Ngày 10-01-2010
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hôm nay sẽ là một cuộc lên đường như thế
Jos. Trương Đình Hiền
09:42 10/01/2010
CHUA CHỊU PHÉP RỬA (C 2010)

Hôm nay sẽ là một cuộc lên đường như thế

Nếu chúng ta đáp chuyến tàu quá khứ, trở về bên dòng sông Gio-đan vào buổi sáng ngày xưa ấy, chắc chúng ta sẽ gặp một quang cảnh lạ lùng, kỳ diệu, nhưng cũng rất thân thương và cảm động: Dưới đất, một đoàn lũ đông đảo có thể nói được là ô hợp. Vì gồm nào lính tráng, dân thu thuế, những kẻ tàn tật đui què mẻ sứt, những gái làng chơi, những tay anh chị và phần đông là dân nghèo khố rách áo ôm đủ mọi ngành nghề…và đặc biệt chen lấn giữa đám dân ô hợp, tội lỗi ấy, có chàng thanh niên Giêsu nguời Nadarét, vừa từ giả quê hương miền bắc xứ Galilê đến đây để ông Gioan làm phép rửa. Trong khi đó trên trời, không trung mở ra, có tiếng Chúa Cha rền vang: “Đây là Con Ta yêu dấu…”, có Chúa Thánh Linh lấy hình Bồ Câu đáp xuống…

Quả thật bên bờ sông Giođan hôm ấy, đã xảy ra một cuộc “hiển linh” đặc biệt của Ba Ngôi Thiên Chúa, như lời thơ trong thánh thi Kinh Sách:

Danh mầu nhiệm vang ngân cứu rỗi

Cả bốn phương Giáo Hội của Người

Nơi đây hiện diện Ba Ngôi

Nhưng là một Chúa cao vời chí tôn.

Chúng ta thử dừng lại suy niệm đôi điều về mầu nhiệm nầy để cùng với toàn Dân Chúa bước trên nẽo đường phụng vụ Mùa Thường Niên với tất cả tình yêu và ý thức.

1. Thiên Chúa giới thiệu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Con Một Thiên Chúa:

Đã có một thời cả Giêrusalem náo động xôn xao, khi có Ba Nhà Đạo Sĩ Phương Đông tìm đến và kháo láo rằng: Đấng Cứu Thế đã xuất hiện, Ngôi Sao của Ngài đã hiển hiện bên trời đông. Nhưng sau đó tất cả lại chìm vào quên lãng. Mãi cho đên 30 năm sau, bên bờ sông Giođan rực nắng, Gioan Tẩy Giả lại mạnh mẽ rêu rao: “Ở giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi rửa bằng nước, nhưng Ngài sẽ rửa trong Thánh Thần…” Và quả thật hôm nay, lời rêu rao đó lại trở thành hiện thực. Chính Thiên Chúa đã quyêt định “cái Giờ” để giới thiệu, để chính thức “trình làng” Người Con Một, cho dù không bằng một nghi lễ trịnh trọng vương giả, thì cũng có một không hai, như ta đã nghe tường thuật trong bài Tin Mừng. “Trời mở ra…”.

Quả thật, hôm nay đã ứng nghiệm những lời Sấm ngôn loan báo: “Đây lời Đức Chúa phán: Đây là Người Tôi Trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó…” (BĐ 1). Và một chỗ khác: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Ngài đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Thánh Phêrô đã tóm kết huyền nhiện nầy bằng những lời đơn gọn: “Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới dâu Người thi ân giáng phúc tới đó…” (BĐ 2).

Quả thật, nếu không có chính Thiên Chúa giới thiệu, mặc khải, ấn chứng, không ai trong chúng ta có thể đến với Chúa Kitô, tin vào Chúa Kitô, đón nhận và yêu mến Chúa Kitô. Chính vì thế, để củng cố niềm tin vào Chúa Kitô, chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tiếp cận lời mặc khải, phải đọc và lắng nghe Lời Chúa, phải đón nhận chính lời của Đức Kitô. Như hôm nay Chúa Cha đã ra lệnh “Các ngươi hãy nghe lời Người”.

2. Đức Kitô biểu lộ dung mạo tình yêu của Thiên Chúa:

Đức Kitô qua hình ảnh của một người lặn lội từ phương xa Na-da-rét, chen chúc trong dám dân đen tự nhận mình là kẻ tội lỗi, bước xuống dòng sông Gio-đa-nô mang theo tất cả tình thương cứu độ của Thiên Chúa, một Thiên Chúa “đi xuống” tận nơi cát bụi phận người để từ đó nâng con người lên; thanh tẩy con người khỏi mọi vết nhơ tội lỗi khi dìm con người trong cái chết và sự phục sinh của Ngài. Qua hành vi “chịu phép rửa”, quả thật Đức Kitô đã mặc khải cho chúng ta những chiều kích thâm sâu của tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là:

-Một tình yêu đồng hành: Khi Thiên Chúa đã không ngại kề vai sát cánh, chen chúc giữa đám đông, tự nhận mình là tội nhân và đồng chia sẻ thân phận tội lỗi với tất cả mọi người. Thiên Chúa chúng ta nào đâu còn là một Thiên Chúa cách biệt ngàn trùng mà người ta chỉ dám cúi đầu phũ phục trong chốn uy linh của điện thờ; mà là một Thiên Chúa gần gũi đến độ chẳng còn phân biệt được Ngài là kẻ sang hay người hèn, ngài là tôi nhân hay là người công chính, bởi vì Ngài ở giữa chúng ta không một ánh mắt tỵ hiềm, không một nụ cười đố kỵ. Ngài Thiên Chúa chấp nhận hiện diện giữa đám đông nhân loại ô hợp, tội lỗi và đang cần bàn tay của con người thanh tẩy cho. Quả đúng là “yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.

- Một tình yêu chia sẻ : “Thiên Chúa yêu thương đến độ đã trao ban Con Một”. Thiên Chúa nào muốn giữ lại cái quí giá nhất của mình đâu mà sẵn sàng cho đi không hối tiếc. và dĩ nhiên, sự cho đi nầy cũng kèm theo cái giá phải trả: từ bỏ thân phận Thiên chúa cao ả quyền uy để mặc lấy thân phần đớn hèn nhân loại. và không chỉ dừng lại nơi hang lừa máng cỏ khó nghèo, đơn bạc, hay xưởng thợ mộc ở làng quên Na-da-rét với cuộc đời vất vả lầm than…mà sẽ là cuộc cho đi tới tận cùng khi chỉ còn mình trần thân trụi bị treo trên thánh giá !!! Và tình yêu sẻ chia đó đã thực sự khởi sự từ hôm nay.

- Một tình yêu giải thoát: Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở chỗ cảm thông, chia sẻ, hy sinh hay đồng hành để rồi bỏ mặc nhân loại loay hoay với trăm ngàn hệ lụy của đắng cay tăm tối. Tình yêu đó đã mang theo niềm tin yêu hy vọng, như cánh bồ câu ngậm cành ô liu thuở nào báo tin “Hồng Thủy” đã lùi xa. Mà quả thật hôm nay, “Chim Bồ Câu Thánh Thần” đã đổ xuống trên Ngài, dấu chỉ của niềm hy vọng cứu độ, của đất trời giao hòa, của Tin Mừng hạnh phúc được công bố cho kẻ nghèo, tin vui giải thoát được loan cho người ngồi trong bóng tối, tin mừng hồi phục chữa lành cho những kẻ đang mang đầy thương tích…Bởi vì như sứ ngôn I-sa-ia đã loan báo trong BĐ 1 hôm nay: “Ta cho Thần Khí ta ngự trên nó…để mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những ai bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong tối tăm…”. Khởi đi từ hôm nay, Đức Kitô đã biến dòng nước bình thường của dòng sông Gio-đa-nô và muôn dòng nước khác trên địa cầu thành dòng nước có sức thánh hóa, tẩy sạch tội lỗi và dìm con người trong chính cuộc Khổ nạn-Phục sinh của Ngài để qui tụ tất cả vào hưởng vinh quang bất diệt trên thiên đàng.

3.Sống huyền nhiệm Bí tích Rửa tội

Cảm nhận được tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cũng có nghĩa là sống tích cực và trọn hảo hồng ân của bí tích Thánh Tẩy.

Đó chính là sống hằng ngày với quyết tâm thường xuyên:

Chết cho tội lỗi và những đam mê, nết xấu…để đứng lên sống đời sống mới trong ân sủng và tự do của con cái Thiên Chúa. Cây nến sáng ngày nào nhận lãnh bên giếng Rửa Tội phải rực sáng mãi niềm tin, cậy, mến; và tấm áo trắng ngày nào được mặc lần đầu khi từ giếng Rửa tội đứng lên sẽ mãi mãi được giặt sạch và tẩy trắng cho dù phải trả giá bởi hy sinh.

Đó là: Hãy để Thánh Thần tác thánh và sai đi :

Trở nên tông đồ loan báo tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho muôn người và khắp muôn nơi. Lời loan báo hiện thực nơi chính cuộc đời công chính thánh thiện, nơi niềm vui sẻ chia và phục vụ, nơi lòng can đảm nói không trước bao nhiêu đồi trụy và tội ác.

Đó là: Hãy trở nên dấu chỉ của tình yêu Đức Kitô :

khi biết không ngừng hoán cải để trở nên khiêm hạ, quảng đại để thứ tha, sẵn sàng đồng hành, yêu thương phục vụ và chia sẻ cuộc sống với tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh, yếu đau, tội lỗi…

Đó là: Lê đường mang theo Lời Chúa:

Khi biến đời sống thành cuộc lên đường với Đức Kitô và luôn trang bị cho mình.chính hành trang Lời Chúa. Và mỗi ngày là một đáp trả ngoan ngùy trước ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa tình yêu và thực thi các giá trị Tin Mừng như chính lời Đức Chúa Cha ngày nào đang vẫy gọi: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe Lời Người”.

Thật là thích hợp khi hôm nay chúng ta cử hành ngày quốc tế di dân và là cuộc cử hành năm Thánh tại giáo xứ. Nếu ngày xưa Đức Kitô đã bước xuống dòng sống Gio-đa-nô chịu phép rửa, để từ đó nhân loại bắt đầu một vận hội mới, vận hội của cuộc sống tái sinh vào đời sống tự do và ân sủng; thì hôm nay, trong nhiệm tích Thánh Thể nầy, Đức Kitô phục sinh đang tiếp tục đồng hành khi chia sẻ máu thịt mình để nuôi sống và dẫn dắt chúng ta trên đường về quê trời. Trước hồng ân bao la đó, chúng ta không thể “đem viên ngọc quí” là là đời sống con cái Chúa, là chi thể trong Huyền thể Chúa Kitô, là hồng ân của nhiệm tích Thánh Tẩy… vứt đi để trở lại trong cuộc đời tăm tối nô lệ; mà phải can đảm đứng lên từng ngày để đáp lại tiếng gọi ngày nào của Chúa Cha: “Hãy vâng nghe Lời Người”. Vâng nghe lời Người trong Tn Mừng Tám Mối Phúc Thật, vâng nghe lời Người trong Tin Mừng về giới răn yêu thương, vâng nghe lời Người trong sứ điệp Phúc Âm về sự hy sinh quên mình để yêu thương phục vụ, về việc thực thi công chính không phải dừng lại trước ngưỡng cửa lề luật và giới răn mà phải đi tới cùng của tình yêu hy tế. Quả thật mầu nhiệm “Chúa chịu Phép rửa” chính là khai mở hồng ân Năm Thánh cho nhân loại và cho tất cả chúng ta. Vì từ nơi dòng sông ấy, Đức Kitô đã được Thánh Thần xức dầu tấn phong để ra đi “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.

Ước gì mỗi một ngày sống chúng ta hôm nay cũng là một cuộc lên đường như thế như thế; hay ít ra, cuộc lên đường đó đã bắt đầu ngay hôm nay, khi bước ra khổi ngôi thánh đường nầy.
 
Bên bờ sông Jordan ''Trời Mở Ra''
LM. Phêrô Hồng Phúc
09:51 10/01/2010
BÊN BỜ SÔNG JORDAN “ TRỜI MỞ RA”

Ngay sau khi Đức Giêsu từ dòng sông Jordan bước lên thì Ba Ngôi Thiên Chúa đã hiện diện cụ thể ở nơi Ngài. Chúa Thánh Thần, dưới hình chim bồ câu đỗ xuống. Còn chính Ngài, Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, ở giữa chúng ta. Và tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Này là Con Ta yêu dấu, Con đẹp lòng Ta mọi đàng” (Lc 3, 22).

Sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa bên bờ sông Jordan còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng khi mà chúng ta được nghe trong Tin Mừng của thánh Luca diễn tả rằng “Trời mở ra”. Ngay sau khi Đức Giêsu từ dưới sông Jordan bước lên, trời mở ra. Trời mở ra có nghĩa là đã có lúc trời đóng lại. Vậy lúc trời đóng lại là khi nào? Đó là lúc nguyên tổ Adam và Eva phạm tội thì cửa thiên đàng đóng lại, con người bị đuổi khỏi vườn địa đàng, bị truất khỏi quyền làm con Thiên Chúa, bị mất những ơn ngoại nhiên. Họ bị rơi xuống vực thẳm của tội lỗi, họ sống trong bóng đêm của tử thần. Trời khép lại đằng sau họ và mở ra trước họ là những bóng đen, những quyền lực của sự dữ. Nhân loại đi trong tối tăm, đi trong thất vọng, thậm chí cả tuyệt vọng nữa nếu không có lời hứa sẽ ban Đấng Messia và vì vậy, cả ngàn ngàn năm, dân Do Thái đã sống bằng lời hứa đó. Niềm hy vọng đã giúp họ can đảm để vượt qua bóng tối và nhìn về tương lai trong niềm hy vọng phía trước.

Khi dìm xuống dưới dòng sông, đó là tượng trưng của bóng đêm sự chết, người ta không ai ở mãi dưới dòng sông đó. Dìm xuống dưới dòng sông để thấy được thực trạng của mình, là bóng đêm, là tử thần. Chính vì vậy, khi Đức Giêsu từ dòng sông Jordan bước lên, chỉ một mình Đức Giêsu, khi Ngài bước lên khỏi biểu tượng của sự chết ấy là trời mở ra. Trời mở ra để kết thúc những gì mà nguyên tổ đã khép lại; Trời mở ra để cho con người lập lại trật tự, cho con người ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Chính vì thế mà tiếng Chúa Cha phán không chỉ với Đức Giêsu mà với tất cả mọi người rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta mọi đàng”. Dưới một góc độ thần học, người ta đã nhìn nhận Đức Maria là Eva mới vì Mẹ sinh ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ. Kỷ nguyên ấy đến từ Đức Giêsu, bởi vậy Đức Giêsu được coi là Adam mới. Từ nơi Ngài, một thế hệ của những người con, con của Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha. Vì vậy lời xác nhận của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta mọi đàng” chính là đưa con người của chúng ta, trong thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu mà Thiên Chúa yêu dấu dựng nên họ. Hơi thở là sự sống, nhưng hơi thở cũng là tất cả sinh lực mà Thiên Chúa yêu thương trao ban cho con người khi tạo dựng. Vậy mà, tội nguyên tổ đã cắt đứt tất cả tình trạng của ơn ngoại nhiên đó, khiến cho họ trở thành đối nghịch với Thiên Chúa. Đằng sau họ là một sự khép lại, đằng sau họ là một sự nuối tiếc, là một sự ân hận. Đằng trước họ là sự dữ, là bóng đêm. Thiên Chúa đến với họ mà họ sợ hãi lẩn trốn, một sự đau xót vô cùng.

Hôm nay, Thiên Chúa lập lại những gì mà Ngài đã ban. Ngài tuyên bố lớn tiếng “Đây là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta mọi đàng”. Nhân loại chúng ta được nghe lại những lời êm ái, yêu thương, những lời quyền năng có sức sáng tạo để một thế hệ mới được khai sinh từ Đức Giêsu. Với chúng ta, qua bí tích Rửa tội, thì ngay lập tức chúng ta được ban đức tin, đức cậy, đức mến, chúng ta trở thành con cái của Thiên Chúa, ánh sáng được trao ban và trời cũng mở ra bên giếng rửa tội cho những người Kitô hữu. Nếu không qua giếng rửa tội, trời vẫn đóng lại và đằng sau họ vẫn là cả một sự sợ hãi, run rẩy và chạy chốn. Nhưng qua bí tích Rửa tội, trời mở ra, phía trước họ là ánh sáng, là quyền năng của Thiên Chúa dẫn họ đi. Vì vậy, ngày hôm nay cũng là ngày mà người Kitô hữu nhớ lại bí tích Rửa tội của mình trong tạ ơn, trong hân hoan, trong hy vọng, trong yêu thương. Để rồi từ đây, Thiên Chúa muốn cho con người luôn luôn được bước đi trong tinh thần nghĩa tử mà thánh Phaolô nói “Abba! Lạy Cha” (Rm 8,15). Nếu Chúa Cha nói về Đức Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta mọi đàng” thì kể từ nay, qua bí tích Rửa tội chúng ta cũng được đầy lòng hân hoan, đầy lòng biết ơn, đầy lòng yêu mến để thốt lên rằng: “Lạy Cha chúng con ở trên trời. Chúng con nguyện danh Cha cả sáng”

Với một sự tương quan hữu cơ và đầy ơn phúc giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa Cha thì dòng sông Jordan không chỉ khởi đầu sứ vụ cho Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng mà còn là mở ra một kỷ nguyên cứu độ đem ánh sáng vào bóng tối, đem sự sống vào cõi chết và đem lại cho chúng ta ơn làm nghĩa tử. Người Kitô hữu hôm nay không thể nhắm mắt, không thể làm ngơ, không thể thờ ơ khi mà chúng ta đã nhìn thấy rõ một chiều kích lịch sử cứu độ mở ra trước mắt chúng ta như vậy. Cho nên chúng ta hãy cầu nguyện để sống xứng đáng đời sống người Kitô hữu. Victo Huygo đã nói: “Để được hoàn toàn hạnh phúc thì chỉ có hạnh phúc không thôi vẫn chưa đủ, còn cần phải xứng đáng với hạnh phúc ấy nữa”. Chúng ta đã hạnh phúc được làm con Chúa, một hạnh phúc đời đời đã được trao cho chúng ta nhưng mà chừng ấy chưa đủ bởi vì nhiều người sống không xứng đáng với ân huệ đó, cuối cùng nhiều người đánh mất ân huệ làm con Thiên Chúa. Cho nên chúng ta còn phải sống xứng đáng với ân huệ làm con Thiên Chúa. Vậy sống xứng đáng là gì?

Công đồng Vatiacano II nói: “Như linh hồn ở trong thân xác như thế nào thì người Kitô hữu ở trong trần gian cũng phải như thế”. Nghĩa là họ phải là sự sống đích thực của Thiên Chúa, họ phải giãi tỏa ánh sáng như lời Chúa dạy: “ để mọi người nhìn thấy sự sáng của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).

Lạy Chúa Giêsu Kitô
Ngày hôm nay đánh dấu cho chúng con
một cuộc đời mới,
một kỷ nguyên mới,
Ngày hôm nay đánh dấu cho chúng con
một ấn dấu linh thánh không thể xóa nhòa
trong linh hồn người Kitô hữu khi được chịu bí tích rửa tội.
Xin cho chúng con được thấy
Trời mở ra trong cuộc đời Kitô hữu của chúng con,
Trời mở ra cho gia đình của chúng con được hạnh phúc,
Trời mở ra cho cộng đoàn của chúng con hiệp nhất và yêu thương,
Trời mở ra cho môi trường xã hội
nơi chúng con sống công bằng và bác ái.
Trời mở ra trong tâm hồn của chúng con
để chúng con lãnh nhận sự bình an của Chúa,
sự bình an không như thế gian ban tặng
sự bình an của niềm hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu
vượt xa sự sống ở đời này
để chúng con trở thành con cái của Chúa
và Nước Trời hiện hữu ngay trong cuộc sống của chúng con
từ đời này và cho đến đời đời. Amen.

 
Lâu Đài Như Ý
Lm Vũđình Tường
16:00 10/01/2010
Nhóm kĩ sư nào kiến thiết lâu đài Như ý phải là những bộ óc thần sầu quỉ khốc. Lâu đài được xây cất lưng đồi, gần thành phố, rất tiện lợi cho việc di chuyển bằng xe tư cũng như công. Một mặt lâu đài quay ra biển, mặt khác hướng về thành phố ẩn sau cánh rừng bạt ngàn xanh mát con mắt.

Các phòng ngoài của lâu đài đều có có quang cảnh nếu không là biển, thì cũng là rừng hoặc ít ra là quang cảnh thành phố. Các phòng phía trong trang trí lộng lẫy như cung điện, đủ mầu sắc, hớp hồn người ta. Vào tới nơi này du khách hồn lâng lâng như đang ở giữa chốn thiên thai, thư thái, nhàn hạ, sang trọng dành cho lớp quí phái, trưởng giả. Cái cảm giác ngộ nghĩnh này làm nhiều người ghiền đến lâu đài và không muốn trở về cuộc sống thực tế. Đời sống trong lâu đài là đời sống giả tưởng, sống trên mây, trên gió. Dẫu thế du khách vẫn có cảm tưởng mình đang sống thật và tự nguyện sống trong ảo tưởng đó.

Ba giai đoạn

Lâu đài có ba khu ABC. Ngoài khu C không có kiến trúc dù là sơ sài, còn khu A và B phòng ốc nhiều vô kể. Mỗi khu có cách sống khác nhau, điều kiện sinh hoạt khác nhau. Các phòng ngoài ra vào tự do ngày đêm. Phòng phía trong lối đi đều một chiều. Đã bước chân vào không thể tự tiện trở ra mà phải quanh hết vòng mới có lối ra. Mục đích là cầm chân khách vãng lai. Bởi vì càng đi vào sâu càng có nhiều cái muốn xem, cảnh muốn nhìn, tai muốn nghe, điều muốn biết. Đứng nhìn xem đã mê mẩn đến sững sờ. Sờ tay đụng chạm đến thì khó mà tránh khỏi cơn cám dỗ thử tài vận. Vì thế móc tiền cất dấu ra thử chút xem sao. Ngồi xuống ghế là coi như con cá đã mắc câu. Mục đích của việc kiến trúc mong thế. Càng vào trong càng có nhiều hấp dẫn, hớp hồn khách vãng lai. Chính những thú vui, cảnh thơ mộng, vừa mời gọi vừa khơi dậy lòng muốn, lòng tham lợi nhuận của con người, dẫn người ta vào lạc thú. Những nốt nhạc êm ái vừa ru ngủ vừa làm cho người ta say đắm khung cảnh mà không muốn dứt khoát ra đi. Ngay cả những tâm hồn quyết đoán, dứt khoát ra về rồi lòng vẫn vấn vương, vẫn ghi đậm những giây phút hấp hồn. Một ngày nào đó cuộc đời không đẹp như mơ, họ lại tìm đến khung cảnh lôi cuốn, hấp dẫn, hứa hẹn may mắn kia.

Giai đoạn một

Khách vãng du không phải mua vé và có thể ủng hộ nếu muốn, tùy lòng hảo tâm. Tuy nhiên người đến thường xuyên hơn phải mua vé. Càng đi sâu vào trong giá vé càng mắc.

Lâu đài thu hút rất nhiều giới trẻ và những ai có tính hiếu kì. Khu A là nơi giải trí đơn giản nhất. Phòng ốc đều treo ảnh thanh thiếu niên nổi tiếng đẹp trên thế giới. Những bức ảnh này vừa quảng cáo người, vừa quảng cáo thời trang kiểu mới nhất, vừa âm thầm mời gọi các trò chơi tiêu khiển. Vì thế thu hút giới trẻ, giới thích ăn diện và giới chuộng sắc đẹp.

Nơi khác lại trưng hình vẽ của các hoạ sĩ tài danh. Những bức hoạ nổi tiếng thế giới. Phòng cạnh bên lại trưng tranh mới, tranh tân thời của các hoạ sĩ có tiếng. Bên cạnh đó là kỉ vật điêu khắc từ ngàn xưa lưu lại. Nơi Đây thấy có nhiều giới trung lưu và thượng lưu. Những người trưng tranh và kỉ vật rất khéo cám dỗ du khách. Theo lối này thì càng vào trong tranh càng đẹp. Du khách mê mẩn nhìn ngắm đến khi có người lên tiếng chào thì đã muộn. Chân bước vào khu B tự bao giờ. Ra về thì tiếc nên ít ai về. Đại đa số vào tới khu B thường vui vẻ móc tiền ra mua vé để thưởng thức. Vào tới khu B du khách không còn biết đến thời gian. Quanh quẩn trong khu B ngày đêm đều giống nhau. Cứ thấy thiên hạ tranh nhau kẻ chen, người lấn bước tới, bước lui cũng cảm thấy vẻ gần gũi, sức sống của mọi người. Dù không ai nói với ai, người nào cũng thinh lặng, trầm tư nhìn ngắm. Thỉnh thoảng có tiếng nhạc reo vang thu hồn du khách. Mọi con mắt đều đổ dồn vào đó nhìn những con số chạy vội vã. Không bao lâu sau, tiếng tiền kẽm rơi leng keng trên hộp thiếc tạo nên một âm thanh thèm muốn, thầm ước mong phải chi mình được những thứ đó. Những chiếc máy chớp nhanh, đảo lẹ như mời gọi. Số tốt đang đến còn chần chờ chi nữa. Chiếc ghế trống đây, ngồi xuống để nhận số hên, giờ tốt. Chủ nhân của lâu đài Như ý có dụng ý đó và chỉ mong được như vậy là toại nguyện. Khu A được thiết kế để hớp hồn du khách. Khu B có mục đích làm cho du khách trở nên nghiện ngập, không đành dứt bỏ những gì đang thưởng thức và khu C là nơi ràng buộc du khách. Mục đích chia rẽ gia đình du khách.

Giai đoạn hai

Nơi đây miễn phí không phải mua vé. Bước chân vào khu B là dấu hiệu cho biết cá đã cắn câu vì thế có bán vé vào cửa. Đi sâu hơn nữa vào tới phần trong cùng của khu B là nơi dành cho kẻ nghiện ngập. Nơi đây bao gồm mọi xa đoạ xã hội, từ ghiền thuốc đến nghiện rượu, từ con nợ của xì ke ma tuý đến con nuôi của máy đánh bài. Nơi đây người ta không muốn phân biệt đúng sai, phải trái. Mọi sự đều thua giá trị đồng tiền để thoả mãn cơn ghiền. Nơi đây tiếng nói lương tâm bị cơn ghiền lấn át, làm ngơ. Khu C không có kiến trúc hẳn hòi, không có phòng ốc. Người vào đến khu C coi như đời tàn, ít ai trở lại được con đường ngay chính.

Đầu đường, xó chợ

Cuối cùng của khu B dẫn tới khu C. Đó chính là cửa ngõ dẫn ra đầu đường xó chợ. Đó là lối dẫn người ta đến chỗ vô gia cư, thành kẻ sống đầu đường, xó chợ, nơi mà tối đến không ai lai vãng, dành riêng cho kẻ bụi đời. Nói rõ ra ai vào đến khu C đều là kẻ sống bụi đời, chịu luật hè phố chi phối cuộc đời. Khu C là nơi dành riêng cho những kẻ ghiền nặng, cơ hội trở ra làm lại cuộc sống bình thường rất hiếm hoi, thường thì kẻ ghiền chết vì cơn ghiền, chết trong cơn ghiền, bệ rạc, khốn khổ, nhân cách bị chà đạp, tình người bị chia cắt, gia đình gánh mọi gánh nặng, mọi cơ cực, mọi đau khổ. Các trường hợp goá bụa, côi cút phát xuất từ khu C. Con mất cha, gia đình tan nát, vợ rủa chồng, chồng bỏ vợ, cha mẹ ôm xác con khóc ngất, đau khổ. Cùng lúc cảm thấy mất mát, đau thương, phiền muộn và cũng lúc đó một gánh nặng trong đời được cất đi, chôn kín vào quá khứ.

Như ý

Như ý làm cho ta toại nguyện. Toại nguyện không phải luôn luôn tốt, luôn mang lại hạnh phúc vì trong toại nguyện có chứa mầm bất hạnh, hạt giống của khổ đau. Biết bao lần ta được như ý nhưng ta vẫn không hài lòng với những gì đang có vì như ý không bao giờ thoả mãn lòng ta. Ai cũng hiểu chiều con, con sẽ hư. Như vậy chiều ý ta sớm muộn gì ta cũng hư vì chiều ý mình không khác chi chiều ý đứa nhỏ nằm trong người lớn. Trong người lớn nào cũng ẩn nấp đứa nhỏ và đứa nhỏ đó luôn đòi, luôn ước ao được nuông chiều. Chiều mãi sẽ hư. Hư hỏng đến từ từ, từng bước, từng bước nên nhiều khi ta không nhận thấy mình hư. Người ngoài nhận thấy mình hư nhưng ta không nhận biết mình hư nên tiếp tục nuông chiều đứa nhỏ chuyên đòi hỏi. Như ý không bao giờ toại nguyện, được như ý này sẽ đòi cho được như ý tiếp và cứ tiếp tục như vậy, đòi hỏi liên tục. Một lúc nào đó không thể toại nguyện điều đòi hỏi sẽ trở nên bực dọc vì không được như ý. Đòi như ý không có giới hạn. Đòi liên tục và không mệt mỏi. Thực ra mỗi lần được như ý lúc đó cảm thấy được an ủi, thoả lòng và chuẩn bị cho bước đòi kế tiếp.

Ít ai ngờ mình lại tự trói mình. Chúng ta luôn nói về tự do, mong mỏi có tự do, thích tự do, tranh đấu cho tự do, đòi quyền tự do, dân chủ. Ít ai ngờ chính chúng ta tự trói mình, làm mình mất tự do.

Chối bỏ Thiên Chúa là chính mình chối bỏ tự do. Con người có nhiều mâu thuẫn. Một đàng đi đòi hỏi, tranh đấu cho có tự do. Một khi có tự do con người lại bán rẻ, coi thường và cuối cùng chối bỏ tự do.

Tự huỷ

Khi nào ta coi thường, chối bỏ tự do.

Thưa khi ta phạm tội. Ta không những chối bỏ tự do và còn tự bỏ tù mình. Tự giam hãm mình trong lâu đài tội lỗi. Tội càng lớn lâu đài tội lỗi càng to và càng khó tìm đường ra. Lâu đài thường lắt léo, nhiều ngõ ngách, lắm phòng ốc. Nếu không thành tâm tuân theo chỉ dẫn, tìm đường ra không phải dễ. Tuân giữ chỉ dẫn một cách hời hợt chắc chắn sẽ lạc hết phòng này sang phòng khác. Vì thế kẻ phạm tội trọng thường lạc trong lâu đài tội lỗi lâu và rất khó dứt bỏ được tội.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:32 10/01/2010
KHÔNG TRÔNG MONG

N2T


Phi cơ bay trong không trung, phi công nói với hành khách:

- “Thánh thật xin lỗi, tôi cần phải thông báo cho quý vị, tình trạng của chúng ta bây giờ thật nguy cấp, chỉ có ông trời mới cứu được chúng ta.”

Một hành khách xoay lưng qua hỏi mục sư ngồi bên cạnh là vừa rồi phi công nói gì, mục sư trả lời:

- “Ông ta nói chúng ta đều không trông mong.”

(Lắng nghe của loài ếch)

Suy tư:

Viên phi công khẳng định là chỉ có ông trời mới cứu được họ trong cơn nguy cấp, thế thì tại sao lại nói “không trông mong” chứ ?

Tất cả những người Ki-tô hữu đều tin vào một Thiên Chúa toàn năng, nhân từ và yêu thương, nhưng có những người Ki-tô hữu lại “không trông mong” vào Chúa, họ luôn làm theo ý mình và tin tưởng ở mình hơn là tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng mà họ thường tuyên xưng.

Thời nay, trên thế giới người ta thường có quan niệm là mọi việc đều có thể giải quyết cách thương lượng, ôn hòa và bình đẳng. Có nghĩa là trong thương lượng người ta đều có thể trông mong một niềm hy vọng tốt đẹp cho cả hai bên, và đó cũng là điều mà Thiên Chúa mong muốn nơi con cái của Ngài, và sự trông mong đó chính là tin tưởng vào điều kỳ diệu mà Thiên Chúa mong muốn nơi thiện chí của con người.

Với con người thì không thể, những với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể.

Hãy trông mong vào Thiên Chúa chứ không tin tưởng vào cái tài vặt của mình.

--------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:33 10/01/2010
N2T


24. Ôn hòa lương thiện là tình cảnh của tâm hồn kiên định; nó đối với bất cứ tình cảnh nào, không phân biệt giàu nghèo cũng đều lấy lòng dạ hiền hòa chấp nhận, không chút khó chịu.

(Thánh John Climacus)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:34 10/01/2010
N2T


340. Đọc sách là thuốc hay trị liệu cao độ cơ giới hóa, tiêu chuẩn hóa thời đại cố hữu và giản dị hóa của chúng ta.

 
Sức khỏe là vàng
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:44 10/01/2010
SỨC KHỎE LÀ VÀNG

Một trung tâm: Tất cả lấy sức khỏe làm trung tâm.

Hai điểm căn bản:

1. Gặp việc thì thoải mái chút xíu.

2. Nhìn thế giới hồ đồ chút xíu.

Ba việc nên quên:

1. Quên tuổi tác.

2. Quên quá khứ.

3. Quên ân oán.

Bốn điều nên có, bất luận bạn có yếu đuối hay mạnh khỏe, thì nhất định phải:

1. Có người thật yêu bạn cách chân chính.

2. Có bạn bè tri kỷ.

3. Có sự nghiệp hướng thượng.

4. Có nơi ở ấm áp.

Năm cái nên:

1. Nên hát ca.

2. Nên nhảy múa.

3. Nên hoạt bát.

4. Nên mĩm cười.

5. Nên thon thả.

Sáu điều không nên:

1. Không nên để đói mới ăn.

2. Không nên để khát mới uống.

3. Không nên để buồn ngủ mới ngủ.

4. Không nên để mệt mới nghỉ ngơi.

5. Không nên để bệnh mới đi khám.

6. Không nên để già mới hối hận.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Dịch từ tiếng Hoa
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nhóm 20 linh mục Uganda lập giáo phái ''Giáo hội Tông truyền Quốc gia''
Peter Nguyễn Minh Trung
13:12 10/01/2010
KAMPALA, UGANGA, 08-01-2010 (ZENIT) -- Khoảng 20 người tự xưng là linh mục ở Uganda đã lôi kéo theo trên 10.000 giáo dân gia nhập vào Giáo hội Tông truyền Quốc gia. Nhóm này thách thức luật độc thân của Giáo hội Công giáo và có liên hệ chặt chẽ với Giáo hội Tông truyền Brazil, một giáo phái do cố Giám mục Carlos Duarte Costa thành lập năm 1954. Vị Giám mục này đã bị Tòa Thánh ra vạ tuyệt thông. Giáo phái này công nhận việc ly dị và cho phép linh mục lập gia đình.

Đức Hồng Y Emmanuel Wamala mô tả cái gọi là Giáo hội Tông truyền Quốc gia chỉ là một nhóm "các tiên tri giả", thông tấn xã AP dẫn lời ngài tuần trước.

Leonard Lubega, người lãnh đạo giáo phái, tự gọi mình là linh mục dù kẻ này thậm chí chưa từng được truyền chức linh mục. Một nhân vật lãnh đạo khác của giáo phái này từng là một linh mục Chính thống giáo, chứ không phải linh mục Công giáo.

Nhắc lại lịch sử của Giáo hội từ hai ngàn năm qua, Ðức Hồng y Wamala nói rằng Giáo hội Công giáo vẫn luôn đứng vững trước thách đố của các giáo phái. Trích lời Thánh Phaolô, Ðức Hồng y nói rằng các tiên tri giả có nổi lên, nhưng thế giới sẽ không nghe theo họ.

Đức Hồng y Wamala nói thêm rằng ngài không biết bất kỳ ai trong số các kẻ tự gọi mình là linh mục của nhóm đó. Ngài trấn an người Công giáo rằng: "Tại đất nước này đã có nhiều giáo phái như thế nổi lên rồi biến mất. Tôi khuyên người Công giáo Uganda đừng nghe và đi theo họ, vì họ chỉ muốn chia rẽ Giáo Hội."

Đây là một chi nhánh của cái gọi là Giáo hội Tông truyền Quốc gia Zambia, được cựu linh mục Công giáo Zambia Luciano Anzanga Mbewe thành lập.

Mbewe, người này đã bị vạ tuyệt thông, dự định sẽ thăm "chi nhánh mới" của mình tại Uganda trong cuộc ra mắt chính thức. Ông ta còn dự tính sẽ truyền chức linh mục cho một số người.
 
Hàng ngàn người Trung Quốc bất chấp tuyết và lệnh cấm đến tham dự lễ tang ĐC Yao của Giáo hội Hầm trú
Peter Nguyễn Minh Trung
13:13 10/01/2010
XIWANZI, TRUNG QUỐC 06-01-2010 (AsiaNews) -- Khoảng 4000 tín hữu đã bất chấp tuyết rơi nặng và cái lạnh âm 30 độ để đến tham dự lễ tang Đức cha Leo Yao Liang, Giám mục phó của Xiwanzi, mất hôm 30-12-2009 thọ 86 tuổi. Đức cha Yao đã trải qua 30 năm trong nhà tù cộng sản vì không gia nhập Hội Công giáo Yêu nước, một tổ chức không vâng phục quyền Đức Giáo Hoàng và đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền Trung Quốc. Từ năm 2006 đến 2009, Đức cha Yao lại bị bắt cùng "tội danh" đó dù ngài đã tuổi cao sức yếu.

Năm 1958, ngài bị kết án tù chung thân vì từ chối gia nhập Hội Công giáo Yêu nước và chỉ được trả tự do năm 1984. Khi Tòa Thánh bổ nhiệm, ngài được tấn phong Giám mục một cách bí mật năm 2002 và sau đó bị bắt giữ nhiều lần.

Tang lễ của ngài được tổ chức tại Xiwanzi thuộc hạt Chongli, tỉnh Hà Bắc. Suốt lễ tang, vị chủ tế gọi ngài là "Mục tử Yao" vì chính quyền không cho phép dùng từ "Giám mục Yao". Nhà cầm quyền còn ra lệnh cấm người Công giáo nơi khác đến dự lễ tang dù hôm ấy đường xá phủ đầy tuyết.

Trong số 15 linh mục của giáo phận, chỉ có 3 vị đăng ký với nhà nước được phép cử hành thánh lễ và các nghi thức an táng cho Đức cha Yao. Sự ra đi của Đức cha Yao khiến Giáo hội địa phương rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan vì Đức cha Andrew Hao Jinli (Giám mục chánh tòa Xiwanzi) nay đã 93 tuổi, phải ngồi xe lăn, bị bệnh mất trí, tiểu đường và một số bệnh khác.

Một phụ nữ tham dự lễ tang của Đức cha Yao đã vừa khóc vừa nói với AsiaNews rằng: "Giáo dân chúng tôi rất yêu mến Đức cha Yao vì sự tận tụy của ngài với Chúa và Giáo hội. Ngài thường nói với chúng tôi việc bị giam cầm hàng chục năm trong nhà tù hay bị lao động khổ sai không phải là sự mất mát lớn nhất của ngài, nhưng chính nỗi đau không thể thi thành thừa tác vụ để dẫn dắt đoàn chiên mới do bị chế độ cộng sản bóp nghẹt mới là niềm xót xa tột độ. Đức cha Yao thực sự là một nhân cách vĩ đại. Tất cả chúng tôi muốn bước theo bước chân của ngài và tiếp tục sự nghiệp ngài đang dang dở, đặc biệt là việc xây cất lại thánh đường". Vài tháng trước khi mất, Đức cha Yao đã đặt viên đá đầu tiên cho một nhà thờ mới theo kiến trúc Gôthíc ở Xiwanzi sau khi nhà thờ cũ bị phá. Nhà thờ mới hiện vẫn chưa xây xong và Đức cha rất trăn trở việc xây dựng ngôi thánh đường.

Theo thông tấn xã UCAN, do quan hệ không tốt đẹp giữa cộng đồng Giáo hội Hầm trú và cộng đồng được nhà nước công nhận, Tòa Thánh Vatican chắc chắn sẽ không bổ nhiệm Giám mục phó trẻ tuổi lên kế nhiệm Đức cha Yao. Vấn đề kế vị Giám mục đã khiến cho Đức cha Yao lo lắng trước khi ngài qua đời, theo các nguồn tin.

Đức cha Yao đổ bệnh nặng vào giữa tháng 12 và qua đời vì bị liệt nhiều cơ quan nội tạng hai tuần sau đó. Chính quyền cấm ngài rời khỏi Giáo xứ Xiwanzi khi ngài được trả tự do sau 30 tháng bị giam cầm hồi tháng 02-2008.

Đức cha Yao sinh năm 1923 và chịu chức linh mục năm 1948. Ba năm sau, dưới chế độ cộng sản vị giám chức bị cấm làm công tác mục vụ, ngài phải trồng rau và đốn củi để kiếm sống.

Đạo Công giáo được truyền bá ở Xiwanzi cách đây hơn 300 năm. Vào thế kỷ 19, làng này trở thành trụ sở chính của Giáo phận Tông tòa Mông Cổ và là căn cứ hoạt động truyền giáo của Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ trong khu vực rộng lớn qua đến bên kia Vạn Lý Trường Thành. Giáo hội được nhà nước công nhận đã sát nhập hai Giáo phận Xiwanzi và Xuanhua thành giáo phận Trương Gia Khẩu năm 1980. Tuy nhiên, hai cộng đồng Giáo Hội thầm lặng này vẫn tiếp tục hoạt động mặc dù bị áp lực và giám sát từ phía nhà nước.
 
Tòa Thánh bổ nhiệm vị Đại Diện Tông Tòa cho Savannakhet (Lào)
Peter Nguyễn Minh Trung
14:34 10/01/2010
VATICAN 09-01-2010 (FIDES) -- Đức Thánh Cha Benedict XVI hôm 09-01-2010 đã bổ nhiệm Linh mục Jean Marie Vianney Prida Inthirath, cha xứ kiêm Giám đốc Đại Chủng Viện Savannakhet, làm Giám mục Đại Diện Tông Tòa Savannakhet với hiệu tòa Lemfocta.

Tưởng cũng nên nhắc lại, Đại Diện Tông Tòa là vị đại diện tại một Hiệu Tòa, được tấn phong Giám mục và được Tòa Thánh bổ nhiệm cai quản ở nơi chưa thiết lập cơ cấu Đấng bản quyền. Các vị Đại diện Tông Toà có các quyền hành như các vị Giám mục và thông thường được trao thêm các đặc quyền đặc biệt, do hoàn cảnh bất thường ở nơi các vị ấy thực hành sứ vụ.

Cha Jean Marie Prida Inthirath, sinh ngày 19-02-1957 tại làng Muang Phine, tỉnh Khammouan, thuộc Hạt đại diện Savannakhet, Lào. Ngài học triết học và thần học tại Thakhek và được thụ phong linh mục ngày 20-04-1986. Sau đó ngài từng đảm nhận các chức vụ sau: Từ 1986-2004: chăm sóc mục vụ cho các làng ở những cộng đồng vùng Phon Pheng, Natakét, Na Nockèo, Donndône, Ponkiou, Dongmakba, Khôksang; Từ 2004-2009: Giám đốc Đại Chủng Viện Thakhek và Chánh xứ Khôksang và Keng Kasi.

Hạt Đại Diện Tông Tòa Savannakhet được thiết lập năm 1963 bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Hạt này trải rộng một vùng 48.100 km2 và có dân số 3.680.000 người, trong đó có 15.000 người Công giáo tại 54 giáo xứ, có 10 linh mục, 5 chủng sinh và 55 nữ tu.

Được biết, mới đây, vào cuối năm 2009 vừa qua, tổ chức Pew Forum on Religion & Public Life (gọi tắt là Diễn đàn Pew) công bố Biểu đồ về tình trạng vi phạm tự do tôn giáo trên thế giới. Trong phúc trình đó, Bắc Triều Tiên chiếm hạng đầu danh sách đen này. Sau Bắc Triều Tiên, Iran chiếm hạng nhì, kế đến là Ả rập Xê út, Somalia, v.v...

Lào bị xếp ở hàng thứ 9, Trung Quốc thứ 13, Việt Nam thứ 21 qua mặt cả Miến Điện thứ 23 (năm 2008 Việt Nam xếp thứ 23). Xem xét bảng xếp hạng này, có thể rút ra tạm thời hai kết luận: Đại đa số các quốc gia truy bức nhiều nhất cộng đồng Thiên Chúa Giáo là các thể chế Hồi giáo. Kết luận thứ nhì là các chế độ cộng sản Á Châu gồm Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Lào và Việt Nam, cùng chia sẻ đặc điểm: không bao dung với Thiên Chúa Giáo.

Vì bách hại tôn giáo tại Lào diễn ra mạnh mẽ dưới chế độ cộng sản nên Giáo hội địa phương tại đây gặp rất nhiều khó khăn thử thách, đôi khi còn lớn hơn tại Việt Nam.
 
Điều hợp viên Đại hội Giới trẻ Thế giới 2008 tại Sydney được bổ nhiệm làm Giám mục Parramatta
Peter Nguyễn Minh Trung
14:35 10/01/2010
SYDNEY, AUSTRALIA, 08-01-2010 (CNA) -- Hôm thứ sáu vừa qua, Đức cha Anthony Colin Fisher thuộc Dòng Đaminh đã được Đức Giáo Hoàng Benedict XVI bổ nhiệm làm Giám mục chánh tòa Parramatta. Đức Giám Mục Fisher, 49 tuổi, là Giám mục hiệu tòa Buruni và hiện là Giám mục phụ tá Tổng Giáo Phận Sydney suốt 6 năm qua. Ngài cũng là điều hợp viên của Ngày Quốc tế Giới trẻ 2008 và được hàng giáo phẩm ghi nhận về những đóng góp lớn lao của mình góp phần tổ chức thành công đại hội.

Ngay khi nhận được tin của Tòa Thánh, Đức cha Fisher xúc động nói: "Thật là một đặc ân lớn lao khi tôi được tín nhiệm nhận lãnh vai trò lãnh đạo và phục vụ tại Giáo phận vô cùng trẻ trung năng động như Parramatta. Miền Tây nước Úc là một trong những vùng phát triển nhanh nhất lục địa này, với dân số có tuổi trung bình chỉ 32. Có nhiều gia đình trẻ và rất đông các cộng đồng chưa tin vào tín ngưỡng nào. Tuy là nơi có mật độ dân số đông thứ 5 nước Úc, nhưng Parramatta là một trong những giáo phận non trẻ nhất của quốc gia và có nhiều triển vọng hấp dẫn."

Khi được hỏi về ảnh hưởng của Đại hội Giới trẻ Thế giới 2008 tác động lên cá nhân mình, Đức cha Fisher nói: "Ngày Giới trẻ Thế giới đã mang lại cho tôi giá trị nhận thức về tầm quan trọng sứ mệnh của người trẻ và đóng góp lớn lao mà họ có thể kiến tạo cho Giáo hội hôm nay. Tôi sẽ mang kinh nghiệm và năng lực đó của mình khi thi hành sứ vụ tại nhiệm sở mới."

Đức cha Anthony Fisher sinh ngày 10-03-1960 tại vùng Tây Nam của Sydney. Ngài được học tại các trường ở địa phương rồi sau đó theo học tại Đại học Sydney chuyên ngành Lịch sử và Luật. Ngài từng thực tập tại một công ty luật trong thành phố và tham gia vào phong trào bảo vệ sự sống khi còn là sinh viên.

Năm 1985, Anthony Colin Fisher gia nhập Dòng Đaminh và bắt đầu chương trình thần học ở Melbourne. Ngài thụ phong linh mục ngày 14-09-1991 và sau đó lấy bằng tiến sĩ luân lý học tại Đại học danh tiếng Oxford năm 1995. Ngài từng thuyết giảng tại rất nhiều quốc gia và các bài giảng này được phổ biến rộng rãi. Đức cha Fisher từng phục vụ dưới cương vị Chủ tịch Viện Gioan Phaolô II về Hôn nhân và Gia đình ở Melbourne khi còn là Giáo sư.

Ngày 16-07-2003, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ngài làm Giám mục phụ tá Sydney với hiệu tòa Buruni. Lễ tấn phong Giám mục diễn ra ít lâu sau đó vào ngày 03-09-2003.

Đức cha Fisher nói: "Tôi say mê giảng thuyết, dạy học và các hoạt động tổ chức. Tôi rất vui khi được đóng góp cách đặc biệt cho Giáo hội Công giáo trong vai trò là người đứng đầu Giáo phận Parramatta sắp tới."

Lễ nhậm chức của Đức cha Fisher sẽ diễn ra tại Vương Cung Thánh Đường St. Patrick ở Parramatta vào ngày 04-03-2010.
 
Đức Giáo Hoàng cảm ơn Lực lượng Cảnh sát Vatican
Peter Nguyễn Minh Trung
15:30 10/01/2010
VATICAN, 08-01-2010 (ZENIT) -- Đức Thánh Cha Benedict XVI đã cảm ơn các thành viên của biệt đội an ninh cộng đồng thuộc lực lượng cảnh sát Vatican về những công việc của họ, mà theo ngài mô tả là "đóng góp phần quan trọng đặc biệt cho việc thực thi sứ vụ của vị Giám mục thành Rôma."

Đức Giáo Hoàng khẳng định những nỗ lực của lực lượng an ninh đã mang lại bầu khí yên bình và thanh thản cho những ai đến với Vatican, kinh đô của Giáo hội, để tận hưởng trọn vẹn về trải nghiệm tôn giáo thần thánh đích thực.

Đội An ninh Cộng đồng tại Vatican gồm khoảng 150 sĩ quan cảnh sát, thiết lập từ năm 1929, và được thành hình từ Lực lượng Cảnh sát Nhà nước Italia, một cơ quan cảnh binh dân sự quốc gia.

Đức Benedict XVI gọi công việc của lực lượng an ninh Vatican là một "dịch vụ có giá trị", và ngài hy vọng các sĩ quan cảnh sát "sẽ được Thiên Chúa trả công bội hậu vì những hy sinh thầm lặng."

Đức Giáo Hoàng nói: "Điều đòi hỏi ở mỗi anh chị em thuộc lực lượng an ninh đây là sự cam kết tận tụy và trách nhiệm vĩ đại trong việc thi hành trọn vẹn nhiệm vụ được ủy thác."

Đức Thánh Cha nói công việc của lực lượng an ninh vạch ra một con đường đặc biệt để phụng sự Chúa, và chuẩn bị lối đi cho Ngài, vì thế mỗi trải nghiệm của khách hành hương hay du lịch đến Kinh đô Giáo hội đều biểu trưng cho một dịp đặc biệt để gặp gỡ Thiên Chúa - Đấng biến đổi cuộc đời con người.

Ngài tuyên dương đức tin và tình yêu cao cả mà các sĩ quan lực lượng an ninh Vatican dành cho Giáo hội. Đức Thánh Cha còn khẳng định rằng công việc của họ sẽ làm họ "thêm kiên trung và vững mạnh trong đức tin."

Đức Thánh Cha Benedict XVI thôi thúc các sĩ quan lực lượng an ninh rằng: "Các con đừng sợ hay xấu hổ vì phải biểu lộ đức tin của mình nơi gia đình các con, nơi công sở hay bất cứ nơi đâu các con hiện diện."

Hôm thứ năm qua, Đức Giáo Hoàng đã chào mừng các thành viên của lực lượng an ninh Vatican tại điện Tông Tòa Clementine.

Lực lượng an ninh Vatican cũng thuộc lực lượng an ninh Italia. Quốc gia Italia có 8 lực lượng an ninh riêng biệt, 5 trong số đó phục vụ tại lãnh thổ Italia.

An ninh ở Vatican được duy trì nhờ: Lực lượng Hiến binh Thành quốc Vatican, Lực lượng an ninh Italia và Đội Vệ Binh Thụy Sỹ.
 
Cựu tổng thống George W. Bush được nhận giải thưởng ĐHY O'Connor vì những nỗ lực phò sự sống
Peter Nguyễn Minh Trung
16:04 10/01/2010
WASHINGTON D.C., 08-01-2010 (CNA) -- Cựu tổng thống Mỹ George Walker Bush (con) sẽ được trao giải thưởng "Đức Hồng Y O'Connor" vì những nỗ lực của ông trong việc phò sinh. Lễ trao giải sẽ được tổ chức tại Hội nghị Legatus thường niên từ ngày 5 đến 6 tháng 02 ở mũi Dana, bang California.

Giải thưởng danh giá Phò Sự Sống Đức Hồng Y John J. O'Connor được trao cho cựu tổng thống Bush như một lời đáp trả cho những nỗ lực phò sinh của ông trong suốt 8 năm làm tổng thống với các đạo luật bênh vực cho quyền sống con người. Hội Legatus nêu những hành động cụ thể của cựu tổng thống Bush trong thời gian nắm chiếc ghế quyền lực nhất tại Nhà Trắng, như việc ban hành luật ngăn cấm nghiên cứu các tế bào phôi thai gốc, sắc lệnh cấm sử dụng tiền quỹ liên bang để trài trợ cho các dự án liên quan đến phá thai ở nước ngoài, sự bổ nhiệm 2 chánh án có lập trường phò sự sống vào Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, và ban hành đạo luật toàn liên bang nhằm bảo vệ các y bác sĩ khỏi phải tham gia vào việc phá thai nếu điều đó trái với niềm tin tôn giáo của họ.

Nhóm Legatus còn nêu lên nỗ lực cuối cùng của ông Bush trên cương vị tổng thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là công bố "Ngày Quốc Gia Coi Trọng Sự Sống Con Người" (National Sanctity of Human Life Day), kèm theo đó là việc Nhà Trắng ban hành một thông cáo nói rằng "nhiệm vụ căn bản nhất của chính phủ là bảo vệ sự sống của những người vô tội", qua đó tổng thống nhìn nhận cuộc sống con người cần phải được tôn trọng ngay từ lúc được thụ thai cho đến lúc chết đi một cách tự nhiên.

Đến dự lễ trao giải và phát biểu cùng với tổng thống Bush còn có các nhà diễn giả khác như Đức Hồng Y Francis George, Đức Tổng Giám Mục Timothy Dolan, nữ diễn viên Patricia Heaton, Frank J. Hanna III, linh mục Robert Spitzer, Newt và Callista Gingrich, Thomas Donahue, chủ tịch Phòng Thương Mại Hoa Kỳ.

Những người từng nhận giải thưởng Phò Sự Sống Đức Hồng Y John J. O'Connor gồm: Cha Frank Pavone thuộc Hội các Linh mục Bảo vệ Sự sống; Cha Thomas Euteneuer thuộc Tổ chức Sự sống Con người Quốc tế; Judie Brown thuộc Liên đoàn Bảo vệ Sự sống Hoa Kỳ; Thượng nghị sĩ Rick Santorum; Thượng nghị sĩ Sam Brownback và Dân biểu Đảng Cộng Hòa Henry John Hyde.
 
Thông điệp Giáng Sinh của Thượng Phụ Nga: Chân lý là giá trị nền tảng của hữu thể
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
16:09 10/01/2010
Đối diện với cuộc khủng hoảng toàn cầu, Đức Thượng Phụ Chính Thống Giáo tại Matxcơva Cyrille và toàn thể dân chúng Nga đã bày tỏ trong bức thông điệp Giáng Sinh được cử hành theo truyền thống Kitô giáo Đông Phương hôm thứ năm ngày 7 tháng Giêng là hãy định hướng theo chân lý thần tính, giá trị nền tảng của mọi hữu thể.

Trong đêm thứ tư và rạng sáng thứ năm, Đức Thượng Phụ được bầu vào ngày 27 tháng Giêng năm 2009 đã cử hành thánh lễ Giáng Sinh đầu tiên của mình trong ngôi nhà thờ chính tòa Đức Kitô- Đấng Cứu thế tại Matxcơva. Thánh lễ này cũng được truyền hình trực tiếp qua phương tiện truyền hình đại chúng.

Có 6.000 tín hữu tham dự trong đó người ta cũng thấy sự hiện diện của Tổng Thống Nga, Dmitri Medvedev và phu nhân Svetlana.

Theo cuộc thăm dò, cứ 3 người dân Nga thì có 2 người mừng lễ Giáng Sinh. Gần 135.000 tín đồ tham dự cử hành thánh lễ trong các ngôi nhà thờ khác ở Matxcơva. Thánh lễ Giáng Sinh cũng được cử hành tại 30 ngàn đền thờ khác của Giáo Hội Chính Thống trong toàn nước Nga và trong một số nước trên thế giới.

Thủ Tướng Nga đồng thời là cựu Tổng Thống, Vladimir Poutine đã tận dụng dịp lễ này để thông báo sự bồi hoàn cho Giáo Hội Chính Thống Nga liên quan đến một tu viện lừng danh Novodevichiy mà trong khuôn viên ấy có một nghĩa trang là nơi an nghỉ của những nhân vật người Nga nổi tiếng và ngày nay được nâng lên thành Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia.

Trong bức thông điệp viết cho Giáng Sinh năm nay, Đức Thượng Phụ quy về chân lý thần tính, « vốn mang giá trị nền tảng của hữu thể » với sự lý giải rằng người ta không có thể thực hiện một cách viên mãn cuộc sống của mình nếu nền tảng cuối cùng được thiết lập trên sai lầm và dối trá.

Vì, « nói một cách chính xác phải chăng sự thay thế các giá trị đích thực bằng những giá trị giả tạo giải nghĩa hết sức thoải mái luôn luôn theo chiều hướng gia tăng của cụm từ « nhân tố nhân bản » trong những biến cố bi thảm mà qua đó lại mang đến hàng trăm loại đời sống nhân bản ? », vị thủ lãnh Giáo Hội Chính Thống Nga tự đặt câu hỏi.

Cũng theo đó người ta lý giải cuộc khủng hoảng trên cấp độ toàn cầu làm lung lay nền kinh tế, chính trị, môi trường, cuộc sống gia đình, mối tương quan giữa các thế hệ và tất nhiên một số khía cạnh khác nữa », Đức Thượng Phụ nêu tiếp trong sứ điệp Giáng Sinh được dựa trên cội nguồn Tin Mừng cũng giống như Thông Điệp mới đây Bác Ái trong Chân Lý của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI.

Vào thứ tư, trong dịp đại lễ Hiển Linh, Đức Thánh Cha đã gửi lời chúc Giáng Sinh đến Giáo Hội Chính Thống Giáo. Về phần mình, Đức Thượng Phụ Cyrille cũng đã làm cách tương tự một vài ngày trước đó đối với Giáo Hội Công Giáo Tây Phương, đó là chúc mừng Giáng Sinh và Năm Mới dành cho Đức Giáo Hoàng và các tín hữu công giáo.

«Trong dịp đại lễ Giáng Sinh của Đức Kitô và Năm Mới, xin hãy nhận nơi tôi lời cầu chúc chân thành nhất. Trong bối cảnh của nền văn minh hiện đại, rất nhiều người mất định hướng luân lý và thiêng liêng. Ngôi Sao Bếtlem vẫn chỉ cho những ai tìm kiếm ánh sáng của chân lý thiên tính, con đường dẫn đến Thiên Chúa», ngài nói trong điện mừng được phổ biến trên trang mạng trực thuộc Ban đối ngoại với các Giáo Hội của tòa thượng phụ Matxcơva.

Nguồn: http://zenit.org/article-23140?l=french
 
Ủy ban Hỗn hợp Tòa Thánh và Israel đã có cuộc gặp gỡ ''nồng ấm'' và ''hữu ích''
Peter Nguyễn Minh Trung
16:10 10/01/2010
JERUSALEM, ISRAEL, 09-01-2010 (CNA) -- Phái đoàn của Tòa Thánh và Israel đã có cuộc gặp gỡ tuần này để tiếp tục thương thảo về các vấn đề liên quan đến quyền của Giáo hội Công giáo ở Đất Thánh.

Hôm thứ bảy, hai bên đã cho ra một thông cáo chung mô tả một "bầu khí thân thiện" tại cuộc gặp gỡ giữa ủy ban đối thoại song phương được tổ chức hôm 07-01 ở Jerusalem.

Trọng tâm của cuộc gặp gỡ tiếp tục bàn sâu về hiệp ước căn bản được ký bởi Vatican và Israel năm 1993 trong đó nêu rõ việc Israel cần chuẩn y sự công nhận đầy đủ mọi hiệu lực dân sự, trong phạm vi luật pháp Israel với các pháp nhân do Giáo hội Công giáo thiết lập bất cứ ở nơi nào trên lãnh thổ Israel, theo đúng Giáo luật và trong phạm vi luật pháp Israel.

Các cuộc thương thảo còn đi vào thảo luận việc liệt kê và bảo đảm những quyền và những miễn giảm về thuế má Giáo hội được hưởng trong lúc xây dựng quốc gia Israel; bảo đảm rằng Giáo hội luôn có thể nhờ các tòa án Israel bảo vệ tài sản của mình; trao trả lại một số tài sản Giáo hội đã mất qua thời gian, như nhà thờ tại Caesarea bị tịch thu trong những năm 1950 và sau đó bị phá hủy.

Thành công của cuộc gặp gỡ hôm 07-01-2010 là một trả lời rõ ràng cho các phát biểu của một số thành viên trong ủy ban đối thoại hồi tháng 12-2009 rằng đang có sự ngưng trệ giữa ủy ban hỗn hợp Tòa Thánh và Israel.

Trong thông cáo báo chí chính thức hôm thứ bảy, Vatican nói cuộc gặp gỡ trên là "hữu ích"

Cuộc gặp gỡ tiếp theo giữa hai phái đoàn sẽ diễn ra tại trụ sở Bộ Ngoại Giao Israel vào ngày 10-01-2010 trước khi có cuộc tiếp xúc khoáng đại tại Vatican để thảo luận cách đầy đủ hơn vào ngày 27-05 sắp tới.

Ủy ban hỗn hợp song phương này được thiết lập vào tháng 07 năm 1992 với mục đích "nghiên cứu và làm rõ các vấn đề là lợi ích chung" giữa Tòa Thánh và Nhà nước Israel.

Được biết thêm, từ ngày 10 đến 14 tháng 01-2010, một phái đoàn gồm 20 người bao gồm các Giám mục và đại diện của các Hội Đồng Giám Mục cũng như Dòng tu tại Châu Âu và Bắc Mỹ sẽ có chuyến hành hương Thánh Địa và thăm viếng các Kitô hữu tại đây nhằm bày tỏ tình liên đới và hy vọng cho một tương lai tươi sáng miền Đất Thánh.
 
Đức Hồng Y Roger Etchegaray sắp xuất viện sau phẫu thuật
Peter Nguyễn Minh Trung
16:38 10/01/2010
ROME, ITALY, 07-01-2010 (CNA) -- Đức Hồng Y Roger Etchegaray sẽ sớm xuất viện sau khi bị gãy xương đùi vì sự cố Đêm Giáng Sinh. Vị giáo chủ đã bị thương khi té, nguyên do vì các nhân viên an ninh Vatican đã vô tình chạm mạnh vào ngài khi họ cố gắng chạy đến ngăn chặn một người phụ nữ phá rối để khống chế cô ta trước khi người này kịp tiếp cận Đức Giáo Hoàng Benedict XVI. Tuy nhiên, kẻ gây rối đã làm Đức Giáo Hoàng té khi cô ta dù bị khống chế nhưng vẫn kịp kéo vạt áo choàng khiến Giáo hoàng té theo. Vụ việc xảy ra tại Đền Thánh Phêrô vào Lễ Đêm Giáng Sinh 24-12-2009 khi đoàn rước đang tiến lên bàn thờ.

Theo tờ nhật báo La Repubblica, Đức Hồng Y Etchegaray đang dần hồi phục sau ca phẫu thuật và sẽ xuất viện vào 10-01-2010. Ngài đã được các bác sỹ tại bệnh viện quốc tế Gemeli gắn liền các khớp của phần xương chậu phải hôm 27-12-2009, phát ngôn viên Tòa Thánh linh mục Federico Lombardi cho biết như vậy trong thông cáo tại Phòng Báo chí Tòa Thánh ra ngày hôm đó.

Về phần người phụ nữ gây rối 25 tuổi mang quốc tịch Thụy Sỹ - Italia Susanna Maiolo, sau khi bị cảnh sát Vatican thẩm tra, cô vẫn đang được giữ lại chữa trị tại bệnh viện tâm thần Angelluci ở một thành phố nhỏ cách Rome không xa. Đức ông Georg Gänswein, thư ký riêng của Đức Thánh Cha, đã đến thăm Maiolo và cho cô biết cả Đức Thánh Cha lẫn Đức Hồng Y Etchegaray đều tha thứ và cầu nguyện cho cô.

Tòa án Vatican vẫn chưa có phán quyết nào đối với Maiolo, nhưng người ta tin rằng Vatican sẽ không mạnh tay với người này.
 
Tưởng niệm ngày đau buồn Roe V. Wade
Trần Mạnh Trác
19:19 10/01/2010
Thứ Bảy ngày 16 tháng 1 tới đây, dự trù 10.000 người sẽ tham dự thánh lể do ĐGM Kevin Farrell (Dallas) và ĐGM Kevin Vann (Fort Worth) đồng tế, tiếp theo là một cuộc diễn hành Phò Sự Sống, lộ trình đi từ nhà thờ chính toà Cathedral Shrine of the Virgin of Guadalupe và kết thúc tại thềm toà án Earle Cabell Federal Courthouse, để tưởng niệm ngày đau buồn khi Tối Cao Pháp Viện HK đưa ra phán quyết Roe V. Wade (ngày 22 tháng 1), khởi đầu một thảm kịnh mà chỉ riêng tại Hoa Kỳ đã có trên 50 triệu thai nhi bị huỷ diệt.

Số 10.000 người diễn hành là một con số nhỏ so với con số trên vài trăm ngàn thường qui tụ tại Trụ sở Tối Cao Pháp Viện, Washington DC, để phản đối Phán Quyết trong dịp này. Nhưng đây là một con số gia tăng liên tục mỗi năm (gấp 2 con số 5.000 người năm ngoái) và đủ để tạo ra một dòng sông người 10 hàng ngang không đứt đoạn nối Nhà Thờ và Toà Án lại với nhau. Điểm quan trọng nhất là cuộc diễn hành được tổ chức ngay tại nơi khởi đầu cuả vụ án Roe V. Wade (Roe chống với Wade). ĐGM Farrell ngay từ khi nhậm chức đã tuyên bố: ” Nếu Roe V. Wade đã bắt đầu từ đây, thì nó sẽ chấm dứt tại chính nơi này”.

Roe là “bí danh” cuả cô Norma L. McCorvey, người khởi tố, và Wade là tên cuả luật sư quận Dallas, Henry Wade, người biện hộ cho luật cấm phá thai cuả Tiểu Bang Texas.

Sự việc khởi đầu năm 1969 khi cô Norma L. McCorvey đang là nhân viên mời khách cho các trò chơi hội chợ (carnival side-show barker, vai hề gọi khách) bỗng thấy mình lại chửa hoang lần thứ 3. Cô trở về Dallas tìm cách phá thai với lý do hiếp dâm. Hồi đó luật Texas cấm phá thai ngoại trừ hiếp dâm và loạn luân. Nhưng cô thất bại bởi vì không có hồ sơ cảnh sát. Cô Norma sau đó tìm cách phá thai ngầm tại một cơ sở bất hợp pháp, nhưng khi tìm đến đó thì cơ sở này cũng đã bị cảnh sát đóng cửa.

Với sự giúp đỡ cuả hai nữ luật sư trẻ là Linda Coffee và Sarah Weddington, Norma đệ đơn kiện Texas tại “toà án Liên Bang Vùng (U.S. District Court in Texas), trụ sở tại Earle Cabell Federal Courthouse ở Dallas. Lúc này cô lấy bí danh là “Roe” và người bị kiện là vị đại diện cho Tiểu Bang Texas, luật sư Henry Wade (Dallas County District Attorney). Cô Norma đã nhận rằng việc hiếp dâm là gian dối, và do đó hai chữ “hiếp dâm” không còn được ghi trên các văn kiện.

Toà Án Liên Bang cho phép cô Norma được phá thai nhưng lại từ chối không viết pháp lệnh (injunction) bắt Texas phải thi hành việc phá thai. Sự việc được đưa lên Tối Cao Pháp Viện.

Cô Norma đã sinh hạ một bé gái và cho đi làm con nuôi.

3 năm sau, ngày 22 tháng 1 năm 1973 Tối Cao Pháp Viện ra phán quyết với tỳ lệ 7 trên 2 rằng Toà “Roe” (The Roe Court) coi việc phá thai là một quyền căn bản cuả Hiến Pháp, và do đó tất cả các luật giới hạn việc phá thai đều phải bị xét lại một cách kỹ lưỡng.

Cái trớ trêu là Norma McCorvey đã hối hận với việc làm cuả cô, đã từ bỏ lối sống đồng tính và đã trở thành một tín đồ Công Giáo năm 1994. Ngày nay cô hoạt động cho phong trào Phò Sự Sống tìm cách lật đổ phán quyết trện.

Ít có quyết định nào của Toà án Tối Cao mà lại tác động đến cuộc sống cuả người Mỹ nhiều như Roe. Kể từ Roe, phá thai huỷ diệt ít nhất 50 triệu người (bằng với dân số của 25 tiểu bang). Ảnh hưởng nhân số của Roe tiếp tục chi phối các kỳ bầu cử và tạo tranh chấp trên việc phân phối quyền lợi tài chánh cho các vùng.

Một quan niệm sai lầm là quyền phá thai có gốc rễ từ Hiến Pháp. Thực sự thì khi giải thích Phán Quyết, Tối Cao Pháp Viện đã dựa vào câu “mở đầu” cuả Tu Chánh Án số 9 (Bill Of Rights, Luật Nhân Quyền) là “Mặc dù chỉ có một số (hạn hẹp) những quyền được kể ra sau đây, nhưng không nên dùng việc này để giới hạn hay cấm đoán những "quyền khác" mà con người vẫn hằng có”. Và tuy rằng Phá Thai không được liệt kê trong Luật Nhân Quyền nhưng theo Tòa Án thì nó là một “quyền khác” hàm chứa ở Tu Chánh Án số 14 (qui định các Thủ Tục Pháp Lý) là quyền được bảo vệ sự riêng tư. Và như vậy khi luật cuả Texas cấm phá thai tức là đã xâm phạm quyền riêng tư, một nhân quyền về việc có con hoặc không có con, cuả một người đàn bà.

Một phán quyết với cơ sở hàm hồ như vậy, thì theo Thẩm Phám Tối Cao Ruth Bader Ginsburg, là “một can thiệp nặng tay cuả nền tư pháp”.

Với một chính phủ Dân Chủ đang cầm quyền như hiện nay thì khó mà hình dung được Phán Quyết Roe sẽ bị đảo ngược sớm. Nhưng với trào lưu dân chúng chống phá thai đã đạt dược đại đa số trong năm qua, thì viễn ảnh một xã hội Mỹ không có Roe không còn xa vời.

Vậy nếu Roe bị lật ngược thì điều gì sẽ xảy ra? Nhiều người cho rằng một ngày sau khi đảo ngược Roe, các tiểu bang sẽ phục hồi lại chính sách về phá thai cuả mình. Một số tiểu bang sẽ hạn chế phá thai, trong khi những tiểu bang đông dân sẽ thông qua luật cho phá thai tương tự như bây giờ. Vì vậy, cách kết thúc trận chiến phá thai bằng cách đảo ngược Roe sẽ chỉ là khởi đầu của một cuộc chiến mà 35 năm qua là một khúc dạo đầu.

Nhưng trong cuộc chiến mới này, một khác biệt quan trọng là các trường học sẽ không thể dạy con trẻ Mỹ điều gian dối rằng - trong số các quyền hiến pháp như ngôn luận, tôn giáo - cũng còn một quyền là có thể lấy đi sự sống của một thai nhi.
 
Top Stories
Big task for Abu Dhabi bishop
RTÉ World Report
07:51 10/01/2010
ABU DHABI January 10th, 2010 – When Irish people think of a diocese, they likely imagine a county-sized region with townland parishes within.

St Joseph Cathedral ground, Abu Dhabi
Not so for Bishop Paul Hinder. He is the Pope’s representative in the heartland of Islam, in charge of a diocese encompassing six Arab countries – Qatar, the United Arab Emirates, Bahrain, Oman, Yemen and Saudi Arabia.

I caught up with him at St Josephs Cathedral in the oil-wealthy city of Abu Dhabi, part of the Emirates. That same day, neighbouring Dubai launched the world’s tallest building, the 800 meter high Burj Khalifa, with the building effectively paid-for by Abu Dhabi, which is footing Dubai’s bills after spectacular property bust last year.

Bishop Hinder is more concerned about the estimated 2 million Catholics across his vast diocese. The majority are Filipino migrant workers, with an estimated 1 million or more in Saudi Arabia, the birthplace of Islam and site of its holiest places. Here open Christian worship is not permitted, and priests cannot serve.

Workers also come from countries such as Ethiopia and India, and many suffer at the hands of unscrupulous agents and employers. Often they come to the region on the promise of a good job and good conditions, but on arrival their passport is taken by their new employer, or the agent who brought them from home, and they are forced to work long, almost incessant hours, with no recourse to due process.

The women usually work as domestic servants, and stories of beatings and sexual abuse are rife. Some women are trafficked into prostitution, Men often work on the mammoth construction projects, such as the Burj Khalifa, toiling in the hot desert sun for a pittance. Some say their conditions are little more than slavery.

It is a stark contrast to the luxury enjoyed by western expats living tax-free in Dubai or Abu Dhabi.

The Church does what it can to help, but in Saudi Arabia, where the bulk of the flock are, Church activity is proscribed. In Abu Dhabi, there is more freedom, and Bishop Hinder acknowledges that the Church was welcomed by then-ruler Sheikh Sayed, when the regional hq was moved from Yemen in the 1970s.

Still, however, the church must keep a low profile, and it is absolutely forbidden by law for Bishop Hinder or any of the 60 priests in the vast diocese to proselytise. As if to underline the heirarchy, the evening call-to-prayer issued aloud from the green-lit sandstone mosque next door, causing a pause in our conversation.

St Joseph’s Cathedral sits in the shadow of the minarets, and looks more like a community hall, with no discernable physical features such as spires or crosses outside or on the building. Still, it caters for 13 language groups, and on Christmas Day over 20 Masses were celebrated.

All in all, the diocese is made up of 20 parishes across the six countries, with seven churches in the UAE, 4 in Oman, 1 in Qatar and 1 in Bahrain. Bishop Hinder says that resources are stretched, and that sacramental work takes up most of the time, leaving less opportunity than elsewhere to develop social organisations such as Caritas, which could help some of the struggling Catholic migrant workers, or to do pastoral work with parishioners.

But it is Saudi Arabia where the biggest challenges lie ahead. Masses cannot be held and confession cannot take place. And though conditions improved after the Saudi king’s visit to Pope Benedict XVI in 2008, Bishop Hinder says that he does not expect any churches to be built there anytime soon.

(Source: http://www.rte.ie/news/worldreport/)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tương lai của các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu
Thúy Dung
01:39 10/01/2010
Trong bài phóng sự này, chúng tôi xin giới thiệu với quý cha và anh chị em những suy tư về giới trẻ Việt Nam sốngg trên đất Úc - là tương lai của các cộng đoàn Công Giáo Việt Nam tại Úc Châu - của ông Nguyễn Văn An.

Ông Nguyễn Văn An, năm nay 73 tuổi, là bào huynh cha Tađêô Nguyễn Văn Lý. Ông là người đã góp phần khai sáng phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Úc Châu. Dù đã tuổi cao, ông vẫn sinh hoạt thường xuyên với các em và kỳ đại hội Thiếu Nhi Thánh Thể nào cũng có sự hiện diện của ông, một huynh trưởng cao niên, như một tấm gương sáng cho các em noi theo.

Bên cạnh những suy tư của ông An, thuộc thế hệ thứ nhất, bài phóng sự này cũng ghi nhận những suy tư của các huynh trưởng thuộc thế hệ thứ hai những người Việt Nam sống trên đất Úc.
 
Ngày Quốc tế Di dân tại TGP Saigòn
Phêrô Nguyễn Quang Ngọc
13:38 10/01/2010
SAIGÒN - chiều ngày 10-01-2010 vào lúc 14h00, các anh chị em di dân đã về Nhà Thờ Thánh Phaolô (số 280 Vành Đai Trong, P.Bình Trị Đông B, Quận Bình Tân, hạt Tân Sơn Nhì) tham dự ngày quốc tế di dân, đến tham dự có đông đảo các bạn trẻ từ 26 Giáo Phận tụ họp lại bên Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn tổng Giáo Phận Sài Gòn cùng tham dự có sự hiện diện của Cha chánh xứ Phaolô Phạm Trung Dong, Cha hạt trưởng Tân Sơn Nhì, quý Cha, quý Thầy Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, quý tu sĩ nam nữ đến cùng đồng hành với các bạn trẻ. Các bạn được đón tiếp ngay cổng Nhà Thờ vào Thánh Đường dự sinh hoạt sau đó chia sẻ với các Thầy Đại Chủng Viện. Tiếp đến, vào lúc 17h00 các anh chị di dân và cộng đoàn tuôn về lễ đài dựng bên hông Nhà Thờ dâng Thánh Lễ dành riêng cho mình.

Hình ảnh Ngày quốc tế Di dân tại TGP Saigòn

Trong Thánh Lễ Đức Hồng Y chia sẻ mỗi người chúng ta được thanh tẩy bằng Chúa Thánh Thần và ngọn lửa Chúa trao cho ta trở nên con Chúa nên ta phải chu toàn bổn phận giữ đạo làm con Cha trên trời, mọi người biết yêu thương nhau tương thân tương trợ với nhau và giúp nhau sống dồi dào.

Sau đó, Kết Lễ là nghi thức sai đi “Thắp Sáng Tin Yêu”

Đọc Tin Mừng (Mt, 5,14 – 16): Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời.

Đôi lời sai đi của Đức Hồng Y:

“Các con hãy loan báo Tin Mừng cho khắp thế gian”. Người di dân công giáo là thành phần truyền giáo quan trọng của thời đại.

Đời sống của chúng con hãy như ánh sáng chiếu tỏa những gương đức tin, sống vui tươi, an hòa, quảng đại, ngay chính và dấn thân phục vụ, để danh Chúa được cả sáng và người người nhận biết Chúa là Cha quyền năng và giàu lòng thương xót.

Sau đôi lời sai đi của Đức Hồng Y, cộng đoàn đáp lại lời mời gọi bằng băng reo: LÊN ĐƯỜNG – THẮP SÁNG – TIN YÊU. Tiếp đến, các anh chị di dân và cộng đoàn cầm đèn sáng bước đi hát chung bài: Thần Khí Chúa đã sai tôi đi.

Thánh Lễ kết thúc vào lúc 18h30, Đức Hồng Y, quý Cha, quý Thầy và tu sĩ dùng cơm tại tầng trệt Nhà Thờ.

Sau giờ cơm, lúc 19h30 chương trình đại nhạc hội “Bước Đi Trong Tin Yêu”

Trong niềm vui cảm tạ và hiệp thông trong năm Thánh của Giáo Hội Việt Nam, và cùng với Giáo Hội hoàn vũ mừng ngày quốc tế di dân, Uy Ban Di Dân Giáo Phận Sài Gòn cùng với toàn thể anh chị em di dân xa quê đang sống trong Giáo Phận, đêm nay diễn tả niềm tin và tình yêu của mình trong Đại Nhạc Hội với chủ đề “Bước Đi Trong Tin Yêu”

Vâng, người di dân Công Giáo muốn “Bước Đi Trong Tin Yêu” giữa những đổi thay của môi trường văn hóa xã hội; áp lực của kinh tế, tâm lý tình cảm; cám dỗ lôi kéo của lối sống hưởng thụ.

“Bước Đi Trong Tin Yêu” cũng là lời quyết tâm của anh chị em di dân xa quê, để đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu, của Đức Giáo Hoàng Bênêdicto và của Giáo Hội Việt Nam: loan báo Tin Mừng trong môi trường mình sống và tỏa sáng Tin Mừng tình yêu bằng nếp sống của mình.

Chương trình thật phong phú, đa dạng bởi đóng góp của nhiều nhóm di dân. Quý vị cũng sẽ thấy cái đơn sơ, mộc mạc, đôi lúc không điêu luyện trong lời ca, tiếng hát nhưng gói trọn cả tâm tình yêu mến với nhiều nỗ lực tập luyện của các bạn di dân giữa những bôn ba của đời sống lao động, xin quý vị thông cảm và khích lệ bằng những tràng pháo tay.

Kế thúc chương trình đại nhạc hội Buớc Đi Trong Tin Yêu 21h30, sau đó bế mạc và ban phép lành.
 
Đức Giám mục Thái Bình viếng thăm mục vụ giáo xứ An Lạc
Trường Giang
13:55 10/01/2010
THÁI BÌNH - Hôm nay, Chúa Nhật 10/01/2010, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Giám mục Thái Bình viếng thăm và làm mục vụ nhằm tuần chầu lượt giáo xứ An Lạc, giáo hạt thành phố Thái Bình.

Giáo xứ An Lạc thuộc xã Trung An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, từng là họ lẻ thuộc giáo xứ Bồng Tiên, được Đức cha F.X. Nguyễn Văn Sang, nguyên Giám mục Thái Bình nâng lên giáo xứ ngày 02 tháng 12 năm 2006. Giáo xứ An Lạc duy nhất có một họ nhà xứ, nhận thánh Vinh-sơn làm bổn mạng, nhân danh hiện tại khoảng 830 người. Ngôi nhà thờ mới được xây dựng, cắt băng khánh thành và thánh hiến năm 2007 rất đẹp và bề thế, hai tòa tháp chuông cao, hiên ngang, biểu lộ một đức tin mạnh mẽ của người tín hữu nơi đây. Sau khi bị bệnh cha Vinhsơn Vũ Văn Duyệt được bề trên chấp thuận về trông coi giáo xứ quê hương từ năm 1996 đến ngày 01/03/2009 thì Chúa gọi cha về. Ngay sau đó Đức cha giáo phận cử cha F.X. Ngô Văn Toan, chánh xứ Cổ Việt quản nhiệm giáo xứ An Lạc, hằng tuần cha dâng thánh lễ vào tối thứ sáu và tối thứ bảy tại đây.

Trong ngày chầu lượt thay mặt giáo phận, Đức cha Phêrô chủ tế thánh lễ cùng các cha trong giáo phận, có rất đông giáo dân trong khu vực và liên xứ tới tham dự. Nay trong ngày lễ của quê hương cha Vinhsơn Vũ Văn Hướng, người con của giáo xứ An Lạc và đoàn kèn đồng giáo xứ Lương Điền (nơi cha Hướng đang coi sóc) cũng về tham dự và phục vụ trong thánh lễ, cùng với đội trống trắc, đoàn kèn nam, đội nhạc nữ giáo xứ An Lạc. Con đường làng dẫn tới khuôn viên thánh đường hôm nay cũng được khoác lên một màu tươi sáng, sặc sỡ của những băng rôn khẩu hiệu, cờ Hội Thánh, những lồng đèn, những dây hoa kim tuyến đủ các màu kết thành dây giăng ngang hai bên đường thật ấn tượng.

Trước khi chia sẻ sứ điệp ngày lễ hôm nay, Đức cha đặt vấn đề để cộng đoàn cùng suy tư: Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, Ngài không có tội, tại sao Ngài chịu phép rửa? Sau đó Đức cha liên hệ đến mỗi người, ngài nói ai trong cộng đoàn đang tham dự phụng vụ đây, cũng đều có tội trước mặt Chúa và có lỗi với anh em mình. Muốn được Chúa thứ tha cần khiêm tốn nhìn nhận lỗi lầm của mình, đồng thời ăn năn thống hối cách chân thành.

Kết thúc thánh lễ cộng đoàn ra về trong niềm tin yêu, hân hoan mang Tin Mừng của Chúa gieo rắc trên những nẻo đường quê hương, nơi họ sinh sống.
 
Hội nghị toàn quốc về di dân lần đầu tiên
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
14:11 10/01/2010
SAIGÒN - Ngày 08-09/01/2010, Uỷ Ban Giám Mục Di Dân thuộc HĐGMVN tổ chức hội nghị lần thứ nhất tại Tu viện Dòng Phanxicô Thủ Đức.

Tham dự Hội nghị có Đức Hồng Y JB Phạm Minh Mẫn, Chủ tịch UBGMDD, Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, Phó Chủ tịch, Lm Đỗ Đình Ánh, Tổng thư ký, 50 linh mục đại biểu của 26 Giáo phận, một số Tu sĩ đại diện các Hội Dòng và đại biểu giáo dân. Cùng tham dự có cha Giám Tỉnh và cha Cố vấn Dòng Scalabrini, cha Dụ từ Ý, cha Hòa từ Pháp, cha Trí từ Đài loan.

Qua 2 ngày hội thảo, ban tổ chức đã trình bày Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi, cùng nhau thảo luận về vấn đề Di dân và đề xuất những định hướng cho tương lai.

Từ chiều ngày 8/1, ban tổ chức đón tiếp ân cần các đại biểu từ các giáo phận miền Bắc, miền Trung, vùng cao nguyên, miền Tây. Tu viện Phanxicô, nơi yên tĩnh giữa lòng phố thị, với cơ sở rộng rãi khang trang, nhiều cây xanh, phong cảnh đẹp, các tham dự viên được phục vụ tận tình chu đáo.

5g chiều, thánh lễ khai mạc do Đức Hồng Y chủ tế. Ngài chia sẽ vài tâm tình mục vụ di dân.

Chúng ta đang sống trong mùa Giáng Sinh. Những bài Tin mừng sau lễ Giáng Sinh và Hiển Linh đều nói về Chúa Giêsu liên tục di chuyển, mới sinh ra đã di chuyển, đã di dân.

Khi nghe tin Gioan bị tống ngục, Chúa Giêsu đang ở miền Giuđêa để loan Tin mừng liền di chuyển về Galilê. Chúa giảng dạy ở Capharnaum. Lên núi Bát Phúc, làm nhiều phép lạ… Mọi người nghe tin như vậy thì từ miền Giuđêa rồi các miền Thập tỉnh, cả phía Đông bên kia sông Giođan kéo đến để nghe Chúa dạy, để chiêm ngưỡng Chúa. Chúa phải di chuyển liên tục, thân phận nhập thể làm người, có lẽ trước tiên Chúa muốn đồng cảm không những đón nhận thân phận của con người, cái hình thức, cái thân xác hay chết mà thôi, mà còn đồng cảm, cảm nhận cảm xúc, tâm tình của con người và đặc biệt những người du mục, liên tục di chuyển để biết tâm trạng của họ có một sự đồng cảm yêu thương họ. Chúa giảng dạy phù hợp với tâm thức, tâm lý của mọi người trên hành trình di chuyển.

Chúng ta lo mục vụ di dân là phải có một sự đồng cảm với những người di dân. Cách đây 6, 7 năm, Tp. HCM phát triển, bỗng nhiên di dân cả gần 2 triệu người về đây. Có một cha ở miền Trung nói với tôi rằng, một đêm tới sáng, một lớp Giáo lý họ đạo lớn, lên tàu hỏa đi vô Nam hết, lớp Giáo lý hôm sau trống trơn. Nói lên hình ảnh đó cho thấy ào ạt làn sóng di dân vào trong thành phố.

Nhiều người di dân trẻ đến đây học hành, lao động…Khi đón nhận nhiệm vụ mục vụ di dân thì vô số vấn đề, không biết phải giải quyết làm sao.

Tôi đi thăm các vị Hồng Y, Giám mục bên Mỹ, Canada, Âu châu, những nơi có cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở đông. Các ngài đều nói rằng, cộng đoàn Công giáo Việt Nam là tấm gương đức tin cho chúng tôi, họ có đức tin vững vàng. Có vị cám ơn, nhờ tôi chuyển lời cám ơn Giáo hội Việt Nam. Giáo hội Việt Nam đã gởi cho họ những người Công giáo gương mẫu như vậy cho nên rất cám ơn. Tôi trả lời thế này: Thực ra không phải Giáo hội Việt Nam đâu mà là Chúa Thánh Thần đó. Chúa sai đi chứ không phải Giáo hội Việt Nam gởi.

Điều đó cho thấy tác động của Chúa Thánh Thần giống như Chúa Giêsu vậy. Chúa di chuyển khắp nơi để loan tin. Chúa cũng dùng làn sóng di dân để phát triển Tin mừng. Hiện tại các nơi đều có người Công giáo Việt nam: Campuchia, Lào, Thái Lan… Giáo hội Thái Lan vừa mời tôi sang cử hành kỷ niệm 300 năm thành lập Giáo phận Chanthaburi ở phía Đông Nam giáp giới Campuchia. Sang bên đó người ta kể, nhà thờ Chính tòa Chanthaburi hình thành cách đây 300 năm từ 130 người Việt Nam. Từ những người công giáo Việt Nam, hôm nay nhà thờ Chính tòa của địa phận Chanthaburi có đến 8.000 giáo dân, có lẽ là nhà thờ lớn nhất của Giáo hội Thái Lan, mà nguồn gốctừ người công giáo Việt Nam.

Tôi đến thăm Làng Việt Nam, chỗ đó Đức cha Lambert de la Motte làm Giám mục Đàng Trong. Trong nhà thờ ở đó còn lưu giữ xác của ngài. Đức Cha Lambert de la Motte đã làm hai điều còn lưu lại tới ngày nay đó là thành lập hàng Giáo sĩ bản xứ của chúng ta, và thành lập Dòng MTG, một Dòng tu hoàn toàn Việt Nam. Từ đó tới nay Dòng MTG phát triển rất nhanh. Hiện tại ở bên Thái Lan có 3 Hội dòng, ở Việt Nam có 24 Hội dòng, tổng cộng phải trên 10.000 tu sĩ Dòng MTG. Công trình của Đức Cha Lambert, ngài cũng là người di dân, đi từ bên Tây bên Tàu sang bên mình rồi cứ phải liên tục di chuyển như vậy. Cho nên người Công giáo Việt Nam của chúng ta nhờ những cuộc di cư và di dân đã thiết lập nhiều giáo xứ. Những miền đất mới như chiếc tàu Noe đón nhận. Người di dân trở thành sứ giả Tin mừng.

Trong cuộc hội thảo này, chúng ta cùng góp ý để hướng đến, mỗi Giáo phận trở thành chiếc tàu Noe cho di dân, thành chỗ dựa niềm tin cho con người.

Sáng 9.1, cha Đỗ Đình Ánh, trình bày đề tài “Cùng đọc Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi (Tình Yêu Đức Kitô dành cho Di dân)”.

Nhập đề

Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi (EMCC), tài liệu hướng dẫn mới nhất do Hội Đồng Giáo Hoàng về Mục vụ Chăm sóc Di dân và Lữ Hành biên soạn,[1] được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phê chuẩn ngày 01/05/2004, và 3 ngày sau, tức 03/5/2004 được chính thức công bố. Tài liệu này đã mau chóng trở thành “thủ bản”, hay “kim chỉ nam” cho các hoạt động Mục vụ chăm sóc Di dân và Lữ Hành của toàn thể Giáo hội, từ Giáo hội hoàn vũ tới Giáo hội địa phương. Đến nay, sau 5 năm công bố, Huấn thị vẫn tiếp tục mang tính “thời sự” cho toàn thể Hội thánh.[1] Tính thời sự đó được nhìn dưới hai điểm nhấn: Sự qsuan tâm của toàn thể Hội thánh với những người Di dân và Lữ hành và Những cố gắng thích ứng của những hướng dẫn Mục vụ chăm sóc của Hội thánh cho những con người này.

Đi vào hai điểm nhấn nói trên, chúng ta mong chính bản thân cũng như những ai đang dấn thân cho việc chăm sóc mục vụ Di dân và nhiều người thiện chí khác nữa sẽ có thêm khả năng hiểu, đồng cảm được với một trong những quan tâm hàng đầu hiện nay của Hội thánh là Loan báo Tin Mừng và sẵn lòng hợp tác với nhau làm cho men Tin Mừng trong một lãnh vực hết sức cụ thể là Phục vụ Chăm sóc Mục vụ cho người Di dân và Lữ hành được nở rộ khắp mọi môi trường, hoàn cảnh sống hiện nay của mỗi người.

Khai triển

1. Trước hết, nói về Sự Quan tâm của Hội thánh với Di dân. Câu hỏi đặt ra là đã từ khi nào, và bắt đầu từ đâu, với những phương thế nào Giáo hội được nhận mình thực sự là biết quan tâm lo lắng mục vụ cho người Di dân, Lữ hành?

Không khó tìm câu trả lời nếu chúng ta đi ngược dòng lịch sử chiêm ngắm Giáo hội trong giai đoạn được khai sinh và phát triển sau đó. Công đồng Vaticano II cho biết, Giáo hội này là một Giáo hội tự bản chất là truyền giáo [3] và lữ hành [4], được hình thành bởi những con người, ý thức mình phải luôn lưu động, di chuyển để có thể chu toàn được sứ mạng Đấng đã thiết lập Giáo hội truyền dạy: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.[5]

Từ ngữ “đi” theo thời gian đã được thi hành trong hai cách: hoặc chính Giáo hội phải “đi” để tới được với những anh chị em chưa từng được nghe biết về Tin Mừng, đang định cư trong những nơi chốn, địa danh cụ thể, để loan báo Tin Mừng cho họ, xây dựng Giáo hội địa phương tại đó cho họ [6]; hoặc Giáo hội cùng “đi” với những người đang trên đường “đi của họ”, để loan báo Tin Mừng và sống Tin Mừng với những con người này.[7]

Hai phương cách này, Giáo hội đã thực hiện đan xen nhau trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của mình.

2. Erga Migrantes được công bố 03/5/2004 với lời giới thiệu (presentation)[8] ở ngay phần đầu của bản văn, là “muốn cập nhật hóa việc chăm sóc mục vụ dành cho di dân, 35 năm sau khi Đức Phaolô VI ban hành tự sắc Pastoralis migratorum [9] và Bộ các Giám mục ban Huấn thị De Pastorali migratorum cura (Nemo est) [10] liên quan”. Lời giới thiệu đã cho thấy Di Dân không phải là vấn đề gần đây mới nhận được sự quan tâm của Giáo hội. không phải chỉ gần đây Giáo hội mới có những sáng kiến, những hướng dẫn mục vụ cho người Di dân và lữ hành. Tính chất mới thể hiện trong mỗi văn kiện, mỗi hoàn cảnh - cụ thể như Erga Migrantes qui về văn kiện gần nó nhất là Pastoralis migratorum của Đức Phaolô VI và huấn thị De Pastorali migratorum cura của Bộ các Giám mục được công bố năm 1969 - là ở chỗ, Giáo hội luôn muốn canh tân, muốn đáp ứng những nhu cầu thiết thực của ngươi Di dân, vốn trong dòng chảy của thời gian, đã có những giai đoạn cần lưu tâm, để ý hơn lúc nào hết.[11]

Trong Erga Migrantes chúng ta đọc được một lần nữa sự quan tâm của Hội thánh với Di dân.

3. Về Bố cục

Erga Migrantes được viết trong 104 số với 22 Khoản Qui định Pháp lý về Mục vụ[12]. Không kể Nhập đề và Kết luận, cùng với những Qui định Pháp lý về Mục vụ dành cho mỗi thành phần Dân Chúa trong trách nhiệm liên đới phải có để lo cho Di dân, Erga Migrantes khai triển những định hướng Mục vụ Di dân trong 4 phần chính.

3.1. Phần I: Di dân, dấu chỉ thời đại và mối quan tâm của Hội thánh

Dùng kiểu nói ‘dấu chỉ của thời đại’, Giáo hội khơi dậy ý thức trách nhiệm nơi mỗi người, và mời gọi cùng với Giáo hội suy nghĩ lời sau đây của Chúa Giêsu với những người thuộc phái Pharisiêu và phái Xađốc khi họ xin Người một dấu lạ từ trời. người đáp: “Chiều đến, các ông nói: ‘Ráng vàng thì nắng’, rồi sớm mai, các ông nói: ‘Ráng trắng thì mưa’. Cảnh sách bầu trời thì các ông biết cắt nghĩa, còn thời điểm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi”.[13]

Cách nói ‘thời điểm’ hay ‘dấu chỉ thời điểm’, ở đây theo văn mạch, phải hiểu là một thực tại đang diễn ra trước mặt: là Chúa Giêsuvà những lời Ngài giảng dạy, các phép lạ Ngài làm… Là lời chứng, là sự chuẩn bị trước đó của Gioan Tiền hô dẫn tới sự hoán cải của đông đảo dân chúng tích cực chờ đón Ngài, là Đấng Cứu Thế đang đến.

Giáo hội ý thực trách nhiệm đã được trao phó,[14] nhìn nhận mình “có bổn phận tìm hiểu tường tận những dấu chỉ của thời đại, và giải thích dưới ánh sáng Phúc âm”,[15] nhằm “giải đáp một cách thích ứng với mỗi thế hệ những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mau hậu cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy”.[16]

Một trong những dấu chỉ thời đại, nổi lên từ thế kỷ XIX được huấn quyền, xuyên qua các văn kiện chính thức nhìn nhận là hiện tượng di dân.[17] Hiện tượng này đã trở thành thực tại đòi phải có các tổ chức, cơ quan trung ương của Tòa Thánh và nơi mỗi Giáo hội địa phương tương ứng để phục vụ đúng mức.[18] Erga Migrantes số 14 tái xác nhận Di dân ngày nay vẫn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của Giáo hội trong việc phục vụ và loan báo Tin Mừng: “Hiện tượng di dân là một dấu chỉ thời đại đầy ý nghĩa, là một thách đố cần khám phá và sử dụng trong công tác canh tân nhân loại và loan báo tin mừng bình an”.

3.2. Phần II: Di dân và Mục vụ chăm sóc đón tiếp

Xuất phát từ bản chất Giáo hội là Truyền giáo. Giáo hội mời gọi mỗi Kitô hữu trong nhiệm vụ và chức năng tuy khác nhau, vẫn có chung một bản chất với Giáo hội, hãy:

- “Đi tới với mọi người để công bố Đức Giêsu Kitô và - trong Đức Kitô và trong Giáo hội - đưa họ tới sự hiệp thông với toàn thể nhân loại”.[19]

- Dấn thân tích cực làm rõ nét các thừa tác vụ Hiệp thông, Truyền giáo và Mầu nhiệm được Công đồng Vatican II xác định cho Giáo hội trong mọi công tác Mục vụ.[20]

Trong công tác Mục vụ Di dân, hướng dẫn này được thực hiện qua việc phát huy nền văn hóa đón tiếp và liên đới, lắng nghe và đối thoại, hội nhập và phát huy những giá trị Tin Mừng trong mỗi sắc dẫn, mỗi ngôn ngữ, mỗi lễ tiết,[21] để Giáo hội được lớn lên trong và với Di dân.[22]

3.3. Phần III: Các cán sự trong Mục vụ Chăm sóc - Hiệp thông

Từ một nền Giáo hội học hiệp thông và phục vụ linh đạo hiệp thông, phần III của Erga Migrantes số 70 nói tới một nhu cầu bức thiết trước tiên là phải xây dựng được một sự hợp tác chặt chẽ giữa hai Giáo hội xuất xứ và tiếp nhận.

Bước cơ bản là Hội đồng Giám mục mỗi quốc gia được kêu gọi hãy lập ra một Ủy ban Giám mục lo việc mục vụ cho người Di dân hay Lữ hành nói chung, mục đích của Ủy ban là cổ võ và phối hợp hiệu quả các hoạt động mục vụ trong mỗi Giáo hội địa phương. Nếu không lập được, hay không thích hợp để lập một Ủy ban như thế, thì các hoạt động mục vụ nói trên phải được ủy thác cho một Giám mục chịu trách nhiệm để phối hợp.

Các Ủy ban Giám mục hay các Giám mục được ủy thác trách nhiệm phối kết, và các cấu trúc tương ứng bên Giáo hội Đông phương đều có trách nhiệm trên các di dân ngoại quốc trong phần lãnh thổ quốc gia của mình, và đương nhiên trong phần lãnh địa của Giáo hội địa phương. Các ngài phải hết sức lưu tâm tới những người cùng đồng hương với nhau, vì họ đã phải lìa bỏ quê hương gốc và trở nên những di dân trên phần đất của các ngài.

Bước kế tiếp phải có các tuyên úy, các nhà truyền giáo lo cho di dân. Họ là các linh mục nhận bài sai để lo phần thiêng liêng cho những di dân có chung một ngôn ngữ, hay cùng một quốc gia, hoặc thuộc về một Giáo hội sui iuris có chung lễ tiết, Giáo hội cần tạo thuận lợi và chuẩn bị các linh mục tương lai đảm nhận các trách nhiệm này.

Trong số các vị này, cần bổ nhiệm một vị Điều phối viên cấp quốc gia, là biểu hiện của Giáo hội tiếp nhận (Chiesa ad quam), có nhiệm vụ hỗ trợ các tuyên úy, các nhà truyền giáo, chứ không phải là đại diện của họ. Nói chung, vị Điều phối viên được thiết lập nhằm phục vụ các tuyên úy, các nhà truyền giáo được Hội đồng Giám mục gốc (a qua) sai đi chính thức.

Bước cuối cùng là luôn chủ động tạo sự cộng tác chặt chẽ giữa mọi thành phần lo chung một công tác mục vụ di dân: vị Giám đốc Mục vụ di dân cấp quốc gia và các Điều phối viên cấp quốc gia, và giữa chính các tuyên úy với nhau.

3.4. Phần IV: Các cơ cấu của mục vụ truyền giáo

Một nền văn hóa đón tiếp người Di dân đúng nghĩa bao gồm trợ giúp, liên đới, tiếp nhận và hòa nhập vào một Giáo hội duy nhất nơi không ai thấy mình là kẻ xa lạ. Không đơn giản nếu chỉ nghĩ tới việc trợ giúp huynh đệ và tranh đấu về mặt luật pháp cho các lợi ích của người di dân, nhưng phải hơn thế nữa, dám tiếp nhận các giá trị nhân bản chân chính của di dân, vượt lên trên bất cứ khó khăn nào do việc chung sống với người khác gây nên. Nói tóm lại, việc tiếp nhận theo nghĩa đầy đủ Giáo hội muốn, là giúp di dân hòa nhập va tự túc được trong môi trường mới tới.

Cơ cấu căn bản cho việc mục vụ truyền giáo di dân thuộc về Giáo hội địa phương nơi di dân tới. Chịu trách nhiệm đầu là Giám mục bản quyền nơi di dân đang trú ngụ. Tuy nhiên cũng chính nơi đây, việc mục vụ “phải tôn trọng hoàn toàn sự khác biệt về di sản thiêng liêng và văn hóa của di dân chứ không hạn chế lại vì lý do phải đồng bộ”.[23] Để hòa hợp, Giáo hội nơi tiếp nhận cần phân biệt “đặc tính địa giới của việc chăm sóc thiêng liêng với việc chăm sóc dựa trên yếu tố họ thuộc về các nhóm sắc dân, ngôn ngữ và nghi lễ”.[24]

Do đó, cần có các cơ cấu mục vụ đón tiếp thích hợp, như:

- Giáo xứ toàn nhân dựa trên sắc dân và ngôn ngữ, hay dựa trên nghi lễ riêng, để phục vụ số đông người Công giáo đã ổn định và có lễ nghi ngôn ngữ riêng hay cùng quốc tịch. Cũng có thể lập giáo xứ địa phương với sứ mạng phục vụ sắc dân - ngôn ngữ hay phục vụ nghi lễ riêng, tức là giáo xứ có địa sở với một hay nhiều cán sự mục vụ để phục vụ, một hay nhiều nhóm Kitô hữu ngoại quốc.

- Giám điểm (missio cum cura animarum) được thiết lập để lo phần thiêng liêng cho người di dân thuộc các sắc dân - quốc gia hay có lễ nghi riêng, nhưng cuộc sống chưa ổn định.

- Tổ chức Mục vụ sắc dân ngôn ngữ trên cấp vùng (Servizio pastorale etnico-linguistico a livello zonale) nhằm có các hoạt động mục vụ giúp những người nhập cư đã hòa nhập tương đối tốt vào xã hội địa phương.

Mục vụ Di dân có thể được hòa nhập trong mục vụ đối địa theo những hình thức sau:

- Giáo xứ liên văn hóa, liên sắc tộc, liên nghi lễ: nhằm hỗ trợ mục vụ cho cả dân bản xứ lẫn ngoại kiều cư ngụ trong cùng địa giới. Giáo xứ đối địa trở thành “địa đei63m ưu tiên và ổn định cho kinh nghiệm liên sắc dân và liên văn hóa, trong khi các nhóm cá thể vẫn duy trì được sự tự lập nào đó”.[25]

- Giáo xứ địa phương phục vụ di dân của một hay nhiều nhóm sắc dân, một hay nhiều nghi lễ, Giáo xứ đối địa (nhà thờ hay trung tâm giáo xứ) là nơi qui tụ, gặp gỡ và sống cộng đoàn cho một hay nhiều cộng đoàn ngoại kiều.

Cũng có thể có các cơ cấu mục vụ - truyền giáo khác [26] đáp ứng các nhu cầu đặc biệt cho các giới đặc biệt của di dân, như:

- Trung tâm dành cho công tác mục vụ giữa người trẻ và dành cho hương nghiệp, với nhiệm vụ phát huy sáng kiến trong lãnh vực này;

- Trung tâm huấn luyện giáo dân và cán sự mục vụ, để phục vụ trong viễn tượng đa văn hóa;

- Trung tâm nghiên cứu và suy tư mục vụ: với nhiệm vụ theo dõi sự biến thái của hiện tượng di dân và đề xuất cho những người trách nhiệm hướng mục vụ thích hợp;

- Đơn vị mục vụ (unità pastorale) được hình thành tại một giáo xứ hay liên giáo xứ đối địa, làm việc nhịp nhàng với chương trình mục vụ chung của giáo phận để lo cho di dân.

Tóm lại 2 điều cần lưu ý cho các cơ cấu mục vụ truyền giáo di dân là:

1/ Tất cả những hình thức được giới thiệu nói trên, và cả “những dàn xếp mục vụ không chính thức, có thể là tự phát, rất đáng được nhìn nhận và khích lệ trong nội vi một giáo phận, không cần biết có bao nhiêu người được hưởng ơn ích của nó. Chỉ cần tránh nguy cơ ngẫu hứng, đơn độc, cán sự không thích hợp và các giáo phái”.[27]

2/ các cơ cấu mục vụ sẽ trở nên hữu hiệu nếu làm việc trong tinh thần hợp tác và hòa hợp giữa cộng đoàn địa phương (Giáo hội địa phương) với các nhóm khác nhau của Di dân.

Kết luận

Giáo hội nói chung và mỗi Giáo hội địa phương nói riêng (Giáo hội gốc, nơi người di dân xuất phát lẫn Giáo hội nơi tiếp nhận), qua huấn thị Erga Migrantes, đều được mời gọi cảm thấy có liên quan tới và phải dấn thân cho di dân, và giúp mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo hội nhận ra tính phức tạp của vấn đề di dân, và chống lại các ngờ vực vô căn cớ cũng như những thành kiến chống lại các ngoại kiều.[28]

Chúng ta không thể đáp ứng lại lời mời gọi này, nếu không cùng một thao thức quan tâm với Giáo hội, không cùng một nhịp đập với “con tim chạnh lòng thương của Chúa” nơi các Đấng thay mặt Chúa đã góp phần tạo ra Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi - Tình Yêu Đức Kitô dành cho Di dân.

Các tổ thảo luận theo câu hỏi.

Cha Gioan Nguyễn Văn Ty trình bày đề tài: “Giáo hội Công Giáo Việt nam trước nhu cầu mục vụ di dân” với những phân tích sâu sắc về lịch sử, linh đạo, thần học, định hướng mục vụ di dân. Sau đó các tổ thảo luận theo câu hỏi.

Cha Dong chia sẽ kinh nghiệm mục vụ di dân trong nước, đặc biệt tại Sài gòn.

Cha Hoàng chia sẽ mục vụ di dân ngoại kiều. Cha Dụ cha Hòa, cha Trí chia sẽ mục vụ di dân hải ngoại, các cộng đoàn Công giáo Việt nam bên Ý, Pháp, Đài loan.

Chiều 9.1, đúc kết những thảo luận và kiến nghị. Trao đổi và góp ý để hoàn chỉnh ban điều hành UBGMDD-HĐGMVN.

Sau giờ Chầu Thánh Thể tạ ơn, tiệc liên hoan có các nhóm giới trẻ di dân giúp vui các tiết mục ca múa vui nhộn dễ thương.

Hội nghị lần thứ nhất, UBGMDD trình bày giáo huấn của Giáo hội về mục vụ di dân, đề ra những định hướng và thiết lập cơ cấu tổ chức nhân sự. Tất cả đều hướng đến sứ vụ “Chăm sóc mục vụ cho anh chị em di dân là trách vụ gằn liền với sứ mạng truyền giáo và cần được lưu tâm đặc biệt trong bối cảnh ngày nay” (Đề cương Giáo hội tại Việt nam, HĐGMVN, Ban tổ chức năm Thánh 2010 trg.68-69).

Di dân như một dấu chỉ thời đại, một tiếng gọi của Thiên Chúa mời gọi Giáo hội Việt Nam rộng mở tiếp nhận trong đối thoại hiệp thông, trong phục vụ và truyền giáo.

Chú thích:

[1] Hồng Y Stephen Fumio Hamao làm Chủ tịch, và Tổng Giám Mục Agostino Marchetto làm Thư Ký (thời điểm văn kiện được công bố).

[2] Số 62 của Thông Điệp Caritas in Veritate của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho thấy mối quan tâm đặc biệt của Hội thánh về vấn đề Di dân, mở ra một lời mời gọi chung cho mọi chính quyền dân sự, và cộng đồng chung các quốc gia trên thế giới.

[3] AG 2: “Giáo hội tự bản chất là truyền giáo”.

[4] tc. LG 9: “… như Israel theo xác thịt, khi đang lữ hành trong sa mạc, đã được gọi là GH của TC, dân Israel mới tiến bước trong thời đại này, đang tìm về thành thánh tương lai bất diệt, cũng được gọi là GH Chúa Kitô”; và phần chú thích 9*: “Giáo hội là Dân Thiên Chúa trên đường lữ hành qua lịch sử thánh… Dân Chúa nói đây phải hiểu là cả mục tử lẫn con chiên…”

[5] Mt 28,19-20.

[6] Trường hợp nổi bật là nơi các Tông Đồ: Phaolô chẳng hạn, trên đường truyền giáo, đã thiết lập các cộng đoàn nơi mỗi vùng đất ngài đặt chân tới. Sau này CĐ Vatican II, chúng ta thấy rõ ý nghĩa chuyên biệt của việc truyền giáo này được tái xác nhận là “rao giảng Phúc âm và trồng Giáo hội vào các dân tộc hay những nhóm người mà Giáo hội còn chưa bén rễ” (AG 6).

[7] Trường hợp điển hình nơi các tín hữu ban đầu trong cuộc bách hại tại Giêrusalem, đã phải lánh nạn trong những nơi an toàn, những vùng đất nhiều khi trước đó chưa từng nghĩ tới (tc. CVTĐ 8,1; 11,19-21), hoặc tháp tùng những ai đang trên đường tìm kiếm chân lý, sự sống mới như trường hợp của Philip cho hoạn quan quyền thế của Kanđakê (tc. CVTĐ 8,26-40).

[8] Presentation của Đức Hồng Y Hamao Chủ tịch ở phần đầu của Huấn thị.

[9] Paul VI, Mortu proprio Pastoralis Migratorum Cura: AAS LXI (1969) 601-603.

[10] Congregation for Bishops, Instruction De pastorali migratorum cura (Nemo est): AAS LXI (1969) 614-643.

[10] tc. EMCC 3: “Mục đích trước hết của Huấn thị là đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng và mục vụ của di dân ngày càng trở thành một dụng cụ của đối thoại và loan báo sứ điệp Kitô”.

[12] 22 khoản Qui định Pháp lý về Mục vụ là những triển khai cụ thể về Giáo luật được nói trong Phần I của Huấn thị: Di Dân, dấu chỉ thời đại và mối quan tâm của Hội thánh.

[13] Mt 16,2-3.

[14] tc. Mt 28,19-23.

[15] GS 4.

[16] Ibid.

[17] tc EMCC 19-23. Từ số 19 đến 23 cho di dân bắt đầu trở thành vấn đề lớn trong xã hội, và Giáo hội đáp ứng bằng những văn kiện hướng dẫn, kèm theo những hình thức mục vụ di dân thích hợp như sắc lệnh Ethnografica studia 1914 nhấn mạnh trách nhiệm của Giáo hội địa phương nâng đỡ di dân và khuyên hàng giáo sĩ địa phương phải được chuẩn bị thích hợp cho công tác này, cả về ngôn ngữ, văn hóa và mục vụ; Sắc lệnh Magni semper 1915 trao cho Bộ Giám mục thẩm quyền cho phép giáo sĩ chăm sóc di dân; Tông huấn Exsul familia 01.8.1952 của Đức Piô XII xác định nhiệm vụ hàng đầu về mục vụ chăm sóc di dân thuộc Giám mục giáo phận địa phương; Công đồng Vaticano II (1962-1965) với các văn kiện Gaudium et Spes, Apostolicam Actuositatem, Christus Dominus cho thấy di dân là một thực tại, đòi Dân Chúa phải quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ, gần gũi như “cận nhân” đối với di dân… đồng thời kêu gọi các đấng bản quyền liên hệ hãy đồng tâm hiệp lực lo lắng và hỗ trợ việc thiêng liêng cho người di dân. Tự sắc Pastoralis Migratorum Cura 1969 của Đức Phaolô VI và Huấn thị De Pastorali Migratorum Cura của Bộ các Giám mục nhấn mạnh tới vai trò các Giáo hội địa phương trong việc tiếp đón Di dân, và sự cộng tác liên Giáo hội để đảm bảo việc chăm sóc mục vụ phi biên giới cho Di dân; Bộ Giáo luật mới đòi các linh mục quản xứ phải quan tâm tới những người sống xa quê hương, tiên liệu việc thành lập các giáo xứ tòng nhân, giáo xứ sui iuris cho Di dân.

Thực ra trước thế kỷ XIX cũng đã có những huấn quyền nói về các việc mục vụ cho người di dân. Nhưng các văn kiện này chỉ có tính đáp ứng từng giai đoạn. Trong số các văn kiện này, đáng kể nhất là văn kiện của Công đồng Latran IV được Tassello trích dẫn trong lời giới thiệu bộ sách thu tập những tuyên bố của huấn quyền viết bằng tiếng Ý: FONDAZIONE MIGRANTES DELLA CONFERENZA EPISCOPALE ITALINANA, Enchiridion delle Chiesa per le Migrazioni, Documenti magisteriali ed ecumenici sulla pastorale della mobilita umana (1887-2000), Bologna 2001, pp. 19-20: “Nhận thấy tại nhiều nơi có khi trong cùng một thành phố, một giáo phận, có sự pha trộn của dân chúng, dầu có chung một niềm tin, nhưng nói các thứ tiếng khác nhau, với những phong tục và lễ tiết khác nhau, vì thế chúng tôi truyền là các đấng bản quyền những nơi này cần định liệu để có thừa tác viên cử hành phụng vụ theo các lễ tiết và ngôn ngữ khác nhau, cử hành các bí tích của Giáo hội và giảng dạy thích ứng các lẽ đạo bằng lời nói và gương sáng” (CONCILIO LATERANENSE IV, cap. IX, J.D. MANSI, Sacrorum conciliorum nova et amplissima collectio, XXII, Venezia 1778, 988).

[18] tc EMCC 31-33 tóm tắt cho biết: năm 1912 Đức Piô X thiết lập Văn Phòng về vấn đề Di dân thuộc Bộ Giám mục; năm 1970 Đức Phaolô VI thiết lập Ủy Ban Giáo Hoàng Mục vụ Chăm sóc Di dân và Du lịch; năm 1988 nâng cấp thành Hội Đồng Giáo Hoàng về Mục vụ Chăm sóc Di dân và Lữ hành. Nhiệm vụ của Văn phòng, Ủy ban, Hội đồng là thúc đẩy, cổ võ và sinh động các sáng kiến mục vụ thích hợp giúp cho những ai, vì lựa chọn hoặc vì nhu cầu, phải xa lìa nơi cư trú bình thường của họ.

[19] EMCC 97.

[20] tc. EMCC 37.

[21] tc. EMCC 34-39.

[22] tc. EMCC 49-60: ở đây, Huấn thị phân ra 4 loại: di dân Công Giáo; Di dân Công Giáo theo nghi lễ Đông Phương; Di dân thuộc các Giáo hội và Cộng đoàn Giáo hội khác; Di dân thuộc các tôn giáo khác nói chung.

[23] EMCC 89.

[24] Ibid.

[25] EMCC 92.

[26] tc. EMCC 94.

[27] EMCC 92.

[28] tc. EMCC 41.
 
Sứ điệp Hội nghị toàn quốc về di dân lần thứ I
Nghị Hội
20:32 10/01/2010
SỨ ĐIỆP HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC VỀ DI DÂN LẦN THỨ I
Gởi các Bạn Trẻ di dân trong và ngoài nước


Các bạn trẻ di dân rất thấn mến,

Trong hai ngày 08 và 09 tháng 01 năm 2010 vừa qua, chúng tôi, 68 tham dự viên, là đại biểu của các giáo phận trên toàn quốc, đại biểu các dòng tu, đại biểu giáo dân, cũng có mặt của một số đại biểu hải ngoại và ngoại kiều đang dấn thân trong công tác mục vụ di dân trong và ngoài nước, đã qui tụ về chủng viện dòng Phan-xi-cô, Thủ Đức, Tp Hồ Chí Minh, để tham dự Hội nghị Toàn quốc về Mục vụ Di dân lần thứ I.

Chúng tôi đã dành thời giờ để cầu nguyện, để học tập các chỉ dẫn của Giáo Hội về Mục vụ Di dân dựa trên Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi, để thảo luận hầu tìm ra những ứng dụng thiết thực cho tình hình di dân hiện nay tại Việt Nam, và để củng cố tình đoàn kết và sự hợp tác giữa các Giáo phận với Ủy Ban Mục vụ Di dân của HĐGMVN.

Chúng tôi tin rằng Chúa đã chúc lành cho Hội Nghị này được mọi sự tốt đẹp, về tinh thần cũng như trong công việc; qua đó chúng tôi biết rằng Đức Ki-tô luôn dành cho các di dân một tình yêu rất đặc biệt như Huấn thị khảng định; chính vì Ngài đã từng gần gũi chia sẻ số phận khó khăn của kiếp di dân.

Dầu chưa phục vụ được gì nhiều cho di dân, nhưng chúng tôi mong rằng, qua các nỗ lực của chúng tôi trong những ngày qua đã nói lên được phần nào lòng ưu ái của Đức Ki-tô trong Hội Thánh dành cho các bạn. Xin các bạn tiếp tục cầu nguyện cho chúng tôi để công tác hậu hội nghị được triển khai cách tốt đẹp, hầu sớm mang lại lợi ích thiêng liêng và tinh thần cho đông đảo các di dân Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại.

Chúng tôi cầu chúc các bạn luôn giữ vững được đức tin vào Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô mọi nơi và mọi lúc, biết phát huy và quảng bá đức tin đó trong môi trường đầy gian khó nhưng cũng đầy hồng ân của cuộc sống di dân.

Thủ Đức, ngày 10 tháng 01 năm 2010
Các đại biểu Hội nghị Toàn quốc về Mục vụ Di dân lần thứ I
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Thư Hiệp Thông của ĐC Sang, nguyên Giám mục Thái Bình
+ GM FX. Nguyễn Văn Sang
06:35 10/01/2010
Thái Bình ngày 10 tháng 01 năm 2010

Thư ngỏ hiệp thông gửi Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt - Tổng Giám Mục Hà Nội

Kính thưa Đức Tổng, vì hoàn cảnh đau ốm, do bệnh thấp khớp từ một tháng nay nên con được tin ở trên mạng về sự kiện xảy ra ở giáo xứ Đồng Chiêm trong các ngày qua. Với tư cách nguyên Giám Mục phụ tá Hà Nội, nguyên Giám Mục Thái Bình, con rất xúc động gửi đến Đức Tổng Giám Mục hiệp thông chân thành này.

Là một người con thuộc Tổng giáo phận Hà Nội, ở một địa phương cũng gần giáo xứ Đồng Chiêm và là nguyên Giám Mục phụ tá của giáo phận trong 10 năm, con biết rõ tình hình giáo phận cũng như giáo xứ Đồng Chiêm có hàng trăm năm lịch sử gắn bó Giáo Hội với đất nước.

Cũng tưởng một số sự kiện đã trôi qua gây không ít thương tổn và băn khoăn cho cộng đồng Việt Nam trong và ngoài nước. Nhất là trong giới Công Giáo như vụ Khâm Sứ, Thái Hà, Tam Tòa... sẽ được giải quyết ổn thỏa theo tinh thần hy vọng và lạc quan do việc triều yết của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết với Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, tương lai về một quan hệ tốt sớm được mở ra giữa nhà nước và Công Giáo tại Việt Nam. Nhưng một sự kiện đen tối vừa xảy ra làm u ám cả bầu trời Tổng Giáo Phận đó là việc cây thập giá được cắm ở trên núi thờ hàng trăm năm nay bị triệt hạ, có sự xung đột, máu người vô tội đã bị đổ ra theo như chính thông cáo của Tòa Tổng Giám Mục chắc đáng tin cậy hơn “như các báo chí đi theo đúng lề”, nhất là bức thư hiệp thông của các Giám Mục Giáo tỉnh Miền bắc. Nay con xin lấy tư cách là con cái giáo phận, là người dân của thủ đô đang dự tính kỷ niệm 1000 năm thành lập trọng thể hoành tráng..., xin cùng hiệp thông với Đức Tổng Giám Mục và các Giám Mục khác, cầu xin Thiên Chúa nhân hậu và yêu thương đã dùng cây thập giá để hòa giải giữa đất với trời giữa con người với nhau trong tình yêu thương tha thứ giúp cho chân lý và tình thương sớm trở lại trên mảnh đất Đồng Chiêm đau khổ này. Xin kính nhờ Đức Tổng gửi lời hiệp thông của con tới các linh mục, tu sỹ, giáo dân và đặc biệt các Đấng bậc có trách nhiệm và toàn thể anh chị em giáo xứ Đồng Chiêm thân mến!

Tuy việc đi lại khó khăn nhưng con cũng mong muốn chân thành tìm thời gian thuận tiện để đến kính viếng mảnh đất đã xảy ra đau thương tại Đồng Chiêm. Nhất là trong dịp Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam và Mùa Chay cả của Giáo Hội toàn cầu.

Kính xin Đức Tổng nhận lấy lòng yêu mến chân thành của con dâng lên Đức Tổng và hiệp thông với toàn thể các Đấng bậc trong Tổng giáo phận.

Kính mến!

+ GM Fx. Nguyễn Văn Sang
Nguyên Giám Mục phụ tá Hà Nội
Nguyên Giám Mục Thái Bình


 
Cầu nguyện trong hiệp thông
Phêrô Trần Mạnh Hùng
07:59 10/01/2010
Cầu nguyện trong hiệp thông

Nhận được tin từ Giáo phận mẹ về vụ việc vừa diễn ra tại giáo xứ Đồng Chiêm, trước tiên tôi cảm thấy rất đau buồn và cảm thương nhiều đến hoàn cảnh của bà con giáo dân, đến quý cha đang coi sóc giáo xứ này. Chắc chắn rằng “vụ việc Đồng Chiêm” không chỉ dừng lại ở mức độ giáo xứ, tầm mức giáo phận hay giáo tỉnh Hà Nội mà sẽ còn vang vọng và ảnh hưởng đến toàn thể Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam. Hành vi của các các cấp chính quyền đến đập phá ảnh và biểu tượng tôn giáo một cách có hệ thống, gây ra thương tích nặng nề về nhiều mặt, chia rẽ quần chúng nhân dân đã làm cho rất nhiều bà con giáo dân và lương dân trong nước cũng như ở Hải Ngoại phẫn nộ và lên tiếng.

Trước tình hình đó tôi tự hỏi: để sống hoà giải, sống vui, sống đức tin, sống các nghi thức cử hành theo truyền thống dân tộc, sống trong tâm tình của Kim Chỉ Nam Năm Thánh Giáo Hội tại Việt Nam, với tư cách là người tín hữu Kitô chúng ta có nên chịu đựng và im lặng trước hành vi bạo tàn, trước thái độ quá đáng quá thể này không? Cá nhân tôi mạnh dạn thưa rằng: không. Nếu như vậy, chúng ta phải làm gì? phải làm như thế nào? hành động theo tinh thần nào sẽ phù hợp với đức tin và bản chất của người công giáo?

Chúng ta nên hành động trong yêu thương:

“Yêu thương” là hiến chương, là mạch sống, là giới luật quan trọng nhất của Đạo công giáo, đạo Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã đến, đã sống, đã dạy các môn đệ phải sống “Tình Yêu Thương” này nếu như muốn theo Chúa, muốn mở rộng nước Chúa. Tình yêu thương của Chúa mời gọi chúng ta ngày hôm nay Yêu ngay cả các kẻ thù ghét chúng ta, yêu cả những người đến bách hại, đến vu khống, đến gây chia rẽ, gây hận thù nơi chúng ta. Tình yêu này thật vĩ đại, đầy chất vị tha, luôn mãi là một mầu nhiệm nhưng không vì thế mà chúng ta không thể sống và thực hiện được, không vì thế mà làm cho chúng ta buông xuôi. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm và noi gương theo cuộc đời và sứ mệnh của chính Chúa Giêsu: từ lúc Chúa xuống trần gian đến khi trở về Nhà Cha, đó là quãng đường đong đầy thập giá, đong đầy yêu thương, đong đầy tha thứ, đong đầy nước mắt “xin vâng”. Nếu mầu nhiệm thập giá luôn đồng hành, luôn ẩn hiện trong cuộc đời các tín hữu, mọi nơi mọi lúc với nhiều cách thức và mức độ khác nhau sẽ trở nên mầu nhiệm hiệp thông cứu chuộc, mầu nhiệm tình yêu và sức mạnh chữa lành cho vết thương Nhân loại. Hành động bằng cách cầu nguyện liên lỉ và luôn vững tin trong hy vọng sẽ là phương cách theo lòng Chúa mong ước, mà Giáo Hội mong chờ.

Chúng ta nên hành động trong hiệp thông:

“Hiệp thông” là cụm từ xuất hiện nhiều trên các trang báo và tài liệu đạo đời gần đây. Hiệp thông là điều mà ai cũng mong ước nhưng để sống và thực hiện thì quả là rất khó, nhất là hiệp thông trong tinh thần công giáo. Mầu nhiêm hiệp thông là sứ điệp hi sinh, cho đi và yêu thương đến cùng. Chúng ta nên biết và ý thức: 500 cảnh sát, quân đội, dân phòng kia đều là những nạn nhân của Ý thức hệ tồi tàn, của ma quỷ vẫn đang bủa vây Đất nước và Tổ quốc Việt Nam. Họ phải làm việc theo sự chỉ đạo, họ phải làm việc vì “vâng lời”, vì miếng cơm manh áo, vì lý tưởng tàn bạo, chủ trương hoang đường mà họ không ý thức được. Chính họ cũng chưa bao giờ được hưởng hay hít thở làn gió dân chủ, được sống yêu thương chia sẻ, được cảm nghiệm thế nào là “độc lập tự do hạnh phúc”, hiểu thế nào là “do dân vì dân và của dân”, mặc dù họ đang sống trong một đất nước của những khẩu hiệu rùm beng và hoành tráng này. Có chăng, vài người trong số họ đã biết và ý thức được điều đó nhưng không dám nói, không dám sống, không dám thực hiện vì sợ bị triệt tiêu. Chính vì lẽ đó, chúng ta được mời gọi sống và chia sẻ, sống và hành động trong hiệp thông đến với mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam, không phân biệt chính kiến, tôn giáo hay văn hoá. Chúng ta vẫn tôn trọng họ mặc dù họ chưa hay không tôn trọng mình. Chúng ta vẫn yêu thương họ mặc dù họ chưa hay không yêu thương mình. Chúng ta mạnh dạn và tiếp tục lên tiếng đòi các quyền sống, quyền làm việc, quyền thực hành tín ngưỡng, quyền sở hữu, quyền bày tỏ lập trường quan điểm nhưng với và trong tinh thần và bầu khí của Hiệp thông. Bầu khí hiệp thông mời gọi chúng ta luôn tha thứ, luôn hy vọng vào đối thoại, tin tưởng vào lời cầu nguyện, hàn gắn vết thương bằng yêu thương. Chúng ta cầu nguyện chung, cầu nguyện riêng, cầu nguyện trong gia đình, trong làng xã, thắp nến hay bằng nhiều hình thức khác nhau. Chúng ta lên tiếng đòi công lý qua các báo đài và các phương tiện thông tin đại chúng có thể, chúng ta lý giải và lập luận một cách rõ ràng, có chứng cứ, có hiểu biết trước sau để không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của “các khẩu hiệu” như họ làm.

Yêu thương và Hiệp thông sẽ thay đổi được tình hình:

Đến giờ mà Chúa muốn, bằng cách mà Chúa chọn, ma quỷ tất yếu phải ngã gục và đầu hàng, các kẻ bách hại sẽ thấu hiểu và ăn năn thống hối. Chúng ta đang trong hành trình tiến về quê trời, chúng ta là các người lữ hành của hoà bình, của sự yêu thương, của niềm hy vọng cho nên chúng ta không thể lùi bước hay thất vọng được. Có thể vẫn còn máu chảy, có thể vẫn còn đó nhiều bất công, nhưng chúng ta không cam chịu chấp nhận sử dụng vũ lực hay bạo lực như họ đã làm đối với chúng ta. Con cái ánh sáng chấp nhận đi trong Ánh sáng để hy vọng trời mới đất mới sẽ được thiết lập trên Đất nước Việt Nam thân yêu của mỗi người chúng ta.

Kinh nguyện hy vọng

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xuống thế để cứu chuộc loài người khỏi cảnh lầm than, khỏi ách thống trị, khỏi mọi xiềng xích tâm hồn và thể xác, xin hãy đến cư ngụ nơi tâm hồn mọi người dân Việt Nam chúng con, để chúng con được thực sự giải thoát, được sống trong hoà bình, trong sự tự do đích thực, trong biển yêu thương của Chúa.

Lạy Mẹ Maria, mẹ La Vang, mẹ Giáo Hội, mẹ đầy tình yêu thương của các tín hữu trông cậy vào lời bầu cử của mẹ, xin mẹ đồng hành và nâng đỡ giáo xứ Đồng Chiêm, nâng đỡ Giáo phận Hà nội, con thuyền Giáo Hội và Đất nước Việt Nam trong lúc biến chuyển này. Xin cho chúng con được thấy sự biến chuyển trong hoà bình, sự thay đổi trong sự hiệp thông, tìm giải pháp trong sự tha thứ, tìm công lý trong chân lý và tình thương.

Lạy Thánh cả Giuse, quan thày Giáo Hội Việt Nam, xin dạy chúng con biết im lặng lúc cần thiết, can đảm xin vâng chấp nhận trong nhiều tình huống căng thẳng, sẵn sàng hy sinh cách này hay cách khác cho Mùa gặt hy vọng, cho sự sống thật, cho công lý và hoà bình sẽ đến trong yêu thương.

Ngọn nến lan toả ngọn nến
Niềm tin thúc đẩy niềm tin
Hiệp thông liên kết hiệp thông
Hy vọng trổ sinh hy vọng
Công lý dẫn đường tới Chân lý
"

(Hiệp thông với giáo phận mẹ từ Pháp quốc)
 
Con đường thập giá của người Kitô hữu
Mai Lan
08:02 10/01/2010
Mấy ngày qua, chúng ta đang theo dõi tin tức về Giáo xứ Đồng Chiêm đang bị chính quyền CSVN hòanh hành, đe dọa đủ điều. Tất cả mọi con dân Việt nói chung, ngừơi Kitô hữu Việt Nam nói riêng, đang mong cho mọi sự được diễn biến trong trật tự, an bình và tốt đẹp. Chúng ta cũng nguyện xin Chúa cho những anh chị em thuộc Giáo xứ Đồng Chiêm, đặc biệt là những anh chị em đang chịu cảnh đau thương vì chiến đấu cho Thập Giá của Chúa Kitô, và cho cả chúng ta nữa, được vững tin trong mọi hoàn cảnh.

Một lời bài hát mà có lẽ mỗi người chúng ta, là những Kitô hữu, đều thuộc nằm lòng, đó là: “Lạy Chúa, con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường?”, đã khích lệ chúng ta hơn bao giờ hết trong những giây phút được đồng cảm nỗi đau với Anh chị em thuộc giáo xứ Đồng Chiêm này. Con đường Chúa đi là con đường thập giá. Mà chính qua con đường đó, Chúa đã cứu độ con người chúng ta cách trọn vẹn. Hơn thế nữa, chính qua con đường đó, Chúa đã phục sinh để mời gọi mỗi người chúng ta cùng được hiệp thông vào sự sống với Ngài, trong Ngài và cùng Ngài.

Trong giây phút này, có lẽ mỗi người chúng ta đang hướng lòng về giáo xứ Đồng Chiêm, một giáo xứ đang bị nhà cầm quyền CS đe dọa, thậm chí đang muốn giết chết niềm tin của chúng ta. Họ đã xúc phạm đến chính biểu tượng “thánh thiêng” trong niềm tin của ngừơi Kitô hữu chúng ta. Hơn lúc nào hết, đây là giây phút quan trọng để biểu lộ tình hiệp thông của chúng ta với nhau, đặc biệt với anh chị em thuộc giáo xứ Đồng Chiêm. Chúng ta không nản lòng, nhưng vững tin rằng, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong mọi lúc mọi nơi. Chúng ta tin rằng, Chúa không bao giờ bỏ rơi một lời cầu xin tha thiết của con cái Ngài.

Chúng ta cầu xin cho anh chị em chúng ta, đặc biệt những anh chị em đang chịu thử thách trong niềm tin cũng như đang phải chiến đấu vì đức tin, luôn được Chúa nâng đỡ, ủi an, thêm sức để có đủ sức đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta cùng theo Ngài: Con Đường Thập Giá.

Người con xứ lạnh Gia Nã Đại
 
Vì sao người công giáo dành cho Cây Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt?
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
08:09 10/01/2010
Thân gởi những ai đã vô tình hay bị bắt buộc, đã hạ và đập tan Cây Thánh Giá Đồng Chiêm! Và cũng thân gởi những ai đã cố tình hay bị bắt buộc, đã ra lệnh hạ và đập tan Cây Thánh Giá Đồng Chiêm!
Chủ nhật, 10 Tháng 1 2010

Trong Ngày Chúa Giêsu chết, Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh của người công giáo, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, bao phủ lấy chúng tôi: đó là Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô.

Cây thập giá và Cây Thánh Giá khác nhau một trời một vực! Cây thập giá là do lòng hận thù của con người nghĩ ra, còn Cây Thánh Giá là do sáng kiến cứu chuộc của tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với loài người.

Cây thập giá là hai miếng gổ gồ ghề, nặng nề, trần trụi, bắt chéo vào nhau như hình chữ Thập, dùng làm hình khổ rùng rợn để giết người một cách quá dã man, do người ngoại giáo độc ác bày ra để hành hạ và giết chết một cách vô cùng tàn nhẩn những ai họ cho là phạm tội ghê gớm, những kẻ nô lệ vô phước nằm trong tay họ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật. Cây thập giá nầy đã được Chúa Giêsu, cách đây hơn 2000 năm, vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó.

Nhưng lạ lùng thay! Kể từ ngày Chúa Giêsu của người công giáo chúng tôi giăng tay chịu đóng đinh chết trên cây thập giá nầy, thì cây thập giá nầy được trở thành Cây Thánh Giá huy hoàng, rực rỡ và vô cùng cao trọng.

Đây là một hiện tượng lạ lùng nhất trên trần gian nầy, hiện tượng mà loài người không thể nào cắt nghĩa được, nếu không được cắt nghĩa bằng đức tin.

Trước, thì cây thập giá quá đen tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá vinh quang!

Trước, thì cây thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi chỗ đê hèn nhục nhã, mà nay,
thì Cây Thánh Giá lại được đặt khắp nơi, được đặt nơi trang trọng nhất, được đặt trên đỉnh núi cao nhất, được đặt dươi lòng biển sâu nhất.

Trước, thì cây thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu.

Trước, thì cây thập giá chỉ được làm bằng gỗ sần sù lởm chởm, mà nay, thì Cây Thánh Giá lại được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng những thứ kim loại đắt giá nhất thế giới.

Vì sao người công giáo dành cho Cây Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế?
Vì sao người công giáo dành cho Cây Thánh Giá địa vị ngang hàng như Thiên Chúa vậy?


Vì trên Cây Thánh Giá, có Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm Người, vì quá yêu thương loài người, nên đã nộp mình chịu chết đóng đinh để cho loài người được sống, được sống hạnh phúc chân thật, và được sống như vậy một cách dồi dào.

Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã nếm chịu muôn vàn đau khổ ê chề:

đau khổ bên ngoài: bị lột hết áo quần ra, không một mảnh vải che thân... .;
đau khổ thể xác: từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chỗ nào là chẳng xể xài rách nát, cùng bày xương ra... .;
đau khổ tinh thần: bị sỉ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ... .;
đau khổ tâm hồn: thấy trước đủ mọi thứ tội lỗi tầy trời do con người phạm, thấy trước đủ mọi thứ vong ân bội nghĩa phát xuất từ con người... .;
đau khổ tình cảm: thấy những người thân yêu của mình, nhất là Mẹ mình, đang đứng dưới chân thập giá mà không làm gì được cho Mẹ thân yêu... .

Nhưng dù ngụp lặn trong đau khổ, Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá vẫn tỏ ra vô cùng nhẫn nhục, đầy lòng tha thứ một cách anh hùng, vui lòng chịu khổ để làm trọn Thánh Ý của Chúa Cha và để tỏ lòng yêu thương loài người vô bên vô bờ.

Trên Cây Thánh Giá, Chúa Giêsu

là Đấng vô tội, nhưng đã bị vu cáo;
là Đấng Công Chính, nhưng đã bị kết án;
là Đấng vô cùng thánh thiện, nhưng đã bị đày ải;
là Vua trên trời dưới đất, nhưng đã bị hành hạ nhục nhã, bị đóng đinh chết tất tưởi;
là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã bị thóa mạ, bị dày đạp, bị từ chối;
là Ánh Sáng, nhưng đã bị tối tăm vây phủ;
là Đấng vô cùng cao sang, nhưng đã bị trần truồng nhuốc hổ, treo mình chết trên hai miếng gỗ;
là Sự Sống, nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng;
là Sự Chết, nhưng cũng là sự Sống Lại.

Vì thế, thánh Gioan Kim-Khẩu ca tụng Cây Thánh Giá hết lời:

“Cây Thánh Giá
là hy vọng của người kitô-hữu,
là sự sống lại của kẻ chết,
là sự hướng dẫn cho kẻ mù,
là cây gậy cho người què,
là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ,
là sự kềm hãm những kẻ giàu sang,
là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa,
là sự chiến thắng ma quỷ,
là kẻ chỉ đạo cho người thanh niên,
là bánh lái cho những người vượt sóng,
là cửa biển cho những kẻ đi xa,
là thành lũy cho những kẻ bị vây hãm.”

Trong kinh A RẤT THÁNH GIÁ, người công giáo sung sướng kính chào Cây Rất Thánh Giá

“là Cây đã chuộc muôn dân đặng rỗi,
là Cây cho kẻ có phước đặng phần vui mừng,
là Cây cho kẻ có tội đặng lòng trông cậy,
là Cây cho kẻ yếu đuối đặng nhờ sức mạnh,
là Cây cho kẻ khốn nạn đặng sự an lành,... .
là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình... .
là Cây đưa những kẻ tin chúng ta qua khỏi gian nan đến Nước Thiên Đàng.”

Cây Thánh Giá tóm lược tất cả những tín điều vô cùng cao siêu của Đạo công giáo:

tín điều Một Thiên Chúa,
tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi vô cùng sâu thẳm,
tín điều Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, Nhập Thể, nhập thế,
tín điều Cứu Chuộc!

Cây Thánh Giá dạy người công giáo nhiều bài học tín lý và luân lý:

Hình thẳng của Cây Thánh Giá: phải đi lên để yêu mến Chúa;

Hình ngang của Cây Thánh Giá: phải đi ngang để yêu thương mọi người, không trừ ai, ngay cả kẻ thù nghịch cũng xin cho họ được mọi sự lành.

Tay Chúa Giêsu giăng ra trên Cây Thánh Giá: dạy người ta ôm lấy tất cả mọi người, không xua trừ ai; tha thứ tất cả mọi xúc phạm lớn nhỏ, không trừ xúc phạm nào.

Tay Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá là để đền những tội do tay người ta thường phạm, như biếng nhác, cắp trộm, tức giận, dâm ô; và treo cao gương cho người ta biết sống cầu nguyện, siêng năng làm việc, yêu thương giúp đỡ, rộng rãi bố thí.

Chân Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Cây Thánh Giá là để đền những tội do đôi chân người ta thường phạm, như đi vô ích, đi có hại, đi phạm tội; và treo cao gương cho người ta đi cầu nguyện, đi học hỏi thêm những điều tốt, đi làm việc đạo đức, đi làm việc bổn phận, đi làm việc hữu ích, đi làm việc bác ái, yêu thích nơi gia đình mình đang ở.

Tim Chúa Giêsu bị đâm thủng là để dạy người ta lo diệt lửa dục tình, lo thắp sáng lửa nhiệt thành làm việc thiện, và đặc biệt đối với người công giáo, lo yêu mến Phép Thánh Thể, yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu, đừng sống bạc nghĩa vô ơn đối với Chúa hằng yêu thương loài người vô bờ vô bến.

Bốn cây đinh đóng Chúa Giêsu vào Cây Thánh Giá là để dạy người ta lo xa lánh bốn điều dẫn đưa người ta đi trên con đường tội lỗi, đó là thói quen xấu, lui tới dịp tội, ao ước thỏa mãn dục vọng, sợ dư luận; và để khuyên người ta lo tập bốn điều dẫn đưa người ta đi trên con đường nhân đức, đó là thói quen tốt, chu toàn các việc bổn phận của mình, hy sinh hãm mình, sống can đảm trước dư luận.

Thánh Casimirô, mỗi lần có dịp nhìn lên Cây Thánh Giá, thì quá cảm động, nước mắt trào tuôn!
Người Công giáo Cây Thánh Giá trong nhà, trong phòng/
Người Công giáo đeo Cây Thánh Giá nơi ngực, nơi cổ.
Người Công giáo làm Dấu Thánh Giá trên thân xác mình.
Người Công giáo năng nhìn lên Chúa Giêsu trên Cây Thánh Giá.
Và nhất là, Người Công giáo luôn tìm cách mang Thánh Giá trong lòng mình, trong tâm hồn mình.

Thân chào những ai đã vô tình hay bị bắt buộc, đã hạ và đập tan Cây Thánh Giá Đồng Chiêm!

Và cũng thân chào những ai đã cố tình hay bị bắt buộc, đã ra lệnh hạ và đập tan Cây Thánh Giá Đồng Chiêm!

Bởi vì tất cả chúng ta, Quý Vị và chúng tôi, thế nào đi nữa – tôi hy vọng thế! – cũng sẽ gặp nhau lại trên Nước Thiên Đàng, Nước Tình Yêu Vô Bờ Vô Bến của Chúa Giêsu Cứu Thế đã Tử Nạn trên CâyThánh Giá và đã Phục Sinh vinh hiển để cứu chuộc mọi người.
 
Máu Hồng Ân
Mynh Hứa
08:15 10/01/2010
Đường Núi Sọ, đường đời nhân thế
Lúa Đồng Chiêm mục nát để vương mầm
Đá Núi Chẻ, chẻ thành máng tình thâm
Nối Thập Giá với lòng người Tín Hữu.

Thánh Giá xưa máu thành mỹ tửu
Máu Hồng Ân nên linh dượt từ Trời
Nuôi tôi trung bằng Mình Máu Ngôi Lời
Nụ yêu thươngnở ngàn hoa bất tử.

Đỉnh Núi Thờ gặp tay quân dữ
Máu oan khiên nung nấu chí kiên cường
Một sớm mùa xuân còn lạnh hơi sương
Máu tín hữu tô xanh cành thiên tuế.

Thăng Long ơi, nói sao cho xuể
Một ngàn năm “đỉnh trí tuệ vô thần”
Nhìn Thánh Giá, biểu tượng của lòng nhân
Như nhìn thấy súng “thần công” thuở trước

Núi Thờ ơi, non ngàn xanh mướt
Bao Anh Hài nằm ngủ dưới mộ sâu
Bỗng giật mình vì giữa lúc đêm thâu
Nghe tiếng nổ chừng long trời lở đất

Tiếng nổ của vô thần duy vật
Bán lương tâm cho vật chất hư vô
Vì Thánh Giá chúng biến thành tội đồ
Của tự do,nhân quyền và công lý.

Dưới Thánh Giá, chúng con hiệp ý
Nguyện Chúa thương cải hóa kẻ vô tâm
Để chúng biết chừa bỏ những lỗi lầm
Lấy chân thiện mỹ làm tâm điểm sống.

Chúng con qùy giữa trời gió lộng
Vành khăn tang khép lại những oan khiên
Trời Hà Nội hoa yêu nở khắp miền
Tâm nhân loại khắc sâu tìnhThập Giá.

(Kính tặng Qúy Tín Hữu Đồng Chiêm Hà Nội,
Tacoma, WA. USA. 09/1/2010)
 
Nỗi đau Đồng Chiêm và Suy tôn Thánh Giá
Giuse Thu Văn
08:22 10/01/2010
Mấy hôm nay báo chí và nhiều trang mạng nói về sự kiện chính quyền Hà Nội huy động một lực lượng an ninh khổng lồ với những vũ khí, chất nổ để triệt hạ cây thánh giá trên Núi Thờ ở Đồng Chiêm và đã dùng dùi cui, roi điện, chó nghiệp vụ đánh đập nhiều giáo dân trọng thương, hình ảnh máu me đầm đìa đã làm cho tôi không chỉ xúc động, mà sự phẫn nộ đã rần lên trong huyết quản và đi vào từng đường gân thớ thịt. Hình ảnh này đã làm cho tôi đau nhói trong tim khi nhìn thấy những người dân vô tội, chỉ vì muốn bảo vệ thánh giá mà đã bị chính quyền Việt Nam đánh đập dã man tàn nhẫn một cách không thương tiếc!

Nó gợi lại cho tôi nhớ đến sự kiện cách đây hơn một năm "Hàng trăm công nhân Trung Quốc đánh hội đồng dân Việt Nam tại Thanh Hóa", Nỗi đau Đồng Chiêm & Suy tôn Thánh Giá

Mấy hôm nay báo chí và nhiều trang mạng nói về sự kiện chính quyền Hà Nội huy động một lực lượng an ninh khổng lồ với những vũ khí, chất nổ để triệt hạ cây thánh giá trên Núi Thờ ở Đồng Chiêm và đã dùng dùi cui, roi điện, chó nghiệp vụ đánh đập nhiều giáo dân trọng thương, hình ảnh máu me đầm đìa đã làm cho tôi không chỉ xúc động, mà sự phẫn nộ đã rần lên trong huyết quản và đi vào từng đường gân thớ thịt. Hình ảnh này đã làm cho tôi đau nhói trong tim khi nhìn thấy những người dân vô tội, chỉ vì muốn bảo vệ thánh giá mà đã bị chính quyền Việt Nam đánh đập dã man tàn nhẫn một cách không thương tiếc!

Nó gợi lại cho tôi nhớ đến sự kiện cách đây hơn một năm „Hàng trăm công nhân Trung Quốc đánh hội đồng dân Việt Nam tại Thanh Hóa“, gần 200 lao động Trung Quốc tay cầm ống nước, gậy gộc, lái xe tải từ công trường ra lấy đèn rọi vào nhà anh Len đập phá, đánh bị thương nhiều người (http://www.youtube.com/watch?v=UshBxOUfCbM), nhưng không thấy nhân viên an ninh của chính quyền đến can thiệp! Xem video lao động Trung quốc đánh dân Việt Nam

Bao nhiêu câu hỏi cứ dồn dập đến với tôi, ngoài kia Trung Quốc chiếm của Việt Nam quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chính quyền Việt Nam chỉ phản ứng với ngôn ngữ quá yếu ớt, như một hình thức cho có lệ! Rồi Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan trước đây là của Việt Nam, bây giờ cũng đã thuộc về Trung Quốc! Tôi không thể hiểu nổi, chính quyền hiện nay có còn là của Việt Nam nữa không, hay đã là sai nha của Trung Quốc rồi?

Tôi xin được chia sẻ niềm đau với đồng bào tôi, với đất nước của tôi, với GHCGVN và cách riêng với cha xứ và giáo dân giáo xứ Đồng Chiêm. Tôi cũng xin được hiệp thông với giáo dân Đồng Chiêm, với Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt, HĐGMVN và với mỗi Đức Giám Mục từng địa phận trên đất nước Việt Nam từ Bắc ra Nam! Mỗi giáo xứ và cha xứ hãy cảm nhận, sự kiện ở Đồng Chiêm hôm nay có thể sẽ là của mỗi giáo xứ, mỗi địa phận trong tương lai. Xin tất cả các giáo xứ ở khắp mọi nơi hãy cùng hiệp thông với giáo dân Đồng Chiêm, vì tất cả chúng ta đều là anh em, là chi thể của Đức Kitô.

Qua bài giảng của Linh Mục Giuse Phạm Minh Triệu nói về nhà cầm quyền CSVN triệt phá thánh giá hôm 6/1/2010. Ngài đã can đảm nói lên sự thật, dù sự thật ấy có làm cho một tiểu số người không hài lòng, nhưng triệt hạ thánh giá là xúc phạm nặng nề đến niềm tin của người Công giáo, không phải chỉ đối với người công giáo Việt Nam, mà còn trên toàn thế giới nữa! Tôi thật cảm động và nấc nghẹn khi nghe những lời giảng của Linh Mục Phạm Minh Triệu; „Người Việt Nam chúng ta nói rằng, khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một Mẹ chớ hoài đá nhau. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Trong khi luồn cúi ngoại bang lại đi đàn áp chính đồng bào của chúng ta. Tại sao phải gieo rắc những khăn tang trắng trên khuôn mặt hiền từ của các bé thơ nơi đồng quê chất phác của chúng ta. Tại sao lại chất những gánh nặng nề đau khổ trên những tâm hồn tháo vác, quanh năm lụt lội. Còn mỗi một Thánh Giá là biểu tượng của niềm hy vọng để vươn lên sống làm người, làm con Chúa, làm công dân tốt, làm một tín hữu tốt mà tại sao còn chà đạp lên cả biểu tượng là niềm hy vọng của chúng ta nữa?

Để cùng với cha Giuse Phạm Minh Triệu cùng với giáo xứ Đồng Chiêm suy tôn thánh giá, con xin viết lại đây bài Suy Tôn Thánh Giá mà ông cụ của chúng con đã làm cách nay hơn 50 năm:

Kính lạy, ngợi khen cây Thánh giá
Là cây xưa Chúa đã chọn dùng
Giang tay ra ngăn đón phép công
Cho nhân loại được trông phần rỗi
Cây Thánh giá đứng trên đỉnh núi
Như cờ đầu mở lối ra quân
Như can qua tinh nhuệ vô ngần
Phá tan chước quỉ thần thâm hiểm
Cây Thánh giá như thang mầu nhiệm
Nối Đất - Trời, thuận tiện giao thông
Như chìa khoá mở cửa thiên cung
Cho những kẻ vững lòng trông cậy
Xem rừng núi xa gần đâu đấy
Có cây nào như vậy chăng ai
Suốt hai ngành cho chí thân cây
Đầy hoa trái phô bầy rực rỡ
Ta có muốn nhờ ơn Thánh giá
Muốn hưởng dùng hoa quả cây này
Ắt sự đời phải dứt từ đây
Vác Thánh giá hằng ngày theo Chúa.


Xin Thiên Chúa chúc lành cho các vị chủ chăn cùng toàn thể giáo dân và nhân dân Việt Nam thân yêu. Chúa là Sức Mạnh, là Sự Khôn Ngoan, là Công Lý và là Sự Thật. Xin Thiên Chúa hãy tha thứ và soi lòng cho những kẻ gian ác biết sám hối ăn năn và tìm về nẻo ngay đường chính. Amen!
 
Cuộc cách mạng khăn tang?
Vương Bình
08:54 10/01/2010
Những ngày gần đây, biến cố Đồng Chiêm mà cụ thể là Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam huy động một lực lượng hùng hậu với những trang thiết bị chống khủng bố chỉ để phá bỏ Thánh Giá Chúa Kitô được giáo dân Đồng Chiêm xây trên Núi Thờ – nơi được xem là chốn linh thiêng, nơi an nghỉ ngàn thu của nhi đồng- đang ngày càng nóng theo từng giờ từng phút. Không cần liệt kê về những hãng thông tấn nước ngoài hay các hãng truyền thông tôn giáo đã đang và sẽ còn theo dõi và đăng tải biến cố này trước thái độ điên cuồng của những người cầm quyền cộng sản Việt Nam không còn tính người đã nhẫn tâm không những phá biểu tượng tôn giáo mà còn đánh đàn bà con gái thân mình bầm nát và máu me loang lổ!

Trong quá khứ, ai trong chúng ta đều biết trên thế giới, đứng trước sự thối nát cũng như xem thường người dân của các thể chế đương quyền khi ra sức lộng hành, đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của đất nước,… sẽ dẫn đến hậu quả là người dân thuộc đủ mọi thành phần, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, mầu da, tất cả sẽ nổi dậy trở thành một cuộc cách mạng không cần súng đạn, không cần đổ máu mà chúng ta đã có dịp chứng kiến xảy ra ở các nước Đông Âu với những tên gọi rất “nên thơ” như cách mạng nhung, cách mạng hoa hồng,…

Những vành khăn tang xuất hiện ở Đồng Chiêm với cả ngàn người giáo dân từ những em nhỏ đến những vị bô lão đầu chít khăn tang, treo cờ tang chế để cho thế giới biết rằng chính nơi đây, tà quyền cộng sản Việt Nam đã xúc phạm đến niềm tin linh thánh của họ, đập phá Thánh Giá Chúa Kitô là biểu tượng linh thánh tôn giáo của hai tỷ con người trên kắp địa cầu này. Đây là một sự "phạm thánh" niềm tin tôn giáo công khai và hung bạo nhất của cộng sản Việt Nam mà thiết nghĩ trên thế giới này chưa có thể chế nào hung bạo bằng. Nó vượt qua sự tàn ác của chế độ Taleban khi đánh phá tượng Đức Phật là biểu tượng cao quý của các tín đồ Phật giáo.

Nói đến vành khăn tang là nói đến sự đau thương tột cùng của người thân, của tang quyến về sự mất mát, sự ra đi của người thân yêu. Nhưng ở đây – biến cố Đồng Chiêm, nó không dừng lại trong phạm vi gia đình Thiên Chúa Giáo, của giáo xứ Đồng Chiêm, của Tổng giáo phận Hà Nội hay của toàn thể Giáo hội Công Giáo Việt Nam mà là của toàn thể dân tộc Việt Nam và cũng là của toàn thể những người có cùng một niềm tin vào Thánh Giá Chúa Kitô trên toàn thế giới.

Từ nhiều năm qua, dân chúng Việt Nam từ khắp xóm làng đến thành thị, đâu đâu dân chúng cũng oán than và đau khổ vì nhân quyền của người dân bị chà đạp, nhà cửa ruộng vườn bị chiếm đoạt, người lao động vất vả nhưng không đủ cơm ăn mà còn bị cường quyền lạm dụng công sức cho lợi ích riêng tư của bọn cầm quyền... thế nên nảy sinh không biết bao nhiêu "dân oan" về mọi phương diện. Đang khi đó thì những người cầm quyền chỉ biết vinh thân phì da, cho cho quyền lợi riêng tư của họ. Họ sống trong nhung lụa đang khi xã hội lan tràn không những chỉ tham ô thối nát, xa đoạ, mà dân chúng thì nghèo khổ vô cùng. Tiếng than van đã thấu trời xanh.

Vì vậy không chỉ những giáo dân ở Đồng Chiêm phải mang trên đầu vành khăn tang thương đau và oan ức, nhưng xét chung và hiểu sâu xa hơn thì có thể cả toàn dân Việt Nam nếu cần diễn đạt nỗi đau thương oan ức của mình thì cũng đã chít vành khăn tang trên đầu rồi! Thế biết đâu một ngày không xa nào đó sẽ bùng phát lên một cuộc cách mạng “khăn tang”.

Bởi cuộc cách mạng khăn tang này là cơ hội để người dân Việt Nam gióng lên tiếng nói thống thiết của mình trước một chế độ hại dân bán nước, hèn nhát trước ngoại bang xâm chiếm nhưng lại hống hách bắt nạt người dân. Một chế độ đốn hèn như thế chắc chắn một ngày nào đó toàn dân cũng sẽ lên tiếng loại trừ.

Cuộc cách mạng khăn tang này là cuộc cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bởi mầu trắng khăn tang là mầu tang thương của toàn thể dân tộc chúng ta chứ không phải của riêng tầng lớp giai cấp hay hệ phái tôn giáo nào.

Đến một lúc nào đó, mỗi con dân Việt Nam thuộc mọi tôn giáo, những "dân oan" thuộc mọi lãnh vực, cũng sẽ chít trên đầu vành khăn tang để phản đối tà quyền cộng sản Việt Nam ra tay tàn phá biểu tượng tôn giáo – một biểu tượng mà bất luận là ai không phân biệt mầu da giai cấp, đảng phái, tôn giáo đều tôn trọng; chít lên đầu vành khăn tang là chúng ta chia sẻ với nổi đau mất mát của đồng bào mình cách thiết thực nhất; chít lên đầu vành khăn tang ngay từ bây giờ là chúng ta nói lên tiếng nói hiệp thông của chúng ta với những anh em có cùng hay không cùng tôn giáo bị tà quyền cộng sản Việt Nam bách hại; chít lên đầu chúng ta vành tang trắng để tang cho một dân tộc bị cộng sản chà đạp và đàn áp cách thậm tệ; chít lên đầu chúng ta vành tang trắng để bảo vệ chủ quyền của tổ quốc đang bị bè lũ tư bản đỏ bán đứng cho ngoại xâm.

Và khi mỗi người Việt Nam bị oan ức chít lên đầu vành tang trắng để xem Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam sẽ dùng thủ đoạn gì để đàn áp, bởi đơn giản một điều, khi thấy trên đầu của ai đang đội vành tang trắng thì dù là một kẻ đầu trộm đuôi cướp, đầu đường xó chợ, hạng lưu manh cũng phải kiêng nể. Còn đối với người cộng sản vô thần và khát máu, hãy chờ xem họ có còn lương tri hay không khi đứng trước sự phản kháng của toàn thể dân tộc trước phong trào cách mạng khăn tang này.

Mỗi người con dân đất Việt, ý thức được sự bạt nhược, lưu manh của những người cầm quyền cộng sản Việt Nam, hãy cùng nhau đoàn kết, nắm tay nhau, cùng nhau để tang cho dân tộc, cho đồng bào bị cộng sản áp bức, cho tổ quốc lâm nguy, cho bờ cõi của tổ tiên để lại đang bị cộng sản Việt Nam bán cho ngoại xâm. Ước gì cuộc cách mạng khăn tang sẽ trở thành cuộc cách mạng đánh động lương tâm thế giới, giúp cho người dân Việt Nam sớm có được sự công lý, tự do, nhân quyền và dân chủ đích thực chứ không phải là bánh vẽ do cộng sản VN vẽ ra từ mấy chục năm nay.
 
Đồng Chiêm thiên nhiên và con người qua ảnh
Phong Thương
10:00 10/01/2010










 
Nghe bài nhạc: Đồng Chiêm - Hy lễ mới
Nguyễn Hữu Tân
16:16 10/01/2010
Phần cuối bài nhạc có audio để nghe nhạc