốc liệt khác. Những cuộc đấu tố bắn giết, lúc đầu chỉ ở phạm vi từng vùng, sau lan rộng tràn lan, gây nên những thảm cảnh tang thương.
Làng Hoà Lạc cũng bị cuốn vào cơn lốc hãi hùng đó, song mức độ ảnh hưởng không nhiều, phần vì những gia đình giàu có như Hội Ky, Nhì Lãm, Chánh Huyến đã di cư từ lâu, phần vì dân Hoà Lạc chẳng mặn mà gì với những cuộc đấu tố.
Thời đó gia đình nào sở hữu hai mẫu Bắc Bộ liền bị quy là địa chủ, bị đấu tố. Cụ Trùm Phú ở dong ba cũng bị quy là địa chủ và bị lôi ra đấu tố. Cán bộ mớm trước cho một người đàn bà đấu tố cụ. Cuộc đấu đó diễn ra đại khái như sau:
Thằng Phú, mày có nhận ra bà không?
Dạ thưa bà, bà là người ở trong nhà con.
Mày có nhớ mày đã bóc lột bà thế nào không?
Dạ thưa bà, con không nhớ.
Mày đúng là ngoan cố. Năm ấy nhà bà thiếu ăn, bà đến vay thóc nhà mày, ba mươi thùng, mày nhớ chứ?
Thưa bà, dạ con nhớ ạ.
Mày nói với bà thế nào mày còn nhớ không?
Dạ thưa bà, con không nhớ.
Mày nói với bà cứ đem về mà ăn, nếu không thể trả được cũng không sao. Mày nhớ ra chưa?
Dạ thưa bà, con nhớ rồi ạ.
Thế là cuộc đấu tố tội áp bức bóc lột lại biến thành cuộc kể lại những ân nghĩa của địa chủ cường hào. Cán bộ lập tức kéo người đàn bà xuống, không cho tiếp tục đấu tố.
Cha tôi còn kể lại rằng năm ấy người vừa bước vào lứa tuổi thanh niên. Vì là gia đình nghèo, người được cán bộ trao cho nhiệm vụ giám sát cụ Trương Soạn, người Thái Hoà bị quy là thành phần địa chủ. Cụ Trương Soạn bị cùm chân tay suốt ngày đêm, thỉnh thoảng có cán bộ đi đến kiểm tra xem xét. Cha tôi đã đi tìm chiếc cùm nhẹ và có chốt để người bị cùm có thể tự mở ra hay đóng lại. Cha tôi dặn cụ Trương Soạn rằng: “Hễ Cụ nghe tiếng chó sủa thì Cụ đóng cùm lại giúp con.” Cứ như thế cụ Trương Soạn bị “cùm” trong tư thế tự do tại gia đình ông bà nội tôi cho tới khi hết cuộc đấu tố. Cụ Trương Soạn đã coi chuyện này là món nợ ân tình, nên kể từ đó tết năm nào Cụ cũng cho người tới tết ông bà nội tôi.
Mỗi lần kể lại những chuyện bi thương của thời đấu tố, cha tôi vẫn thường than thở rằng ở Việt Nam chưa có một cuốn sách nào nói hết được tính cách phi nhân tàn bạo, những thảm trạng khốc liệt của biến cố này. Rồi mắt buồn xa xăm, người kể lại chuyện vào một buổi chiều thê lương, ông Hiệu - một người cũng cỡ tuổi cha tôi và làm rể làng Hoà Lạc - cúi đầu ôm chiếc chiếu tả tơi đi trên con đê phía nam sông Ân về phía chợ Quy Hậu, nơi đó diễn ra cuộc xử bắn cha ông. Hay chuyện những người bị chặt đầu, khi gia đình mai táng phải lấy gáo dừa đặt vào thế chỗ!
“Nửa nước này đã cố giết một nửa nước kia”[49]
Những năm sau đó, nước Việt lâm cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn. Bao nhiêu nhân tài vật lực ở cả hai miền bị cuốn vào cuộc chiến tranh liên miên thảm khốc rút cạn kiệt nguyên khí quốc gia. Máu người Việt chảy tràn lan trên mọi dòng sông, mọi mỏm núi, mọi mảnh rừng của đất nước.
Cuộc chiến đã đụng chạm tới mọi con người, mọi gia đình, mọi miền đất. Hầu như không có gia đình Việt Nam nào lại không có người thân ngã xuống trong cuộc chiến. Điều đau xót là bao nhiêu máu đổ xuống chỉ vì mảnh đất Việt Nam thân yêu trót trở thành nơi xâu xé của hai ý thức hệ, là chiến trường xâu xé của hai phe.
Nhiều lúc suy nghĩ băn khoăn về cuộc huynh đệ tương tàn, tôi tự hỏi mình rằng không biết trong những năm đằng đẵng máu lửa tràn lan ấy, có bao nhiêu lần những người Hoà Lạc ở hai bên chiến tuyến đã chĩa súng vào nhau. Và có lẽ mãi mãi đây vẫn là câu hỏi không lời giải đáp!
***
Viết đến những dòng này lòng lại chợt hỏi lòng không hiểu sao trong khoảng không đầy trăm năm, nước Việt nói chung và làng Hoà Lạc nói riêng lại phải trải qua từng ấy biến cố đau thương thảm khốc đến thế. Mỗi người sẽ có cách lý giải của riêng mình, nhưng dưới ánh trăng thanh ở góc trời Hoà Lạc thân thương, rặng tre vẫn rì rào, bóng cau vẫn vươn thẳng và thế hệ trước vẫn thầm thì với thế hệ sau câu chuyện của thời quá vãng.
ĐOÀN TỤ VÀ CHIA LY (1975- NAY)
Ở tuổi mười bốn mười lăm, tôi bắt đầu cảm nhận rằng quê mình thật đẹp. Tôi đã từng say sưa ngắm mặt trời đỏ rực chìm dần sau rặng núi mù xa, từng mải mê nhìn những hàng cau vươn thẳng giữa nền trời xanh biếc, hay thơ thẩn trên con đường làng vằng vặc bóng trăng soi, những rặng tre mượt mà soi bóng bên dòng sông nhỏ, đâu đây trong xóm ngõ văng vẳng tiếng chó sủa đêm và muôn loại côn trùng cùng dạo bản hoà tấu muôn thủa của thiên nhiên trường cửu. Tôi vẫn thầm mong có ngày cầm bút hoạ lại bức tranh muôn màu đó. Nhưng ước mong trở thành hoạ sỹ ngày nào mãi vẫn chỉ là ước mong dang dở.
Dấu chân thơ bé của tôi đã in trên mọi ngõ ngách làng Hoà Lạc thân yêu. Mỗi mảnh vườn, mỗi ngôi nhà đều để lại trong tôi một chút buồn vui kỷ niệm. Những câu chuyện thường ngày của lớp người lớn tuổi cũng giúp tôi hiểu rằng còn có những người Hoà Lạc, những người thân yêu của tôi đang sinh sống ở nơi chân trời góc biển xa xôi lắm. Thế rồi những cái tên vừa quen vừa lạ cứ dần thấm vào cõi xa xăm của miền ký ức. Mỗi lần có người Hoà Lạc tìm về thăm lại cố hương, miền ký ức trong tôi lại được bồi đắp.
Tôi cũng lờ mờ biết thêm rằng biến cố 1975 và những năm đói khổ triền miên sau đó cùng với chính thể khắc nghiệt đã khiến hàng triệu người Việt rời bỏ quê hương, dấn mình vào những cuộc phiêu lưu, mong tìm cái sống giữa biết bao hiểm nguy chết chóc. Vậy là với một số người Hoà Lạc, đất mẹ lại thêm một phần xa xôi cách biệt.
Thế rồi cũng đến ngày tôi rời xa quê hương ngàn lần yêu dấu, bước chân ra chốn thị thành. Thiên Chúa cũng ban cho tôi ân huệ đi hầu khắp các miền đất nước thân yêu.
Năm 1992, trên tàu thống nhất vào Sài Gòn, tôi đã ngắm nhìn đất Việt trải dài trên gần hai ngàn cây số. Tôi cứ miên man suy nghĩ và thấy mình thật may mắn, vì để vượt qua những chặng đường mà tôi đã đi qua, thế hệ cha anh mình đã phải trả bằng giá máu. Lúc tiếng súng không còn cũng là lúc những bàn tay thân yêu tìm đến nhau cho vợi bao tháng ngày cách biệt. Cuộc chiến dẫu tàn khốc và mất mát thật nhiều, nhưng dù sao ngày thống nhất cũng là ngày đáng mừng vì người Việt không còn bắn nhau, và điều quan trọng hơn, những người thân yêu đã có thể gặp nhau sau gần nửa đời người ly biệt bặt tăm.
Thủa học ở Sài Gòn, tôi có dịp thăm người Hoà Lạc sinh sống ở Lạc Quang, Trung Chánh, Suối Nho, Phương Lâm và Bảo Lộc. Tôi vẫn nhớ hình ảnh cụ Quản Nghinh tay bắt mặt mừng, xuýt xoa kể lại những kỷ niệm thân thương chốn quê nhà, tự hào nhắc lại những người con Hoà Lạc thành đạt trong cuộc sống. Cụ cũng bùi ngùi khi hay tin cây đa không còn nữa và dòng sông Ô nay đã thành ruộng lúa, thành ao thả sen. Cụ nói với tôi, chả trách nào người Hoà Lạc ngày nay không còn làm quan được nữa, vì cây đa và con sông Ô có mối liên hệ nào đó với chuyện thịnh suy của làng Hoà Lạc.
Tôi thực sự xúc động trước tình cảm của người đồng hương dành cho mình. Tôi sinh ra đúng mười bảy năm sau cuộc di cư lịch sử. Dân làng chốn tha hương chỉ nhận ra tôi nhờ biết tới ông bà cha mẹ tôi, nhưng tình nghĩa vẫn thật đậm đà nồng thắm. Tôi hiểu rằng dẫu ở nơi cuối bể chân mây, trong lòng mỗi con dân Hoà Lạc, quê hương luôn chiếm một góc thật quan trọng, hai tiếng quê hương, hai tiếng Hoà Lạc mỗi khi trào lên môi là gợi nhớ bao niềm nhớ thương da diết, bao nhiêu kỷ niệm thân thương.
Những năm sau đó, việc đi lại giữa hai miền ngày càng dễ hơn. Nhiều người Hoà Lạc trở lại thăm quê hương sau quá nửa đời xa cách, đã không cầm nổi nước mắt khi đặt chân lên con đường làng yêu dấu. Thật xúc động khi chứng kiến cảnh những cụ già râu tóc bạc phơ, gặp lại nhau không nói nổi một lời. Lúc chia biệt họ còn là những đứa trẻ chăn trâu hay còn mài đũng quần tại ngôi trường nhà xứ. Vậy mà khi gặp lại, họ đã là những cụ già ở đoạn xế chiều của cõi nhân sinh, nắm tay nhau mà tưởng chừng cuộc đời cũng chợt qua như giấc mộng hoàng lương[50].
Mỗi lần có cuộc đoàn viên hội ngộ cũng là mỗi lần người Hoà Lạc nhắc lại cho nhau ai còn ai mất, rồi ngậm ngùi nhớ lại thời xa xưa yêu dấu, bâng khuâng nhắc tới những người thân yêu không còn bao giờ có dịp đặt chân lên đất mẹ thân yêu. Sau chừng ấy năm ly loạn liên miên, biết bao con dân Hoà Lạc đã vĩnh viễn gửi nắm xương tàn nơi viễn xứ, hoặc từ nơi góc biển xa xôi nào đó ôm mối u hoài nhung nhớ quê hương.
***
Những câu chuyện “chắp nhặt dông dài” không có đầu đuôi mạch lạc thật chẳng đủ giúp Quý Vị đồng hương “mua vui” qua “một và trống canh[51]”, nhưng là một chút cảm nhận, một tấm chân tình của một con dân Hoà Lạc đối với đất mẹ thân yêu. Nét rêu phong cổ kính của làng Hoà Lạc có lẽ ngày càng mờ nhạt, thế hệ sau vẫn tiếp nối thế hệ trước như quy luật của muôn đời. Đàng sau mọi chuyện thịnh suy hưng phế, những cuộc phân ly tan hợp phải là một cái nhìn tràn trề niềm tin và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn khi mỗi người Hoà Lạc biết quan tâm nhiều hơn đến những phúc lợi chung, đến thế hệ trẻ, những người đang tiếp tục viết lên trang sử của quê nhà.
KIM ÂN
Viết xong tại Paris, ngày 1-11-2006 - sửa lại tại Huế tháng 1-2019
[1] Nguyễn Du, Truyện Kiều, câu 3253.
[2] X. Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam). Tập 1. Hà Nội 1998, tr. 184-185.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư …, tr. 216.
[4] Đại Việt sử ký toàn thư …, tr. 266.
[5] Đại Việt sử ký toàn thư…, tr. 323.
[6] Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch của Viện khoa học xã hội Việt Nam). Tập 2. Hà Nội 1998, tr. 162-163.
[7] Chữ dùng trong Thần Tiên Truyện: “tam thập niên vi nhất, thương hải biến vi tang điền”, nghĩa là cứ ba mươi năm một lần vũ trụ lại chuyển hóa, biển cả hóa thành nương dâu, nương dâu hóa thành biển cả.
[8] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (bản dịch của Viện sử học). Tập 3. Huế 2006, tr. 313-314.
[9] X. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc khẩn hoang thành lập huyện Kim Sơn – 1829, Kim Sơn 1990, tr. 73.
[10] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (bản dịch của Viện sử học). Tập 2. Đà Nẵng 2007, tr. 703. Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, con đê này có tên Cự Lĩnh đê, tức đê Cự Lĩnh. Bộ Đại Nam nhất thống chí lại nhắc tới con đê có tên Hồng Lĩnh. Nguyễn Tử Mẫn, Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên (bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân và Nguyễn Thuỵ Ứng), Hà Nội 2001, tr. 156, lại cho biết Nguyễn Khản là người đắp đê Hồng Lĩnh.
[11] Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, con đường này được ghi là đường nhỏ (小路).
[12] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất…, tr. 313. Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, con đê này có tên Ân đê, tức đê Ân.
[13] Mỗi đạc là 60 mét.
[14] Trong phần bản đồ của bộ Đồng Khánh địa dư chí, dường như con đê này được ghi tên Ngự Hàm đê (禦鹹堤), có nghĩa là đê ngăn mặn.
[15] Chữ Hán, có nghĩa trong hoạ có phúc.
[16] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chánh biên (nhóm nghiên-cứu sử-địa Việt-Nam), Saigon 1972, tr. 130-131.
[17] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 134.
[18] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 134.
[19] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 139.
[20] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (bản dịch của Viện sử học). Tập hai. Hà Nội 2007, 719-720.
[21] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 141-142.
[22] Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều…, tr. 145.
[23] Ví dụ Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 633 và 648; Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu (bản dịch của Võ Quang Khanh và Võ Khắc Văn). Tập 2. Saigon 1972, tr. 61.73-74 và 79; x. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 29-30.
[24] Trích theo Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 41.
[25] Trích theo Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 127.
[26] Trích theo Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 128.
[27] Chữ dùng trong sách Luận Ngữ, có nghĩa là kính cẩn, kỹ càng tưởng nhớ người xưa. Truy tư từ cũng chính là tên người dân Kim Sơn dành cho ngôi sinh từ thờ Nguyễn Công Trứ.
[28] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 779.
[29] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 843.
[30] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 720.
[31] Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 49.
[32] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 843.
[33] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 843-844.
[34] Tên tổng này thường được gọi là Hướng Đạo, nhưng theo chữ Hán trong bộ Đồng Khánh địa dư chí, tên gọi này là Hương Đạo (鄉道).
[35] X. Đồng Khánh địa dư chí (bản dịch của Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, Phan Văn Các, Lê Việt Nga, Dương Thị The), Hà Nội 2003, tr. 1033; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất…, tr. 279.
[36] X. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực…, tr. 779.
[37] X. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 93.
[38] X. Đào Tố Uyên - Nguyễn Cảnh Minh, Công cuộc …, tr. 58.
[39] trích di thảo số 14, Tình hình lương giáo ở Nghệ An theo Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, NXB Tp. Hồ Chí Minh 1988, tr. 181-183.
[40] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Đà Nẵng, 2003, tr. 513-514.
[41] Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, Quyển II, Calgary, Canada, 2002, tr. 488, dẫn theo H. Ravier, Sử ký Hội thánh, Hà Nội 1934, Q. III, tr 569-570.
[42] Có lẽ cũng chuyện này, diễn ra năm 1848, được kể lại hơi khác trong Adrien Launay, Le Tonkin catholique et Monseigneur Retord 1831- 1858, Lyon 1893, tr. 293-294: “Vài tháng sau, ở Hoà Lạc, đã có một trận chiến và kết quả thật bất hạnh. Các tín hữu Công Giáo đã đem quà dâng quan tri huyện để xin cho một linh mục đến làm phép làng. Quà tặng được chấp nhận và lời cầu xin được chuẩn y. Nhưng lúc nửa đêm, viên quan đã đến với chừng ba mươi người ngoại và đã xâm nhập ngôi nhà mà vị linh mục ở nhằm bắt ngài. Vị linh mục chạy thoát, còn các tân tòng, vì phẫn nộ đối với sự bất tín của viên quan, đã lên tiếng tri hô có cướp! Quân cướp! rồi đánh đập tên trưởng toán cũng như đám quân, bắt trói tất cả, rồi hôm sau đem giao nộp quan tuần phủ để đòi công lý. Đức cha Retord Liêu kể: ‘Ôi những con người bất hạnh, họ phải trả giá đắt cho thứ công lý này!’ Họ đã phải trả giá bằng cả cái đầu và gia sản của mình. Nhiều người trong số họ bị kết án tử hình, những người khác phải sạt nghiệp để chuộc mạng sống.”
[43] Lời Hịch tướng sỹ của Trần Hưng Đạo.
[44] Đó là lời trong tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
[45] Dù sao, những thông tin này và những thông tin về nạn đói mà chúng tôi trích dẫn trong các tài liệu ở đây hẳn ít nhiều mang tính tuyên truyền.
[46] Báo Tuổi trẻ ngày 14-3-2005.
[47] Báo Tuổi trẻ ngày 07-5-2005.
[48] Lời trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
[49] Lời bài hát Tôi cố bám của Nguyễn Đình Toàn.
[50] Lữ Sinh đời Đường vào quán trọ, chủ quán đang nấu nồi kê (hoàng lương). Lữ Sinh nằm ngủ quên, mộng thấy mình thành đạt, giàu sang, phú quý, vợ đẹp, con khôn, rồi bỗng thất thế, bừng tỉnh dậy thì nồi kê vẫn chưa chín. Sau người ta dùng từ này để nói rằng mọi chuyện ở đời này đểu phù du giống như giấc mộng.
[51] Những câu cuối cùng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Giải đáp phụng vụ: Vai trò của nhiều phó tế trong thánh lễ là như thế nào?
Nguyễn Trọng Đa
12:33 15/01/2019
Giải đáp phụng vụ: Vai trò của nhiều phó tế trong thánh lễ là như thế nào?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Khi hai phó tế phục vụ Thánh lễ, người ta hiểu rằng một phó tế là phó tế cho Phụng vụ Lời Chúa và một phó tế là phó tế cho Phụng vụ Thánh Thể. Tuy nhiên, có sự bất đồng về việc liệu có hay không có các phần “nói” chuyển dịch với phụng vụ. Liệu mỗi phó tế có các phần nói liên quan đến phụng vụ được chỉ định của mình, hay liệu phó tế Lời Chúa phải công bố lời chúc lành bình an và lời giải tán cộng đoàn? - C. D., Colorado Springs, Colorado, Hoa Kỳ.
Đáp: Theo một tài liệu của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, phó tế trong Thánh lễ có các vai trò chính như sau:
“Khi có một phó tế trong Thánh lễ, thầy thực hiện thừa tác của mình trong lễ phục của thầy (số 338). Phó tế:
“- hỗ trợ linh mục và đứng bên cạnh linh mục (trừ khi thầy mang Sách Tin Mừng, và trong trường hợp đó, thầy đi trước linh mục);
“- phụ trách chén thánh hoặc Sách lễ Rôma ở bàn thờ;
“- công bố bài Tin Mừng và, theo yêu cầu của linh mục chủ tế, có thể thuyết giảng (số 55);
“- đưa ra các chỉ dẫn kịp thời cho tín hữu và loan báo các ý trong Lời nguyện chung;
“- giúp linh mục chủ tế cho Rước lễ, đặc biệt là thừa tác của Máu Thánh, tráng chén và xếp đặt các bình thánh;
“- khi cần, thực hiện vai trò của các thừa tác viên khác khi họ không có mặt ở đó (số 171).
Ngay cả các quy định trên hoặc các quy định tổng quát cũng không đi sâu vào chi tiết liên quan đến việc phân chia vai trò của hai phó tế, mặc dù khả năng này tồn tại trong Sách Lễ Nghi Giám mục, và là khá phổ biến trong các dịp long trọng đặc biệt, hoặc cho các Thánh lễ đồng tế.
Sách Lễ Nghi Giám mục, số 122, trong mục “Thánh lễ chặng viếng, Stational Mass” của Giám mục giáo phận, đưa ra ưu tiên cho ít nhất ba phó tế: “Một phó tế công bố bài Tin Mừng và thừa tác viên bàn thờ, hai phó tế trợ giúp Giám mục. Nếu có nhiều hơn ba phó tế, các vị nên phân chia các thừa tác cho phù hợp, và ít nhất một vị chịu trách nhiệm hỗ trợ sự tham gia tích cực của các tín hữu”.
Vì lý do này, các quy định về điểm này là không tuyệt đối và cho phép một mức độ linh hoạt nhất định, để thích ứng với các hoàn cảnh đặc biệt. Đồng thời, có một số khía cạnh của việc trang trí phụng vụ cần được tôn trọng càng nhiều càng tốt.
Tất cả mọi thứ đều là bình đẳng, nên khi có hai phó tế, họ thường được chia làm phó tế Lời Chúa và phó tế Thánh Thể. Tuy nhiên, cần phải nói rằng các thuật ngữ này, mặc dù là phổ biến, không là chính thức và thường không có trong các sách phụng vụ.
Ngoài việc công bố bài Tin Mừng và các lời nguyện chung, phó tế Lời Chúa cỏn đưa ra lời mời chúc bình an và các can thiệp khác, như “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Phó tế Lời Chúa đứng bên trái chủ tế trong phần Phụng vụ Thánh Thể; ngoài ra, thầy có thể xông hương cho Thánh Thể trong phần Kinh nguyện Thánh Thể.
Phó tế Thánh Thể dành tất cả những gì phải làm với bàn thờ, và đọc lời nguyện riêng được dùng cho việc chuẩn bị chén thánh. Thầy đứng bên phải chủ tế trong phần Kinh nguyện Thánh Thể. Thầy có thể đậy hoặc cất tấm đậy chén thánh khi cần, và nâng chén thánh lên cao trong kinh Vinh tụng ca. Nếu cần, thầy cũng có thể giúp trong nghi thức bẻ bánh. Nếu phó tế Lời Chúa xông hương Thánh Thể, thầy cũng có thể phụ giúp với Sách lễ.
Cả hai phó tế đứng hơi sau linh mục một chút, khi linh mục đứng ở bàn thờ. Các linh mục đồng tế nên cẩn thận để không làm cản trở hành động của phó tế.
Đây là sự phân chia thông thường cho các vai trò trong thánh lễ đại triều và các phụng vụ long trọng khác. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, các tập tục này là không cứng nhắc, và chúng không đáp ứng cho các quy định chính xác. Tôi tin rằng sự phân chia này đã được bỏ ngỏ, để có thể thích nghi với các hoàn cảnh thay đổi.
Vì vậy, đôi khi, một số thay đổi có thể diễn ra; chẳng hạn, nếu phó tế Lời Chúa thiếu khả năng âm nhạc, phó tế kia có thể thay thế trong việc hát lời mời chúc bình an, hoặc lời giải tán cộng đoàn cuối lễ.
Tương tự như vậy, phó tế đứng gần micro nhất trên bàn thờ có thể đọc lời mời chúc bình an, thay vì thực hiện các chuyển động phức tạp.
Một phó tế phải thuyết giảng thường nên đảm nhận vai trò phó tế Lời Chúa, để thực hiện cả hai chức năng một cách dễ dàng và không bị gián đoạn.
Đôi khi có thể có lý do tốt cho một sự thay đổi thừa tác viên. Chẳng hạn, nếu bài Tin Mừng cần được hát, thì phó tế nào có đủ điều kiện tốt hơn cho nhiệm vụ này nên công bố bài Tin Mừng, mặc dù phó tế kia sẽ thuyết giảng. (Zenit.org 15-1-2019)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Khi hai phó tế phục vụ Thánh lễ, người ta hiểu rằng một phó tế là phó tế cho Phụng vụ Lời Chúa và một phó tế là phó tế cho Phụng vụ Thánh Thể. Tuy nhiên, có sự bất đồng về việc liệu có hay không có các phần “nói” chuyển dịch với phụng vụ. Liệu mỗi phó tế có các phần nói liên quan đến phụng vụ được chỉ định của mình, hay liệu phó tế Lời Chúa phải công bố lời chúc lành bình an và lời giải tán cộng đoàn? - C. D., Colorado Springs, Colorado, Hoa Kỳ.
Đáp: Theo một tài liệu của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, phó tế trong Thánh lễ có các vai trò chính như sau:
“Khi có một phó tế trong Thánh lễ, thầy thực hiện thừa tác của mình trong lễ phục của thầy (số 338). Phó tế:
“- hỗ trợ linh mục và đứng bên cạnh linh mục (trừ khi thầy mang Sách Tin Mừng, và trong trường hợp đó, thầy đi trước linh mục);
“- phụ trách chén thánh hoặc Sách lễ Rôma ở bàn thờ;
“- công bố bài Tin Mừng và, theo yêu cầu của linh mục chủ tế, có thể thuyết giảng (số 55);
“- đưa ra các chỉ dẫn kịp thời cho tín hữu và loan báo các ý trong Lời nguyện chung;
“- giúp linh mục chủ tế cho Rước lễ, đặc biệt là thừa tác của Máu Thánh, tráng chén và xếp đặt các bình thánh;
“- khi cần, thực hiện vai trò của các thừa tác viên khác khi họ không có mặt ở đó (số 171).
Ngay cả các quy định trên hoặc các quy định tổng quát cũng không đi sâu vào chi tiết liên quan đến việc phân chia vai trò của hai phó tế, mặc dù khả năng này tồn tại trong Sách Lễ Nghi Giám mục, và là khá phổ biến trong các dịp long trọng đặc biệt, hoặc cho các Thánh lễ đồng tế.
Sách Lễ Nghi Giám mục, số 122, trong mục “Thánh lễ chặng viếng, Stational Mass” của Giám mục giáo phận, đưa ra ưu tiên cho ít nhất ba phó tế: “Một phó tế công bố bài Tin Mừng và thừa tác viên bàn thờ, hai phó tế trợ giúp Giám mục. Nếu có nhiều hơn ba phó tế, các vị nên phân chia các thừa tác cho phù hợp, và ít nhất một vị chịu trách nhiệm hỗ trợ sự tham gia tích cực của các tín hữu”.
Vì lý do này, các quy định về điểm này là không tuyệt đối và cho phép một mức độ linh hoạt nhất định, để thích ứng với các hoàn cảnh đặc biệt. Đồng thời, có một số khía cạnh của việc trang trí phụng vụ cần được tôn trọng càng nhiều càng tốt.
Tất cả mọi thứ đều là bình đẳng, nên khi có hai phó tế, họ thường được chia làm phó tế Lời Chúa và phó tế Thánh Thể. Tuy nhiên, cần phải nói rằng các thuật ngữ này, mặc dù là phổ biến, không là chính thức và thường không có trong các sách phụng vụ.
Ngoài việc công bố bài Tin Mừng và các lời nguyện chung, phó tế Lời Chúa cỏn đưa ra lời mời chúc bình an và các can thiệp khác, như “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Phó tế Lời Chúa đứng bên trái chủ tế trong phần Phụng vụ Thánh Thể; ngoài ra, thầy có thể xông hương cho Thánh Thể trong phần Kinh nguyện Thánh Thể.
Phó tế Thánh Thể dành tất cả những gì phải làm với bàn thờ, và đọc lời nguyện riêng được dùng cho việc chuẩn bị chén thánh. Thầy đứng bên phải chủ tế trong phần Kinh nguyện Thánh Thể. Thầy có thể đậy hoặc cất tấm đậy chén thánh khi cần, và nâng chén thánh lên cao trong kinh Vinh tụng ca. Nếu cần, thầy cũng có thể giúp trong nghi thức bẻ bánh. Nếu phó tế Lời Chúa xông hương Thánh Thể, thầy cũng có thể phụ giúp với Sách lễ.
Cả hai phó tế đứng hơi sau linh mục một chút, khi linh mục đứng ở bàn thờ. Các linh mục đồng tế nên cẩn thận để không làm cản trở hành động của phó tế.
Đây là sự phân chia thông thường cho các vai trò trong thánh lễ đại triều và các phụng vụ long trọng khác. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, các tập tục này là không cứng nhắc, và chúng không đáp ứng cho các quy định chính xác. Tôi tin rằng sự phân chia này đã được bỏ ngỏ, để có thể thích nghi với các hoàn cảnh thay đổi.
Vì vậy, đôi khi, một số thay đổi có thể diễn ra; chẳng hạn, nếu phó tế Lời Chúa thiếu khả năng âm nhạc, phó tế kia có thể thay thế trong việc hát lời mời chúc bình an, hoặc lời giải tán cộng đoàn cuối lễ.
Tương tự như vậy, phó tế đứng gần micro nhất trên bàn thờ có thể đọc lời mời chúc bình an, thay vì thực hiện các chuyển động phức tạp.
Một phó tế phải thuyết giảng thường nên đảm nhận vai trò phó tế Lời Chúa, để thực hiện cả hai chức năng một cách dễ dàng và không bị gián đoạn.
Đôi khi có thể có lý do tốt cho một sự thay đổi thừa tác viên. Chẳng hạn, nếu bài Tin Mừng cần được hát, thì phó tế nào có đủ điều kiện tốt hơn cho nhiệm vụ này nên công bố bài Tin Mừng, mặc dù phó tế kia sẽ thuyết giảng. (Zenit.org 15-1-2019)
Nguyễn Trọng Đa